Linh Đạo Cho Giáo Dân Ngày Nay
Spirituality Today
Rev. Jess S. Brena, SJ, Taiwan
PHẦN MỘT: DẪN VÀO LINH ÐẠO GIÁO DÂN.
Xuất xứ của những bài viết này.
Ngạc nhiên và khéo léo từ chối
Ao ước được giúp đỡ người khác.
MỘT SỐ NÉT TRONG LINH ÐẠO GIÁO DÂN.
Một Linh Ðạo bám sâu vào cuộc sống trần thế.
Một Linh Ðạo cho cuộc sống giữa lòng thế giới
Một Linh Ðạo hôn nhân và gia đình.
Một Linh Ðạo về giá trị của thân xác, khoái lạc và tính dục.
Một Linh Ðạo cho người xông pha ngoài trận.
Một Linh Ðạo với những ràng buộc chặt chẽ.
Một Linh Ðạo cho tình trạng bất an.
Một Linh Ðạo “vị tha” với sự ưu tiên hướng đến người nghèo.
Một Linh Ðạo hướng đến sự kết hiệp với Thiên Chúa.
Một Linh Ðạo về các giá trị nhân bản.
Một Linh Ðạo đóng vai trò ngôn sứ.
Một Linh Ðạo cho đời sống viên mãn.
Các nét chung khác cho mọi Linh Ðạo Kitô giáo.
MỘT CÔNG TRÌNH VẪN CÒN DANG DỞ.
PHẢI TÌM KIẾM THIÊN CHÚA Ở ÐÂU?.
Linh Ðạo giáo dân được diễn giải bởi các giáo sĩ
Ðối thoại giữa Giáo Dân, Giáo Sĩ và Tu Sĩ
Những tài liệu tham khảo rất tốt
Xây Dựng Một Nền Linh Ðạo Giáo Dân.
Phải ăn sâu trong đời sống nghề nghiệp và trần thế.
Giáo sĩ và tu sĩ cũng cần được huấn luyện lại
Thủ bản huấn luyện và nội dung thủ bản.
PHẦN MỘT: DẪN VÀO LINH ÐẠO GIÁO DÂN
Ðôi Dòng về Tác Giả
Cha Jess S. Brena sinh tại Tây Ban Nha năm 1929. Ngài gia nhập dòng Tên năm 1946 và đi truyền giáo tại Trung Quốc năm 1951.
Kể từ khi học xong năm 1964, Cha Brena luôn làm việc tại Ðài Loan. Ngài sáng lập Hiệp Hội Tín Hữu đầu tiên tại Ðài Loan, làm công tác xã hội và cộng tác huấn luyện những người lãnh đạo các hoạt động xã hội đã được 15 năm. Ngài đã đi rất nhiều nước Á Châu trong tư cách là thành viên của Ðoàn Công Tác Xã Hội dòng Tên gọi tắt là SELA (lo cho đời sống xã hội và kinh tế tại Á Châu).
Muời một năm vừa qua, trong tư cách là Giám Ðốc Trung Tâm Huấn Luyện và Thăng Tiến các Giáo Dân Tông Ðồ Tự Nguyện. Ngài hoạt động rất tích cực trong việc huấn luyện giáo dân. Ngài đã làm thư ký thường trực 3 năm cho Ủy Ban về Giáo Dân của Liên Hiệp các Hội Ðồng Giám Mục Á Châu và vùng Thái Bình Dương để giới thiệu về chương trình Huấn Luyện Tông Ðồ Giáo Dân.
Nhập Ðề
Một người vợ viết cho tôi: “Từ khi hiểu biết Ðức Giêsu nhiều hơn và tình yêu của Người bắt đầu thấm sâu vào đời con, đã có một sự thay đổi rất lớn trong quan hệ của con với chồng mình. Có thể nói con như yêu anh ấy một lần nữa sau 15 năm kết bạn với nhau. Mọi ước mơ trong lòng và mọi khát vọng thiêng liêng của con đã đơm bông kết trái”.
Ðó là một trong nhiều kinh nghiệm sống Ðức Tin mà bạn sẽ gặp trong những bài tiếp theo. Một loạt các bài do Giáo Dân viết cho Giáo Dân. Tôi chỉ là một dụng cụ xâu những viên ngọc quý ấy thành một vương miện tuyệt đẹp để đội lên hàng ngũ giáo dân đang thức tỉnh ngày hôm nay. Giờ của người giáo dân đã điểm:
Xuất xứ của những bài viết này
Một ngày nọ có một giáo viên đến hỏi tôi: “Cha làm ơn chỉ cho con biết chỗ mua một bản sách nguyện tiếng Hoa vừa mới dịch?” Con muốn cầu nguyện theo sách ấy. Tôi đáp lại: “Anh có nghĩ là sách nguyện ấy hợp với cuộc sống của anh không?” (Anh ta có ba con; mỗi sáng phải dậy sớm và đi mất một giờ rưỡi đồng hồ để học thần học. Sau đó và mãi tới chiều tối anh đứng lớp ở một trường trung học). Thế nhưng sau đó, tôi lại nghĩ nếu không giao cho anh cuốn sách nguyện thì có thể đưa anh cuốn sách nào thích hợp với giáo dân? Số sách về linh đạo cho thành phần giáo dân chiếm 98% dân Chúa thật nghèo nàn đến lo sợ với vô vàn sách vở, khảo luận về linh đạo cho giáo sĩ và tu sĩ, chỉ chiếm 2% dân Chúa. Khi tính chuyện viết sách linh đạo giáo dân cho họ, tôi cũng suýt rơi vào sai lầm như nhiều giáo sĩ đã làm, đó là dạy linh đạo cho những giáo dân đã kết hôn và sống giữa đời. May mắn tôi đã gặp được Cha Tony de Mello, SJ. (thật là mất mát lớn khi Ngài vừa qua đời bất ngờ cách đây không lâu!); Ngài nói thẳng với tôi: “Nếu cha muốn giáo dân có một cuốn sách tốt về Linh đạo cho họ, cha nên chấm dứt ý nghĩ ấy đi, vì cha không phải là giáo dân. Hãy để họ viết lấy!” Câu nói ấy đánh thẳng vào mặt tôi (và vào tự ái tôi) như tiếng sét đánh. Thế là tôi quyết định bảo các giáo dân tự làm việc đó. Tôi sẽ đứng ra xuất bản cho họ. Hơn ba năm qua tôi trò chuyện và viết thư cho hàng trăm (có lẽ trên 1000) giáo dân, nam và nữ, xin họ viết lại kinh nghiệm sống của mình, cho biết họ cầu nguyện thế nào, cái gì đã nâng đỡ họ trong những lúc khó khăn, họ nuôi sống linh đạo của mình thế nào khi lao động, họ nghĩ gì về một nền linh đạo cho người giáo dân.
Những bài viết mà bạn đang đọc đây là kết quả của “bản giao hưởng còn dang dở” đó. Nhiều người không đáp ứng lời thỉnh cầu của tôi, họ rất thích ý kiến đó, nhưng họ cho rằng mình “chẳng là gì cả” nên không thể viết về những “chuyện quan trọng” đó, hoặc cảm thấy e thẹn không muốn chia sẻ cho người khác những kinh nghiệm sống đức tin đẹp đẽ và phong phú của mình. Nhưng có người đã ghi lại “để giúp người khác vì danh Chúa”. Tôi hy vọng đây chỉ là tập đầu tiên trong “các tập tiểu sử các thánh giáo dân hiện nay”. Ðộc giả đã gửi về cho tôi bản tự thuật về đời sống tâm linh của mình và do đó thúc bách tôi cho ra tập sách thứ hai nói về kho tàng phong phú đang bị chôn dấu trong Hội Thánh. Chất liệu cho kho tàng ấy thật dồi dào, thu lượm không phải từ sách vở nhưng từ cuộc đời thật.
Các bạn hẳn sẽ thích thú đọc lại một vài phản ứng đầu tiên khi nhận được yêu cầu của tôi.
a. Ngạc nhiên và khéo léo từ chối
Ða số các Kitô hữu, giáo dân của chúng ta nghĩ rằng họ không thể nói gì nổi bật trong cuộc đời đáng để ghi lại. Họ cũng không quen viết lại kinh nghiệm Ðức Tin của mình. Hoặc thường thường họ không biết viết làm sao. Như một phụ nữ Ấn Ðộ đã trả lời:
“Khi con đưa thư yêu cầu của cha cho chồng con, cha có biết anh ấy phản ứng thế nào không. Anh ấy là một nông dân điển hình: khỏe mạnh, ít nói, Anh chỉ mĩm cười. Anh ấy cũng là hiện thân của sự công bình theo Kitô giáo: Mỗi khi có cãi cọ, người ta thường nhờ Anh làm trung gian hòa giải. Tuy là một Kitô hữu rất mẫu mực, nhưng anh ấy không muốn viết. Cám ơn cha đã mời chúng con chia sẻ kinh nghiệm với người khác”.
b. Do dự
Có người đã để khá lâu suy nghĩ về vấn đề này. Họ phải nhắc lại nhiều tình cảm đạo đức mà trước đây họ đã thấm thía. Không ai muốn khơi lại vết thương và càng không muốn khơi lại, những vết thương đã lành. Thế nhưng chẳng hiểu vì sao, cuối cùng họ đã viết và hết lòng cám ơn việc nầy.
“Có lẽ cha không ngờ rằng cha đã gây cho con những gì khi bảo con ghi lại. Con không biết mà cũng chẳng quan tâm cha có sử dụng những gì con ghi lại hay không. Con chỉ cần biết là khi viết như thế con được nâng đỡ rất nhiều. Cha linh hướng vẫn khuyến khích con ghi lại nhiều hơn nữa khi con bắt đầu sống hạnh phúc, khi sự việc bắt đầu diễn biến tốt đẹp, chứ không chỉ viết lúc buồn bã thất vọng như bây giờ
Con không biết là cha đã hình dung được là đối với con có được một chỗ để bày tỏ tâm trạng mình quan trọng đến thế nào. Vì thế con hết lòng cảm ơn cha. Chắc chắn sẽ có ngày con viết cho cha nhiều hơn. Còn bây giờ tâm hồn con còn rối rắm và buồn bã lắm.
Con cũng xin thú thật với cha rằng khi ghi chép nhật ký, con đã từng do dự không muốn một đôi điều về đời tư của mình được in ra. Dầu sao con cũng phải nói lời cảm ơn cha nhiều nhân dịp này. Cha có dùng những trang giấy này hay không, điều đó không thành vấn đề. Riêng con đã cảm nhận biết bao lợi ích khi được dịp ngồi xuống, cô đọng các ý nghĩ về mình”.
c. Ao ước được giúp đỡ người khác
Hầu hết những người quyết định góp phần hoàn thành những bài viết này đều bị thúc đẩy bởi ước muốn sâu xa là được dịp giúp đỡ những ai sống trong những hoàn cảnh tương tự:
“Lý do thực sự khiến con không ngần ngại gửi thư nầy cho cha là vì con muốn giúp các bà mẹ khác cũng cảm thấy khao khát chia phần như con. Xưa nay con vẫn thấy thời giờ ở nhà với con cái là thời giờ cô độc, nhưng đó cũng có thể trở thành giờ thánh đối với mọi bà mẹ.
Thật đau lòng khi nhớ lại những giờ phút bi đát và bi thảm trong quá khứ của con. Như cha yêu cầu, con xin ghi lại những điều đó để làm ích cho người khác, những người có thể cũng phải sống những giờ phút tương tự như thế. Nếu những điều con viết đây có giúp đỡ và gợi ý được cho người khác, thì hãy cảm ơn Chúa, chứ đừng cảm ơn con, một tạo vật của Người”.
d. Hồ hởi tham gia
Có người yêu cầu giữ kín tên mình, nhưng cũng có người:
“tất cả các kinh nghiệm của con đều là tài sản chung của mọi người. Con không thể giấu giếm bằng những cái tên giả. Vì thế, nếu muốn, xin cha cứ in đầy đủ tên con.
Vì kinh nghiệm linh đạo giáo dân được khai sinh từ kinh nghiệm hôn nhân, nên vợ chồng chúng con quyết định sẽ chia sẻ theo hướng đó. Chúng con muốn nói nhiều lắm.
Vì thế cái khổ nhất của chúng con là phải giới hạn lại trong vài trang hay chỉ trình bày một khía cạnh thôi.
Con đã đọc nhiều sách, đã nghe nhiều bài giảng hay, nhưng con vẫn nghĩ rằng kinh nghiệm sống, kinh nghiệm của bản thân là quan trọng hơn.
Con sẵn sàng chấp nhận hơi khác người một chút khi viết thư nầy để bộc bạch cho cha. Con không biết tại sao. Con chỉ muốn có người để chia sẻ”.
Rồi đây các bạn sẽ thấy, những lời quả quyết, những lời giải thích của nam nữ giáo dân ấy, ghi trong những bài tiếp theo, liên quan đến thần học. Hội Thánh, và linh đạo có giá trị nhiều hay ít tùy theo trình độ, cả trí thức lẫn thiêng liêng của họ. Chúng tôi tin rằng độc giả sẽ lượng tình thông cảm. Chính vì thế, chúng tôi không ngần ngại ghi lại trong những loạt bài nầy cả những câu nói có thể gây hiểu lầm nếu đặt ngoài mạch văn hay có thể bị “đánh” là không chính xác về mặt thần học. Mục đích của những bài viết nầy không phải là đưa ra một khảo luận thần học về linh đạo giáo dân, nhưng là giúp mọi người (cả giáo sĩ lẫn giáo dân) hiểu rõ hơn người giáo dân bình thường hiểu thế nào về đời sống thiêng liêng của họ trong những hoàn cảnh thường tình. Bổn phận của những người “có học” hơn là hướng dẫn, làm sáng tỏ và luôn khích lệ các giáo dân đang chân thành và nghiêm túc tìm cách xác định vị trí, ơn gọi và sự dấn thân riêng của họ với Chúa trong Hội Thánh và trong thế giới hôm nay.
Còn theo thiển ý của tôi, được nghe chia sẻ những câu chuyện đẹp về đời sống giáo dân quả là một niềm vui lớn, một đóng góp làm cho đời linh mục và tu sĩ của tôi được thêm phong phú. Tôi thành thật cảm ơn tất cả anh chị em góp phần làm nên những bài chia sẻ nầy đã giúp tôi tìm lại được chân tướng và niềm vui của đời linh mục.
Ðài Bắc, Chúa Nhật Phục Sinh 3-4-1989 Jess S. Brena, SJ.
Linh Ðạo Giáo Dân Là Gì?
Người giáo dân bình thường hiểu như thế nào về cụm từ “Linh Ðạo Giáo Dân”?
Chúng ta sẽ không tranh luận xem trong số các câu trả lời cho câu hỏi nầy câu nào chính xác về mặt thần học. Nếu có một số cách diễn tả được chúng ta thu dụng, thì không phải vì đó là những cách diễn tả duy nhất đúng, mà vì đó là những giải đáp hay những định nghĩa “có thể làm việc được”, có thể giúp mọi Kitô hữu có được một nhận thức rõ hơn về ơn gọi của mình, ơn gọi “kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa, và không ngừng thánh hóa bản thân TRONG và XUYÊN QUA những kinh nghiệm phổ biến nhất của con người trong đời thường này”.
DANH XƯNG GIÁO DÂN
Từ “Giáo dân” ở đây không hề có nghĩa tiêu cực (chữ Layman trong Anh ngữ vừa có nghĩa là mù tịt, không rành, không chuyên môn vừa có nghĩa là giáo dân), cũng không có là khinh bỉ (hiểu như là một công dân hạng hai trong dân Chúa). Một nhà thần học Giáo Dân đã phát biểu như sau:
“Vượt qua cái mặc cảm xấu hổ, người giáo dân phải cảm thấy vinh dự được gọi là GIÁO DÂN, và phải hãnh diện tuyên bố rằng mình là những người giáo dân đã ý thức bổn phận cao quý hàm chứa trong chức danh ấy của mình”.
LINH ÐẠO CÓ MỘT HAY NHIỀU
LINH ÐẠO là “một cách biểu hiện tinh thần Kitô giáo của riêng mỗi người”. Chỉ có một Ðức Kitô và một tinh thần Kitô giáo, nhưng có nhiều cách để sống tinh thần đó trong cuộc sống hằng ngày. Vì vậy, người ta hoàn toàn có đủ lý do để đi tìm không phải chỉ một Linh Ðạo.
Nếu thế, thảo luận về LINH ÐẠO GIÁO DÂN là một việc rất hữu ích và thích đáng. Linh đạo ấy có thể được mệnh danh là “linh đạo hoàn cảnh”, nghĩa là, bước theo Ðức Kitô trong mọi hoàn cảnh sống cụ thể của người giáo dân. Như một phụ nữ đã diễn tả rằng khi ủi quần áo là lúc chị trò chuyện với Chúa và cảm thấy Ngài thực sự hiện diện với mình.
LINH ÐẠO GIÁO DÂN là cách thức một người giáo dân, trong hoàn cảnh cụ thể của mình, đáp trả.
“Lời mời gọi mọi Kitô hữu, bất luận trong hoàn cảnh sống nào, hãy đạt được sức sống Kitô hữu viên mãn và đạt tới Ðức Ái trọn hảo”
Tiếng gọi phổ quát ấy đã rõ mồn một:
“Chúa truyền cho Môsê hãy nói với cộng đồng con cái Israel rằng: “Hãy nên Thánh, vì Ta – Thiên Chúa của các ngươi – là Thánh” (Lv. 19,1-2)
MỘT SỐ NÉT TRONG LINH ÐẠO GIÁO DÂN
1. Một Linh Ðạo bám sâu vào cuộc sống trần thế
Ðó là một linh đạo bám sâu vào cuộc sống trần thế, chứ không phải là sự đào tẩu hay lẩn tránh thế gian, như tránh né những vấn đề xã hội, chính trị, kinh doanh, hối lộ, gia đình, công việc làm ăn và hồi hộp. Một trong những đặc điểm riêng của linh đạo giáo dân là linh đạo đó có liên hệ với đời sống thường ngày, – nghĩa là có qui chiếu cụ thể đến cuộc sống gia đình và nghề nghiệp, đến những thời gian nghỉ ngơi giải trí, những cuộc hội họp, những cú điện thoại v.v… Ðời sống của người giáo dân dệt bởi vô vàn thực tại và bởi các mối tương quan nhân loại đan kết nhau chằng chịt. Chính trong những tình huống cụ thể nầy, họ phải đáp trả tiếng gọi của Thiên Chúa với thái độ cầu nguyện và tôn thờ, nhờ đó khám phá ra Tạo Hóa là Thiên Chúa Hằng Sống luôn hiện diện đằng sau mọi thực tại. Chỉ bằng cách đó người giáo dân mới có thể vượt qua được sự phân lập cố hữu giữa Ðức Tin và cuộc sống.
Ðức Cha Don Silvester ở Sri Lanka đã tuyên bố:
“Giáo Hội cần phải cung ứng cho người giáo dân mẫu gương sống động là những vị thánh đã sống bậc sống của mình, làm cha làm mẹ, làm người lao động, làm chuyên viên trong các vấn đề phát triển và công tác xã hội. Cần phải dành tầm quan trọng hơn nữa cho những vụ điều tra loại nầy để tôn phong chân phước và tôn phong hiển thánh”
Hôm mồng 4 tháng 10 năm 1987, Ðức Thánh Cha đã tôn phong chân phước cho 3 giáo dân của thế kỷ 20, – một nam (23 tuổi) và hai nữ (26 và 15 tuổi). Vài ngày trước hôm khai mạc Thượng Hội Ðồng về Giáo Dân, Ngài cũng đã tôn phong Hiển Thánh cho một giáo dân Philippines và 3 giáo dân Nhật Bản.
“Cho tới bây giờ, sự thánh thiện của tu sĩ và giáo sĩ vẫn được đề cao hơn khiến nhiều người tưởng rằng sự thánh thiện giữa hàng ngũ giáo dân không có nhiều bằng nơi đời sống tu trì và nơi hàng giáo phẩm”.
2. Một Linh Ðạo Nhập Thể
Một nét đậm khác trong linh đạo giáo dân là tinh thần nhập thể. Ðối với chúng ta, Ðức Kitô nhập thể không phải là một biến cố đã xẩy ra một lần là xong. Trái lại, Người vẫn tiếp tục nhập thể một cách nhiệm mầu nơi cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Thật là một ơn gọi mới, mỗi người được mời gọi nhập thể vào môi trường xã hội mình đang sống, như Ðức Kitô vậy. Vì thế, Linh đạo nhập thể là linh đạo đề cao một sự hiện diện có sức tác động. Linh đạo ấy mặc nhiên đã đánh giá tích cực về thế giới và về việc dấn thân vào thế giới để thánh hóa và cứu độ thế giới.
3. Một Linh Ðạo cho cuộc sống giữa lòng thế giới
Ðặc điểm chính trong vai trò của người giáo dân là sống giữa lòng thế giới, giữa những công việc thế tục thường ngày. Nhiều hoàn cảnh sống như chính trị, nghiên cứu khoa học và nhiều việc khác nữa vẫn còn nằm trong lãnh vực kinh nghiệm và hoạt động của người giáo dân hầu như một cách độc quyền.
4. Một Linh Ðạo hôn nhân và gia đình
Linh đạo giáo dân hầu như luôn xoay quanh gia đình, hôn nhân và nghề nghiệp. Bí tích riêng cho giáo dân trước hết phải kể là bí tích hôn nhân. Ân sủng mà đôi vợ chồng nhận lãnh từ bí tích nầy là được yêu thương nhau một cách sâu xa hơn nhờ Ðức Tin và được tham dự vào công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa bằng cách sinh sản con cái những đứa con mà họ sẽ giáo dục để trở thành những Kitô hữu. Và vì thế chúng ta phải quan tâm nhiều và nhiều hơn nữa đến việc chuẩn bị hôn nhân, đến nền linh đạo gia đình cũng như những phương pháp giáo dục phù hợp với thời đại mới.
Người giáo dân cần hiểu rõ bí tích hôn nhân và bí tích truyền chức thánh bổ sung cho nhau thế nào cả hai đều liên hệ chặt chẽ với bậc sống của họ.
“Một điều rất lạ là hễ khi nào hôn nhân suy đồi thì ơn gọi (tu trì) cũng sa sút. Cái nào là gà con, cái nào là quả trứng – cái nào hư hỏng trước? Tôi không rõ, nhưng chắc chắn là có mối liên đới mật thiết giữa hôn nhân và ơn gọi” (chứng từ của một người chồng)
5. Một Linh Ðạo về giá trị của thân xác, khoái lạc và tính dục
Linh đạo giáo dân sẽ coi các thực tại đó là những tặng phẩm Thiên Chúa ban cho con người hưởng dùng và gìn giữ. Không nên nhìn thân xác như một chướng ngại hay như một cái gì cần phải thắng vượt trong cuộc hành trình tiến về Thiên Chúa. Thiên Chúa chúng ta là Thiên Chúa hoan lạc, là Thiên Chúa “mang hạnh phúc đến cho tuổi xuân chúng ta”. Một số người khắc khe với mình quá đến nỗi cảm thấy có tội hoặc xấu hổ khi hưởng thụ những sinh thú mà Thiên Chúa đã dành cho họ.
Một số người thậm chí còn xem thân xác là một vật cản không cho họ lãnh nhận ơn cứu độ, đối với họ khoái lạc của thân xác không có nhiều giá trị thiêng liêng. Có thể ví như một tình nhân nọ được người yêu của mình tặng cho một món quà, một áo sơ mi chẳng hạn, nhưng lại không dám mặc chiếc áo đó chỉ vì muốn tránh sự khoan khoái do nó đem lại, cũng không dám giữ gìn đặc biệt món quà ấy.
Một linh đạo lành mạnh sẽ xem thân xác là một quà tặng của Thiên Chúa mà ta có bổn phận phải hưởng dùng tối đa cũng như phải chăm sóc cẩn thận, miễn là không nô lệ cho nó và không để nó tước đoạt mất nhân phẩm của mình. Vì thế Linh Ðạo cũng tìm cách chống lại khuynh hướng hạ giá thân xác và những lạc thú trong cuộc sống. Linh đạo ấy sẽ không quên rằng Ðức Giêsu đã từng bị đánh giá là một kẻ ăn nhậu, đã từng ví Nươc Trời với một tiệc cưới, đã coi việc nuôi dân ăn uống quan trọng không kém chỉ nuôi dưỡng họ bằng Lời Thiên Chúa, đã từng để cho người ta cọ rửa và xức dầu thơm đắt tiền lên chân mình. Một linh đạo như thế sẽ không chấp nhận xem đàn bà là ma quỷ cám dỗ, cũng không dám tỏ ra “thanh khiết”. Xét cho cùng những thái độ đó đều dựa trên một nhân sinh quan nhị nguyên hay của Manikô là những lý thuyết coi thân xác chủ yếu là xấu và vì thế chỉ nên nói tới việc cứu vớt linh hồn.
Ðại đa số giáo dân phải lo kiếm sống, phải gánh vác một gia đình, phải chu toàn hàng lô nghĩa vụ xã hội. Họ không được mời gọi để sống một đời sống hết sức khổ hạnh, nhưng là để hưởng dùng những tặng phẩm trong tạo vật, để nhận biết chính Ðấng đã ban tặng và để tập sử dụng các tài sản của mình trong tinh thần bác ái và công bình. Họ thường không được mời gọi để kết hiệp với Thiên Chúa theo kiểu của những người độc thân hay không con, nhưng để khám phá ra tình yêu thần linh trong chính những khoái lạc và những khổ đau của đời sống hôn nhân và của chức phận làm cha làm mẹ. Nói tóm lại, người tu sĩ và người giáo dân đều theo đuổi cùng những mục tiêu như nhau nhưng bằng những con đường khác nhau từ căn bản.
6. Một Linh Ðạo cho người xông pha ngoài trận
Một linh đạo đưa tới những quyết định, không phải trên bình diện lý thuyết như trong một công trình nghiên cứu của một nhà thần học, mà trên bình diện luân lý thực tiễn. Các quyết định ấy sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc sống của đương sự, đến mọi người trong gia đình, đến sự ổn định trong nghề nghiệp và sự giáo dục con cái của đương sự. Hãy nghĩ đến những trường hợp hối lộ, cưỡng dâm, phá thai, không chung thủy và những cuộc hôn nhân đổ vỡ, là người đang xông pha ngoài mặt trận, đương sự sẽ càng bối rối hơn nếu nghe thấy các nhà luân lý hoặc các nhà thần học xung khắc với nhau về tính luân lý của những trường hợp đó.
7. Một Linh Ðạo với những ràng buộc chặt chẽ
Một linh đạo hoặc một tu sĩ có thể dấn thân với một tập thể hoặc có thể làm việc “bao lâu bề trên còn cho phép tôi làm việc ở đấy – mà sức khỏe của tôi, đời sống tâm linh, sự trưởng thành và sự phát triển cá nhân của tôi không bị đe dọa”. Ðối với một Kitô hữu đã kết hôn thì sự thể hoàn toàn khác. Ðời sống thiêng liêng của người ấy phải được lớn lên trong mối ràng buộc ấy, cho dẫu mối ràng buộc vào một nhóm người nhất định (những thành viên của gia đình) và nhóm người nầy sẽ có quyên ưu tiên hơn chính bản thân họ, hơn bất kỳ ý tưởng hay quan niệm tiến đức nào không trực tiếp có liên hệ với những người ấy. Ðương sự phải dám chết, dám chấp nhận tan xương nát thịt vì họ, đôi khi phải hy sinh cả sự phát triển bản thân của mình nữa. Bởi vì với một Kitô hữu không có sự tiến đức nào có thể sánh với việc xả thân cho tha nhân. Linh đạo giáo dân không tách rời với những con người cụ thể ấy, vịn cớ rằng mình bị ràng buộc vào “nhân loại” nói chung; thật ra, nhiều khi đó chỉ là một cách quá thiết tha với bản thân mình.
8. Một Linh Ðạo cho tình trạng bất an
Linh đạo giáo dân có thể là một linh đạo cho tình trạng bất an. Người giáo dân thường thiếu sự yên tâm cần thiết theo đuổi một linh đạo và một ơn gọi: (linh đạo và ơn gọi ấy sẽ hướng dẫn họ nhận định để lựa chọn lối đi cho đúng đắn), đang khi đó, nghề nghiệp và các vấn đề luân lý cùng can thiệp vào trong một hoàn cảnh mà họ phải đối phó ngay lập tức hay chỉ trì hoãn đôi chút thôi, một hoàn cảnh với nhiều bổn phận có vẻ xung đột nhau.
9. Một Linh Ðạo “vị tha” với sự ưu tiên hướng đến người nghèo
Ðể có thể bám chặt vào Ðức Kitô và cộng đoàn, người Kitô hữu phải xây dựng cuộc sống và hoạt động của mình dựa trên nền tảng Lời Chúa. Linh đạo Kitô giáo là linh đạo Thánh Kinh. Chính nơi Lời Chúa mà chúng ta gặp gỡ Ðức Giêsu. Cũng chính Lời Chúa tập hợp chúng ta lại. Cần phải lắng nghe Ðức Kitô là Ngôi Lời – qua Thánh Kinh và qua Giáo Hội, nhưng cũng cần phải lắng nghe lời ấy nơi những con người và những biến cố trong những thăng trầm của cuộc sống. Cần phải lắng nghe người nghèo và người thiếu thốn, đáp ứng cho họ – theo gương Ðức Giêsu – bởi vì họ là “những anh em bé nhỏ nhất của Ngài”.
“Ưu tiên hướng đến người nghèo – theo gương Ðức Giêsu – đời người ta phải có một linh đạo hướng tha, một linh đạo mà tất cả nội dung của nó gói ghém trong mấy tiếng đơn giản: “hãy yêu người lân cận”.
10. Một Linh Ðạo hướng đến sự kết hiệp với Thiên Chúa
Kết hiệp với Thiên Chúa không phải là một khóa trình đặc biệt soạn riêng cho một ít giáo sĩ và tu sĩ. Làm sao người giáo dân có thể kết hiệp được với Thiên Chúa xuyên qua sự nhận biết Ðức Giêsu, đó chính là mối bận tâm của mọi Kitô hữu. Ngược lại phải ưu tiên dành thời giờ, cho công việc, cho gia đình và cho các quan hệ xã hội, – kể cả những quan hệ có ích và có ý nghĩa đạo đức; nhưng không vì thế mà coi nhẹ ơn gọi Kitô hữu là càng ngày càng phải kết hiệp với Thiên Chúa nhiều hơn. Tuy thế, thật khó xóa được thành kiến cho rằng những hoạt động trần thế chẳng ích lợi gì cho việc nên thánh, chỉ những sinh hoạt “nhà thờ” mới thật sự giúp người ta nên thánh.
Những công việc xây dựng, sửa chữa, trị bệnh, phát minh và phục vụ, – những bà mẹ, những kiến trúc sư, những cô y tá, những viên chức chính phủ – tất cả đều tham gia vào cuộc sống sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa. Nếu được làm tốt, những công việc đó tự chúng đã là thánh rồi, và quả đúng như vậy, không phải chỉ vì chúng đã được người ta “dâng” cho Thiên Chúa. Chính trong khi làm những công việc trần thế hằng ngày, người ta có thể có được những cảm nhận sâu sắc về Thiên Chúa. Những công việc nầy là một chất liệu thực tế giúp ta chiêm niệm và kết hiệp với Thiên Chúa.
11. Một Linh Ðạo về các giá trị nhân bản
Linh đạo giáo dân phải như men trong bột lấy việc phát huy các giá trị nhân bản đích thực như sự thật, hòa bình, tình yêu… mà làm cho mình thêm phong phú. Linh đạo đó phải ăn sâu vào địa dư, văn hóa và lịch sử – chẳng hạn có thể vận dụng một số màu sắc tốt đẹp của “tính cách Á Châu” cho các Kitô hữu người Châu Á, như những chiều kích chiêm niệm và cầu nguyện của nhiều tôn giáo lớn ở Á Châu v.v…
12. Một Linh Ðạo đóng vai trò ngôn sứ
Làm ngôn sứ bằng những chứng tá đời sống cũng như băng lời nói. Một niềm tin đáng tin thì cũng đáng truyền đạt cho người khác.
13. Một Linh Ðạo trong tập thể
Những tập thể gia đình, giáo xứ, những cộng đoàn cơ bản, những hội đoàn Tông Ðồ, những nhóm Kitô hữu công giáo chuyên nghiệp v.v…
14. Một Linh Ðạo giàu có
Giàu tinh thần hiệp thông, giàu lòng thương xót, giàu công bình, giàu tình yêu, giàu tha thứ, trở nên một nhân tố hàn gắn những chia rẽ giữa người với người.
15. Một Linh Ðạo cho đời sống viên mãn
Một linh đạo lành mạnh hẳn sẽ không tạo ra những khiếm khuyết trong tâm lý nhân bản.
16. Các nét chung khác cho mọi Linh Ðạo Kitô giáo
Linh đạo của bất cứ ai bước theo Ðức Kitô, dù là giáo sĩ, tu sĩ hay giáo dân không thể không biết đến những nét sau đây. Chúng ta sẽ kê ra một số ở đây để bảo đảm là chúng sẽ không thiếu thốn trong bất cứ nền linh đạo giáo dân nào muốn vững chắc và có nền tảng.
- a) Tính cách tư tế:
Nếu không có một nhận thức đúng đắn về chức tư tế phổ quát, người giáo dân khó có thể đào sâu linh đạo đặc thù của mình. Chúng ta nêu tính cách nầy ra không phải vì nó là độc quyền của linh đạo giáo dân nhưng bởi vì nó thường bị lãng quên hoặc thường không được ta quan tâm. Với tư cách là người tham dự vào chức tư tế của Ðức Kitô qua bí tích thanh tẩy, trong đời sống thường ngày của mình, người giáo dân cần phải lưu tâm đến vai trò trung gian đặc thù của mình, chuyển cầu tế lễ (bàn giấy của ta là bàn thờ), đền tội, ngợi khen, nâng đỡ, giao hòa, bằng cách hiệp nhất với hàng giáo sĩ và với toàn thể giáo hội.
- b) Linh đạo đó cũng phải có tính: Giáo Hội, Thánh Kinh Phụng Vụ, Bí Tích, lấy Ðức Kitô làm trung tâm và tính Tông Ðồ…
17. Tóm tắt
Những dòng sau đây do một giáo dân có vợ và ba con viết ra – có thể là một bản tóm tắt về linh đạo giáo dân:
“Tất cả linh đạo của tôi trong tư cách là một giáo dân có thể qui kết về việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa trong và xuyên qua việc dấn thân vào những thực tại trần thế. Không trốn tránh nhưng nụp lặn trong trần thế với ý thức rõ ràng về sứ mạng loan báo Tin mừng của mình. Ðấy là ơn gọi Giáo Dân của tôi, đúng là của tôi – một ơn gọi được thực hiện bằng cách chia sẻ trách nhiệm và cộng tác với sứ mạng riêng của các linh mục và tu sĩ. Không có sứ mạng nào ơn gọi nào là dễ cả. Bởi vì nếu đúng là ơn gọi thật, nó sẽ đòi hỏi ta chiến đấu không ngừng bằng cả cuộc sống để đạt đến sự hoàn thiện”.
(Digno)
Người giáo dân nào muốn ơn gọi của mình một cách nghiêm túc đều phải có những nỗ lực thường xuyên hướng đến sự hoàn thiện và phải sống trong một tình trạng căng thẳng có tính biện chứng gay gắt giữa các thực tại trần thế và chân tướng Kitô giáo của mình. Ðức Kitô đã xác nhận với chúng ta sự căng thẳng nầy, khi Người cầu nguyện với Chúa Cha:
“Chúng ở trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian” (Ga 17,6)
MỘT CÔNG TRÌNH VẪN CÒN DANG DỞ
Ðức Cha F. Sebastian Aguitar của Ðịa phận Leon, Tây Ban Nha, đã tuyên bố rất rõ: “Khi bàn về người giáo dân, ta vẫn còn loay hoay với một nền thần học và linh đạo
trước Vatican II. Chưa thấy có một thần học hay linh đạo nào về người giáo dân phản
chiếu được những ánh sáng lớn của cộng đồng Vatican II”.
Một trong những mong mỏi khắc khoải nhất của người giáo hữu hôm nay hướng về Thượng Hội Ðồng Giám Mục bàn về giáo dân năm 1987 là: nghiên cứu, suy tư và canh tân nghiêm túc thần học và linh đạo dành cho giáo dân phù hợp với Công Ðồng Vatican II.
PHẢI TÌM KIẾM THIÊN CHÚA Ở ÐÂU?
Chắc bạn đã nghe câu chuyện về một tôn ông nọ trước cơn say khước đã bò bốn chân, tìm kiếm một cái gì đó tại một ngã tư đèn đường sáng trưng. Một viên cảnh sát đi qua đã yêu cầu ông giải thích hành vi ấy, và ông giải thích rằng ông đã đánh rơi xâu chìa khóa của mình cách đó mấy dãy phố!
“Nhưng ông vui lòng cho biết tại sao ông không tìm xâu chìa khóa của ông ở đằng phố đó? Người cảnh sát hỏi. “Thưa Ngài, ông giải thích “ngọn đèn ở ngã tư nầy sáng hơn ở đằng ấy nhiều lắm!
Có người đến nhà thờ để tìm Thiên Chúa vì ở đó có nhiều “ánh sáng” hơn, đang khi Thiên Chúa chờ đợi họ tại chính nhà họ, nơi vợ (hay chồng) họ, nơi các công việc bổn phận của họ, nơi con cái họ… là những nơi mà họ có thể tìm thấy Thiên Chúa 24/24 giờ.
Người ta không thể chỉ sống trong bốn bức tường đại học, mà trở thành học giả được. Ðể đọc được một quyển sách hay thì bạn đừng kiếm ở thư viện!
Nhu Cầu Xây Dựng Một Nền Linh Ðạo Giáo Dân Tốt
Ðúng là người ta đang viết nhiều và thảo luận nhiều về phẩm giá, ơn gọi, sứ mạng và vai trò đặc biệt của người giáo dân trong Giáo Hội và trong xã hội ngày nay.
Người giáo dân được mời gọi đảm nhận một vai trò rất tích cực và rất quyết định trong thời đại hôm nay, họ phải có tiếng nói quan trọng và mạnh mẽ. Nhưng để đóng trọn vai trò các Kitô hữu giáo dân cần có một căn bản vững chắc về thần học và linh đạo. Và quả thật họ đang đòi hỏi điều đó và rất mong muốn hàng giáo phẩm nghiêm túc xem xét vấn đề nầy, đồng thời đầu tư nhiều hơn vào việc đó. Ðàng khác, người giáo dân cũng phải biết khiêm tốn và thực tế để nhìn nhận sự thật rằng chưa hẳn chuyên môn về kinh tế hoặc về báo chí là sẽ trở thành những nhà thần học hay những triết gia uyên thâm được.
Về vấn đề nầy, Hồng Y L. Bernadian của Chicago đã lên tiếng:
“Thượng Hội Ðồng họp tại Roma từ ngày 1 đến 30 tháng 10 năm 1987 về giáo dân sẽ là một biến cố quan trọng trong đời sống Giáo Hội. Nhưng người giáo dân sẽ đảm nhận vai trò ấy thế nào, cốt yếu là tùy phẩm chất sống đạo của họ. Những công tác mục vụ, tông đồ và những chương trình thật rất quan trọng, nhưng nếu không có một linh đạo giáo dân lành mạnh… sẽ dễ có nguy cơ trở thành vụ hình thức và thậm chí sẽ gây hiệu quả ngược”. (Chicago “Sunday Examiner”, số ra ngày 12-6-1987)
1. Một nhu cầu bức bách
Nhìn vào một thế giới như thế giới hôm nay, ta thấy nhân loại đang trải qua những bước phát triển rất lớn. Trên mọi bình diện, người ta đang đòi được tham dự vào công việc quản lý xã hội để làm nên lịch sử của chính mình. Họ đang chuyển từ tình trạng thụ động – giao khoán việc suy nghĩ và lãnh đạo vào tay một số ít người – sang thế chủ động. Người Kitô hữu giáo dân không nằm ngoài cao trào đó. Họ cũng đứng trước những thách đố, những khả năng, những trách nhiệm và những bổn phận như mọi người mà trước đây họ chưa từng gặp:
Sứ điệp cuối cùng của Thượng Hội Ðồng Giám Mục, số 12 về việc đào tạo giáo dân đã làm dội lại khát vọng ấy của người giáo dân hôm nay:
“Rõ ràng nơi người giáo dân có một nỗi khát khao về đời sống nội tâm, về linh đạo và về việc chia sẻ công tác Tông Ðồ trong sứ mạng của Giáo Hội”.
Ngày nay chúng ta thường nghe nói đến “giờ của giáo dân”, hay một hình ảnh mới về giáo hội, một Giáo Hội trong đó mọi người đồng trách nhiệm và đều có phần. Tất cả những điều nầy rất hay, rất đẹp về mặt thần học, nhưng rồi nó cũng sẽ không đi đến đâu, nếu cả giáo sĩ lẫn giáo dân không biết đi sâu vào linh đạo của nhau. Trong việc nầy giáo dân phải khẩn trương hơn để bắt kịp, bởi vì xưa nay họ vẫn bị đối xử như những công dân hạng hai, được nuôi dưỡng bằng một thứ linh đạo thừa thãi của nền linh đạo vốn được vạch riêng cho các đan sĩ hoặc được châm chước cho nhẹ đi để phù hợp với họ. Giáo dân đã được tập cho quen hạ giá những nghĩa vụ và những hoạt động trần thế, những con đường để nên thánh. Ðã lâu lắm rồi, người giáo dân không còn hiểu được làm thế nào mình có thể kết hiệp với Thiên Chúa trong chính đời thường của mình, làm thế nào dứt bỏ được quan niệm cho rằng chỉ những việc “nhà thờ” mới thực sự giúp người ta nên thánh. Những bài chia sẻ mà bạn đang đọc lúc nầy đây sẽ là một nhát cuốc vỡ đất giúp các Kitô hữu (càng nhiều càng tốt) khám phá lại nguồn nuôi dưỡng phong phú ẩn dấu trong những công việc nghề nghiệp và gia đình thường ngày – trên con đường nên thánh đích thực.
Ðây là những chứng từ của một số người đã khám phá được nguồn phong phú đó:
“Tôi cũng có một số phương thức để mà khởi sắc đời sống thiêng liêng của mình, nhưng có lẽ không có phương thức nào tốt hơn là trao đổi với Janat, vợ tôi và với các con: Kim, Lisa, Julie, và Mark. Với họ tôi đã trở thành một người giữa bao nhiêu người khác đang cùng dò tìm ánh sáng”.
“Hôn nhân không phải là một tai họa như một số bạn trẻ hôm nay phàn nàn. Với chúng tôi đó là một ơn gọi đẹp đẽ và ngọt ngào, bởi vì chúng tôi đã chọn nó một cách tự do, để sống với nhau tình yêu và đức tin chung của mình”.
“Công việc của một người vợ, một đứa con dâu, một bà mẹ như tôi rất quan trọng. Tôi hãnh diện vì mình là một phụ nữ. Khi tôi và chồng tôi yêu nhau là chúng tôi đang vâng phục ý Người. Tôi hãnh diện vì mình là một người mẹ. Cộng tác với Thiên Chúa trong việc sáng tạo nên ba đứa con là một thành tích đáng thưởng lắm chứ! Khi tôi dẫn các con tôi đến với Ðức Giêsu, thì chúng tôi cùng nhau tôn thờ Người, là những lúc chúng tôi cảm mến được niềm thỏa mãn lớn lao nhất trong đời sống”.
“Là một giáo viên, khi đứng lớp, tôi thấy mình như đang ở trong trường học của Người, đang làm công việc của Người, đang săn sóc các con cái của Người. Khi giúp chúng khám phá những điều kỳ diệu của thế giới thụ tạo nầy và qua đó khám phá ra sự quan tâm săn sóc của một người Cha yêu thương, tôi nhận ra rằng nghề giáo dục là một ơn gọi vô cùng cao quý”.
2. Linh Ðạo giáo dân được diễn giải bởi các giáo sĩ
Trong quá khứ, linh đạo giáo dân mà người ta tống cho các Kitô hữu là một linh đạo sặc mùi nhà tu. Nếu một giáo dân muốn đào sâu hơn đời sống thiêng liêng của mình, anh ta sẽ đi tìm cảm hứng nơi các tu viện, nơi những vị thánh giáo sĩ, tu sĩ, hoặc anh ta sẽ tìm kiếm những “chuyên gia” về khoa thần học tu đức và huyền nghiệm.
Linh đạo giáo dân cũng đã bị “giáo sĩ hóa” một cách trầm trọng. Cho đến Công Ðồng Vatican II, giáo sĩ vẫn là người giải thích linh đạo giáo dân. Giáo dân đã phó mặc cho những vị được gọi là “chuyên gia” về linh đạo (giáo sĩ và tu sĩ), không cố gắng tự mình tìm tòi ra nền linh đạo cho chính mình. Chúng ta tin rằng đã đến lúc người giáo dân phải làm công việc đó.
Columbiere UNTERSHIP là một thí dụ thú vị. Chương trình nầy nhằm huấn luyện những người cảm thấy mình có ơn gọi làm linh hướng chính quy hay không chính quy và những ai tự muốn chuẩn bị để đóng vai trò đó trong khung cảnh Giáo Hội ngày nay. Chương trình bắt đầu ở Michigan vào năm 1981.
Người điều khiển chương trình – một bà mẹ 5 đứa con – đã cho chúng tôi biết rằng số tham dự viên giáo dân luôn chiếm khoảng ba phần tư hay hai phần ba tổng số. Chính bà đã từng điều khiển những cuộc tĩnh tâm 3 ngày, 8 ngày và thậm chí 30 ngày – dựa theo những bài chú thích số 19 và 20 của sách Linh Thao I-Nhã cho nhiều giáo dân, chủng sinh và cả một số linh mục nữa. Một người vợ và mẹ được huấn luyện chu đáo và có năng lực sẽ có thể là một nhà cố vấn và linh hướng đáng tin cậy cho các bà mẹ và các bà vợ trong cộng đoàn Kitô hữu. Ðây hẳn là một dấu hiệu đầy ý nghĩa để tin rằng một kỷ nguyên mới đang mở ra cho giáo hội và giờ của người giáo dân đã điểm.
3. Ðối thoại giữa Giáo Dân, Giáo Sĩ và Tu Sĩ
Trong khi càng ngày càng ý thức hơn về tiếng gọi phổ quát nên thánh, người Kitô hữu trung bình cảm thấy một nhu cầu mãnh liệt là được đối thoại và được nâng đỡ từ phía giáo sĩ và tu sĩ. Nhưng rất tiếc hiện nay nhu cầu đó của họ mới chỉ được đáp ứng trên một qui mô cỏn con.
4. Xác định linh đạo cho mình
Làm thế nào chúng ta có thể giúp người giáo dân xác định được linh đạo cho chính họ? Ta có thể đề nghị một bài tập nào đó phỏng như: tập trung một nhóm giáo dân nam lẫn nữ, rồi yêu cầu họ trả lời các câu hỏi sau đây:
Ðộng cơ: Bạn tìm thấy những phương thế để tăng cường Ðức tin của bạn ở đâu?
Giải quyết khủng hoảng: Khi lâm vào một cơn khủng hoảng, bạn thường đến đâu? Lúc đó bạn cảm thấy điều gì nâng đỡ mình? Bạn có được bạn bè Kitô hữu nào nâng đỡ không?
Nhân đức nổi bật: Những ưu điểm của bạn trong cuộc sống bình thường là gì? Những chứng tá đức tin sống động nhất của bạn… cho chính bạn, cho người khác là gì?
Quyết định: Bạn làm sao để quyết định khi phải đứng trước những giằng co giữa đức tin và các bổn phận khác?
Cầu nguyện: Bạn liên lạc với Thiên Chúa bằng cách nào? Thánh Kinh liên hệ thế nào với bạn?
Giá trị: Bạn giữ những giá trị Kitô giáo của bạn như thế nào? Những ưu tiên của bạn trong cuộc sống là gì?
Những việc tôn sùng: Những việc tôn sùng của bạn như thế nào?
Các thánh: Những vị thánh nào lôi cuốn bạn và làm bạn muốn bắt chước?
Bí tích phụng vụ: Bí tích, Phụng vụ có tác dụng thế nào trong cuộc sống của bạn?
Cộng đoàn: Bạn có tham gia một nhóm (cộng đoàn Kitô hữu nào, có liên hệ và nhờ đó tiến tới trên đường tu đức không?
Những kinh nghiệm sống đức tin của nhiều giáo dân được ghi lại trong sách nầy, có thể gần như trả lời được một cách khách quan cho các câu hỏi trên đây. Những kinh nghiệm ấy có thể giúp họ xác định linh đạo cho chính mình một cách hết sức khách quan.
5. Những tài liệu tham khảo rất tốt
Nhiều người có lẽ không đủ thời giờ để đọc những khảo luận dài về linh đạo. Bởi thế tôi không ngần ngại giới thiệu bài tài liệu, vừa ngắn vừa sâu và dễ hiểu, của Liên Hội Ðồng Giám Mục Á Châu (FABC) trong kỳ hội nghị toàn thể lần thứ tư tại Tokyo, tháng 9 năm 1986. Hai tài liệu đó là:
- a) Lay Spirituality _ Đời Sống Tâm Linh của Giáo Dân
- b) “The Vocation and Mission of Laity Today” _ “Ơn Gọi và Sứ Mệnh của Giáo Dân Hôm Nay”
6. Một dụ ngôn
“Những Kitô chỉ biết ăn vỏ”:
Nhiều tín hữu chúng ta (kể cả giáo sĩ và tu sĩ) vẫn kéo lê một đời sống tôn giáo với “những bổn phận và những nghĩa vụ” phải trung thành thực hiện bằng mọi giá. Ít người nếm được hương vị của câu thánh vịnh “Chúa ngọt ngào dường bao” (Tv 119 (118), 103); cảm được cái “thú” cầu nguyện, “thú” chiêm niệm, niềm vui làm tông đồ, làm Ðức Kitô khác, làm “tư tế, ngôn sứ và vua”.
Sở dĩ như thế là bởi vì thường người ta nhận thức sai lạc về Thiên Chúa và về tôn giáo: một tôn giáo nặng luật lệ và một Thiên Chúa ưa đòi hỏi, một Thiên Chúa xem chừng như có vẻ phi lý. Có thể vì những môn đệ “trung thành tuyệt vời” ấy với một anh chàng chỉ chuyên ăn vỏ của các loại trái cây như cam, chuối, táo dưa hấu. Ðã đành anh ta cũng có được vài ý niệm về trái chuối, trái táo, trái cam. Nhưng giá như anh ta ăn đúng cái phần đáng ăn thì hương vị sẽ khác đi một trời một vực. Có bao nhiêu giáo dân, linh mục và nữ tu vẫn đang nuôi mình chỉ với (hoặc chủ yếu với) vỏ trái cây? Tôi đã từng là một người trong số đó. Có lần tôi chia sẻ điều nầy với một linh mục bạn tôi, anh ta đã cãi: “Nhưng cậu hãy nhớ rằng vỏ trái cây cũng có Vitamin. Ðúng vậy, cám ơn Chúa” tôi nói “nếu không thì tôi đã chết từ khuya rồi”.
Vậy thì bằng cách nào giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân có thể phát triển một linh đạo dẫn đến cái cốt tủy của đức tin và tôn giáo chúng ta? Một linh đạo được nhận thức đầy đủ và đúng đắn cuối cùng sẽ đưa người ta vào “lâu đài Nội tâm” – ở đó người ta sẽ gặp gỡ Thiên Chúa “mặt đối mặt” và sẽ nói chuyện với Ngài như “một người bạn nói chuyện với một người bạn”. Ðây không phải là một giấc mơ ngoài tầm tay giáo dân. Những loạt bài chia sẻ nầy là bằng chứng của một thực tế đang diễn ra. Ước gì nó sẽ góp phần gia tăng thực tế ấy nơi các Kitô hữu chúng ta.
Xây Dựng Một Nền Linh Ðạo Giáo Dân
Ai cũng đồng ý rằng cần phải xây dựng một nền linh đạo giáo dân, nhưng hầu hết chúng ta vẫn chưa rõ phải xúc tiến công việc đó như thế nào và ai sẽ hướng dẫn người giáo dân xây dựng linh đạo cho họ.
Chúng tôi xin nêu ra mấy điểm cần lưu ý cho mọi chương trình xây dựng nền linh đạo giáo dân.
1. Không được có tính “giáo sĩ”
Càng sớm càng tốt, chúng ta phải cố gắng đi đến chỗ giao hẳn việc xây dựng nền linh đạo giáo dân cho chính người giáo dân đảm trách – nghĩa là phải để họ định hướng, kiểm soát và điều khiển công việc xây dựng ấy. Họ sẽ nhìn những vấn đề linh đạo theo cách thế của họ, theo mức độ trưởng thành đức tin và theo những nhu cầu sinh sống của họ. Dĩ nhiên ta luôn luôn hoan nghênh sự cộng tác từ phía giáo sĩ và tu sĩ, sự hỗ trợ của các chuyên gia, giáo dân hay giáo sĩ.
Trong quá khứ, các giáo sĩ thường hướng dẫn giáo dân bằng cách đề ra một số mô hình sống đạo cũng như những việc đạo chỉ phù hợp với ơn gọi của các Ngài và chỉ thích hợp với phong tục của một thời đại nào đó. Thường đó là một lý tưởng có tính chiêm niệm và tu đức, đối lập lại với thời gian vốn được coi là nguồn gốc của hư hỏng và sự dữ.
2. Phải ăn sâu trong đời sống nghề nghiệp và trần thế
Ðây có lẽ là điều quan trọng nhất mà các Kitô hữu giáo dân cần phải suy tư và xây dựng. Cần phải xây dựng một nền linh đạo đề cao sự hiện diện của người Kitô hữu trong thế gian bằng cách có đầu óc phê phán của ngôn sứ, những sáng kiến hòa giải, khôi phục lại những hy vọng đã mất để có thể vượt qua các bế tắc của cá nhân trong đời sống tinh thần và xã hội tái lập lại những khả năng đã mất để trong xã hội có sự chia sẻ công bằng tái lập lại những cơ chế tình yêu và gia đình đã đổ vỡ.
3. Có nền tảng vững chắc
Linh đạo ấy phải dựa trên nền tảng là cầu nguyện, tham dự phụng vụ, và đặc biệt là bí tích Thánh thể, đọc văn kiện mục vụ và giáo huấn thường xuyên của Giáo Hội.
4. Dành cho mọi người
Linh đạo giáo dân được xây dựng cho mọi người, mọi người trong giáo xứ, cho cả cộng đoàn và thuộc về cả cộng đoàn bởi vì mọi người trong giáo xứ đều cần được huấn luyện về linh đạo ấy. Các cộng đoàn cơ bản ở nhiều nơi đã chứng tỏ rằng đây là một loại hình thức thể nghiệm hứa hẹn nhất, lấy Thánh Kinh làm nền tảng.
5. Giáo sĩ và tu sĩ cũng cần được huấn luyện lại
Tạm thời giới giáo sĩ còn phải đảm nhận thêm một vai trò quan trọng trong việc xây dựng linh đạo. Giáo sĩ và tu sĩ cũng cần phải qua một khóa huấn luyện về vai trò và linh đạo giáo dân. Giáo sĩ phải được huấn luyện cho am tường để có thể phục vụ giáo hội rộng rãi và hữu hiệu, huấn luyện về mặt linh hướng để có thể nhận định sáng suốt các đặc sủng của người giáo dân và sự phát triển thiêng liêng của họ, huấn luyện về Thánh Kinh và cầu nguyện, huấn luyện về tinh thần phục vụ vì lợi ích của người khác, huấn luyện về việc xây dựng và hiệp nhất cộng đoàn sao cho ân huệ trong cộng đoàn được hài hòa một cách cụ thể và thích hợp hầu phát triển Thân Mình Chúa Kitô là giáo hội. Hài hòa ăn khớp với chương trình huấn luyện tu đức cho cộng đoàn Kitô hữu. Ðây là một thách đố rất thật, đặt ra cho tất cả các giáo sĩ và tu sĩ.
Giáo dân thiếu sự huấn luyện thích hợp và riêng cho mình. Họ lệ thuộc quá nhiều vào hàng Giáo Sĩ. Các Giáo Sĩ thì vẫn còn bị chi phối quá nặng nề bởi não trạng tiền công đồng có cậy quyền, tình trạng được dạy dỗ quá nhiều và một hệ thống cho rằng giáo sĩ biết hết mọi sự.
Hiện nay mối quan tâm của giới giáo sĩ về người giáo dân dường như chỉ xoay quanh vấn đề làm sao cho họ tham dự tích cực hơn vào cộng đoàn Giáo Hội, chẳng hạn như trong Phụng Vụ, Hội Ðồng Giáo Xứ hay Giáo Phận, các Chương Trình Giảng Dạy Giáo Lý v.v… Tất cả những điều đó đều tốt, nhưng người giáo dân còn kỳ vọng nơi giáo sĩ nhiều hơn thế. Mà thường các giáo sĩ lại không được chuẩn bị để đáp ứng thỏa đáng nhu cầu đó.
Muốn thế, giáo sĩ cần phải được huấn luyện và được cải hóa. Thần học và linh đạo giáo sĩ phải được cập nhật hóa.
Ngày nay chúng ta gặp rất nhiều linh mục hoặc “đành” chấp nhận vai trò và ơn gọi của mình là cùng chung tay làm việc với giáo dân, hoặc vẫn bám chặt vào vai trò “truyền thống” của mình là làm “nhà lãnh đạo” – ngay cả lãnh đạo các phong trào giáo dân. Hoặc không cưỡng lại được cám dỗ áp dụng chính sách “mặc kệ” quên rằng mình có nhiệm vụ khơi dậy, dẫn dắt và khích động đức tin cùng với họ luôn luôn lên đường tìm ánh sáng mới.
Trong giai đoạn quyết định của lịch sử Giáo Hội ngày nay, chúng ta tin rằng huấn luyện tu đức cho giáo dân là trách nhiệm hàng đầu của các linh mục.
Tình trạng thiếu sự dẫn dắt và thông cảm của các linh mục và tu sĩ đã làm cho Dân Chúa khốn khổ rất nhiều. Có người bày tỏ như sau:
“Bằng kinh nghiệm bản thân, tôi thấy rằng chúng tôi được hướng dẫn rất ư là hiếm hoi. Chúng tôi cần được hướng dẫn để đào sâu nhận thức về ơn gọi độc đáo của mình. Hơn nữa, nhiều khi tôi có cảm tưởng rằng chính giáo sĩ và tu sĩ cũng không nắm vững lắm về ơn gọi của chúng tôi”.
6. Thủ bản huấn luyện và nội dung thủ bản
Tương lai của linh đạo giáo dân xem ra rất sáng sủa, nếu để ý tới những cố gắng trong lãnh vực thần học nhằm khai thác những chất liệu thiêng liêng nhiều vô tận gói ghém trong các thực tại của một cuộc sống trong thế giới.
Mọi người đang đi tìm một cách nào đó hoàn bị hơn để đi vào thần học và linh đạo. Chúng ta có thể gặp vô số bài báo vào cả sách vở nữa khai thác những chủ đề được liệt kê dưới đây. Một khi xác định và khai thác được những chất liệu quý báu ấy, chúng ta sẽ thấy rõ những chân trời mới mà linh đạo giáo dân có thể tìm ra để mở rộng vào phát triển. Một linh đạo phong phú như thế sẽ đặt nền tảng thần học của mình trên:
Thần học về vũ trụ: Một vũ trụ biến đổi mới được Thiên Chúa thấm nhuần một cách viên mãn trọn vẹn.
Thần học về tình yêu và hôn nhân: Cuộc gặp gỡ giữa một người nam và một người nữ, biểu tượng giữa hôn ước giữa Ðức Kitô và hội thánh của Người và linh đạo phong phú của đời sống ấy.
Thần học về các hoạt động trong xã hội: trong một thế giới mà công lý và nhân quyền được coi là mục tiêu của mọi công cuộc phát triển kinh tế và vật chất.
Thần học về lao động: Lao động là một hoạt động có khả năng nhân bản hóa, một hoạt động có tính sáng tạo, cứu độ, có ý thức trách nhiệm và thánh hóa con người.
Thần học về tiến bộ và phát triển: Các Kitô hữu không được dửng dưng hay xa lạ với những tiến bộ và phát triển, nhưng trái lại phải là những người cổ vỏ nhiệt tình, sao cho sự tiến bộ nâng cao con người, giúp con người có nhiều tự do hơn thay vì biến con người thành nô lệ.
Thần học về thế giới chính trị: Trách nhiệm dân chủ, công ích, quyền hành để phục vụ và sự ngay thẳng, đó là những cột trụ chính xây dựng nền thần học chính trị.
Thần học về giải phóng, về cách mạng: Sự cộng tác có phán đoán với các cơ chế, với cuộc giải phóng thực sự, với việc cải thiện các cơ cấu.
Linh đạo cho các khoa học: Khoa học là sự chia sẻ óc khôn ngoan sáng tạo của Thiên Chúa, bằng cách trân trọng và chăm sóc những tài nguyên thiên nhiên, sinh thái, tính chất thiêng liêng của sự sống và thiên nhiên.
Linh đạo cho đời sống trong các cộng đoàn: Nhỏ (Gia đình riêng) và lớn (gia đình dân tộc), tinh thần bốn phương một nhà “tứ hải giai huynh đệ” (Khổng Tử), các Kibbutzim. Phong trào Focolare, Cộng đoàn Taize, các cộng đoàn cơ bản hay cộng đoàn Giáo Hội, các Ashrams. các nhóm thân hữu…
Linh đạo phi bạo lực: Không dùng bạo lực chống lại con người lẫn thiên nhiên.
Linh đạo du lịch: Quan tâm đến người khác, biết thưởng ngoạn những gì của người khác, chia sẻ cho người khác những gì tốt đẹp của mình, tôn trọng các nền văn hóa, các chủng tộc và các lối sống khác, làm giàu cho nhau bằng cách san sẻ bất cứ cái gì tốt đẹp trong mỗi nền văn hóa.
Linh đạo cho những người góa bụa, cho các bà mẹ, cho các cặp vợ chồng mới cưới: Làm thế nào để mỗi loại người đó khám phá được sự hiện diện tích cực của Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh và mọi thực tại của cuộc sống.
7. Những mẫu gương tuyệt vời:
GIÊSU người giáo dân
Trong cộng đoàn Do Thái của Người, Ðức Giêsu chỉ là một giáo dân thuần túy. Người không thuộc về giai cấp Tư Tế xét về bất cứ phương diện nào, và giai cấp Tư Tế nằm trong tay một số gia tộc với những chức vụ đăc biệt trong Ðền Thờ. Ðức Giêsu cũng không tham gia bất cứ một nhóm tôn giáo đặc biệt nào đương thời, như các tu sĩ Numran là những người rút lui khỏi đời sống thế tục để sống nhiệm nhặt trong cộng đoàn. Ðức Giêsu đã lớn lên như chàng trai nhà quê mộc mạc trong một xóm hẻo lánh ở miền quê Galilê. Sau đó, Người là một thầy giảng lang thang, công bố sứ điệp của mình mà không được phê chuẩn hay nâng đỡ nào có tính cách cơ chế, mà chỉ dựa vào sức mạnh của chính sứ mạng ngôn sứ của mình. Nguồn nâng đỡ duy nhất của Người là Chúa Cha trên trời.
Là một giáo dân, Chúa Giêsu sống gần gũi dân chúng. Người dự các lễ hội của họ, gắn bó với người nghèo. Nhưng cũng hoạt động giữa các tầng lớp thượng lưu và chế nhạo cách xử sự giữa họ với nhau khi dự tiệc tùng (Lc 14,7-14). Người xót xa với những thống khổ của đồng bào, sự áp bức của người La Mã, hệ thống thuế má khắc nghiệt, sự bất lực của con người trước những hoạn nạn của gia đình như khi một bà góa cô độc nọ phải mất đứa con trai duy nhất của mình hoặc một người cha khốn khổ kia đành nhìn đứa con trai thứ của mình bỏ nhà lao vào chốn thị thành lừa đảo, Người cũng cảm nhận sâu sắc tình cảnh bị bỏ bơ vơ của đám đông dân chúng.
Ðành rằng vẫn có đó những khuôn vàng thước ngọc và vẫn có những cơ cấu tôn giáo được thiết lập trong Ðền Thờ và hội Ðường. Người vẫn cảm thấy dân chúng như những con chiên không người chăn (Mt 9,36). Ðức Giêsu nói bằng tiếng nói của dân tôc. Người không dám diễn thuyết bằng những diễn từ trau chuốt, nhưng kể những câu chuyện mà hầu như ai cũng hiểu được.
Ðức Giêsu đã chết như một người giáo dân. Ðó là điều chắc chắn, bởi vì Người là một giáo dân. Giáo huấn của Người không được phê chuẩn bởi giới chức có thẩm quyền, không có sự công nhận chính thức của các nhà lãnh đạo về tôn giáo. Làm thế nào một giáo dân trơn lại có thể tự nhận rằng mình hiểu biết và giải thích lề luật? Làm thế nào một người như thế lại dám cầm roi đánh đuổi con buôn ra khỏi Ðền Thờ mà không hề có ủy nhiệm của ban bảo vệ Ðền Thờ, những người có trách nhiệm gìn giữ trật tự ở nơi thánh? Thế mà Ðức Giêsu vẫn có cái quyền đó, một uy quyền không ai cưỡng lại được, một uy quyền hoàn toàn phát xuất từ bên trong Người và do đó những nhà đương cục phải ngán Người. Người là mối đe dọa cho chỗ đứng đã ổn định của họ. Thiên Chúa đã chẳng ban quyền cho họ sao? Họ cho rằng bổn phận của giáo dân là phải im lặng. Với cả hàng giáo phẩm chống lại mình, không được một ủng hộ chính thức nào, Ðức Giêsu phải lâm vào ngõ cụt. Và Người đã bị tố cáo và bị kết án tử hình.
Ðức MARIA và Thánh GIUSE
Những gì đã nói về Ðức Giêsu đều có thể nói về Ðức Maria. Thậm chí còn hợp lý hơn. Maria là mẫu gương của một người phụ nữ độc thân, một người vợ, một người mẹ và một người góa bụa. Cũng có thể nói tương tự như thế đối với Giuse, một người yêu có trách nhiệm, một người chồng chung thủy, một người lao động đầy tinh thần xả kỷ và hy sinh, một người cha và một người công dân chu toàn lề luật.
Giuse không phải là một người tuẫn đạo, cũng không phải là một tư tế, một ngôn sứ, một nhà tư tưởng lớn, cũng chẳng phải là một Tông Ðồ cột trụ. Tuy nhiên, chắc chắn là Ngài đã sống một đời sống kết hiệp thâm sâu với Thiên Chúa. Sự vĩ đại của Ngài nằm ở chỗ Ngài trung thành với nghề nghiệp, gia đình, chính quyền, tôn giáo và với Thiên Chúa. Như vậy Linh Ðạo của Giuse đang trở thành mô hình cho linh đạo của người Kitô hữu giáo dân.
Kinh Mân Côi của Thánh Giuse
Nếu Thánh Giuse phải soạn một Kinh Mân Côi cho hợp với cuộc đời của Ngài thì kinh ấy chắc chắn sẽ là:
Mầu nhiệm thứ nhất: Lao động sinh nhai
“Ðây không phải là con trai của bác thợ mộc sao?” Giá trị của lao động, của thủ công nghiệp.
Mầu nhiệm thứ hai: Nuôi gia đình
“Rồi Người theo ông bà về Nadarét và sống tùng phục ông bà”. Những bổn phận của một người chồng, một người cha.
Mầu nhiệm thứ ba: Trở thành công dân gương mẫu
“Cùng với vợ mình đang mang thai, Giuse rời thị trấn Nadarét và đi xuống Giuđêa để đăng ký sổ bộ”.
Ngài không phải là một kẻ trốn thuế.
Mầu nhiệm thứ tư: Sống đạo
“Hằng năm, cha mẹ Người thường đi Giêrusalem để dự lễ Vượt Qua”.
Mầu nhiệm thứ năm: Quân bình các trách nhiệm
“Ðây là mẹ Ta và anh em Ta. Bất cứ những ai thi hành thánh ý Thiên Chúa…” “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết”.