Các Bài Suy Niệm Chúa Nhật Loan Tin Mừng
Lời Chúa: Is. 2, 1-5; 1Tm. 2,1-8; Mt. 28,16-20
MỤC LỤC
- Hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian. 1
- Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên. 5
- Chúa Nhật Truyền Giáo. 8
- Kitô hữu, chứng nhân truyền giáo. 11
- Hãy đi khắp thế gian. 15
- Truyền lửa yêu thương – Lm Ignatiô Trần Ngà. 18
- Quyền năng từ trên cao. 21
- Anh em là chứng nhân. 24
- Truyền giáo là ra đi 27
- Công bình và bác ái 32
- Khánh nhật truyền giáo – Lm Trần Ngà. 36
- Chứng nhân trong sự hiệp nhất yêu thương. 38
- Cách thức truyền giáo. 41
- Truyền giáo là sống chứng nhân. 44
- Theo Đạo nhờ gương sáng. 46
- Nối bước các thừa sai – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền. 49
- Lửa truyền giáo – Đức Cha GB. Bùi Tuần. 52
- Suy niệm của Lm Hoàng Kim Toan. 56
- Hãy loan báo Tin mừng. 61
- Chứng tá. 64
- Truyền giáo. 67
- Đời sống chứng nhân. 70
- Suy niệm của ĐGM. Bùi Tuần. 73
- Linh đạo truyền giáo – Lm. Nguyễn Đức Khiết 77
- Suy niệm của ĐGM. Bùi Tuần. 94
- Suy niệm từ bản báo cáo tình hình Giáo Hội VN. 99
- Niềm vui của người loan báo Tin Mừng. 109
- Hãy thả lưới bên phải thuyền. 114
- Suy niệm của Lm Augustine. 117
- Suy Niệm của Đức Hồng Y GB. Phạm Minh Mẫn. 122
- Thầy Ở Cùng Anh Em.. 125
- Truyền giáo. 128
- Cái Đạo ấy hay thật!!!. 131
- Bài Giảng Biết Đi 135
- Chúa nhật truyền giáo. 146
(Is 2, 1-5; 1 Tm 2, 4-6; Mt 28, 16-20)
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào tháng 10 tháng Mân Côi, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy khám phá lại nét đẹp của lời Kinh này và siêng năng đọc kinh Mân Côi cầu cho thế giới được hoà bình. Tháng 10 còn là tháng truyền giáo, Giáo hội cũng kêu gọi con cái mình dấn thân cho việc truyền giáo, bước theo Chúa Giêsu trong hành trình đức tin, và có Mẹ Maria Nữ Vương truyền giáo đi đầu dẫn chúng ta đến với Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế và dạy chúng ta mang Chúa đến cho tha nhân.
Nhưng Chúa nhật truyền giáo để làm gì?
Để nhắc lại rằng bản chất của Giáo hội là truyền giáo; mục đích đầu tiên của Giáo hội khi được Chúa Giêsu thiết lập là truyền giáo.
Ai phải truyền giáo?
Là chi thể của Hội Thánh, tất cả những người đã chịu phép rửa tội phải thi hành nhiệm vụ truyền giáo. Điều này không có ý nói họ phải đi thật xa. Những nơi nào có họ, họ phải truyền giáo. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô nói: “Không ai được ngưng nghỉ việc này, vì là bổn phẩn khẩn thiết của ngày hôm nay”. Với lại, chính Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân ” (Mt 28, 19). Thánh Phaolô kêu lên: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9, 16).
Giáo hội tự bản chất là truyền giáo.
Nếu như Isaia con trai Amót được thị kiến: “Các dân nước sẽ đổ xô về núi Chúa… trong ngày sau hết” (x. Is 2, 1-5). Thánh Phaolô cho người con tình thần của mình biết: “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu rỗi” (x.1 Tm 2, 4 – 6). Cả bốn sách Tin Mừng đều nêu bật ý nghĩa của việc truyền giáo, nội dung sứ vụ mà Chúa Giêsu trao cho Giáo hội, chứng tỏ bản chất của Giáo Hội là truyền giáo. Chính Chúa Giêsu Phục sinh đã nói với các tông đồ nơi Phòng Tiệc Ly như sau: “Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con” (Ga 20, 21). Đến lượt Chúa Con cũng sai Giáo Hội ra đi cho đến tận cùng trái đất. Đây là sứ điệp duy nhất phát xuất từ Thiên Chúa gửi đến hết mọi người ngõ hầu họ được cứu chuộc và trở nên con cái Thiên Chúa.
Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã nhấn mạnh: Sứ vụ truyền giáo là “bổn phận của toàn thể Giáo hội”, vốn “tự bản chất là thừa sai” (Ad gentes, 2). Trích dẫn lời Đức Phaolô VI, ngài tiếp: “Giáo Hội hiện hữu để truyền giáo, để giảng thuyết và giáo huấn, để làm máng chuyển quà tặng của các ân sủng, để hoà giải các tội nhân với Thiên Chúa, để trường tồn hy lễ của Chúa Kitô trong Thánh Lễ, đó là việc tưởng niệm cuộc tử nạn và phục sinh vinh hiển của Người.”
Đức Bác Ái là linh hồn của sứ mạng truyền giáo.
Thánh Phaolô viết: “Tình Yêu Chúa Kitô thôi thúc tôi” (2 Cr 5, 14). Đức Kitô thúc bách những người đã chịu phép Rửa tội nam phụ cũng như lão ấu, kể cả người đau yếu lẫn người nghèo, khi đã đón nhận tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, có sứ mạng rao giảng và mang tình yêu cho hết mọi người, bằng lời nói và chứng tá cụ thể của Đức Ái. Truyền giáo là gì gì nếu không phải là loan báo Tin Mừng về tình yêu của Thiên Chúa như chính Chúa Giêsu đã làm. Ngài không những đã hăng say loan báo tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người, Ngài còn hy sinh mạng sống để làm chứng cho tình yêu đó. Hơn thế nữa, Ngài mạc khải và nhập thể tình yêu đó nơi chính bản thân mình. Ngài là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa. Nơi Ngài, tình yêu chiến thắng tội lỗi và sự chết. Vì thế, sứ điệp Tin Mừng Nước Thiên Chúa trở thành Tin Mừng Phục Sinh, Niềm Hy vọng cho toàn thế giới.
Nhân dịp Đại Năm Thánh 2000, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Sứ mạng của Giáo Hội kéo dài sứ mạng của Chúa Kitô. Giáo Hội không ngừng rao giảng cho thế giới Tình Phụ Tử của Thiên Chúa, bằng việc rao giảng và bằng chứng tá của những con cái mình…nhờ việc thực hành mệnh lệnh tình thương đối với Thiên Chúa và đối với anh chị em”. Ngài cũng khuyến khích mọi thành phần trong Giáo hội can đảm khởi hành “mùa truyền giáo mới”, vì “Giáo Hội cần đến với con người, với sự tế nhị và tôn trọng của một người phục vụ. Và Giáo Hội tin tưởng rằng công việc phục vụ trước tiên và cao cả nhất là công việc rao giảng Tin Mừng Chúa Kitô”, ngài kêu gọi: “Anh chị em đừng sợ: hãy mở toang mọi cửa để tiếp đón Chúa Kitô”(Huấn Đức ngày 22 tháng 10/2000, tại Roma).
Cử hành ngày Thế giới Truyền giáo năm nay diễn ra vào ngày cuối của THĐGM về gia đình, trong bối cảnh của Năm Tân Phúc Âm Hóa gia đình. Đức Thánh Cha Phanxicô viết trong sứ điệp của mình rằng: “Ngày nay vẫn còn rất nhiều người không nhận biết Chúa Giêsu Kitô. Thế nên, sứ mạng ad gentes vẫn còn hết sức cấp bách. Mọi thành viên của Hội Thánh được kêu gọi tham gia sứ mạng này, vì Hội Thánh tự bản chất là truyền giáo: Hội Thánh được sinh ra để “đi ra”… Ngày Thế giới Truyền giáo cũng là dịp để làm bùng cháy lên ước muốn và nghĩa vụ tinh thần của việc hân hoan tham gia vào sứ mạng ad gentes. Các cá nhân đóng góp tiền bạc là một dấu chỉ của sự hiến dâng, trước là cho Chúa và rồi cho đồng loại; bằng cách này, sự đóng góp của cải vật chất có thể là một phương tiện để loan báo Tin Mừng cho nhân loại dựa trên tình thương” (Trích Sứ điệp truyền giáo 2014).
Thế giới hôm nay có biết bao tin mừng, tin mừng con ra đời, mừng cưới hỏi, thi cử đỗ đạt, tìm được việc làm đã mất, làm ăn phát đạt… tuy nhiên, đó không phải là Tin Mừng viết hoa. TIN MỪNG, thì chỉ có một: là nhận biết (Thiên Chúa yêu thương chúng ta!) Vậy lệnh Chúa truyền vẫn còn khẩn trương: “Hãy đi rao giảng Tin Mừng”. Tin Mừng Thiên Chúa yêu thương mọi người và từng người, đồng thời phải bận tâm với những người chưa có đức tin hoặc mất đức tin vì tình yêu là lòng thương xót Chúa thôi thúc.
Nhờ lời chuyển cầu của thánh Phanxicô Xaviê, thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu là quan thầy các xứ truyền giáo, nhất là của Mẹ Maria Ngôi Sao truyền giáo, mẫu gương loan báo Tin Mừng, cầu thay nguyện giúp cho Hội Thánh trở nên một mái nhà niềm nở tiếp đón mọi người; một người mẹ cho mọi dân tộc và là nguồn suối tái sinh cho thế giới chúng ta. Amen.
(Suy tư nhân ngày thế giới truyền giáo năm 2008)
SỨ MẠNG TRUYỀN GIÁO
Từ 82 năm nay, ngày Chúa Nhật giữa tháng 10 dương lịch được chọn làm Ngày thế giới truyền giáo. Nhân dịp này, Đức Giáo Hoàng thường công bố một sứ điệp kêu gọi cộng đoàn Công giáo thế giới hãy suy tư và hành động để tham gia sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội. Sứ điệp nhân ngày truyền giáo năm 2008 mang chủ đề: “Được mời gọi để trở thành những môn đệ và tông đồ của Đức Giêsu Kitô”. Đức Thánh Cha Bê-nê-đi-tô đã nêu rõ tính cách thánh thiêng của sứ mạng truyền giáo, vì đây “là một ân sủng, một ơn gọi xứng hợp và căn tính sâu xa nhất của Giáo Hội” (trích Tông Huấn Loan báo Tin Mừng số 14). Truyền giáo chính là lệnh truyền của Đấng Cứu Thế với các môn đệ trước khi Người về trời. Công cuộc truyền giáo càng trở nên cấp bách hơn nữa trong thời đại hôm nay, khi con người càng ngày càng tỏ ra dửng dưng đối với tôn giáo và những giá trị tâm linh.
Nhờ Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được trở nên con cái của Thiên Chúa. Bí tích này cũng mời gọi chúng ta trở nên môn đệ và tông đồ của Đức Giêsu, qua những cố gắng của bản thân trong cuộc sống mỗi ngày.
Trở nên môn đệ là muốn sống đời nội tâm, thực thi Lời Chúa và gắn bó với Người, tức là nên thánh.
Trở nên tông đồ là mong làm cho nhiều người hiểu biết Chúa và đi theo làm môn đệ Người, tức là truyền giáo.
Môn đệ và tông đồ, hai sứ mạng này có tương quan mật thiết với nhau đến nỗi trở thành một ơn gọi duy nhất. Không thể làm tông đồ nếu trước đó không trở nên môn đệ; cũng không thể là môn đệ đích thực nếu không thao thức làm việc tông đồ.
Truyền giáo là gì?
Chúng ta thường xuyên nghe nói về từ này. Nguyên gốc của từ này là một danh từ tiếng La-tinh Missio, động từ là Mittere. Từ này có nhiều nghĩa, và một trong những nghĩa thường được hiểu là gửi đi, sai phái đi để làm một công tác quan trọng. Đức Giêsu chính là Đấng được Đức Chúa Cha sai đến trần gian để cứu độ con người và tạo vật. Chính Đức Giêsu cũng sai các môn đệ ra đi, lên đường để cộng tác với Người trong sứ mạng cao cả này.
Truyền giáo trước hết là “ra đi” khỏi chính con người của mình: chúng ta ai cũng có khuynh hướng ích kỷ, khép kín và coi mình là trung tâm. Chúng ta thường lấy mình làm tiêu chuẩn để phán đoán người khác. Ai không có lối suy nghĩ giống chúng ta thì bị phê bình chỉ trích. “Ra đi” khỏi cái tôi của mình, tức là chấp nhận người khác cùng với ý kiến lập trường của họ, là quảng đại bao dung khi bị xúc phạm. Truyền giáo chính là thoát ra khỏi vỏ bọc ích kỷ để hòa đồng với anh chị em mình, tôn trọng sự khác biệt và chấp nhận những hy sinh vì ích chung. Các môn đệ đầu tiên, khi nghe Đức Giêsu kêu gọi, đã bỏ mọi sự mà theo Người. Các ông từ bỏ những dự tính nghề nghiệp, từ bỏ môi trường gia đình, làng xóm. Các ông không hề băn khoăn lo lắng cho ngày mai, nhưng sẵn sàng bước theo Thày, vì các ông tin rằng theo Thày sẽ không phải thiệt thòi thất vọng.
Truyền giáo còn là “ra đi” khỏi những định kiến: Cuộc sống này được dệt lên bởi những niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc và đau khổ. Bước ra khỏi những định kiến để đón nhận tha nhân trong tình huynh đệ hài hòa, không phân biệt lập trường chính trị, tôn giáo hay quan điểm xã hội. Một cộng đoàn đức tin gò bó trong quan niệm khắt khe không thể truyền giáo có hiệu quả. Một Giáo Hội dửng dưng với những giá trị trần thế, hoặc khép mình trước những biến cố vui buồn của cuộc sống xã hội chung quanh, sẽ là một Giáo Hội ảm đạm u sầu thay vì hân hoan hy vọng. Một cộng đoàn không dấn thân phục vụ con người sẽ trở nên một thứ ao tù không lối thoát và thiếu sinh khí.
Nhờ hai yếu tố nêu trên, chúng ta tiến tới một điểm cuối cùng, cũng là điều quan trọng nhất, truyền giáo chính là kể lại cuộc đời của Đức Giêsu. Câu chuyện về Đức Giêsu đã được kể từ 2000 năm nay mà không lỗi thời. Lời giảng của Đức Giêsu đã được loan báo từ 20 thế kỷ mà vẫn không mất tính thời sự. Cuộc đời Đức Giêsu đã và đang được kể lại một cách phong phú không những chỉ qua sách vở, mà còn qua chính cuộc đời của các tín hữu. Xuyên qua con người của họ, người ta đọc thấy chính cuộc đời của Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người, Đấng đã cảm thông với người đau khổ, đã chữa lành người bệnh tật, đã phục sinh người chết, đã chúc lành và đã chia sẻ niềm vui với đôi tân hôn trong ngày cưới. Như vậy, truyền giáo chính là sống như Đức Giêsu đã sống, yêu như Đức Giêsu đã yêu. Truyền giáo là có trái tim như trái tim của Chúa, có đôi mắt như đôi mắt của Chúa. Trái tim để yêu và đôi mắt để trao gửi tình thân thiện.
Như thế, truyền giáo không buộc phải làm điều gì to tát ồn ào, mà khởi đi từ những gì rất âm thầm bình dị trong cuộc sống. Chính những hành động bình dị đó có thể mang lại những hiệu quả lớn lao, khi chúng ta thực hiện với thao thức truyền giáo.
Hôm nay, ngày thế giới truyền giáo. Mỗi năm một lần, giáo hội nhắc nhở con cái mình về vai trò và bổn phận của người Kitô hữu trong cuộc sống ở trần gian, đó là sống và làm chứng nhân cho Tin Mừng, tức là truyền giáo. Vậy Truyền giáo là gì? Chúng ta phải truyền giáo như thế nào?
Trước hết, truyền giáo là gì? Truyền là truyền bá, truyền thông, rao giảng, loan truyền… Giáo là giáo lý, đạo giáo, Tin Mừng, Phúc âm của Chúa Giêsu…Truyền giáo là truyền bá đạo, là rao giảng Phúc âm, là loan truyền chân lý của Chúa cho người khác hiểu biết, chấp nhận và tin theo. Đàng khác, truyền giáo còn có nghĩa là lập những cộng đoàn Kitô hữu trong đức tin, trong phụng vụ Thánh Thể, bác ái như Giáo hội mong muốn. Nói khác đi, truyền giáo là “gieo trồng” Giáo hội vào các dân tộc, các địa phương, cho đến khi những người trong địa phương ấy trở nên tín hữu, trở thành anh chị em cùng một niềm tin vào Chúa Giêsu, thành một đoàn chiên. Theo ý nghĩa này, truyền giáo không phải chỉ là truyền bá một số giáo lý, nhưng là truyền thông sự sống của Chúa cho anh em khác, vì Thiên Chúa là Đấng hằng sống. Đạo Chúa là đạo sự sống, là nguồn sống, có khả năng thay đổi, biến cải những con người từ không có Chúa trở thành có Chúa, từ mất Chúa trở thành tìm lại được Chúa. Truyền giáo theo nghĩa này là truyền sự sống của Chúa Kitô mà chúng ta đã có sang cho anh em mình, như thân cây nho chuyển nhựa sống sang cho cành nho. Sau hết, truyền giáo còn có một nghĩa nữa là củng cố, tăng cường, huấn luyện đức tin cho một cộng đoàn, cho các tín hữu, để họ lại ra đi truyền giáo cho những người khác.
Vì thế hai chiều của việc truyền giáo: chiều rộng và chiều sâu. Nếu làm cho những người chưa biết Chúa hoặc những người biết mà đã bỏ Chúa, được nhận biết và yêu mến Chúa. Đó là truyền giáo theo chiều rộng, là mở rộng nước Chúa và làm tăng thêm số người thờ phượng Chúa. Còn nếu làm cho những người đã biết và yêu mến Chúa được hiểu biết và yêu mến Chúa hơn, để rồi họ lại tiếp tục làm những công việc ấy nơi những người khác. Đó là truyền giáo theo chiều sâu, vì làm cho nước Chúa được vững chắc hơn và làm tăng thêm số người Công giáo sốt sắng, đạo đức.
Do đó, truyền giáo không phải chỉ có nghĩa là làm cho những người ngoại, lương dân, những người chưa biết được biết và yêu mến Chúa, nhưng còn có nghĩa là truyền đạo Chúa cho cả những người Công giáo sống trong một họ đạo, một giáo xứ với chúng ta nữa. Chúng ta phải sống một đời đạo đức, sốt sắng, thánh thiện để làm gương tốt cho họ, để giúp cho họ thêm lòng yêu mến và tôn kính Chúa.
Đó là ý nghĩa của việc truyền giáo. Và như vậy tất cả chúng ta đều có nhiệm vụ truyền giáo. Việc truyền giáo không của riêng ai và không phải là một việc làm tùy sở thích, muốn làm hay không cũng được. Nhưng đây là một bổn phận, một nhiệm vụ bắt buộc. Mỗi người chúng ta phải coi đây là vấn đề sống đạo, là vấn đề sống còn của Giáo Hội và là trách nhiệm của chính mình.
Vậy chúng ta phải truyền giáo thế nào? Có rất nhiều cách nhưng nhất thiết phải nhớ hai việc là cầu nguyện và sống chứng nhân. Cầu nguyện cho việc truyền giáo là cách thức rất quan trọng: cầu nguyện cho những người đi truyền giáo, cầu nguyện cho mọi người mở rộng lòng sẵn sàng đón nhận ơn Chúa, đón nhận Lời Chúa. Chúng ta có gương truyền giáo là thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, dù ngài không đi đâu truyền giáo, chỉ ở trong bốn bức tường dòng kín cầu nguyện cho việc truyền giáo nhưng Giáo Hội đã tôn phong ngài là quan thầy các nơi truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê. Ngài đã sống đời truyền giáo, đã âm thầm cầu nguyện và dâng việc hy sinh cho công cuộc truyền giáo. Sống chứng nhân của mình. Đây là cách truyền giáo tốt nhất và hữu hiệu nhất, đó là truyền giáo bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta. Một đời sống đạo đức, chân thành, cởi mở, bác ái, yêu thương, chia sẻ là một tấm gương sáng trước mặt mọi người. Một đời sống tốt đẹp có sức lôi cuốn hơn những lời nói hay, vì “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”. Sống “tử tế” với mọi người là cách truyền giáo. Sống “tử tế” là sống vui tươi, sống lạc quan, sống biết có trước có sau có trên có dưới, sống lịch sự, sống cảm thông, sống yêu thương với mọi người, sống như thế là chúng ta đang góp phần làm cho danh Chúa được cả sáng và nước Chúa được trị đến, đó cũng là chúng ta đang truyền giáo vậy.
Truyền giáo là một nhiệm vụ và một đặc ân cho mọi kitô hữu. Chúa Kitô muốn chúng ta đem Tin Mừng vào lòng dân tộc. Cần đến sự quảng đại, hy sinh và sẵn sàng của chúng ta, cần đến đời sống nhân chứng của chúng ta để bày tỏ cho anh em tình yêu thương của Ngài. Tích cực tham gia vào công cuộc Phúc Âm hoá mới đó là thực thi lòng mong muốn của Chúa Kitô.
“Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Quả thực, Kitô hữu là ai? Thưa họ là những người được Chúa Kitô “chiếm đoạt” (x.Pl 3,12), và vì thế, là người khát khao làm cho Chúa Kitô được mọi người nhận biết và yêu mến ở khắp mọi nơi ” cho đến tận cùng trái đất”. Chính niềm tin và yêu mến Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta trở thành những người truyền giáo, những nhà truyền giáo, những chứng nhân của Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con can đảm sống đức tin, tha thiết bằng lòng yêu mến và dám thực thi Lời Chúa. Đó là cách thế chúng con đang sống đời truyền giáo như Chúa mong muốn. Amen.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
“Anh chị em đi khắp thế giới, loan báo Tin Mừng cho muôn dân”. Thưa anh chị em, đó là mệnh lệnh cuối cùng của Chúa Giêsu. Giáo Hội từ thời các Tông đồ trải qua các thời đại cuối cùng của Chúa, bất chấp mọi trở ngại.
Thế nhưng, qua 20 thế kỷ truyền giáo, số người tin theo Chúa Kitô vẫn là một thiểu số đáng lo ngại so với dân số thế giới ngày càng gia tăng. Hiện nay, dân số thế giới đã lên đến trên 5 tỷ người, thế mà số tín hữu công giáo chỉ được 900 triệu, nhưng 50 phần trăm là ở Nam Mỹ, còn triệu kia rải rác ở Châu Âu, Bắc Mỹ, Châu Á, Châu Úc và Châu Phi.
Riêng tại Châu Á của chúng ta, một lục địa với hơn 3 tỷ người, trong số đó chỉ có 3% là người Công giáo. Tại Trung Quốc chỉ có 4 triệu người Công giáo giữa một tỷ dân. Tại Nhật Bản có lối 500 ngàn người Công giáo giữa 123 triệu dân. Ở Nam Triều Tiên, 5 triệu người Công giáo trên 42 triệu dân. Tại đất nước Việt Nam chúng ta chỉ có hơn 4 triệu rưỡi người Công giáo trên 72 triệu dân, tỷ lệ hơn 6%. Tại TP. Hồ Chí Minh chúng ta có khoảng hơn 450 ngàn (485.584) người Công giáo trên hơn 5 triệu dân, tỷ lệ 13%. (Tại Hạt Tân Định, có 41.105 người Công giáo trên 266,000 dân). Đó là những con số trên giấy tờ, trong sổ Rửa Tội, còn trên thực tế, họ có sống đạo hay không là chuyện khác.
Như chúng ta được biết, ở những miền có đông giáo dân Công Giáo- ở Nam Mỹ chẳng hạn- đời sống dân chúng ở đó lại nghèo đói và thiếu linh mục.Ở Braxil, một nước lớn nhất Nam Mỹ, dân số 107 triệu, đại đa số là Công giáo. Thế mà gần đây người Công giáo đã bỏ Giáo Hội để sang Hội Thánh Tin Lành tính ra có trên 17 triệu người (lý do có lẽ là để được hưởng trợ cấp). Trái lại, ở các nước giàu có, phồn thịnh về vật chất- như ở Châu Âu và Bắc Mỹ- người Công giáo lại đánh mất niềm tin và không còn tôn trọng các giá trị đạo đức tinh thần nữa, coi thường các luật luân lý của Giáo Hội về đời sống hôn nhân gia đình. Sự kiện đó đang trở nên mối lo âu và là một vết thương đau nhức nhối nhất của Giáo Hội ngày nay.
Xin đan cử ra đây một dấu chỉ của thời đại: Đầu năm 1998, tại thành phố Amsterdam ở Hà Lan, Hội Đồng Giáo Mục đã quyết định đóng cửa một loạt 5 ngôi thánh đường đồ sộ của thành phố, vì không có giáo dân lui tới nữa, trong khi đó phí khoản 9dê3 bảo trì các ngôi thánh đường này lại quá lớn. Tại Bắc Mỹ cũng thế, Đức Hồng Y Josef Bernardin, Tổng Giáo Mục Chicago tuyên bố: ngài buộc lòng phải đóng cửa 13 giáo xứ, 2 cơ sở truyền giáo và 6 trường tiểu học Công giáo trong giáo phận của ngài. Còn Đức Hồng y Szoka, Tổng Giám Mục Giáo phận Detroit cũng tuyên bố quyết định đóng cửa 30 giáo xứ thuộc giáo phận của ngài. Lý do đóng cửa là vì thiếu người và thiếu tiền (x. Bùi Tuần, Ơn Trở Về, tr.85).
Nói lên những dấu chỉ thời đại ấy để chúng ta thấy rằng: Con người ngày nay đã bỏ Chúa, không còn tin vào Chúa nữa, hoặc có nhiều người tin, nhưng với một niềm tin hời hợt, hững hờ. Chính vì thảm trạng nầy mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã ban hành thông điệp “Sứ Vụ Đấng Cứu Độ” (Redemptoris Missio, 1990) để đặt toàn thể Giáo Hội trước sứ mạng truyền giáo và tái truyền trong Thiên Niên Kỷ Thứ III.
Anh chị em thân mến,
Hôm nay, ngày Thế Giới Truyền Giáo, Đức Thánh Cha lại gởi đến toàn thể Dân Chúa một sứ điệp với chủ đề: “Tất cả các kitô hữu đều được mời gọi làm người truyền giáo và chứng nhân”. Đức Thánh Cha nói: “Trước thềm thiên niên kỷ thứ ba, Chúa Giêsu quyết liệt lập lại những lời Ngài đã nói với các Tông đồ trước khi về trời, những lời hàm chứa bản chất sứ vụ của người Kitô hữu: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Quả thực, Kitô hữu là ai? Thưa họ là người được Chúa Kitô “chiếm đoạt” (x.Pl 3,12), và vì thế, là người khao khát làm cho Chúa Kitô được mọi người nhận biết và yêu mến ở khắp mọi nơi “cho đến tận cùng trái đất”. Chính niềm tin vào Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta trở thành những nhà truyền giáo, những chứng nhân của Ngài. Nếu không thực hiện được điều đó, có nghĩa là niềm tin củ chúng ta còn bất toàn, khiếm khuyết và chưa trưởng thành.
Do đó, “Truyền giáo là vấn đề của niềm tin, nó là thước đo niềm tin của chúng ta nơi Chúa Giêsu và nơi tình yêu của Ngài dành cho chúng ta” (RM số 11). Đức tin và truyền giáo đi đôi với nhau: đức tin càng mạnh càng sâu thì nhu cầu truyền thông, chia sẻ và làm chứng niềm tin càng bức thiết. Ngược lại, nếu đức tin suy yếu thì nhiệt tình truyền giáo cũng suy giảm và khả năng làm chứng cũng mất đi sức mạnh. Đó là điều vẫn xảy ra trong lịch sử Giáo Hội: sự sút giảm lòng nhiệt thành truyền giáo là triệu chứng của sự khủng hoảng đức tin. Điều này phải chăng xảy ra khi người ta đánh mất xác tín sâu xa là: “Đức tin càng vững mạnh khi đem chia sẻ” (RM.2). Vì chính khi loan báo Chúa Giêsu Kitô và làm chứng về Ngài mà đức tin của chúng ta được củng cố và tái khám phá con đường đưa đến một nếp sống đúng theo Tin Mừng của Ngài. Như thế, chúng ta có thể nói: “Truyền giáo là một phương thuốc chắc chắn nhất chống lại cuộc khủng hoảng đức tin. Chính nhờ dấn thân truyền giáo mà mỗi thành phần Dân Chúa củng cố căn tính mà mình và hiểu rõ là: không ai có thể là Kitô hữu đích thực nếu không là chứng nhân” (số 2).
Thưa anh chị em,
“Mỗi Kitô hữu được sáp nhập vào Giáo Hội nhờ Bí tích Thanh Tẩy, đều được mời gọi làm nhà truyền giáo và chứng nhân. Đó là sự ủy nhiệm rõ ràng của Chúa Kitô. Và Thánh Thần sai mỗi người kitô hữu ra đi loan báo và làm chứng về Chúa Kitô cho muôn dân: đó là nhiệm vụ và đặc ân, bởi vì đó là một lời mời gọi cộng tác với Thiên Chúa để cứu độ mỗi người và cả nhân loại” (số 3).
Truyền giáo bằng đời sống chứng tá Tin Mừng giữa đời, làm chứng cho Chúa Kitô bằng đời sống yêu thương, bác ái, công bình, cụ thể trong gia đình, ngoài xã hội, là sứ vụ của mọi người giáo dân. Làm chứng cho sự thánh thiện, như những người sống các Mối Phúc của Tin Mừng, đó là căn tính của người Kitô-hữu-chứng-nhân. Con người ngày nay có vẻ dửng dưng không muốn tìm về Thiên Chúa, nhưng trong thực tế, họ cảm thấy cần đến Thiên Chúa và họ bị các Thánh thu hút và đánh động, những vị thánh đã biểu lộ khuôn mặt của Thiên Chúa trong đời sống của mình, như những ánh sao trong đêm tối.
Giáo Hội Việt Nam chúng ta ngày nay phải truyền giáo trong môi trường cụ thể chúng ta đang sống, với những con người cụ thể chúng ta đang gặp. Chúa Kitô cần đến chúng ta để đem Tin Mừng vào lòng dân tộc. Chúa Kitô cần đến tâm hồn quảng đại và sẵn sàng của chúng ta, cần đến đời sống nhân chứng của chúng ta để bày tỏ cho anh em đồng bào tình yêu thương vô biên của Ngài. Tích cực tham gia vào công cuộc Phúc-âm-hóa mới, đó là công việc đặc trưng của những năm chuẩn bị tiến đến Thiên Niên Kỷ Thứ Ba của Hồng Ân Cứu Độ.
(Trích trong ‘Manna’)
“Hãy đi khắp thế giới, loan báo Tin Mừng…”
Lời Đức Giêsu mời gọi làm chúng ta nhức nhối.
Thế giới chẳng phải ở đâu xa.
Thế giới là quê hương tôi với gần 80 triệu dân.
Thế giới là những người tôi vẫn gặp, những nơi tôi vẫn sống.
Thế giới ấy, chân tôi chưa một lần đi hết,
miệng tôi chưa một lần loan báo tin vui.
Tôi có lòng tin không? Tôi có dám tin Lời Chúa không?
Chúa hứa cho những ai tin được khả năng trừ quỷ,
nghĩa là giải phóng con người khỏi mọi hình thức nô lệ,
khả năng chữa bệnh để xoa dịu nỗi đau của trần gian,
khả năng nói những ngôn ngữ mới để đem lại hiệp nhất.
Các tông đồ đã tin và thấy Chúa cùng làm việc với mình.
Họ chẳng bao giờ cô đơn trên bước đường rao giảng.
Có nhiều cách loan Tin Mừng, nhiều cách truyền giáo.
Cách thứ nhất là bằng chính cuộc sống bản thân.
Nếu các Kitô hữu đều siêu thoát danh lợi,
sống trung thực, thanh khiết, sống chung thủy, yêu thương…
Một Kitô hữu nghèo mà vui tươi, hạnh phúc,
thì đó là một lời chứng đáng tin cậy.
Làm cho xã hội được tốt đẹp hơn,
đó cũng là một cách loan báo Tin Mừng rất hiệu quả.
Kitô giáo phải góp phần xây dựng một thế giới
hòa bình và huynh đệ, công bằng và ấm no,
nơi nhân phẩm của từng người được tôn trọng,
nơi bóng tối của sự ích kỷ tàn nhẫn bị đẩy lui.
Mẹ Têrêxa Calcutta đã âm thầm loan báo Tin Mừng
bằng những cử chỉ nhân ái với bao người cùng khổ.
Mẹ đã đi nhiều nơi trên thế giới để lập các cộng đoàn.
Còn thánh Têrêxa nhỏ đã truyền giáo tại chỗ
bằng lời cầu nguyện và những hy sinh nhỏ bé.
Chị là nữ tu dòng Kín, sống trong bốn bức tường,
nhưng lại được phong làm bổn mạng các xứ truyền giáo.
Chị đã đi khắp thế giới, không phải bằng đôi chân,
nhưng bằng lòng ước ao của một trái tim cháy bỏng.
Phải sống sao để người ta thắc mắc, đặt câu hỏi.
Nhưng cũng phải sẵn sàng trình bày câu trả lời.
Dù bạn chẳng uyên thâm về giáo lý
nhưng hãy bập bẹ nói về Chúa bằng kinh nghiệm của bạn.
Truyền giáo là giới thiệu cho người khác Đấng tôi đã quen.
Có thể người ấy đã biết Đấng này từ lâu rồi.
Anrê đã gọi Simon, Philipphê đã gọi Nathanaen đến gặp Chúa.
Cần tập đến với người khác
như Đức Giêsu đã đến với người phụ nữ Samari.
Hãy xin nước uống, trước khi nói về Nước Hằng Sống.
Hãy tìm hiểu người đối diện trước khi loan báo Tin Mừng.
Chúng ta cần thấm nhuần văn hóa dân tộc
thì mới biết cách nói về Chúa Cha cho đồng bào mình.
Nếu cả đời, mỗi Kitô hữu mời được một người theo đạo,
thì nguyện ước của Đấng Phục Sinh được thành tựu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Thánh Têrêxa nhỏ đã được tôn phong làm tiến sĩ Hội Thánh. Bạn nghĩ gì về kiểu truyền giáo bằng cầu nguyện và hy sinh của chị? Bây giờ có hợp thời không?
Mẹ Têrêxa hiến đời mình cho người cùng khổ, bệnh tật, không phân biệt tôn giáo, màu da… Bạn nghĩ gì về kiểu truyền giáo này? Nó có đánh động trái tim con người hôm nay không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con,
nếu Hội Thánh được ví như một thân thể
gồm nhiều chi thể khác nhau,
thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu
một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất.
Đó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu.
Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động.
Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu,
thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng,
các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình…
Lạy Chúa Giêsu,
cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con,
ơn gọi của con chính là tình yêu.
Con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong Hội Thánh:
nơi Trái Tim Hội Thánh, con sẽ là tình yêu,
và như thế con sẽ là tất cả,
vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh.
Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con,
mọi ước mơ của con được thực hiện.
(dựa theo lời của thánh Têrêxa)
Thông thường khi cầu xin bất cứ ân huệ gì, chúng ta tha thiết cầu xin cho bản thân, cho gia đình mình trước. Thế nhưng, khi đất nước lâm nguy, cần có người ra biên thuỳ bảo vệ, thì người ta lại sốt sắng cầu xin cho người khác, ngoại trừ bản thân, được can đảm xông ra chiến trường bảo vệ giang sơn. Nếu ai cũng cầu như thế và những lời cầu kiểu nầy được chấp nhận, thì làm gì còn Tổ Quốc!
Trong việc cầu cho công cuộc truyền giáo cũng vậy, chúng ta thường cầu với Chúa rằng: “Lạy Chúa, xin cho có đông người, ngoại trừ con, biết quảng đại lên đường đi khắp muôn phương loan báo Tin Mừng cứu độ.” Nhưng thử hỏi: nếu ai cũng cầu xin thế nầy, thì cánh đồng truyền giáo sẽ vắng bóng thợ gặt, tìm đâu ra người đi loan báo Tin Mừng.
Vậy thì lời cầu nguyện thiết thực nhất mà mỗi người chúng ta phải dâng lên Chúa là: “Lạy Chúa, tuy con bất xứng, nhưng xin hãy sai con đi làm thợ gặt cho Chúa ngay hôm nay.”
Dù muốn dù không, chúng ta cũng là ngôn sứ của Chúa ngay từ ngày lãnh bí tích thánh tẩy. Bí Tích Thánh Tẩy làm cho chúng ta trở thành chi thể Chúa Giêsu, cho thông dự vào vai trò ngôn sứ của Người, nên chúng ta phải đảm nhận trách nhiệm loan Tin Mừng cứu độ của Người.
Chính vì thế, trước khi về trời, Chúa Giêsu long trọng chuyển trao cho chúng ta, là môn đệ Người, tiếp tục thi hành sứ vụ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, … dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28, 19-20)
Vậy thì sứ mạng loan Tin Mừng là một bổn phận phải làm chứ không phải là việc tuỳ thích. Thánh Phao-lô thú nhận: “Đối với tôi rao giảng Tin mừng không phải là lý do để tự hào, nhưng là một sự cần thiết buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng.” (1 Cr 9,16).
Vì đây là bổn phận của mọi chi thể Chúa Giêsu nên chỉ khi nào chúng ta tự tách lìa mình ra khỏi Hội Thánh là Thân Thể Chúa, thì chúng ta mới có thể cho phép mình ngừng loan báo Tin Mừng.
Truyền giáo là truyền lửa yêu thương
Trong đêm Vọng Phục Sinh, lòng nhà thờ hoàn toàn chìm trong bóng tối. Thế rồi, từ cuối nhà thờ, Nến Phục Sinh được thắp sáng lên và được long trọng rước lên cung thánh. Linh mục chủ sự lấy lửa từ Nến Phục Sinh thắp lên cho một vài cây nến nhỏ bé khác trên tay vài người. Những người nầy lại đem lửa phục sinh thắp lên cho người bên cạnh và cứ tiếp tục như thế, chẳng mấy chốc, cả ngàn cây nến nhỏ của các tín hữu tham dự đều được thắp lên.
Loan Tin Mừng cũng là thắp lên lửa yêu thương cho người quanh ta. Lửa đức tin, lửa yêu thương đã được Chúa Giêsu thắp lên trong ta, thì đến lượt mỗi chúng ta cũng hãy thắp lửa đức tin, lửa yêu thương ấy cho người bên cạnh và công việc truyền lửa nầy cần phải được tiếp nối không ngừng.
Chân phước Têrêxa Calcutta cũng cho rằng truyền giáo là chia sẻ tình thương. Mẹ không rao giảng Phúc Âm bằng lời nhưng bằng những tâm tình và cử chỉ yêu thương cụ thể. Mẹ cũng chẳng chủ trương yêu thương đại chúng cách chung chung, nhưng là yêu thương từng người đang đối diện.
Mẹ nói: “Đối với chúng tôi, điều quan trọng là từng người một. Để thương yêu một người thì phải đến gần người ấy… Tôi chủ trương một người đến với một người. Mỗi một người đều là hiện thân của Đức Kitô… Người đó phải là người duy nhất trên thế gian (mà ta cần yêu thương trọn vẹn) trong giây phút đó.”
Với tâm tình nầy, Mẹ Têrêxa đã thu phục nhân tâm nhiều người trên thế giới. Cũng bằng phương thức nầy, Giáo Hội công giáo Hàn Quốc đã làm gia tăng gấp đôi số tín hữu chỉ trong vòng mươi năm!
Theo gương Mẹ Têrêxa, mỗi một người công giáo nên kết thân với một người lương, coi người đó như anh em ruột thịt và đem hết lòng yêu thương người đó.
Mỗi gia đình công giáo nên kết thân với một gia đình lương dân, coi họ như thân quyến của mình, sẵn sàng chia ngọt sẻ bùi; khi có kỵ giỗ, cưới xin hay lễ lạc gì trong gia đình, hãy mời họ cùng thông hiệp. Nhờ đó hai bên thắt chặt mối giây thân ái và qua tình thân nầy, Tin Mừng của Chúa Kitô sẽ được lan toả như ánh nến đêm Vọng Phục Sinh.
Nếu Đức Giêsu phục sinh không sai gửi Thánh Thần
thì chúng ta sẽ chẳng có một Hội Thánh truyền giáo.
Các tông đồ được lệnh phải chờ ở Giêrusalem.
Chờ mặc lấy quyền năng từ trời cao ban xuống.
Chờ Đức Giêsu sai gửi Đấng Cha đã hứa ban.
Chờ lãnh nhận phép Rửa trong Thánh Thần (Cv 1,5).
Không có sức mạnh của Ngôi Ba Thiên Chúa,
các tông đồ chẳng dám đi rao giảng cho muôn dân,
và trở nên chứng nhân của Đức Giêsu cho cả thế giới.
Không có Thánh Thần thì không có hoạt động truyền giáo.
Điều này vẫn đúng cho thời đại chúng ta.
Thánh Thần vẫn thôi thúc bao tâm hồn đi gieo Tin Mừng,
vẫn hiện diện và hướng dẫn Hội Thánh trong việc rao giảng,
vẫn khơi dậy bao sáng kiến mới mẻ trong việc truyền giáo.
Kitô hữu tự bản chất là chứng nhân.
Các tông đồ đã làm chứng vì họ đã thấy tận mắt.
Chúng ta chỉ có thể làm chứng nếu thấy bằng đức tin.
Thấy bằng đức tin mạnh chẳng kém gì thấy bằng mắt.
Kitô hữu là người thấy được Đấng Vô Hình,
có tương quan thân thiết với Đấng họ mến tin.
Truyền giáo không phải là tuyên truyền một lý thuyết,
mà là đưa người khác đến gặp một Ngôi Vị,
là chia sẻ cho họ niềm xác tín và yêu mến của mình.
Chúng ta cần tự hỏi tại sao sau gần 4 thế kỷ
Kitô giáo ở Việt Nam vẫn chưa phát triển mạnh.
Phải chăng vì đức tin chúng ta đã nhạt nhòa,
vì đời sống chúng ta chẳng có gì đáng nói?
Hay phải chăng chúng ta đã lơ là với việc rao giảng,
hoặc không biết cách loan báo Tin Mừng cho phù hợp?
Có thể tất cả những lý do trên đều đúng.
Truyền giáo hôm nay đòi ta cộng tác với mọi người thiện chí,
để xây dựng một thế giới công bằng, nhân ái hơn,
đòi ta yêu thương và phục vụ những người nghèo nhất.
Truyền giáo là đưa Tin Mừng vào nền văn hoá Việt Nam,
và đưa những giá trị tốt đẹp của văn hoá Việt Nam
vào việc sống và làm chứng cho Tin Mừng.
Chúng ta tin một Thánh Thần duy nhất
đã hoạt động nơi các dân tộc trước khi Ngôi Lời nhập thể,
vẫn luôn hoạt động trong đời Đức Giêsu và trong Hội Thánh,
và còn đang hoạt động nơi các tôn giáo, các nền văn hoá
của mọi dân tộc trong thế giới hôm nay.
Phải làm sao để trình bày Tin Mừng cách dễ hiểu,
gần gũi với tâm thức của đồng bào.
Phải làm sao để bày tỏ một khuôn mặt Đức Giêsu
nhân từ, dễ mến, đem lại hạnh phúc cho con người.
Hội Thánh Việt Nam cần biết bao những người công giáo
biết làm văn, làm nhạc, làm thơ, biết viết kịch, viết báo…
Tinh thần Chúa Kitô phải từ từ thấm vào mọi lãnh vực.
Có thể Kitô hữu mãi mãi vẫn là một thiểu số,
nhưng phải là một thiểu số đóng góp nhiều cho dân tộc.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có người bảo đạo Công Giáo là đạo ngoại lai. Bạn nghĩ sao? Có tôn giáo nào ở Việt Nam không đến từ nước ngoài? Làm sao để đạo Công Giáo gần gũi với lối sống, lối nghĩ của người Việt Nam hơn?
Đức Thánh Cha nói: không truyền giáo là dấu hiệu của khủng hoảng đức tin. Bạn nghĩ sao?
Cầu Nguyện
Lạy Cha,
Cha muốn cho mọi người được cứu độ
và nhận biết chân lý,
chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha.
Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người
chưa nhận biết Đức Giêsu,
họ cũng là những người đã được cứu chuộc.
Xin Cha thôi thúc nơi chúng con
khát vọng truyền giáo,
khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc,
niềm vui và bình an của mình cho tha nhân,
và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.
Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực
trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất
để loan báo Tin Mừng.
Chúng con chỉ xin đến
với những người bạn gần bên,
giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài,
qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.
Chúng con cũng cầu nguyện
cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo.
Xin Cha cho những cố gắng của chúng con
sinh nhiều hoa trái. Amen.
(Trích trong ‘Manna’)
Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu đã làm một điều quan trọng,
đó là đào tạo những chứng nhân.
Hội Thánh tương lai phải được xây nền vững chắc
trên những con người có kinh nghiệm cá nhân
về cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Chính vì thế Ngài đã hiện ra cho Simon,
cho hai môn đệ về Emmau, cho các tông đồ.
Ngài cho họ xem chân tay và Ngài đã ăn bánh
để họ đừng nghi Ngài là ma.
Hơn nữa Ngài còn soi sáng cho họ
để họ hiểu những lời Kinh Thánh nói về Ngài.
Các môn đệ đã là chứng nhân, đã tử đạo
để làm chứng cho điều mình xác tín.
Mỗi năm Hội Thánh dành một ngày Chúa Nhật
để nhắc chúng ta nhớ đến bổn phận của mình,
bổn phận truyền giáo cho thế giới.
“Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân”
Chúng ta phải tiếp tục sứ mạng của các tông đồ,
vinh dự đứng vào hàng ngũ các chứng nhân.
Để truyền giáo, chúng ta phải quen thân với Chúa Giêsu,
có kinh nghiệm gặp gỡ Ngài thật sâu lắng,
sống cái chết của Ngài mỗi ngày
và nếm được niềm vui phục sinh Ngài ban tặng.
Để truyền giáo cần có nhiều tình yêu:
tình yêu đối với Chúa Giêsu và đối với con người.
Chính vì mến yêu Ngài
mà ta muốn Ngài được mọi người nhận biết.
Chính vì mến yêu mọi người
mà ta muốn chia sẻ hạnh phúc mình đang hưởng.
Thế giới hôm nay đầy lạc thú và hưởng thụ,
nhưng vẫn là một thế giới buồn.
Buồn vì nạn phá thai, ly dị, tự tử;
buồn vì hận thù, thất vọng và lo âu.
Nhiều bạn trẻ tìm quên trong vui chơi, nghiện ngập,
vì không thấy cuộc sống có ý nghĩa.
Như thế truyền giáo là loan báo tin vui
cho một thế giới buồn.
Đức Thánh Cha đã nhắn nhủ giới trẻ:
“Hội Thánh ủy thác cho giới trẻ nhiệm vụ hô to lên
cho thế giới biết niềm vui vì gặp được Đức Kitô…
Hãy đi rao giảng Tin Mừng giải thoát.
Hãy là những điều ấy với tâm hồn hân hoan.”
Chúng ta không thể là những chứng nhân buồn.
Chính cuộc sống của ta phải đầy ắp niềm vui,
sự lạc quan và sự sống của Chúa Phục Sinh.
Chỉ như thế chúng ta mời hy vọng đáp ứng
những đòi hỏi gay gắt của thế giới
đang bước vào đệ tam thiên niên kỷ.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có khi nào bạn nói về Chúa cho một người bạn không? Bạn có thấy mình cần học giáo lý và cầu nguyện để có thể truyền giáo tốt hơn không?
Hơn 90% người Việt Nam chưa tin Chúa. Theo ý bạn, chúng ta có truyền giáo đủ chưa? Phải sửa đổi gì để việc truyền giáo có hiệu quả hơn?
Cầu Nguyện
Lạy Cha,
Cha muốn cho mọi người được cứu độ
và nhận biết chân lý,
chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha.
Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người
chưa nhận biết Đức Giêsu,
họ cũng là những người đã được cứu chuộc.
Xin Cha thôi thúc nơi chúng con
khát vọng truyền giáo,
khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc,
niềm vui và bình an của mình cho tha nhân,
và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.
Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực
trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất
để loan báo Tin Mừng.
Chúng con chỉ xin đến
với những người bạn gần bên,
giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài,
qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.
Chúng con cũng cầu nguyện
cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo.
Xin Cha cho những cố gắng của chúng con
sinh nhiều hoa trái. Amen.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Lời mở đầu của “Sứ điệp ngày Thế giới Truyền Giáo 2014”, Đức Thánh Cha Phanxicô viết: Ngày nay còn rất nhiều người không biết Đức Giêsu Kitô. Vì thế, việc rao giảng cho người ngoài Kitô Giáo là công việc rất khẩn cấp, mà tất cả mọi thành viên của Giáo hội được kêu gọi để tham dự vào sứ vụ truyền giáo này, bởi vì tự bản tính Giáo hội là truyền giáo: Giáo hội được sinh ra là để “đi ra”.
Thiên Chúa hỏi ngôn sứ Isaia: “Ta sẽ sai ai đi? Và ai sẽ đi cho chúng ta?”. Isaia đã đáp: “Này con đây, xin hãy sai con” (Is 6,8). Isaia ca tụng: “Đẹp thay bước chân người đi khắp vùng đồi núi loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ…” (Is 52,7).
Truyền giáo là ra đi, đi để mang sứ điệp Tin mừng đến với muôn dân.
Sứ vụ sai đi khởi phát từ Chúa Cha “Như Cha đã sai Thầy,Thầy cũng sai anh em”. Chúa Giêsu thực hiện sứ vụ bằng việc ra đi.
Suốt mấy năm ra mặt với đời để hành đạo, Chúa Giêsu không ngừng đi, rày đây mai đó. Ngài luôn ngang dọc trên mọi nẻo đường đất nước của Ngài để truyền đạo.Từ hội đường này đến hội đường khác (Mt 4,23), hay ở ngoài trời, ở ngoài đường.Trên một sườn núi cũng có (Mt 5,1), bên một bờ hồ hiu quạnh cũng có (Mc 6,30-34). Có khi “mệt mỏi vì đường sá”, một mình ngồi trên thành giếng nói chuyện với người phụ nữ đến kín nước (Ga 4,6). Có lúc vì dân chúng chen lấn xung quanh đông đảo quá thì “Ngài mới lên một chiếc thuyền,thuyền của Simon và xin ông ấy chèo ra xa bờ một tí.Ngài ngồi xuống rồi từ ngoài thuyền nói vào mà giảng dạy dân chúng” (Lc 5,3).
Chúa Giêsu thực hiện những cuộc hành trình liên miên.Theo ngôn ngữ của Phúc âm Maccô chương 1: Ngài bỏ Nazareth để đến gặp Gioan bên sông Giođan,rồi đến Galilê,dọc theo bờ biển Galilê,và Ngài đi rao giảng trong các hội đường khắp xứ Galilê. Trong chương 2: Ít lâu sau, Ngài lại về Capharnaum…Ngài ngang qua đồng lúa …Cứ đi và đi như vậy mãi.
Chính giữa khung cảnh đường dài trời rộng thênh thang ấy mà lời giảng dạy của Ngài bao giờ cũng khởi hứng từ một hoàn cảnh của cuộc sống.Các hình ảnh đời thường gần gũi tràn ngập trong lời rao giảng: Cánh huệ mọc ngoài đồng; Đàn chim sẻ đang bay; Một đám ruộng lúa chín vàng mở rộng đến chân trời; Một mẻ cá lớn bên biển hồ; Những hạt giống người nông phu gieo vương vãi trên đường mòn,giữa bụi gai, trên sỏi đá; Một đàn cừu, dê, người chăn lùa về buổi chiều tối; Từng tảng đá,từng hạt sạn người ta nhặt từ một đống muối rồi vất đi; Từng con còng người đánh cá nhặt ra bỏ lại bên bờ sau một mẻ cá…
Việc thu thập môn đệ, Ngài cũng vừa đi, vừa gọi, vừa nhận…Như các môn đệ đầu tiên (Mc 1,16-20).Chúa Giêsu không dừng lại, yên nghĩ, hưởng thụ hay cũng cố vị trí người ta dành sẵn cho.Sau một ngày thành công rực rỡ ở Capharnaum chẳng hạn “Sáng đến,Ngài ra đi vào nơi hoang vắng. Dân chúng đi tìm Ngài và đến nơi Ngài, họ cố giữ Ngài lại, không để Ngài đi khỏi chỗ họ. Nhưng Ngài bảo họ: Ta còn phải đem Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa” (Lc 4,42-43).
Như thế, quả là suốt đời Chúa Giêsu đã không hề có trụ sở, không hề có chỗ trụ trì, không hề có nhà thờ. Ngài đi khắp mọi nẻo đường trên thế giới Ngài sống.
Chúa Giêsu bị bắt lúc đang cầu nguyện giữa vườn Giệtsêmani hoang vắng.Bị điệu đến Hanna rồi Caipha.Từ toà đạo qua toà đời. Hết bị điệu đến dinh Philatô lại bị gửi qua dinh Hêrôđê, rồi bị đưa trả về cho Philatô. Không đầy một ngày một đêm mà kẻ tử tù đã phải đi không biết bao nhiêu dặm trên con đường “công lý” của loài người.
Bị kết án thập hình. Hai tay dang rộng, bị đóng đinh thập giá.Tảng đá lấp cửa mồ (Mc 14,32 -15,47). “Lính canh phòng cẩn mật,niêm phong tảng đá lại” (Mt 27,62-66). Thế nhưng, Đức Giêsu đã không dừng chân cả trong cái chết. Ngày thứ ba, Ngài sống lại, vượt cái chết qua sự sống bất diệt.
Sau khi Phục sinh, Ngài cũng đi nhiều nơi, đến với với các môn đệ, cũng cố lòng tin và sai họ ra đi loan báo Tin mừng. Hoàn thành sứ mạng “Ngài lên trời ngự bên hữu Chúa Cha” (Mc 16,19) và luôn đồng hành cùng Giáo hội “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
Chúa Giêsu lập nên Nhóm Mười Hai. Họ được Ngài sai đi rao giảng (Mc 6,7). Giáo hội tiếp nối sứ vụ được sai đi, ra đi đến với muôn dân.
Hai động từ Gọi – Sai Đi diễn tả rõ rệt ơn gọi của Nhóm Mười Hai.Các Tông Đồ là những người được sai đi.
Chúa căn dặn rằng: người được sai đi phải có tinh thần nghèo khó và từ bỏ.
– Nghèo khó về hành trang đi đường: 1 cây gậy, 1 đôi dép,không mang 2 áo. Ý nghĩa ở đây là những kẻ được sai đi phải là những con người thanh thoát, không cồng kềnh nặng nề với của cải vật chất để có thể luôn sẵn sàng lên đường ra đi cho sứ vụ.
– Nghèo khó về phương diện sinh sống: không được mang lương thực, bao bị, tiền bạc. Hành trình như vậy đặt các người được sai đi trong tư thế tuỳ thuộc. Không vướng víu, không “mọc rễ” bất cứ nơi đâu để nhẹ nhàng ra đi nơi nào Chúa muốn.
Chúa Giêsu cũng không dấu giếm họ điều gì cả.Con đường truyền giáo là con đường đầy chông gai, lắm gian khó. Cũng như Ngài, họ đón nhận sự rủi ro bị từ chối, bị xua đuổi. Cần phải hy sinh bản thân. Đó là thân phận kẻ được gọi, được sai đi. Ra đi mà không gì bảo đảm, ra đi mà không mảy may dính bén. Sẵn sàng đến mà cũng sẵn sàng đi.Thành công cũng không thụ hưởng mà thất bại cũng chẳng đắng cay. Bởi lẽ người được sai đi luôn xác tín rằng: “Tôi trồng, Apollô tưới, còn Chúa cho mọc lên”.
Người truyền giáo luôn bị cám dỗ định cư, tìm an toàn bảo đảm bản thân, an nghĩ trong những thành công tạm bợ…và không muốn ra đi. Càng gắn bó, lúc cách xa càng luyến nhớ. Sâu đậm bao nhiêu, lúc giã biệt sẽ nuối tiếc bấy nhiêu.Vì vậy, Chúa muốn các môn đệ luôn sẵn sàng ra đi, lên đường bao giờ cũng đẹp, hạnh phúc chỉ dành cho ai dám lên đường tìm kiếm.
Cuộc đời người Kitô hữu cứ phải ra đi không ngơi nghĩ. Ra khỏi cái cũ và đi tới cái mới. Ra khỏi cái đang có để đi tới cái chưa có. Ra khỏi cái mình đang là để đi tới cái mình phải là. Như thế, hành trình xa xăm nhất lại chính là hành trình của con tim “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi. Nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông”.
Sứ vụ truyền giáo là sứ vụ của người ra đi mang tin vui, tin cứu độ, tin được Thiên Chúa đoái thương. Đức Maria mang trọn niềm vui Đấng Cứu Độ mà nhân loại đón đợi. Đức Maria trở nên người loan báo Tin Mừng vì Mẹ mang trọn niềm vui Chúa Thánh Thần. Ai để cho Chúa Thánh Thần hoạt động trong cuộc đời của mình cũng là người mang trọn niềm vui loan báo. Đức Maria còn là người công bố Tin Mừng: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn” (Lc 1, 49). Thấy được tình thương Thiên Chúa thể hiện trong cuộc đời mình nên lời công bố mang một niềm tin xác tín, đã gặp và đã thấy nên chan chưa niềm vui.
Xuyên suốt Sứ điệp Truyền giáo năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô luôn nói đến niềm vui Tin Mừng: “Tôi mời gọi anh chị em đắm mình vào niềm vui của Tin Mừng và nuôi dưỡng một tình yêu có thể thắp sáng ơn gọi và sứ mạng của anh chị em…Các môn đệ của Đức Kitô luôn luôn vui mừng khi cảm nhận sự hiện diện của Ngài, khi thi hành ý Ngài và chia sẻ đức tin, đức cậy và đức ái Phúc Âm của mình cho người khác” (Sứ điệp Truyền giáo 2014).
Để trở thành người loan Tin Mừng, Đức Maria đã “hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 3,51). Cầu nguyện là chiêm ngắm những điều Thiên Chúa đã thực hiện nơi mình. Đối với Đức Maria, truyền giáo là đem chính Chúa Giêsu cho nhân loại. Chúa Giêsu là lẽ sống, là hạnh phúc, là niềm vui của cuộc đời mỗi kitô hữu. Chúng ta phải xác tín như Đức Maria: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (Lc 1, 46). Tràn ngập niềm hân hoan bởi Mẹ đã gặp thấy và cưu mang chính niềm vui có Chúa Giêsu trong lòng Mẹ. Đức Maria reo ca: “Thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1, 47). Đức Maria đã cưu mang chính Chúa Giêsu, quà tặng tuyệt hảo nhất của Thiên Chúa, nguồn ơn cứu rỗi duy nhất, công bố, trao tặng cho nhân loại.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ra đi từ trời cao xuống đất thấp, mang Tin mừng chiếu soi nhân trần. Xin sai chúng con ra đi nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin giúp chúng con chỉ biết cậy dựa vào Chúa.Chỉ mình Chúa là đủ cho chúng con. Amen.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Chúa Nhật Truyền giáo)
Phải nhìn nhận rằng đến hôm này cái tên của đạo chúng ta: Công giáo thì Chính quyền các cấp nước Việt hiện nay có vẻ miễn cưỡng phải dùng dù không mấy thích. Đã từng một thời gian rất dài, người ta gán ghép cái tên Thiên Chúa giáo cho Công giáo. Người ta không muốn dùng hai từ Công giáo vì Công giáo, hiểu sát nghĩa từ, là đạo chung cho mọi người, không phân biệt quốc tịch, dân tộc, giới tính, hoàn cảnh, địa vị… Công giáo là đạo mời gọi mọi người, mọi nơi, mọi thời, gia nhập để nhận biết Thiên Chúa duy nhất là Đấng sáng tạo nên mọi loài, là Cha của hết mọi người, để mọi người biết sống yêu thương nhau như anh chị em một nhà. Chính vì thế truyền giáo là sứ vụ nền tảng phát xuất từ căn tính của Kitô hữu. Đã là anh chị em một nhà thì quan tâm đến hạnh phúc của nhau là lẽ tất yếu.
Truyền giáo là một nhu cầu tất yếu. Đã nói đến nhu cầu là không thể thiếu. Cái nhu cầu truyền giáo xuất phát từ yếu tính của Kitô hữu, những con người cảm nhận mình được yêu thương, mình đang hưởng nhận hồng phúc to lớn vượt quá công sức và phận vị của mình. Tốt khoe – xấu che là hệ lụy tất yếu. Khi đã cảm nhận hạnh phúc lơn lao mình lãnh nhận thì không thể không chia sẻ cho tha nhân, nhất là khi ta chân nhận tha nhân chính là anh chị em của mình. Không nỗ lực truyền giáo hay thờ ơ với việc rao giảng Tin mừng là một trong những dấu chỉ nói lên rằng ta chưa thực sự cảm thấy hạnh phúc trong đời làm con cái Chúa. Điều này củng cố lời xác nhận của thánh tông đồ dân ngoại: ” Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng” (1 Cor 9,16). Hơn nữa, chímh Chúa Kitô đã minh nhiên phán dạy chúng ta phải truyền giáo (x. Mt 28, 18-20)
Một phương thế rao giảng Tin mừng: làm chứng nhân.
Thánh Phaolô minh định rằng người ta tin là nhờ nghe và người ta nghe được là nhờ có người rao giảng (x. Rm 10,14). Với sự phát triển ngày càng hiện đại của ngành thông tin thì chân lý “trăm nghe không bằng một thấy” đang thực sự chứng nghiệm. Những gì đập vào thị giác xem ra gây hiệu quả mạnh hơn là những gì rót vào thính giác. Một hình ảnh nhiều khi nói lên một sự thật cách thuyết phục hơn là một bài diễn thuyết hùng hồn. Đức Phaolô VI đã từng nhận định: “Ngày nay người ta thích theo các chứng nhân hơn là các nhà giảng thuyết. Sở dĩ người ta nghe theo các nhà giảng thuyết vì trước hết họ là những chứng nhân”. Quả thật cha ông Việt nam chúng ta đã từng xác nhận: “Lời nói gió bay, gương bày lôi kéo”.
Nói đến Phật giáo thì người ta nghĩ ngay đến “từ bi – hỉ xả”. Nói đến Khổng giáo thì người ta nghĩ ngay đến “Trung dung; Chính danh – chính phận”. Nói đến Lão giáo thì người ta nghĩ ngay đến “Vô vi”. Nói đến đạo ông bà thì người ta nghĩ ngay đến “tình hiếu đễ”… Nói đến Công giáo thì không thể không nghĩ đến “công bình – bác ái”. Chính khi làm nổi bật cái nét riêng của mình thì ta đang quảng bá cái của mình cách hữu hiệu hơn cả. Dĩ nhiên trong công cuộc truyền giáo, chúng ta không thể không chú trọng đến việc rao truyền Lời Chúa, phổ biến Thánh Kinh dưới mọi hình thức, đặc biệt với sự quan tâm của toàn thể Hội Thánh qua Thượng Hội Đồng Giám Mục đang diễn ra với chủ đề “Kinh Thánh”. Tuy nhiên, xin được cụ thể hóa việc rao giảng Tin Mừng bằng đời sống chứng nhân là làm chứng cho cái tinh túy của Công giáo là đạo công bình và bác ái.
- Sống đức công bình trong tình bác ái: Công bình là một trong những nhân đức luân lý nền tảng giúp gìn giữ sự hài hòa, ổn định trong các mối tương quan giữa người với người, giữa người với vạn vật và giữa người với Đấng tạo Thành. Dưới nhãn quan công bình giao hoán thì của ai hãy trả lại cho người ấy. Điều này đòi buộc ta không được phép xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp và chính đáng của tha nhân, của các tạo vật và của Đấng Tạo Thành. Ta không những không được “lấy của người” mà con không được “ước ao trái phép những gì của người ta” (giới răn thứ 7 và thứ 10).
Luật lệ Cựu ước minh nhiên ghi rõ rằng ta không được ngược đãi người ngoại kiều, khách ngụ cư, không được ức hiếp mẹ góa con côi, không được cho vay ăn lời quá đáng; không đuợc cầm giữ tiền công của người làm thuê qua đêm…(x.Dnl 24,17; Lv 19,13). Tuy nhiên dưới nhãn quan bác ái thì đức công bình đòi hỏi ta phải biết đối xứ với nhau như là anh em đến nỗi khi hái nho thì không được mót những trái rơi vải mà phải để dành cho người nghèo, cũng thế khi gặt lúa cũng phải nghĩ đến người túng cực để ta không lượm mót những gié lúa còn sót hay rơi vải trên đồng (x. Lv 19,10;23,22). Không được phép dừng lại ở việc đối xứ với tha nhân như họ đã làm gì cho ta mà cần phải tiến đến chỗ đối xữ với họ như họ là anh chị em của ta. Có như thế ta mới xứng đáng là con cái Cha trên trời, Đấng cho mưa rơi đều xuống trên người lành lẫn kẻ bất lương, cho mặt trời mọc lên soi người công chính lẫn tội nhân (x.Mt 5,43-48). Với vũ trụ thiên nhiên thì đức công bình đòi hỏi ta phải biết tôn trọng các loài thọ tạo Chúa dựng nên trong sự hài hòa và cân đối của chúng. Hội Thánh khẳng định việc hủy hoại môi sinh là một trọng tội. Khi được trao quyền làm chủ các loài thụ tạo hữu hình thì con người không chỉ quản lý chúng để phục vụ hạnh phúc cho mình và tha nhân mà còn để làm vinh danh Chúa.
- Sống bác ái trong sự công bình: Sống bác ái là sống yêu thương như Chúa yêu thương, nhờ Chúa yêu thương. Tuy nhiên, sự công bình đòi hỏi chúng ta phải yêu mến Chúa trước hết và trên hết mọi sự, với hết lòng, hết sức, hết cả trí khôn (x. Mt 22,37). Đây là một đòi hỏi mang tính tất yếu. Chúng ta không chỉ thờ phượng Thiên Chúa như là Đấng Tạo thành và an bài mọi sự, là Đấng dựng nên chúng ta từ hư vô, mà còn phải yêu mến Người, vì Người là Cha chúng ta. Do đó bổn phận đức ái đối với Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta phải tiên vàn tìm vinh danh Chúa (x. Mt 6,33), nỗ lực làm cho Danh Chúa cả sáng, nước Chúa trị đến và ý Chúa thể hiện dưới đất cũng như trên trời (x. Mt 6,9-10).
Trên nền tảng đức ái đối với Thiên Chúa, chúng ta sẽ biết yêu thương nhau như anh chị em một nhà. Vì yêu thương nhau nên chúng ta không chỉ không làm những gì cho tha nhân điều mà ta không muốn tha nhân làm cho mình mà còn tiến đến chỗ tích cực làm cho tha nhân những gì ta muốn tha nhân làm cho mình (x. Mt 7,12).
Ngày khánh nhật truyền giáo lại về. Một lần nữa Hội Thánh nhắc nhớ chúng ta nghĩa vụ cao cả và mang tính sống còn của Kitô hữu. Không truyền giáo thì chỉ là Kitô hữu hữu danh vô thực. Không chia sẻ cho tha nhân hạnh phúc mình đang có là một trong những dấu chỉ chứng tỏ rằng ta chưa thực sự cảm nhận hạnh phúc khi được làm con cái Chúa.
Mến Chúa và yêu người là hai giới răn trọng nhất. Điều đó thì trẻ con cũng thuộc. Nhưng điều quan trọng là làm sao thực thi lòng mến Chúa qua việc yêu thương con người là hiện thân của Thiên Chúa.
Yêu Chúa mà lại ghét người thân cận thì thật là điều trớ trêu như câu chuyện sau đây:
Có một vị hoàng thái tử vào rừng săn bắn gặp một cô gái hái củi trong rừng. Không hiểu Trời xui đất khiến làm sao mà họ yêu nhau tha thiết ngay từ buổi gặp gỡ đầu tiên.
Hoàng tử quay về triều như kẻ mất hồn, ngày đêm tương tư cô gái nghèo mà anh đã đem lòng thương mến và rồi anh khẩn khoản xin vua cha cưới nàng cho bằng được.
Để tìm hiểu xem cô gái có thực sự yêu thương con trai mình bằng tình yêu chân thực hay không, vua cha dạy cho hoàng tử cải trang làm nông dân để thử lòng cô gái…
Thế là hoàng tử hoá thành người nông dân, đến cắm lều gần nhà cô gái, ngày ngày vác cuốc ra đồng làm lụng. Anh lân la đến làm quen với cô gái trong hình hài một nông dân.
Mặc dù cô gái vẫn thầm yêu và mong được kết hôn với hoàng tử, nhưng cô tạ không nhận ra hoàng tử nơi người nông dân nghèo khổ nầy. Cô đã đối xử với anh rất lạnh nhạt và cuối cùng đã xua đuổi anh.
Tiếc thay, cô đã đánh mất cơ hội vô cùng quý báu: mất vinh dự trở thành công nương, thành hoàng hậu tương lai.
Như vị hoàng tử kia hoá thân thành nông dân để thử lòng cô gái, Thiên Chúa cũng hoá thân thành người phàm để thử thách tình yêu của chúng ta. Ngài đã từ trời xuống thế, hoá thân làm người, cắm lều ở giữa loài người, trở nên người thân cận của mỗi người.
Thế nên, khi yêu thương người thân cận là chúng ta yêu thương Chúa, và khi chúng ta từ khước hay bạc đãi người thân cận là bạc đãi Chúa. Tình yêu thương người thân cận là thước đo tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa.
Mẹ Têrêxa là người giữ điều răn yêu thương nầy cách tuyệt hảo. Mẹ nhìn thấy Chúa trong những người phong cùi, trong những người bần cùng khốn khổ và mẹ tận tình yêu thương săn sóc những người ấy hết sức tận tình.
Mẹ dạy nữ tu của mẹ: “Con thấy linh mục nâng niu trân trọng Mình Thánh Chúa trong thánh lễ ra sao thì con hãy làm như thế đối với người cùng khổ.”
Mẹ là người vừa yêu mến Thiên Chúa trên trời lại vừa yêu mến Chúa hịên diện trong những người khốn khổ. Mẹ không tách rời hai giới răn mến Chúa và yêu người, nhưng mẹ đã yêu Thiên Chúa trong con người.
Khi hỏi tại sao người công giáo chúng ta truyền đạo mà không thu hút được nhiều người về với Hội Thánh?
Chắc chắn là vì chúng ta chưa sống theo đạo yêu thương. Nếu chúng ta theo phương cách sống đạo của mẹ Têrêxa Calcutta, tha thiết yêu mến Thiên Chúa nơi con người, thì đạo chúng ta trở thành hấp dẫn, và bản thân chúng ta cũng có sức thu hút được nhiều người như mẹ Têrêxa đã minh chứng bằng đời sống của mẹ: Mẹ được người đời xem là bà thánh sống, được mọi người yêu mến, cả những người Hồi Giáo, Ấn giáo, Bà La Môn và các đạo khác đều vô cùng quý mến mẹ.
Nhân ngày Truyền Giáo, xin cho chúng ta biết áp dụng phương thế truyền giáo tuyệt hảo của mẹ Têrêxa là yêu mến Thiên Chúa trong con người, hy vọng nhờ đó, đạo Chúa trở thành một tôn giáo rất đẹp, rất hấp dẫn và nhiều người sẽ quay về với đạo yêu thương nầy.
Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ của Lm Tạ Duy Tuyền)
Thế giới ngày hôm qua cũng như hôm nay luôn ngưỡng mộ những chứng nhân cho tình yêu. Một Tê-rê-sa thành Calcutta nhỏ bé nhưng có một trái tim lớn lao đã làm cho cả thế giới kính phục. Ở Việt Nam, người công giáo hay không công giáo họ vẫn nói với nhau về một vị giám mục dám bỏ ngai tòa để đến ở cùng những người cùi tại trại cùi Di linh. Đó chính là Đức Giám mục Cassien. Ngài đã dùng tình yêu để xoa dịu những những đau đớn cho người cùng khổ. Ngài đã chết cho tình yêu, nên tình yêu của Ngài mãi ở lại nơi dương thế qua mọi thời đại.
Hôm nay ngày khánh nhật truyền giáo, thiết tưởng là dịp thuận lợi để chúng ta nhìn lại tinh thần chứng nhân tin mừng của giáo hội sơ khai. Một giáo hội non trẻ nhưng có sức mạnh biến đổi trần gian. Một giáo hội bị cấm đoán nhưng vẫn lan tỏa đến tận cùng thế giới. Một giáo hội nhỏ bé nhưng ai cũng có tinh thần truyền giáo, khiến thánh Phao-lô đã từng nói rằng: “Tôi trồng, Apolo tưới, Thiên Chúa mới cho mọc lên”. Vậy đâu là điểm son để giáo hội có thể vượt qua mọi trở ngại để phát triển và canh tân bộ mặt trái đất? Thưa đó chính là tinh thần hiệp nhất yêu thương.
Theo sách tông đồ công vụ, thời giáo hội sơ khai, các tín hữu “sống hiệp nhất với nhau, và để mọi sự là của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu” (Tđcv 2, 44). Họ hợp nhất với nhau không chỉ về niềm tin mà còn hiệp nhất trong tình liên đới chia sẻ của cải vật chất cho nhau. Sự liên đới này tạo nên một cộng đoàn bác ái yêu thương, trong đó mỗi người đều được cộng đồng quan tâm, nâng đỡ và chia sẻ cho nhau tùy theo nhu cầu của từng người.
Chính đời sống yêu mến nhau nơi các tín hữu mà Giáo hội sơ khai đã được toàn dân thương mến. Sự thương mến đó đã đem nhiều người về với Chúa. Sự thương mến đó cũng là nơi bảo vệ các tín hữu khỏi những cuộc tàn sát của bạo chúa hung tàn. Vâng, nếu ngày xưa cộng đoàn Giáo hội sơ khai đã được “toàn dân thương mến” (Tđcv 2,47a), thì đời sống của xứ đạo chúng ta hôm nay, cũng phải là một cộng đoàn được những người chung quanh nhìn bằng ánh mắt trìu mến thân thương. Đó cũng là cách chúng ta ca tụng Chúa và giúp cho “càng ngày càng có nhiều người gia nhập Giáo hội” (Tđcv 2, 47b).
Thế nên, tinh thần truyền giáo mời gọi chúng ta hỗ trợ nhau không chỉ về tinh thần mà còn cả về vật chất, không chỉ là những người có đạo mà còn cả những người lương dân. Đồng thời sự chia sẻ này cũng nói lên sự xóa bỏ những tị hiềm, ghen ghét trong cộng đoàn để đón nhận nhau trong tinh thần bác ái huynh đệ. Lấy “dĩ hòa vi quý” để sống hài hòa, nâng đỡ đùm bọc lẫn nhau tạo nên một cộng đoàn chan hòa yêu thương, bác ái, chia sẻ, cảm thông. Đó cũng là dấu chỉ cho thấy chúng ta là môn đệ Chúa Giêsu, là chứng nhân của Tin mừng giữa lòng dân tộc Việt Nam.
Vì chưng, giới luật quan trọng nhất của kytô giáo chính là Mến Chúa – yêu người, thì người người ky-tô hữu chúng ta phải thể hiện điều đó qua từng lời nói, từng việc làm, luôn được cân nhắc cho vừa ý trời và phù hợp với luân thường đạo lý làm người. Vì vậy, một đời sống chứng nhân Tin mừng cũng phải thể hiện bằng một đời sống hòa hợp với cộng đồng, với tha nhân. Nhất là biết thể hiện sự tương thân tương ái nơi cộng đồng giáo xứ, sự hiệp nhất yêu thương trong tình huynh đệ với tha nhân, nhờ đó mà Tin mừng mới nở hoa trên từng môi trường sống của người tín hữu. Chúng ta không thể là một người kytô hữu tốt mà lại đối xử thật tồi tệ với anh chị em chung quanh. Lối sống này không chỉ là lỗi luật Chúa mà còn là cớ vấp phạm cho những người chưa biết Chúa. Nhà lãnh tụ Ganhi của An Độ đã từng nói: “Nếu những người kytô giáo sống đúng tinh thần giáo lý của họ. Tôi sẽ mời gọi cả dân tộc Ấn trở lại”. Chúng ta không thể truyền giáo mà còn mang nặng tính bè phái, tỵ hiềm, chia rẽ. Lối sống này đã không thu góp về cho giáo hội những tín đồ mới mà còn đẩy biết bao người ra khỏi giáo hội bởi lối sống ích kỷ, độc đoán của chúng ta. Thực tế đã có rất nhiều những cộng đoàn, những xứ đạo đổ vỡ vì sự bè phái đã phá đổ tình hiệp nhất yêu thương. Đã có rất nhiều người bỏ đạo, chối đạo vì sự bất khoan dung của chúng ta đã đẩy họ ra khỏi Giáo hội, khỏi cộng đoàn. Và cũng có rất nhiều cái nhìn thiếu thiện cảm của anh em lương dân nhìn đến chúng ta, chỉ vì chúng ta sống thiếu công bình, thiếu lòng bác ái, thiếu lòng bao dung.
Thế nên mỗi người tín hữu phải biết sống tinh thần truyền giáo khởi đi từ lòng mến Chúa, yêu người nơi mỗi người chúng ta. Chúng ta mến Chúa nên chúng ta hăng say truyền giáo. Chúng ta yêu mến tha nhân nên chúng ta muốn chia sẻ niềm vui với tha nhân. Tình yêu mến mời gọi chúng ta đi đến với tha nhân bằng một tình yêu chân thành, không khoe khoang, không giả dối. Tình yêu mến mời gọi chúng ta dấn thân một cách quảng đại để đem tình yêu Chúa nối kết tình người, đưa con người đến cùng Thiên Chúa và giúp con người xích lại gần nhau.
Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng đã từ trời xuống để gieo tin mừng yêu thương vào cho nhân thế, nâng đỡ và giúp chúng ta sống ơn gọi truyền giáo bằng một tình yêu mến nồng nàn. Ước gì đời sống chúng ta cũng trở thành một lời chứng sống động cho tin mừng khi chúng ta dám sống triệt để theo những đòi hỏi của tin mừng là mến Chúa trên hết mọi sự và yêu mến tha nhân như chính mình. Amen.
Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ của Lm Tạ Duy Tuyền)
Hôm nay ngày khánh nhật truyền giáo, chúng ta nghe âm vang lời mời gọi của Chúa vẫn còn vang vọng tới hôm nay: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”. Chúa không nói riêng một ai. Chúa mời gọi tất cả. Chúa không đòi hỏi khả năng, bằng cấp, học vị mà chỉ cần có nhiệt huyết làm tông đồ cho Chúa. Chúa cũng không đòi hỏi người truyền giáo phải hiểu biết tín lý thần học sâu xa, hay luân lý uyên thâm, Chúa chỉ cần có lòng quảng đại dấn thân mở mang nước Chúa. Chúa đã sai 72 môn đệ ra đi với đôi bàn tay trắng, thế mà khi trở về ai cũng vui mừng vì thành quả họ đã đạt được. Chúa đã thưởng công cho mỗi người như nhau, không phân biệt người đến sớm, kẻ đến muộn, người đạo gốc hay mới theo đạo. Từ người thợ giờ thứ 9 cho tới giờ thứ 11 đều được ân thưởng theo lòng nhân từ của Chúa.
Vậy đâu là cách thức truyền giáo hữu hiệu nhất cho người tông đồ của Chúa?
Thánh Gioan Tông đồ đã viết: “Ngôi lời đã hoá thành nhục thể và cư ngụ giữa chúng ta”. Chúa Giêsu là Lời hằng sống gieo vào thế gian, nhưng Lời đã mang lấy xác phàm giống như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Ngôi Lời đã trở thành nguồn ơn cứu độ để những ai tiếp xúc với Ngài đều có thể nhận lãnh được sự sống dồi dào cả tinh thần lẫn thể xác. Ngôi Lời đã mặc lấy thân phận con người, để có thể gần gũi, cảm thông và chia sẻ với những khổ đau của con người. Cuộc sống của Ngài đã trở thành trở thành lẽ sống cho con người, “Sống để yêu thương”, và Ngài đã đi trọn con đường tình yêu là “dám chết cho người mình yêu”. Vì vậy, cách thức duy nhất mà Chúa trối lại cho chúng ta là “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Lời Chúa và giáo huấn của Chúa phải trở thành cung cách sống của người tín hữu. Một đời sống bác ái yêu thương mới thực sự là phương thế hữu hiệu nhất để giới thiệu về Chúa cho tha nhân. Lời nói và việc làm phải đi đôi với nhau. Mang danh kytô hữu và sống đời kytô hữu phải nên một trong con người có đạo mới thực sự trở thành chứng nhân cho Chúa.
Vì vậy, Truyền giáo không thể chỉ đi lễ, đọc kinh cầu nguyện là xong bổn phận chứng nhân cho Chúa. Nếu như thế mới chỉ là hành vi trả lại công bằng cho Chúa, vì việc tạ ơn là hành vi đền đáp lại ân ban của Thiên Chúa dành cho con người. Truyền giáo không phải là việc tuân giữ các giới răn của Chúa. Nếu như thế mới là giữ đạo chứ chưa truyền đao. Truyền giáo không phải là nói thật hay, thuyết trình thật hùng hồn là có thể đem nhiều người về với Chúa. Nếu như thế mới chỉ là tiếp thị chứ chưa mang đạo vào đời như muối như men ướp mặn trần gian.
Trong thông điệp “khánh nhật truyền giáo 2006”, Đức Thánh Cha Bênedictô 16 đã viết: “Sứ mạng truyền giáo, nếu không được định hướng bởi Lòng mến, nếu không phát sinh từ một hành động sâu xa của tình yêu thần thiêng, thì sứ mạng đó liền bị rút gọn về chỉ còn như là một hành vi nhân ái và xã hội không hơn không kém. Tình yêu mà Thiên Chúa có đối với mỗi người, kết thành trung tâm của kinh nghiệm sống và loan báo Phúc Âm”.
Như vậy, Đức Thánh Cha đã tái khẳng định cách thức mà Chúa Giêsu muốn chúng ta đi đó là thực hành bác ái. Không có lòng mến thì không thể trở thành nhân chứng cho niềm tin của mình. Yêu Chúa luôn đi liền với yêu mến tha nhân. Và thánh Phaolô còn quả quyết “Lòng mến chính là sợi giây ràng buộc chúng ta nên một với Đức Kytô”.
Hôm nay nhân ngày khánh nhật truyền giáo, chúng ta hãy rà xét lại lòng mến của chúng ta đã trở nên dấu chỉ của người kytô hữu hay chưa? Ngày xưa cộng đoàn tín hữu tiên khởi họ đã sống thật hiệp nhất với nhau, ngày ngày họ đến hội đường để nghe các tông đồ rao giảng. Họ chia sẻ đời sống hằng ngày với nhau, để không ai phải thiếu thốn. Họ được toàn dân thương mến và ngày càng có thêm nhiều người gia nhập Giáo Hội. Ước gì cộng đoàn xứ đạo chúng ta cũng được những người chung quanh nhìn bằng ánh mắt trìu mến, đầy thiện cảm và tôn trọng, và ngày càng có những người muốn sống đời kytô hữu như chúng ta. Amen.
NIỀM TIN VÀ HY VỌNG
Hằng năm vào tuần lễ gần cuối năm Phụng vụ, Giáo hội nhắc nhở chúng ta dâng Thánh lễ cầu nguyện cho việc truyền giáo. Thật ra, tự bản chất Giáo hội là truyền giáo. Mỗi thành viên trong Giáo hội đều có trách nhiệm và bổn phận truyền giáo. Bởi đây là lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28, 19).
Đức Thánh Cha Bênêđictô 16 của chúng ta vừa ra Thông điệp Spe Salvi (Niềm hy vọng Kitô giáo). Ngài muốn các con cái mình hãy thật sự sống niềm tin và hy vọng vào Chúa. Thiết nghĩ khi sống được điều này chính là chúng ta đang truyền giáo cho những anh chị em đang sống xung quanh chúng ta.
“Người sống trong niềm tin và hy vọng là người sống có tương lai, sống như có Thiên Chúa đang ở với mình, người đó chính là những người kitô hữu. Tương lai bảo đảm cho hiện tại của họ, tương lai ảnh hưởng đến hiện tại, có tác động và làm thay đổi đời sống hiện tại” (Thông điệp Spe Salvi số 2 – 3).
Đúng vậy, phân biệt giữa một người sống có niềm tin và hy vọng với một người không chẳng có chút niềm tin và hy vọng nào, chúng ta sẽ thấy cách sống của họ rất khác nhau. Người đàn bà xứ Canana đã chạy hết thầy hết thuốc mà chẳng chữa bệnh cho con mình. Giờ đây bà chỉ còn biết hoàn toàn tin tưởng và hy vọng nơi Chúa Giêsu. Điều đáng nói dù Chúa Giêsu đã thử thách bà rất nặng nhưng bà vẫn không nản chí (Mt 15, 21 – 25). Đức Trinh Nữ Maria – Mẹ của chúng ta, cũng vì tin tưởng và hy vọng nơi Chúa nên Mẹ đã đón nhận cách vui vẻ sứ mạng được trao phó. Mặc dù với sứ mạng ấy Mẹ đã phải đón nhận nhiều khó khăn thử thách.
Ngược lại, người sống chẳng có niềm tin và hy vọng sẽ sống như chẳng có ngày mai. Điển hình cách sống của phần lớn của các bạn trẻ hôm nay. Họ chỉ biết đến có tiền bạc và vật chất đời này. Do đó, họ bất chấp luân thường đạo lý miễn sao có lợi cho họ là được.
Do đâu mà người đàn bà xứ Canaan và Đức Trinh Nữ Maria cũng như nhiều người sống được niềm tin và hy vọng nơi Chúa. Là vì họ đã gặp được và mang Chúa Giêsu trong mình. Chúa Giêsu đã hứa: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20). Vì thế, chúng ta sẽ gặp được Chúa trong Thánh lễ và qua những lời dạy của Chúa cũng như những chỉ dẫn của Giáo hội. Hãy tin tưởng và hy vọng vào Chúa. Đó là chúng ta đang truyền giáo.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Trong bộ phim Tiểu Sử Thánh Têrêxa thành Lisieux đạo diễn đã chọn nữ diễn viên Lindsay Younce thủ vai Têrêxa. Điều đáng nói là sau khi hoàn thành bộ phim, nữ diễn viên ngoại đạo này đã xin theo đạo Công Giáo.
Cô nói: “Quá trình trở lại đạo công giáo của tôi đã bắt đầu ngay trước lúc tôi khởi sự cuốn phim, tuy nhiên tôi đã đợi cho xong phim rồi mới hòan thành quá trình đó. Tôi nghĩ rằng việc được biết thánh Têrêxa đã dẫn tôi tới nhiều khía cạnh của đức tin công giáo mà tôi chưa được làm quen, đặc biệt là niềm vui phát sinh từ đau khổ khi bạn dâng nó lên Thiên Chúa như một của lễ. Bạn xin cho được đau khổ, bạn thấy vui trong đau khổ và đó có thể là những điều nhỏ mọn mà bạn tiến dâng lên mỗi ngày”.
Điều mà cô cảm phục chính là thái độ sống nhịn nhục và phục vụ ân cần của thánh Têrêxa với nữ tu già Augustine. Một người nữ tu rất khó thương, thế mà thánh nữ vẫn yêu thương và biến hành vi ấy thành của lễ cứu độ trần gian để rồi thánh nữ đã có thể nói: “Nếu có tình yêu thì dù cúi xuống nhặt một cái kim cũng đủ cứu độ thế giới. Và ngài cũng nói: “ơn gọi của ngài là tình yêu”.
Ở đời người ta rất cần gương sáng. Gương sáng của người vợ có thể biến đổi người chồng nghiện ngập sa đọa thay đổi đời sống. Gương sáng của cha mẹ sẽ dẫn dắt con cái đi trong chân thiện mỹ. Gương sáng của người tín hữu có thể biến đổi người lương dân và giúp họ đón nhận tin mừng.
Nữ diễn viên Younce đã được ơn theo đạo Công Giáo nhờ đọc tiểu sử và nhập vai thánh Têrêxa, và có lẽ đời sống của chúng ta nếu sống đúng tinh thần ky-tô hữu là sống cho tình yêu thì chắc chắn sẽ mang về cho Chúa biết bao linh hồn.
Nhưng đáng tiếc, vì cuộc sống phản chứng của chúng ta đã khiến bao người lương dân ngã lòng, thất vọng khi chúng ta sống thiếu công bình, bác ái, yêu thương. Đôi khi chúng ta còn gây nên những bất đồng, khổ đau cho tha nhân như Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolo đã từng đại diện cho toàn thể Giáo hội xin lỗi anh em lương dân vì đời sống phản chứng Tin Mừng.
Hôm nay lễ khánh nhật truyền giáo là dịp cho chúng ta xác định ơn gọi của chúng ta là truyền giáo. Giáo hội Chúa Ky-tô thiết lập để sai đi truyền giáo. Người ky-tô hữu là chi thể của Giáo hội cũng phải biết cộng tác vào chương trình truyền giáo theo khả năng và hoàn cảnh của mình. Mỗi người có thể là tay chân, là môi miệng, là mắt, là tai… đều phải tỏa sáng Tin mừng trong khả năng của mình.
Có thể bạn là người nghèo thì hãy sống khó nghèo, đừng vì nghèo mà sinh đạo tặc hay sống xa lánh Giáo hội. Hãy làm chứng cho thế giới biết rằng cuộc đời chỉ là một hành trình tiến về thiên quốc là nơi không còn đau khổ bởi đói, bởi hận thù chiến tranh, thế nên chúng ta hãy tin tưởng và bước đi trong hoàn cảnh của mình.
Có thể bạn là người giầu có, quyền thế hãy biết tạn dụng ơn huệ Chúa ban để tôn vinh Chúa qua đời sống chia sẻ, cảm thông với những mảnh đời bất hạnh.
Có thể bạn là người bệnh tật, hay già nua hãy dâng nỗi đau phần xác của mìh để cầu nguyện cho Giáo hội, hãy cầu cho Giáo hội của Chúa có nhiều thợ lành nghề để mở mang Nước Chúa.
Có thể bạn là người khỏe mạnh, hãy cảm tạ Chúa bằng chính đời sống dấn thân cho tin mừng tùy theo khả năng của mình.
Người ta nói rằng bạn chỉ có thể làm gương sáng nếu biết đặt tình yêu vào công việc của mình. Không có tình yêu sẽ không có những nghĩa cử đẹp cho đời. Không có tình yêu chúng ta sẽ biến môi trường sống cả mình thành một sa mạc khô cằn. Chỉ có trong tình yêu chúng ta mới hết lòng quan tâm, chia sẻ và làm điều gì đó cho tha nhân.
Ước gì chúng ta luôn biết yêu mến Giáo hội, yêu mến công việc của Giáo hội để tùy theo hoàn cảnh chúng ta trở thành chứng nhân cho Nước Chúa. Amen.
Trong tông huấn Ecclesia in Asia, Đức Cố Gioan Hoàng Gioan Phao-lô II đã kêu gọi: “Thiên niên kỷ thứ nhất truyền giáo cho Châu Âu. Thiên niên kỷ thứ hai truyền giáo cho Châu Mỹ. Thiên niên kỷ thứ ba phải truyền giáo cho Á Châu “.
Cách riêng với Giáo Hội việt Nam năm 2003 mừng 470 năm Tin Mừng được rao giảng trên quê hương đất nước chúng ta, các Đức Giám mục Việt Nam đã hưởng ứng lời kêu gọi của Đức Thánh Cha, công bố thư mục vụ mang tựa đề “Sứ Mạng Loan báo TinMừng Của Hội Thánh Việt Nam Hôm Nay” đã khẳng định: “Đầu thiên niên kỷ mới, sứ mạng loan báo Tin mừng được đặc biệt trao vào tay chúng ta. Chúng ta hãy tiếp bước các vị thừa sai đầy nhiệt tình tông đồ, hãy phát huy truyền thống kiên cường của các bậc tiền nhân anh hùng tử đạo. Ta hãy đáp lại kỳ vọng của Hội thánh đem Tin mừng cho anh em trên lục địa mênh mông này. Và đặc biệt đem Tin mừng cho anh chị em sống ngay trên quê hương Việt nam”. (Thư chung 2003)
Hơn nữa, Giáo hội Việt Nam ngày nay là con cháu của 117 vị thánh Tử Đạo và của hàng chục ngàn người Việt Nam đã chết vì đạo. Nhưng gần 5 thế kỷ trôi qua, Giáo hội Việt Nam xem ra vẫn còn bé nhỏ giữa lòng dân tộc Việt nam. Theo thống kê năm 2006 thì Giáo hội việt nam có 26 Giáo Phận, gồm khoảng 7 triệu giáo dân, trên tổng số hơn 80 triệu người Việt Nam, chiếm tỉ lệ 6,62%.
Là người con của dân tộc Việt Nam, là dòng máu các anh hùng Tử đạo Việt Nam chúng ta cần phải có bổn phận loan báo Tin mừng cho chính quê hương, dân tộc của mình. Đạo làm người dạy chúng ta phải “thương người như thể thương thân”, thì đạo làm con Chúa đòi hỏi chúng ta chia sẻ tất cả những gì mình có cho tha nhân, cho đồng loại. Các thánh Tông Đồ, các vị Thừa Sai đã đem niềm vui lớn nhất là Tin mừng Chúa Giêsu được công bố cho toàn thế giới. Các Ngài đã không quản ngại hy sinh tính mạng để đổi lấy niềm vui ơn cứu độ được trao ban tới muôn triệu tâm hồn. “Từng đoàn người vượt suối băng rừng. Từng đoàn người ra khơi giữa biển rộng sóng lớn. Biết bao người bỏ mạng nơi rừng sâu núi thẳm. Biết bao người bỏ xác ngoài biển khơi. Nhưng lớp này nằm xuống, lớp khác đứng lên nối tiếp nhau đem Tin mừng đến tận cùng thế giới”. (Thư chung 2003)
Nhờ các vị thừa sai tràn đầy nhiệt huyết, quê hương Việt Nam đã được đón nhận Tin mừng. Nhờ đời sống đức tin anh dũng của các bậc tiền nhân mà thế hệ chúng ta được thừa hưởng một gia tài đức tin vô cùng quý giá. Gia sản này chúng ta không có quyền lưu giữ cho riêng mình, nhưng phải có bỗn phận chia sẻ cho con người thời đại hôm nay. Chúa Giêsu sau khi phục sinh, Ngài đã uỷ thác cho Hội Thánh nhiệm vụ loan báo tin mừng khi Ngài nói: “Anh em hãy đi tứ phương thiên hạ mà loan báo Tin mừng” (Mc 16,15). Lệnh truyền này đã trở thành sứ mạng chính yếu của Hội Thánh Chúa Ky-tô. Hội thánh hiện hữu là để loan báo Tin mừng và làm cho những ai thành tâm đón nhận Tin mừng trở nên môn đệ Chúa Ky-tô, đồng thời quy tụ cho Thiên Chúa mọi con cái tản mác khắp nơi về một mối (Ga 10,52). Thế nên, là người công dân của Nước Trời, chúng ta phản có bỗn phận chu toàn sứ vụ đó cho anh chị em chung quanh chúng ta, cụ thề là cho chình đồng bào và dân tộc Việt Nam.
Vậy, truyền giáo là gì?
Theo công đồng Vat II: “Việc truyền giáo là tất cả những công tác đặc biệt qua đó các nhà rao giảng Phúc âm được Giáo hội sai đi khắp thế gian, thi hành nhiệm vụ rao giảng Phúc âm và vun trồng Giáo hội nơi các dân tộc cũng như giữa những nhóm người chưa tin vào Chúa”. (TG 6c)
Trước đó, cha Pierre Charles cũng cho rằng: “mục tiêu truyền giáo không phải là cứu rỗi các linh hồn”, hoặc “làm cho dân ngoại trở về với Chúa”…; song là “mở rộng biên cương Giáo hội hữu hình, nhằm hoàn tất tiến trình lớn lên, hầu bao phủ toàn thế giới với lời cầu nguyện và việc phụng tự, tức là để mang cho Đấng Cứu Thế toàn bộ gia sản của Ngài”.
Như vậy, việc truyền giáo là “đưa Thiên Chúa đến với con người và đưa con người trở về với Thiên Chúa”. Đó chính là mục tiêu chính của việc truyền giáo và cũng là sứ mạng cấp bách của Giáo hội Chúa Ky-tô. Vì Giáo hội được hình thành để tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, Đấng sang lập Giáo hội. Khi hoàn tất sứ mạng của mình ở trần gian, Chúa Giêsu đã sai phái các tông đồ tiếp tục sứ mạng đó cho đến tận cùng trái đất. “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sia anh em” (Ga 20, 21″. “Anh em hãy làm chứng cho Thầy khởi đầu từ Giê-ru-sa-lem đến tận cùng trái đất” (Lc 24, 47)
Vì vậy, là người công giáo chúng ta phải có bổn phận mang Tin mừng của Chúa đến cho anh em minh. Hãy tiếp nối sứ mạng của Chúa Ky-tô đưa muôn người đang còn tản mác khắp nơi về với Chúa. Hãy tiếp nối truyền thống của các Thừa sai Việt Nam mang Tin mừng đến cho những anh em nghèo đói, đến những phận người bị bỏ rơi . . # Hãy tiếp nối tinh thần quả cảm hy sinh, kiên cường của các tiền nhân mà mạnh dạn làm chứng cho Chúa, cho dù có bị thua thiệt trước mặt người đời, cho dù có bị hiểu lầm, ngược đãi… nhưng cùng chịu chết với Đức Ky-tô là một mối lợi mà không có một gia sản nào trên trần gian có thể sánh bằng.
Nguyện xin Chúa Giêsu là người thợ lành nghề được sai đến trần gian để gặt lúa của Người, xin giúp chúng con biết dấn thân quảng đại vào cánh đồng truyền giáo Việt Nam hôm nay. Amen.
TRUYỀN GIÁO, MỘT ĐẶC ĐIỂM CỦA LINH MỤC VIỆT NAM THỜI NAY
(Bài giảng thánh lễ Truyền Dầu ngày 28 tháng 3 năm 2002)
Một trong những niềm vui lớn của tôi, khi nhìn giáo phận nhà, là thấy số linh mục tương đối đông, đa số còn trẻ, tất cả đều hợp nhất.
Nói chung, tất cả các linh mục của chúng ta đều có thiện chí làm tốt bổn phận của mình.
Hiện nay, bổn phận linh mục tại Việt Nam nói chúng và tại địa phương chúng ta nói riêng không phải dễ dàng.
Ngoài những bổn phận thông thường vốn đi liền với chức linh mục, thì còn một số bổn phận mới.
Thí dụ bổn phận phải biết khôn ngoan phối hợp những giá trị truyền thống với những đổi mới có giá trị. Để sống đạo được nhìn nhận như một mời gọi hấp dẫn, thăng tiến, chứ không phải như một lối sống khép kín, lỗi thời.
Thí dụ bổn phận phải biết khôn ngoan phối hợp những kiến thức tôn giáo với những kinh nghiệm nội tâm. Để sống đạo được nhìn nhận như một chiều kích thiêng liêng đi sâu vào con người, chứ không phải chỉ là một lý thuyết suông.
Thí dụ bổn phận phải biết khôn ngoan phối hợp giáo lý với thực tế cuộc sống. Để sống đạo được coi như ánh sáng của đương thời, chứ không phải như bóng mờ của một cõi xa xôi, lạnh lùng, huyền ảo.
Nhất là bổn phận phải biết khôn ngoan phối hợp mục vụ và truyền giáo. Để linh mục là người ra khơi thả lưới, chứ không phải chỉ là người chủ chăn.
Riêng về bổn phận trên đây, tôi muốn chúng ta cùng nhau dừng lại, để suy nghĩ thêm. Bởi vì truyền giáo là một trách nhiệm quan trọng, một tiếng gọi bức xúc. Nếu coi thường bổn phận này, tôi sợ chúng ta sẽ phạm một lỗi lầm lớn, đạo sẽ cằn cỗi, bản thân ta sẽ chìm sâu xuống thung lũng vô hình cực kỳ nguy hiểm.
Suy nghĩ truyền giáo của chúng ta sẽ được gợi ý bằng mấy việc truyền giáo của Chúa Giêsu, để từ đó chúng ta sẽ thấy việc truyền giáo có thể thực hiện được trong hoàn cảnh mục vụ hiện nay.
Tôi xin nêu lên ba trường hợp của Chúa Giêsu.
Trường hợp thứ nhất là cuộc gặp gỡ với người phụ nữ Samaria (Ga 4,7-42). Bà này là người ngoại giáo. Do đời sống gia đình lôi thôi, bà sống giữa xã hội như kẻ bị loại trừ. Bà không chủ ý đi gặp Chúa Giêsu. Nhưng
Chúa Giêsu đã như vô tình gặp bà. Bắt đầu là một đối thoại vắn về đời sống, về khổ đau, rồi sau đó Chúa làm một cử chỉ cứu độ. Chúa giúp bà vượt qua ranh giới mặc cảm tội lỗi. Bà tin vào Chúa. Hơn nữa, bà trở thành người đứng đầu một nhóm loan báo Tin Mừng giữa dân ngoại.
Trường hợp thứ hai là cuộc gặp gỡ với vị sĩ quan thành Caphanaum (Ga 4,46-54). Ông là người Rôma ngoại giáo. Ông thuộc lớp người có chức có quyền. Ông xin Chúa chữa con ông đang hấp hối. Cũng sau một đối thoại về khổ đau, Chúa đã làm một cử chỉ cứu độ. Chúa đã giúp ông vượt qua được biên giới phân biệt giai cấp, tôn giáo và dân tộc. Ông tin vào Chúa. Hơn nữa, ông trở thành người đứng dầu một nhóm loan báo Tin
Mừng giữa giai cấp chức quyền.
Trường hợp thứ ba là cuộc gặp gỡ với người bại liệt (Ga 5,1-18). Anh này sống chung với một đám người tật bệnh nghèo khổ. Đã 38 năm anh nằm một chỗ cô đơn, lầm lũi trên bờ hồ Bết-da-tha. Anh là kẻ bị xã hội loại trừ. Chính Chúa đã chủ động đến gặp anh. Cũng bắt đầu bằng một đối thoại về khổ đau, sau đó là cử chỉ cứu độ. Chúa đã giúp anh vượt qua biên giới cùng khổ. Anh tin vào Chúa. Hơn nữa, anh trở thành người đứng đầu một nhóm nhỏ loan báo Tin Mừng ngay giữa những người phản đối Chúa.
Ba trường hợp trên đây gồm một người ngoại đạo trong cảnh bê bối, một người quyền chức trong cảnh khó khăn, một người tật bệnh trong cảnh khốn cùng tuyệt vọng. Chúa đã gặp họ, đã nói chuyện với họ về các vấn đề thuộc về cuộc sống, rồi đã làm cho họ một việc cứu độ.
Tôi thấy các loại người như thế hiện nay vẫn còn rất nhiều trong xã hội chúng ta. Nhiều người công giáo đã gặp họ. Cũng đã có những chuyện trò về cuộc sống, về khổ đau, rồi trong lúc thuận tiện đã có những cử chỉ cứu độ. Kết quả rất bất ngờ: Nhiều người trước đây xa lạ nay nhận được Tin Mừng. Sau đó, chính họ gây dựng nhiều nhóm nhỏ để bàn về Tin Mừng và loan báo Tin Mừng. Có nhóm trong khuôn khổ giáo xứ. Có nhóm ngoài cơ chế giáo phận.
Tất cả những gì tôi vừa nêu trên đều làm chứng rằng: Trong mục vụ có vô số cơ hội để truyền giáo. Hơn nữa, trong sống đạo cũng có vô số dịp để làm việc truyền giáo. Linh mục làm, tu sĩ làm, giáo dân cũng làm. Thậm chí người ngoại giáo cũng làm. Làm qua những nẻo đường cuộc sống. Làm qua những vấn đề bức xúc của con người. Nếu không làm thì thiết tưởng không phải không có dịp để làm, nhưng là không có nhiệt tâm và tỉnh thức.
Như thế, điều quan trọng trong truyền giáo là người truyền giáo phải có hồn truyền giáo. Hồn đầy lửa mến Chúa. Hồn đầy lửa thương người.
Lửa đó là lửa từ trái tim Chúa chia sẻ ra. Lửa đó được chia sẻ cho những hồn khiêm tốn, từ bỏ mình, thiện chí muốn gieo trồng sự thiện.
Lửa đó là lửa thanh luyện, lửa cầu nguyện, lửa canh thức, lửa thương cảm, lửa cháy trong thánh giá.
Nhờ lửa như thế, người truyền giáo mới gần gũi được với con người, mới thương cảm được với thân phận từng người, mới hiểu được các vấn đề luôn mới trong dòng lịch sử đầy chuyển biến của xã hội và con người. Nhờ vậy, mà họ là người đáng tin. Đồng bào Việt Nam thời nay không còn dễ tin vào những người nói mạnh nói khéo. Nhưng họ tin vào những người có cái tâm yêu thương, chân thành, khiêm tốn, vừa sâu về đời sống thiêng liêng, vừa cởi mở thông cảm về phía con người.
Với vài suy nghĩ trên đây, tôi xin anh chị em cầu nguyện cho Hội Thánh Việt Nam được trở thành một Hội Thánh truyền giáo. Xin hãy cầu nguyện cách riêng cho các linh mục của chúng ta, để mọi linh mục và từng linh mục, bất cứ trong chức vụ nào, ở tuổi nào, với hoàn cảnh nào, luôn coi bổn phận truyền giáo là một trách nhiệm mà Chúa đòi phải chu toàn. Chu toàn một cách khôn ngoan theo ý Chúa. Mình có trách nhiệm thì cố gắng chu toàn. Còn kết quả ra sao thì hãy để mặc Chúa. Chúng ta cần nâng đỡ các linh mục của chúng ta trong bổn phận truyền giáo. Bởi vì công việc truyền giáo thường được bắt đầu từ các ngài và được phát triển cũng nhờ các ngài.
Chớ chi thời nay truyền giáo trở thành một đặc điểm sáng chói của mọi linh mục tại Việt Nam chúng ta.
ĐỨC MARIA, MẪU GƯƠNG TRUYỀN GIÁO
Đôi khi tôi tự hỏi, tại sao Chúa Nhật Truyền Giáo lại được nhắc trong tháng Mân Côi, tháng dâng kính Đức Mẹ, cùng với Đức Mẹ chiêm ngắm tình thương của Thiên Chúa, bằng những tràng chuỗi đơn sơ và thành kính nhất qua lối cầu nguyện theo Tin Mừng. Những dòng suy niệm này trả lời cho tôi câu hỏi đó.
Những trang Tin Mừng về Đức Maria thật là phấn khởi cho trần thế chúng ta. Có một người phụ nữ, mang trọn vẹn sứ điệp Tin Mừng của Thiên Chúa vào trong lòng nhân thế. Nhân loại vui mừng bởi sự đón nhận này của Mẹ Maria, “để từ nay mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”. Thiên Chúa đã làm cho Mẹ những kỳ công lớn lao nơi Mẹ và còn làm những điều lớn lao ấy cho nhiều tâm hồn nhân thế chúng ta.
Sự chuẩn bị một tâm hồn vô tì tích là sự chuẩn bị của Thánh Thần, Chúa Thánh Thần thực hiện nơi Đức maria những điều lớn lao, bởi Mẹ là người đã để Chúa Thánh Thần hoạt động và làm phát sinh hoa trái của Người. “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ ngự xuống trên Bà” (Lc 1, 35), hoa trái của Chúa Thánh Thần là hoan lạc và bình an. Mẹ đã mang hoan lạc và bình an của Thiên Chúa cắm rễ vào trong trái đất. Maria, công trình tuyệt diệu của Chúa Thánh Thần, nhân thế có một con người được Chúa Thánh Thần chuẩn bị cho sự toàn vẹn để xứng đáng đón nhận Đức Giêsu, Con thiên Chúa vào trong lòng nhân thế, lịch sử đã đổi hướng đi về nguồn ơn cứu độ, về niềm vui của Thiên Chúa đã hứa từ ngàn xưa, và trở nên hiện thực trong sự cưu mang này. Đức Maria trở nên người diễm phúc là nhờ sự chuẩn bị của Chúa Thánh Thần, Chúa Thánh Thần có thể làm cho con người tội nhân của Eva cũ, xuất hiện một Eva mới vô tì tích, trong trắng đẹp lòng trước mặt Thiên Chúa. Maria, công trình của Chúa Thánh Thần thực hiện cho nhân loại.
Maria, là người Mẹ truyền giáo đúng nghĩa nhất, bởi sự tinh tuyền của Mẹ, bởi Mẹ là kỳ công của Chúa Thánh Thần hoạt động trên trái đất này. Mẹ đã đón nhận Con Thiên Chúa cho thế gian và đưa Con Thiên Chúa vào trong thế gian và đó là Tin Mừng đúng nghĩa nhất cho trần thế. Từ nay, nhân loại nhận ra rằng: Sứ vụ truyền giáo là sứ vụ của người mang tin vui, tin cứu độ, tin được Thiên Chúa đoái thương. Đức Giêsu Con lòng Mẹ, một Người Con của nhân loại, một người Con của Thiên Chúa là nguồn ơn cứu độ, suối trào niềm vui cho nhân thế.
Người loan báo Tin Mừng là người được Chúa Thánh Thần tác động cách đặc biệt trên cuộc đời của họ. “Đức Maria lên đường vội vã” (Lc 1, 39). Sự vội vã của con người mang niềm vui khôn tả, thúc đẩy mau mắn lên đường, nhắc lại hình ảnh xưa Isaia đã tiên báo: “Đẹp thay trên núi đồi bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ và nói với Sion rằng: “Thiên Chúa ngươi là vua hiển trị” ”. (Is 52, 7). Đức Maria mang trọn niềm vui Đấng Cứu Độ mà nhân loại đón đợi, không thể không vui và niềm vui chất ngất, thúc đẩy lên đường loan báo tin vui. Nếu trong lòng tôi và trong lòng bạn mang niềm vui ngập tràn như thế tôi và bạn cũng sẽ vội vã lên đường loan báo. Đức Maria trở nên người loan báo Tin Mừng đúng nghĩa bởi vì Mẹ mang trọn niềm vui Chúa Thánh Thần. Ai để cho Chúa Thánh Thần hoạt động trong cuộc đời của mình cũng là người mang trọn niềm vui loan báo.
Không chỉ là loan báo mà thôi, Đức maria còn là người công bố Tin Mừng. Người công bố là người đã xác tín một cách chắc chắn về những gì Thiên Chúa đã làm cho mình. Đức Maria đã nghiệm thấy như thế trong cuộc đời của Mẹ: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn” (Lc 1, 49). Thấy được tình thương Thiên Chúa thể hiện trong cuộc đời mình, người loan báo sẽ đi xa hơn nữa để, công bố Tin Mừng Thiên Chúa đã làm cho mình. Sự công bố mang một niềm tin xác tín, đã gặp và đã thấy. Sứ vụ loan báo Tin Mừng hôm nay, cần chứng nghiệm nơi người loan báo Tin Mừng như thế, bởi vì người ta đang cần chứng nhân hơn thày dạy. Đức Maria nhận ra bàn tay Toàn Năng của Thiên Chúa thực hiện trong cuộc đời của Mẹ, nên Mẹ là người công bố sứ điệp chắc chắn về Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa cho nhân loại.
Niềm xác tín của Đức Maria mang một chiều kích rất riêng tư, nhờ Mẹ đã “hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 3, 51). Cầu nguyện là chiêm ngắm những điều Thiên Chúa đã thực hiện nơi mình, là cuộc trao đổi, đối thoại giữa nhưng khó khăn, thử thách. Đức Maria trở thành người công bố Tin Mừng, bởi Mẹ đã chiêm ngắm công trình của Thiên Chúa thực hiện cho dân tộc, cho chính Mẹ. Sự chiêm ngắm, đối thoại dẫn đến một xác tín riêng tư chắc chắn để đi đến một công bố cho muôn người. Con đường cầu nguyện của Đức maria đã đi qua là con đường mời gọi những người truyền giáo hôm nay thực hiện.
Truyền giáo không là công cuộc cày xới những mảnh đất hoang, cũng không là công cuộc cải đạo cho những người khác niềm tin. Đối với Đức Maria truyền giáo có nghĩa là đem chính Đức Giêsu cho nhân loại. Đức Giêsu có là niềm vui cho bạn không? trước khi là niềm vui công bố cho người chung quanh bạn, trở lại niềm xác tín này chúng ta trở lại niềm xác tín của Đức Maria, khi Mẹ xác tín: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (Lc 1, 46). Tràn ngập niềm hân hoan bởi Mẹ đã gặp thấy và cưu mang chính niềm vui của Đức Giêsu trong lòng Mẹ. Đức Maria không mang niềm vui nào khác ngoài niềm vui: “Thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1, 47). Niềm vui của Thiên Chúa trong ngày Thiên Chúa đoái thương, ngày nào không là ngày Thiên Chúa đoái thương, nhưng đôi lúc chúng ta lại quên mất cảm nghiệm thực sự điều này, để rồi sứ vụ truyền giáo của mỗi thành viên chúng ta cứ hoài dang dở. Đức Maria đã mang chính Đức Giêsu, quà tặng tuyệt hảo nhất của Thiên Chúa, nguồn ơn cứu rỗi duy nhất, công bố, trao tặng cho nhân loại.
Dù là người loan báo, dù là người công bố Tin Mừng đi chăng nữa, Đức Maria luôn đặt mình dưới sự bảo trợ hoạt động của Chúa Thánh Thần. Không thể tách rời Đức Maria khỏi hoạt động của Chúa Thánh Thần, Đức Maria là công trình tuyệt hảo của Chúa Thánh Thần. Dù Đức Maria có được như thế nào chăng nữa, Mẹ cũng luôn đặt mình trong tâm khảm của người: “phận nữ tỳ hèn mọn, Người đã đoái thương nhìn tới” (Lc 1, 48). Người truyền giáo cũng thế, không thể tách rời Chúa Thánh Thần với hoạt động của mình được. Ai có thể chinh phục sự sâu thẳm của lòng người quy hướng về Thiên Chúa, nếu đó không phải là tác động của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần mời gọi con người theo nhiều nẻo đường khác nhau, để quy tụ cho Thiên Chúa một Dân được hiến thánh. Chúng ta là những dụng cụ Thiên Chúa dùng, và hãy đặt cuộc đời mình vào bàn tay của Thiên Chúa.
Không có công trình nào là thua mất cả với ánh mắt nhìn đức tin của Đức Maria, đôi khi gặp những người cứng cỏi quá sức, hãy phó dâng cho Thiên Chúa, như người gieo giống chỉ biết chờ đợi cho hạt giống nảy mầm. Đức Maria đã thấy nghiệm điều này trong cuộc đời của Mẹ: “Chúa biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng” (Lc 1, 51). Chúng ta cần biết chờ đợi điều Thiên Chúa sẽ cho mọc lên, sự chờ đợi là một bài học cuối kết thúc cho sứ vụ truyền giáo chúng ta học nơi Đức Maria.
Kính dâng Mẹ những suy nghĩ này, bởi hơn ai hết Mẹ là vị Thày tốt nhất dạy chúng con sống sứ vụ truyền giáo.
Một đạo sĩ hỏi các đệ tử: Các con có biết khi nào đêm tàn và ngày xuất hiện, khi nào ánh sáng tới và bóng tối lui đi không? Các đệ tử thi nhau trả lời: Thưa thầy, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện là khi từ xa nhìn một đoàn vật người ta có thể phân biệt được con nào là con bò con nào là con trâu không? Thày lắc đầu: không phải. Đệ tử khác trả lời: Thưa thầy có phải ánh sáng tới và bóng tối lui là khi từ xa nhìn vào vườn cây, người ta có thể phân biệt được cây nào là cây xoài cây nào là cây mít không? Thầy vẫn lắc đầu: không phải. Thấy không ai trả lời được, thầy mới giải nghĩa: Đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là khi nào ta nhìn vào mặt người xa lạ và nhận ra đó là anh em mình.
Thật là khó hiểu. Tuy trên đời ta thấy có nhiều thứ ánh sáng. Có ánh sáng mặt trăng mặt trời. Có ánh sáng đèn dầu, đèn điện. Có những ánh sáng như tia X, tia hồng ngoại. Nhưng tất cả những ánh sáng đó chỉ giúp ta nhìn rõ sự vật. Không thấy có thứ ánh sáng nào soi vào mặt người xa lạ mà biến người ấy thành người thân của mình.
Mẹ Têrêxa dường như đã tìm ra thứ ánh sáng ấy. Mẹ là một nữ tu người Anbani, được sai đến phục vụ người nghèo tại Ấn Độ, thấy người nghèo khổ quá tội nghiệp. Biết bao người hấp hối ngoài lề đường. Chết rồi xác bị quẳng vào đống rác như xác thú vật. Biết bao trẻ thơ bị bỏ rơi. Biết bao gia đình chui rúc trong các căn nhà ổ chuột. Biết bao người đói khát không đủ cơm ăn áo mặc. Mẹ lăn xả vào phục vụ người nghèo.
Một hôm Mẹ đi thăm một ông già cô đơn trong căn lều tồi tàn. Bước vào lều Mẹ phải động lòng thương cảm. Vì tất cả đồ đạc chỉ là một mớ giẻ rách. Căn lều bụi bặm bẩn thỉu ngoài sức tưởng tượng. Và nhất là ông già thu mình lại không muốn giao tiếp với ai. Mẹ chào hỏi ông cũng không thèm muốn trả lời. Mẹ xin phép dọn dẹp căn lều ông cũng làm thinh. Đang khi dọn dẹp, Mẹ thấy trong góc lều có một cây đèn dầu bụi bám đen đủi. Sau khi lau chùi, Mẹ kêu lên: Ô, cây đèn đẹp quá. Ông già nói: Đó là cây đèn tôi tặng vợ tôi ngày cưới. Từ khi bà ấy chết, tôi không bao giờ đốt đèn nữa. Thấy ông đã cởi mở, Mẹ Têrêxa đề nghị: Thế ông có bằng lòng cho các chị nữ tu mỗi ngày đến thăm và đốt đèn cho ông không? Ông đồng ý. Từ đó mỗi buổi chiều, các chị tới thăm ông, dọn dẹp nhà cửa, nói chuyện với ông. Ngọn đèn ấm áp trong căn lều ấm cúng. Ông trở nên vui vẻ hơn. Ông đi thăm mọi người. Mọi người đến thăm ông. Cuộc đời ông vui tươi trở lại.
Trước kia cuộc đời ông tăm tối không phải vì ông không thắp đèn. Nhưng vì ngọn đèn trong trái tim ông đã tắt. Trái tim khép kín nên ông mất niềm tin vào con người, vào cuộc sống. Ông nhìn mọi người như thù địch. Từ ngày các nữ tu đến đốt đèn đời ông vui lên, sáng lên. Đời ông sáng lên không phải vì có ngọn đèn dầu hỏa soi sáng. Nhưng vì trái tim ông bừng sáng. Ngọn đèn tâm hồn ông rạng rỡ. Tâm hồn ông cởi mở và ông nhìn thấy mọi người là anh em. Thứ ánh sáng ấy ta thấy trong Phúc âm, khi người Samaritanô nhân hậu cúi xuống săn sóc, băng bó vết thương cho người bị nạn bên đường. Hai người nhìn nhau. Một làn ánh sáng lóe lên. Và họ nhận ra nhau là anh em.
Cứ như thế Mẹ Têrêxa miệt mài phục vụ người nghèo. Lập những trung tâm đón tiếp những người hấp hối, săn sóc để họ được chết, được chôn cất như một con người. Nuôi trẻ mồ côi. Xây bệnh viện. Xây trường học. Công việc càng ngày càng mở rộng. Số người theo Mẹ ngày càng đông và Mẹ lập dòng Nữ tử Thừa sai Bác ái chuyên phục vụ người nghèo. Hiện nay nhà dòng đã có mặt trên 132 quốc gia. Mẹ được thế giới biết tiếng. Mẹ được nhiều giải thưởng trong đó có giải Nobel Hòa bình. Năm 1997, khi Mẹ qua đời, 80 nguyên thủ quốc gia, trong đó có phu nhân tổng thống Mỹ Bill Clinton và phu nhân tổng thống Pháp Jacques Chirac đã đến dự đám tang. Và nước Ấn Độ, đa số dân theo Ấn Độ giáo, vốn không ưa đạo Công giáo, đã chôn cất Mẹ theo nghi thức quốc tang. Hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh hồn Mẹ về trời.
Mẹ Têrêxa là một nhà truyền giáo thành công của thế kỷ 20. Vì Mẹ đã biết thắp lên ngọn đèn soi trong đêm tối. Giữa đêm tối vật chất hưởng thụ. Mẹ đã thắp lên ngọn đèn siêu nhiên của thiên đàng. Giữa đêm tối rụt rè nghi kỵ Mẹ đã thắp lên ngọn đèn ấm áp tình người. Trái tim Mẹ là một ngọn đèn sáng. Ánh sáng ấy tỏa lan tới muôn người làm cho mọi người nhận biết khuôn mặt hiền lành khiêm nhường của Đức Kitô và làm cho mọi người nhìn nhau là anh em.
Vào thời Cộng sản còn mạnh và còn chống đối Công giáo kịch liệt, Mẹ Têrêxa vẫn có thể lập nhà ở Nga, ở Cuba và cả ở Việt Nam. Với tấm lòng bác ái, Mẹ đã có thể đi khắp thế giới như lời Chúa truyền. Với tấm lòng bác ái, Mẹ đã chiếu tỏa ánh sáng Tin Mừng khắp thế giới.
Hôm nay Giáo hội cầu nguyện cho việc truyền giáo. Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta góp phần vào việc truyền giáo. Không gì bằng ta hãy noi gương Mẹ Têrêxa, thắp lên ngọn lửa tin yêu trong lòng mình, đem ngọn lửa yêu thương phục vụ soi sáng khắp nơi. Thế giới sẽ bừng sáng và mọi người sẽ nhìn nhận nhau là anh em.
Truyền giáo là nhiệm vụ của mọi Kitô hữu. Đây là điều công đồng Vaticanô II nhắc đi nhắc lại nhiều lần: việc rao giảng Tin Mừng là bổn phận chính yếu. Bổn phận căn bản của Giáo hội và mỗi Kitô hữu. Công đồng đã làm nổi bật vấn đề truyền giáo và đã định nghĩa Giáo hội là Giáo hội truyền giáo và coi việc truyền giáo là nghĩa vụ tông đồ của mỗi Kitô hữu. Theo công đồng, không một tín hữu nào đáng gọi là tín hữu mà có thể khước từ nhiệm vụ truyền giáo. Việc truyền giáo không thể là một việc tùy sở thích, nhưng mỗi tín hữu phải coi đây là vấn đề sống đạo, vấn đề sinh tồn của Giáo hội và là trách nhiệm của chính mình.
Đối với người giáo dân, qua sắc lệnh về tông đồ giáo dân. Công đồng còn cho thấy vai trò quan trọng của người giáo dân trong việc truyền giáo, vai trò là men, là muối, là ánh sáng, là chứng nhân giữa đời. Bởi vì giáo sĩ không thể sống chân bùn tay lấm nơi đồng ruộng với những nông dân; giáo sĩ không thể gồng gánh theo chân những người buôn bán đi vào đầu đường xó chợ; giáo sĩ không thể đầu tắt mặt tối làm việc trong những cơ xưởng, nhà máy, công trường… nhưng chính những giáo dân nhà nông, những giáo dân buôn bán, những giáo dân công nhân, có nhiệm vụ đem Chúa đến cho anh em mình nơi đồng ruộng, chợ búa, xí nghiệp, nhà máy, nghĩa là những nơi mà giáo sĩ không thể có mặt và không thể đi đến, thì giáo dân sẽ đóng vai trò chủ chốt và chủ động. Bởi đó, không những giáo dân đóng vai trò yểm trợ cho giáo sĩ mà còn đóng vai trò chính yếu, thay thế cho giáo sĩ trong những nơi hay những hoàn cảnh đó.
Như vậy cách truyền giáo tốt nhất và có hiệu quả nhất là đời sống gương mẫu, đời sống Công giáo đích thực, nhất là đời sống thể hiện tình yêu thương của chúng ta. Nếu chúng ta sống thực sự yêu thương thì không ai đánh giá sai lầm về đạo, khi chúng ta chứng minh tình yêu bằng đời sống tốt thì chúng ta thực sự trở nên những bạn tốt, những công nhân gương mẫu trong nhà máy, những công nhân gương mẫu ngoài công trường. Tóm lại, chúng ta hãy nắm lấy những cơ hội đi lại đây đó, khi thi hành công tác, khi làm ăn sản xuất, khi xê dịch thăm viếng… để nói hay làm chứng về Chúa qua lời nói, thái độ và cách đối xử đầy tình yêu thương của chúng ta.
Mẹ Têrêxa Cancutta đã định nghĩa về một nhà truyền giáo như sau: đó là “một tín hữu Kitô say mê Chúa Giêsu đến độ không có một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi người nhận biết và yêu mến Ngài”. Mẹ Têrêxa không chỉ làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu bằng những lời nói suông, nhưng Mẹ nói về Chúa Giêsu, Mẹ tỏ bày gương mặt của Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống yêu thương phục vụ của Mẹ. Do đó, truyền giáo thiết yếu đối với Mẹ Têrêxa là dùng cả cuộc sống của mình để làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu, truyền giáo không chỉ là rao giảng một giáo lý mà thiết yếu là chia sẻ một cuộc sống yêu thương.
Có người đã kể lại lý do và động lực thúc đẩy ông theo đạo như sau: “Tôi đau rất nặng, người ta đưa tôi vào bệnh viện, không ai chăm sóc tôi cả ngoài một chị y tá, chị tỏ ra rất tốt và tận tình giúp đỡ tôi. Một đêm kia, trời đã rất khuya, tôi thấy chị quỳ gối im lặng trong phòng, tôi hỏi: “Chị quỳ làm gì thế?”. Chị trả lời: “Tôi cầu nguyện cho ông”. Chỉ mấy tiếng đó thôi đủ làm cho tôi bấy lâu không biết Chúa, bây giờ được biết Chúa, tôi thấy Chúa nơi người chị y tá ấy. Giữa những đau khổ thể xác và tinh thần, nhờ sự săn sóc đầy tình người và những lời cầu nguyện đầy yêu thương của chị y tá ấy, tôi đã gặp Chúa”.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy gương sáng và tình yêu thương là bằng chứng cho người ta nhận ra Thiên Chúa. Có nhiều người không bao giờ thấy chúng ta cầu nguyện sốt sắng ở nhà thờ, vì họ có đạo đâu mà đến nhà thờ, nhưng họ thấy cách chúng ta biểu lộ tình thương với họ hay với những người chung quanh mà họ nhận ra Thiên Chúa của tình yêu. Nếu chúng ta sống thực sự yêu thương thì không ai đánh giá sai lầm về đạo Chúa, khi chúng ta chứng minh tình yêu bằng đời sống tốt thì chúng ta thực sự trở nên những người bạn tốt của nhau.
Trong thư mục vụ năm 2003 của các giám mục Việt Nam, số 10 cũng nói đến cách truyền giáo này: cầu nguyện cho việc truyền giáo là việc quan trọng hàng đầu, việc truyền giáo phải đặt nền tảng trên lời cầu nguyện: cá nhân, gia đình, cộng đoàn, giáo xứ. Trước khi rao giảng bằng lời nói, hãy rao giảng bằng đời sống, chúng ta hãy nêu gương về đời sống hiệp nhất yêu thương, không có lời rao giảng nào có sức thuyết phục bằng sự hiệp nhất yêu thương trong gia đình, xóm làng, trong giáo xứ, trong giáo phận, như lời Chúa phán: “Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết anh em là môn đệ của Thầy, ấy là nếu anh em thương yêu nhau”.
Tóm lại, ngày thế giới truyền giáo hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy luôn ý thức về sự quan trọng của việc truyền giáo và nhắc nhở chúng ta hãy góp phần mình vào công cuộc truyền giáo của Giáo hội bằng việc cầu nguyện và bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
“Mỗi người ở ngoài Chúa là một cánh đồng truyền giáo, và mỗi người ở trong Chúa là một nhà truyền giáo”. Câu nói trên rất đúng và cũng rất hay.
“Mỗi người ở ngoài Chúa là một cánh đồng truyền giáo”. Điều đó rất đúng. Như vậy, cánh đồng truyền giáo vẫn còn bao la, mênh mông. Mặc dầu Tin Mừng đã được loan truyền và đạo Chúa đã được thiết lập cả hai ngàn năm rồi mà số đông vẫn chưa được nghe biết Tin Mừng, hay nói ngược lại, chưa được một phần ba nhân loại nhận biết Chúa Kitô. Với đà gia tăng dân số kinh khủng hiện nay, thì một ngày kia số ngày tin theo Chúa sẽ trở thành thiểu số đáng ngại.
Các nước được mệnh danh là “Công giáo” như Tây Ban Nha, Pháp, Ý… có tới 70-80 phần trăm dân số được rửa tội, nhưng được mấy chục phần trăm sống theo đức tin? Từ hơn nửa thế kỷ rồi, ngay giữa Âu Châu đã vang lên những lời cảnh tỉnh: “Nước Pháp, xứ truyền giáo”. Nước Pháp mà còn gọi là xứ truyền giáo thì nói gì đến những xứ truyền giáo chính hiệu như ở Á Châu, Phi Châu. Hai nước có dân số lớn nhất nhì thế giới là Trung Quốc và An độ, chỉ có không tới một phần trăm là Công giáo. Nếu đat nước chúng ta đã thấm nhiều máu tử đạo và đang có một cộng đồng Công giáo tương đối đông đảo, thì sát cạnh nước chúng ta, hai nước Lào và Campuchia kể như vẫn chưa được rao giảng Tin Mừng.
Ngay tại Việt Nam chúng ta, tính đến ngày 31-12-2004, số người Công giáo trên toàn quốc là 5.776.972 người trên tổng số dân cả nước là 82.032.300 người, chiếm tỷ lệ khoảng 7,04% dân số. Việt Nam vẫn còn là xứ truyền giáo, và việc truyền giáo vẫn luon là vấn đề cấp bách. Chính vì sự cấp bách đó nên Giáo Hội luôn luôn cổ võ tinh thần truyền giáo, nhất là trong những văn kiện gần đây của Công đồng Vaticanô II cũng như của các Đức Giáo Hoàng. Cũng nhằm mục tiêu đo, mỗi năm Giáo Hội dành riêng một Chúa Nhật để cầu cho công cuộc truyền giảng Tin Mừng, kêu gọi các tín hữu cầu nguyện, hy sinh, đóng góp, đồng thời thúc giục mọi người tham gia vào công cuộc cao quý vĩ đại ấy.
Truyền giáo là bổn phận của mọi người và mỗi người, việc truyền giáo không của riêng ai, và không phải là một việc làm tùy sở thích, muốn làm hay không cũng được, đây là một bổn phận, một nhiệm vụ bắt buộc, không ai có quyền trốn tránh và không ai có lý do nào tự miễn chuẩn cho mình hay tự bào chữa cho mình được. Từ một em bé đến một cụ già, từ một bệnh nhân đến một lực sĩ, từ một người buôn bán đi khắp đó đây đến một người nội trợ, từ một người bình dân đến một người trí thức… trong mỗi hoàn cảnh sinh sống, ai cũng phải truyền giáo, người nào cũng có thể tìm thấy cách thức truyền giáo thích hợp với khả năng của mình. Do đó, “Mỗi người ở trong Chúa là một nhà truyền giáo”, câu nói đó rất đúng, mỗi người chúng ta phải là một nhà truyền giáo.
Đành rằng không phải ai cũng có thời giờ hoặc khả năng làm công việc truyền giáo trực tiếp, nhưng tất cả mọi người đều có thể và phải thực hiện cách gián tiếp. Chẳng hạn, cầu nguyện cho việc truyền giáo; đóng góp vào việc truyền giáo bằng những hy sinh; bớt tiêu xài một chút trong gia đình hay cho cá nhân mình để đóng góp vào công cuộc truyền giáo, nhưng trên hết là truyền giáo bằng đời sống chứng nhân. Đây là cách truyền giáo tốt nhất và hữu hiệu nhất: Truyền giáo bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta, một đời sống đạo đức chân thành, cởi mở, yêu thương là một tấm gương sáng trước mặt mọi người.
Cách đây ít năm, có một cuốn Phim Việt Nam gây được nhiều chú ý ở ngoại quốc là phim “Chuyện Tử tế” của đạo diễn Trần văn Thuỷ, phim được hãng truyền hình Pháp mua và trình chiếu trong chương trình có tên là Đại Dương. Sau khi xem cuốn phim này, một ký giả ngoại quốc đã hỏi đạo diễn Trần văn Thuỷ: “Những người Kitô Việt Nam có thể làm gì để truyền giáo cho dân tộc họ?” Nhà đạo diễn đã trả lời: “Với tôi, điều người ta mong đợi ở các Kitô-hữu là niềm tin của họ và họ phải sống điều họ tin”. Lời phát biểu trên đáng để chúng ta suy nghĩ. Sống trong một đất nước còn nhiều khó khăn, sống trong một dân toc còn nhiều người chưa biết Chúa, sống trong một xã hội còn nhiều tiêu cực, thì đối với người Kitô, tin và sống niềm tin của mình là phải sống, phải tin thật tử tế, tức là tin và sống tình nhân loại, sống quảng đại, tom lại là sống tình người. Tin và sống như thế không phải chỉ là cách sống dành cho các nữ tu, các linh mục mà cũng chính là sứ mạng và ơn gọi của mỗi Kitô hữu.
Trong Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu không chỉ sai 12 tông đồ đi rao giảng nhưng Ngài sai tất cả 72 môn đệ. Điều này có nghĩa là việc rao giảng Tin Mừng không phải chỉ dành cho một số thành phần trong Giáo Hội: Giám mục, linh mục, tu sĩ, nhưng là bổn phận của mọi người và mỗi người. Điều đáng chú ý nữa là khi sai các môn đệ đi rao giảng, Chúa Giêsu không mấy chú trọng đến phương tiện. Phương tiện mà Chúa trao cho họ là đừng mang theo túi tiền, bao bị gì cả, phương tiện duy nhất và tiên quyết là đem lại bình an cho mọi người, là sống chia sẻ, sống trọn tình người với họ. Tóm lại là sống tử tế với mọi người.
Sống tử tế là sống vui tươi, sống lạc quan, sống biết điều, sống lịch sự, sống cảm thông, sống yêu thương với mọi người, sống như thế là chúng ta đang góp phần làm cho danh Chúa được cả sáng và nước Chúa được trị đến, tức là chúng ta đang truyền giáo vậy.
Hôm nay, ngày thế giới truyền giáo. Chúng ta cùng tìm hiểu xem: Truyền giáo là gì? Chúng ta phải truyền giáo thế nào?
Trước hết, truyền giáo là gì? Truyền là truyền bá, truyền thông, chuyển giao, rao giảng, loan truyền… Giáo là giáo lý, đạo giáo, Tin Mừng, Phúc âm… Truyền giáo là truyền bá đạo, là rao giảng Phúc âm, là loan truyền chân lý của Chúa cho người khác. Đó là ý nghĩa thứ nhất, nghĩa hẹp, nghĩa chặt và chính xác. Đàng khác, truyền giáo còn có nghĩa là lập những cộng đoàn Kitô hữu trong đức tin, trong phụng tự Thánh Thể, bác ái như Giáo hội mong muốn. Nói khác đi, truyền giáo là “trồng” Giáo hội vào các dân tộc, các địa phương, cho đến khi những người trong địa phương ấy trở nên tín hữu, thành một đoàn chiên. Theo ý nghĩa này, truyền giáo không phải chỉ là truyền bá một số giáo lý, nhưng là truyền thông sự sống của Chúa cho anh em khác, vì Thiên Chúa là Đấng hằng sống, đạo Chúa là đạo sự sống, là nguồn sống, có khả năng thay đổi, biến cải những con người từ không có Chúa trở thành có Chúa, từ mất Chúa trở thành tìm lại được Chúa. Truyền giáo theo nghĩa này là truyền sự sống của Chúa Kitô mà chúng ta đã có sang cho anh em mình, như thân cây nho chuyển nhựa sống sang cho cành nho. Sau hết, truyền giáo còn có một nghĩa nữa là củng cố, tăng cường, huấn luyện đức tin cho một cộng đoàn, cho các tín hữu, để họ lại ra đi truyền giáo cho những người khác.
Những ý nghĩa trên đây cho thấy hai chiều của việc truyền giáo: chiều rộng và chiều sâu. Nếu làm cho những người chưa biết Chúa hoặc những người biết mà đã bỏ Chúa, được nhận biết và yêu mến Chúa. Đó là truyền giáo theo chiều rộng, là mở rộng nước Chúa và làm tăng thêm số người thờ phượng Chúa. Còn nếu làm cho những người đã biết và yêu mến Chúa được hiểu biết và yêu mến Chúa hơn, để rồi họ lại tiếp tục làm những công việc ấy nơi những người khác. Đó là truyền giáo theo chiều sâu, vì làm cho nước Chúa được vững chắc hơn và làm tăng thêm số người Công giáo sốt sắng, đạo đức.
Việc phân biệt ý nghĩa như trên đây rất quan trọng để chúng ta hiểu rõ hơn việc truyền giáo, vì truyền giáo không phải chỉ có nghĩa là làm cho những người ngoại, những người lương, những người chưa biết được biết và yêu mên Chúa, nhưng còn có nghĩa là truyền giáo cho cả những người Công giáo sống trong một họ, một xứ với chúng ta nữa. Chúng ta phải sống một đời đạo đức, sốt sắng, thánh thiện để làm gương tốt cho họ, để giúp cho họ thêm lòng yêu mến và tôn kính Chúa.
Đó là ý nghĩa của việc truyền giáo. Và như vậy tất cả chúng ta đều có nhiệm vụ truyền giáo. Việc truyền giáo không của riêng ai và không phải là một việc làm tùy sở thích, muốn làm hay không cũng được. Nhưng đây là một bổn phận, một nhiệm vụ bắt buộc. Mỗi người chúng ta phải coi đây là vấn đề sống đạo, là vấn đề sinh tồn của Giáo Hội và là trách nhiệm của chính mình.
Vậy chúng ta phải truyền giáo thế nào? Có rất nhiều cách. Chúng ta muốn dùng cách nào cũng được, nhưng nhất thiết phải thi hành hai cách này là cầu nguyện và đời sống chứng nhân: Cầu nguyện cho việc truyền giáo là cách thức rất quan trọng: cầu nguyện cho những người đi truyền giáo, cầu nguyện cho mọi người mở rộng lòng sẵn sàng đón nhận ơn Chúa, Lời Chúa. Cụ thể như thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, cả đời không đi đâu truyền giáo, chỉ ở trong bốn bức tường dòng kín cầu nguyện cho việc truyền giáo. Thế mà Giáo Hội đã tôn phong ngài là quan thầy các nơi truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê. Xin anh chị em hãy suy nghĩ: Chúng ta có thường xuyên thi hành việc này không? Chúng ta có cầu nguyện cho việc truyền giáo không? Nếu không thì đó là tội thiếu sót, bỏ việc phải làm. Thứ hai là truyền giáo bằng chính đời sống chứng nhân của mình: Đây là cách truyền giáo tốt nhất và hữu hiệu nhất, đó là truyền giáo bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta. Một đời sống đạo đức, chân thành, cởi mở, yêu thương là một tấm gương sáng trước mặt mọi người. Một đời sống tốt đẹp có sức lôi cuốn hơn những lời nói hay, vì “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”. Chúng ta hãy suy nghĩ: đời sống chúng ta hiện nay có làm chứng cho Chúa, cho đạo không?
KHIÊM NHƯỜNG TRONG TRUYỀN GIÁO
Người truyền giáo tốt có thể là người không hiểu biết nhiều và sâu sắc về Chúa, nhưng nhất định phải là người có sự sống của Chúa trong mình.
Tôi vẫn nghĩ như vậy. Và tôi có kinh nghiệm như thế.
Người ta không nhìn thấy Chúa trong họ. Nhưng người ta có thể cảm được phần nào sự hiện diện của Chúa trong họ qua một số dấu chỉ. Một trong những dấu chỉ dễ thấy nhưng lại chắc chắn, đó là sự khiêm nhường.
Trước khi khiêm nhường được nâng lên hàng nhân đức siêu nhiên, nó đã là một đức tính nhân bản.
Ngay trên lãnh vực nhân bản, khiêm nhường vẫn được coi là một giá trị cao quí. Văn hoá Việt Nam vốn ca ngợi người khiêm tốn. Lễ giáo Việt Nam vốn đề cao đức khiêm nhường, coi khiêm nhường như một yếu tố của đạo làm người.
Trong xử thế, khiêm nhường là chià khoá mở lòng người ta, gây nên thiện cảm. Nhờ thiện cảm, người ta dễ chấp nhận ta, và dễ nghe ta.
Trái lại, kiêu căng dễ gây nên ác cảm. Khi ác cảm đã chớm nở, thì lý luận dù đanh thép đến đâu, chứng từ dù rõ ràng đến mấy, người ta cũng không muốn đón nhận ta và những gì ta trình bày, kể cả khi ta trình bày Tin Mừng cứu độ.
Cái kiêu căng dễ xúc phạm đến người khác nhất, chính là sự tự đắc cho mình là đúng, là đẹp, là đáng kính trọng; còn người khác thì bị coi là sai, là xấu, là phải loại trừ. Nhất là trong việc phê phán tôn giáo, tín ngưỡng và những lựa chọn liên quan.
Người tự tôn, hay khinh miệt người khác rất dễ rơi vào những sai lầm trầm trọng và sự mù quáng thê thảm. Hơn nữa, họ có thể làm cho chính mình lâm vào tình trạng điên rồ. Để rồi, sẽ làm sụp đổ mọi sự nghiệp đạo đức của mình chỉ trong giây phút. Thảm thương nhất là kẻ kiêu căng cứng lòng sẽ vô tình mở rộng cửa lòng mình, rước quỷ Satan là thần kiêu ngạo vào ngự trị trong đó, để rồi lập liên minh với các hình thức kiêu căng khác, chống lại Nước Thiên Chúa.
Đọc Phúc Âm, tôi thấy Chúa Giêsu nhắc bảo chúng ta phải hết sức tránh mọi hình thức kiêu căng như:
Đừng thích tìm địa vị cao trước công chúng, như trong đám tiệc (Lc 14,7).
Đừng giả hình đạo đức bằng cái vỏ bề ngoài, còn bên trong thì dơ bẩn (Mt 23,5-25).
Đừng căn cứ vào mấy việc đạo đức của mình, để khinh chê người khác (Lc 18,9-14).
Đang khi đó, Kinh Thánh rất khen người khiêm nhường. Đến mức Chúa Giêsu coi họ là những người được Chúa Cha mạc khải cho biết nhiều điều cao siêu, mà Người không cho những người khôn ngoan và thông thái biết (Lc 10,21). Chính bản thân Chúa Giêsu cũng rất khiêm nhường. Ngài nói: “Hãy học với Thầy, vì Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29). Hơn nữa, suốt cuộc đời, từ khi sinh ra trong hang đá cho đến lúc chết trên thánh giá, Chúa Giêsu luôn làm chứng Đấng cứu thế không phải là một quyền lực, nhưng là tình yêu xót thương phục vụ khiêm nhường.
Do đó, sự khiêm nhường của người truyền giáo không phải chỉ là một đức tính nhân bản, mà còn phải là một nhân đức được chia sẻ từ sự khiêm nhường của Đức Kitô. Đức Kitô truyền sang cho họ sự khiêm tốn của Người, để nhờ đó, họ sẽ luôn nhận được thêm chân lý và sự sống cứu độ của Người.
Chính ở điểm này, mà đến lượt mình, chính người truyền giáo cũng là người cần được Chúa Giêsu thường xuyên truyền giáo cho. Và đây chính là một kinh nghiệm quí báu họ có được về người được truyền giáo.
Kinh nghiệm cho thấy người được truyền giáo rất cần có lòng khiêm tốn.
Thuở xưa, các thầy thượng tế, các kỳ lão, các kinh sư, các biệt phái đã nghe tận tai chính Chúa Giêsu giảng, đã xem tận mắt những phép lạ Chúa Giêsu làm. Nhưng không mấy người trong họ đã tin. Hơn nữa, càng nghe thấy và càng nhìn thấy Chúa Giêsu, họ càng đâm ghét. Sau cùng họ đã giết Người.
Sở dĩ Tin Mừng đã không vào lòng họ được, chính là vì sự kiêu căng tự đắc đã khoá chặt lòng họ.
Thời nay cũng thế. Những người đơn sơ, khiêm tốn dễ đón nhận được những cái mới mẻ của Tin Mừng hơn những người tự phụ kiêu căng.
Vì thế, tôi nghĩ rằng: Người truyền giáo cần phải khiêm nhường. Người được truyền giáo cũng cần khiêm nhường.
Để có đức khiêm nhường, chúng ta không thể coi thường việc tập luyện mình về nhiều mặt. Một người không được uốn nắn tập luyện kỹ lưỡng về đức khiêm nhường sẽ dễ trở nên hư hỏng: Hư hỏng do những thất bại và do cả những thành công, do những thực tế cuộc đời và cả do những ước mơ và ảo tưởng của mình, nhất là do sự cố chấp tôn thờ cái tôi và làm nô lệ cho ý riêng mình.
Không những chúng ta cần tập luyện để nên khiêm nhường, mà cũng cần cầu nguyện khẩn xin Chúa ban ơn khiêm nhường.
Ơn khiêm nhường, mà Chúa ban cho kẻ cậy trông nài van Chúa, sẽ đặt ta dưới cái nhìn thánh thiện của Chúa. Nhờ đó ta sẽ nhận ra Chúa nơi người khác và ta là kẻ tội lỗi, bất xứng, mọi sự Chúa ban cho ta đều do tình xót thương nhưng không của Chúa. Càng được ơn khiêm nhường, ta càng hiểu thấm thiá lời thánh Giacôbê: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (Gc 4,6). Và chúng ta cũng sẽ càng thấy rõ thói quen tìm đắc thắng, phô trương, trịch thượng, bất bao dung trong truyền giáo không những đang trở nên quá lỗi thời, mà còn gây nhiều thiệt hại cho Hội Thánh. Bởi vì đó là những điều rất trái nghịch với thánh ý Chúa.
Một điều lợi nữa, mà ơn khiêm nhường hôm nay sẽ đem lại cho ta, đó là nó giúp ta biết kiểm điểm lại bổn phận đón nhận Tin Mừng và bổn phận loan báo Tin Mừng. Ai trong chúng ta cũng có hai bổn phận đó.
Trong hoàn cảnh cụ thể ta đang sống, Chúa vẫn gửi cho ta vô số Tin Mừng mới mẻ. Ta đã đón nhận thế nào?
Trong địa vị cụ thể của ta và với những phương tiện cụ thể của ta, ai trong chúng ta cũng vẫn có thể góp phần không nhỏ vào việc loan báo phần không nhỏ vào việc loan báo Tin Mừng, hoặc bằng cách này, hoặc bằng cách khác. Ta đã thực hiện bổn phận đó thế nào?
Nếu khiêm tốn biết mình, khiêm tốn ăn năn, khiêm tốn sửa mình về bổn phận truyền giáo, chúng ta sẽ có một lương tâm truyền giáo đổi mới. Để từ nay, ta biết nhận lãnh, biết sinh lời và biết chia sẻ Tin Mừng cho những người gần xa, mà ta có thể gặp.
Nếu ta ý thức được như vậy và cố gắng làm như vậy, thì đời ta sẽ mang ý nghĩa cao đẹp, đi theo đúng hướng về với Cha trên trời.
Hoạt động truyền giáo đòi hỏi một linh đạo đặc biệt. Linh đạo này liên hệ đặc biệt tới những người được Thiên Chúa mời gọi để trở thành những nhà truyền giáo. Đức Phaolô VI phác họa linh đạo truyền giáo trong chương VII của Tông Huấn Loan báo Tin Mừng. Đức Gioan-Phaolô II trực tiếp đề cập tới linh đạo này trong chương VIII của Thông Điệp Sứ vụ Đấng Cứu Thế. Ngài cũng nhắc đến nhiều lần trong Tông Huấn Giáo Hội tại Á Châu và mới đây trong hai Tông Thư Bước vào ngàn năm mới và Kinh Mân côi của Đức Trinh Nữ Maria. Chúng ta chia sẻ với nhau linh đạo này.
- Để cho Chúa Thánh Thần hướng dẩn
Chiêm ngắm dung nhan Chúa Giêsu để “chèo ra chỗ sâu” (Duc in altum) là chủ đề của Tông Thư Bước vào ngàn năm mới (Novo Millennio inuente). Chiêm ngắm Đức Giêsu, chúng ta khám phá ra chân lý này: Ngài đã là sứ giả Tin Mừng đầu tiên và vĩ đại nhất, là sứ giả Tin mừng đã để cho Thần Khí hướng dẫn. Thần Khí đã xuống trên Đức Giêsu Nadarét vào lúc Ngài chịu thanh tẩy và được Chúa Cha giới thiệu là Con Chí Aùi của Người (x. Mt 3, 17). Chính vì “được Thần Khí dẫn đưa” (Mt 4, 1), mà Ngài đã trải qua trong sa mạc cuộc chiến đấu quyết liệt và một cuộc thử thách lớn lao nhất trước khi bắt đầu sứ mệnh loan báo Tin Mừng. Chính “với quyền năng của Thánh Thần” (Lc 4, 14) mà Ngài đã trở về Galilê và mở đầu tại Nadarét công cuộc rao giảng, khi áp dụng đoạn sách tiên tri Isaia cho chính mình: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi”. Ngài công bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh này”(Lc 4, 18.21: x. Is 61, 1). Nhờ quyền năng của Thần Khí, Chúa Giêsu chữa lành các bệnh nhân và xua đuổi ma quỷ, như một dấu chỉ Nước Thiên Chúa đã đến (x. Mt 12, 28). Vào buổi chiều Phục Sinh, Ngài thổi hơi trên các môn đệ sắp được phái đi mà nói với họ: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”(Ga 20, 22).
Từ việc chiêm ngắm Đức Giêsu, sứ giả Tin Mừng đầu tiên và vĩ đại nhất đã để cho Thần Khí hướng dẫn, ta thấy linh đạo truyền giáo được thể hiện trước hết qua việc nhà truyền giáo để cho con người của mình trở nên hoàn toàn dể dạy đối với Chúa Thánh Thần, một sự dễ dạy để cho Chúa Thánh Thần uốn nắn con người bên trong càng ngày càng nên giống Chúa Kitô. Không thể rao giảng và làm chứng về Chúa Kitô cũng như Tin Mừng của Ngài nếu bản thân nhà truyền giáo không phản ánh gương mặt Chúa Kitô. Gương mặt Chúa Kitô sẽ trở nên sống động trong chúng ta nhờ ân sủng và hoạt động của Thánh Thần
Ngoài ra, sự dễ dạy đối với Thánh Thần còn làm cho chúng ta đón nhận được những ân huệ khác của Ngài, đặc biệt là ơn can đảm và biện biệt. Hai ân huệ này là những nét cốt yếu của linh đạo truyền giáo.
Trường hợp của các tông đồ là một điển hình: trong sứ vụ công khai của Đức Giêsu, dù đã yêu Chúa nồng nàn với một tấm lòng quảng đại, dù đã được Chúa huấn luyện trong nhiều năm, các tông đồ vẫn tỏ ra là những con người tối trí và chậm hiểu. Nhiều lần Chúa giảng dạy mà các ngài chẳng hiểu gì hết, nhất là khiếp sợ theo Chúa trên đường khổ nạn. Biến cố thập giá chiều thứ sáu tuần thánh đã làm tiêu tan niềm tin và hy vọng của các ngài vào Đức Giêsu. Chúa Thánh Thần đã biến đổi các tông đồ trở nên những chứng nhân can đảm cho Đức Giêsu và những người loan báo cách rõ ràng lời Ngài. Chính Thánh Thần đã hướng dẫn các ngài trên những nẻo đường gian khổ và mới mẻ của sứ mạng truyền giáo.
Đức Phaolô VI đã nhấn mạnh về vai trò của Chúa Thánh Thần trong công cuộc loan báo Tin Mừng khi đọc lại những ngày đầu của Giáo Hội sơ khai:
“Sẽ không bao giờ có thể phúc-âm-hóa được nếu không có tác động của Chúa Thánh Thần…
[…] Thật ra, chỉ sau khi Chúa Thánh Thần đến, ngày Hiện Xuống, các tông đồ mới lên đường đi đến khắp các chân trời trên thế giới để khởi sự công cuộc phúc âm hoá của Giáo Hội, và thánh Phêrô giải thích biến cố như đã thực hiện của lời tiên tri Giôel: “Ta sẽ đổ Thần Khí Ta” (Cv 2, 17). Thánh Phêrô được đầy Thánh Thần để nói với dân chúng về Đức Giêsu Con Thiên Chúa (x. Cv 4, 8). Thánh Phaolô, cũng thế, “được đầy Thánh Thần” (Cv 9, 17) trước khi hiến thân cho sứ mệnh tông đồ; thánh Stêphanô cũng vậy, khi được chọn để làm phó tế và sau đó đã đổ máu làm chứng (x. Cv 6, 5.10; 7, 55). Thần Khí khiến Phêrô, Phaolô hay nhóm Mười Hai lên tiếng và soi sáng cho họ những lời lẽ phải nói, thì cũng ngự xuống “trên tất cả những người đang nghe Lời Thiên Chúa (x. Cv 10, 44). Chính nhờ Chúa Thánh Thần nâng đỡ mà Giáo Hội tăng tiến (x. Cv 9, 31). Ngài là linh hồn của Giáo Hội này. Chính Ngài giải thích cho tín hữu hiểu ý nghĩa thâm sâu của lời Đức Giêsu giảng dạy và mầu nhiệm con người của Đức Giêsu. Ngày nay cũng như vào buổi đầu của Giáo Hội, Ngài là Đấng hoạt động trong mỗi sứ giả Tin Mừng, nếu họ chịu thuộc về Ngài và để Ngài hướng dẫn mình, Ngài đặt nơi môi miệng họ những lời mà một mình họ không thể tìm ra được, và đồng thời chuẩn bị cho tâm hồn người nghe biết cởi mở đón nhận Tin Mừng và Triều Đại được loan báo.
Có những kỹ thuật phúc-âm-hóa là điều tốt, nhưng những kỹ thuật hoàn hảo nhất vẫn không làm sao thay thế được tác động âm thầm của Thần Khí. Không có Ngài thì sứ giả Tin Mừng có sửa soạn hết sức tinh tế cũng chẳng làm được gì cả. Không có Ngài thì biện luận thuyết phục nhất cũng không ảnh hưởng gì được trên trí tuệ con người. Không có Ngài, những lược đồ xã hội học và tâm lý học được soạn thảo kỹ lưỡng nhất cũng chóng tỏ ra vô giá trị.
Chúng ta đang sống trong Giáo Hội những giờ phút đặc biệt của Thần Khí. Đâu đâu người ta cũng tìm biết Ngài hơn, đúng như Thánh Kinh mạc khải. Người ta sung sướng tự đặt dưới quyền lực Ngài. Người ta họp nhau quanh Ngài. Người ta muốn để Ngài hướng dẫn mình.
Vậy, nếu Thần Khí Thiên Chúa có một vị trí ưu việt trong toàn thể đời sống Giáo Hội, thì chính trong sứ mệnh phúc-âm-hóa của Giáo Hội là chỗ Ngài hoạt động hơn cả. Không phải tình cờ mà cuộc khởi đầu vĩ đại đi phúc-âm-hóa đã xảy ra vào sáng ngày Hiện Xuống, dưới hơi thổi của Thần Khí”.
Như vậy, chúng ta có thể nói rằng Chúa Thánh Thần là tác nhân chính của hoạt động truyền giáo của Giáo Hội, là tác giả đầu tiên của việc đối thoại giữa Giáo Hội và tất cả các dân tộc, văn hoá và tôn giáo. Chính Ngài thúc đẩy mỗi người loan báo Tin Mừng, chính Ngài, từ chiều sâu ý thức, làm cho người ta đón nhận và hiểu Lời cứu độ., và chính Ngài liên tục gieo những hạt giống chân lý giữa các dân tộc, tôn giáo, văn hoá và triết học của họ. Nhờ Chúa Thánh Thần, vị Thầy Nội Tâm, gương mặt và giáo huấn của Chúa Kitô sẽ tỏ hiện lên trong lòng người đón nhận và đặc biệt hơn trong chính cuộc đời và bản thân của nhà truyền giáo.
Ngày nay cũng như ngày xưa, công cuộc truyền giáo vẩn có nhiều khó khăn và phức tạp. Ngày nay cũng như ngày xưa, nó đòi hỏi lòng can đảm và ánh sáng của Thánh Thần. Chúng ta vẫn thường đang sống trong thảm kịch của các Kitô hữu tiên khởi khi họ thấy đám đông bất tín và thù nghịch “đang rập mưu đồ chống lại Đức Chúa và chống lại Đấng Người đã được xức dầu phong vương” (Cv 4, 26). Cũng như ngày xưa, chúng ta phải cầu nguyện để Thiên Chúa ban cho chúng ta lòng can đảm loan báo Tin Mừng, để bước đi trên những nẻo đường huyền nhiệm đầy bất ngờ của Thiên Chúa và để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn đến chân lý vẹn toàn (x. Ga 16, 13).
- Sống mầu nhiệm Đức Kitô “được sai đi”.
Sống hiệp thông với Đức Kitô là một yếu tố căn bản của linh đạo truyền giáo. Người ta không thể hiểu cũng như không thể sống sứ mạng truyền giáo nếu không quy chiếu về Đức Kitô như Đấng được sai đi để loan báo Tin Mừng.
Thánh Phaolô đã nói về tâm tình của Đức Kitô, Đấng được Thiên Chúa sai đến trong bài thánh thi thời danh: “Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu. Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ là phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 5-8).
Trong bài thánh thi này, thánh Phaolô chiêm ngưỡng và suy tư về mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc. Các mầu nhiệm này được diễn tả như một sự hoàn toàn từ bỏ bản thân, dẫn Đức Giêsu đến việc sống hoàn toàn như con người và gắn bó với chương trình của Chúa Cha cho tới cùng. Đây là mầu nhiệm tự hủy mang dấu ấn của tình yêu và diễn tả tình yêu.
Sứ mạng truyền giáo cũng đi trên con đường này, một con đường cuối cùng dẫn tới chân thập giá. Sứ mạng này đòi hỏi nhà truyền giáo “từ bỏ chính mình và những gì mình có, để trở nên tất cả cho mọi người”. Sự từ bỏ được thể hiện qua nếp sống nghèo khó trong sự thanh thoát của nội tâm. Nếp sống này làm cho nhà truyền giáo được tự do để loan báo Tin Mừng, tự do để trở nên người anh em của tất cả mọi người mà ngài được sai đến để đem Chúa Kitô, Đấng Cứu Độ cho họ. Đó là linh đạo truyền giáo mà thánh Phaolô đã sống trên những nẻo đường truyền giáo và muốn chia sẻ lại cho chúng ta: “Tôi đã trở nên yếu với những người yếu để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để được phân chia phần phúc của Tin Mừng” (1Cr 9, 22-23).
Rõ ràng vì được sai đi, nhà truyền giáo cảm nghiệm được sự hiện diện đầy an ủi của Đức Kitô đang đồng hành với mình trong mọi giây phút của cuộc đời. “Đừng sợ! Cứ nói đi, đừng làm thinh, vì Thầy ở với con” (Cv 18, 9-10).
- Yêu mến Giáo Hội và con người như Chúa Kitô đã yêu mến.
Linh đạo truyền giáo còn được thể hiện bằng tình yêu của người tông đồ dành cho Giáo Hội và cho con người. Người có tinh thần truyền giáo sẽ chiêm ngắm Đức Giêsu, vị Mục Tử tốt lành biết chiên của mình, tìm kiếm chiên và hy sinh mạng sống vì đàn chiên (Ga 10) mà bày tỏ tình yêu đối với các tâm hồn và đối với Giáo Hội.
Nhà truyền giáo được thúc bách nhờ “lòng nhiệt thành vì các linh hồn”, một khi được tình yêu của chính Đức Kitô soi chiếu, sẽ biết chú tâm, nhẹ nhàng, thương cảm, đón tiếp, có một con tim sẵn sàng và cởi mở, biết lưu tâm đến những vấn đề của người khác. Như Đức Giêsu, nhà truyền giáo tiên vàn là con người của tình thương. Để có thể loan báo cho mỗi người trong anh em mình rằng họ được Thiên Chúa yêu thương và họ có thể yêu thương Thiên Chúa thì nhà truyền giáo phải làm chứng về tình thương đối với mọi người bằng cách hy sinh mạng sống mình vì người khác. Nhà truyền giáo là “người anh em của tất cả” (frère universel), ngài mang trong mình tinh thần của Giáo Hội, sự cởi mở và quan tâm của Giáo Hội đối với mọi dân tộc và toàn thể nhân loại, đặc biệt đối với những người bé nhỏ nhất và nghèo khổ nhất. Ngài phải vượt qua mọi ranh giới và khác biệt về chủng tộc, giai cấp xã hội hay ý thức hệ. Ngài là dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa trong thế giới, nghĩa là một tình yêu không loại trừ ai cũng như không thiên vị người nào.
Trong Tông Huấn Loan báo Tin Mừng, Đức Phaolô VI đã nhấn mạnh rằng thời đại hôm nay chờ đợi những nhà truyền giáo trung thực. Sự trung thực được bày tỏ nơi chính bản thân và trong nếp sống Tin Mừng của nhà truyền giáo: “Ngày nay, người ta thường hay lặp đi lặp lại rằng: thế kỷ này khao khát sự trung thực. Nhất là khi nói tới giới trẻ, người ta quả quyết rằng họ ghê tởm những gì là giả tạo, giả mạo và tìm kiếm chân lý và sự trong sáng trên tất cả.
Chúng ta phải tỉnh táo trước những “dấu chỉ thời đại” ấy. Âm thầm hay lớn tiếng, thiên hạ luôn luôn vặn hỏi chúng ta: Các người có thực sự tin điều các người loan báo không? Các người có sống điều các người tin không? Các người có rao giảng thực sự điều các người sống không? Hơn bao giờ hết, làm chứng bằng đời sống đã trở thành một điều kiện thiết yếu để việc rao giảng có hiệu quả thâm sâu. Bằng ngả này, chúng ta lại chịu trách nhiệm, đến một mức độ nào đó, về bước tiến của Tin Mừng mà chúng ta công bố.
Ở đầu bài suy niệm này, Chúng tôi đã tự hỏi: “Mười năm sau khi Công Đồng kết thúc, Giáo Hội hiện như thế nào?”. Giáo Hội phải chăng đã cắm neo giữa lòng thế giới và phải chăng tuy vậy vẫn khá tự do và độc lập để lên tiếng nói với thế giới? Giáo Hội có chứng tỏ mình liên đới với loài người và có đồng thời làm chứng cho sự Tuyệt Đối của Thiên Chúa không? Giáo Hội có nồng nhiệt hơn trong việc chiêm niệm và thờ phượng, mà cũng nhiệt thành hơn trong công việc truyền giáo, bác ái, giải phóng không? Giáo Hội phải chăng đang dấn thân hơn mãi vào những nỗ lực nhằm tái lập sự hiệp nhất hoàn toàn giữa các kitô-hữu, sự hiệp nhất vốn cần để việc làm chứng thêm hiệu lực “ngõ hầu thế giới tin”. Chúng ta tất cả đều có trách nhiệm về những câu trả lời mà người ta có thể đem lại cho các câu hỏi trên”
Công cuộc truyền giáo giả thiết nhà truyền giáo có một lòng thương yêu ngày càng lớn hơn mãi đối với anh chị em mà mình được sai đến để nói với họ về Thiên Chúa Tình Yêu, về Tin Mừng cứu độ. Thánh Phaolô, sứ giả Tin Mừng mẫu mực đã viết cho tin hữu Thessalônica lời sau đây là một chương trình cho tất cả chúng ta: “Chúng tôi đã thương yêu anh em thắm thiết đến nỗi muốn giao phó cho anh em không những Tin Mừng của Thiên Chúa mà còn chính mạng sống chúng tôi nữa, bởi chưng anh em đã trở nên chí thân chí thiết với chúng tôi” (1 Tx 2, 8; x. Pl 1, 8).
Tình thương yêu mà thánh Phaolô biểu lộ ở đây rõ ràng là tình thương yêu của một người cha, và còn hơn nữa, của một người mẹ (x. 1 Tx 2, 7-11; 1Cr 4, 15; Gl 4, 19). Chắc chắn, Thiên Chúa mong thấy tình thương yêu như thế ở mỗi người rao giảng Tin Mừng.
Chúng ta sống trên lục địa Á châu, một lục địa mà đại đa số là người nghèo, cho nên, ta không ngạc nhiên gì khi Đức thánh cha Gioan-Phaolô II nhấn mạnh đến việc phục vụ người nghèo qua việc đề cao Mẹ Têrêxa Calcutta trong Tông huấn Giáo Hội tại Á Châu: “Mẹ là hình ảnh của sự phục vụ mạng sống mà Giáo Hội đang dâng hiến tại Á châu, can đảm đi ngược lại nhiều quyền lực đen tối đang hoành hành trong xã hội “. Ngài suy nghĩ rằng trong bối cảnh của Á Châu với đông dân nghèo và bị áp bức thì ơn gọi đặc thù của Giáo Hội tại Á châu là bầy tỏ cách riêng trong việc phục vụ đầy tình yêu đối với các người nghèo và người cô thế cô thân.
Người ta đễ tin hơn tình liên đới với kẻ nghèo, nếu chính những Kitô hữu sống đơn sơ, theo gương Đức Giêsu. Sự đơn sơ trong cách sống, đức tin sâu xa và tình yêu không giả dối đối với mọi người, nhất là người nghèo và người bị loại trừ, đó là những dấu chỉ Tin mừng trong hành động.
Tinh thương yêu nơi nhà truyền giáo không chỉ được diễn tả qua hình ảnh người bạn, người cha, người mẹ mà còn qua nhiều dấu chỉ khác nữa được Đức Phaolô VI nhắc đến trong Tông Huấn Loan báo Tin Mừng:
“Một dấu chỉ của tình thương yêu là mối quan tâm cho người khác chân lý và đưa vào sự hiệp nhất. Một dấu chỉ nữa là hy sinh trọn vẹn và dứt khoát cho việc loan báo Đức Giêsu-Kitô. Chúng tôi xin kể thêm vài dấu chỉ khác của tình thương yêu kia.
Trước tiên là sự tôn trọng hoàn cảnh tôn giáo và tinh thần của những con người đang được phúc-âm-hóa. Tôn trọng nhịp điệu riêng của họ, không thúc ép quá đáng. Tôn trọng lương tâm và những xác tín của họ, không can thiệp thô bạo.
Một dấu chỉ khác của tình thương yêu kia là biết lo tránh làm tổn thương người khác, nhất là khi họ còn yếu đức tin (x. 1Cr 8, 9-13) bằng những quả quyết có thể là sáng sủa đối với những người đã thông thạo, nhưng đối với các tín hữu thì lại có thể là nguồn dao động và cớ vấp phạm, như một vết thương trong tâm hồn.
Một dấu chỉ nữa của tình thương yêu là biết cố gắng truyền đạt cho các kitô-hữu, không phải những ngờ vực và những điều mập mờ phát sinh từ một sự học rộng mà không tới nơi tới chốn, nhưng là những điều chắc chắn vững vàng vì được neo vào Lời Thiên Chúa. Các tín hữu cần những điều vững chắc ấy cho đời sống kitô-giáo của họ; họ có quyền được những điều chắc chắn ấy, với tư cách là con cái Thiên Chúa phó thác mình hoàn toàn cho những đòi hỏi của tình thương yêu, trong tay Ngài”.
Cuối cùng, như Đức Kitô, “đã yêu thương Giáo Hội và hiến mình vì Giáo Hội” (Ep 5, 25), nhà truyền giáo phải yêu mến Giáo Hội. Tình yêu của Chúa Kitô đối với Giáo Hội, một tình yêu đến nỗi trao ban mạng sống, sẽ là tấm gương soi và điểm quy chiếu cho nhà truyền giáo. Đức Gioan-Phaolô II nhấn mạnh rằng chỉ với một tình yêu sâu xa dành cho Giáo Hội mới có thể nâng đỡ lòng nhiệt thành của nhà truyền giáo, như thánh Phaolô nói về nỗi ray rứt hàng ngày của ngài là “mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh” (2Cr 11, 28).
Đối với mỗi nhà truyền giáo, lòng trung thành với Chúa Kitô không thể tách rời khỏi lòng trung thành đối với Giáo Hội, bởi vì “có một mối liên hệ sâu xa giữa Đức Kitô, Giáo Hội và việc loan báo Tin Mừng. Trong “thời của Giáo Hội” này, chính Giáo Hội có bổn phận phúc-âm-hóa. Bổn phận không thể hoàn tất mà không có Giáo Hội, càng không thể hoàn tất nếu chống lại Giáo Hội”.
- Nhà truyền giáo đích thực là một vị thánh
Lời mời gọi truyền giáo tự bản chất phát xuất từ lời mời gọi nên thánh. Nhà truyền giáo chỉ thực sự là nhà truyền giáo khi ngài dấn thân trên con đường thánh thiện “Sự thánh thiện là nền tảng cốt lõi và điều kiện không thể thay thế được để chu toàn sứ mạng cứu rỗi của Giáo Hội”.
Ơn gọi phổ quát hướng tới việc nên thánh liên hệ mật thiết với ơn gọi phổ quát hướng tới sứ mạng truyền giáo, bởi vì mỗi người tín hữu được mời gọi nên thánh và truyền giáo. Linh đạo truyền giáo là con đường dẫn tới sự thánh thiện.
Sức năng động mới hướng tới muôn dân (Ad gentes) đòi hỏi các nhà truyền giáo thánh thiện. Đức thánh cha Gioan-Phaolô II nhắc đến điều này với một lòng xác tin: “Thật không đủ khi chúng ta chỉ nghĩ tới việc đổi mới các phương pháp mục vụ cũng như làm thế nào để tổâ chức nhân sự và tài lực tốt hơn hay đào sâu nền tảng kinh thánh và thần học của đức tin. Phải gợi lên một sức năng động mới về sự thánh thiện nơi các nhà truyền giáo và trong từng cộng đoàn kitô hữu, đặc biệt nơi những người cộng tác gần gũi nhất của các nhà truyền giáo.
Chúng ta hãy nhớ lại sức năng động truyền giáo nơi các cộng đoàn tín hữu sơ khai. Mặc dù lúc bấy giớ còn thiếu phương tiện di chuyển và truyền thông, nhưng việc loan báo Tin Mừng đã sớm đi đến mọi miền thế giới. Và cho dù đó là một tôn giáo của một Người đã chết trên thập giá, “một cớ vấp phạm đối với người Do Thái và sự điên rồ đối với dân ngoại” (1Cr 1, 23). Tự nền tảng của sức năng động truyền giáo này, ta thấy có sự thánh thiện của các cá nhân và của các cộng đoàn tín hữu sơ khai”.
Trong mọi trường hợp, rõ ràng là không thể có sự rao giảng Tin Mừng đích thực, nếu người kitô hữu không sống chứng tá phù hợp với sứ vụ rao giảng: “Hình thức chứng tá thứ nhất là chính đời sống của vị thừa sai, của gia đình Kitô hữu và của cộng đồng Giáo Hội, một cộng đồng bày tỏ một nếp sống mới…Mỗi người trong Giáo Hội, khi cố gắng bắt chước Vị Thầy Thần Linh, thì có thể và phải làm chứng theo kiểu này; trong nhiều trường hợp, đó là phương cách duy nhất có thể được, để trở thành nhà truyền giáo”.
Nhà truyền giáo phải là một nhà “chiêm niệm trong hành động”. Khi tiếp xúc với các vị đại diện của các truyền thống thiêng liêng ngoài Kitô giáo, nhất là của Á Châu, Đức thánh cha xác tín rằng tương lai của việc truyền giáo tuỳ thuộc phần lớn vào sự thánh thiện. Nhà truyền giáo, nếu không phải là nhà chiêm niệm thì không thể loan báo Chúa Kitô một cách khả tín được. Điều này chắc chắn đúng trong bối cảnh Á Châu, nơi mà dân chúng được thuyết phục do đời sống thánh thiện hơn là do luận chứng tri thức. Như thế, để là chứng nhân cho kinh nghiệm về Thiên Chúa, nhà truyền giáo phải có kinh nghiệm về Thiên Chúa, “Điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng…về Lời hằng sống… chúng tôi đã loan báo” (1 Ga 1, 1-3).
Đức thánh cha chia sẻ với các Giáo Hội tại Á Châu rằng trong bối cảnh của Á Châu, quê hương của các tôn giáo lớn, nơi mà các cá nhân cũng như toàn dân khao khát cái thiêng thánh, Giáo Hội được kêu gọi trở nên một Giáo Hội cầu nguyện. Tất cả các Kitô hữu cần một tu đức truyền giáo thực sự gồm có cầu nguyện và chiêm niệm.
Đức thánh Cha còn ghi nhận rằng các nghị phụ Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu đã nhấn mạnh nhiều đến chỗ đứng của chiêm niệm trong công cuộc truyền giáo:: “Việc công bình, bác ái và thương xót phải gắn bó mật thiết với đời sống cầu nguyện và chiêm niệm đích thực, và thật vậy, chính cũng một tu đức này là nguồn suối của mọi công trình rao giảng Tin mừng của chúng ta”.
Sự thánh thiện nơi bản thân nhà truyền giáo được nhìn thấy trong nếp sống của Tám Mối Phúc. Nhà truyền giáo là con người của Tám Mối Phúc. Trước khi sai các tông đồ đi rao giảng, Đức Giêsu đã huấn luyện nhóm Mười Hai bằng cách cho họ thấy những con đường của truyền giáo: khó nghèo, hiền lành, chấp nhận đau khổ và những bách hại, khao khát sự công chính và hoà bình, bác ái, hay nói khác đi là con đường Tám Mối Phúc (x. Mt 5, 1-12). Trong khi sống Tám Mối Phúc, nhà truyền giáo có kinh nghiệm và cho thấy một cách cụ thể rằng Nước Thiên Chúa đã đến và chính bản thân ngài đã đón nhận Nước ấy.
Sự thánh thiện không chỉ là lời mời gọi của Chúa, nhưng nơi bản thân của nhà truyền giáo, nó còn là sự chờ đợi của thế giới hôm nay, như Đức Phaolô VI nhận định: “Thế giới tuy có vô vàn dấu hiệu từ khước Thiên Chúa, nhưng một cách nghịch thường vẫn tìm kiếm Ngài bằng những đường nẻo bất ngờ và vẫn xót xa cảm thấy cần đến Ngài, thế giới ấy đòi có những sứ giả Tin Mừng nói về một Thiên Chúa mà họ biết và gần gũi như thể họ đã từng thấy Đấng không thể thấy (x. Dt 11, 27). Thế giới đòi hỏi và chờ đợi ở chúng ta đời sống giản dị, tinh thần cầu nguyện, lòng yêu thương đối với mọi người nhất là đối với những kẻ bé mọn và nghèo khó, đức vâng phục và khiêm tốn, sự siêu thoát và từ bỏ chính mình và mọi sự. Không có dấu hiệu về sự thánh thiện như thế, lời chúng ta nói sẽ khó đi vào lòng của con người thời nay. Nó có thể thành vô ích và vô hiệu”.
Một trong những nét đặc sắc của cuộc đời nhà truyền giáo là niềm vui nội tâm phát xuất từ đức tin. Trong một thế giới đầy lo âu và bị áp lực của trăm ngàn vấn đề, một thế giới dễ làm cho con người bi quan, thì người loan báo Tin Mừng phải là người đã tìm thấy nơi Đức Kitô nguồn hy vọng đích thực.
Đức Phaolô VI nhận xét rằng công cuộc truyền giáo trong thời đại chúng ta gặp nhiều trở ngại bởi vì sự thiếu nhiệt tình và niềm vui nơi bản thân người tín hữu. Nó càng trầm trọng bởi lẽ nó phát xuất từ bên trong; nó biểu lộ trong sự mệt mỏi và chán nản, sự làm lấy lệ và hờ hững. Đức thánh cha khuyến khích tất cả những người có nhiệm phúc-âm-hóa với tư cách nào và ở cấp bậc nào cũng vậy, hãy nuôi dưỡng nhiệt tình cho tâm thần mình (x. Rm 12, 11).
“Chúng ta hãy giữ cho tinh thần được nhiệt thành. Chúng ta hãy giữ niềm vui dịu dàng và khích lệ trong công việc phúc-âm-hóa, ngay cả khi phải gieo trong nước mắt. Ước gì đó là một nhiệt tình mà không ai và không gì có thể dập tắt được nơi chúng ta – cũng như nơi thánh Gioan Tẩy Giả, nơi thánh Phêrô và thánh Phaolô, nơi các thánh Tông Đồ khác, nơi vô vàn sứ giả Tin Mừng đáng khâm phục trong suốt cả lịch sử Giáo Hội –. Ước gì đó là niềm vui lớn lao cho những cuộc đời của chúng ta đã được hiến dâng. Và ước gì thế giới thời đại chúng ta, đang tìm kiếm, khi thì trong lo âu, khi thì trong hy vọng, có thể nhận được Tin Mừng, không phải từ những sứ giả Tin Mừng buồn rầu và chán nản, nôn nóng hay bứt rứt, nhưng là từ những thừa tác viên của Tin Mừng có đời sống tỏa ấm nhiệt tình, đã nhận sẵn niềm vui của Đức Kitô trong bản thân mình và chấp nhận đánh đổi mạng sống mình lấy việc Triều Đại được loan báo và Giáo Hội được đưa vào giữa lòng thế giới”.
- Xây dựng hiệp nhất
Đây là mối ưu tư đặc biệt của Đức Phaolô VI, vị giáo hoàng của đại kết và đối thoại. Mối ưu tư này được nói lên một cách mạnh mẽ trong Tông Huấn Loan báo Tin Mừng:
“Sức mạnh của việc phúc-âm-hóa sẽ bớt đi nhiều nếu những người loan báo Tin Mừng lại chia rẽ nhau bằng đủ thứ gãy vỡ. Phải chăng đó là một trong những vướng víu lớn nhất cho việc phúc-âm-hóa ngày nay? Thật vậy, nếu Tin Mừng mà chúng ta công bố lại cho thấy bị xâu xé bởi những cãi cọ về giáo thuyết, những phân cực ý thức hệ hay những kết án lẫn nhau giữa các kitô-hữu, tùy theo những cách họ nhìn khác nhau về Đức Kitô và về Giáo Hội, và ngay cả vì những cách họ quan niệm khác nhau về xã hội và các thể chế nhân loại, thì làm sao những người được chúng ta rao giảng lại khỏi bị dao động, lạc hướng nếu không nói là bị vấp phạm?
Di chúc thiêng liêng của Chúa nói với chúng ta rằng sự hiệp nhất giữa các môn đồ của Người không phải chỉ là bằng chứng chúng ta thuộc về Người mà còn là bằng chứng Người do Chúa Cha sai đến, là trắc nghiệm về sự đáng tin của các kitô-hữu và của chính Đức Kitô. Là những sứ giảTin Mừng, chúng ta cần hiến cho các tín hữu của Đức Kitô, không phải hình ảnh những con người chia lìa nhau vì những tranh chấp không chút xây dựng, nhưng là hình ảnh những con người chín chắn trong đức tin, có khả năng gặp gỡ nhau bên trên những căng thẳng thực tế, nhờ việc cùng nhau tìm kiếm chân lý một cách chân thành và vô vị lợi. Phải, số phận công cuộc phúc-âm-hóa chắc chắn được gắn liền với việc Giáo Hội làm chứng cho sự hiệp nhất. Đó là một nguồn trách nhiệm mà cũng là một nguồn khích lệ”. Như vậy, nhà truyền giáo là sứ giả của hoà bình và người thợ xây dựng sự hiệp nhất và đối thoại.
- Nơi trường học của Đức Maria, nhà truyền giáo đầu tiên
Trong thông điệp đầu tiên Redemptor Hominis (Đấng Cứu Chuộc con người), Đức thánh cha Gioan-Phaolô II đã viết rằng chỉ trong một bầu khí cầu nguyện sốt sắng mới có thể “đón nhận Chúa Thánh Thần ngự xuống trên chúng ta và nhờ đó trở nên những nhân chứng của Đức Kitô cho đến tận cùng trái đất, giống như những người ra khỏi phòng Tiệc Ly tại Giêrusalem vào ngày lễ Ngũ Tuần”.
Tháng Mười năm ngoái, khi bước vào năm thứ 25 sứ vụ giáo hoàng, với Tông Thư Rosarium Virginis Mariae (Kinh Mân Côi của Trinh Nữ Maria), Đức thánh cha Gioan-Phaolô đã công bố một Năm đặc biệt, gần như một sự tiếp nối lý tưởng của Năm thánh, dành cho việc tái khám phá kinh Mân Côi, là kinh nguyện rất thân thiết với truyền thống kitô giáo; một năm cần được sống dưới cái nhìn của Đấng, theo kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa, nhờ lời “Xin Vâng”, đã làm cho việc cứu độ loài người có thể được thực hiện. Đồng thời ngài đặt Đức Trinh Nữ rất thánh làm Thầy dạy các tín hữu trong việc chiêm ngắm khuôn mặt Chúa Kitô để từ đó ra đi truyền giáo trên đại dương bao la của thế giới.
Đức thánh cha ước mong rằng Năm Mân Côi sẽ tạo nên một cơ hội thuận lợi để các tín hữu trên mọi lục địa đào sâu ý nghĩa của ơn gọi kitô hữu. Dưới mái trường của Đức Trinh Nữ và noi gương ngài, mỗi cộng đoàn sẽ có thể làm nổi bật hơn chiều kích “chiêm niệm” và “truyền giáo” của mình. “Kinh Mân Côi cũng là một con đường loan báo và hiểu biết ngày một hơn, trong đó mầu nhiệm của Đức Kitô được trình bày đi, trình bày lại ở nhiều mức độ khác nhau của kinh nghiệm Kitô giáo. Đó là một trình bày mang tính cầu nguyện và chiêm ngưỡng, có khả năng đào tạo người Kitô hữu theo trái tim của Đức Kitô… Kinh Mân côi vẫn giữ được sức mạnh của nó và tiếp tục là một tài nguyên mục vụ có giá trị tố đẹp cho mọi người loan báo Tin Mừng”.
Đức thánh cha chia sẻ với Giáo Hội rằng sự tin tưởng chạy đến cùng Đức Maria, qua việc đọc kinh Mân Côi hằng ngày và việc suy niệm các mầu nhiệm đời sống Chúa Kitô, sẽ nhấn mạnh rằng sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội trước hết phải được nâng đỡ bằng việc cầu nguyện. Thái độ “lắng nghe” mà kinh Mân Côi gợi lên, đem người tín hữu lại gần Đức Maria, Đấng“hằng ghi nhớ mọi điều ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19). Việc siêng năng suy niệm Lời Chúa luyện tập cho chúng ta sống “hiệp thông sống động với Đức Giêsu. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, Đức Maria giúp chúng ta đạt được “sự dạn dĩ thanh thản” làm cho chúng ta có khả năng thông truyền cho người khác kinh nghiệâm về Đức Giêsu.
Dưới mái trường của Đức Maria, Giáo Hội chiêm ngưỡng dung nhan đầy lòng thương xót của Đức Giêsu nơi những người anh chị em, đặc biệt nơi những người nghèo khó và thiếu thốùn. Với sự ân cần từ mẫu mà Mẹ đã tỏ ra ở tiệc cưới Cana)x. Ga 2, 1-5), Đức Maria dạy nhà truyền giáo biết sống tế nhị, yêu thương và quan tâm đến những vấn đề của con người.
Hình ảnh Đức Maria, nhà truyền giáo đầu tiên đã để cho Thánh Thần thúc đầy mà vội vã tiến bước (x. Lc 1, 39-56) đem Chúa Giêsu trong cung lòng mình đến cho nhà Elizabeth mời gọi các sứ giả Tin Mừng không được để cho nhiệt tình tông đồ suy giảm đi, đặc biệt trong sứ vụ truyền giáo “đến với muôn dân” (Ad gentes).
Vào buổi sáng ngày Hiện Xuống, ai cũng biết là Mẹ Maria đã có mặt với các Tông Đồ, hiệp nhất “cùng một lòng trong lời cầu nguyện” (x. Cv 1,14) trong cộng đoàn tiên khởi được qui tụ sau khi Chúa lên trời, trong khi chờ đợi Chúa Thánh Thần hiện xuống. Đức Maria đã tham dự vào buổi khởi đầu công cuộc phúc-âm-hóa dưới tác động của Chúa Thánh Thần: ước gì Ngài là Ngôi Sao Sáng của công cuộc phúc-âm-hóa luôn được làm mới lại mãi mà Giáo Hội, thừa lệnh Chúa, phải xúc tiến và thực hiện, nhất là giữa thời buổi vừa khó khăn vừa đầy hy vọng này.
Kết Luận
Chúng ta vừa làm công việc tổng hợp một linh đạo truyền giáo được nói đến trong một số văn kiện của các Đức Giáo Hoàng. Chúng ta hy vọng rằng linh đạo truyền giáo sẽ làm cho lòng chúng ta bừng cháy lên nhiệt tình loan báo Tin Mừng.
Truyền giáo khởi sự bằng cuộc sống và con tim. Cuộc sống và con tim đòi hỏi các môn đệ Chúa Kitô sống có tấm lòng. Tấm lòng với mọi người và với Giáo Hội, một tấm lòng “dễ dạy” đối với Chúa Thánh Thần, một tấm lòng mới như của Đức Maria.
Ký hiệu viết tắt:
EA: Tông Huấn Ecclesia in Asia (Giáo Hội tại Á Châu) của ĐTC Gioan Phaolô II (6 -11-1999)
EN: Tông Huấn Evangelii nuntiandi (Loan báo Tin Mừng) của ĐTC Phaolô VI (8 -12-1975)
NM: Tông Thư Novo Millennio ineunte (Bước vào ngàn năm mới) của ĐTC Gioan-Phaolô II (6-1-2001)
RM: Thông điệp Redemptoris missio (Sứ vụ Đấng Cứu Thế) của ĐTC Gioan Phaolô II (7-12-1990)
RVM: Tông Thư Rosarium Virginis Mariae (Kinh Mân Côi của Đức Trinh Nữ Maria) của ĐTC Gioan-Phaolô II (16-10-2002)
TG: Công Đồng chung Vatican II, Sắc lệnh về hoạt động Truyền giáo của Giáo Hội (Ad gentes)
TIN MỪNG CHO NGƯỜI NGOẠI BIÊN
Thuở còn nhỏ, tôi đã sớm nhận thấy sự khác biệt giữa người giàu và người nghèo.
Lớn lên, tôi cảm được sâu sắc cảnh nghèo. Nghèo thì hèn. Nghèo thì khổ. Cái Nghèo, cái Hèn, cái Khổ dính vào nhau khăng khít. Đồng thời, tôi cũng nhìn được cảnh giàu. Giàu thì sang. Giàu thì có. Cái Giàu, cái Sang, cái Co đồng hành ung dung.
Khi đi qua nhiều nơi, ở lại nhiều nước, tôi lại thấy giàu nghèo làm thành những giai cấp. Giàu là giai cấp cao. Nghèo thuộc giai cấp thếp. Cấp cao, cấp thấp đều có nhiều bậc. Đôi khi, người nghèo khổ bậc dưới không thể và cũng không dám nhìn người giàu sang ở bậc trên. Vì khoảng cách quá xa về địa lý, nhất là về tâm lý.
Trung tâm và ngoại biên.
Để đơn giản hoá tình trạng chênh lệch giữa giàu và nghèo, tôi tạm chọn cho mình một hình ảnh gợi ý. Hình ảnh đó là Trung tâm và Ngoại biên.
Trung tâm có thể áp dụng về nhiều mặt. Như trung tâm kinh tế, trung tâm văn hoá, trung tâm chính trị, trung tâm tôn giáo. Những ai được ở trong hoặc gần những trung tâm đó thường được coi là những người hưởng nhiều may mắn về phát triển, về danh dự, về cuộc sống.
Ngoại biên cũng được hiểu về nhiều lãnh vực như trên. Những ai ở ngoại biên kinh tế, văn hoá, xã hội, tôn giáo thường phải chịu nhiều mất mát, thua thiệt, kém cỏi.
Trung tâm và ngoại biên không hẳn chỉ là địa lý, mà còn là tâm lý và pháp lý.
Thời Chúa Giêsu giáng thế, theo truyền thống lâu đời, thì Giêrusalem là trung tâm chính trị, văn hoá và kinh tế, còn đền thờ là trung tâm tôn giáo. Đền thờ này cũng toạ lạc tại Giêrusalem.
Giêrusalem là nơi tập trung những người có địa vị, nắm quyền lực, sống trong phẩm trật và được ưu đãi.
Đền thờ là nơi thờ phượng của người có đạo. Gian trên dành cho các chức sắc. Gian giữa dành cho các đàn ông Do Thái. Gian cuối dành cho phụ nữ và trẻ con. Ngoài hè dành cho các người ngoại giáo, các kẻ tội lỗi và những ai tàn tật.
Chúa Giêsu đi về ngoại biên.
Trong một tình hình như thế, Thiên Chúa có những lựa chọn lạ lùng.
Thực vậy, Chúa Giêsu xuất hiện ở Galilêa. Xứ này là vùng biên, xa trung tâm Giêrusalem.
Người sinh ra trong một gia đình làm nghề mộc, thuộc dạng nghèo.
Như vậy, Người mang thân phận kẻ nghèo để chia sẻ với thế giới những người ngoại biên.
Khi đi rao giảng Tin Mừng, Người ưu tiên để ý đến những người nghèo, người người tội lỗi và những người cùng khổ. Người áp dụng vào chính mình những lời tiên tri Isaia xưa đã nói:
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, Chúa đã xức dầu tấn phong tôi.Sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Lc 4,17-20).
Người cũng đã xác định: “Thầy đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,13).
Người muốn dạy cho mọi người thấy: Trước mặt Chúa không có vấn đề ưu đãi cho trung tâm và bỏ quên hoặc loại trừ những ngoại biên. Người nói rõ ràng với người phụ nữ ngoại giáo xứ Samaria:
“Này chị, hãy tin tôi: Đã đến giờ, các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem… Nhưng giờ đã đến, và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và trong sự thực. Vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (Ga 4,21-24).
Suốt đời, Chúa Giêsu đã sống gần gũi những người ngoại biên, Người đến với họ, Người chia sẻ những nỗi đau của họ, Người được kể như người ngoại biên. Người cho họ thấy Người rất thương họ, và tình thương đó là vô hạn, vô cùng. Thương đến đổ máu mình ra, chết cho họ, chết thay cho họ, và cho mọi người.
Người hiến thân đến tột cùng vì tình yêu. Chính ở điểm hiến thân trên thánh giá, mà Người làm vinh danh Chúa Cha, và chính Người được tôn vinh. Người đã nói trước khi tự nạp mình chịu chết: “Lạy Cha, giờ đã đến. Xin Cha tôn vinh Con Cha, để con Cha tôn vinh Cha” (Ga 17,1).
Người muốn các môn đệ Người cũng hãy theo gương Người, mà đem Tin Mừng đến cho người nghèo khổ như vậy. Muốn được thế, các ngài cần đón nhận sẵn tình thương cứu độ của Người. Để đón nhận, các môn đệ phải rất khiêm nhường trong phục vụ. Gương phục vụ khiêm nhường sau cùng Nguời trối lại là chính Người quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Sau đó, Người truyền dạy: “Thầy đã nêu gương cho các con, để các con cũng làm như Thầy đã làm cho các con » (Ga 13,15).
Phục vụ rất khiêm nhường là một cách tốt nhất để mở cửa lòng, đón nhận lửa tình yêu của Chúa, một thứ lửa đầy ánh sáng chân lý và yêu thương. Nhờ đó, môn đệ Chúa có thể ra đi ngoại biên, đem Tin Mừng cho mọi người, ưu tiên cho những người nghèo khổ.
Vui buồn về thực tế truyền giáo.
Đem mấy tư tưởng Phúc Âm trên đây chiếu dọi vào thực tế truyền giáo tại địa phương, tôi thấy có những điều đáng mừng và có những điểm đáng lo ngại.
Những điểm đáng mừng là từng triệu những người nghèo khổ vẫn đón chờ Tin Mừng, và vẫn sẵn sàng đón nhận Tin Mừng. Nhiều nơi, nhiều người đã gặp được Tin Mừng, nhờ gặp được những người môn đệ Chúa đến với họ, thương cảm đời họ, phục vụ họ một cách khiêm nhường, và dấn thân hy sinh vì họ. Các môn đệ như thế thuộc mọi thành phần, trong đó các nữ tu và giáo dân giữ một vai trò quan trọng.
Những điểm đáng buồn là ở nhiều nơi còn thiếu gương sáng về truyền giáo.
Trên đường đời, không thiếu trường hợp, người có đạo chúng ta thuộc đủ cấp bậc, đã xử sự lạnh lùng với người ngoại biên. Thái độ của ta cũng giống thái độ thầy tư tế và Lêvi xưa trước nạn nhân nằm quằn quại bên vệ đường. Mặc người ngoại Samaria lo cho người ngoại biên (Mt 12,41-44). Ta cứ an tâm đi về đền thờ là trung tâm.
Trong cuộc sống, không thiếu trường hợp, người có đạo chúng ta thuộc đủ cấp bậc, cũng đã xua đuổi người ngoại biên, không cho họ đến gần Chúa. Giống như các môn đệ Chúa xưa đã muốn xua đuổi người đàn bà xứ Canaan. Khi bà cứ lẽo đẽo sát lại bên Chúa Giêsu, để xin Người chữa con bà bị quỉ ám (Mt 15,21-28). Ta bảo vệ Chúa là trung tâm bằng cách loại trừ ngoại biên, tức những ai ta coi là bất xứng.
Trong những công việc chung, không thiếu trường hợp người có đạo chúng ta thuộc đủ cấp bậc, cũng đã đánh giá thấp người ngoại biên. Không giống cách Chúa Giêsu xưa đã đánh giá rất cao người đàn bà goá nghèo, đã dâng cúng vào đền thờ chỉ một đồng xu (Mt 12,41-44). Ta tôn vinh con người theo tiêu chuẩn tiền bạc và địa vị, như thể tiền bạc và địa vị là giá trị của trung tâm đạo.
Hiện nay, Mẹ thánh Têrêsa Calcutta đang được đề cao như một gương mẫu rao giảng Tin Mừng cho người ngoại biên. Mẹ không làm việc gì khác ngoài đi theo đường lối mà Chúa Giêsu đã đi trước. Điều đáng ngợi khen nhất nơi Mẹ là Mẹ làm, chứ không chỉ nói. Với những việc làm yêu thương cụ thể, Mẹ là một người mẹ âm thầm hy sinh, trước khi là thánh vinh quang.
Khi tôn vinh Mẹ Têrêsa, Toà Thánh muốn tôn vinh một tinh thần truyền giáo sáng ngời, một phương cách truyền giáo khôn ngoan, đã rất hữu hiệu, đã gây được nhiều thiện cảm ở các xã hội và tôn giáo đa dạng, tại Ấn Độ nói riêng và Á châu nói chung.
Qua đời sống của mình, Mẹ Têrêsa Calcutta đã giới thiệu dung mạo một Hội Thánh dễ thương, dễ mến. Một Hội Thánh dịu dàng, khiêm tốn phục vụ, đầy tình xót thương, luôn đi tìm những người nghèo khổ, tội lỗi, bị loại trừ, sống trong bế tắc, để đưa họ vào tình Chúa bao la.
Ước gì mọi người truyền giáo chúng ta cũng theo gương Mẹ, để bất cứ ai, nhất là các người ngoại biên, đón nhận được hy vọng là Tin Mừng nơi Chúa là Cha giàu lòng thương xót.
Theo báo cáo tổng kết tình hình 25 giáo phận của các vị giám mục trong Hội nghị Thường niên 2005 tại Đền thánh Đức Mẹ Bãi Dâu, Vũng Tàu. Những dữ liệu trong bản báo cáo như phản ánh phần nào hiện tình của Giáo hội Việt Nam. Chúng ta sẽ căn cứ vào những dữ liệu ấy để xác định bước tiến của Giáo hội Việt Nam trong thời điểm vừa qua.
- Dân số Công giáo
Tính đến ngày 31-12-2004, số người Công giáo trên toàn quốc là 5.776.972 người trên tổng số dân cả nước là 82.032.300 người, chiếm tỷ lệ khoảng 7,04% dân số. So với 45 năm trước (1960), lúc đó dân số cả nước là 29.200.000 người, số giáo dân là 2.094.540 người, chiếm tỷ lệ khoảng 7,17%. Như thế, trong 45 năm qua dân số Công giáo Việt Nam không tăng triển.
- Tình trạng nhân sự
Số linh mục là 3.126 người, so với 1.914 người vào năm 1960.
Số chủng sinh là 1.249 người.
Tổng số tu sĩ là 14.413 người, trong đó có 2.072 nam và 12.341 nữ, so với 5.789 người vào năm 1960. Đây là dấu hiệu tốt, biểu lộ ơn gọi đời thánh hiến khá dồi dào trong Giáo hội Việt Nam, khiến nhiều dòng tu nước ngoài tìm đến để tuyển chọn.
Số giáo lý viên là 53.887 người.
Vấn đề nhân sự: Nếu tổng cộng số linh mục, chủng sinh, tu sĩ, giáo lý viên là 75.353 người trong tổng số 5.776.972 tín hữu, chúng ta tự hỏi số nhân sự này đã được đào tạo ra sao, đã sống Tin Mừng thế nào để thu hút người khác tin theo Đức Kitô? Một vấn đề khác là những người ấy có biết liên đới và cộng tác với nhau để hình thành nên một sức mạnh tổng hợp hay bị chia rẽ bởi sự khác biệt về giáo phận, giáo xứ, dòng tu, linh đạo và đủ loại quan niệm cá nhân.
Chúng ta thử so sánh Giáo hội Việt Nam với một vài Giáo hội trong khu vực, như Giáo hội Hàn Quốc vào năm 2004 có 3.042 linh mục, 4.325.000 giáo dân trong tổng số 47.640.000 dân, chiếm 8,8% dân số, mà vào năm 1949 dân số Công giáo lúc đó mới chỉ chiếm 1% dân số toàn quốc. Có lẽ chúng ta phải nhìn lại cách đào tạo nhân sự cho Giáo hội Việt Nam hiện nay.
- Tình trạng truyền giáo
– Số người rửa tội là 147.127 người, trong đó có 31.519 người lớn, 11.090 trẻ em (từ 1-7 tuổi) và 104.511 trẻ sơ sinh.
– Qua số người được rửa tội, chúng ta có thể suy đoán phần nào về kết quả của Năm Truyền Giáo vừa qua. Nếu số người rửa tội trong năm là 147.127 người, nhưng thực tế số người Công giáo tăng thêm cả năm so với năm trước là 109.544 người, ta có thể thấy số hao hụt là 37.583 người. Chúng ta phải giải thích thế nào về số người hao hụt này? Có thể họ là những người chết chưa được tính vào hay trừ ra trong tổng số dân Công giáo? Có thể họ là những người bỏ đạo?
– Nếu chỉ căn cứ vào số nhân sự tích cực cho công cuộc truyền giáo, dựa vào các linh mục, tu sĩ, chủng sinh, giáo lý viên là 75.353 người, trong khi tổng số người lớn và trẻ em từ 1-7 tuổi được rửa tội là 42.609 người, thì trung bình mỗi người ưu tuyển đó chưa cuốn hút được 2 người theo đạo một năm. Vậy thì gần 6 triệu tín hữu khác truyền giáo như thế nào? Điều này cho thấy kết quả truyền giáo năm nay không cao hơn bao nhiêu so với năm trước (34.469 người) cũng như so với nhiều năm liên tiếp gần đây. Chúng ta đừng quên rằng rất nhiều người lớn theo đạo cũng chỉ để lập gia đình với người có đạo. Vậy đời sống đạo của chúng ta có thực sự thu hút được nhiều người khác tin theo Đức Kitô không? Tỷ lệ phát triển dân số Công giáo trong 45 năm qua hình như không xác định điều đó.
Như thế, xét về mặt truyền giáo, Giáo hội Việt Nam hình như chưa có bước tiến đáng kể.
- Các cơ sở hoạt động mục vụ và bác ái xã hội
* Giáo hội Việt Nam có 1.552 giáo xứ và giáo họ có linh mục đảm nhận mục vụ và còn 890 giáo xứ, giáo họ chưa có linh mục phụ trách.
Như vậy, dù số linh mục là 3.126 người, nhưng chỉ có hơn một nửa đảm nhận chức vụ trong các xứ đạo. Số còn lại vì tuổi cao sức yếu nên không thể quản trị xứ đạo. Trong vòng 10 năm nữa, số linh mục vẫn còn thiếu tại nhiều giáo phận.
* Có tất cả 698 nhà trẻ mẫu giáo, 94 trường cấp I và 5 trung tâm văn hoá.
Trong tình hình mới của đất nước, chính quyền chủ trương xã hội hoá ngành giáo dục. Nhưng các xứ đạo cũng như các tổ chức dòng tu chỉ tập trung cho nhà trẻ mẫu giáo và ít quan tâm đến trường học các cấp, một phần do không còn quản lý các cơ sở giáo dục đã có từ trước năm 1975, một phần không còn đủ nhân sự để quản lý các cơ sở ấy. Tuy nhiên, nếu muốn thúc đẩy công cuộc Tin Mừng hoá xã hội, Giáo hội Việt Nam và cụ thể là các dòng tu, các tổ chức giáo dân nên quan tâm hơn cho công tác giáo dục các cấp, ngay cả cấp đại học bằng cách chuẩn bị đào tạo nhân sự ngay từ bây giờ.
* Người Công giáo, nhất là các tu sĩ, đang làm việc hoặc điều hành tại 99 trạm xá, bệnh viện, 8 trại phong, trung tâm dành cho người tâm thần, người nghiện ma tuý và nhiễm HIV/AIDS, 82 cơ sở khuyết tật, cô nhi viện và nhà dưỡng lão. Trong chủ trương xã hội hoá hoạt động y tế, người tín hữu Công giáo có nhiều điều kiện dễ dàng hơn để trực tiếp thành lập và quản lý các cơ sở từ thiện xã hội. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra vẫn là tình trạng thiếu hụt trầm trọng những người có khả năng chuyên môn để làm việc trong các cơ sở đó.
Ở Việt Nam, nhu cầu về công tác từ thiện xã hội rất cao, với hàng chục triệu người nghèo khổ, khuyết tật, mồ côi, goá bụa, nghiện ngập (rượu, ma tuý, thuốc lá)… nhưng nhiều tín hữu Công giáo dường như chỉ nghĩ đến việc bố thí, giúp đỡ chút ít về vật chất, mà không hiểu được rằng công tác xã hội, gồm thăng tiến con người toàn diện và phát triển cộng đồng, đòi hỏi phải được đào tạo kỹ lưỡng và tổ chức chặt chẽ hơn nhiều.
Những số liệu trên đây tuy không nói hết được tình trạng của Giáo hội Việt Nam nhưng có thể gợi ý cho ta suy nghĩ về bước phát triển và hướng tiến trong tương lai của Giáo Hội này. Chúng ta tự hỏi Giáo hội Việt Nam có thật sự bước đi dưới ánh sáng của Công đồng và Thư chung năm 1980 không?
- CÔNG ĐỒNG VATICAN II VÀ CUỘC CANH TÂN GIÁO HỘI VIỆT NAM
- Ảnh hưởng của Công Đồng
40 năm qua như mời gọi chúng ta nhìn lại đoạn đường Giáo hội Việt Nam dưới ánh sáng Công đồng Vatican II để lượng định xem mình đã đi được bao nhiêu, căn cứ vào những tiêu chuẩn và sự thay đổi từ khi mới có Công đồng.
Chúng ta nhận thấy rằng, trong khoảng thời gian 1965 đến 1975, Giáo hội Việt Nam ở miền Nam đã tích cực đổi mới theo chiều hướng Công đồng trong nhiều lĩnh vực như phụng vụ, đào tạo linh mục, đời sống tu sĩ, giáo dục Kitô giáo, tông đồ giáo dân, và các phương tiện truyền thông xã hội, dù tình trạng chiến tranh có làm chậm bước tiến đôi chút so với các giáo hội khác. Bước tiến này tương đối đồng đều và trải rộng trên toàn khu vực, khác với nhiều giáo hội ở châu Âu và châu Mỹ, đã bị những áp lực nặng nề của các khuynh hướng đối nghịch sau Công đồng.
Thật vậy, Công đồng như thổi một luồng gió mới trên các giáo hội địa phương. Đi đến đâu người ta cũng nhắc đến: cải cách, cải thiện, thích nghi, đối thoại, hoà đồng, dấn thân, cập nhật hoá, cởi mở và đón nhận, làm việc tập thể và cộng đồng… Nhưng do hiểu theo ý riêng mình, thay vì theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, nên những ý niệm trên dẫn tới những thái độ, hành động thái quá, hay bất cập mà không tìm được sự quân bình. Từ đó, ta thấy có nhiều khuynh hướng khác nhau: thụ động, cấp tiến, thủ cựu và trung dung…
Nhóm thụ động, chiếm đa số, tỏ ra lãnh đạm trước những thay đổi của Công đồng. “Họ ngờ vực những nghị quyết của Công đồng và chỉ chấp nhận cái mà họ cho là giá trị” (Đức Thánh Cha Phaolô VI, Diễn văn ngày 28-9-1965). Nhóm cấp tiến muốn đảo lộn và phá bỏ tất cả quá khứ, gây hoang mang, chia rẽ trong Giáo Hội với những đòi hỏi như cho phép linh mục được lập gia đình, phụ nữ được làm linh mục, được tự do ngừa thai bằng mọi phương tiện… khiến Đức Thánh Cha Phaolô VI phải báo động: “Giáo Hội đang phải trải qua một thời kỳ lo âu, tự chỉ trích, có thể nói là tự phá hoại. Gần như đó là một cuộc khuynh đảo bên trong, trầm trọng và phức tạp, không ai ngờ xảy ra sau Công đồng” (Diễn văn ngày 7-12-1968). Nhóm thủ cựu đã phản ứng ngược lại tất cả những đổi mới của Công đồng khi thấy số linh mục, tu sĩ sút giảm kinh khủng và các xáo trộn tiếp theo, nên muốn tìm về quá khứ như các cộng đoàn theo Đức cha Lefèbre dâng lễ bằng tiếng Latinh… May mắn thay vẫn còn có những người thiện chí, biết canh tân theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, dựa trên những truyền thống thánh thiện và kinh nghiệm quý báu ngàn đời của Giáo Hội.
Tuy nhiên, dường như cuộc canh tân tốt đẹp của Giáo hội Việt Nam đã bị ngừng lại từ năm 1975 cho đến một vài năm gần đây. Người ta hầu như quên hẳn Công đồng sau những xáo trộn trầm trọng từ năm 1975. Thậm chí nhiều bản văn Công đồng đã bị đốt bỏ vì nỗi sợ hãi nào đó, nhất là ở các xứ đạo miền quê. Nhiều linh mục, tu sĩ, do công tác mục vụ bận rộn hoặc do đời sống kinh tế khó khăn, nên không có thời giờ đọc những văn kiện Công đồng. Đôi khi trong bài giảng hay giờ học, người ta nhắc đến Công đồng như một thứ gia vị thêm thắt vào cho vui hơn là một sự học hỏi nghiêm túc. Còn giáo dân thì hầu như không cần để ý đến Công đồng vì chẳng có tài liệu học hỏi, và dù có muốn cũng không biết học hỏi ở đâu.
Kết quả là đời sống đạo không mấy thay đổi hay tiến triển đối với nhiều thành phần Dân Chúa. Người ta vẫn giữ đạo theo kiểu sáng lễ, chiều kinh trong khuôn viên của nhà thờ, xứ đạo, chứ chưa đem đạo vào đời để đưa Tin Mừng thấm nhập vào mọi lĩnh vực xã hội như Công đồng đã khuyến khích và định hướng qua 16 văn kiện của mình. Dấu hiệu cụ thể nhất là số người trở lại đạo rất ít so với dân số Công giáo. Tỷ lệ người có đạo càng ngày càng giảm so với dân số cả nước. Tỷ lệ dân số Công giáo của Việt Nam trước Công đồng Vatican II được xếp vào hàng thứ 2 ở châu Á, chỉ thua Philippines. Bây giờ tụt xuống hàng thứ 4 sau cả Hàn Quốc và Đông Timor.
Từ cột mốc so sánh này, chúng ta có thể nói ánh sáng Công đồng còn khá mờ nhạt nơi tâm trí người tín hữu Việt Nam, nhất là ở miền Bắc. Hy vọng những buổi hội thảo về Công đồng nhân dịp kỷ niệm 40 năm sẽ giúp chúng ta thích thú đọc và học hỏi các văn kiện Công đồng, đồng thời tìm ra câu trả lời cho việc đổi mới Giáo hội và dân tộc Việt Nam theo đường hướng Công đồng Vatican II.
- Tìm lại ánh sáng của Công Đồng
Công đồng Chung Vatican II là tác động kỳ diệu của Chúa Thánh Thần để hướng dẫn cộng đồng Dân Chúa trong cuộc lữ hành đức tin và những văn kiện Công đồng có giá trị tuyệt đối trong lĩnh vực đức tin và phong hoá. Vì thế, việc học hỏi các văn kiện Công đồng rất đáng cho chúng ta quan tâm để ta có thể đi đúng con đường canh tân Giáo hội và xã hội Việt Nam. Thật vậy, Công đồng “không chỉ ngỏ lời riêng với những người con của Giáo Hội và tất cả những ai kêu cầu danh Chúa Kitô, mà còn không ngần ngại nói với tất cả mọi người. Công đồng ao ước trình bày cho mọi người biết mình quan niệm thế nào về sự hiện diện và hành động của Giáo Hội trong thế giới ngày nay” (HC Mục vụ Gaudium et Spes, số 2).
Việc học hỏi này nên bắt đầu ngay trong các chủng viện, dòng tu để đào tạo nhân sự cho tương lai, rồi tiếp tục với những khoá thường huấn cho các linh mục, tu sĩ đã tốt nghiệp hay đang hoạt động mục vụ. Việc học hỏi về Công đồng nên mở rộng cho giáo dân, nhất là các giáo dân ưu tuyển là những người đang giữ vai trò lãnh đạo trong các cộng đoàn như các thành viên của Hội đồng Mục vụ Giáo xứ, các huynh trưởng của các đoàn thể Công giáo Tiến hành… Nếu được, chúng ta cũng nên tổ chức các khoá hội thảo để trình bày cho cả những người ngoài Kitô giáo về các đề tài họ quan tâm.
Cần phải đánh tan quan niệm sai lầm nơi một số người cho rằng học hỏi về Công đồng là hoài cổ, là học một thứ gì đã lỗi thời, trong khi hiện nay có nhiều văn kiện của Toà Thánh cập nhật hơn, mới mẻ hơn và thực tế hơn. Văn kiện Công đồng thật ra chính là nền tảng cho tất cả những văn kiện sau này để xây dựng nên toà nhà giáo thuyết của Giáo Hội. Nếu không có nền tảng này, những gì xây dựng sau đó có thể dễ dàng sụp đổ.
Trong việc học hỏi và trình bày về Công đồng, chúng ta cần nhấn mạnh đến trục chính là Giáo hội học mà tất cả các văn kiện Công đồng nối kết vào đó để Giáo Hội nhìn lại mình và nhìn ra thế giới. Vì thế, 2 văn kiện nền tảng cần được nghiên cứu kỹ lưỡng hơn các văn kiện khác đó là Hiến chế Tín lý Lumen Gentium và Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes.
Để trợ giúp và thúc đẩy việc học hỏi cũng như nghiên cứu, HĐGM VN cần sớm hoàn thành bản dịch chính thức và yểm trợ tài chính để in các tài liệu, tổ chức các khoá hội thảo, các buổi thi đố vui cho các em thiếu nhi, thi tìm hiểu về Công đồng cho các bạn thanh niên…
Tuy nhiên, trong công cuộc tìm lại ánh sáng của Công đồng Vatican II để soi dọi cho bước tiến của mình, Giáo hội Việt Nam xác tín rằng ánh sáng thật sự soi chiếu cho mọi người chỉ phát ra từ Ngôi Lời Thiên Chúa (x. Ga 1,9.3-5).
III. TIẾN BƯỚC TRONG ÁNH SÁNG CỦA LỜI CHÚA
- Từ Thư chung 1980
Có thể nói rằng Thư Chung năm 1980 của HĐGMVN gửi toàn thể dân Chúa ngày 1-5-1980 trong Hội nghị Thường niên đầu tiên của các giám mục hai miền Nam-Bắc kể từ ngày nước nhà được thống nhất, được xem là kim chỉ nam cho đường hướng mục vụ của HĐGM trong một số năm vừa qua. Phần thứ nhất của thư chung này giới thiệu một Hội Thánh vì loài người như một nguyên tắc nền tảng của Công đồng Vatican II (số 5-7). Phần thứ hai giới thiệu Hội Thánh trong lòng dân tộc như một sự áp dụng nguyên tắc trên đây vào hoàn cảnh đặc biệt của Giáo hội Việt Nam lúc đó để mời gọi người tín hữu gắn bó với Đức Giêsu Kitô (số 8), gắn bó với dân tộc và đất nước (số 9), cùng đồng bào cả nước bảo vệ và xây dựng tổ quốc (số 10), xây dựng trong Hội Thánh một nếp sống và một lối diễn tả đức tin phù hợp với truyền thống dân tộc (số 11).
Khẩu hiệu hay phương châm rất ý nghĩa của thư chung này thường được nhắc đi nhắc lại nhiều lần: sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào (số 14). Phương châm ấy cũng gợi hứng cho các tổ chức, đoàn thể trong và ngoài Giáo hội Việt Nam có những hoạt động hữu ích để phục vụ đồng bào trong thời gian qua.
- Đến ánh sáng Lời Chúa
Trong Hội nghị Thường niên của HĐGMVN vừa qua, các vị lãnh đạo trong Giáo hội đã công bố thư mục vụ với chủ đề Sống Lời Chúa mà không nhắc đến Thư Chung 1980 và phương châm sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc trên đây. Không phải là các thành viên của hội nghị không nhớ đến năm kỷ niệm này hay muốn phân biệt sống Phúc Âm khác với sống Lời Chúa, nhưng muốn mời gọi toàn thể cộng đồng dân Chúa tiến bước nhanh hơn, xa hơn để phục vụ hữu hiệu hơn, không phải chỉ mang lại hạnh phúc cho đồng bào mà còn cho cả gia đình nhân loại và toàn thể vũ trụ. Điều này chúng ta thấy được trình bày sống động trong ba phần chính của lá thư mục vụ năm nay.
Khi dùng từ Sống Lời Chúa thay cho Sống Phúc Âm, HĐGMVN như muốn nhắc nhở Lời Chúa không phải chỉ là những âm thanh, những câu Kinh Thánh, đặc biệt là các lời Tin Mừng trong bốn Phúc Âm, nhưng là một ngôi vị sống động của Thiên Chúa làm người nơi Đức Giêsu Kitô. Chúng ta không chỉ tìm hiểu, học hỏi, giải thích lời yêu thương này của Chúa Cha (số 2) mà còn phải tiếp xúc, gặp gỡ, yêu thương và cuối cùng hoà nhập trọn vẹn để trở thành một với Ngôi Lời Thiên Chúa (số 3) nhờ tác động của Chúa Thánh Thần (số 4).
Trong một thế giới đang bị tác động bởi của toàn cầu hoá, bị lôi kéo chạy theo nền văn minh hưởng thụ vật chất, bị xâu xé bởi sự phân hoá giữa người giàu và người nghèo, bị xáo trộn khắp nơi vì chủ nghĩa khủng bố… thì việc sống Tin Mừng không chỉ giới hạn giữa lòng dân tộc mà người tín hữu còn được mời gọi để loan báo Tin Mừng cho đại gia đình Thiên Chúa hầu xây dựng một nền văn hoá sự sống và văn minh tình thương.
Trong một đất nước mà dân số có đến 60% thuộc về giới trẻ đang khao khát sống đúng, sống tốt, sống đẹp, sống hào hùng nhưng lại không biết nguồn của chân thiện mỹ là ai. Một đất nước gần 51% dân số là phụ nữ nhưng nhiều người còn bị bạo hành trong gia đình, chưa được hưởng sự bình đẳng về giới. Một đất nước với 26% dân số sống dưới mức nghèo khổ trong khi một thiểu số giàu có ăn chơi phung phí. Một đất nước có hơn 20 triệu người uống rượu và nghiện rượu, hơn 5 triệu người khuyết tật với nhiều dạng khác nhau, trong đó có 1,2 triệu là trẻ em, hơn 3 triệu người goá bụa, đa sống là phụ nữ sống trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, 263.000 người nhiễm HIV/AIDS và dịch bệnh càng ngày càng lan rộng, 160.000 người nghiện ma tuý hầu như chưa tìm được cách phục hồi cho khỏi tái nghiện…
Trong một đất nước như thế thì việc sống Lời Chúa không đơn giản chỉ là sáng lễ chiều kinh với những câu Tin Mừng chú giải cách này hay cách khác. Sống Lời Chúa trên con đường đi tới của Giáo hội Việt Nam chính là gặp gỡ được Đức Kitô, gắn bó với Ngài và trở thành hình ảnh sống động của Ngài để có sức mạnh và tình yêu chữa lành những người bệnh tật, giúp đỡ những người đói khát và giải thoát cho những con người đang bị trói buộc bởi đủ loại xích xiềng (số 9-11). Sống Lời Chúa hôm nay còn là tìm đủ mọi phương cách, nhất là sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội, để chia sẻ cho người khác những gì ta đón nhận được từ Đức Giêsu, giúp họ sống trọn vẹn giá trị của con người và của con Thiên Chúa. Đó là ý nghĩa sự cứu độ mà Đức Giêsu muốn thể hiện qua chúng ta.
KẾT LUẬN
Con đường đi tới của Giáo hội Việt Nam cũng như của mỗi người chúng ta dưới ánh sáng của Lời Chúa như đang mở ra cho chúng ta những chân trời mới, chân trời của hy vọng, hoà bình và yêu thương cho con người, đồng thời cũng mang lại sự phồn vinh, tiến bộ và hạnh phúc cho đất nước.
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển – Khánh Nhật Truyền Giáo – 2014)
Cách đây ít lâu, vào Năm Thánh 2000, người giáo dân Việt Nam có ấn tượng rất vui đối với thư chung của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam với tựa đề: “Hãy vui lên”. Khi ngỏ lời với từng thành phần: “Các linh mục, tu sĩ và chủng sinh; các cụ cao tuổi; những người cha; người mẹ; các bạn trẻ; các em thiếu nhi và anh chị em đau yếu, khổ cực, buồn phiền, bị bỏ rơi – Hãy Vui Lên!”. Khi nghe lời mời gọi của các vị Chủ Chăn, ai nấy đều cảm thấy tràn trề niềm hy vọng.
Năm nay, nhân ngày Khánh Nhật Truyền Giáo, ngày cả thế giới cầu nguyện cho công cuộc loan báo Tin Mừng, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã gửi thông điệp đến toàn thể cộng đồng Dân Chúa trên toàn thế giới. Nội dung của thông điệp đều nói đến: niềm vui của người loan báo Tin Mừng.
Như vậy, ta có thể hiểu rằng: loan báo và đón nhận Tin Mừng phải là một niềm vui sâu xa cho cả người đón nhận và người loan báo.
- Nhu cầu cấp bách của việc loan báo Tin Mừng
Từ sau Công Đồng Vaticanô II, cách riêng từ những thập niên cuối thế kỷ 20, chúng ta không ngừng nhắc đến hai từ “Truyền Giáo”, hay cụm từ đồng nghĩa “Loan Báo Tin Mừng”. Tuy nhiên, loan báo Tin Mừng có đem lại cho chúng ta niềm vui, hay đúng hơn người loan báo Tin Mừng có cảm thấy vui mừng vì họ đang được tham dự vào công cuộc cứu chuộc của Thiên Chúa cho nhân loại hay không? Đây là câu hỏi được đặt ra cho từng người chúng ta mỗi dịp lễ Khánh Nhật Truyền Giáo.
Thật vậy, sứ mạng truyền giáo phải được người tham gia cảm được, thấu được sự hạnh phúc khi họ đang được diễm phúc làm cho lệnh truyền của Đức Giêsu hiện tại hóa nơi hành động, lời rao giảng của chính mình: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15). Đồng thời, niềm thao thức, sự khát khao cho muôn dân được cứu độ phải nung đốt tâm hồn những người tham gia sứ vụ này như một luật buộc vì lòng mến. Nói như thánh Phaolô: “Khốn thân tôi, nếu tôi không loan báo Tin Mừng” (1Cr 9, 16).
Xác định như thế, chúng ta thấy: sứ vụ Loan Báo Tin Mừng là của chúng ta, thuộc về chúng ta. Sứ vụ này là bản chất của Giáo Hội. Vì thế, Giáo Hội không ngừng loan báo điều mà mình đã tin và lãnh nhận. Nếu không loan báo thì chẳng khác gì kẻ khờ dại không biết sinh lời nén bạc đã được Chúa trao, ngược lại, vô tình, chúng ta đã chôn vùi dưới lòng đất. Không loan báo Tin Mừng là chúng ta phản bội lại chính mình, vì hẳn chúng ta đang bị đánh mất mình khi không sống đúng bản chất.
Sứ vụ này lại càng khẩn thiết khi xã hội và con người đang lao xuống dốc với vận tốc quá nhanh, khiến cho nhiều người mất phương hướng khi không biết hay không thể dừng chân để suy nghĩ lại niềm hy vọng hay mục đích tối hậu của cuộc đời mình.
Chính Đức Thánh Cha Phanxicô trong Tông huấn “Niềm vui Tin Mừng” đã viết: “Mối nguy lớn trên thế giới hôm nay, một thế giới hầu như thấm nhiễm chủ nghĩa tiêu thụ, đó là cảm giác cô đơn và lo lắng phát sinh từ một con tim tự mãn nhưng tham lam, sôi nổi chạy theo những thú vui phù phiếm, và một lương tâm chai lỳ” (Evangelii Gaudium, 2).
Đứng trước thực trạng đó, chúng ta không thể ngồi yên khi thế giới này đang mất dần hy vọng khi bám víu vào những điều mau qua chóng hết mà không hề có hy vọng đích thực. Vì thế, cuộc đời buồn tẻ đang bao trùm nhân loại, và một ngày nào đó, con người sẽ phải thất vọng khi lấn sâu vào con đường diệt vong (xc. Sứ điệp ngày thế giới truyền giáo 2014).
- Sức hút nơi người tông đồ là niềm vui có Chúa
Tuy nhiên, loan báo bằng cách nào; thái độ của chúng ta ra sao khi đứng trước sứ mạng cũng như trong khi loan báo Tin Mừng cho anh chị em?
Để trả lời cho vấn nạn trên, Đức Thánh Cha Phanxicô nhân ngày Thế Giới Truyền Giáo, ngài đã thổ lộ tâm tình của mình với các nhà truyền giáo như sau: “Chúng ta đừng để mình bị tước mất niềm vui của việc loan báo Tin Mừng! Tôi mời gọi anh chị em đắm mình vào niềm vui của Tin Mừng và nuôi dưỡng một tình yêu có thể thắp sáng ơn gọi và sứ mạng của anh chị em” (xc. Sứ điệp truyền giáo năm 2014).
Như vậy, niềm vui là điều rất cần thiết cho hồn người tông đồ. Nếu không có niềm vui, người loan báo sẽ không thể cảm thấy một niềm hạnh phúc phát xuất từ sứ mạng, và như vậy, thay vì loan báo Tin Mừng, họ sẽ loan tin buồn! Hoặc quá mâu thuẫn khi chúng ta mang trong mình một não trạng được biểu hiện qua hành động bằng thái độ buồn rầu, thất vọng khi giới thiệu một Đức Giêsu là Chúa Cứu Thế mang lại niềm vui và hy vọng cho nhân loại!
Những lúc như vậy, người tông đồ đã làm cho hình ảnh của Đức Giêsu trở nên méo mó ngang qua hành động của mình. Và như thế, người được ta loan báo Tin Mừng, họ không dại gì lại đi tin và theo một Đức Giêsu không có gì hấp dẫn, không có gì hy vọng và không hề có niềm vui! Điều này đã mang lại cho chúng ta sự thất vọng và sứ vụ bị hiểu sai cũng như thi hành không đúng.
Khi nói về sự phản chứng nơi người tông đồ khi loan báo Tin Mừng, Đức Hồng Y Phanxicô X. Nguyễn Văn Thuận đã nói như sau: “Ưu sầu, chán nản, năn nỉ, phàn nàn… Lúc này người ta mới thấy rõ giá trị những lời khuyên nhủ hùng hồn, những lời tuyên bố nẩy lửa của con đến đâu. Thấy mặt con, ai dám theo Chúa nữa?” (ĐHV. số 538). Tại sao vậy? Thưa bởi vì: chúng ta không nuôi dưỡng niềm vui rao giảng Tin Mừng (xc. Sứ điệp ngày thế giới truyền giáo 2014)
- Nguyên nhân sâu xa để có được niềm vui là lòng mến
Nuôi dưỡng niềm vui là gì nếu không phải là lòng mến! Thật vậy, vì yêu mến Chúa, tôi hy sinh tất cả, chịu đựng tất cả, tha thứ tất cả… Vì yêu mến, tôi phải vui mừng vì đang được chung chia tâm tư, thao thức của người mình yêu. Vì yêu mến, tôi cũng mong muốn cho mọi người được hưởng sự vui mừng mà tôi đang tận hưởng.
Như vậy, nguyên nhân sâu xa chính là người tông đồ không để cho tình yêu của Đức Giêsu xâm chiếm tâm hồn. Hoặc cũng không để cho ngọn lửa tình yêu của Chúa Thánh Thần nung nấu trái tim. Vì thế, hồn người tông đồ đâu có say mê Nước Thiên Chúa và đâu có niềm vui khi rao giảng Tin Mừng!
Khi nói về bản chất của niềm vui được khởi đi từ lòng mến và được đức ái thúc đẩy, Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16 đã nói trong Thông điệp ngày thế giới truyền giáo 2006 như sau: “Sứ mạng truyền giáo, nếu không được định hướng bởi lòng mến, nếu không phát sinh từ một hành động sâu xa của tình yêu thần thiêng, thì sứ mạng đó liền bị rút gọn về chỉ còn như là một hành vi nhân ái và xã hội không hơn không kém. Tình yêu mà Thiên Chúa có đối với mỗi người, kết thành trung tâm của kinh nghiệm sống và loan báo Phúc Âm”.
Muốn trở nên người tông đồ thực thụ vì chan chứa niềm vui, người được sai đi loan báo Tin Mừng phải gặp gỡ thân tình với Đức Kitô, cảm nghiệm được ơn gọi và sứ vụ cao quý của mình, và phải yêu mến những người mà mình có cơ may tiếp xúc, nhất là với người nghèo, người bị bỏ rơi, người sống bên lề… Có được điều đó, người tông đồ sẽ đem lại cho họ niềm vui đích thực khi trong mình đang tỏa lan một niềm vui có Chúa.
Thật thế, Đức Giêsu chính là nội dung của Tin Mừng, hay nói cách khác, Ngài chính là cội nguồn của niềm vui và hạnh phúc. Vì thế, người loan báo và người đón nhận, tất cả đều được: “Niềm vui của Tin Mừng đổ đầy trái tim và cuộc sống của tất cả những ai gặp Chúa Giêsu. Những ai chấp nhận đề nghị cứu độ của Người thì được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn phiền, trống rỗng nội tâm và cô đơn. Với Đức Kitô, niềm vui luôn luôn được tái sinh.” (Evangelii Gaudium, 1).
Mong sao, mỗi người chúng ta hãy hân hoan vui mừng trước, trong và sau khi loan báo Tin Mừng. Chúa sẽ không bao giờ vui vì một người loan báo Tin Mừng nhưng lại với một khuôn mặt buồn rầu, ủ rũ. Biểu hiện đó làm cho họ tự mâu thuẫn với chính mình. Đức cố Hồng Y Phanxicô X. đã nói: “Một ông thánh buồn là một ông thánh đáng buồn”.
Như vậy, niềm vui của Chúa tràn ngập tâm hồn chúng ta và qua đó, chúng ta đem lại cho nhân loại một niềm hy vọng lớn lao là có niềm vui của Chúa ở cùng. Như thế, đến ngày sau hết, chúng ta sẽ vui mừng vì: “Tên anh em đã được ghi trên trời” (Lc 10,20).
Lạy Chúa Giêsu, lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít, xin Chúa ban cho chúng con những thợ gặt lành nghề để ra đi gặt lúa về cho Chúa. Tuy nhiên, xin Chúa ban cho Giáo Hội những thợ gặt với tâm hồn chan chứa niềm vui để đem lại niềm hy vọng cho con người. Amen.
Các Tông đồ đã đánh cá vất vả suốt đêm mà không được con cá nào. Nay Chúa Giêsu bảo các ngài phải ra khơi một lần nữa. Chắc các ngài phải ngần ngại lắm. Ngần ngại vì vừa qua một đêm vất vả, thân thể mỏi nhừ vì suốt đêm phải vật lộn với biển cả, với sóng gió, với chài lưới. Ngần ngại vì đang buồn ngủ. Mắt chĩu nặng vì suốt đêm không ngủ, đang cần một giấc ngủ để hồi phục sinh lực. Ngần ngại vì vừa bị thất bại ê chề, đã mất hết ý chí phấn đấu. Thế nhưng các ngài vẫn vâng lời Chúa, ra khơi, thả lưới. Và kết quả thật là bất ngờ. Lưới đầy cá chất đầy hai thuyền đến gần chìm.
Qua bài Tin Mừng này Chúa muốn dạy tôi những bài học về việc truyền giáo.
Bài học thứ nhất: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi vất vả. Phải lao động đêm ngày. Như các Tông đồ đã chài lưới suốt đêm thâu trong sương đêm giá lạnh, trong sóng gió biển khơi, trong vất vả cực nhọc. Suốt đêm đã lênh đênh trên biển cả, sáng sớm vừa mới về tới đất liền, tưởng được nghỉ ngơi, không ngờ lại phải ra khơi ngay tức khắc. Ra khơi cả lúc đang mệt mỏi cần nghỉ ngơi. Người muốn truyền giáo cũng phải noi gương các tông đồ. Làm việc không nghỉ. Phải đầu tư sức lực và trí tuệ. Phải phấn đấu không ngừng. Làm cho hết việc chứ không làm cho hết giờ. Và phải chấp nhận tất cả những mỏi mệt, những thử thách.
Bài học thứ hai: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi kiên trì. Vì việc truyền giáo có nhiều thất bại hơn thành công, có nhiều mệt nhọc hơn vui thích, nên việc truyền giáo đòi hỏi rất nhiều kiên trì. Kiên trì khi đã gặp thất bại. Kiên trì khi đã chán nản, mệt mỏi rã rời. Kiên trì khi gặp những trắc trở. Như lời thánh Phaolô khuyên dạy: “Hãy rao giảng Lời Chúa. Hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2Tim 4,2). Các Tông đồ thật kiên trì, mặc dù đã thất bại sau suốt một đêm vất vả, các ngài vẫn tiếp tục ra khơi theo lệnh Chúa truyền. Trong quá khứ, ta đã gặp nhiều thất bại trong việc truyền giáo. Hôm nay Chúa lại mời gọi ta hãy ra khơi, hãy lên đường truyền giáo. Ta hãy mau mắn đáp lời Chúa mời gọi, kiên nhẫn làm việc trên cánh đồng truyền giáo, bất chấp mọi thất bại, bất chấp mọi chán nản.
Bài học thứ ba: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi thanh luyện bản thân. Truyền giáo là công việc thánh thiện nên người truyền giáo phải thánh thiện. Sự thánh thiện khởi đi từ nhận thức thân phận yếu hèn tội lỗi. Và từ đó nảy sinh nhu cầu được thanh luyện. Như Phêrô cảm thấy mình tội lỗi không xứng đáng ở gần Chúa. Như Phaolô ngã ngựa cảm thấy mình lầm lạc. Như Isaia cảm thấy môi miệng mình ô uế. Sau khi được thanh luyện các ngài đã trở thành những nhà truyền giáo gương mẫu. Thánh hóa bản thân là một điều kiện quan trọng để truyền giáo thành công.
Bài học thứ tư: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi lắng nghe Lời Chúa. Vì truyền giáo là một công việc thiêng liêng. Nên ta không thể cậy dựa vào sức lực phàm nhân, phương tiện phàm trần. Các tông đồ là những ngư phủ chuyên nghiệp. Các ngài biết rõ biển hồ Galilê như lòng bàn tay. Thế mà các ngài đánh cá suốt đêm chẳng được con nào. Đó là bài học dạy ta biết rằng, nếu cậy dựa vào tài sức riêng, việc truyền giáo sẽ không có kết quả. Việc các tông đồ vâng lời Chúa ra khơi và vâng lời Chúa thả lưới bên phải mạn thuyền cho ta thấy một thái độ khiêm nhường lắng nghe. Dù Chúa Giêsu không phải là ngư phủ chính gốc. Dù Chúa Giêsu không hiểu biết biển hồ, nhưng các ngài vẫn vâng lời Chúa. Chính nhờ thế, các ngài đã thành công. Người làm việc truyền giáo phải noi gương các tông đồ biết khiêm nhường nhận biết sự bé nhỏ nghèo hèn của bản thân để thao thức lắng nghe Lời Chúa. Chỉ làm theo Lời Chúa, làm theo ý Chúa, làm vì Chúa việc truyền giáo mới có kết quả tốt đẹp.
Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta một nghị lực mạnh mẽ để sẵn sàng chấp nhận những vất vả khổ cực trong việc truyền giáo. Xin cho chúng ta biết chấp nhận cả những thất bại mà vẫn kiên trì lên đường truyền giáo. Và nhất là xin cho mọi người chúng ta được Chúa dạy bảo, để biết làm theo ý Chúa. Chỉ có như thế, việc truyền giáo mới có kết quả tốt đẹp.
Lạy Chúa Giêsu, xin kêu gọi chúng con lên đường truyền giáo. Lạy Chúa Giêsu, xin thanh luyện chúng con để xứng đáng làm việc truyền giáo. Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết cách làm việc truyền giáo. Amen.
Khốn cho tôi nếu không rao giảng Tin Mừng
Bài Tin Mừng hôm nay là một lệnh lên đường. Lệnh đó được truyền trước tiên cho mười một môn đệ thân cận của Đức Giêsu. Chẳng bao lâu một môn đệ nữa được thêm cho đủ số mười hai: đó là ông Mát-thi-a thay thế Giu-đa Ít-ca-ri-ót (Cv1,26). Nhưng cuộc bầu ông Mat-thi-a vào nhóm Mười Hai còn được nối tiếp bằng cuộc trở lại của Sao-lô, con người bắt bớ các Kitô hữu, sau trở nên vị Tông đồ Dân Ngoại (Cv 13,47). Ông là biểu tượng của lòng nhiệt thành truyền giáo lây lan với câu nói bất hủ: “Khốn cho tôi nếu không rao giảng Tin Mừng!” (1C 9,16). Chính qua các cuộc hành trình truyền giáo, tông đồ Phao-lô đã thiết lập các giáo đoàn vùng Tiểu Á và Trung Đông. Những địa danh Cô-rin-tô, Thê-xa-lô-ni-ca, Phi-líp-phê, Ê-phê-xô trong cuộc hành trình thứ hai của ngài đã trở nên thời danh với những lá thư ngài viết gửi các giáo đoàn. Thư ngài viết gửi giáo đoàn Ga-lát chẳng hạn, cho thấy thế nào là người môn đệ của Đức Giêsu theo bề sâu. Người đó được đưa vào sự sống của chính Đức Kitô để có thể nói rằng “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gal 2,20). Tức một cách nào đó, Đức Kitô trở nên chủ thể mọi sinh hoạt của người Kitô hữu. Cho nên tự bản chất, người Kitô hữu không thể không làm chứng về sự hiện diện và hành động của Đức Kitô. Người đó tự nhiên thao thức muốn đem Tin Mừng của Đức Kitô loan báo và chia sẻ cho tha nhân.
Hình ảnh sống động về truyền giáo
Nhưng thử hỏi cảm thức về bổn phận truyền giáo nơi các Kitô hữu ngày xưa, ngày nay người trở lại đạo còn nghiệm được chăng? Hãy coi hình ảnh sống động của những Kitô hữu sốt sắng truyền giáo nơi dân tộc ít người. Một số họ đã được giới thiệu hai năm trước đây cũng dịp Chúa Nhật cầu nguyện cho công cuộcTin Mừng hóa thế giới.
Anh BN năm nay 27 tuổi. Anh đã học đạo năm 1993. Kể từ đó anh góp phần đắc lực vào việc truyền giáo giữa đồng bào anh. Mùa mưa bắt đầu là lúc thích hợp nhất để anh ra ruộng, ra rẫy, nơi anh vừa lao tác với đồng bào, vừa truyền đạo cho họ. Anh nói như một nhà thần bí rằng: “Chúa đoan chắc Chúa ở với con và con được ở với Chúa. Con thấy Chúa nói với con. Có những thôn làng muốn biết Chúa. Thế là con thấy rõ Chúa đến nhà kêu con đi. Qua con, Chúa nói với người ta. Người ta nhìn miệng con. Người ta nghe con nói. Điều lạ lùng là người ta tin Chúa! Vợ con sắp sinh cũng bảo con: “Thôi anh cứ đi đi! Đã có Chúa lo cho em ở nhà!” Lần ấy con đi truyền giáo về gần đến làng thì được tin vợ con đã sinh một bé gái. Con quỳ xuống tạ ơn Chúa. Bé gái sinh ra là gia đình con có cơ may được thêm một người đàn ông lo việc ruộng rẫy trong tương lai.” Anh BN có ý nói về phong tục mẫu hệ của đồng bào anh. Bé gái lớn lên mà lấy chồng thì chồng đến ở nhà bố mẹ vợ thay vì vợ đến ở nhà bố mẹ chồng. Gia đình anh hy vọng sẽ có con rể lo việc ruộng rẫy và anh sẽ có thêm cơ hội lo việc truyền giáo.
Anh CĐ hôm ấy đi truyền giáo theo hướng sông Đồng Nai. Nửa đên anh đang đi thì xe đạp của anh bị trục trặc. Khi ấy có tiếng cọp gào. Anh phải chui vào hốc đá khiến cọp đói ngồi rình anh suốt đêm! Anh thưa với Chúa: “Chúa ơi! Con đi truyền giáo nên Xa-tan nó chặn đường con!” Ban sáng khi mặt trời mọc, con thấy mất an toàn nên lỉnh vào rừng sâu. Anh CĐ khi ấy thưa với Chúa: “Chúa ơi, Xa-tan nó đi rồi, thế là con lại lên đường đến điểm truyền giáo như con đã hẹn với người ta.”
Anh X tìm đến với đồng bào anh nơi rừng thẳm vào giữa mùa đói. Họ thiếu thốn cả của ăn lẫn áo mặc. Anh thương họ quá đến nỗi anh đã để lại cho họ tất cả quần áo anh mang theo. Anh về nhà, chỉ còn duy nhất chiếc áo gió và quần xà lỏn trên người!
Hội nhập văn hóa
Anh BX khác hẳn những anh em nói trên về giáo dục và về địa bàn hoạt động. Chính anh đã có công dịch ra tiếng M’nông tất cả các kinh đọc, các bài hát hiện đang được dùng. Anh cũng dịch ra tiếng M’nông cuốn giáo lý căn bản và sách Tin Mừng theo thánh Matthêu. Còn sách Tin Mừng theo thánh Máccô hiện anh dịch xong được 10 chương. Vậy phần đóng góp đặc sắc của anh trong việc truyền giáo cho dân tộc anh là hội nhập văn hóa.
Theo nghĩa tổng quát, văn hóa chỉ tất cả những gì con người dùng để trau dồi và phát triển các năng khiếu đa diện của tâm hồn và thể xác; cố gắng chế ngự cả trái đất bằng trí thức và lao động; làm cho đời sống xã hội, đời sống gia đình cũng như đời sống chính trị trở nên nhân đạo hơn, nhờ tiến bộ trong các tập tục và định chế,… diễn tả, truyền thông và bảo tồn trong các công trình của mình, những kinh nghiệm tinh thần và hoài bão lớn của các thời đại, để giúp cho nhiều người và toàn thể nhân loại tiến bộ hơn (Giáo Hội trong thế giới ngày nay, số 53). Anh BX đang làm công việc truyền thông này về tôn giáo cho dân tộc anh. Thử hỏi một người dân tộc như anh BX mở mắt chào đời nơi rừng sâu, làm sao đạt được trình độ để làm việc văn hóa như hiện anh đang làm? Quan trọng hơn nữa là ý nghĩa truyền giáo của công việc anh đang làm, ý nghĩa ấy lóe lên trong đầu óc anh từ bao giờ? Có dấu nào cho thấy anh đã chọn công cuộc truyền giáo một cách tự do do ân sủng của Thiên Chúa? Hãy nghe anh BX tự thuật, có khi ta sẽ phần nào thỏa mãn được những thắc mắc nói trên.
Đẹp thay bước chân người đi loan Tin Mừng
“Tôi sinh ra năm 1940 khi dân tộc tôi còn trong tình trạng du canh du cư chưa được đặt dưới quyền một Nhà Nước nào. Tới năm 1946, chi tộc trưởng của chúng tôi mới được đặt làm trưởng làng thuộc xã Đắc Tích gồm 16 buôn trong quận Dak Sông, tỉnh Darlac. Riêng tôi lên 8 tuổi mới cắp sách đi học tại trường ngã ba biên giới, và lên 11 tuổi thì được gởi đi học trường tiểu học Nguyễn Du tại Ban Mê Thuột; lên 16 tuổi được nhận vào trường trung học trước khi gọi là Collège Sabatier. Trong hai năm ở đây tôi tự động đi học giáo lý Công Giáo mỗi tuần hai lần vào buổi tối. Ngày đáng ghi nhớ là 12 tháng 5, 1958, khi tôi được Chúa mời gọi đi gặp vị linh mục thừa sai Mai Hộ (Elie Maillot). Ngài nhận tôi vào học lớp giáo lý tại nhà thờ Bu Prăng cùng với hai anh em người Sê Đăng, Kontum. Nhờ đó ngày 12 tháng 5, 1960, tôi được nhận vào nội trú trường đào tạo giảng viên giáo lý mang tên Chân Phước Cuénot, là nơi tôi được học tiếng Bana, tiếng Pháp cũng như học Kinh Thánh Tân Ước và Cựu Ước. Ngày 14 tháng 11, 1960, tôi được chịu phép Rửa Tội, Thêm Sức và bí tích Thánh Thể. Ngày 27 tháng 12, 1960, tôi đã thi đậu bằng tốt nghiệp khóa giáo lý căn bản sơ cấp để trở nên giáo phu, tức Thày giảng đạo.
Thế là tôi bắt đầu dấn thân truyền giáo dưới sự hướng dẫn của linh mục thừa sai Mai-Đình -Sử (Jean Moriceau), vừa đi truyền giáo vừa học thêm.
Thời gian 1960-1964: 6 thôn được nghe tôi trình bày giáo lý và hai gia đình chịu phép Rửa tội.
Thời gian 1965-1975, tôi cùng với 4 giáo phu khác góp phần giúp cho trên ba ngàn người học đạo trong số đó có trên 1,500 người đã chịu phép Rửa tội và Thêm sức qua ba đợt do Đức Cha Mai.
Kể từ đầu năm 1976 tình hình tôn giáo ra khác. Chính tôi phải đi cải tạo 6 tháng tại Đác Nông. Trong suốt mấy năm kế tiếp, tệ nạn xã hội xảy ra trong họ đạo, như ăn trộm ăn cắp, rượu chè, phạt vạ nhau, có một vụ chồng giết vợ, một vụ anh giết em. Trong bối cảnh không mấy sáng sủa ấy, tôi đã cầu nguyện nhiều xin Chúa soi sáng cho tôi biết phải làm gì để phục vụ Người. Tôi được an ủi nhiều nhờ gặp được Đức Cha Phêrô Mai dịp đi họp Mặt Trận tỉnh ngày 30 tháng 12, 1980.
Thời gian 1986-1990, tôi đã hoạt động trở lại dậy giáo lý cho gần 300 gia đình tại Quảng Tín; chừng 100 gia đình tại Quảng Tân; chừng 50 gia đình tại Đạc Rung; 18 gia đình tại Bù Do; 49 gia đình tại Quảng Rực; 300 gia đình tại Đác Nhau. Tôi hy vọng có nhiều thời giờ hơn để giúp những gia đình tân tòng nói trên sau khi dịch xong Tin Mừng theo thánh Mác-cô ra tiếng M’nông”
Anh BX thực sự đã được Chúa an bài để trở nên môn đệ của Chúa Giêsu, cộng sự viên đắc lực của những vị kế nghiệp các thánh tông đồ. Cho nên anh cũng được vinh dự tích cực tham gia việc thi hành lệnh lên đường để làm cho muôn dân trở nên môn đệ của Đức Giêsu.
Một số câu hỏi gợi ý
- Bạn nghĩ gì về tinh thần truyền giáo của anh em dân tộc như BN? X và BX? Riêng về hoạt động truyền giáo của anh BX có những gì đáng kể đối với bạn?
- Theo bạn có gì khác nhau giữa truyền giáo và Phúc Am hóa? Chính đời sống của gia đình bạn, của giáo xứ bạn, của công việc làm ăn bạn đang thực hiện, có cần được Phúc Âm hóa chăng? Bằng cách nào?
(Bài giảng của ĐTGM Phạm Minh Mẫn trong thánh lễ làm phép Dầu ngày Thứ Năm Tuần Thánh 2002)
Lời Chúa hôm nay nói về Chúa Giêsu và chức linh mục. Chúa Giêsu được Chúa Cha trao ban Chúa Thánh Thần và sai đi loan Tin Mừng cứu độ cho người nghèo, giải thoát kẻ lâm cảnh tù đầy, kẻ sống trong nước mắt đau khổ. Chúa Giêsu cũng trao ban Chúa Thánh Thần và mời gọi một số người than dự vào đời sống và chức vụ linh mục của Người, một đời sống và chức vụ phát xuất từ tình yêu, phát triển trong tình yêu, nhằm thể hiện tình yêu, làm chứng cho tình yêu trong giáo hội cũng như ngoài xã hội.
Ngỏ lời với mọi thành phần dân Chúa và riêng với các linh Mục Việt Nam là những người đang tiếp nối sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu, đang truyền giáo trên đất nước Việt Nam ngày nay, Đức Gioan Phaolô II nhắc nhở chúng ta hai điều thiết yếu này:
1/ Thực hiện điều Chúa dạy “Hãy ra khơi”. Nãy ra khơi với mối quan tâm rao giảng Tin Mừng. Hãy ra khơi với ý thức sứ vụ truyền giáo liên quan đến toàn thể dân Chúa và đòi hỏi mọi người phải có lòng nhiệt thành mới, những phương pháp mới, một ngôn ngữ mói. Hãy ra khơi để chia sẻ cho mọi người niềm hy vọng kitô giáo, bằng cách không ngừng đề nghị với nhau con đường đối thọai ngay thẳng và hợp tác lành mạnh.
2/ Hãy nhận luồng gió Chúa Thánh Thần làm cho những sáng kiến tông đồ phong phú mang lại một sinh lực mới cho đời sống cầu nguyện, cho việc huấn luyện nhân sự.
Can đảm ra khơi, đối thoại ngay thẳng, hợp tác lành mạnh, quảng đại chia sẻ, đối với nhiều người, có lẽ là một ngôn ngữ mới, phương pháp mới. Kỳ thực, việc ra khơi, đối thoại bắt nguồn từ tình yêu cứu độ của Ba Ngôi Thiên Chúa đối với loài người, động lực thúc đẩy đối thoại và hợp tác với nhau là lòng bác ái và uoc muốn gặp gỡ Đức Kitô Đấng Cứu Thế, và đường lối mới này dẫn đến chia sẻ niềm hy vọng cho cộng đồng dân tộc. Trong một hoàn cảng xã hội mà lợi lộc, thanh thế, quyền lực, đang lên ngôi như những gía trị hàng đầu trong cuộc sống, con đường đối thoại và hợp tác nhằm phục vụ cho sự sống và phẩm gía con người, đặc biệt người nghèo, người bị bỏ rơi, quả là một thách đố to lớn đối với những nhà truyền giáo hôm nay. Do đó, nếu không có một con tim đầy tình yêu khoan dung, quảng đại và can đảm hy sinh của người mục tử nhân lành, nếu không có một đời sống nội tâm dựa trên ánh sáng và sức mạnh của Chúa Thánh Thần, thì thách đố to lớn đó chỉ là điều không tưởng.
– Chính vì thế mà trong huấn từ gửi đến các linh mục ngày thứ năm tuần thánh năm 2002 này, Đức Thánh Cha khuyên linh mục hãy theo gương đón rước Chúa Giêsu vào nhà mình, hãy mở rộng cửa con tim để cho lòng từ bi thương xót của Chúa Giêsu đi vào và đổi mới nếp sống của mình. Trong cầu nguyện cũng như trong thi hành sứ vụ, linh mục hãy mở rộng tâm trí đón nhận ơn Chúa Thánh Thần soi sáng, thúc đẩy và dẫn dắt ta như một ánh sáng mới làm cho linh mục trở nên thừa tác viên chân chính, chứng nhân trung thực của lòng yêu thương cứu độ của Thiên Chúa trong lòng Giáo hội và xã hội. Có tận tình đảm nhận lối sống của Chuá Giêsu, linh mục mới có khả năng tiếp nối và hoàn thành sứ vụ của mình.
Mỗi ki tô hữu, giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân, từ khi lãnh bí tích thanh tẩy, được Thiên chúa không ngừng tao ban Chúa Thánh Thần, đổ tình yêu của Người vào lòng, và sai đi loan tin mừng. Xin anh chị em hãy thường xuyên cầu nguyện cho mọi ki tô hữu, cho cả giám mục và linh mục, ý thức và quan tâm hiện diện với Chúa Thánh Thần trong mọi suy nghĩ và hành động, ra sức nuôi dưỡng cho tình yêu bác ái của mỗi người được lớn lên trong thực tế cuộc sống hàng ngày. Đó là cách thế giúp mỗi người ngày càng trở nên sứ giả tin mừng của Đức Ki tô. Xin anh chị em hãy cầu cho tôi.
Suy Niệm
Truyền giáo là một mệnh lệnh và cũng là một ước mơ của Chúa Phục Sinh: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ.”
Ngài đòi ta phải ra đi loan báo Tin Mừng, nhưng cuối cùng là phải giúp người khác trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, nghĩa là có tương quan thân thiết với Ngài, dám sống như Ngài, sống cho Cha và con người.
Đấng Phục Sinh nắm quyền trên cả thế giới, nên Ngài sai chúng ta đến với mọi dân tộc. Tin Mừng không còn bị giới hạn trong mảnh đất Israel, nhưng lan rộng khắp trái đất (x. Mt 10,5). Ngày nào còn một người chưa trở thành môn đệ, ngày ấy trách nhiệm chúng ta vẫn còn.
“Bằng cách làm phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Phép Rửa khiến người ta trở thành môn đệ Đức Kitô, và đi vào tương quan với Ba Ngôi Thiên Chúa.
“Bằng cách dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy truyền cho anh em”, như thế các môn đệ thuộc bất cứ thời đại nào đều có một điểm chung, đó là cùng tuân giữ toàn bộ giáo huấn của Chúa.
“Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” Đây không phải là một lời hứa cho tương lai, nhưng là một điều đang xảy ra trong hiện tại. Chúa Giêsu thật là Emmanuel (Mt 1,23), Ngài ở cùng Giáo Hội, ở cùng các môn đệ, Ngài ở bên họ trong mọi bước đường rao giảng (Mc 16,20).
Khi nhìn đến quê hương Việt Nam, chúng ta thấy hơn 70 triệu người chưa biết Chúa. Chúng ta có trách nhiệm loan báo Tin Mừng, có bổn phận nói về Chúa cho họ, nói bằng lời và nói bằng cuộc sống cụ thể. Làm sao qua cuộc sống của tôi: yêu thương, tha thứ, hy sinh phục vụ, bình an vui tươi, người ta gặp được Đấng Vô Hình mà gần gũi? Làm sao tôi có thể trả lời được những câu hỏi, soi sáng được những vấn đề nhức nhối của họ bằng ánh sáng Tin Mừng?
Truyền giáo không phải là tuyên truyền hay mua chuộc, cũng không phải là áp đặt một cách tinh vi, Truyền giáo là hát lên niềm vui chất chứa nơi lòng mình, là tỏa hương tự nhiên như đoá hoa. Truyền giáo là hơi thở của một Giáo Hội đầy sức sống Thánh Thần.
Chúng ta phải biếu Chúa Giêsu cho con người hôm nay. Nhưng trước hết chúng ta phải có Chúa Giêsu, và phải biết lắng nghe con người.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, tại sao ít người Việt Nam theo đạo Công Giáo? Có gì cần sửa đổi để người khác dễ chấp nhận đạo chúng ta hơn không?
Cha Đắc Lộ đã đi truyền giáo ở Việt Nam và đã đóng góp nhiều cho việc hình thành chữ Quốc Ngữ. Theo bạn, người Công Giáo Việt Nam hôm nay có thể làm được điều gì cho quê hương Cha Đắc Lộ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Chúa đã muốn trở nên con của loài người, con của trái đất, con của một dân tộc. Chúa vẫn yêu mến dân tộc của Chúa dù họ từ khước Tin Mừng và đóng đinh Chúa vào thập giá. Xin cho chúng con biết yêu mến quê hương, một quê hương còn nghèo nàn lạc hậu sau những năm dài chiến tranh, một quê hương đang mở ra trước thế giới nhưng lại muốn giữ gìn bản sắc dân tộc và bảo vệ nền đạo lý của cha ông.
Xin cho chúng con đừng nhắm mắt ngủ yên trong sự an toàn và tiện nghi vật chất, nhưng biết trăn trở trước nỗi khổ đau, và làm một điều gì đó thật cụ thể cho những đồng bào quanh chúng con. Ước gì chúng con biết phục vụ đất nước bằng khối óc, quả tim và đôi tay. Và ước gì chúng con biết khiêm tốn cộng tác với muôn người thiện chí.
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – R. Veritas)
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đến viếng thăm Ấn Độ hồi tháng 11.1999. Cao điểm của chuyến viếng thăm này là nghi thức công bố Tông Huấn về Giáo Hội Tại Á Châu. Tông Huấn này là một đúc kết kết quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục tại Á Châu nhóm họp tại Rôma hồi tháng 4.1999. Việc chọn Ấn Độ làm nơi công bố Tông Huấn mang một ý nghĩa đặc biệt. Những nơi mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mong mỏi đến viếng thăm nhất hẳn phải là Đài Loan, Hồng Kông, Trung Hoa Lục Địa và đặc biệt là Việt Nam. Thế nhưng, cho đến nay người ta vẫn cứ nại đến lý do chính trị và quan hệ ngoại giao để không cho Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đến viếng thăm Giáo Hội ở phần đất này. Dĩ nhiên đằng sau những lý do chính trị và quan hệ ngoại giao ấy, ai cũng thấy rõ chủ trương bài trừ tôn giáo và nhất là chống lại Giáo Hội. Tựu trung linh hồn của bất cứ một chế độ độc tài ý thức hệ nào cũng là tinh thần bất khoan nhượng. Người dân không những bị cưỡng bách phải tuyên xưng ý thức hệ của chế độ mà còn bị kỳ thị loại trừ và bách hại về niềm tin tôn giáo của mình.
Tuy là một quốc gia có nền dân chủ lớn nhất thế giới hiện nay, Ấn Độ đang bị xâu xé vì tinh thần bất khoan nhượng. Tại một quốc gia với một tỷ dân này, liên minh cầm quyền gồm những người theo chủ nghĩa Ấn Giáo, trong đó có một số thành phần cực đoan lại tái cử thêm nhiệm kỳ nữa, tinh thần bất khoan nhượng ngày càng gia tăng tại Ấn Độ. Trong những năm gần đây, người ta ước tính là đã có gần 150 vụ tấn công nhắm vào nhân sự và các cơ sở của Kitô Giáo, nhiều vị mục sư và linh mục bị sát hại, nhiều nữ tu bị bạo hành, nhiều nhà thờ bị đốt phá.
Một nhóm Ấn Giáo cực đoan đã tổ chức cuộc biểu tình phản đối nhân dịp Đức Thánh Cha Gioan Phaolô Ii viếng thăm Ấn Độ. Họ đòi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II lên án các cuộc trở lại Công Giáo cũng như xin lỗi người Ấn Độ về những phương pháp truyền giáo cho người Ấn trong quá khứ. Chính trong bầu khí đầy bất khoan nhượng ấy mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đến viếng thăm Ấn Độ, đúng hơn chính bầu khí bất khoan nhượng ấy đã khiến Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chọn Ấn Độ làm nơi để công bố Tông Huấn về Giáo Hội Tại Á Châu.
Trong bầu khí đó chúng ta thấy rằng, sứ điệp mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã ngỏ với các tín hữu Kitô tại Ấn Độ và toàn thể Á Châu, cũng như với tất cả mọi người Ấn Độ là sứ điệp về lòng khoan nhượng. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trưng dẫn cuộc cách mạng bất bạo động vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại do Mahatma Gandhi chủ xướng, Ngài cũng nói đến tấm lòng khoan dung độ lượng của biết bao nhiêu nhà hiền triết Ấn Độ.
Quả thật, tôn giáo nào cũng tốt trong một mức độ nào đó, câu nói này nói lên tinh thần khoan nhượng vốn là yếu tính của tất cả mọi tôn giáo. Thật thế, tôn giáo nào cũng dạy con người ăn ngay ở lành; tôn giáo nào cũng lên án ích kỷ, bạo động, hận thù và tinh thần bất khoan nhượng.
Trong tuyển tập có tựa đề “Con Đường Đơn Sơ” của Mẹ Têrêsa Calcutta, vị Sáng Lập Dòng Nữ Tu Thừa Sai Bác Ái đã viết như sau: “Chỉ có một Thiên Chúa và Ngài là Thiên Chúa của tất cả mọi người. Do đó, cần phải nhận ra mọi người bình đẳng trước mặt Chúa. Tôi vẫn luôn luôn nói rằng, chúng ta phải giúp cho một người Ấn Giáo trở thành người Ấn Giáo tốt hơn; một người Hồi Giáo được trở thành một người Hồi Giáo tốt hơn và một người Công Giáo trở thành một người Công Giáo tốt hơn.” Lễ quốc táng mà chính phủ Ấn Độ đã dành cho Mẹ cách đây 4 năm chứng tỏ rằng, sứ điệp mà Mẹ mang đến cho dân tộc này đã được mọi người đón nhận. Sứ điệp ấy không chỉ được Mẹ Têrêsa nói lên bằng những lời nói suông mà còn bằng cả cuộc sống của Mẹ nữa.
Hôm nay là ngày thế giới truyền giáo, chúng ta hiệp nhau cầu nguyện cho công việc truyền giáo của Giáo Hội, chúng ta cầu nguyện cách đặc biệt cho các nhà thừa sai trên cánh đồng truyền giáo của Giáo Hội. Chúng ta tuyên xưng rằng, Chúa Giêsu Kitô là Đấng duy nhất cứu rỗi nhân loại, nhưng quan trọng hơn cả là chúng ta được Giáo Hội mời gọi mỗi người ý thức về sứ mệnh truyền giáo của mình, nhất là hiểu được ý nghĩa đích thực của việc truyền giáo trong thế giới hôm nay.
Mẹ Têrêsa Calcutta đã định nghĩa về một nhà truyền giáo: “Đó là một tín hữu Kitô say mê Chúa Giêsu đến độ không có một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi người nhận biết và yêu mến Ngài”. Mẹ Têrêsa không những chỉ làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu bằng những lời nói suông, nhưng Mẹ nói về Chúa Giêsu, Mẹ tỏ bày gương mặt của Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống yêu thương phục vụ của Mẹ. Do đó, truyền giáo thiết yếu đối với Mẹ Têrêsa là dùng cả cuộc sống của mình để làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu.
Truyền giáo không chỉ là rao giảng một giáo lý mà thiết yếu là chia sẻ một cuộc sống yêu thương. Đây chính là cốt lõi mà Chúa Giêsu cô đọng trong giới răn mến Chúa và yêu người được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe trong Tin Mừng hôm nay. Trong xã hội mà Kitô giáo chỉ là thiểu số thì truyền giáo đối với Kitô hữu hiện nay là quyết tâm sống như thế nào để cho mọi người nhận biết Chúa Giêsu là Đấng đã đến chỉ để rao giảng một thứ đạo, đó là đạo của tình thương. Trong một chế độ chối bỏ những quyền tự do cơ bản nhất của con người, thì truyền giáo đối với các tín hữu Kitô hiện nay chính là biểu lộ được bộ mặt đích thực của Đạo là yêu thương và khoan nhượng.
(PM. Cao Huy Hoàng – Suy tư nhân ngày Khánh Nhật Truyền Giáo 2014)
Đêm qua, 16-10, tôi nhận một email chuyển tiếp, nội dung được chép lại từ một trang facebook với tựa đề “Cái Đạo Ấy Hay Thật”. Nội dung như sau:
“Xin cầu cho linh hồn Maria mới qua đời. Maria Nguyễn Thị Liên. Sinh năm 1982. Thôn Tân Mỹ, Xã Nghĩa An, Huyện Tư Nghĩa, Tỉnh Quảng Ngãi. Chiều nay đúng 17h15 ngày 16-10-2014 em đã trút hơi thở cuối cùng về với Chúa sau hai năm dài đằng đẳng sống chung với bệnh tật. Xin mọi người hãy hiệp ý cầu nguyện cho em.
CÁI ĐẠO ẤY HAY THẬT!!!
“Cái đạo ấy hay thật!”. Đó là câu nói của Dì em Liên, bởi gia đình em không có đạo. Liên sinh ra, được lớn lên trên miền biển đầy gió, nắng và cát. Gia đình khó khăn, em là con gái lớn, nên phải xa quê vào thành phố kiếm tiền phụ bố mẹ lo cho đàn em bốn đứa ở quê nhà. Em may mắn xin được một chân làm công nhân trong một xí nghiệp may giầy da xuất khẩu ở Bình Dương. Tiền lương cũng tạm ổn đủ lo cho bản thân còn dư chút ít gởi về cho mẹ. Em chăm chỉ làm việc lại ngoan hiền nên không mấy lâu đã có người để ý và rồi hai người ấy đã yêu nhau, chàng thanh niên có đạo chính dân sài thành lại không chê cô gái quê đen đúa. Họ yêu nhau đến 7 năm mới tính đến chuyện kết hôn, vì em ấy phải đợi các em mình khôn lớn mới dám nghĩ đến hạnh phúc của mình. Nào ngờ, vừa học xong giáo lý, chịu phép rửa tội để chuẩn bị làm lễ đính hôn thì em ấy phát hiện mình bị bệnh nan y: phải cắt bỏ toàn bộ tử cung, không thể sinh con được, nhưng chàng thanh niên ấy và gia đình anh vẫn không thay đổi việc cưới hỏi…Nhưng rồi, bệnh em vẫn không qua khỏi. Hai năm điều trị, gia đình em khó khăn nên em phải phụ thuộc hoàn toàn vào bạn trai. Mẹ và bà ngoại của người yêu vẫn luôn đồng hành ủng hộ hai đứa mặc dù biết em bệnh tật, có chữa khỏi cũng không thể sinh con…Nhưng mọi cố gắng đều vô nghĩa, con vi rút đã phá hủy toàn bộ trong cơ thể em. Em quằn quại đau đớn và trút hơi thở cuối trên tay người yêu. Cha chánh xứ Giuse Trương Đình Hiền biết được, nên cho người đến lo toàn bộ đám tang cho em, từ cái ly nhang, bàn thờ, đèn cho đến hòm, đồ tang, liệm…v..v…Mấy đêm liền trước ngày em mất, giáo xứ lại đến đọc kinh, mặc dù nhà em ấy cách nhà thờ cả mười cây số. Thế nên Dì em ấy và gia đình em ấy mới nói “cái đạo ấy hay thật”.
Lạy Chúa, xin thương xót linh hồn Maria mới qua đời, xin dẫn đưa em về nước trời vĩnh cửu, nơi chỉ có tiếng cười và niềm hạnh phúc… và cũng xin cho chúng con luôn ý thức thực tại trần gian là cõi vô thường để chúng con học theo gương Chúa sống khiêm nhường, yêu thương, bác ái như chính gia đình của người bạn trai em ấy để cho mọi người xung quanh đều thốt lên rằng: CÁI ĐẠO ẤY HAY THẬT. Amen.”
Tôi bỗng nhớ một câu chuyện khác ở Xuân Lộc. Cũng hai người yêu nhau, chàng là quí tử của một gia đình hôn nhân dị giáo. Bố chàng là một cán bộ. Mẹ chàng là một Ki-tô hữu đạo dòng, sốt sắng. Nàng là một lương dân. Hai người yêu nhau đã ba năm trời. Và khi họ định kết hôn với nhau thì chuyện không vui xảy đến: nàng có dấu hiệu ung thư… Buồn vời vợi. Mẹ chàng nói với con trai yêu quí: “Đây chính là lúc mà con phải yêu em nhiều nhất, để chứng tỏ mình là người có đạo”. Thế là chàng đã lên kế hoạch dắt nhau khấn xin Mẹ Tapao hằng tháng. Suốt ba năm viếng Mẹ Tapao, cùng với ba năm chạy thầy chạy thuốc cho người yêu… cô nàng không còn dấu hiệu bịnh ung thư nữa vào lần khám cuối cùng tháng 7 năm 2013. Và họ đã nên vợ thành chồng trước mặt Chúa và Giáo Hội vào tháng Mân Côi 2013. Phép lạ của niềm tin, của tình yêu khởi đầu từ việc anh dũng làm chứng cho Tình Yêu Thiên Chúa, để một cán bộ trong nhà mình, một đại gia đình lương dân nhận ra rằng: “Cái đạo ấy hay thật”.
Tôi muốn hiểu từ “hay” trong câu nói của Dì em Liên, và của dân gian, mang nghĩa “tốt”, “lạ lùng”, “khác thường”. Và câu chuyện “Cái Đạo Ấy Hay Thật” đến với tôi trong những ngày chuẩn bị cho ngày “Khánh Nhật Truyền Giáo” gợi lên cho tôi nhiều niềm vui nhưng cũng nhiều thao thức.
– Vui, vì vẫn đang có rất nhiều anh chị em Giáo Dân sống giữa đời thường đang anh dũng làm chứng về Thiên Chúa bằng một tình yêu thương “lạ lùng”, “khác thường”, đến nỗi có thể có một vài lời ra tiếng vào cho là ngu dại! Thiết nghĩ, Thiên Chúa luôn ủng hộ cho những ai yêu ngu dại theo kiểu ấy. Và những ai ủng hộ cho một tình yêu hết lòng, hết sức, hết mình vì hạnh phúc của người mình yêu, ấy là những người đang sống đẹp lòng Thiên Chúa và làm chứng cho Thiên Chúa trước mắt người đời.
Vui, vì không thiếu những tình cảnh oái ăm trở nên thách đố nặng nề lớn lao cho người giáo dân trong thời đại gian dối này, nhưng các tín hữu Chúa vẫn tin tưởng và vượt qua. Có một chị ở đâu mới đến đây hơn năm nay. Chị nghèo khổ, nuôi ba đứa con dại. Ai thấy cũng thương. Kẻ ít, người nhiều giúp vốn cho chị để chị bán bánh xèo qua ngày. Quán bánh xèo của chị mỗi ngày mỗi đông khách. Khoảng 3 tháng trở lại đây, chị có chơi hụi và vay mượn của nhiều người để thêm vốn liếng làm ăn. Bất ngờ, chị biến mất. Nghe đâu số nợ của chị giựt đi khoảng hai, ba trăm triệu. Trong số những người cho chị vay mượn, không ít là người công giáo. Sau giờ kinh Mân Côi tại nhà nọ, sẵn câu chuyện chị bánh xèo giựt hụi, quịt nợ bỏ đi, mấy người đang nói chuyện với nhau về việc giữ “mười bốn mối thương người”: biết ai thực mà thương, biết ai gian mà tránh! Chẳng biết ai thực, chẳng biết ai gian, nhưng chính mình phải là người sống thực. Có một bà già đã cho chị ấy mượn 12 triệu nói: “Tiền để dành uống thuốc, cho ả mượn. Hồi cho mượn thì tui nghĩ vì thương ả, giúp ả làm ăn nuôi mấy đứa nhỏ. Ngờ đâu… Nhưng cũng không sao. Đã thương thì thương cho trót. Biết đâu mà đòi. Chúa cho cái khác”.
“Chúa cho cái khác”. “Cái đạo ấy hay thật”.
Có người nói vui: “Cho kẻ đói ăn. Cho kẻ khát uống. Cho kẻ rách rưới ăn mặc. Viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc. Cho khách đỗ nhờ. Chuộc kẻ làm tôi. Chôn xác kẻ chết”… may ra, chỉ có chôn xác kẻ chết là không bị lừa trong thời này thôi.
Có người lại nói: “Chúa bảo cứ cho”. Chúa không có dặn trước khi cho phải hỏi xem người ta đói thật hay đói giả, đỗ nhờ thật hay giả vờ đỗ nhờ để rồi khuya khoắt cuỗm hết của cải nhà ta đi mất”.
Thao thức, vì chúng ta đang sống trong một xã hội nghiêng lún về tiền bạc, vật chất, dẫn con người ta dần dần đến chỗ vô cảm, và còn tệ hơn thế nữa, dẫn đến chỗ tham lam, ác độc, có thể làm bất cứ chuyện bất nhân bất nghĩa miễn sao cho mình có lợi, có lộc, có dư giả, thoải mái, sung sướng.
Thao thức vì, liệu mỗi chúng ta có đứng vững trước trào lưu duy vật mỗi ngày mỗi cuốn chúng ta vào chỗ vô cảm với nhau, cuốn vào tình trạng không còn biết chạnh lòng xót thương những mảnh đời nghiệt ngả, hoặc cuốn vào chỗ từ chối sự hiện diện của Thiên Chúa và Tình Yêu Quan Phòng của Ngài.
Thao thức vì chúng ta phải lội ngược dòng chảy của những xu hướng vật chất để sống “tốt”, sống “khác thường”, sống “lạ lùng” như Con Thiên Chúa đã sống và đã yêu, để mọi người có thể nói “CÁI ĐẠO ẤY HAY THẬT!”.
Lạy Chúa, Tình Yêu luôn có một tiếng vọng xa ngàn. Xin cho chúng con biết sống yêu như Chúa đã yêu, để làm chứng cho mọi người về một Thiên Chúa Quyền Năng nhưng Giàu Lòng Thương Xót. Amen.
(Xh 22,20-26; 1 Tx 1,5c-10; Mt 28,16-20)
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
- HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH: Lệnh cuối cùng của Chúa Phục Sinh:
Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra lần cuối cùng với các môn đệ trên một ngọn núi tại Galilê. Trước khi lên trời, Người đã trao cho các ông sứ mạng đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Người, làm phép rửa tội cho những ai có lòng tin nhân Danh Chúa Ba Ngôi. Người cũng truyền cho các ông sứ mạng dạy các tín hữu phải giữ mọi huấn lệnh của Người và hứa sẽ ở cùng các ông mọi ngày cho đến tận thế.
CHÚ THÍCH:
– C 16-17: + Mười một môn đệ: Nhóm Mười Hai đã bị mất Giu-đa thắt cổ tự tử nên chỉ còn mười một ông (x. Mt 27,5). + Đi tới miền Ga-li-lê: Theo lời nhắn của hai thiên thần qua hai phụ nữ và lời của Chúa Phục Sinh đã nhắc lại vào sáng Ngày Thứ Nhất trong tuần (x. Mt 28,7.10), mười một ông đã quay lại Ga-li-lê là miền đất truyền giáo của Đức Giêsu trong gần ba năm giảng đạo. Qua đó, Tin mừng Mát-thêu muốn nhấn mạnh sự đồng nhất giữa Đức Giêsu lịch sử, tức là khi Người còn sống và rao giảng Tin Mừng, với Chúa Ki-tô của niềm tin, là sau khi Người đã từ cõi chết sống lại. + Đến ngọn núi: Tin mừng Mát-thêu không xác định là núi nào. Còn theo sách Công Vụ thì đó là núi Ô-liu (x. Cv 1,12). Núi tượng trưng cho nơi Thiên Chúa mặc khải cho các ngôn sứ Cựu Ước (x. Xh 3,1-5; 1V 19,8-14). Trong Tin mừng Mát-thêu, nhiều lần Đức Giêsu cũng mặc khải những điều quan trọng trên núi. Chẳng hạn: Công bố Tám Mối Phúc Thật trên một quả núi (x. Mt 5,1), biến hình trước mặt ba môn đệ thân tín trên núi cao (x. Mt 17,1); ra lệnh cho các môn đệ đi rao giảng Tin mừng phổ quát cho mọi dân tộc trên một ngọn núi (x. Mt 28,16). + Khi thấy Người, các ông bái lạy: Ở đây các môn đệ đã biểu lộ niềm tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh qua thái độ bái lạy Người, giống như các đạo sĩ đã sấp mình bái lạy Hài Nhi Cứu Thế (x. Mt 2,2.8.11), người phong cùi bái lạy xin Đức Giêsu chữa lành (x. Mt 14,33), người đàn bà xứ Ca-na-an bái lạy để xin Đức Giêsu chữa cho con gái bà khỏi bị quỷ ám (x. Mt 15,25). + Có mấy ông lại hoài nghi: Nói đến có môn đệ còn hoài nghi sau khi các ông đã bái lạy Chúa Giêsu xem ra khó hiểu. Thực ra, đến lúc này mọi môn đệ đều đã tin Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết và không ai còn hoài nghi gì nữa. Nhưng trước đó, sự nghi ngờ đã xuất hiện nhiều lần trong các trình thuật hiện ra khác, và mỗi lần sự hoài nghi đều được đánh tan bằng một cách thức khác nhau. Chẳng hạn: Chúa Phục Sinh đã ăn một khúc cá nướng trước mặt các ông (x. Lc 24,41); Người thỏa mãn đòi hỏi được mắt thấy tay sờ của Tô-ma và trách ông cứng lòng tin (x. Ga 20,24). Ở đây, Chúa Giêsu đánh tan sự hoài nghi của một vài môn đệ bằng lời khằng định: Người đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất (x. Mt 28,18). Do đó, sự hòai nghi trong câu này ám chỉ sự hoài nghi của cộng đoàn Hội thánh nói chung. Từ nay các tín hữu không được đòi “Thấy rồi mới tin” như Tông đồ Tô-ma, nhưng phải dựa vào Lời Chúa và quyền năng của Người để xác định niềm tin như Lời Chúa phán: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20,29).
– C 18-19: + Đức Giêsu đến gần: Đến gần là một hành động bày tỏ lòng ưu ái đặc biệt, lấp đầy khoảng cách giữa Thiên quốc và trần gian mà chỉ Đức Giêsu Phục Sinh mới làm được. + Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất: Khởi đầu rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu đã từ chối nhận quyền Sa-tan hứa ban mọi nước thế gian (x. Mt 4,8-10), thì giờ đây Người đã được Thiên Chúa ban cho tất cả. Thế là ứng nghiệm lời tuyên sấm trong sách Đa-ni-en về Con Người: “Người được ban tặng quyền bính, vinh dự, vương triều. Tất cả các dân các nước và các tiếng nói đều phải phụng sự Người” (Đn 7,14), và quyền bính của Người còn bao trùm cả trời đất (x. Cv 13,33). + Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ: Các môn đệ đại diện Hội Thánh nhận bài sai của Chúa Giêsu đi chinh phục thế giới. Từ nay Hội thánh phải nhân Danh Chúa Giêsu mà làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Người, trước tiên là những người Do thái (x. Mt 10,5-6; 15,24), rồi đến mọi dân trên thế giới (x. Mt 8,11; 21,41). + Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần: Ngòai việc rao giảng Tin Mừng để người ta tin theo, các môn đệ còn ban phép rửa nhân Danh Chúa Ba Ngôi để tái sinh họ làm con Thiên Chúa. + Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền: Công việc đào tạo người ta nên môn đệ còn phải được tiếp tục sau phép rửa, bằng lời giảng dạy, cho tới khi Hội thánh đạt tới sự viên mãn của Đức Ki-tô (x. Ep 1,23). + Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế: Chúa Ki-tô Phục Sinh hứa sẽ hiện diện trong Hội Thánh để giúp Hội Thánh chu toàn sứ mệnh rao giảng Tin Mừng cho đến khi Người lại đến vào ngày tận thế. Câu này cho thấy Đức Giêsu chính là “Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x. Is 7,14; Mt 1,23).
HỎI ĐÁP:
– HỎI 1: Mười một môn đệ đã vâng lời Đức Giêsu truyền đến Ga-li-lê (x. Mt 28,10). Khi gặp Người, các ông đều bái lạy, nhưng có mấy ông vẫn còn hoài nghi (17). Phải chăng thái độ của các ông đã tỏ ra mâu thuẫn khi vừa bái lạy, lại vừa hoài nghi?
ĐÁP:
Có hai ý kiến giải thích về sự hoài nghi của một số môn đệ lúc đó như sau:
- Ý kiến thứ nhất: Ở đây các ông không hoài nghi việc Chúa đã sống lại, nhưng hoài nghi không biết người đang tiến lại gần kia có phải là Chúa Giêsu hay không. Giống như trường hợp Ma-ri-a Mác-đa-la lầm tưởng Người là ông làm vườn (x. Ga 20,15), hoặc như hai môn đệ làng Em-mau tưởng Người là một lữ khách cùng đi trên đường với mình (x. Lc 24,15-16). Tuy nhiên lời giải thích này vẫn khó hiểu. Vì các ông đã bái lạy tức là đã nhận ra Chúa Phục sinh rồi, thì tại sao lại còn hoài nghi không biết có phải là Thầy hay không?
- Ý kiến thứ hai: Mát-thêu cần phải nói đến sự hoài nghi trước khi các ông đạt được lòng tin đầy đủ. Vì không tường thuật các cuộc hiện ra khác, nên không có cơ hội đề cập đến sự hoài nghi của các môn đệ trước khi các ông hoàn toàn tin Thầy sống lại, như các Tin Mừng khác đều có nói đến. Vì thế Mát-thêu đã phải đặt sự hoài nghi vào lúc này, không phải đúng như thái độ của các ông khi ấy, nhưng là của các ông trong một lúc nào đó trước khi các ông đạt tới đức tin trọn vẹn. Như vậy, chúng ta có thể coi đây là như một sự trục trặc về cách hành văn, chứ không mâu thuẫn về mặt tư tưởng.
– HỎI 2: So sánh lệnh truyền của Mát-thêu với lệnh truyền của Chúa Giêsu trong sách Công Vụ Tông Đồ (x. Cv 1,8), có sự khác biệt về tính phổ quát của công cuộc truyền giáo và công thức rửa tội: Nhân Danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Phải chăng lời Đức Giêsu ra lệnh cho các môn đệ trong Tin Mừng Mát-thêu đã được Hội Thánh sau này thêm vào để chứng minh cho giáo lý về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi?
ĐÁP:
Thực ra theo Lu-ca, tác giả sách Công Vụ TĐ thì Hội Thánh sơ khai đã phải trải qua nhiều kinh nghiệm mới nhận thức hết ý nghĩa của lệnh truyền phổ quát là đến với muôn dân. Rồi trong Công Vụ TĐ chúng ta chỉ thấy nói tới việc rửa tội “Nhân danh Đức Giêsu” (x. Cv 2,38; 10,48). Từ những nhận định trên, chúng ta có thể quả quyết rằng: mệnh lệnh phổ quát đã được Đức Giêsu ban bố, nhưng lệnh đó chỉ được sáng tỏ dần dần do ơn soi dẫn của Thánh Thần (x. Ga 16,12-13). Nhờ trải qua kinh nghiệm sống, Hội Thánh đã dần nhận ra ý nghĩa của lệnh truyền phổ quát đó. Đến khi Tin Mừng được soạn thảo, thánh Má-thêu đã dùng công thức rửa tội nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, mà Hội thánh được“Thần khí Sự Thật” dạy dỗ, đã đưa vào trong công thức phụng vụ phép rửa, thay cho công thức rửa tội “nhân danh” Chúa Giêsu” như sách Công Vụ thuật lại.
– HỎI 3: Tại sao khi truyền cho các môn đệ “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”, Đức Giêsu lại đòi các ông: “Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (19-20). Phải chăng Chúa bảo các ông rửa tội trước rồi mới dạy dỗ sau?
ĐÁP:
Công việc cứu thế của Đức Giêsu được Tin Mừng Mát-thêu mô tả gồm có bốn việc mà Người trao cho Hội Thánh tiếp tục thực hiện sau này: Một là rao giảng Tin Mừng về Nước Trời (x. Mt 4,23; 7,28-29). Hai là chữa bệnh như chữa lành bệnh phong cùi (x. Mt 8,3), tê liệt (x. Mt 8,6.13), cảm sốt (x. Mt 8,15), băng huyết (x. Mt 9,20-22), phục sinh một bé gái (x. Mt 9,25), chữa bệnh mù (x. Mt 9,29), chữa nhiều bệnh khác (x. Mt 15,30-31)… Ba là trừ quỷ như Xua đuổi ma quỷ khỏi người bị nó nhập vào (x. Mt 8,16), trừ quỷ câm (x. Mt 9,32-33), đuổi quỷ kinh phong (x Mt 17,15-18). Bốn là dạy dỗ: Tiếp tục dạy dỗ tân tòng tuân giữ mọi huấn lệnh của Người (x. Mt 28,20).
– Riêng về việc phải thực hiện điều nào trước giữa rửa tội và dạy dỗ, thì câu Chúa phán không dạy về các việc phải làm trước sau, nhưng muốn diễn giải sứ mệnh “đi thâu nạp môn đệ khắp muôn dân” gồm hai việc là rửa tội và giảng dạy. Ngay từ thời sơ khai, Hội Thánh luôn giảng dạy trước để chuẩn bị dự tòng lãnh nhận phép rửa tội sau. Sách Đi-đa-kê đã hướng dẫn cụ thể về việc cử hành phụng vụ phép rửa như sau: “Sau khi đã nói tất cả những điều đó, hãy rửa tội…” (Didaché 7,1).
- SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19).
- CÂU CHUYỆN: Bài giảng biết đi
Enbớt Suýtdơ (Enbert Schweitser) vừa là một bác sĩ lừng danh lại vừa là một vị thừa sai truyền giáo. Ông đã tình nguyện sang tận Phi Châu để truyền giáo. Tại đây, ông đã dùng tài sản để xây dựng các bệnh viện miễn phí cho người nghèo, rồi giới thiệu Thiên Chúa là tình thương cho bệnh nhân cùng các thân nhân của họ qua việc tận tình chữa bệnh. Công việc bác ái của ông đã được nhiều người biết đến và hết lời ca ngợi. Ông đã được giải No-bel hòa bình vì đã có công đem lại hạnh phúc cho người nghèo tại Phi Châu. Câu chuyện sau đây cho thấy tinh thần bác ái của ông có một sức mạnh lớn lao, giống như một ‘Bài Giảng Biết Đi’ như sau:
Vào một buổi chiều nọ, người ta thấy một đám người rất đông tụ tập nơi nhà ga xe lửa của thành phổ Chi-kê-gô (Chicago) Hoa kỳ, để đón chào một nhân vật nổi tiếng, mới được nhận giải Nô-ben hòa bình năm 1952. Người vừa bước xuống khỏi toa xe lửa là một người đàn ông cao lớn tóc húi cua, trên khuôn mặt phúc hậu của ông có một chòm râu được cắt tỉa cẩn thận. Bấy giờ các phóng viên mà một số nhân vật cao cấp của thành phố đang đứng chờ ở gần cửa toa xe hạng nhất. Khi vị thượng khách xuất hiện, các phóng viên liền bấm máy chụp liên hồi, đang khi đám đông vỗ tay reo hò. Ông khách quý đã cười thật tươi và cúi đầu đáp lễ mọi người. Còn các vị lãnh đạo thành phố thì dang rộng đôi tay để chào đón người mới đươc giải thưởng Nô-ben hòa bình. Nhưng bỗng nhiên, vị khách kia quay mặt nhìn về phía cuối sân ga và vội vã vượt qua đám đông đứng vây quanh, tiến đến gần một người đàn bà lớn tuổi. Bà này hai tay đang xách hai chiếc va-li khá nặng. Khi đến nơi, vị khách quý mỉm cười với bà và đưa tay ra đỡ cho bà ta một chiếc va-li, rồi hai người đi đến một chiếc xe buýt đậu gần đó. Sau khi người đàn bà lên xe, ông không quên chúc bà thượng lộ bình an. Khi quay trở lại đám đông đang đợi mình, ông nhỏ nhẹ nói: “Xin lỗi quí vị. Tôi rất tiếc đã để quý vị phải chờ đợi”. Người đàn ông với cử chỉ đẹp đó không ai khác hơn là bác sĩ Enbớt Suýtdơ (Anbert Schweitser), một nhà truyền giáo nổi tiếng, đã cống hiến cả cuộc đời phục vụ những người nghèo khổ tại Phi Châu. Một thành viên trong ban tổ chức cuộc tiếp đón chứng kiến hành động của Suýt-dơ ở sân ga hôm đó, đã phát biểu cảm tưởng với các phóng viên rằng: “Đây là lần đầu tiên trong đời, tôi đã được chứng kiến một bài giảng biết đi”.
- SUY NIỆM: Đến với muôn dân
1) Lệnh truyền của Chúa Giêsu:
Hôm ấy, mười một môn đệ Đức Giêsu đã trở về Ga-li-lê như Chúa Phục Sinh đã hẹn qua bà Ma-ri-a Mác-đa-la (x. Mt 28,10). Trong cuộc gặp gỡ đó, Đức Giêsu đã nói với các môn đệ ba điều như sau:
– Một là: Người đã được trao “Toàn quyền trên trời dưới đất” (18). Điều này nhắc chúng ta nhớ lại khi Đức Giêsu bị cám dỗ, tên cám dỗ đã nói với người rằng: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi” (Mt 4,9). Nhưng Người đã không theo lời xúi giục của nó. Bây giờ, Chúa Cha đã ban cho Người chẳng những các nước thế gian, mà còn có “toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28,18).
– Hai là: Người ra lệnh cho các môn đệ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (19). Trong thời gian giảng đạo, Đức Giêsu dạy các ông chỉ đi loan báo Tin Mừng cho dân Ít-ra-en, vì đây là dân Chúa chọn có quyền ưu tiên (x. Mt 10,5-7). Nhưng bên cạnh đó, Người cũng rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại và làm phép lạ cứu giúp những ai đặt trọn niềm tin nơi Người. Chẳng hạn: Viên đại đội trưởng ngoại giáo có đức tin mạnh đã được Người chữa cho đầy tớ của ông khỏi bệnh tê liệt (x. Mt 8,5-13); Người đàn bà Ca-na-an có đức tin mạnh đã được Đức Giêsu trục xuất quỷ ra khỏi đứa con gái của bà (x. Mt 15,28).
– Ba là: Người hứa “sẽ ở cùng họ mọi ngày cho đến tận thế” (20). Ngày xưa Đức Chúa đã hứa ở với Mô-sê khi sai ông đi cứu dân Ít-ra-en khỏi tay Pha-ra-ô của Ai-Cập như sau: “Ta sẽ ở với người” (Xh 3,12). Hôm nay, Đức Giêsu cũng hứa ở cùng các môn đệ để giúp các ông chu toàn nhiệm vụ được Người trao phó. Cũng như Mô-sê xưa nhờ được Đức Chúa hiện diện phù giúp đã đưa được dân Ít-ra-en thoát cảnh nô lệ cho dân Ai-Cập mà về tới Hứa Địa, thì nay với sự hiện diện của Chúa Phục Sinh, các môn đệ cũng sẽ thành công trong sứ mạng “đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Người”.
2) Sứ mạng của các môn đệ:
– Lịch sử cứu độ không kết thúc với việc Đức Giêsu lên trời, nhưng là kết thúc với việc người trao cho các môn đệ sứ mệnh truyền giáo. Thực vậy, Đức Giêsu đã chu toàn sứ mệnh rao giảng Tin Mừng Nước Trời và đã mở ra một con đường về trời cho nhân loại chúng ta. Đó là đường: “Qua đau khổ vào vinh quang” (x. Mt 20,18-19). Giờ đây trước khi về trời, Người lại trao sứ mệnh cho các môn đệ tiếp tục rao giảng Tin Mừng, không giới hạn trong nước Do Thái, nhưng là làm chứng cho Người “tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri, và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).
– Sau khi nhận được Thần Khí của Chúa Phục Sinh, các môn đệ đã đi tới các miền Sa-ma-ri, An-ti-ô-khi-a, A-thê-na, và cuối cùng đến Rô-ma, tượng trưng cho tận cùng thế giới theo quan niệm thời bấy giờ. Các ngài đã làm chứng cho Đức Giêsu bằng việc sẵn sàng chịu chết vì danh Chúa: Phao-lô bị chém đầu, Phê-rô bị đóng đanh ngược trên thập giá. Các Tông đồ khác trừ Gio-an, đều được phúc tử vì đạo. Nhưng đến lượt các Tông đồ lại trao bó đuốc Tin Mừng cho các tín hữu đi đến các thành phố khác khắp thế giới. Ngày nay, khi lãnh nhận phép rửa tội và thêm sức, chúng ta cũng đón nhận ánh sáng Tin Mừng để chiếu sáng đức tin tại môi trường mình sống, đến các xí nghiệp, trường học, chợ búa và mọi nơi mình hiện diện. Đến để rao giảng Tin Mừng, để chia sẻ niềm tin về Đức Giêsu chết và sống lại hầu mang lại hạnh phúc cho mọi người.
– Sứ mạng truyền giáo thật là khó khăn như kinh nghiệm của Hội Thánh suốt hai mươi thế kỷ qua đã chứng minh: Khó khăn bên ngoài do các vua quan cấm cách. Khó khăn bên trong do sự bất toàn của một số mục tử và do các gương xấu và tội lỗi của nhiều tín hữu Công giáo. Nhưng Đức Giêsu hứa sẽ luôn ở với Hội thánh cho đến tận thế. Người sẽ ra tay cứu giúp Hội thánh khỏi bị chìm đắm như đã từng cứu Tông đồ Phê-rô xưa (x. Mt 14,29-31). Đức Giêsu cũng hứa sẽ ban Chúa Thánh Thần để soi sáng và giúp các tín hữu hiểu biết sự thật toàn vẹn (x. Ga 16,7.13), như Người đã từng ban Thần Khí cho các môn đệ trong lễ Ngũ Tuần (x. Cv 2,14-4). Chính nhờ Thánh Thần mà chỉ sau bài giảng đầu tiên của Tông đồ Phê-rô tại Giê-ru-sa-lem, đã có tới ba ngàn người gia nhập đạo (x. Cv 2,41).
3) Làm chứng cho Chúa hôm nay:
– Chu toàn sứ mạng: Ngày nay nếu chúng ta quyết tâm chu toàn sứ mạng truyền giáo và sử dụng các phương thế của các môn đệ xưa là rao giảng Tin Mừng bằng chứng tích đời sống, thì chắc chắn chúng ta sẽ chu toàn được sứ mạng tông đồ: “Làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19), và “Nên chứng nhân của Thầy… cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Điều quan trọng phải làm ngay là đừng tiếp tục “đứng nhìn lên trời”, nhưng hãy sống công minh chính trực, chu toàn các việc bổn phận đối với Thiên Chúa và tha nhân. Nhất là luôn nghĩ tới người khác và đáp ứng nhu cầu của họ, khiêm nhường phục vụ những người đau khổ bất hạnh. Ngoài ra còn phải dấn thân đến với anh em chưa biết Chúa, để hợp tác với họ cải thiện xã hội và chia sẻ Chúa là Tình Yêu cho họ.
– Cần phải chủ động đi bước trước đến với anh em lương dân: Mỗi tín hữu chúng ta cần ý thức sứ mạng làm chứng cho Chúa bằng việc năng cầu nguyện cho một người thân trong gia đình như cha mẹ, anh chị em ruột thịt, một người bạn thân hay người hàng xóm chưa biết Chúa hay đang sống trong tội lỗi lạc xa Chúa… Hãy làm các việc bổn phận hằng ngày kèm theo sự hy sinh hãm mình và dâng một lời nguyện tắt để cầu cho họ sơm tin yêu Chúa. Ngoài ra, gặp bất cứ người nào khi đi tập thể dục buổi sáng tại công viên, khi ngồi cùng chuyến tàu xe, ngồi trong nhà chờ chuyến bay, cùng chung phòng tại bệnh viện, cùng đi trên xe đò đường dài… hãy chủ động bắt chuyện làm quen với họ để gây thiện cảm và tìm cơ hội nói về đạo cho họ, tặng họ một quyển sách truyện các thánh khi có dịp thuận tiện…
- THẢO LUẬN:
1) Bạn nhận xét hành động của bác sĩ thừa sai Suýt-de trong câu chuyện trên là đúng hay sai? Tại sao? 2) Đối với những “Ki-tô hữu vô danh” là những người đã có đức tin và muốn theo đạo, nhưng vì hoàn cảnh chưa thuận lợi như là con trai trưởng phải lo cúng giỗ cha mẹ, nên chưa thể theo đạo ngay, chúng ta nên làm gì để giúp họ tin Chúa? Nếu một người lương có đức tin nhưng chết khi chưa được rửa tội, có được cứu độ như người trộm lành trên thập giá với Đức Giêsu không? (x. Lc 23,40-43).
- NGUYỆN CẦU:
– Lạy Chúa Giêsu. Trong ngày thế giới truyền giáo hôm nay, xin giúp chúng con ý thức sứ mạng của chúng con là phải loan báo Tin Mừng Nước Trời ngay trong môi trường chúng con đang sống. Giữa một thế giới u mê tăm tối, xin cho chúng con biết chiếu sáng đức tin bằng việc cầu nguyện cậy trông với lòng yêu mến Chúa. Giữa một thế giới chỉ muốn nhìn thấy hơn là nghe giảng, xin cho chúng con biết làm những việc thiện đi đôi với lời nói về Chúa. Giữa một thế giới còn nhiều chiến tranh thù hận, xin cho chúng con biết thực thi bác ái cụ thể như chia sẻ cơm áo cho người nghèo đói và tận tình phục vụ những ai gặp hoàn cảnh khó khăn.
– Lạy Chúa. Xin cho chúng con biết noi gương Mẹ Maria: Sau khi đón nhận Ngôi Lời nhập thể, đã mang Thai Nhi Cứu Thế đến thăm gia đình Gia-ca-ri-a, mở lời chào hỏi bà Ê-li-sa-bét khiến thai nhi Gio-an nhảy mừng trong dạ mẹ, vì đã nhận được ơn cứu độ (x. Lc 1,39-45). Xin giúp chúng con sau mỗi lần rước lễ, cũng biết chia sẻ tình thương của Chúa cho anh em lương dân chưa nhận biết Chúa. Ước gì chúng con luôn cảm thấy thao thức trước cánh đồng truyền giáo, để xin Chúa sai thêm thợ đến gặt cánh đồng lúa đã chín vàng. Xin cho mỗi người chúng con sẵn sàng dấn thân đến với người chưa nhận biết Chúa, để loan báo Tin Mừng tình thương cho họ, bằng thái độ tiếp xúc ân cần, những lời động viên an ủi, và nhất là bằng hành động bác ái yêu thương và khiêm nhường phục vụ noi gương Mẹ Ma-ri-a xưa (x. Lc 1,56).
- X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Tôi còn nhớ rất rõ thời mới được thụ phong linh mục, một người bạn tặng tôi cuốn ” Giới Luật Yêu Thương ” của Đức Cha Bùi Tuần, Giám Mục Giáo phận Long Xuyên, một cuốn sách thu thập lại một số bài giảng, Đức Cha đã giảng tĩnh tâm cho các chủng sinh. Thú thực, tôi rất thích cách phân tích và truyền đạt tư tưởng của Ngài cho các chủng sinh. Và hôm nay, Chúa nhật 30 thường niên năm A, Tin Mừng lại đề cập tới giới răn quan trọng nhất: “Mến Chúa Yêu Người”. Đạo Công Giáo do Chúa thiết lập là Đạo Yêu Thương. Thiên Chúa là Tình Yêu như thánh Gioan định nghĩa.Do đó, truyền giáo cũng có nghĩa là truyền đạt Đạo Yêu Thương và loan báo Chúa là Tình Yêu.
Chúa Giêsu trong Tin Mừng ngày hôm nay đã trả lời cho người thông luật: ” Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi…Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình ” (Mt 22, 37-39). Đó là cốt lõi của Đạo Công Giáo bởi vì nói cho cùng mến Chúa mà không yêu người là nói láo. Nên, yêu người sẽ gặp Chúa và mến Chúa sẽ gặp người. Vâng, có người sẽ nói tôi yêu mến Chúa thế là đủ vì tôi hằng ngày vẫn đọc kinh, vẫn đi lễ, vẫn làm những điều Hội Thánh dạy mà. Nói thế mới chỉ được một vế vì Đạo Công Giáo là Đạo Yêu Thương. Do đó, nếu nói mình mến Chúa mà lại ghen ghét anh em thì đâu có phải là con Chúa.
Yêu thương là kiện toàn lề luật.Yêu thương là cốt lõi của đạo. Yêu thương là linh hồn, là hơi thở, là nhịp đập của con tim. Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy rất rõ về Giới Luật Yêu Thương mà Ngài đề ra. Hai mệnh lệnh Chúa Giêsu đưa ra là một giới răn duy nhất, vì con người không thể mến Chúa mà lại ghét bỏ, khinh chê hình ảnh của Ngài là con người do Ngài tạo dựng nên. Và thực ra người ta cũng không nói yêu thương con người mà lại không nhận ra Thiên Chúa là nguồn mạch mọi yêu thương, là nguồn sáng tạo nên con người theo hình ảnh của Ngài. Khi con người tách biệt hai giới luật ấy là con người tự chối bỏ tình yêu. Các luật sĩ, biệt phái, tư tế, đầu mục, kinh sư thời Chúa Giêsu quả thực là những con người đạo đức theo quan niệm của họ: họ ăn chay, cầu nguyện và tỏ vẻ bề ngoài yêu mến Thiên Chúa hơn ai hết đến nỗi khi cầu nguyện trong đền thờ họ dám đứng thẳng kể công với Chúa và chê người người anh em cùng cầu nguyện với mình nhưng không dám ngẩng đầu lên vì tự nhận ra mình tội lỗi, bất xứng. Chúa Giêsu đã điểm mặt những hạng tự cao, tự đại, tự mãn là những hạng giả hình: họ chỉ nói cái miệng, họ đặt ra đủ thứ lề luật để bắt người khác gánh, nhưng mình thì không hề đụng tới, không hề giữ luật vv… Chúa ví họ như mồ mả tô vôi bề ngoài, nhưng bên trong thì toàn hôi thối, rữa nát vv… Chúng ta ngày hôm nay có thể ví họ như người máy, người máy có thể làm được nhiều việc, nhưng không có tâm hồn để biết yêu thương thật.
Thánh Gioan đã giải thích “Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em thì đó là kẻ nói dối, bởi vì kẻ không yêu thương người anh em nó thấy trước mắt, thì không thể yêu mến Đấng nó không thấy”. Chúa đã đưa ra giới luật và giải thích giới luật. Sau khi hiểu được Lời của Chúa, chắc chúng ta không ít thì nhiều cũng thấy dáng dấp của mình trong đó. Hoặc chúng ta ít nhiều cũng hám danh vọng, cũng thích khoe khoang, tự cao, tự nâng mình lên và muốn hạ người khác xuống vì ích kỷ tự cho mình là hơn người.
Chúa Giêsu quả là con người vĩ đại đã thẳng thắn vạch trần thói giả hình của con người và Ngài cương quyết đẩy lùi, tiêu diệt thói giả hình ấy. Ngài cho đó như một thứ ung nhọt phải loại trừ. Ngài cho chúng ta thấy chúng ta để chúng ta chân thành và khiêm tốn hơn.
Ngày nay, người ta thích những chứng nhân sống hơn là những thầy dạy chỉ nói suông, chỉ sống bề ngoài. Chúa muốn mọi người phải biết sám hối, ăn năn và canh tân đời sống. Trong nội tâm mỗi người, ai cũng có một chút tham vọng, một chút háo danh muốn tự đề cao mình và đè bẹp kẻ khác. Chúa dạy và làm gương cho chúng ta: “Trong anh em, ai làm lớn, phải làm người phục vụ anh em” (Mt 23, 11) và “Ta đến phục vụ, chứ không phải để được hầu hạ”,
Đỉnh cao của Đạo Công Giáo là Tình Yêu. Hãy yêu như Chúa vì Yêu người sẽ gặp Chúa và kính mến Chúa sẽ yêu mến anh em, yêu thương con người, yêu thương ngay cả kẻ thù. Và cuối cùng, đó là truyền giáo, là loan báo một Đấng Thiên Sai: “Đức Giêsu Kitô đầy chạnh thương và nhân hậu”.
Thánh Phaolô viết: ” Đức Kitô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt ” (Ep 5, 2).
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin cho chúng con được thêm lòng tin cậy mến, và biết yêu chuộng những điều Chúa truyền dạy, hầu đáng hưởng những gì Chúa hứa ban (Lời nguyện nhập lễ, lễ Chúa nhật 30 thường niên).