Các bài suy niệm Chúa Nhật 10 TNB

print

CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 10 TN B

Lời Chúa: St 3,8-15; 2Cr 4,13-5,1; Mc 3,20-35

MỤC LỤC

  1. Gia đình.
  2. Chống các tay sai của quỷ vương – ViKiNi
  3. Suy niệm của Lm. Đinh Tất Quý.
  4. Suy niệm của Lm. Đinh Tất Quý.
  5. Là anh chị em của Đức Kitô (Mc 3,20-35)
  6. Ai là anh em tôi
  7. Học hỏi Tin Mừng của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu.
  8. Satan, tên phá hoại
  9. Tội phạm đến Chúa Thánh Thần.
  10. Thân và Thù.
  11. Suy niệm và chú giải của Lm. Ignatiô Hồ Thông
  12. Hai căn nhà.
  13. Suy niệm của William Barclay.
  14. Hạnh phúc thật ở đâu?
  15. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux.
  16. Chú giải của Noel Quesson
  17. “Satan phải diệt vong”
  18. Tìm hiểu Tin Mừng Mc 3,20-35
  19. Hạnh phúc là thành viên trong gia đình Chúa
  20. Chúa Giêsu chất vấn chúng ta.
  21. Suy niệm của Lm. Trọng Hương.

1. Gia đình

Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ về tương quan giữa Chúa Giêsu và gia đình của Ngài để rồi rút ra những bài học thực hành về vai trò của gia đình.

Chúa Giêsu đã sinh ra và lớn lên trong một gia đình. Suốt ba mươi ba năm của thân phận làm người, Ngài đã sống ba mưởi năm với gia đình. Cũng như bất cứ người Á đông nào, Ngài rất coi trọng những mối dây liên hệ thân thuộc: Trong ba năm rao giảng công khai, Ngài vẫn tìm dịp trở về thăm làng cũ và giữa lúc Ngài bận rộn với sứ vụ, bà con thân thuộc vẫn tìm đến thăm Ngài.

Quả thật, Chúa Giêsu coi trọng những liên hệ máu mủ và tình bà con lối xóm. Ngài quý trọng gia đình, Ngài đề cao sự thánh thiện và bất khả phân ly của hôn nhân. Tuy nhiên Chúa Giêsu đã không lập gia đình: trong ba năm thi hành sứ vụ, Ngài sống xa gia đình, không nhà không cửa. Như vậy đối với Chúa Giêsu, trên cõi đời này, gia đình cũng như mọi thứ định chế khác của loài người không phải là những giá trị tuyệt đối.

Chỉ có một giá trị tuyệt đối, đó là con người. Bởi vì chỉ có con người mới có một định mệnh vĩnh cửu. Tất cả đều hiện hữu vì con người. Trong kinh Tín Kính, Giáo Hội tuyên xưng: Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế. Như vậy, ngay cả mầu nhiệm nhập thể cũng là vì con người. Chính Ngài đã tuyên bố: Ngài đến để phục vụ chứ không phải đến để được phục vụ. Nếu Con Thiên Chúa xuống thế là để phục vụ con người, thì huống chi những định chế của xã hội loài người. Tất cả hiện hữu vì con người, gia đình cũng như xã hội hiện hữu vì con người, chứ không phải con người vì gia đình và xã hội.

Từ cái nhìn trên đây của Chúa Giêsu về gia đình chúng ta có thể thấy được vai trò của gia đình, và một cách cụ thể mục đích của việc giáo dục con người đầu đội trời, chân đạp đất. Chân đạp đất là thái độ phải thắng dẹp những lôi cuốn tội lỗi thế tục, là đạp lên trên những gì làm cho mình ra hèn hạ như cát bụi, là đạp lên trên những gì đưa chúng ta xuống đất.

Nếu chân đạp đất chỉ những sự phàm trần, thì đầu đội trời chỉ những sự siêu phàm. Đầu đội trời chỉ thái độ vươn lên những gì cao thượng, cố gắng phóng mình tới lý tưởng cao vời, hướng tâm hồn về mục đích ở bên kia thế giới, nỗ lực băng mình lên cao để tìm về quê hương Nước Trời. Nói một cách cụ thể, thì đầu đội trời chính là việc Cha trên trời, là hướng về trời cao, là sống cho những giá trị vĩnh cửu.

Sống đúng ý nghĩa ba chữ đầu đội trời, phải là mục đích của việc giáo dục gia đình, bất cứ hành động nào đi ngược lại với mục đích ấy đều là phản giáo dục.

 

2. Chống các tay sai của quỷ vương – ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Nếu tôi là Đức Giêsu, tôi sẽ buồn phiền chán nản vô cùng: vừa bị thân nhân gia đình bôi nhọ là: “Ông ấy mất trí”, lại bị nhóm kinh sư từ thành đô Giêrusalem đến xem xét rồi chụp mũ: “Ông ấy bị quỷ vương Bengiêbút ám nhập và dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ”.

Đó là những bẫy rất tâm lý và cực kỳ nguy hại của sa tan, để đánh bại chương trình cứu độ của Đấng Cứu Thế như nó đã đánh bại chương trình sáng tạo của Thiên Chúa. Trước kia nó đã mặc lốt con rắn cuốn lôi con người bỏ Thiên Chúa mà theo nó phạm tội ăn trái cấm (Bài đọc 1). Bây giờ, nó núp bóng dưới dạng thân nhân và kinh sư âm mưu tráo trở công việc cứu độ của Đức Giêsu biến thành công việc của nó. Đức Giêsu đã mạnh mẽ phản kháng những lừa bịp độc hại của sa tan. “Người liền gọi dân chúng, những con người hiền lành chất phác đến nghe Người giải tỏa cho họ khỏi nọc độc bịp bợm của rắn quỷ, bằng kiểu luận lý dễ hiểu, ai cũng có thể thấy rõ được: “Nước nào chia rẽ, nước ấy sẽ mất; nhà nào chia rẽ, nhà ấy sẽ tan”.

Một tiền đề sát với đời sống cụ thể của họ và rất sắc bén để dẫn tới áp dụng kết luận: “Vậy satan chống lại satan, satan tự chia rẽ satan, thì chúng không thể tồn tại, tất nhiên chúng dẫn đến diệt vong”.

Người đau đớn quay sang nói với bọn kinh sư, tay sai của quỷ rằng: “Nếu Ta nhờ Bengiêbút mà trừ quỷ thì bè phái các người nhờ ai mà trừ quỷ? Bởi thế, chính họ sẽ xét xử các ngươi”.

Đồng thời Người cũng cho họ thấy rõ sự thật hiển nhiên là: “Ta đã nhờ Thiên Chúa mà trừ quỷ thì quả là nước Thiên Chúa đã đến trên các ngươi” (Mt. 12, 27-28).

Nói đến đây, đáng lẽ ra các kinh sư là những người thông Kinh thánh, họ phải nhớ ra việc Elia xưa đã nhờ Thiên Chúa mà trừ diệt những kẻ dựa vào quỷ Bengiêbút thời vua Akhap và Ôkhôgia vua Israen. Ôkhôgia khi bị đau liệt, ông đã sai sứ giả đi cầu khẩn Bengiêbút. Thiên Chúa đã thúc giục tiên tri Elia đi đón sứ giả và nói: Ở Israel không có Thiên Chúa sao mà các ngươi lại đi cầu khẩn Bengiêbút? Cho nên Thiên Chúa phán thế này: Ngươi sẽ chết trên giường ngươi nằm. Ôkhôgia cố chấp không nghe lời cảnh cáo của Elia, còn sai quan quân tất cả hai lần trăm người đến bắt Elia. Elia đã nói: Nếu ta là người của Thiên Chúa, thì lửa hãy từ trời xuống thiêu đốt các ngươi đi. Và lửa từ trời đã thiêu đốt sạch bọn chúng, và cả nhà vua cũng chết, trừ đoàn sứ giả thứ ba biết khấn xin người của Thiên Chúa thì được sống (2V. 1, 2-17).

Những hạng người cầu khẩn tà thần ma quỷ, những người khăng khăng cố chấp những tà thuyết mù quáng, những hạng người ác ý thay trắng ra đen, xuyên tạc công việc của Thiên Chúa sang công việc của quỷ thần, những hạng người đó đã xúc phạm đến Chúa Thánh Thần, chúng chẳng bao giờ được tha thứ, chúng lì lợm đến diệt vong.

Chỉ có những người ngay lành thiện chí như dân chúng, biết nhận ra lẽ phải, biết lắng nghe lời Thiên Chúa, biết đón nhận những việc lành phúc đức, mới thực sự “là mẹ, và anh em của Đức Giêsu”.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết siêng năng đến xum họp chung quanh bàn tiệc thánh Lời Chúa và Mình Máu Thánh Chúa, như đám đông dân chúng xưa đã ngồi vây quanh Người để lắng nghe và thực thi ý Thiên Chúa và được vinh phúc trở nên làm mẹ và anh em với Người. Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.

 

3. Suy niệm của Lm. Đinh Tất Quý

“Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa,

người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.” (Mc 3.35)

Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe hơi dài, mang nhiều sự kiện rời rạc nhưng nếu chịu khó suy nghĩ, chúng sẽ giúp cho sự hiểu biết của chúng ta về Chúa Giêsu phong phú và toàn diện hơn.

  1. Chúa Giêsu là Người bị mất trí (Mc 3,21)

Đây không phải là cảm nghĩ của những người xa lạ, nhưng là của những người thân nhân với Chúa. “Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí.” (Mc 3,21)

Đọc trong toàn bộ Tin Mừng ai cũng phải nhận Đức Giêsu là người rất quân bình, vậy mà người ta còn cho Ngài là người bị mất trí, khi thấy Ngài xả thân để lo cho đám người đông đảo. Rồi Ngài còn bị coi là bất bình thường, khi Ngài và các môn đệ bận bịu, lo phục vụ đến nỗi không có cả thời giờ nghỉ ngơi và ăn uống.

Đúng là họ chẳng hiểu gì về Chúa Giêsu, dù họ tưởng mình đã biết rất rõ về Ngài.

Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta có một cái nhìn khách quan và trong sáng về mọi người cũng như những việc xảy ra chung quanh cuộc sống của chúng ta, để cuộc sống của chúng ta có nhiều niềm vui và hạnh phúc hơn..

Ngôi sao điện ảnh Lloyd lái xe đến trạm sửa chữa. Cô thợ máy ân cần đón tiếp anh. Ngay lập tức anh đã bị cuốn hút bởi đôi tay khéo léo và điêu luyện của cô.

Cả Paris đều biết đến anh, Thế nhưng cô gái này lại tỏ vẻ rất bình thản, xem ra không mấy vui sướng cũng như ngưỡng mộ con người nổi tiếng này.

– Cô có thích xem phim không? Anh ta hỏi.

– Đương nhiên là thích rồi, tôi là một “fan” điện ảnh mà.

Tay cô rất nhanh, chẳng bao lâu có đã sửa xong xe:

– Ông có thể lái xe đi rồi, thưa ông.

Anh ta vẫn tiếp tục:

– Thưa cô, tôi có thể đưa cô đi dạo được không?.

– Không! Tôi còn có công việc.

– Đây cũng giống như là công việc của cô. Cô sửa xe cho tôi, tốt nhất là tự mình lái thử kiểm tra xem sao.

– Được, vậy tôi lái hay ông lái đây?.

– Tôi lái, tôi mời cô mà!.

– Xe chay rất tốt, cô gái hỏi:

– Xem ra không có vấn đề gì, vậy xin ông vui lòng cho tôi xuống được không?.

– Sao cơ? Cô không muốn tôi đưa đi sao? Tôi chỉ muốn hỏi lại cô một việc, cô có thích xem phim không?.

– Tôi rất thích, tôi đã trả lời với ông rồi mà, hơn nữa tôi còn là một “fan” điện ảnh nữa.

– Vậy cô không nhận ra tôi sao?.

– Sao tôi không nhận ra chứ! Từ đầu tôi đã nhận ra ông là diễn viên điện ảnh Lloyd nổi tiếng hiện nay mà.

– Biết thế, sao cô vẫn lãnh đạm vậy?.

– Không! Ông lầm rồi, tôi không hề lãnh đạm. Nhưng tôi không cuồng nhiệt như các cô gái khác. Ông có thành tựu của ông. Tôi có công việc của tôi. Ông đến đây để sửa xe. Ông là khách hàng. Nếu ông không phải là ngôi sao nổi tiếng, khi ông đến sửa xe thì tôi cũng tiếp đãi như vậy. Giữa người với người không phải như thế sao?.

Anh ta im lặng. Đối diện với cô gái bình thường này anh cảm thấy mình tầm thường và thật ngông nghênh.

– Cảm ơn cô! Cô đã khiến cho tôi phải tự cảnh tỉnh về giá trị bản thân. Được, bây giờ tôi đưa cô về.

  1. Đức Giêsu là người của quỷ, cậy dựa vào sức mạnh của Quỉ Lớn mà trừ quỉ nhỏ.

Khi các kinh sư từ Jêrusalem xuống để điều tra về Đức Giêsu. Họ không thể phủ nhận được chuyện Ngài có khả năng trừ quỷ, nhưng họ lại giải thích với cái nhìn đầy ác ý. Tin Mừng ghi: “Các kinh các kinh sư từ Giêrusalem xuống thì lại nói rằng Người bị quỵ vương Bê-en-dê-bun ám và Người dựa thế quỵ vương mà trừ quỵ. (Mc 3,21)

Thật là “tội nghiệp” cho Chúa! Đấng mà thần ô uế đã phải sấp mình xuống dưới chân mà tuyên xưng: “Ông là Con Thiên Chúa” (Mc 3,11); Đấng đã khiến quỉ phải kêu la khi xuất ra. Vậy mà các kinh sư lại nói về Chúa như thế. Đúng miệng lưỡi của “thế gian”.

Chúng ta hãy tập cho mình có một lương tâm ngay thằng và trung thực đừng để những tà ý làm hỏng cái tính bàn thiện Thiên Chúa ban cho chúng ta.

Một buổi chiều thứ bảy đầy nắng ở thành phố Oklanama, tôi cùng một người bạn và hai đứa con của anh đến vui chơi tại một câu lạc bộ. Bạn tôi tiến đến quầy vé và hỏi:

– Vé vào cửa là bao nhiêu? Bán cho tôi bốn vé. Người bán vé trả lời:

– 3 đô la một vé. Chúng tôi đặc biệt miễn phí cho trẻ em dưới sáu tuổi. Các cậu bé này bao nhiêu tuổi?

– Đứa lớn bảy tuổi và đứa nhỏ thì lên bốn. – Bạn tôi trả lời.

– Như vậy tôi phải trả cho ông 9 đô la tất cả.

Người đàn ông ngước lên với cặp mắt ngạc nhiên:

– Sao ông không nói rằng đứa lớn chỉ mới sáu tuổi? Như thế có phải là tiết kiệm được 3 dollars không?

Bạn tôi nhìn người bán vé rồi chậm rãi nói:

– Dĩ nhiên, tôi có thể nói như vậy và ông ta cũng sẽ không nhận ra. Nhưng bọn trẻ thì biết đấy. Tôi không muốn bán đi sự kính trọng của những đứa con và lòng trung thực của mình chỉ với 3 dollars. (Hồng Diễm)

  1. Mẹ và anh em của Chúa Giêsu.

Tin Mừng ghi lại: “Lúc ấy, đám đông đang ngồi chung quanh Người. Có kẻ nói với Người rằng: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy!”

Nhưng Người đáp lại: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?”

Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.” (Mc 3,32-35)

Khi nói như thế Chúa Giêsu không có ý phủ nhận mối giây liên kết máu mủ gia đình với Chúa. Ngược lại nhiều nhà chú giải còn bảo là Chúa muốn đề cao Đức Mẹ.Ví Đức Mẹ làm Mẹ Chúa Giêsu đến hai lần!

Phải nhận rằng việc thì hành thánh ý Chúa không phải là chuyện dễ làm. Abraham ngày xưa là một thí dụ.

Phải can đảm lắm mới có thể thi hành thánh ý Thiên Chúa trong cuộc sống làm người của mình.

Ngày 30-01-1938 chuyến xe lửa khởi hành từ Quito Galio dến Colombia bất ngờ bị trật đường rầy. Tai nạn làm cho nhiều người chết và bị thương, trong số hành khách đang quằn quại vì những vết thương đau đớn, người ta thấy có một linh mục tên là Felix Louis dòng thánh Don Bosco. Cha bị gẫy chân, và một phần ruột lòi ra khỏi bụng. Nhận ra Ngài, các y tá đã chạy đến giúp đỡ Ngài. Nhưng cha ra hiệu cho các y tá phải lo săn sóc các hành khách khác. Nói xong cha lấy hết sức mình, nhét ruột vào bụng, lấy khăn băng lại, và xin người ta dìu tới những nạn nhân bị thương nặng, đang hấp hối, để giải tội cho những ai muốn xưng tội.

Làm xong công tác mục vụ, linh mục nói với các y tá: tôi cám ơn Chúa đã cho tôi thi hành chức vụ linh mục của tôi cho tới giây phút cuối cùng. Giờ đây các cô có thể đưa xác tôi đi.

Người ta vội đưa Ngài đến bệnh viện Hedini. Nhưng chỉ vài giờ sau, Ngài đã trút hơi thở cuối cùng khi chưa tròn 36 tuổi (Góp nhặt 217).

Lạy Chúa xin cho mỗi người chúng con biết can đảm làm cho thánh ý của Chúa được hoàn thành trọn vẹn từng giây từng phút trong cuộc đời của chúng con. Amen.

 

4. Suy niệm của Lm. Đinh Tất Quý

(Bài giảng lễ thiếu nhi)

“Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa,

người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.” (Mc 3.35)

Thiếu nhi chúng con yêu quí,

Chúng con vừa nghe cha đọc cho chúng con nghe một bài Tin Mừng của thánh Marcô. Bài Tin Mừng này dài, gồm tới ba câu chuyện.

Cha đố chúng con đó là những câu chuyện gì nào?

– Thưa cha đó là câu chuyện Chúa Giêsu người thân của Chúa cho là người mất trí.

Thưa cha đó là câu chuyện Chúa Giêsu bị nhóm kinh sĩ của người Do Thái vu khống bảo Chúa dựa vào thế quỉ vương mà trừ quỉ nhỏ.

Thưa cha, câu chuyện Chúa nói chỉ những ai thi hành thánh ý Thiên Chúa mới là mẹ và anh em của Chúa.

– Chúng con trả lời rất hay! Bữa nay cha sẽ nói cho chúng con về câu chuyện thứ hai và thứ ba.

  1. Chuyện Chúa Giêsu bị vu cáo.

Các kinh sư từ Jêrusalem xuống cho rằng: Người bị quỵ vương Bê-en-dê-bun ám và Người dựa thế quỵ vương mà trừ quỵ. (Mc 3,21)

Chúng con có biết tại sao họ lại vu khống cho Chúa Giêsu như thế không?

– Thưa vì họ ghét Chúa Giêsu. Họ ghét vì họ ghen với Chúa. Họ ghen vì thấy Chúa được người ta ca tụng, tung hô. Còn họ dân chúng thì càng ngày càng xa lánh họ. Hơn nữa họ còn ghét là vì Chúa hay phệ bình về lối sống của họ.

– Thế lối sống của họ làm sao mà bị Chúa phê bình như vậy? Thưa vì họ kiêu ngạo. Họ hay phô trương. Họ sống giả hình, bất công.

Đáng lý ra khi được Chúa nói cho biết những thói xấu cần phải sửa thì họ phải cám ơn Chúa. Đàng này không những họ không sửa mà ngược lại còn tìm cách vu cáo để làm Chúa mất thế giá trước mặt mọi người. Đây là thói xấu mà nếu không cần thận con người sẽ rất dễ vấp phải. Một xã hội có nhiều người mắc thói xấu này sẽ là một thảm hoạ cho con người.  `          .

Ông Khoan Flovière, một học giả và là văn sỹ chuyên kể chuyện đồng quê của Phi Luật Tân, đã cho đăng trong nhật báo Ngôi sao, xuất bản tại Manila hôm 23/05/1990, một câu chuyện ngụ ngôn về một người mù và một người điếc như sau:

Tại một vùng làng quê Phi, có một anh vừa mù vừa điếc. Bù lại, anh ta có khả năng phi thường, biết sử dụng những đồ vật xung quanh và hướng dẫn cuộc sống hằng ngày của mình bằng các giác quan khác. Anh biết rõ từng vị trí từng đồ vật trong nhà. Anh cảm thấy an phận và sống hạnh phúc như bao người bình thường khác.

Nhưng rồi một hôm, bỗng xuất hiện trong tâm trí anh một ý nghĩ muốn biết được thế giới chung quanh như thế nào. Anh cầu nguyện xin Chúa cho anh được sử dụng đôi mắt và đôi tai trong vòng một tuần lễ. Thiên Chúa nhận lời. Ngay tức khắc, anh được nhìn thấy ánh sáng và màu sắc, nghe được âm thanh và tiếng nói bình thường như bao người. Trong hai ngày đầu, anh tỏ ra hết sức phấn khởi vì được thấy, được nghe. Nhưng sang đến ngày thứ ba anh lại cảm thấy buồn, vì nghe biết bao những lời nói xấu xa, thô tục, cộc cằn, và càng buồn hơn nữa khi nhìn thấy những cảnh nghèo khổ, những âm mưu đen tối để hại nhau, những hành động độc ác mà người này có thể làm cho người khác.

Quá buồn bực, anh ta lại cầu nguyện với Chúa như sau: “Lạy Chúa, con cảm thấy Chúa đã thương nhận lời con, cho con được thấy, được nghe. Nhưng giờ đây, con xin Chúa thương cho con trở lại đời sống mù, điếc như xưa; để con được bình an trong tâm hồn. Thà con mù, điếc mà được an tâm; còn hơn là nghe và thấy những cảnh quá đau lòng”.

Đó chúng con thấy cái tật nói hành nói xấu người khác nó xấu như thế nào. Hãy tập cho mình có một tâm hồn ngay thẳng thật thà luôn biết tôn trọng sự thật để cuộc sống của mình luôn đẹp lòng Chúa.

  1. Chuyện Chúa Giêsu coi những người biết thi hành thánh ý Thiên Chúa như Mẹ và anh em của Ngài.

Hôm ấy, Tin Mừng ghi lại: “Lúc đám đông đang ngồi chung quanh Người. Có kẻ nói với Người rằng: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy!”

Nhưng Người đáp lại:”Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?”

Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.”(Mc 3,32-35)

Nói như thế có phải là Chúa xem thường Đức Mẹ phải không chúng con?

Không phải như thế! Có nhiều nhà chú giải Kinh Thánh còn cho rằng: Khi nói như thế là Chúa còn kín đáo đề cao Đức Mẹ. Theo các ngài thì Đức Mẹ làm mẹ Chúa Giêsu đến hai lần. Một lần sinh ra Chúa Giêsu, một lần là người luôn biết lắng nghe và thực hành Lời Thiên Chúa. Đúng như thế chúng con. Sau khi nói Lời Xin Vâng, Đức Mẹ đã gắn chặt cuộc đời của mình vào thánh ý của Thiên Chúa. Điều đó không cón ai hoài nghi.

Thế nhưng cha hỏi chúng con: Thi hành Thánh ý Thiên Chúa dễ hay khó? Hãy cho cha ít thí dụ:

– Thưa cha không dễ chút nào

 Thí dụ như chuyện Đức Mẹ chấp nhận làm mẹ Chúa Cứu thế. Thí dụ như chuyện Ông Abraham phải hiến tế Isaac, Thí dụ như Chúa đòi hòi muốn theo Chúa thì phải từ bỏ mình vv và vv.

Đúng thế chúng con. Việc tuân hành thánh ý Thiên Chúa không dễ chút nào. Nhưng ai làm được người đó mới xứng đáng hưởng vinh quang là được trở thành mẹ và anh em của Chúa Giêsu.

Có một người con gái tên là Elvire đang theo học trường Cao đẳng Sư phạm. Cô sống trong một gia đình nghèo, vì thế cô cần đạt được điểm trung bình cao để có thể nhận được học bổng học tiếp, nếu không cô phải nghỉ học.

Thầy dạy Triết của cô là người vô thần, do đó, khi ông ta nói về Đức Kitô và Giáo hội, ông che đậy sự thật hoặc làm méo mó. Cô gái tự thấy căm tức trong lòng, không phải là cho cô, nhưng vì là lòng yêu mến Chúa của cô, đối với sự thật và với các bạn cô. Cô biết rõ ràng, nếu nói ngược lại với giáo sư, cô có nguy cơ bị lãnh đủ, sẽ có những điểm thấp. Nhưng những gì cô cảm thấy trong lòng còn mạnh hơn cả cô nữa. Mỗi lần có cơ hội, cô đều giơ tay xin phát biểu và nói: “Thưa thầy, điều đó không đúng”. Đôi lần cô thấy đuối trong lý luận khi đương đầu với sự thông thái lão luyện của thầy cô. Nhưng trong các chữ: “Điều đó không đúng” có niềm tin của cô, niềm tin hàm chứa sự thật và điều này làm người ta suy nghĩ.

Các bạn cô, vì thương đã tìm cách khuyên ngăn cô đừng can thiệp, để tránh những hậu quả không tốt. Nhưng họ không thành công. Vài tháng sau, đến kỳ thi tam cá nguyệt, giây phút báo kết quả, cô Elvire cầm tờ giấy mà tay run run. Cô không kiềm được niềm vui, la lớn: 10 điểm tối đa. Cô đã cố gắng, trên hết mọi sự, đặt Thiên Chúa và sự thật của Người ở chỗ đầu, và cái còn lại đến cách phụ trội.

Đúng là vinh quang cho kẻ thi hành thánh ý Chúa. Amen.

 

5. Là anh chị em của Đức Kitô (Mc 3,20-35)

Suy niệm: Xét trên bình diện tự nhiên, đây có thể là một trong những giây phút phũ phàng nhất trong đời của Chúa Giê-su. Người dưng nước lã nói Ngài bị quỷ ám thì cũng đành; còn ở đây ngay cả thân nhân bà con cũng đến để lôi Chúa về nhà, vì họ cho rằng Chúa bị điên loạn, mất trí. Sống trong thân phận con người, nhưng Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa nhập thể, vẫn không để bản tính nhân loại lấn át, kéo Ngài xa lạc khỏi sứ mạng thiêng liêng: cứu độ con người để nâng con người lên địa vị làm con cái Thiên Chúa. Ngài nhìn mọi sự trong nhãn quan siêu nhiên đó và cho chúng ta biết mối tương quan thân thuộc đích thực của chúng ta với Ngài không hệ tại ở huyết thống nhân loại mà là ở việc “thi hành ý muốn của Thiên Chúa”.

Mời Bạn: Thay vì nghĩ suy, cư xử theo sự thúc đẩy của xu hướng tự nhiên, chúng ta nhận ra Chúa nơi mọi sự, mọi người; thay vì chạy theo chủ nghĩa thế tục để tìm kiếm tiền tài, danh vọng cốt sao có thể hưởng thụ tối đa ở đời này mà thôi, đối lại, với cặp mắt đức tin siêu nhiên, chúng ta luôn tìm kiếm và hưởng dùng mọi sự, nhắm tới cùng đích là hạnh phúc vĩnh cửu Nước Trời. Nói tóm lại, để trở thành anh em chị em với Chúa Ki-tô, nghĩa là sống trong tình thân với Ngài, chỉ cần một điều kiện, đó là “thi hành ý muốn của Thiên Chúa”.

Sống Lời Chúa: Trước khi hành động bất cứ điều gì, mời bạn dừng lại một giây để thưa với Chúa: “Chúa muốn con làm gì để đẹp ý Chúa?”.

Cầu nguyệnLạy Chúa, xin dạy con biết nhận ra Chúa trong mọi sự và biết nhìn mọi sự trong Chúa để con xứng đáng là anh em chị em với Chúa.

 

6. Ai là anh em tôi

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Trong những năm tháng công khai rao giảng,

Đức Giêsu đã gặt hái được thành công từ phiá dân chúng.

Nhưng Ngài cũng phải nếm nhiều khổ đau và thất bại

do những hiểu lầm, ghen tương và cố chấp.

Đức Giêsu, người quân bình hơn cả, lại bị coi là mất trí,

khi Ngài xả thân để lo cho đám người đông đảo.

Ngài bị coi là bất bình thường,

khi Ngài và các môn đệ bận bịu, không có giờ ăn.

Chính thân quyến của Ngài đã coi Ngài như thế.

Họ chẳng hiểu gì, dù họ tưởng mình biết Ngài rất rõ.

Các kinh sư từ Giêrusalem xuống để điều tra về Đức Giêsu.

Họ không thể phủ nhận chuyện Ngài có khả năng trừ quỷ,

nhưng họ lại giải thích với cái nhìn đầy ác ý:

Đức Giêsu là người của quỷ, cậy dựa vào sức mạnh của Xatan.

Éo le thay, Đấng mà thấn ô uế phải sấp mình dưới chân

và tuyên xưng: “Ông là Con Thiên Chúa” (Mc 3,11);

Đấng khiến quỷ phải kêu la khi xuất ra:

“Ông đến tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai rồi.

Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc 1,24);

Đấng trừ quỷ ấy lại bị coi là người bị quỷ ám.

Một người bị quỷ vương Bê-en-dê-bun chiếm đoạt

lại đi trừ những người bị ám bởi các quỷ con ư?

Như thế đúng là Xatan lại diệt trừ Xatan,

tướng quỷ cho người ngoài làm hại đàn em của mình!

Đức Giêsu nói đến thứ tội mãi mãi không được tha.

Không được tha chẳng phải vì Thiên Chúa hẹp hòi,

nhưng vì người ấy không cần đến ơn tha thứ.

Khép lại trước sự thật rành rành, hay bóp méo sự thực,

cố chấp ở lại trong sự gian dối với chính bản thân:

đó là những thái độ ta có thể mắc phải.

Quả thực không dễ hiểu được con người Đức Giêsu.

Hiểu một người ta thân quen cũng là điều khó.

Chỉ một chút ghen tương đủ làm ta hiểu sai.

Chỉ một chút tự ái đủ làm ta không thấy

điều ai cũng rõ như ban ngày.

Càng trí tuệ và học thức, như các kinh sư,

ta càng dễ bẻ cong chân lý về phía mình,

càng dễ biện minh cho thái độ mình đã chọn.

Khi vơi bớt đam mê của cái tôi,

ta sẽ dễ nhận ra chân lý quá đơn sơ, gần gũi.

Đám đông dân chúng ngồi chung quanh Đức Giêsu, nghe giảng.

Một vòng tròn thân thương như những người trong nhà.

Đức Giêsu thấy mình gắn bó sâu xa với họ.

Ngài không ngại nhận họ là mẹ, là anh chị em Ngài.

Có một thứ tình máu mủ ruột thịt thiêng liêng.

Có một mẫu số chung giữa Ngài và người nghe giảng,

đó là thi hành thánh ý Cha trong cuộc sống.

Đức Maria là Mẹ của Đức Giêsu hai lần,

vì Mẹ đã sinh dưỡng Ngài và suốt đời xin vâng ý Chúa.

Chúng ta tự hỏi mình có bà con gì với Đức Giêsu không.

Gợi Ý Chia Sẻ

Đánh giá sai một người chỉ vì có ác cảm hay thành kiến với người ấy, bạn có khi nào mắc phải lỗi này không?

Theo ý bạn, người cố chấp có những đặc tính nào? Làm sao giúp họ ra khỏi sự cố chấp của họ?

Cầu Nguyện

Lạy Thầy Giêsu,

Thầy không gọi chúng con là tôi tớ,

Thầy cũng không chỉ coi chúng con là môn đệ.

Thầy còn coi chúng con như bạn hữu của Thầy,

vì Thầy đã thổ lộ cho chúng con

nhưng điều riêng tư thầm kín nhất

trong tương quan giữa Thầy với Cha.

Hơn nữa, sau phục sinh,

Thầy đã gọi các môn đệ là anh em.

Mặc nhiên Thầy tự nhận mình là Anh Trưởng

đứng đầu một đoàn em đông đúc.

Xin cho chúng con

luôn thi hành ý muốn của Cha

để trở nên những người em

cùng huyết nhục với Thầy.

Lạy Thầy Giêsu, Thầy đã nâng chúng con lên

làm môn đệ, làm bạn, làm anh em của Thầy.

Còn Thầy lại hạ mình xuống

phục vụ chúng con như người tôi tớ,

rửa chân cho chúng con như một nô lệ

và chết thay cho chúng con trên thập giá.

Xin cho chúng con hiểu được tấm lòng của Thầy

và sống yêu thương mọi người như anh em. Amen.

 

7. Học hỏi Tin Mừng của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu

1/ Đọc Bài Phúc âm hôm nay, bạn có thấy Mc 3,22-30 là đoạn chen vào giữa hai đoạn Mc 3,20-21 và Mc 3,31-35 không? Máccô có hay làm thế không? Đọc thêm Mc 5,21-43; 6,7-30; 11,12-25; 14,1-11.

2/ Đọc Mc 3,20. Đức Giêsu về nhà của ai, ở đâu? Ngài có nổi tiếng không?

3/ Đọc Mc 3,21. Thân nhân của Đức Giêsu từ đâu đến? Tại sao họ lại muốn đến bắt Ngài về?

4/ Đọc Mc 3,22. Các kinh sư là ai, từ đâu đến? Họ nghĩ Đức Giêsu là ai? Coi Đức Giêsu bị mất trí và coi Ngài bị quỷ ám có giống nhau không? Đọc Gioan 10,20.

5/ Đọc Mc 3,23-26. Đức Giêsu đã lý luận thế nào để bác bỏ ý kiến cho rằng Ngài đã nhờ quỷ vương để trừ quỷ nhỏ?

6/ Đọc Mc 3,27. Bạn thấy câu này diễn tả hành động nào mà Đức Giêsu thường làm? Đọc Lc 11,20.

7/ Đọc Mc 3,28-30. Tội “nói phạm thượng đến Thánh Thần” ở đây là tội gì? Tại sao tội này lại mãi mãi không được tha?

8/ Đọc Mc 3,31-32. Bạn có thấy “hai” gia đình ở đây không? Họ có gì khác nhau không?

9/ Đọc Mc 3,33-35. Đức Giêsu có coi thường gia đình máu mủ của mình không? Gia đình thiêng liêng của Đức Giêsu gồm những ai? Gia đình nào trọng hơn?

10/ Bài Phúc âm hôm nay có điểm nào làm bạn bị sốc không?

 

8. Satan, tên phá hoại

(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)

– Bài đọc I (St 3,9-15): Satan cám dỗ nguyên tổ phạm tội

– Đáp ca (Tv 129): Lời cầu nguyện của kẻ lỡ phạm tội.

– Tin Mừng (Mc 3,20-35): Đức Giêsu và quỷ vương Bêendêbun

  1. DẪN VÀO THÁNH LỄ

Anh chị em thân mến

Có một thực tại vô hình nhưng rất năng động trong cuộc sống, đó là sự phá hoại của Satan. Thánh Phêrô đã khuyến cáo các tín hữu của ngài rằng “Ma quỷ như sư tử luôn rảo quanh tìm mồi”.

Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa dạy cho biết Satan luôn phá hoại chúng ta thế nào, và bằng cách nào chúng ta có thể thoát khỏi sự phá hoại ấy.

  1. GỢI Ý SÁM HỐI

– Vì coi thường sự phá hoại của ma quỷ nên nhiều lần chúng ta sa ngã vì cám dỗ của chúng.

– Nhiều khi chúng ta nghe theo lời xúi dục của ma quỷ mà không nghe lời Chúa.

– Xin Chúa thương xót thân phận yếu đuối tội lỗi của chúng con.

III. LỜI CHÚA

  1. Bài đọc I (St 3,9-15)

Bài tường thuật này xử dụng một câu chuyện (có thể chỉ là hư cấu) để diễn tả những điểm giáo lý quan trọng:

– Đầu mối của tội lỗi là Satan: Khi bị Thiên Chúa hạch hỏi về tội đã phạm, ban đầu Adam đổ cho Evà, nhưng sau cùng Evà đã thú nhận là do Satan xúi dục.

– Sự phá hoại của Satan vẫn còn tiếp tục: Thiên Chúa phán với con rắn “Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ, giữa miêu duệ của mi và miêu duệ người nữ”.

  1. Đáp ca (Tv 129)

Lời cầu nguyện của kẻ lỡ phạm tội: “Từ vực sâu con kêu lên Chúa… Nếu Chúa nhớ hoài sự lỗi thì nào ai đứng vững được… bởi vì Chúa rộng lượng từ bi và Chúa rất giàu ơn cứu độ”

  1. Tin Mừng (Mc 3,20-35)

Sự phá hoại của Satan mà Thiên Chúa đã nói trong sách Sáng thế được tiếp tục nơi Đức Giêsu. Satan phá hoại Ngài bằng nhiều cách:

– Xúi giục các luật sĩ xuyên tạc phép lạ Đức Giêsu làm, rằng Ngài đã dùng sức quỷ vương mà trị quỷ nhỏ.

– Xúi giục những người phạm tội “phạm đến Chúa Thánh Thần”, nghĩa là không chịu sám hối để được tha thứ.

– Xúi giục chính những người thân của Đức Giêsu khiến họ nói rằng Ngài đã “mất trí” và “đi bắt” Ngài về không cho tiếp tục việc rao giảng Tin Mừng.

Nhưng cũng như Thiên Chúa đã tiên báo trong sách Sáng thế “Miêu duệ người nữ sẽ đạp nát đầu mi”, Đức Giêsu cũng khẳng định rằng nước của Satan sẽ sụp đổ.

  1. Bài đọc II (2 Cr 4,13–5,1)(Chủ đề phụ)

Trong trích đoạn tuần trước, Thánh Phaolô đã khiêm tốn nhìn nhận thân phận yếu đuối của người tông đồ (như chiếc bình sành dễ vỡ), đồng thời khẳng định sự hỗ trợ mạnh mẽ của Chúa.

Trong trích đoạn hôm nay, Thánh Phaolô tuyên xưng niềm tin của mình vào sức sống mới do Đức Giêsu ban:

– Thiên Chúa đã làm cho Đức Kitô sống lại thì cũng làm cho chúng ta sống lại

– Mặc dù con người bên ngoài của chúng ta bị tiêu huỷ đi nhưng con người bên trong của chúng ta ngày càng được canh tân

– Gian truân hiện nay chỉ là nhất thời và nhẹ nhàng so với vinh quang đời đời sẽ được ban cho chúng ta.

– Nếu căn nhà chúng ta cư ngụ ở trần gian này bị phá huỷ đi thì chúng ta có một nơi định cư vĩnh viễn ở trên trời

  1. GỢI Ý GIẢNG

* 1. Đổ lỗi cho người khác

Có lỗi thì nhận lỗi. Đó là điều hợp lý và phải làm. Có như thế thì mới sửa lỗi được và mới đáng được tha.

Một trong những cách phá hoại của Satan là xúi người ta chối lỗi và đổ cho người khác. Cách phá hoại này được Satan xử dụng rất thường từ xưa đến nay:

– Ngày xưa nó xúi Adam đổ lỗi cho Evà, xúi Eva đổ lỗi cho con rắn

– Ngày nay nó xúi từ trẻ con đến người lớn dù phạm tội nhưng luôn đổ lỗi cho người khác: trẻ con làm gì sai quấy bị cha mẹ rầy luôn đổ cho người khác; người lớn cũng thế: tại người này, do nguyên nhân nọ… ít khi nào dám nhận là tại mình và do mình.

Khi chúng ta làm theo sự xúi dục của Satan mà đổ lỗi cho người khác, chúng ta không sửa lỗi được và không được tha thứ. Đây cũng là một hình thức “phạm đến Chúa Thánh Thần” mà Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng.

* 2. Ganh ghét và xuyên tạc

Một cách phá hoại khác của Satan là khơi lên lòng ganh ghét để người ganh ghét xuyên tạc việc làm của kẻ khác. Thâm độc của cách phá hoại này là khiến cho người ganh ghét bị mù quáng không nhận ra sự thật, và làm cho điều tốt bị hiểu lầm là điều xấu.

Trong bài Tin Mừng, các luật sĩ đâu phải là những người ít học và không có tinh thần đạo đức. Nhưng Satan đã làm mù những kiến thức và lòng đạo đức của họ bằng tính ganh ghét. Và kết quả là khi họ đã bị mù quáng rồi, họ xuyên tạc việc Đức Giêsu chữa bệnh là “dùng sức quỷ cả để trị quỷ con”.

Việc các luật sĩ mà cũng bị rơi vào bẫy của Satan khuyến cáo chúng ta đừng nghĩ mình là kitô hữu, là cán bộ tông đồ, là tu sĩ hay giáo sĩ mà có thể tránh khỏi lòng ganh ghét dẫn đến việc xuyên tạc người khác.

* 3. Khôn ngoan và “mất trí”

Một cách phá hoại nữa của Satan là xúi người ta đánh giá việc của Chúa bằng sự khôn ngoan của loài người.

Những người thân của Đức Giêsu đã rơi vào cái bẫy này: Ngài đang làm công việc của một Đấng Cứu Thế, xả thân không ngơi nghỉ để giảng dạy và chữa bệnh cho dân chúng. Nhưng họ đã suy nghĩ theo sự khôn ngoan của loài người nên nói Ngài “mất trí” và muốn bắt Ngài về nhà.

* 4. Tội phạm đến Thánh Thần

Trên một chiếc tàu vượt đại dương, có một kỹ sư tàu biển tên là Egbert. Công việc của ông là ngồi trong phòng máy và tuân theo lệnh của Đô đốc ở trên cầu tàu truyền xuống.

Một hôm, Egbert suy nghĩ rồi tự nhủ: Ta là nhân vật quan trọng nhưng đâu có ai quý trọng ta. Còn vị Đô đốc chỉ ngồi trên cầu tàu ra lệnh, chẳng để ý đến ta ở dưới buồng máy không được ngắm trời mây non nước.

Càng nghĩ ông thấy mình càng quan trọng. Lúc đó, chuông rung và có lệnh: “Hãy quay trở lại”. Egbert lầm bầm: “Tôi là kỹ sư đã 30 năm, từng vượt biển cả 100 lần. Đây là lần đầu tiên có người bảo tôi phải quay trở lại giữa đại dương. Ông Đô đốc này chỉ biết ra lệnh thôi !”

Nói xong, thay vì trở lui, Egbert cứ cho tàu lao tới phía trước, mà còn tăng tốc nhanh gấp đôi. Con tàu đâm xầm vào một chiếc tàu khác, vỡ nát tan tành.

*

Tâm trạng anh kỹ sư tàu biển trên đây không khác gì các luật sĩ Do thái thời Đức Giêsu. Họ kiêu căng mà không nhận mình kiêu căng. Họ cho mình là tài giỏi, xứng đáng hơn người. Họ xuyên tạc chê bai việc lành của người khác. Họ giữ đạo mà không có tinh thần đạo đức. Họ làm việc thiện cốt để khoe khoang.

Với tâm trạng ấy, hôm nay họ tỏ rõ thái độ kiêu căng bất mãn. Thấy dân Do thái đổ xô đến chung quanh Đức Giêsu, họ ganh tị và khó chịu. Thấy phép lạ Người làm nhãn tiền, họ lại bảo Người bị quỉ ám. Thấy Người trừ quỉ, họ lại cho là do quyền lực quỉ vương. Thấy Người chữa bệnh cho kẻ phong cùi, họ lại kết án Người phạm luật ngày hưu lễ. Thấy Người viếng thăm kẻ tội lỗi, họ lại cho Người là bạn bè với bọn thu thuế và gái điếm. Nếu người ta đầy lòng kiêu ngạo, sẽ chẳng còn chỗ cho sự khôn ngoan. Hãy sống nhỏ bé trước mặt Chúa cả khi người ta là vua Đavít.

Thánh Giacôbê viết: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (Gc.4,6).

Đứng trước thái độ kiêu căng cố chấp ấy, Đức Giêsu chất vấn họ: “Satan lại trừ Satan được sao?” (Mc.3,26-27). Người cảnh cáo họ: “Mọi tội lỗi và mọi lời phạm thượng của con cái loài người sẽ được tha hết, nhưng kẻ nào phạm thượng đến Chúa Thánh Thần, muôn đời sẽ không được tha” (Mc.3,28-30). Tội phạm đến Thánh Thần là chối bỏ sự hiện diện của Thần Khí trong Đức Giêsu là gán cho ma quỉ những gì thuộc về Thánh Thần.

Quả thực, Đức Giêsu xua trừ ma quỉ là “Bởi Thánh Thần Thiên Chúa” (Mt.12,28). Thánh Basiliô Xêdarê viết: “Khi gặp Đức Giêsu, ma quỉ đã bị mất hết quyền lực của mình trước sự hiện diện của Thánh Thần”. Vậy ai dám nói quyền lực của Đức Giêsu do Satan mà có là họ đã nói lộng ngôn phạm đến Thánh Thần.

Tội phạm đến Chúa Thánh Thần chính là “tội cố tình, từ chối quyền năng của Chúa Thánh Thần, nguồn ơn tha thứ”, Chúa luôn sẵn sàng tha thứ, nhưng Người không cưỡng ép chúng ta điều gì kể cả sự thứ tha. Một khi đã từ chối ơn tha thứ thì cũng có nghĩa là từ chối hạnh phúc Nước Trời. Nếu một người nghẹt mũi không ngửi thấy hương của hoa hồng, thì đó không phải là lỗi ở bông hoa, mà do bản thân người ấy.

Thomas Caryle có viết: “Không nhận ra lỗi lầm là lỗi lớn nhất trong một lầm lỗi”.

*

Lạy Chúa, xin dạy chúng con đừng bao giờ kiêu căng tự đắc, đừng bao giờ cho mình là tài giỏi đạo đức hơn người, đừng bao giờ cố chấp ở lì trong tội.

Xin cho chúng con biết theo Thánh Thần, để nhờ Người, chúng con được lãnh ơn Cứu độ của Chúa. Amen (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)

  1. Câu chuyện minh họa

Mỗi người đều mang hai túi: một ở trước ngực và một ở sau lưng, và cả hai nhét đầy lầm lỗi.

Tuy nhiên, túi trước đựng lỗi của người hàng xóm và túi sau đựng lỗi của mình. Vì thế, người ta thường mù quáng với khuyết điểm của mình và luôn sáng mắt với khuyết điểm của anh em.

  1. “Ađam, ngươi ở đâu?”

Khi Chúa ban cho Ađam và Eva được tự do là Ngài ban cho họ được chọn làm điều gì là tốt. Nhưng họ đã chọn làm điều xấu. Mà chọn điều xấu là lạm dụng quyền tự do. Và giống như trẻ con đã làm sai, họ đã đi trốn chứ không dám đối diện với hậu quả tội họ gây ra. Nhưng Chúa đã tìm họ và gọi: “Ađam, ngươi ở đâu?”

Ở đây có một thắc mắc nẩy sinh: Nếu Chúa biết mọi sự, thế thì tại sao Ngài còn hỏi “Ađam, ngươi ở đâu?” Thực ra Chúa hỏi thế không phải vì Ngài không biết Ađam đang ở đâu, mà chính vì Ađam không biết mình đang ở đâu. Ngài hỏi thế là để nhắc Ađam.

Câu hỏi “Ngươi đang ở đâu?” thật là một câu hỏi gây bối rối. Và câu này Chúa không chỉ hỏi Ađam, mà còn hỏi mọi người đang có tội: Ngươi đang ở đâu trong tương quan với Ta, với người khác và với chính bản thân ngươi?

Ađam đi trốn để khỏi trả lời câu hỏi ấy, để tránh trách nhiệm về việc mình đã gây ra. Chúng ta cũng tránh né vì cùng một lý do đó. Khi chúng ta sai lỗi, chúng ta sợ và trốn tránh trách nhiệm. Nhưng khi chúng ta trốn Chúa – là điều không thể – thì cũng là trốn tránh chính mình.

Thế nhưng có một Cái Gì đó vẫn đi tìm chúng ta, đó là tiếng Chúa hỏi trong lương tâm chúng ta “Ngươi đang ở đâu?” Thiên Chúa không thờ ơ, Ngài đi tìm chúng ta dù chúng ta muốn trốn tránh Ngài. Ngài đi tìm không phải để phạt, mà để giúp chúng ta đối diện với việc mình làm. Ngài thừa yêu thương để tha thứ cho chúng ta, nhưng Ngài muốn chúng ta gánh lấy trách nhiệm về tội đã phạm và cố gắng đền bù. Đối diện là dấu hiệu của yêu thương.

Ađam và Eva run sợ khi nghe tiếng Chúa. Họ xấu hổ về điều họ đã làm, và cũng xấu hổ về chính bản thân. Chúng ta cũng run sợ khi nghe hỏi “Ngươi đang ở đâu?” Nhưng câu hỏi này không phải là một sự tra khảo, mà là một sự giúp đỡ. Đó là tiếng của Đấng quan tâm đến chúng ta.

Ađam và Eva cảm thấy mình có tội. Ngày nay, từ “tội” hầu như chỉ mang nghĩa xấu. Thực ra tội cũng có giá trị xây dựng. Cảm thấy có tội là dấu chỉ một lương tâm còn lành mạnh: ai có lương tâm còn lành mạnh thì sau khi sai lỗi đều cảm thấy có tội. Tội cũng là dấu chỉ mình là con người thật sự: chỉ có người rối loạn tâm thần mới cảm thấy mình không có tội, bởi vì người đó đã bị chai lì về mặt luân lý. Đó không phải là người bình thường, không phải là một con người trọn vẹn.

Cũng như cơn đau là tiếng chuông báo động có cái gì trục trặc về thể lý, thì ý thức có tội là dấu chỉ cho biết có trục trặc về luân lý. Sự cắn rứt lương tâm kêu gọi ta phải thay đổi, phải tìm sự thật, phải sửa chữa lỗi lầm và phải xin ơn tha thứ. Tất cả đều có tác động tích cực.

Tội sinh ra hậu quả. Trước khi Ađam và Eva phạm tội, họ sống vui vẻ trong tình thân với Chúa. Sách Thánh mô tả chiều chiều họ cùng dạo chơi với Chúa trong làn gió hiu hiu. Sau khi phạm tội, họ trốn tránh Chúa và đổ lỗi cho nhau. Trước đó là hoà thuận và hợp nhất, sau đó là sợ hãi và chia rẽ.

Nhưng cảnh buồn bã của câu chuyện đã kết thúc bằng lời hứa cứu độ. Thiên Chúa thương xót Ađam Eva nên hứa ban Đấng cứu độ. Tin Mừng cho thấy lời hứa này đã được thực hiện nơi Đức Giêsu. Đức Giêsu đã chiến thắng Satan và thiết lập Nước Thiên Chúa. Đối với những ai tin vào Ngài và làm theo ý Thiên Chúa thì một tình thân mới được thành lập. Họ không chỉ là thụ tạo của Thiên Chúa mà còn là con cái trong gia đình Ngài và là anh em với những người khác. (Viết theo Flor McCarthy)

  1. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI

CT: Anh chị em thân mến

Sau khi đã nghe lời giáo huấn của Chúa, giờ đây chúng ta hãy dâng lên Ngài những lời cầu nguyện sốt sắng của chúng ta:

  1. Hội Thánh là một đại gia đình có Thiên Chúa là Cha, và các tín hữu là anh chị em của Đức Giêsu. Chúng ta hãy cầu xin cho mọi thành phần trong Hội Thánh luôn lắng nghe và thực thi ý Thiên Chúa để xứng đáng là gia đình của Chúa.
  2. Trên thế giới, ma quỷ vẫn tích cực gieo những mầm mống xấu để phá hoại chương trình của Thiên Chúa. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho sự thiện chiến thắng sự dữ trong thế giới ngày nay.
  3. Khi con người không dám nhận lỗi của mình mà lại đổ lỗi cho người khác thì con người không cải thiện được và không đáng được tha thứ. Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp những kẻ lỡ sa ngã phạm tội biết khiêm tốn nhận tội để hoán cải đời sống và được Chúa thứ tha.
  4. Đức Giêsu đã dạy: “Ai làm theo ý Thiên Chúa thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta”. Chúng ta hãy cầu xin cho mọi người trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta biết chuyên cần làm theo ý Chúa.

CT: Lạy Đức Giêsu, Chúa đã bỏ ăn bỏ ngủ để giảng dạy chúng con biết con đường hạnh phúc và chữa trị những bệnh tật của loài người chúng con. Chúng con vô cùng cảm kích vì tấm lòng của Chúa. Xin Chúa giúp chúng con đáp lại tấm lòng Chúa bằng một cuộc sống luôn cố gắng thi hành ý Chúa. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.

  1. TRONG THÁNH LỄ

– Trước kinh Lạy Cha: Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu đã nói “Ai làm theo ý Thiên Chúa thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta”. Trong kinh Lạy Cha sắp đọc, chúng ta hãy đặc biệt xin cho “ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”

– Sau kinh Lạy Cha: “Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin giúp chúng con thoát khỏi mọi hình thức phá hoại của Satan, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…”

VII. GIẢI TÁN

Chúng ta đã biết những hình thức phá hoại tinh vi của ma quỷ. Trở về với cuộc sống thường ngày, chúng ta hãy tỉnh táo đừng nghe theo sự xúi dục của ma quỷ, nhưng cố gắng thi hành thánh ý Thiên Chúa.

 

9. Tội phạm đến Chúa Thánh Thần

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi)

Thánh Giacôbê viết: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường“ (Gc 4, 6). Nhân loại vốn bị ma quỷ cám dỗ, đặc biệt khi ông bà nguyên tổ Ađam và Evà đã nghe lời satan xúi giục sa ngã, phản nghịch lại Chúa, đã mang trong mình nọc độc của sự chết và kiêu ngạo. Chúa Giêsu đã chống cách quyết liệt những kẻ kiêu ngạo, tự tôn, tự đắc vv… Đại diện cho cho hạng người này là các luật sĩ Do Thái thời Chúa Giêsu. Do đó, đứng trước thái độ kiêu căng, tự mãn, cố chấp của họ, Đức Giêsu Kitô chất vấn họ: “Satan lại trừ satan được sao?” (Mc 3, 26-27) Chúa Giêsu nói lện uy quyền tuyệt đối của Thiên Chúa.Ngài cảnh cáo họ: “Mọi tội lỗi và mọi lời phạm thượng của con cái loài người sẽ được tha hết, nhưng kẻ nào phạm thượng đến Chúa Thánh Thần, muôn đời sẽ không được tha“ (Mc 3, 28-30).

Ở đây Chúa Giêsu muốn nhắc nhở mọi người, nhắc nhớ chúng ta tội phạm đến Chúa Thánh Thần là chối bỏ sự có mặt của thần khí trong Đức Giêsu, thừa nhận và gán cho satan, ma quỉ những gì thuộc về thần khí, thuộc về Thánh Thần.Tin Mừng hôm nay cho hay, Chúa trừ quỷ là do quyền năng của Thiên Chúa. Ngài tạo dựng nên vũ trụ, dựng nên con người là do quyền năng tuyệt đối của Ngài… Sự sống và sự chết tùy thuộc quyền của Ngài. Chính vì thế, ai nói Chúa Giêsu xua trừ ma quỷ là nhờ đến tướng quỷ Belgiêbút là phạm thương, lộng ngôn, phạm đến Chúa Thánh Thần. Thánh Matthêu viết: “Đức Giêsu trừ ma quỷ là bởi Thánh Thần Thiên Chúa“ (Mt 12, 28). Tội phạm đến Chúa Thánh thần là tội ngoan cố, từ chối quyền năng của Chúa Thánh Thần, nguồn ơn tha thứ“. Chúa Giêsu đã cho thấy “Ai nghe và giữ lời Thiên Chúa là mẹ và là anh em của Người“. Nói lên điều đó, Chúa Giêsu muốn nói lên thực tế là tất cả những ai sống trong Chúa, có Chúa Thánh Thần, họ sẽ biết lắng nghe và thực hành lời Chúa, và như thế họ nhận ra sự hiện diện đầy Thánh Thần của Chúa. Họ trở nên con Chúa và là anh em của mọi người.

Vâng, lời Chúa trong ba bài đọc hôm nay giúp chúng ta suy nghĩ về ba điểm quan trọng: – tội lỗi lan tràn trong nhân loại, trên thế giới.- tội chống lại Chúa Thánh Thần. – thực hành ý muốn của Thiên Chúa. Thực tế, tội tràn lan trong vũ trụ, nơi con người. Làm sao con người và chúng ta kết thúc vương quốc tội lỗi của Satan và để vương quốc của Thiên Chúa sớm hoàn tất, sớm thành sự như lời Kinh Lạy Cha chúng ta thường đọc “Xin cho Nước Cha trị đến”. Tuy nhiên, muốn cho Nước cha trị đến, chúng ta phải nỗ lực, phải bắt tay góp công góp sức để xua đuổi những sự dữ, satan, ma quỷ ra khỏi trần gian để Nước Tình Yêu của Thiên Chúa được ngự trị. Rồi chúng ta phải vâng theo lời Chúa, sống như Chúa yêu để tất cả chúng ta đều là anh em trong Đức Kitô và ý muốn của Thiên Chúa được thể hiện. Cuối cùng, chúng ta tin vào lòng thứ tha của Chúa “Xin tha nợ cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con“. Điều này đòi hỏi chúng ta phải tha thứ và tha thứ mãi mãi cho anh em như Chúa đã thứ tha cho chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một trái tim rộng mở, trái tim nhảy cảm, biết yêu thương, cảm thông và tha thứ. Xin cho chúng con hiểu, cảm nghiệm sâu xa Kinh Lạy Cha không chỉ đọc suông, đọc thuộc lòng mà phải sống Kinh Lạy Cha. Xin cho chúng con tấm lòng đơn, hiền lành để chúng con không tự kiêu, ngạo mạn mà luôn biết khiêm nhường vì chúng con có làm được gì là do Chúa, là do tác động của Chúa Thánh Thần. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:

  1. Tội phạm đến Chúa Thánh Thần là tội nào?
  2. Chúa Giêsu trừ quỷ là do quyền nào?
  3. Tại sao các người luật sĩ Do Thái lại chống đối Đức Giêsu?
  4. Chúng ta phải làm gì để Vương Quốc của Thiên Chúa mau tới?

 

10. Thân và Thù

(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)

Một dịp Chúa Giêsu về quê Na-da-rét, nơi Ngài sinh trưởng, và đến hội đường theo luật giữ ngày sa-bát. Sau khi nghe Ngài giảng thuyết, mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Ngài (Lc 4:22), nhưng cũng có những người đặt vấn đề: “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế? Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải là bà Maria; anh em của ông không phải là các ông Giacôbê, Giôxếp, Simôn và Giuđa sao? Và chị em của ông không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông ta được như thế?” (Mt 13:54-56).

Và Chúa Giêsu kết luận: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình và trong gia đình mình mà thôi”. (Mt 13:57; Mc 6:4; Lc 4:24). Thân và Thù là hai lĩnh vực khác nhau, làn ranh giữa hai lĩnh vực đó rất mong manh. Tuy kẻ thù nguy hiểm mà lại không đáng sợ, người thân không nguy hiểm mà lại đáng sợ. Bởi vì đối với kẻ thù, chúng ta biết họ không ưa mình nên có thể dễ tránh; còn đối với người thân, chúng ta cứ tưởng an toàn nhưng khi họ phản lại thì chúng ta không tránh kịp – nhất là đối với những người nói năng “ngọt như đường cát, mát như đường phèn”. Sự thật phũ phàng thế đấy!

Ngày xưa, An Dương Vương cai trị nước Âu Lạc, Triệu Đà nhiều phen phải vỡ mộng xâm lăng, đành cầu hòa bằng cách muốn An Dương Vương gả con gái Mỵ Châu cho Trọng Thủy, con của giặc phương Bắc. Tuy đã là con rể, nhưng Trọng Thủy luôn tìm kế để đánh cắp nỏ thần. Vì mật ngọt mà ruồi dính bẫy, nghe lời đường mật của giặc mà An Dương Vương sập bẫy, và rồi hóa thành người “nuôi ong tay áo”, thật nguy hiểm! Cuối cùng, Thần Kim Quy phải nói thẳng với An Dương Vương: “Giặc ngồi ngay sau lưng đó”. Những chiếc lông ngỗng của Mỵ Châu bay mất hết trơn!

Trình thuật St 3:9-15 cho biết về chuyện con người bất tuân lệnh Chúa vì nghe lời đường mật của loài quỷ quyệt. Một hôm, Thiên Chúa gọi con người và hỏi: “Ngươi ở đâu?”. Con người thưa: “Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn, con SỢ HÃI vì con trần truồng, nên con lẩn trốn”. Thiên Chúa hỏi: “Ai đã cho ngươi biết là ngươi trần truồng? Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn không?”. Con người thưa: “Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn”. Thiên Chúa hỏi người đàn bà: “Ngươi đã làm gì thế?”. Người đàn bà thưa: “Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn”. Vòng luẩn quẩn của sự ác, đổ lỗi vòng quanh cho nhau chứ không phục thiện, không thú tội. Tà tâm ưa bóng tối, bóng tối sợ ánh sáng.

Con người đang thân thiện với Thiên Chúa, nay hóa thành thù địch với Ngài, chỉ vì con người đã kiêu ngạo mà hóa thành tội nhân. Rồi Thiên Chúa phán với con rắn: “Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú. Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó”. Tội lỗi cũng có tính liên đới, chứ không phải ai tội mặc ai.

Người Việt có câu: “Chưa đánh được người thì mặt đỏ như vang, đánh được người rồi thì mặt vàng như nghệ”. Thế đấy, hùng hổ lắm thì co rúm nhiều. Đang yên đang lành thì cảm thấy nhàm chán, con người rửng mỡ nên muốn vùng lên, vùng lên rồi sợ hãi, mặt mũi xanh lè. Đó là “nợ truyền kiếp” khiến chúng ta cũng liên lụy – một dạng liên đới tội lỗi. Nếu nhận biết mình là tội nhân khốn nạn thì thật có phúc, nhận diện mình để khiêm nhường cầu xin: “Từ vực thẳm, con kêu lên Ngài, lạy Chúa, muôn lạy Chúa, xin Ngài nghe tiếng con. Dám xin Ngài lắng tai để ý nghe lời con tha thiết nguyện cầu” (Tv 130:1-2). Chắc chắn Chúa thương liền!

Thật vậy, Ngài luôn đại lượng, chỉ mong tha thứ, đúng như Thánh Vịnh gia đã cảm nhận: “Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài. Mong đợi Chúa, tôi hết lòng mong đợi, cậy trông ở lời Người” (Tv 130:3-5). Vô phúc vì đang là tội nhân, thế mà lại hóa diễm phúc vì được tận hưởng Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa. Thật là ngoài sự mong ước của chúng ta, bởi vì chúng ta là những đứa con hoàng đàng, khi trở về chỉ mong cha coi như người làm công là tốt lắm rồi, nào ngờ cha lại yêu thương hơn xưa, cho hưởng mọi thứ và còn đãi tiệc ăn mừng một kẻ-đã-chết-nay-sống-lại (x. Lc 15:11-32).

Thiên Chúa là thế, chúng ta không thể nào hiểu nổi. Mặc dù chúng ta tội lỗi tày trời, khốn nạn vô cùng, nhưng Ngài vẫn “luôn từ ái một niềm” bởi vì “ơn cứu chuộc nơi Ngài chan chứa” (Tv 130:7), và “chính Ngài sẽ cứu thoát khỏi tội khiên muôn vàn” (Tv 130:8). Không thể có ngôn ngữ nào mô tả được đúng mức về niềm hạnh phúc quá lớn lao như vậy.

Đức tin là một trong ba nhân đức đối thần kỳ diệu: “Dùng tất cả NHIỆT TÌNH để có LÒNG TIN thì có thêm ĐỨC ĐỘ, có đức độ lại thêm HIỂU BIẾT, có hiểu biết lại thêm TIẾT ĐỘ, có tiết độ lại thêm KIÊN NHẪN, có kiên nhẫn lại thêm ĐẠO ĐỨC, có đạo đức lại thêm TÌNH HUYNH ĐỆ, có tình huynh đệ lại thêm BÁC ÁI” (2 Pr 1:5-7). Đó là tính liên đới nhân đức trong đời sống Kitô hữu. Đức ái là đỉnh cao, đặc biệt là tồn tại cả đời này và đời sau (1 Cr 13:13).

Liên quan đức tin, Thánh Phaolô nói: “Vì có được cùng một lòng tin, như đã chép: Tôi đã tin, nên tôi mới nói, thì chúng tôi cũng tin, nên chúng tôi mới nói. Quả thật, chúng tôi biết rằng Đấng đã làm cho Chúa Giêsu trỗi dậy cũng sẽ làm cho chúng tôi được trỗi dậy với Chúa Giêsu, và đặt chúng tôi bên hữu Người cùng với anh em. Thật vậy, tất cả những điều ấy xảy ra là vì anh em. Như thế, ân sủng càng dồi dào thì càng có đông người dâng lên Thiên Chúa muôn ngàn lời cảm tạ, để tôn vinh Người” (2 Cr 4:13-15). Cũng đề cập đức tin, Thánh nữ Bernadette phân tích rất hay: “Người tin thì không cần giải thích, người không tin thì giải thích cũng vô ích”. Cụ thể nhất là đối với người vô thần, nói về đức tin với họ không bằng nói với đầu gối – về nhiều vấn đề khác cũng tương tự, bởi vì họ cố chấp.

Với niềm xác tín mạnh mẽ, Thánh Phaolô cho biết: “Cho nên chúng tôi KHÔNG CHÁN NẢN. Trái lại, dù con người bên ngoài của chúng tôi có tiêu tan đi, thì con người bên trong của chúng tôi ngày càng đổi mới. Thật vậy, một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời. Vì thế, chúng ta mới không chú tâm đến những sự vật hữu hình, nhưng đến những thực tại vô hình. Quả vậy, những sự vật HỮU HÌNH chỉ TẠM THỜI, còn những thực tại VÔ HÌNH mới TỒN TẠI VĨNH VIỄN” (2 Cr 4:16-18). Thân xác sống nhờ thần khí chứ chính nó chẳng có giá trị gì (x. Ga 6:63), nó “thân” lắm đấy nhưng nó cũng dễ biến thành “thù” ngay, và rồi nó sẽ phải tan biến thành cát bụi, còn linh hồn mới thực sự bất tử. Đừng nuông chiều hoặc quá chăm chút thân xác mà làm hại linh hồn mình!

Thánh Phaolô kết luận: “Quả thật, chúng ta biết rằng: nếu ngôi nhà của chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều này, bị phá huỷ đi thì chúng ta có một nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, một ngôi nhà vĩnh cửu ở trên trời, không do tay người thế làm ra” (2 Cr 5:1). Chết là biến đổi chứ không là “chấm hết”.

Cuộc sống luôn nhiêu khê và đáng quan ngại, sợ nhất là chính mình – nội gián đáng gờm nhất, rồi đến người thân, sau đó mới là người khác và kẻ thù. Trình thuật Mc 3:20-35 cho biết rằng các thân nhân và các kinh sư đều coi Đức Giêsu là người mất trí, thậm chí còn nói Ngài “bị thần ô uế ám”. Người Việt có ý tưởng chí lý: “Giòi trong xương giòi ra”.

Một lần nọ, Chúa Giêsu trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Ngài và các môn đệ không sao ăn uống được. THÂN NHÂN của Ngài hay tin ấy, liền đi BẮT Ngài, vì họ nói rằng Ngài đã MẤT TRÍ. Theo ngôn từ ngày nay, người ta nói là BóTay.com hoặc “cạn lời”. Hết ý kiến và lắc đầu ngán ngẩm quá!

Rồi cũng chưa yên và còn tệ hơn nữa, vì các kinh sư từ Giêrusalem xuống lại nói rằng Ngài BỊ QUỶ VƯƠNG BÊ-EN-DÊ-BUN ÁM và DỰA THẾ QUỶ VƯƠNG mà trừ quỷ. Những cái “đầu tôm” ở tột cùng của sự ngu dốt tồi tệ. Xã hội ngày nay ở Việt Nam cũng không thiếu loại người như vậy!

Nhưng đừng tưởng bở, chuyện đâu còn có đó. Biết vậy, Ngài liền gọi họ đến, dùng dụ ngôn mà nói với họ: “Satan làm sao trừ Satan được? Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền; nhà nào tự chia rẽ, nhà ấy không thể vững”. Lý luận chặt chẽ, phân tích rạch ròi. Và Ngài minh định: “Vậy Satan mà chống Satan, Satan mà tự chia rẽ thì KHÔNG THỂ TỒN TẠI, nhưng đã TẬN SỐ. Không ai vào nhà một người mạnh mà có thể cướp của được, nếu không trói người mạnh ấy trước đã, rồi mới cướp sạch nhà nó”. Chắc chắn họ đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt mà thôi. Dốt mà chảnh, ngu mà ta đây. Đúng là lũ “đầu đất” hợm mình tới mức hết thuốc chữa!

Đó cũng là bài học cho những ai thực sự muốn sống nghiêm túc, muốn nên người và nên thánh. Thật thế, tự triệt tiêu tôi thì thành thánh. Thế thôi!

Tội lỗi không chỉ có tính liên đới mà còn có mức độ, Giáo Hội gọi là Trọng Tội và Khinh Tội (tội nhẹ). Tội nào cũng được tha nếu thật lòng ăn năn sám hối, quyết tâm chấn chỉnh và hoán cải, nhưng có một loại tội lớn hơn các loại tội to, nặng hơn các loại tội trọng mà Chúa Giêsu đề cập: “Tôi bảo thật anh em: mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng, và nói phạm thượng nhiều đến mấy đi nữa thì cũng còn được tha. Nhưng ai nói PHẠM ĐẾN THÁNH THẦN thì chẳng đời nào được tha, mà còn MẮC TỘI MUÔN ĐỜI”. Đó là tội mà họ đã dám nói Chúa Giêsu “bị thần ô uế ám”. Xúc phạm Thiên Chúa thì hết cách cứu!

Liên quan Thân và Thù, Chúa Giêsu xác định ai mới thật là thân nhân của Ngài (Mc 3:31-35; tương đương Mt 12:46-50; Lc 8:19-21).

Lúc đó, Mẹ và anh em của Chúa Giêsu đến, đứng đợi ở ngoài và cho gọi Ngài ra. Lúc ấy, đám đông đang ngồi chung quanh Ngài. Có kẻ nói với Ngài: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy!”. Nhưng Ngài đáp lại bằng một câu hỏi: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?”. Nói rồi Ngài rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi”.

Nói vậy không có nghĩa là Chúa Giêsu không coi trọng tình cảm gia đình hoặc coi thường thân nhân, nhưng Ngài muốn nói đến tầm quan trọng của việc lắng nghe và sống đúng Lời Chúa, tất nhiên cũng không loại trừ việc học hỏi Lời Chúa. Vô tri bất mộ, không hiểu đúng Lời Chúa thì khó có thể yêu mến, không yêu mến Lời Chúa thì làm sao muốn sống Lời Chúa? Rất lô-gích, rất hợp lý!

Lạy Thiên Chúa nhân lành, xin giúp con biết nhận diện chính mình để có thể đè nén “cái tôi” tồi tệ trong con người của con, bởi vì không có Ngài thì con chẳng làm được chi cả (x. Ga 15:5). Con biết con ngu dốt hơn mọi người, không thông minh bằng người khác (Cn 30:1), xin cho con được trí thông minh để vâng theo luật Ngài và hết lòng tuân giữ (Tv 119:34), xin ban trí thông minh để con được am tường thánh ý (Tv 119:125). Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

 

11. Suy niệm và chú giải của Lm. Ignatiô Hồ Thông

Sức phá hoại của Xa-tan nơi hai ông bà nguyên tổ vì bất phục huấn lệnh của Thiên Chúa được tiếp tục nơi giai cấp lãnh đạo Do thái vì họ vu khống Đức Giêsu dùng tướng quỷ mà trừ quỷ. Nhưng lời hứa cứu độ của Thiên Chúa: “miêu duệ người nữ sẽ đạp nát đầu mi”, sẽ được Đức Giêsu thực hiện khi Ngài khẳng định rằng nước của Sa-tan sẽ sụp đỗ và thiết lập gia đình Thiên Chúa qua việc lắng nghe và thi hành ý muốn của Thiên Chúa.

St 3, 9-15

Sách Sáng Thế mô tả những tác hại của việc hai ông bà nguyên tổ không vâng lời Thiên Chúa và đồng thời lời hứa cứu độ của Thiên Chúa.

2Cr 4,13 – 5,1

Được cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu nâng đỡ, thánh Phao-lô xác tín rằng thánh nhân cũng với các tín hữu thân yêu của ngài sẽ được sống với Chúa.

Mc 3, 20-35

Đức Giêsu thực hiện lời hứa của Thiên Chúa bằng cách khẳng định nước của Xa-tan sẽ sụp đổ và thiết lập gia đình Thiên Chúa.

BÀI ĐỌC I (St 3, 9-19)

Sách Sáng Thế mô tả những tác hại của tội và lời hứa cứu độ của Thiên Chúa.

  1. Những tác hại của tội (3: 9-13):

Tác giả mô tả cách tinh tế tội gây tác hại cho nhân loại qua hai ông bà nguyên tổ như thế nào.

  1. Tội phá vỡ mối giao hảo của con người với Đấng Tạo Hóa (3: 9-11):

Thuở ban đầu, vào lúc gió chiều hiu hiu thổi, Thiên Chúa thường đến dạo chơi trong vườn với hai ông bà và trò chuyện thân mật với hai ông bà. Nhưng kể từ nay khi nghe tiếng bước chân của Thiên Chúa, hai ông bà, thay vì mừng rỡ chạy ra nghênh đón Người, lại ẩn mình vào giữa lùm cây trong vườn, vì sợ giáp mặt với Thiên Chúa. Hình ảnh hai ông bà trốn vào lùm cây diễn tả phản ứng quen thuộc của những kẻ phạm tội; tội lỗi khiến con người tránh xa Thiên Chúa. Chính tội lỗi đã khiến cho kẻ phạm tội sợ phải diện đối diện với Thiên Chúa, tìm mọi cách xa lánh vị Thiên Chúa tốt lành của mình. Tội lỗi phá vỡ mối thân tình ban đầu giữa loài thụ tạo với Đấng Tạo Hóa của mình.

  1. Tội làm rạn nứt tình chồng nghĩa vợ (3: 12-13)

Thuở ban đầu, khi mới gặp người nữ Thiên Chúa giới thiệu cho mình, con người đã thốt lên: “Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi” (St 2: 23); ấy vậy giờ đây người chồng đổ hết trách nhiệm cho vợ mình: “Người đàn bà Ngài đã cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn” (3: 12). Còn người nữ cũng thoái thác trách nhiệm của mình bằng cách đổ lỗi cho con rắn: “Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn” (3: 13). Lời của người nữ là thực, nhưng bà quên rằng mình đã để cho Con Rắn xảo trá lừa dối đến mức hiểu sai ý định tốt lành của Thiên Chúa. Tội đã làm rạn nứt mối tình nghĩa keo sơn bền chặt “nên một xương một thịt” giữa chồng và vợ, mỗi người tìm cách chối quanh co những lỗi lầm của mình, không ai dám nhận phần trách nhiệm của mình.

  1. Lời hứa cứu độ của Thiên Chúa (3: 14-15)

Thiên Chúa phán xử con rắn qua hai câu: câu thứ nhất là án phạt dành cho con rắn, câu thứ hai báo trước sự chiến thắng của loài người trên con rắn, tên cám dỗ.

A- Thiên Chúa luận tội con rắn (3: 14):

Trước hết, Thiên Chúa luận tội con rắn, kẻ cám dỗ:

“Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú.

Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi” (3: 14).

Lời luận tội này mang tính tầm nguyên về loài rắn, nhằm để trả lời cho những câu hỏi như: tại sao con rắn lại bò sát đất, lại ăn đất? Tại sao nó khác biệt với các loài khác? Tại sao lại có mối thù giữa loài người và loài rắn? Thực ra, bản án không gì khác chỉ như một lời chứng nhận: con rắn không có chân nên phải “bò bằng bụng”, nhưng tác giả đã nối kết nét đặc trưng này với hình tượng kinh điển về sự thất bại, bị hạ nhục và khinh dể: “Phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi” (x. Is 49: 23; Mk 7: 17; Tv 72: 9; v.v.). Ở đây, tác giả một lần nữa phản bác việc phụng thờ thần rắn để cầu xin cho được phong nhiêu và phồn sinh thường thấy tại Lưỡng Hà Địa, Ai-cập, Pa-lét-tin… Trong các đền thờ, thần rắn được tạc tượng giống như con rồng có chân đứng thẳng để nhận những hành vi thờ bái của các tín hữu; thần rắn cũng được cho rằng có thể ăn lễ vật do các tín đồ sốt sáng dâng lên, nhưng từ nay “phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi”.

B- Thiên Chúa loan báo ơn cứu độ (3: 15):

Tiếp đó, Thiên Chúa loan báo ơn cứu độ qua việc dòng giống người nữ sẽ chiến thắng trên dòng giống con rắn:

“Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà,

giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy;

dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (3: 15).

Lời tiên báo này có thể được giải thích cách rộng lớn hơn khi hiểu toàn thể nhân loại qua kiểu nói: “dòng giống của người đàn bà”, và tất cả những quyền lực của sự ác qua kiểu nói: “dòng giống của con rắn”. Qua lời tiên báo này, Thiên Chúa hứa rằng Người sẽ can thiệp để phục hồi nguyên trạng cho con người. Lời hứa này mở ra cho nhân loại một niềm hy vọng là một ngày kia nhân loại sẽ chiến thắng trên những quyền lực của Ác Thần.

Tuy nhiên, bản dịch Hy-ngữ (bản Bảy Mươi) đặt chủ từ ở số ít giống đực: “Chính người con trai đó sẽ đạp dẹp đầu người”. Theo cách hiểu của bản dịch này, lịch sử sẽ là một cuộc chiến đấu dài lâu giữa nhân loại và các quyền lực của sự dữ; nhưng nếu cuộc chiến thắng sau cùng được đảm bảo cho nhân loại, thì cuộc chiến thắng này hàm chứa một vị lãnh tụ có khả năng chiến thắng sự Dữ, tức là Đấng Cứu Thế. Còn các Giáo Phụ thì đọc thấy lời hứa này là lời tiên báo theo đó ở giữa lòng nhân loại sẽ sinh hạ một người nữ, bà này sẽ đạp dập đầu Quỷ Dữ, người đàn bà đó là Mẹ của Đấng Cứu Thế; vì thế bản dịch La-ngữ (bản Phổ Thông) của thánh Giê-rô-ni-mô đặt chủ từ ở số ít giống cái: “Chính người đàn bà đó sẽ đạp dập đầu ngươi”, để áp dụng vào Đức Trinh Nữ Maria.

Dù thế nào, cách hiểu của hai bản dịch này không loại trừ nhau nhưng bổ túc cho nhau. Người Đàn Bà chiến thắng sự Dữ chỉ bởi và nhờ Người Con của Bà. Thật đáng lưu ý rằng khi tạc tượng vẽ hình về Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đạp dẹp đầu con rắn, các nghệ sĩ luôn luôn trình bày Hài Nhi Giêsu trong vòng tay của Mẹ Mình. Chúng ta biết rằng sách Khải Huyền của thánh Gioan âm vang bản văn Sáng Thế này trong một thị kiến về Người Phụ Nữ đối lập với Con Rồng, “con rắn xưa”, nhưng trong đó Đức Ma-ri-a đã không được trực tiếp chỉ ra (Kh 12). Vì thế, lời tiên báo này được truyền thống Ki-tô giáo giải thích là “tiền tin mừng”, nghĩa là tin mừng “đầu tiên” loan báo hừng đông ơn cứu độ.

BÀI ĐỌC II (2Cr 4: 13-5: 1)

 Thánh nhân vạch rõ rằng đau khổ của Đức Giêsu mặc khải tình yêu Thiên Chúa và ban sự sống như thế nào, thì những đau khổ của thánh Phao-lô nẩy sinh trong tình yêu mà thánh nhân dành cho các tín hữu Cô-rin-tô cũng như vậy. Được cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu nâng đỡ, thánh Phao-lô xác tín rằng thánh nhân sẽ được sống lại “với Chúa” (4: 14; x. 1Tx 4: 14, 17). Tuy nhiên, điểm nhấn ở đây được đặt trên “cùng với anh em” (4: 14). Điều nhấn này giúp chúng ta thấu hiểu tình yêu thánh nhân dành cho những người mà thánh nhân chia sẻ Tin Mừng và cũng giúp cho chúng ta thấu hiểu lòng nhiệt thành thánh nhân dâng hiến cho sứ mạng của mình ngỏ hầu Tin Mừng có thể đạt đến nhiều người chừng nào có thể.

TIN MỪNG (Mc 3: 20-35)

Bối cảnh không gian của phân đoạn này chính là Đức Giêsu đang ở trong một ngôi nhà có đám đông vây quanh. Còn bối cảnh thời gian thì rộng lớn hơn bối cảnh không gian: thân nhân của Người từ làng Na-da-rét đến Ca-phác-na-um để bắt Ngài về vì nghĩ rằng “Người đã mất trí” (3: 21), trong khi các kinh sư Do thái xuyên tạc hành động của Ngài và vu khống Ngài dùng tướng quỷ mà trừ quỷ.

Bản văn này được cấu trúc theo lối hành văn “đối xứng đồng tâm nghịch đảo” như sau:

A-Thân nhân cáo giác Đức Giêsu (3: 20-21).

      B-Các kinh sư vu cáo Đức Giêsu (3: 22).

          C-Đức Giêsu tự biện hộ (3: 23-27).

      B’-Đức Giêsu phê phán các kinh sư (3: 28-30).

A’-Đức Giêsu phê phán thân nhân của Ngài (3: 31-35).

A-Thân nhân cáo giác Đức Giêsu (3: 19b-21):

  1. “Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến”: Giới thiệu hoàn cảnh của Đức Giêsu vào lúc đó. Đây chắc là nhà của thánh Phê-rô.
  2. Bà con họ hàng của Đức Giêsu đến để bắt Người về, vì họ nghĩ rằng Người đã mất trí. Khi xử sự như thế, họ chỉ muốn gìn giữ thể diện danh giá của gia tộc và bảo vệ mạng sống cho Đức Giêsu. Nhưng điều ấy cho thấy rằng các thân nhân của Người tỏ ra không hiểu gì về sứ mạng của Người và không nhận ra Người có một sứ mạng thần linh.

B-Các kinh sư vu cáo Đức Giêsu (3: 22):

Các kinh sư từ Giê-ru-sa-lem đến kết án Chúa Giêsu hai tội: “Người bị quỷ vương Bê-en-dê-bun ám” và “Người dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ”. Trong lời biện hộ, Đức Giêsu sẽ trả lời cho họ lời kết tội thứ hai trước (3: 23-26), rồi đến lời kết tội thứ nhất sau (3: 27).

C-Đức Giêsu tự biện hộ (3: 23-27):

  1. “Xa-tan làm sao trừ Xa-tan được?”: Chúa Giêsu trả lời cho lời buộc tội thứ hai của các các kinh sư, những người này không thể nào bác bỏ những việc trừ quỷ của Đức Giêsu, vì thế họ giải thích rằng Người đã dùng tướng quỷ mà trừ quỷ. Qua ba câu 24-26, Đức Giêsu vạch rõ cho thấy lời giải thích này thật là phi lý.

24-26. Điểm cơ bản được minh họa theo ba cách, mỗi cách theo cùng một cấu trúc. Nếu một nước, một nhà hay Xa-tan chia rẽ, thì nó không thể đứng vững được. Nếu câu 24 và câu 25: một nước, một nhà là dụ ngôn, thì câu 26 lại là lời trả lời trực tiếp: nếu Đức Giêsu dùng tướng quỷ mà trừ quỷ hóa ra Xa-tan sẽ đặt các thuộc hạ của mình chống lại nhau, vì thế, tự tiêu diệt chính mình và vương quốc của mình. Câu kết luận không cần phải nói ra Đức Giêsu không thể nào thuộc về vương quốc của Xa-tan được, nhưng là đối thủ đáng gờm của Xa-tan.

  1. “Không ai vào nhà một người mạnh mà có thể cướp của được, nếu không trói người mạnh ấy trước đã, rồi mới cướp sạch nhà nó”: Qua câu 27 này, Đức Giêsu trả lời cho lời buộc tội thứ nhất của các kinh sư khi họ tố cáo Người bị quỷ ám. Nếu Đức Giêsu bị quỷ ám thì Người phải dưới quyền thống trị của Xa-tan. Nhưng rõ ràng Đức Giêsu là “người mạnh hơn Xa-tan”, Người đã đột nhập vào nhà của nó, đã trói nó và “cướp sách sạch nhà nó”, tức là những người được giải thoát khỏi bệnh tật và ma quỷ. Chính cuộc giải phóng này loan báo cuộc trất quyền của Xa-tan và Triều Đại Thiên Chúa ngự đến.

B’-Đức Giêsu phê phán các kinh sư (3: 28-30):

  1. “Tôi bảo thật anh em”: Lời dẫn nhập long trọng và đầy xác quyết này có giá trị như một lời cam đoan.

– “Mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng, và nói phạm thượng nhiều mấy đi nữa, thì cũng còn được tha”: “Tội nói phạm thượng” theo nghĩa hẹp là nói những lời xúc phạm đến Thiên Chúa, đến Danh Thiên Chúa (Mc 2: 7; 14: 64; Ga 10: 33-36); theo nghĩa rộng là lời nói xúc phạm đến một đặc quyền thần linh nào đó (Cv 6: 11), một tổ chức thánh (Ed 35: 12; 1Mcb 7: 38); theo văn mạch ở đây là tội nói xúc phạm đến Chúa Giêsu, vì Người là Đấng được Thiên Chúa sai đến và có quyền năng của Thiên Chúa (15: 29tt; Lc 22: 64-65; 23: 30). Tất cả mọi tội xúc phạm đến Đức Giêsu đều được tha.

  1. “Nhưng ai phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời”: Bản liệt kê các thứ tội mà loài người phạm đều có thể được tha nhằm làm nổi bật tội phạm đến Thánh Thành chẳng đời nào được tha. Vậy tội phạm đến Thánh Thần là tội gì? Chúa Giêsu đang trả lời cho các kinh sư Do thái, theo họ Thần Khí không chỉ mặc khải sự thật của Thiên Chúa cho loài người nhưng còn khai lòng mở trí cho loài người hiểu biết sự thật ấy. Theo văn mạch, Thánh Mác-cô đã trình bày ngay từ lúc khởi đầu sứ vụ, Đức Giêsu đã được Chúa Thánh Thần ở cùng và hướng dẫn Người trên con đường thi hành sứ mạng. Như vậy, Thánh Thần hoạt động trong những việc chữa lành và trừ quỷ nơi Đức Giêsu để mặc khải cho loài người sự thật của Đức Giêsu và giúp con người hiểu biết sự thật ấy. Nhưng các kinh sư chẳng những không mở rộng lòng mình để tiếp nhận sự thật mà Thánh Thần mặc khải mà còn cố tình xuyên tạc sự thật ấy bằng cách gán những hành động của Thánh Thần ở nơi Đức Giêsu cho quyền lực của quỷ. Thật ra, “tội nói phạm đến Thánh Thần thì chẳng đời nào được tha thứ”, không có nghĩa rằng Thánh Thần không tha thứ, mà chính đương sự tự ý khép kín lòng mình trước sự thật và nhất quyết sống trong sự gian dối.
  2. “Đó là vì họ đã nói ông ấy bị thần ô uế ám”: Những ai cho rằng những gì Đức Giêsu làm đều ở dưới quyền lực của ma quỷ, chịu sự tác động của ma quỷ, những người ấy không thể đón nhận ánh sáng của ân sủng, không muốn đón nhận ơn tha thứ mà Thánh Thần ban cho hết mọi người. Câu này mặc nhiên khẳng định rằng Chúa Thánh Thần chứ không Xa-tan là nguồn quyền năng của Đức Giêsu.

A’-Đức Giêsu phê phán thân nhân của Ngài (3: 31-35):

  1. “Mẹ và anh em Đức Giêsu đến, đứng ở ngoài cho gọi Người ra”: Nhóm người nầy tương tự như (hay ít ra một phần) “thân nhân của Người” được kể ra ở 3: 21. Từ “anh em” trong tiếng Híp-ri có một phạm vi ngữ nghĩa rất rộng như là anh em ruột, anh em họ, và cả bà con xa gần. Trong câu chuyện trước đó (3: 20-21), tác giả đã kể rằng khi hay tin Chúa Giêsu say mê giảng dạy và chữa bệnh cho dân chúng đến nỗi không có thời giờ ăn uống, “thân nhân của Người liền đi bắt Người vì họ nói rằng Người mất trí” (Mc 3: 21). Chuyến đi đó họ “không bắt” (nghĩa là “không ngăn cản”) Chúa Giêsu được. Có lẽ vì thế mà bây giờ, họ dẫn thêm Đức Ma-ri-a. Câu chuyện này cho thấy Đức Mẹ chưa hiểu nhiều về sứ mạng của Chúa Giêsu. Đã nhiều lần Mẹ phải ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng về những việc lạ lùng nơi con của mình. Cuối cùng, dưới chân Thập Giá, Mẹ mới hiểu hết và còn kết hợp sự đau khổ của mình với sự đau khổ của Chúa Giêsu. Quả thật, Công Đồng Va-ti-can đã nói về cuộc hành trình đức tin của Đức Ma-ri-a.
  2. “Đám đông đang ngồi chung quanh Người”: Đám đông được mô tả như những môn đệ vây quanh Người, chăm chú lắng nghe Lời Người.

– “Có kẻ nói với Người rằng: ‘Thưa Thầy, có mẹ và anh em chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy!”: Theo cách mô tả của thánh Mác-cô, những thân nhân của Đức Giêsu đang đứng ở bên ngoài, còn đám đông thì đang ngồi chăm chú lắng nghe Người ở bên trong. Như vậy, với hai cặp không gian đối nghịch nhau: “ở bên ngoài” và “ở bên trong”, thánh Mác-cô muốn diễn tả chủ đề chính của phân đoạn này, theo đó những kẻ đang ngồi lắng nghe lời Người ở bên trong thì thân thiết và gần gũi với Người còn hơn những thân nhân của Người đang đứng ở bên ngoài.

  1. “Ai là mẹ tôi?, ai là anh em tôi?”: Khi nghe tin mẹ và anh em từ làng quê Na-da-rét đến ở bên ngoài, chẳng những Đức Giêsu không ngừng công việc rao giảng, nhưng Người còn nêu lên một câu hỏi lạ lùng này.
  2. “Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ chung quanh”: Đây là cách thức thánh Mác-cô nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo huấn mà Chúa Giêsu đưa ra sau đó.

– “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi”: Đức Giêsu đang chỉ những người ở bên trong, họ mới thật sự là mẹ và anh chị em của Người.

  1. “Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa”: Lời nói trọng tâm nầy chứa đựng ít nhất một ghi nhận tiêu cực về gia đình huyết thống của Đức Giêsu. Những thân nhân huyết thống “ở bên ngoài”, những người đang đến đó không phải để nghe Lời Người nhưng để ngăn cản Người thi hành sứ vụ của Người vì cho rằng “Người đã mất trí” (3: 21), đối lập với những thân nhân đức tin “ở bên trong”, tức là tất cả những ai lắng nghe Lời Người và thi hành ý muốn của Thiên Chúa. Thánh Mác-cô muốn làm nổi bật hai mẫu gia đình: gia đình huyết thống thì “ở bên ngoài”, còn gia đình đức tin thì “ở bên trong”.

Trong Cựu Uớc, Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và điều khiển vũ trụ (Hc 43: 16; Tv 29: 5), vì thế làm theo ý muốn của Thiên Chúa là điều con người phải ước muốn ưu tiên hàng đầu: “Con thích làm theo thánh ý và ấp ủ Luật Chúa trong lòng” (Tv 40: 9). Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần nhấn mạnh đến việc lắng nghe Lời Người và đem ra thực hành, chẳng hạn như “Ai đến với Thầy, và nghe những lời Thầy dạy mà đem ra thực hành…người ấy ví được như một người khi xây nhà, đã cuốc, đã đào sâu và đặt nền móng trên đá. Nước lũ có dâng lên, dòng sông có ùa vào nhà, thì cũng không lay chuyển nổi” (Lc 6: 47-48).

– “Người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi”. Trong một xã hội mà gia đình đóng một vai trò quan trọng đặc biệt, thì ý tưởng về một gia đình đức tin có tác dụng làm tương đối hóa những mối liên hệ huyết thống, đây mới thực sự là gia đình của Đức Giêsu không căn cứ trên huyết thống hay chủng tộc nhưng trên việc thực thi thánh ý Thiên Chúa. Tác giả không nhằm phê phán Đức Ma-ri-a cũng như anh chị em của Người, nhưng có chủ ý cho thấy các tín hữu, tức là những người môn đệ ở cùng nhà và chia sẻ đời sống với Đức Giêsu, không chỉ như những người “ở với Người và để Người sai đi” (x. 3: 14), nhưng còn như những thành viên của cùng một gia đình, gia đình của Thiên Chúa, Cha của Đức Giêsu Ki-tô. Chúa Giêsu cho hiểu rằng những người đang quây quần chung quanh Người được nối kết với Người một cách sống động và thực sự: Người thuộc về họ và họ thuộc về Người. Tuy nhiên, sợi dây liên kết này không căn cứ trên căn bản huyết thống, những trên mối quan hệ của họ với Thiên Chúa. Họ là những người liên kết với Đức Giêsu cách mật thiết nhất, bởi vì họ thi hành ý muốn của Thiên Chúa.

Qua những lời này, Chúa Giêsu cho hiểu rằng trong kế hoạch của Thiên Chúa, “sống theo ý muốn của Thiên Chúa” mới thật sự trở nên gia đình của Người chứ không là mối liên hệ huyết thống. Như vậy, gián tiếp Người cho hiểu rằng Đức Ma-ri-a có một vị trí cao quý tột bậc không phải vì là “thân mẫu của Người” cho bằng đã “sống theo ý muốn của Thiên Chúa”. Những thân nhân huyết thống của Đức Giêsu cũng không bị loại khỏi mối hiệp thông với Người, nếu họ sẵn sàng thi hành ý muốn của Thiên Chúa.

Đây quả là một cách thức vừa rõ ràng vừa đơn giản mà thánh Mác-cô muốn trình bày cho các Ki-tô hữu đương thời về Giáo Hội. Cuộc bách hại của người Rô-ma đã đẩy nhiều gia đình đến những cuộc phân ly đau đớn. Những ai trở lại đạo thường bị buộc phải chọn lựa hoặc là thân quyến hoặc là cộng đồng Ki-tô hữu. Thánh Mác-cô chứng tỏ cho họ thấy ngay chính Chúa Giêsu cũng từng bị buộc phải đoạn tuyệt với thân nhân của Người: vì thế các Ki-tô hữu không thể đòi cho mình được đặc quyền hơn Người. Như thế, trên con đường rao giảng của Chúa Giêsu, thánh Mác-cô đưa ra hai loại tương giao giữa Chúa Giêsu và những kẻ đương thời của Người: một số khước từ và một số khác đón nhận Người. “Bản thân là một người Ki-tô hữu, tôi đã thuộc về Đức Ki-tô. Biết và thi hành ý muốn của Chúa, tôi sẽ là mẹ, là anh chị em của Người. Vâng, Chúa đã nói với những kẻ ngồi xung quanh Người như thế. Hôm nay Chúa cũng tha thiết nói với tôi, với những người xung quanh tôi như vậy, từ những người trí thức đến những người thấp kém trong xã hội. Tất cả chúng ta đều có nhiệm vụ đón nhận và làm cho lời Chúa thấm nhuần cả đời sống của ta, gia đình và xã hội, để Chúa Giêsu không ngừng lớn lên trong ta và trong mọi người. Như thế đó, ta vừa là mẹ vừa là anh chị em của Người.” (“Epphata”).

 

12. Hai căn nhà

(Suy niệm của Fiches Dominicales)

  1. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
  2. Từ căn nhà chia rẽ chống lại chính mình

Trên núi, Đức Giêsu thiết lập nhóm “mười hai để họ ở với Người và để sai họ đi rao giảng với quyền xua đuổi ma quỷ”. Giờ đây Người “vào một ngôi nhà nơi đám đông tụ tập. Họ khao khát nghe lời Người đến nỗi Người không có thời giờ ăn uống? Chính trong khung cảnh ấy Máccô tường thuật lại hai cuộc chống đối Đức Giêsu. Sự chống đối của gia đình người”. Thân nhân của Người nói: “Người đã mất trí” và họ đến “bắt Người về” (kiểu nói “bắt” được nhắc lại 4 lần trong bài Thương khó để chỉ việc bắt giam Đức Giêsu). Sự chống đối của các “Luật sĩ đến từ Giêrusalem” uy quyền tôn giáo ở Israel: Họ tố cáo Người bị quỷ “Bê-en-dê-bun ám” và Người xua đuổi ma quỉ vì Người là “tướng quỷ” Đức Giêsu đã trả lời họ tức khắc bằng hai dụ ngôn ngắn:

– Dụ ngôn thứ nhất về “vương quốc” hoặc về “gia đình” chia rẽ. Đức Giêsu viện dẫn lương tri: làm sao Satan có thể xua đuổi Satan (hoặc quân quốc của Satan?). Đó là dấu hiệu “hắn tự chống lại mình”, “tự chia rẽ”, như thế đâu thể đứng vững; quả hắn đã đến ngày tàn”.

– Dụ ngôn thứ hai về “người mạnh” khi xua tuổi ma quỉ, Đức Giêsu chứng tỏ Người mạnh hơn Satan, có thể “trói gô” hắn lại. Đối với các Luật sĩ những kẻ hiểm ác đến độ qui về Satan cả những hoạt động của Thánh Linh, Đức Gtêsu tràn đầy Thánh Thần Thiên Chúa đã cho họ biết rằng Người đến truất phế Satan khỏi vương quốc của hắn và Người sẽ trị vì thay hắn.

2… đến căn nhà qui tụ các anh em Đức Giêsu

Thân nhân của Đức Giêsu tới để “bắt Người”. Họ, những kẻ “đòi hỏi Người” hiện nay đang “ở ngoài” theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng; ở bên ngoài căn nhà, họ đụng phải dòng người vây quanh Thầy để lắng nghe.

Đức Giêsu đảo mắt nhìn những người tự tập quanh Người (theo Máccô, cái nhìn chăm chú ấy luôn mang một ý nghĩa quan trọng) và đưa ra một lời tuyên bố long trọng: gia đình thực sự của Người không phải là gia đình theo xác thịt, nhưng là những người lắng nghe lời Người và thực hành thánh ý Thiên Chúa: “Ai thi hành thánh ý Thiên Chúa, người ấy là anh em, chị em và là mẹ Ta”.

  1. Hervieux giải thích: “Đối với Máccô, đó là một cách diễn tả Giáo Hội vừa rõ ràng vừa đơn sơ cho các Kitô hữu thời ấy. Cơn bách hại của người rôm đã đẩy bao gia đình vào thảm cảnh chia lìa đớn đau. Những người trở lại đảo luôn bị bắt buộc phải lựa chọn hoặc dây liên hệ gia đình, hoặc gắn bó với cộng đoàn Kitô hữu. Tác giả Tin Mừng chỉ cho họ thấy rõ chính Đức Giêsu cũng đã bị bắt buộc phải cắt đứt hoàn toàn mối dây liên hệ với thân nhân” (“Tin Mừng Marco”, Centurion, trang 63).
  2. BÀI ĐỌC THÊM
  3. Một gia đình khác, mạnh hơn gia đình thuộc huyết tộc, đang thành hình

(G. Bessière: trong “Thiên Chúa rất gần. Năm B”, DDB, trang 107-108).

Dư luận xì xầm. Làng xóm bàn tán. Gia đình mở cuộc họp. Đó là mối nhục của gia tộc. Và ta không thể gả chồng cho các cô gái nữa. Chỉ cần thốt ra tên một người, tức khắc mọi người sẽ tránh xa. Hội đồng gia tộc đã quyết định: “Người ta bảo ông ta khùng rồi”trong khi đám đông vây xúm xít quanh Đức Giêsu, “gia đình Người tới để bắt người, vì họ cho rằng: Người đã “mất trí”. Những ông cậu, những ông anh bà con lực lưỡng cũng biết rằng một uỷ ban luật pháp – các luật sĩ – đã được phái tới từ Giêrusalem để điều tra. Kết luận của họ nguy hiểm cho Người và cho danh giá của cả gia tộc: “Người bị tướng quỷ Bê-en-dê-bun ám; Chính nhờ uy quyền của tướng quỷ người mới trừ được lũ quỷ con”. Tốt hơn nên nói rằng: Người đã “mất trí” .

Người đã làm gì để đến nỗi bị coi là điên khùng hay một người ủng hộ Satan? Người loan báo rằng Thiên Chúa đã đến gần, giải thoát những người bị quỷ ám, chữa lành các bệnh nhân, gần gũi những người cùi, thậm chí còn dám đựng chạm để chữa lành họ, Người còn đi đến mức tha thứ cho người tội lỗi, ăn uống tại nhà những người tội lỗi công khai. Người tự do trong việc giữ luật ngày Sabát. Người có lập trường riêng chẳng hề dựa trên truyền thống. Người nói phải chứa rượu mới trong bầu da mới! Tóm lại là đảo lộn tất cả, và còn tự xưng là… Thiên Chúa!.

Chẳng có cách nào băng qua những vòng người ngồi chung quanh để tóm lấy người. Gia đình người đành ở lại bên ngoài và cho đòi Người. người ta nhắn vào: “Mẹ Thầy và anh em Thầy ở ngoài kia tìm Thầy”. Nhưng người trả lời: “Ai là mẹ Ta? ai là anh em Ta? Rồi đưa mắt nhìn mọi người đang ngồi thành vòng tròn chung quanh, Người bảo: “Đây là mẹ Ta và anh em Ta. Ai thực hành thánh ý Thiên Chúa, người ấy là anh em, chị em, và mẹ Ta”.

Ở một thời buổi và giữa một dân tộc coi gia đình là thánh thiêng, Đức Giêsu đã có một thái độ thoát ly tán bạo. Một gia đình khác chào đời, mạnh hơn gia đình theo huyết tộc, mở rộng đón nhận cả nhân loại, gia đình của Cha Đấng ngự trên trời. Ai đo lường được mức độ mới mẻ gây tranh cãi mà đứa con lạc loài của Nadarét mang lại?

  1. Cuộc hành hương đức tin của Maria

(G.Garde trong “Các cộng đoàn của Chúa” số 41 , trang 51).

Máccô buộc ta phải hiểu đức tin của Đức Maria là một đức tin lớn mạnh tiệm tiến. Chẳng phải ngay lúc nhập thể, Đức Maria đã hiểu biết con trai mình là Thiên Chúa. Luca không nói khác, vì theo ông, Mẹ không hiểu câu trả lời của Đức Giêsu ở Đền Thờ năm Người lên 12 tuổi (Lc 2,50). Cũng vậy, hôm nay Mẹ tin rằng phải dùng quyền làm mẹ, để đưa Đức Giêsu trở lại cuộc sống đơn sơ ở Nazareth, nhất là khi giáo quyền của đạo Do Thái xem ra chống lại con Mẹ. Dần dà, nhờ “lắng nghe Lời Chúa” và nhờ thực hành thánh ý mà Đức Maria đã lớn lên trong đức tin, một đức tin càng ngày càng sáng tỏ. Quyền làm mẹ đã tìm thấy một chiều kích mới, để trở nên Mẹ Giáo Hội.

 

13. Suy niệm của William Barclay

(Trích trong ‘Chú Giải Tin Mừng Máccô’)

  1. Sự nhận định của người nhà Chúa Giêsu: 3,20-21

Thỉnh thoảng có người đưa ra một nhận định mà chúng ta không thể giải thích gì khác hơn là bảo đó là sản phẩm của một kinh nghiệm cay đắng. Khi kể ra những gì một người phải gặp nếu muốn theo Ngài, Chúa Giêsu đã nói “Người ta sẽ có kẻ thù nghịch là người nhà của mình” (mt 10,36). Chính người nhà Chúa Giêsu đã kết luận Ngài bị mất trí, và đã đến lúc họ phải bắt Ngài đưa về nhà. Chúng ta hãy thử xem điều gì khiến họ cảm thấy như vậy.

1/ Chúa Giêsu đã bỏ nhà ra đi, bỏ luôn nghề thợ mộc Ngài đã từng làm ở Nazaret. Chắc nghề ấy vốn phát đạt, ít nhất cũng giúp Ngài sinh nhai được. Thình lình, Ngài bỏ hết và ra đi làm một nhà truyền giáo, lang thang đó đây. Chắc họ nghĩ rằng chẳng ai tỉnh trí mà lại chịu bỏ việc làm ăn lợi lộc để trở thành một kẻ lang thang không chỗ gối đầu như vậy.

2/ Chúa Giêsu đang tiến tới chỗ phải đụng đầu với các lãnh tụ chính thống giáo thời đó. Ở đời, có nhiều kẻ có thể gây thiệt hại lớn lao cho người khác, có kẻ mà tay chân bộ hạ của họ cũng đáng cho người ta phải coi chừng, có kẻ mà chống lại họ là vô cùng nguy hiểm. Người nhà của Chúa Giêsu đã nghĩ, một người tỉnh trí sẽ chẳng bao giờ dám chống lại những kẻ quyền thế, vì phải biết rằng đụng chạm với chúng chỉ rước họa vào thân. Chưa hề có ai gây chuyện với các Kinh sư và Pharisêu, với các thủ lãnh tôn giáo mà hy vọng có thể thoát khỏi tay họ.

3/ Chúa Giêsu triệu tập một nhóm người bé nhỏ cho riêng Ngài, một nhóm người khá kỳ dị. Có mấy người là ngư dân, một người thâu thuế bỏ việc, một nhà ái quốc cuồng tín. Họ là hạng người mà không ai có chút tham vọng muốn đặc biệt quen biết. Họ là hạng người chẳng ích lợi gì cho ai muốn làm nên sự nghiệp. Chắc họ nghĩ chẳng ai tỉnh trí mà đi kết bạn với những kẻ như thế. Dứt khoát họ không phải là hạng người mà một người thận trọng chịu hòa mình chung sống.

Bằng các việc làm của Ngài, Chúa Giêsu đã vạch rõ ràng cả ba nguyên tắc mà loài người có khuynh hướng áp dụng để tổ chức đời sống mình, đều chẳng có ý nghĩa đối với Ngài.

1/ Ngài đã vứt đi nếp sống đảm bảo. Điều mà phần đông người thế gian cần có là một đời sống bình yên, ổn định. Họ ao ước được một việc làm, một địa vị an toàn, ổn định, ít gây xáo trộn về vật chất và tài chánh.

2/ Ngài đã vứt bỏ sự an toàn. Phần đông người ta có khuynh hướng muốn được sống an toàn, họ lo được an thân hơn lo cho phẩm cách đạo đức, cho việc làm phải hay quấy. Làm một việc có nguy cơ gây nguy hiểm cho bản thân là điều do bản năng người ta luôn luôn né tránh.

3/ Ngài hoàn toàn thờ ơ đối với lời phê phán, khen chê của xã hội. Ngài đã chứng tỏ là chẳng bận tâm gì đến những gì người ta nói về Ngài. Thật vậy, H.G. Wells đã nói: “Với nhiều người, tiếng nói của người láng giềng nghe to hơn cả tiếng Thiên Chúa. Người ta sẽ nói gì? Là một trong những câu hỏi đầu tiên mà chúng ta vẫn thường có thói quen đặt ra”.

Điều khiến cho người nhà và bạn bè của Chúa Giêsu lo sợ là những nguy cơ Ngài đã liều lĩnh chuốc lấy cho mình, mà theo ý họ, chẳng có người tỉnh trí nào làm vậy cả.

Lúc John Bunyan bị bỏ tù, ông đã rất lo sợ. Ông nghĩ “Kết thúc của việc tôi bị bỏ tù có thể là giá treo cổ, đó là điều tôi có thể nói”. Ông không thích ý nghĩ mình sẽ phải bị treo cổ, rồi một ngày kia, ông cảm thấy xấu hổ vì đã nghĩ như vậy “Hình như tôi xấu hổ vì phải chết với gương mặt tái xanh và hai đầu gối run rẩy chỉ vì một lý do như vậy”. Nhưng cuối cùng, ông đã đến được câu kết luận “khi tưởng tượng mình đang leo thang để lên giá treo cổ, lúc đó tôi nghĩ: tôi phải tiến bước và đánh liều phần số đời đời của tôi với Chúa Cứu Thế, cho dù ở đây tôi có được thoải mái hay không. Tôi nghĩ, nếu không có Chúa can thiệp, tôi cũng cứ nhắm mắt nhảy từ chiếc thang ấy vào cõi đời đời, dù có thể bơi lội hay chìm lỉm, dù thiên đàng hay hỏa ngục; Lạy Chúa Giêsu nếu Ngài có thể hứng bắt lấy con, xin hãy làm công việc của Ngài, bằng không, con cũng vì danh Ngài mà liều mạng sống vậy”. Đó cũng chính là điều mà Chúa Giêsu đã sẵn sàng làm, tôi sẽ vì danh Ngài mà liều mạng, chứ không phải muốn được sống yên thân, an toàn, phải là khẩu hiệu của mỗi Kitô hữu và là nguồn mạch cho sinh hoạt Kitô hữu.

  1. Liên minh hay chinh phục: 3,22-27

Các chức sắc chính thống giáo chẳng còn chút gì để nghi ngờ quyền phép đuổi quỷ của Chúa Giêsu. Họ không cần nghi ngờ vì bên Phương Đông từ thời ấy mãi cho đến ngày nay, đuổi quỷ vốn là một hiện tượng thông thường. Điều họ nói là, sở dĩ Chúa Giêsu có quyền đuổi quỷ vì Ngài liên minh với chúa quỷ, nghĩa là “Ngài cậy con quỷ lớn để đuổi lũ quỷ nhỏ”. Người ta vẫn luôn luôn tin vào phù phép và đó chính là điều họ nói về Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu chẳng phải khó khăn gì để đả phá luận cứ đó. Việc đuổi quỷ luôn luôn là kêu gọi một thế lực mạnh hơn, giúp đuổi một con quỷ yếu hơn. Vì thế Chúa Giêsu bảo “Cứ nghĩ mà xem, nếu một nước mà nội bộ chia rẽ thì nước ấy không thể tồn tại, trong một nhà mà có cãi lẫy, tranh chấp, thì nhà ấy cũng sẽ không còn”. Nếu thật quỷ Satan đang đánh nhau với các quỷ sứ nó thì nó sẽ không còn là một thế lực có ảnh hưởng nữa, vì nội chiến đã bùng nổ trong nước của nó rồi! Chúa Giêsu phán “Hay nói cách khác, giả sử các bạn muốn đánh cướp nhà một người rất khỏe, các bạn chẳng có hy vọng gì làm được việc đó nếu chưa tóm được người rất khỏe đó. Sau khi trói được người ấy, mới có thể cướp của trong nhà người ấy được”. Việc các quỷ bị thua không chứng tỏ Chúa Giêsu đã liên minh với Satan nhưng là đồn lũy của Satan đã sụp đổ. Một con người mạnh hơn đã đến và cuộc đàn áp Satan đã bắt đầu. Ở đây có hai điều nổi bật.

1/ Chúa Giêsu thừa nhận đời sống là một cuộc chiến đấu, giữa hai thế lực thiện và ác. Chúa Giêsu không phí thì giờ để suy luận về những vấn đề không có lời giải đáp. Ngài không dừng lại để biên luận điều ác ở đâu ra, nhưng Ngài đã đối phó hữu hiệu nhất với nó. Có một điều hết sức kỳ dị là chúng ta thường phí rất nhiều thì giờ tụ tập nhau lại để tranh cãi về nguồn gốc của điều ác, nhưng chúng ta lại dành quá ít thì giờ để tìm những phương pháp thực tiễn nhằm ngăn chặn hoặc đối phó với điều ác. Có người nói “Giả sử có người vừa thức giấc bỗng thấy ngôi nhà mình đang bốc cháy, chắc chắn người ấy sẽ không ngồi vào ghế bành chăm chú đọc một bài thảo luận nhan đề “Nguyên nhân những vụ phát hỏa tại tư gia”. Nhưng người ấy phải lập tức làm tất cả những gì có thể làm được để dập tắt ngọn lửa. Chúa Giêsu đã nhìn thấy cuộc tranh chấp chính yếu giữa điều thiện và điều ác nằm ngay tại trung tâm đời sống và đang làm hại thế gian. Ngài không lý luận về nó Ngài phải đối phó với nó và ban cho những người khác quyền năng để thắng điều ác và làm điều thiện.

2/ Chúa Giêsu cho việc đánh bại bệnh tật là một phần trong cuộc chiến thằng Satan. Đây là một phần quan trọng trong tư tưởng của Chúa Giêsu. Ngài muốn và cứu được thân thể cũng như linh hồn con người.

III. Tội không thể được tha: 3,28-30

Nếu muốn hiểu câu nói khủng khiếp này có nghĩa gì, chúng ta phải thấu triệt hoàn cảnh nó đã được nói ra. Câu ấy do Chúa Giêsu nói khi các Kinh sư và Pharisêu bảo Ngài đã chữa bệnh không phải do quyền năng Thiên Chúa nhưng do quyền phép của ma quỷ. Bọn người này vừa thấy tình yêu của Thiên Chúa, nhưng lại cho đó là quyền năng nhập thể của Satan.

Chúng ta phải bắt đầu bằng cách nhớ rằng Chúa Giêsu đã không nói về Thánh Thần theo ý nghĩa đầy đủ như Kitô hữu ngày nay hiểu. Vì bấy giờ Thánh Thần chưa đến trọn vẹn trên loài người, cho đến khi Chúa Giêsu trở về với sự vinh hiển của Ngài. Chỉ đến ngày Lễ Ngũ Tuần, loài người mới được kinh nghiệm trọn vẹn về Thánh Thần. Có thể lúc ấy, vì đang nói chuyện với người Do Thái nên Chúa Giêsu đã dùng từ Thánh Thần theo ý nghĩa trong Do Thái giáo. Trong tư tưởng Do Thái giáo, Thánh Thần có hai chức vụ quan trọng. Một là Ngài mặc khải chân lý của Thiên Chúa cho loài người, hai là Ngài giúp loài người nhận ra chân lý ấy. Như thế, chúng ta đã có được chiếc chìa khóa cho đoạn sách này.

1/ Thánh Thần giúp loài người nhận ra chân lý của Thiên Chúa, khi chân lý ấy đến với đời sống họ. Nhưng nếu người nào không sử dụng năng khiếu Chúa ban thì cuối cùng, người ấy sẽ bị mất nó. Nếu người ta sống quá lâu trong bóng tối thì sẽ mất đi khả năng nhìn thấy. Nếu một người phải nằm liệt giường quá lâu, người ấy sẽ không thể bước đi được nữa. Nếu một người không chịu học hỏi gì cả, thì lần lần sẽ mất đi khả năng học hỏi. Nếu một người khước từ sự hướng dẫn của Thánh Thần nhiều lần, thì cuối cùng người ấy sẽ không còn nhận ra chân lý khi nhìn thấy nó. Bấy giờ, đối với người ấy, điều ác sẽ trở thành thiện, điều thiện sẽ trở thành ác. Người ấy có thể nhìn vào điều thiện của Thiên Chúa mà bảo đó là điều ác của Satan.

2/ Tại sao tội như thế lại không được tha? H.B. Swete nói “Đồng nhất hóa nguồn mạch của điều thiện với hiện thân của điều ác là có lệch lạc về đạo đức mà ngay sự Nhập thể cũng không có thuốc chữa”. A.J. Rawlinson gọi đó là “sự gian ác chính yếu”, dường như ngay trong điều đó chúng ta thấy yếu tính của điều ác. Bengel thì bảo, tất cả các tội khác đều do loài người, nhưng tội đó vốn bắt đầu từ Satan. Tại sao thế?

Hãy xét đến ảnh hưởng mà Chúa Giêsu thực hiện trên một người. Hiệu quả đầu tiên mà Chúa Giêsu tạo ra trên một người là khiến người ấy được tính cách chẳng ra gì của mình so với vẻ đẹp đáng yêu của đời sống Chúa Giêsu. Phêrô đã nói “Lạy Chúa xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” (Lc 5,8). lúc Tokichi Ishiii đọc truyện tích trong sách Phúc Âm đầu tiên, anh ta nói “Tôi dừng lại, dường như có một cây đinh hai tấc đâm thấu vào lòng tôi. Tôi phải nói đó là tình yêu của Chúa Cứu Thế chăng? Tôi phải nói đó là lòng thương xót của Ngài chăng? Tôi không biết gọi đó là gì cả, tôi chỉ biết là tôi đã tin, tấm lòng cứng cỏi của tôi đã được thay đổi”. Phản ứng đầu tiên là người ấy rung động sâu xa như bị đâm thấu tâm can. Và kết quả của việc đó là người ấy ý thức được là mình vốn chẳng ra gì, và kết quả nữa là ăn năn thống hối, thống hối hoán cải là điều kiện duy nhất để được tha tội. Nhưng nếu một người không chịu nghe theo Thánh Thần thúc dục thì người ấy sẽ chẳng thấy nơi Chúa Giêsu điều gì đẹp đẽ đáng yêu cả, sau đó, việc nhìn thấy Chúa Giêsu chẳng khiến người ấy có ý thức về tội, vì không ý thức về tội nên người ấy không thể được tha thứ.

Một trong những câu chuyện kể về Satan là: Ngày nọ, vị linh mục thấy trong cộng đoàn có một chàng thanh niên đẹp trai. Sau giờ thờ phượng, chàng thanh niên ở lại để xưng tội. Anh ta xưng ra nhiều tội mà tội nào cũng hết sức khủng khiếp, khiến vị linh mục phải dởn tóc gáy. Ông hỏi “Chắc con phải sống lâu lắm mới phạm nhiều tội đến thế?”. Chàng thanh niên đáp “Tôi tên là Luxiphe, tôi đã trốn khỏi thiên đàng ngay từ lúc thời gian mới bắt đầu”. Vị linh mục tiếp “Cho dù như vậy chăng nữa, hãy nói là con rất hối hận, nói rằng con ăn năn, con sẽ được tha thứ”. Chàng thanh niên nọ trố mắt nhìn vị linh mục một hồi rồi quay lưng đi ra. Anh không chịu nói và cũng không thể nói như thế, do đó anh phải tiếp tục ra đi vào nơi hoang vu, để lại càng bị lên án, bị nguyền rủa nhiều hơn.

Chỉ có một điều duy nhất để được tha tội đó là biết ăn năn thống hối. Khi con người nhìn thấy vẻ đáng yêu trong Chúa Cứu Thế, người ấy còn ghết tội mình dù rằng chưa thể bỏ được, ngay cả nếu người ấy đang ở trong bùn lầy, anh ta vẫn có thể được tha thứ. Nhưng nếu một người sau khi đã được Chúa hướng dẫn nhiều lần đã đánh mất khả năng nhận ra điều thiện khi nhìn thấy nó, nếu người ấy đã chai lý đến độ chẳng còn nhận ra được các giá trị đạo đức, đến nỗi đối với người ấy thì thiện là ác mà ác là thiện, thì dù có đối diện với chính Chúa Giêsu, người ấy cũng chẳng hề ý thức được về tội, người ấy vẫn không thể ăn năn thống hối, do đó sẽ chẳng bao giờ được tha thứ. Đó là tội phạm đến Thánh Thần.

  1. Điều kiện để trở thành bà con thân thuộc: 3,31-35

Chúa Giêsu quy định các điều kiện để trở thành bà con thân thuộc thật sự. Bà con thân thuộc không phải chỉ là vấn đề cốt nhục. Chúng ta biết có người chẳng có liên hệ huyết thống, lại thân cận với mình hơn cả người bà con có liên hệ huyết thống gần nhất. Vậy mối liên hệ bà con thân thuộc đích thực được căn cứ vào đâu?

1/ Mối liên hệ bà con thân thuộc đích thực là do một kinh nghiệm chung, nhất là một kinh nghiệm cả hai cùng vượt qua được một cảnh ngộ nào đó. Có người ấy bảo hai người ấy thật sự trở nên bạn bè khi họ có thể nói với nhau rằng “Bạn còn nhớ không?” để rồi tiếp tục nhắc lại cho nhau những gì họ đã cùng trải qua. Một người nọ gặp một bà cụ da đen. Một người quen biết của bà cụ này đã qua đời. Ông ta hỏi “Bà X mất rồi chắc bà cụ buồn lắm?”. Bà cụ đáp “Vâng”, nhưng chẳng lộ chút buồn rầu. Ông ta nói “Tôi mới gặp hai bà tuần rồi, cả hai đang cười với nhau, chắc hai bà thân nhau lắm?”. Bà cụ đáp “Vâng, chúng tôi là bạn, chúng tôi vẫn cười đùa với nhau, nhưng muốn thật sự thân nhau, người ta phải cùng khóc với nhau nữa”. Đây quả là một chân lý sâu xa. Nền tảng của mối liên hệ thật sự thân thuộc là có một kinh nghiệm chung. Các Kitô hữu có kinh nghiệm chung: họ đều là tội nhân đã được tha thứ.

2/ Mối liên hệ thân thuộc đích thực là cùng có mối quan tâm chung. A.M. Chigwin kể cho chúng ta một việc hết sức thú vị trong tác phẩm “Kinh Thánh Trong Việc Phúc Âm Hóa Thế Giới”. Một trong những việc khó khăn nhất trong việc phân phối Kinh Thánh, không phải là việc bán Kinh Thánh, nhưng làm sao cho người ta đọc Kinh Thánh. Ông tiếp “Tại Trung Hoa vào những ngày trước khi cộng sản đến, một người phân phối Kinh Thánh đi từ hàng quán này đến hàng quán khác, từ nhà này đến nhà khác. Nhưng ông bị thất vọng vì nhiều độc giả Kinh Thánh của ông mất dần lòng sốt sắng, đến khi ông nghĩ ra một kế hoạch, ông tạo cơ hội cho họ gặp gỡ nhau và tổ chức họ thành một nhóm đạo đức, dần dần được tổ chức đàng hoàng”. Chỉ sau khi các đơn vị riêng lẻ trở thành của một nhóm được ràng buộc vào nhau bởi một mối quan tâm chung, thì mối thông hiệp và liên hệ bà con thân thuộc thật sự hình thành. Mối bận tâm chung đã buộc chặt họ thành bà con thân thuộc. Kitô hữu có mối quan tâm chung, vì tất cả Kitô hữu đều ao ước được hiểu biết nhiều hơn về Chúa Giêsu Kitô.

3/ Mối liên hệ bà con thân thuộc thật sự là việc cùng vâng lời. Các môn đệ của Chúa vốn là một nhóm người hết sức hỗn tạp. Đủ thứ niềm tin và ý kiến trộn lẫn giữa họ. Người thâu thuế như Matthêu và nhà ái quốc Simôn Nhiệt thành chắc phải ghét nhau lắm, và hẳn có lúc hai người đã thù ghét nhau. Nhưng cả hai đã được buộc chặt vào nhau, vì đều nhận Chúa Giêsu làm thầy và Chúa. Bất kỳ một đạo quân nào cũng gồm nhiều con người thuộc nhiều giai tầng xã hội khác nhau, có nếp sống khác nhau, ý kiến khác nhau, nếu được sống chung với nhau trong một thời gian, họ sẽ kết hợp lại thành một đoàn người sống chết có nhau, vì họ cùng tuân lệnh trong quân đội. Người ta dễ trở thành bạn thân với nhau khi cùng có chung một thầy, một chủ. Người ta rất dễ yêu thương nhau khi cùng yêu mến Chúa Giêsu Kitô.

4/ Mối liên hệ bà con thân thuộc thật sự là do môt mục đích chung. Chẳng có gì kết chặt người ta vào nhau tốt hơn là mục tiêu chung. Đây là một bài học quan trọng cho Hội Thánh. Khi nói về mối quan tâm mới mẻ đối với Kinh Thánh, A.m. Chirgwin đã hỏi “Phải chăng vấn đề thống nhất Hội Thánh cần được đặt ra là phải căn cứ trên Kinh Thánh, chứ không phải vào việc xét lại vấn đề Giáo Hội”. Hội Thánh sẽ chẳng bao giờ kéo lại gần nhau khi mọi người còn cãi nhau về việc tấn phong hàng giáo phẩm, về tổ chức quản trị Hội Thánh, về tổ chức các Thánh Lễ và nhiều điều khác đại loại như thế. Điểm duy nhất để mọi người có thể kết hợp với nhau là ai nấy đều tìm cách đưa nhiều người khác đến với Chúa Cứu Thế. Mối liên hệ bà con thân thuộc mà họ cùng nhau đi đến, xuất phát từ một mục tiêu mà hơn ai hết, các Kitô hữu đều nắm giữ, đó là tìm cách để hiểu biết Chúa Cứu Thế hơn và đưa nhiều người vào nước của Ngài. Các vấn đề khác, chúng ta có thể bất đồng, nhưng điều này phải nhất trí.

 

14. Hạnh phúc thật ở đâu?

(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP)

Trong cuộc sống, không ai là người lại không muốn cho mình được hạnh phúc! Người thì cho rằng: vợ đẹp con khôn là hạnh phúc; người khác lại nghĩ có được nhà lầu xe hơi mới là hạnh phúc; lại có người nghĩ mình phải phấn đấu để được giữ chức nọ việc kia thì sẽ hạnh phúc, nhưng có người lại chỉ hy vọng rất đơn giản là làm sao có cơm ba bữa, quần áo mặc cả ngày cũng là hạnh phúc lắm rồi!

Như vậy, mỗi người đều mong cho mình được hạnh phúc, tuy nhiên quan niệm về hạnh phúc thì lại khác nhau.

Hôm nay, Đức Giêsu cho chúng ta thấy: hạnh phúc của người Tín hữu Kitô chính là việc được đón nhận hồng ân đức tin. Có được đức tin là chúng ta được sống trong tình yêu của Thiên Chúa. Đây là những người hạnh phúc đích thực.

Vì thế, Đức Giêsu rất quan tâm đến mối liên hệ trong đức tin hơn là sự liên hệ tình cảm thuần túy.

Vì thế, khi thấy được những điều kỳ diệu Đức Giêsu làm và những lời giảng dạy tuyệt vời của Ngài, một người đã thốt lên lời khen ngợi, hay nói đúng hơn là lời chúc mừng Đức Maria là người đã sinh ra và nuôi dưỡng Ngài: “Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú!”. Tuy nhiên, Đức Giêsu lại nói: “Những ai nghe và giữ lời Thiên Chúa thì có phúc hơn”.

Khi nói như thế, Ngài không có ý hạ thấp vai trò của Đức Maria, nhưng một cách gián tiếp, Ngài đang đề cao Mẹ Maria hơn bao giờ hết, bởi vì trong số những người lắng nghe lời Thiên Chúa, hẳn Mẹ là người trung thành và trọn vẹn nhất. Vì thế, Đức Giêsu muốn đưa Đức Maria ra làm mẫu gương về việc lắng nghe Lời Chúa.

Lời Chúa hôm nay gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh mỗi người chúng ta, vì: ngày nay, trong cuộc sống có quá nhiều sự bon chen, con người phải chạy đua với chúng như trò chơi đuổi nhau của bọn trẻ. Họ phỏng chiếu hạnh phúc qua lăng kính của tiền, tài, tình, quyền…. Còn đứng trước lời mời gọi của Chúa qua chính Lời Ngài thì hẳn chúng ta không muốn nghe, nói gì đến việc tuân giữ!

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người: hãy xin Chúa ban đức tin cho ta, từ đức tin đó, chúng ta cộng tác với ơn Chúa để làm cho đức tin ngày càng lớn mạnh. Dấu hiệu của người có một đức tin trưởng thành là yêu mến và tuân giữ Lời Chúa, suy đi nghĩ lại và đem ra thực hành. Được như thế, chúng ta sẽ là những người hạnh phúc.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con. Xin cho chúng con được yêu mến và tuân giữ Lời Chúa cách trung thành như Mẹ Maria khi xưa. Amen.

 

15. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux

  1. Đức Giêsu và satan (3,22-30)

Giữa hai lần can thiệp đầy thù địch của những người bà con với Ngài (3, 20-21 và 31-35) Maccô nói đến cuộc đấu khẩu giữa Chúa Giêsu và đám luật sĩ kẻ thù “ra mặt” của Ngài (c. 22a). Cuộc tấn công này quả là nghiêm trọng. Các thủ lĩnh nhóm biệt phái đến từ Giêrusalem, thành trì giáo quyền của Israel. Lời cáo buộc của họ cũng thật nặng nề. Chúa Giêsu không chỉ là một người bị bà con mình cho là đồ điên (3,21); Ngài còn là tác nhân của ma quỷ! Bêeldêbun là một trong những tên gọi của Satan, tên gọi này được gán cho một thần linh của dân ngoại là “Ông Hoàng Baal”. Chắc chắn các “nhà thông thái” này không phủ nhận sự kiện Chúa Giêsu thực hiện các cuộc trừ quỷ. Trong thế giới Do Thái thời Chúa Giêsu, việc trừ quỷ khá phổ biến và được mọi người chấp nhận (Cv 19,13). Tuy nhiên, các nhà thông thái này lại tố cáo Chúa Giêsu đã hành động như thế dựa trên một năng lực siêu nhiên của chính Satan, chứ không phải phát xuất từ Thiên Chúa (c. 22c).

Nghe lời vu khống này, Chúa Giêsu không thể nào để yên. Đây là lần đầu tiên Ngài sử dụng dụ ngôn như một hình thái văn chương: Ngài dùng cách “so sánh” từ những hình ảnh thường nhật để buộc họ suy nghĩ. Ngài nêu ra hình ảnh thường nhật để buộc họ suy nghĩ. Ngài nêu ra hình ảnh một gia đình chia rẻ lẫn nhau: gia đình này chỉ có nước tàn lụi (c. 24-25). Luận lý của Chúa Giêsu rất vững vàng: Nếu Satan tự chống lại chính nó thì chắc chắn nó sẽ tự tiêu diệt (c. 26). Từ đó Chúa Giêsu khéo léo đưa ra thêm một dụ ngôn thứ hai rất ngắn gọn (c. 27). Ngài chẳng cần phải dài dòng giải thích câu đố được nêu ra. Chỉ cần Ngài mô tả bằng hình ảnh là người nghe đã xác nhận được, Đấng Mêsia đang cướp bóc ngôi nhà của Satan, gã “lực sĩ”. Muốn chiến thắng “nhân vật” tượng trưng cho Thần Dữ này thì trước tiên Ngài phải cột được hắn lại. Ngược với những đánh giá của đám luật sĩ, nơi Chúa Giêsu, Đấng Mêsia hiện đang tận diệt “vương quốc của Satan”. Hãy nhớ lại tiếng kêu la của lũ quỷ dữ vừa bị Chúa Giêsu, Đấng Mêsia hiện đang tận diệt “vương quốc của Satan”. Hãy nhớ lại tiếng kêu la của lũ quỷ dữ vừa bị Chúa Giêsu trục xuất ra khỏi các nạn nhân của chúng: “Hỡi ông Giêsu Nadaret, ông muốn gì ở chúng tôi? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao?” (1,24). Rõ ràng Chúa Giêsu không phải là người hỗ trợ mà chính là Đấng nắm chủ quyền trên Satan.

Cuộc khẩu chiến kết thúc bằng lời Chúa Giêsu cảnh cáo nghiêm khắc các đối thủ Ngài: mọi tội lỗi của loài người đều có thể được Thiên Chúa thứ tha ngoại trừ một thứ tội. Điều này rất đáng cho chúng ta suy nghĩ (c. 28-29). Lời tuyên bố long trọng và khá mạnh bạo này của Chúa Giêsu khiến cho mọi độc giả thuộc mọi thời đại đều phải suy nghĩ. Người ta đã bình phẩm nhiều về tội “phỉ báng Thánh Thần”, thứ tội không thể nào được tha thứ này. Đúng ra là thứ tội gì? Người ta liệt kê ra những tội mà họ cho là “đáng chết”. Tuy nhiên người ta vẫn không tìm ra những tội nào thực sự được gọi là không thể tha thứ. Muốn hiểu được ý Chúa Giêsu thì không nên tách lời Ngài nói ra khỏi mạch văn, vì chính mạch văn mang lại ý nghĩa cho lới ấy: “Chúa Giêsu nói thế bởi vì bọn họ bảo rằng: “Ông ta đã bị quỷ ô uế ám” (c. 30). Đám luật sĩ đã dám gán cho Satan công việc do cần thiết thực hiện. Maccô rất cẩnt hận chứng tỏ rằng ngay từ lúc khở đầu sứ vụ, Chúa Giêsu đã được Thánh Thần Thiên Chúa tấn phong. Chính Giêsu chịu phép rửa và giúp Ngài hành động để giải phóng loài người khỏi sự dữ (1,9-12). Cho rằng lúc trừ quỷ Chúa Giêsu dựa vào năng của ma quỷ tức là cố ý khép kín tâm hồn không thèm đón nhận ơn tha thứ mà Chúa ban cho tất cả mọi Người. Chỉ riêng tội nghịch cần thiết này là không thể nào tha thứ được.

Vào lúc Maccô ghi chép lại Tin Mừng này, các Kitô hữu đang phải là bia hứng chịu bao lời cáo sai lạc của đám dân Do Thái thù nghịch, đám người này không chịu nhìn nhận Chúa Giêsu là Đấng Mêsia chiến thắng lũ thần Dữ. Dầu sao, mọi người đều phải chọn lựa hoặc theo Chúa Giêsu hoặc theo Satan.

  1. Gia đình đích thực của Chúa Giêsu (3,31-35)

Cảnh này là đoạn cuối của tiến trình khởi đầu từ 3,20-21. Bà con Chúa Giêsu toan tiến tới giữ lấy Ngài. Lý do là vì Ngài bị đám đông tràn ngập: “Ông ấy mất trí rồi!” (c. 21b). Quả là cuộc xung đột không kết quả. Giờ đây lại một cuộc xung đột nữa (c. 31). Cũng vẫn như lần trước, Chúa Giêsu đang giảng dạy (c. 32a). Người ta loan báo cho Chúa Giệsu mẹ và anh em Ngài đột xuất ghé thăm (c. 32b). Maccô nhấn mạnh tới hai lần: thân quyến Chúa Giêsu chờ “Ở ngoài”. Điều này đối ngược với vòng người đang vây quanh nghe Chúa giảng. Nếu ra khỏi nhà để gặphọ là đồng nghĩa với sự tách lìa sứ vụ. Chắc chắn đó là lý do tại sao Chúa Giêsu thốt ra câu nói cứng cỏi như thế với mẹ ruột Ngài (c. 33). Điều này hẳn làm chúng ta ngạc nhiê. Tuy vậy Maccô thường hẳn chú tâm đến cái rắc rối về mặt tâm lý. Người ta cũng thắc mắc các “anh em” của Chúa Giêsu là ai, bởi vì theo truyền thống thì Ngài là người con trai độc nhất. Thực ra trong bối cảnh vùng Sêmit, từ ngữ “anh em” còn dùng để chỉ bà con gần. Điều mà Maccô nhấn mạnh ở đây chính là Chúa Giêsu không hề đặt nặng quan hệ về huyết thống. Trọng điểm của trình thuật sẽ xác nhận rõ điều này. Ngài đảo mắt nhìn tất cả những kẻ đang vây quanh (c. 34a). Đối với Maccô, cái nhìn chăm chú này luôn báo hiệu một thời khắc quan trọng sắp diễn ra (x. 3.5; 10,23; 11,11). Quả thế, Chúa Giêsu sắp đưa ra một tuyên bố hệ trọng (c. 34b). Ngài không định vị gia đình đích thực của Ngài trong tương giao huyết nhục mà theo tiêu chuẩn kẻ nào biết nghe theo lời Ngài. Ngài thẳng thắn xác định điều đó: “Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người đó là anh chị em tôi là mẹ tôi” (c. 35).

Đây là một cách thức vừa rõ ràng vừa đơn giản mà Maccô muốn trình bày cho các Kitô hữu đương thời về Giáo Hội. Cuộc bách hại của người La Mã đã đẩy nhiều gia đình đến những cuộc phân ly đâu đớn. Những kẻ trở lại đạo thường bị bó buộc phải chọn lựa hoặc là thân quyến hoặc là cộng đoàn Kitô hữu. Maccô chứng tỏ cho họ thấy ngay chính Chúa Giêsu cũng từng bị bó buộc phải đoạn tuyệt trọn vẹn với thân quyến Ngài: Vì thế các Kitô hữu cũng không thể đòi cho mình được đặc quyền hơn Ngài. Như thế trên con đường rao giảng của Chúa Giêsu, Maccô đưa ra hai loại tương giao giữa Chúa Giêsu và những kẻ đương thời của Ngài: một số từ khước và một số đón nhận Ngài.

Trước hết là những kẻ đối nghịch với Chúa Giêsu, trong số này đám biệt phái và luật sĩ là những người cay cú nhất. Họ căm ghét Ngài đến mức dám phỉ báng cả Chúa Thánh Linh khi rêu rao rằng Chúa Giêsu bị quỷ ám (c. 30). Tuy nhiên đám bà con Chúa Giêsu cũng phạm phải tội lỗi giống họ khi tuyên bố rằng Chúa Giêsu bị mất trí rồi (c. 21). Người ta tự hỏi Maccô có ý gì khi lồng sự can thiệp dữ dằn của bà con thân thuộc Chúa Giêsu (c. 20-21 và 31-35) vào trước và sau cuộc tranh luận của Chúa về Bêeldêbun (c. 22-30)? Hai cuộc can thiệp của bà con Ngài tuy khác nhau nhưng dầu sao cũng có nhiều điểm trùng hợp, đó là họ tỏ ra thù nghịch với sứ vụ của Chúa Giêu. Đối với Maccô, thân tộc Chúa Giêsu đã hành động như một “gia đình tự phân rẽ” mà Ngài từng nói đến trong cuộc xung đột với đám luật sĩ (3,25). Như thế sự ráp nối hai đoạn văn này lại sẽ cho chúng ta nhiều ý nghĩa.

Đối ngược với loại người trên là các môn đệ của Chúa Giêsu. Trước hết là nhóm Mười Hai (3, 13-19), và rộng hơn là đám quần chúng sẵn sàng đón nhận Tin Mừng từ miệng Ngài rao giảng. Vào lúc đầu đám đông chỉ “tụ lại” quanh Chúa Giêsu và theo Ngài về nhà (c. 21). Còn vào lúc cuối thì xem ra họ “nghiêm chỉnh” hơn bởi vì đã biết “ngồi quanh” nghe Ngài giảng (c. 32a và 34a). Đối đầu với những kẻ “bên ngoài’, cộng đoàn các môn đệ ngày càng gia tăng. Và Chúa Giêsu cho biết kẻ thuộc về Ngài chính là kẻ thực hành ý muốn của Thiên Chúa. Về sau, khi cùng tham dự vào Lễ Hiện Xuống, các Kitô hữu sẽ thực sự được gọi là “anh chị em” của Chúa Giêsu, bởi vì họ đã thiết lập nên một dòng dõi thiêng liêng, tức gia đình đích thực của Chúa Giêsu trong cộng đoàn có tên là “Giáo Hội” (x. Plm 1-2).

 

16. Chú giải của Noel Quesson

Đức Giêsu trở về nhà. Dân chúng lại kéo đến đông đảo, thành thử Người và các môn đệ không sao mà ăn uống được.

Lúc khởi đầu rao giảng Đức Giêsu đã thành công. “Đám đông” thường tuôn đến quanh Người để nghe giảng. Thánh Mác-cô viết lại lời giảng của Thánh Phêrô, ghi nhận rằng một hôm dân chúng đông đến nỗi không còn chỗ nào cho người trong nhà dùng bữa. Nhà đó chắc hơn là nhà của ông Simôn Phêrô, tại Ca-phác-na-um, mà Chúa Giêsu coi như nhà của mình (Mc 1,29 – 2,1 – 3,20 – 9,28 – 9,33 – 10,10).

Trong số phế tích còn lại hiện nay của thành Ca-phác-na-um, những nhà khảo cổ đã tìm được nền của một căn nhà giản dị của những người đánh cá từ thế kỷ thứ nhất trước Đức Giêsu, trên nền đó có thiết dựng một cung cách Kitô giáo rất cổ xưa. Những hình vẽ đạo đức trên tường được khắc nổi trên thạch cao giúp ta nhận ra căn nhà đó là nơi Đức Giêsu thường cư ngụ. Từ ngày Chúa nhập thể, nhà cửa của chúng ta có một phẩm giá mới. Chúng ta tưởng tượng Đức Giêsu đang ở trong một căn nhà như vậy, nhà một thủy thủ nghèo ở bến cảng, giữa những căn nhà khác trong làng, nằm trong những ngõ hẻm chằng chịt.

Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ bảo: “ông ấy mất trí rồi”.

Đó là những gì người ta đã nói về Người, trong thân nhân của Người: ‘ Đó là một kẻ cuồng nhiệt. Người đã điên rồi… Người đã mất trí rồi…” rõ ràng trong ít thời gian gần đây cuộc sống của Người khác hẳn với nếp sống bình dị của Người suốt 30 năm tại Na-za-rét! Thân nhân của Đức Giêsu chắc hẳn đã biết rằng, Người bị giáo quyền lúc bấy giờ “coi thường”. Người sẽ làm chúng ta bị lôi thôi. Vì thế họ đến để đem Người trở về cuộc sống bình thường. Chúng ta có sẵn sàng chấp nhận những ơn gọi hơi “điên rồ” mạo hiểm thiếu hợp lý, theo sự thận trọng của con người không? Chúng ta có bao giờ theo Đức Giêsu mà có vẻ như một người hơi “điên khùng?” Vì chúng ta không theo những tiêu chuẩn thông thường của thế gian trong công việc, trong vấn đề lương tâm, trong cung cách đối xử với cá nhân hay tập thể?

Còn các kinh sư từ Giêrusalem xuống thì lại nói: “ông ấy bị quỷ vương Bê-en-dê-bun ám” và rằng: “Ông ấy dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ”.

Một dư luận thu hai nặng hơn, đang xì xầm quanh Đức Giêsu. Chẳng những Người đã “điên” mà lại còn “bị quỷ ám”. Đó là những lời nói bóng gió đầy nham hiểm, không ai phủ nhận được tính xác thực tủa các phép lạ Người làm. Nhưng Người có quyền lực đó là nhờ Satan, mà người Do Thái thời bấy giờ gọi bằng một tên khinh miệt là “Đồ Baal-phân-nhơ” (bée!-zéboul). Chính những “kinh sư và những “học giả” đã tung ra sự nghị ngờ này.

Người liền gọi dân chúng đến, dùng dụ ngôn mà nói với họ: “Satan làm sao trừ Satan được? Nước nào chia rẽ nước ấy sẽ mất, nhà nào chia rẽ, nhà ấy sẽ tan. Vậy Satan mà chống Satan, Satan mà tự chia rẽ, thì không thể tồn tại, nhưng hẳn đã đến ngày tận số. Không ai vào nhà một người mà có thể cướp của được, nếu không trói người mạnh ấy trước đã rồi mới cướp sau”.

Đây là dụ ngôn đầu tiên và ngắn gọn mà Thánh Mác-cô đã thuật lại: Hình ảnh của một cuộc chiến xáp lá cà nhanh chóng và quyết liệt. Đức Giêsu đã minh chứng Người “mạnh hơn” Satan. Ngày nay điều đó vẫn luôn đúng thực. Cuộc chiến vẫn tiếp diễn và Đức Giêsu đang ở cùng chúng ta trong cuộc chiến chống lại sự dữ. Chúng ta lạc quan hay bi quan, khi phải đương đầu với những thế lực xấu ác đang ào ạt diễn ra trên thế giới.

Tôi bảo thật anh em: Mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng và nói phạm thượng nhiều đến mấy đi nữa, thì cũng còn được tha, “nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng bao giờ được tha, mà còn mắc tội muôn đời”. Người nói thế, vì họ đã bảo: “ông ấy bị quỷ ám”.

Vấn đề đặt ra không phải là bản chất của tội lỗi, cũng không phải là giới hạn của lòng thương xót Thiên Chúa, khiến cho tội đó không thể tha thứ, nhưng chỉ là thái độ cố chấp trong tội ác. Phải lặp lại điều này với Đức Giêsu. Người không lên án ai cả. Người thứ tha mọi tội lỗi cho tất cả mọi người. Nhưng có những người nhất định. Khép kín lòng mình không đón nhận sự tha thứ này: Đó là “nói phạm đến Thánh Thần” Người tha thứ cũng uổng công: Vì một số người khước từ thứ tha tội. Có lẽ đó là hỏa ngục rồi.. Không ai trong số những người tự lên án hỏa ngục cho mình lại muốn ra khỏi đó cả. Nếu không người đó sẽ được cứu rỗi ngay, vì Chúa “tha mọi tội lỗi kể cả tội nói phạm thượng”.

Sự khước từ ngoan cố triệt để này có thường xảy ra không? Không ai có thể xét đoán người anh em mình theo bề ngoài, nhưng mỗi người hãy tự xét trường hợp của chính mình: Vào lúc này; ngày này tôi đang hiện hữu, câu hỏi tôi phải đặt ra không phải là “tôi có tội hay không?” bởi vì mọi người đều là tội nhân (Rm 3,23) nhưng câu hỏi duy nhất là tôi có đón nhận sự tha tội của Chúa không? Tôi có nói phạm thượng đến Thánh Thần không? Tôi có coi thường tình yêu của Chúa luôn giải án tuyên công cách vô điều kiện cho mọi người tội lỗi không? (Rm 3,24).

Lạy Đức Giêsu, xin thương xót con là kẻ có tội “Christe eleison”.

Đó là lời cầu xin Chúa Giêsu nổi tiếng mà tín hữu phương Đông thường lặp đi lặp lại không biết mỏi mệt.

Lúc bấy giờ, mẹ và anh em Đức Giêsu đến.

Máccô đã lồng hai đoạn: “Thái độ khước từ của kinh sư” và “cuộc đi tìm kiếm của thân nhân Đức Giêsu”. Đó là cách hành văn Máccô quen làm để mời gọi chúng ta tìm ra mối liên kết giữa hai tình huống. Đức Giêsu bị ngược đãi bị chối từ ngay trong những thân nhân của Người. Từ “anh em” trong tiếng Hêbơrơ vừa có nghĩa là anh em ruột hay anh em bà con. Những anh em này đã lôi kéo bà cô, bà dì của mình là Mẹ Đức Giêsu để đem Người về. Chúng ta hãy ghi nhận thái độ mạnh dạn về Đức Maria? Và để thực hiện chuyện đó, quả thật Tin Mừng không hề tìm cách tô đẹp câu chuyện. Đó là những chuyện người ta không thể bịa đặt ra được.

Mẹ và anh em Đức Giêsu đến, đứng ở ngoài, cho mời Người ra. Đám đông dân chúng đang ngồi chung quanh Người. Có kẻ nói với Người rằng: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy”.

Ta hãy tưởng tượng ra quang cảnh trên: Dân chúng đang ngồi dưới đất thành một vòng chung quanh một người đang nói. Trong Tân Ước đó là thế ngồi quen thuộc của những “môn đệ” khi lắng nghe “Thầy” (Lc 10,39; Cv 22,3).

Đối lại với những người đang ở “trong nhà”, hai lần Thánh Máccô ghi rằng, thân nhân của Đức Giêsu “ở ngoài”. Kiểu nói “những kẻ ở ngoài” vẫn thông dụng trong Giáo Hội những thế kỷ đầu, để ám chỉ “những người không phải là Kitô hữu (Tx 4,12; 1 Cr 5,12-13; Cl 4,5; Tm 3,7). Thánh Máccô sẽ dùng lại cách nói này để phân loại người thành hai loại, tùy theo họ tin tưởng lắng nghe Đức Giêsu hay họ còn “ở bên ngoài”. “Mầu nhiệm Nước Thiên Chúa được tỏ ra cho anh em, còn với người ngoài tất cả đều là bí hiểm, không thể hiểu nổi (Mc 4, 11).

Cảnh này, trong đó Đức Maria và những anh em họ của Đức Giêsu đến để cố ngăn cản sứ vụ của Đức Giêsu phải làm cho chúng ta suy niệm lâu về bản chất của đức tin. Đức tin của Mẹ Maria, không hơn gì đức tin của chúng ta, không phải là cái gì “được làm sắn” một lần là thay cho tất cả Đức tin chỉ được định nghĩa như một thực tại tiến triển dần dần. Không phải ngay từ lúc đầu được truyền tin mà Đức Maria đã hiểu ngay con trai của mình là ai, dù Ngài đã được soi sáng đặc biệt.

Thánh Luca cũng ghi nhận trong một vài dịp Đức Maria đã không hiểu được Đức Giêsu (Lc 2,50).

Nhưng Người đáp lại: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh chị em tôi là mẹ tôi”.

Máccô thường ghi lại những cách nhìn như thế của Đức Giêsu (Mc 3,5 – 5,32 – 10,21 – 11,1 1 – 12,41). Một trong những cách cầu nguyện đơn giản nhất mà chúng ta có thể thực hiện là nghĩ rằng: Ngay trong lúc này Đức Giêsu đang nhìn là “Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi”. Thánh ý của Chúa Cha lúc nào cũng ám ảnh Đức Giêsu.

Đức Giêsu luôn say mê và là Người yêu của Thiên Chúa. Người nói, những ai yêu Thiên Chúa đều là thân nhân của Người, thực sự thuộc về gia đình duy nhất của Người. Với tư cách đó, Đức Maria làm mẹ Đức Giêsu tới hai lần. Sự cao cả đích thực của Người là “làm theo ý Chúa”. “Ngồi theo vòng tròn chung quanh Đưc Giêsu… dưới cái nhìn của Đức Giêsu, chúng ta có thể nói, đó là cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên.

Mỗi Thánh lễ cho phép chúng ta sống lại cảnh này. Giáo lý cốt yếu đối với mọi người thuộc mọi lứa tuổi là Phụng vụ Lời Chúa”. Lạy Chúa xin cho chúng con biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa, để được vào trong gia đình của Chúa.

 

17. “Satan phải diệt vong”

(Suy niệm của Nha Trang)

  1. Ý CHÍNH:

Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu bị những thân nhân hiểu lầm và những Ký lục vu cáo để nói lên việc Chúa Giêsu luôn luôn gặp những trở ngại trên đường truyền giáo.

  1. SUY NIỆM:

1/ “Chúa Giêsu cùng các môn đệ trở về nhà”:

” Nhà” ở đây có lẽ là nhà của Phêrô vì khi giảng đạo ở Capharnaum Chúa Giêsu thường lui tới nhà của Phêrô (Mc 1, 29; 2,1) Nhà ở đây cũng có thể hiểu là hình ảnh của Giáo Hội: nơi phát xuất việc rao giảng Tin Mừng.

“Dân chúng đông đảo lại đổ xô tới”:

Với nhóm môn đệ tiên khởi (Phêrô, Anrê, Giacôbê…) không đủ để đáp ứng với làn sóng tăng dần của các bệnh nhân và thính giả đổ xô tới, Chúa Giêsu bèn quyết định mở rộng nhóm này bằng cách chọn nhóm 12 môn đệ, để giúp việc và còn ban cho họ ít quyền, đặc biệt là quyền trừ quỷ (Mc 3, 13-16). Dầu vậy, ngay khi trở về nhà, thì suốt ngày cũng chẳng đủ để tiếp nhận số đông khách đổ xô tới, khiến họ không có giờ ăn nữa (Mc 3, 20).

2/ “Những thân nhân của Người hay tin đó”:

Những bà con thân thuộc được tin Chúa Giêsu làm việc quá sức mình: quên ăn, quên nghỉ, đàng khác gây nên bao nhiêu thù địch, nên muốn bắt Người đưa về nơi quê hương yên ổn hơn để giữ sức khoẻ cho Người, nhất là để tránh những sự bất chắc do những thù địch gây ra làm liên lụy đến bà con họ hàng, vì họ nói ” Ngài mất trí rồi “: ở đây có nghĩa là hăng say thái quá, hăng say đến độ thực hiện được nhiều chuyện lạ lùng. Thái độ trên đây của thân nhân cho ta thấy họ chưa có nhận thức đúng đắn về sứ mệnh Cứu thế của Chúa Giêsu, vì thế họ hiểu lầm về công việc của Người làm.

3/ “Và những luật sĩ từ Giêrusalem xuống nói rằng Ông ấy bị quỷ Belzebut ám”:

Vì thấy Chúa Giêsu đã trừ quỷ cho nhiều người khiến dân chúng khâm phục và đổ sô đến với Người, mấy luật sĩ từ Giêrusalem tới tỏ lòng ganh tỵ đến thù oán, nên đã phao tin là Chúa Giêsu bị quỷ Belzabut ám và dựa vào quỷ cả mà trừ quỷ nhỏ.

4/ “Khi đã gọi họ lại Chúa Giêsu phán bằng dụ ngôn rằng”:

Chúa Giêsu đã phải tụ tập dân chúng lại để sửa sai luận điệu vu khống trắng trợn của các Biệt phái bằng hai dụ ngôn đơn sơ sau đây:

a/ Satan lại trừ Satan sao được?…

Nước nào, nhà nào chia rẽ sẽ bị tiêu tan: nên Satan không dại gì đánh lộn nhau như vậy để rồi bị diệt vong.

b/ Chẳng ai có thể vào nhà một người khỏe mạnh:

Chúa Giêsu mô tả một vụ cướp. Kẻ cướp được tượng trưng sức mạnh của Chúa Giêsu và người mạnh ở đây là ma qủy. Trọng tâm của dụ ngôn là ý tưởng về sức mạnh. Chính Chúa Giêsu mô tả một cuộc tấn công: kẻ cướp không hành động cách bất ngờ nhưng bằng sức mạnh. Gặp gia chủ khỏe mạnh như thế mà kẻ cướp đã nhẩy bổ vào ông ta và trói ông ta lại, rồi mới cướp của cải trong nhà.

Dụ ngôn này có ý diễn tả Chúa Giêsu đến để tiêu diệt quyền lực của ma qủy, để giải thoát nhân loại khỏi ách nô lệ của tội lỗi. Và như vậy, vương quốc của Thiên Chúa sắp thay thế vương quốc quỷ. Tuy nhiên sự thay thế này không thể thực hiện được nếu không có trận chiến ghê gớm giữa quyền lực của Chúa Giêsu và quyền lực của ma quỷ. Trận chiến này là cái chết của Chúa Giêsu trên Thánh gía, chiến thắng tội lỗi.

5/ “Ta bảo các ông hay: mọi tội lỗi và mọi lời phạm thượng”:

Đây là những tội do sự yếu đuối hay do sự vô ý thức, dù lớn đến đâu cũng được tha khi có lòng thống hối.

“Những kẻ nào nói phạm đến Chúa Thánh Thần”:

Đây là những tội có ý thức, từ chối chính Thiên Chúa. Ở đây có ý nói đến các luật sĩ là những người cố chấp, quyết chí từ chối, quyết chí chống đối, và quyết chí đóng kín cửa lòng trước những giáo huấn của Chúa Giêsu, vì họ gắn cho ma quỷ việc mà họ biết rõ là của Chúa Thánh Linh. Ở đây có ý nói những kẻ cố chấp ở trong tình trạng từ chối Thiên Chúa thì không thể nào lãnh ơn tha thứ được vì họ phủ nhận chính Đấng có quyền tha thứ.

6/ “Kìa Mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy”:

Anh em ở đây không có nghĩa là anh em ruột thịt vì theo tiếng Hy Bá cũng như nhiều ngôn ngữ, chữ “Anh em” vừa chỉ anh em ruột, vừa chỉ anh em họ hàng (18, 13; 14, 14; 24, 48; 29, 12; Lv 10, 4; 9, 6 và trong Tân ước Mt 13, 35; 27, 56; Lc 8, 23).

Gia đình Chúa Giêsu nhận thấy các đối thủ ganh ghét Người. Họ lo sợ cho Người. Họ đến can thiệp để bênh đỡ Người và toan gỡ cho Người khỏi lâm nguy, vì thế chúng ta dễ hiểu ở đây sự có mặt của Mẹ Người.

7/ “Người trả lời: Ai là Mẹ Ta? Ai là anh em Ta?”:

Thừa dịp này Chúa Giêsu giới thiệu về gia đình thiêng liêng mà Người muốn thiết lập qua cách đặt câu hỏi: Ai là Mẹ Ta?…

8/ “Rồi đưa mắt nhìn những người vòng quanh…”:

Máccô đã nhiều lần ghi nhận các kiểu nhìn của Chúa Giêsu: cái nhìn buồn sầu và giận giữ (Mc 3, 5; 11, 11), cái nhìn thương yêu (Mc 10, 21; Lc 1, 48), cái nhìn chỉ để quan sát (Mc 5, 32; 12, 41) hay để thêm sức nặng cho lời mình thốt ra (Lc 10, 23 – 27). Ở đây rõ ràng là một cái nhìn thương yêu: những kẻ Chúa Giêsu nhìn đều thực là mẹ là anh em, chị em Người. Vì sao? Chúa Giêsu giải thích:

Ai làm theo ý Thiên Chúa, người đó là anh chị em và là mẹ Ta (Mc 3, 35). Khi vâng phục Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu đã tỏ ra mình là Con Thiên Chúa (Mt 4, 3 – 10) cũng với cách thức như vậy, người ta sẽ tỏ ra mình là con Thiên Chúa là anh chị em của Chúa Giêsu, con đầu lòng. Và thực thi thánh ý Thiên Chúa là trước tiên tin vào Chúa Giêsu. Đấng Người đã sai đến, là Đấng Cứu Thế.

Những lời Người phán về việc phải tái sinh bổ túc và cụ thể hoá ý nghĩa này (Ga 3, 3 – 5; 1, 13; Tt 3, 5). Như thế, Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta một phương thế để kết hiệp với Người một cách còn sâu xa hơn là mối dây do sự sinh ra bởi huyết nhục.

III. ÁP DỤNG:

A/ Áp dụng theo Tin Mừng:

Giáo Hội muốn dùng bài Tin Mừng hôm nay để nhắc nhở chúng ta rằng khi thi hành sứ mệnh Cứu thế Chúa Giêsu đã từng gặp phải sự hiểu lầm của những người thân và sự vu khống, chống đối của những kẻ từ chối Chúa, thì chúng ta người Kitô hữu càng thuộc về Chúa Kitô càng dễ bị bị thế gian hiểu lầm và chống đối, nhưng nếu Chúa Kitô đã chiến thắng quyền lực của ma quỷ do cuộc tử nạn và phục sinh của Người, thì chúng ta càng liên kết với Chúa Giêsu, càng biến những thử thách trong đời sống đạo thành những công phúc cho phần rỗi của mình.

B/ Áp dụng thực hành:

1/ Nhìn vào Chúa Giêsu:

a/ Xem việc Người làm:

Chúa Giêsu được dân chúng đơn sơ đón nhận nhưng lại bị những người thân khép kín hiểu lầm và những Biệt phái cố chấp từ chối. Chúng ta cũng vậy khi sống tinh thần Tin Mừng, thì cũng gặp kẻ ưa người gét, thậm chí cũng có những người thân hiểu lầm và cản trở.

b/ nghe lời Người nói:

Satan loại trừ Satan sao được? Chúa muốn nói với chúng ta: đoàn kết là sống và chia rẽ là chết. Vì thế Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho Giáo Hội được hợp nhất (Ga 17, 6-26).

Kẻ nào nói phạm đến Chúa Thánh Thần, nó mắc tội muôn đời: Chúa cảnh cáo chúng ta vì cố chấp sống trong sự phản bội Chúa mà không có lòng thống hối ăn năn.

Đây là mẹ Ta và anh em Ta: chúng ta được diễm phúc sống trong gia đình thiêng liêng của Chúa khi chúng ta tin nhận Chúa Giêsu Ki tô và sống theo việc Người làm và lời Người nói.

2/ Nhìn vào người thân:

Họ thương Chúa Giêsu nhưng thương cách mù quáng vì họ đã khép kín cửa lòng không tin nhận vào sứ mệnh Cứu thế của Chúa, nên họ đã hiểu lầm Chúa. Chúng ta hăng say làm tông đồ Chúa, phục vụ Giáo Hội, nhưng nhiều khi hăng say mù quáng vì phục vụ theo ý mình hơn ý Chúa, hay ý Giáo Hội.

3/ Nhìn vào những luật sĩ:

– Họ ganh tỵ đến thù oán mà vu khống cho Chúa là bị quỷ ám “Không ưa thì dưa có dòi”. Ưa ai thì nên tốt. Ghét ai thì nên xấu.

4/ Nhìn vào Mẹ Maria cùng anh em Người:

Chúa giới thiệu gia đình thiêng liêng thì quý hơn gia đình tự nhiên. Cùng nghe và sống Lời Chúa, cùng là anh em với nhau.

 

18. Tìm hiểu Tin Mừng Mc 3,20-35

1) Sự can thiệp của bà con Đức Giêsu (3,20-21)

+ c 20: Tình huống đã diễn ra ở Capharnaum (2,1-2) nay lại tái diễn: người ta đến với Đức Giêsu quá đông, đông đến nỗi ngôi nhà Ngài đang ở chật cứng, đến nỗi Ngài và các môn đệ không thể ăn được. Như thế là có ảnh hưởng tới sức khoẻ.

+ c 21: Khi đó, những người bà con của Ngài can thiệp. Tại sao? Có phải vì lo cho sức khỏe của Ngài không? Cũng có thể có nguyên nhân đó. Nhưng nguyên nhân chính là họ cho rằng Ngài “mất trí” làm việc tới độ có hại cho sức khỏe. Ngoài ra Mc còn nhìn thấy thái độ này có một ý nghĩa khác nữa: chú ý tới động từ mà ông dùng: “bắt”. Đây cũng là động từ ông sẽ dùng tới 4 lần trong tường thuật thụ nạn (14,16…). Phải chăng ông coi sự can thiệp này đã khiến những người bà con của Đức Giêsu cũng bị liệt vào số những kẻ thù của Ngài?

2) Đức Giêsu và Satan (3,22-30)

  1. VĂN MẠCH

Giữa hai cuộc can thiệp của những người bà con của Đức Giêsu (3,20-21 & 31-35), Mc chen vào một cuộc tấn công của nhóm thông giáo. Nếu những người bà con đã coi Ngài là “mất trí”, thì nhóm thông giáo lại lên án Ngài là công cụ của Satan. Lời kết án này nghiêm trọng hơn nhiều.

  1. GIẢI THÍCH

+ c 22 – Beelzeboul: một trong những tên gọi Satan, xuất phát từ tên của một thần ngoại, “Baal đại vương” (Baal le prince).

Nhóm thông giáo không thể phủ nhận việc Đức Giêsu trừ quỷ. Nhưng họ xuyên tạc rằng Ngài làm việc đó không phải bằng sức Thiên Chúa, mà bằng quyền lực của Quỷ vương Beelzeboul.

+ c 23 – “Dụ ngôn”: đây là lần đầu tiên trong Marcô Đức Giêsu nói dụ ngôn. Dụ ngôn là một câu chuyện dễ hiểu bằng những hình ảnh thông thường trong cuộc sống để so sánh với một điều khó hiểu hơn về mầu nhiệm Thiên Chúa. Ở đây Đức Giêsu dùng hình ảnh một nước, một gia đình.

+ c 27 – “Người mạnh khỏe”: ám chỉ đến suy nghĩ của một số người rằng Satan là kẻ mạnh khỏe; nhưng cũng ám chỉ đến Is 49,24-25 53,12: Đức Giêsu là “người mạnh thế hơn”.

Lý luận của Đức Giêsu trong 2 dụ ngôn trên (cc 24-27): Satan không thể tự chống lại nó được. Những việc trừ quỷ mà Đức Giêsu thực hiện là dấu chỉ Đức Giêsu mạnh thế hơn Satan, vương quyền của Satan sắp bị tiêu diệt để nhường chỗ cho vương quyền của Thiên Chúa.

+ c 28 – Sau đó Đức Giêsu đưa ra một lời cảnh cáo nghiêm khắc.

– “Lộng ngôn”: theo nghĩa hẹp, “lộng ngôn” là nói lời xúc phạm tới TC, tới Thánh Danh Ngài (Xh 22,27 Lv 24,11-16), tới uy quyền Ngài (x.Mc 2,7ss 14,64ss Ga 10,30-36), tới Sứ giả Ngài (Cv 6,11). Ở đây chữ này có nghĩa là xúc phạm tới Đức Giêsu, có thể tha thứ được.

– Nhưng không thể tha thứ cho tội “lộng ngôn với Thánh Linh”. Cho dù chúng ta có thể liệt kê hết các “tội trọng”, ta cũng sẽ không gặp được tội nào không thể tha thứ. Vậy tội lộng ngôn tới Thánh Linh là tội gì mà không tha thứ được? Ta phải giải thích theo văn mạch: c.30 viết “Đức Giêsu nói như trên vì người ta nói rằng ‘ông ta bị uế thần nó ám’”. Mc đã nhấn mạnh rằng ngay từ đầu sứ mạng Đức Giêsu đã được Thánh Linh tấn phong, và với quyền lực của Thánh Linh Ngài thi hành sứ mạng cứu độ và tha thứ (1,9-12). Nay nhóm thông giáo đã xuyên tạc những việc làm nhờ quyền lực cứu độ của Thánh Linh, tức là họ không chịu đón nhận ơn cứu độ, bởi đó họ không thể được tha thứ.

III. KẾT LUẬN

Vào lúc M arcô soạn Tin Mừng, các Kitô hữu thường bị những người Do thái công kích vì những người này không thừa nhận uy quyền của Đức Giêsu Kitô, Đấng Messia đến để giải thoát con người khỏi quyền lực của Satan. Marcô viết chuyện này để trả lời cho những công kích đó.

3) Gia đình thật của Đức Giêsu (3,31-35)

  1. GIẢI THÍCH

* Marcô viết tiếp câu chuyện về liên hệ giữa Đức Giêsu và gia đình tự nhiên của Ngài (x.3,20-21).

+ c 31 – “anh em”: Truyền thống vẫn tin rằng Đức Giêsu là con duy nhất của gia đình. Vì thế chữ “anh em” ở đây không phải là anh em ruột, mà là anh em bà con.

+ “ở ngoài”: chú ý Marcô 2 lần nhấn mạnh tới chi tiết những bà con của Ngài “ở ngoài” (cc.31-32), nghĩa là họ không phải là gia đình thật của Ngài vốn là những người ở trong.

+ c 34 – “nhìn vòng quanh”: Trong Marcô cách nhìn này báo trước Đức Giêsu sắp nói một điều quan trọng (x. 3,5 10,23 11,11).

+ c 35 – Điều quan trọng mà Đức Giêsu nói là xác định ai là gia đình thật của Ngài: những người nào thi hành thánh ý Thiên Chúa mới là gia đình thật của Ngài!

  1. KẾT LUẬN
  2. Đây là một lời an ủi cho các Kitô hữu của giáo đoàn Marcô đang bị bách hại khiến họ phải xa cách gia đình của mình. Marcô muốn nói rằng bù lại họ có một gia đình khác, đó là gia đình của Đức Giêsu. Hơn thế nữa Marcô cũng cho họ thấy rằng nhiều khi phải chọn lựa giữa gia đình xác thịt với gia đình thiêng liêng: chính Đức Giêsu cũng đã chọn lựa như vậy.
  3. Marcô cũng muốn cho thấy 2 loại liên hệ giữa Đức Giêsu với những người đương thời: a/ một bên là những kẻ từ chối Ngài. Bên này gồm những người pharisêu và thông giáo đã lộng ngôn đến Thánh Linh khi dám nói rằng Ngài bị quỷ ám (c.30), và có cả những người bà con của Đức Giêsu đã nói rằng Ngài mất trí (c.21); b/ bên kia là những bà con thật của Ngài gồm Nhóm 12 đã đi theo Ngài (3,13-19), và rộng hơn nữa là tất cả những ai đón nhận Tin Mừng (3,31-35).
  4. Đoạn này không phải là một sự từ chối của Đức Giêsu đối với Đức Maria, trái lại càng làm tăng uy tín của Người, bởi vì Người không chỉ làm Mẹ của Ngài về phần xác thịt mà còn vì Người luôn thi hành thánh ý Thiên Chúa.

 

19. Hạnh phúc là thành viên trong gia đình Chúa

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Thiên Chúa là Cha nhân từ

Thiên Chúa khôn ngoan và nhân từ, nên mọi việc Ngài làm đều tốt đẹp. Ngài đã sáng tạo con người theo hình ảnh Ngài, cho họ sống tình thân với Chúa. Vậy Sự Dữ do đâu mà có? Đâu là nguyên nhân khiến cho tình thân nghĩa thiết giữa con người với Thiên Chúa và con người với nhau bị phá vỡ?

Sách Sáng Thế (x. St 1-3) cho ta câu trả lời. Thiên Chúa không tạo nên sự chết, nhưng sự chết đã đi vào thế giới vì sự ghen tương của ma quỉ (x. Kn 1,13-14; 2,23-24). Khi nổi loạn chống lại Thiên Chúa, ma quỉ đã lường gạt và lôi kéo con người theo chúng. Thiên Chúa hỏi Ađam: “Ai đã chỉ cho ngươi biết rằng ngươi trần truồng, há chẳng phải tại ngươi đã ăn trái cây mà Ta cấm ngươi không được ăn ư?”  Thiên Chúa hỏi Evà: “Tại sao ngươi đã làm điều đó? ”  Evà trả lời: “Con rắn đã cám dỗ tôi” (x. St 3, 11-13).

Là thụ tạo tinh thần, con người chỉ có thể sống tình thân ấy khi tự do tùng phục Thiên Chúa. Điều đó được diễn tả trong lệnh cấm con người ăn trái cây biết lành, biết dữ “vì ngày ngươi ăn nó, ngươi sẽ chết” (St 2, l7). Bị ma quỉ cám dỗ, con người đánh mất lòng tín thác vào Đấng Sáng Tạo, lạm dụng tự do, bất tuân lệnh của Thiên Chúa. Đó là tội đầu tiên của con người (x. Rm 5, l9). Hậu quả là Adong và Evà đánh mất sự thánh thiện nguyên thủy (x. Rm 3, 23). Sự hài hòa với vạn vật bị phá vỡ: thế giới hữu hình trở nên xa lạ và thù nghịch với con người (x. St 3, l7-l9). Sự kết hợp nam nữ trở nên căng thẳng (x. St 3, ll-l3); tình huynh đệ tương tàn (x. St 4, 3-15); tiếp đến là sự sa đọa của cả loài người. Cuối cùng, vì bất tuân: “Con người là tro bụi sẽ trở về bụi tro” (St 3, l9).

Sau khi sa ngã, Thiên Chúa không lỡ bỏ rơi con người. Trái lại, vì tình thương, Thiên Chúa nâng con người lên. Chúa bảo con rắn: “Bởi mi đã làm điều đó, mi sẽ vô phúc ở giữa mọi sinh vật và mọi muông thú địa cầu; mi sẽ bò đi bằng bụng, và mi sẽ ăn bùn đất mọi ngày trong đời mi”. (St 3, 9-15. 20). Đó là thảm kịch tự do mà Thiên Chúa chấp nhận đến cùng vì yêu thương, nhưng Ngài hứa: “ Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ, giữa miêu duệ mi và miêu duệ người đó, người miêu duệ đó sẽ đạp nát đầu mi, còn mi thì sẽ rình cắn gót chân người” (St 3,15).

Đoạn sách Sáng Thế trên được gọi là “Tiền Tin Mừng” vì đó là lời loan báo đầu tiên về Đấng Cứu Thế, về cuộc chiến đấu giữa con rắn với người nữ và chiến thắng cuối cùng của một hậu duệ người nữ này. Tình mẫu tử của Đức Maria đối với nhân loại được biểu lộ “Ađam đặt tên cho vợ mình là Evà, vì bà là mẹ của chúng sinh” (St 3, 20).

Mẹ và anh em Chúa

Lòng nhân từ của Thiên Chúa là lòng nhân từ cứu độ, chẳn nhữn nâng con người lên mà còn cho con người trở thành dưỡng tử của Thiên Chúa, đồng thừa tự với Chúa Giêsu. Lời của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, thoạt nghe người ta dễ hiểu lầm là từ khi bắt đầu đời công khai, Chúa Giêsu đã đánh mất gia đình và người thân của mình. Thật vậy, khi Chúa đang ngồi giảng giữa một đám đông, có kẻ nói với Ngài: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang tìm Thầy”. Chẳng những Chúa Giêsu không ra gặp mẹ, mà Ngài còn nói: “Ai là mẹ Ta, ai là anh em Ta? Chính những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là mẹ Ta và là anh em Ta” (x. Mc 3, 32-35).

Thật ra, qua câu nói này, Chúa Giêsu gián tiếp khen ngợi Mẹ Ngài, bởi vì Mẹ là người hoàn toàn tuân theo ý Chúa. Mẹ đã hiểu rõ sứ mạng của Chúa Giêsu, con của Mẹ. Như thế câu nói của Chúa Giêsu cho thấy Ngài đặt quan hệ tình nghĩa trên nền tảng đức tin, thể hiện niềm tin của mình bằng việc thực thi thánh ý Chúa.

Chúa Giêsu là Con Một Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha; còn chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa nhờ Chúa Giêsu trong Chúa Thánh Thần, và nhờ tình yêu Chúa, chúng ta được liên kết với nhau trong một quỹ đạo mới, một tình nghĩa mới, cao đẹp hơn tình nghĩa cha mẹ, anh chị em ruột thịt.

Với lời khẳng định: “Đây là mẹ tôi và anh em tôi” (Mc 3, 33). Chúa Giêsu loan báo về gia đình mới của Ngài. Có những người thân yêu cùng máu mủ đứng ngoài kia. Có một gia đình mới đang ngồi trong này. Đức Giêsu không coi thường hay loại bỏ gia đình ruột thịt. Nhưng Ngài cho thấy Ngài còn có một gia đình lớn hơn nhiều, một gia đình gồm những người rất khác nhau về nhiều mặt, nhưng lại có một mẫu số chung, một điểm giống nhau, đó là cùng muốn thi hành ý Thiên Chúa trong cuộc sống.

Sống tình gia đình với Chúa

Thật hạnh phúc cho chúng ta, vì Chúa Giêsu đã khai mở một đại gia đình mới cho mọi người: “Bất cứ ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa người ấy là mẹ tôi, là anh em và chị em tôi” (Mc 3, 35). Khi thực thi ý Thiên Chúa muốn, người kitô hữu chúng ta vui sướng được thuộc về gia đình Chúa, có Đức Maria làm Mẹ suốt đời tín trung sống ý Chúa, có Đức Giêsu là Anh Trưởng, người Con luôn sống đẹp lòng Chúa Cha, và có bao anh chị em khác đã dám đặt ý Chúa lên trên mạng sống.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con cám ơn Chúa đã mở rộng gia đình Chúa để cho chúng con được dự phần, xin cho mỗi người chúng con biết lắng nghe Lời Chúa; đồng thời biết đem Lời Chúa ra thực hành, hầu xứng đáng là thành viên trong gia đình Chúa. Amen.

 

20. Chúa Giêsu chất vấn chúng ta

(Suy niệm của Jean-Yves Garneau)

Không dễ rút ra một ý chính từ bản văn Tin Mừng hôm nay. Vậy ta hãy để cho toàn bộ bản văn hướng dẫn chúng ta, từng giai đoạn một, giúp chúng ta có được một cái nhìn nghiêm túc về một số thái độ và lập trường của chúng ta.

“Người đã mất trí”.

Chúa Giêsu bị họ hàng chống đối. Không lạ gì, Ngài nói rằng không ai là tiên tri nơi quê hương mình (Mt 13,57; Mc 6,4; Ga 4,44). Các thành viên trong gia đình Ngài xấu hổ vì Ngài. Thay vì hiểu Ngài họ tìm cách loại trừ Ngài.

Khép kín đối với sứ điệp của các ngôn sứ, thường có tính thách thức và gây ngạc nhiên, là cách làm tiện lợi nhưng không cao thượng mấy. Những kẻ nói một ngôn ngữ mới đều là kẻ thiếu quân bình, thái quá, vượt xa mọi tình huống! Nhưng có đúng là chỉ những kẻ nói và làm những gì thích hợp với kẻ khác mới có lý không? Có phải là những gì được chấp nhận công khai, những gì không gây phiền hà cho ai cả, những gì đáp lại sự chờ mong của mọi người mới đáng được chấp nhận chăng? Đây không phải là con đường của Chúa Giêsu, Ngài đã làm cho người ta ngạc nhiên, đã đi ngược dòng, đã dám làm những điều khiến Ngài bị tố cáo là điên? Còn chúng ta?

“Ngài bị quỉ Bêendêbun ám”.

Phán đoán của các ký lục cũng theo một hướng đó. Chúa Kitô bị quỉ (Bêendêbun) ám; Chính nhờ quỉ lớn mà Ngài trừ được tất cả các quỉ nhỏ, thủ hạ của nó.

Chúa Kitô cho thấy rằng lời tố cáo này không có cơ sở, làm sao quỉ có thể đuổi quỉ ra khỏi nhà nó được? Giữa bạn bè với nhau người ta bảo vệ nhau; người ta không đánh đuổi nhau. Như vậy Chúa Giêsu cho ta hiểu rằng phải cẩn thận xem xét hậu quả của một hành động hoặc một lập trường. Nếu hậu quả tốt, thì chúng không thể phát xuất từ một nguyên tắc hoặc một trái tim xấu được.

Bao giờ cũng thế. Trước sự ngạc nhiên, bực bội mà môt số người không hành động như chúng ta gây cho chúng ta, ta hãy nhìn xem hậu quả hành động của họ. “Cây tốt sinh quả tốt” (Lc 6,43).

Tội phạm đến Chúa Thánh Thần.

Câu nói về tội phạm đến Chúa Thánh Thần là một câu nói khó hiểu. Tội phạm đến Chúa Thánh Thần đây là tội gì mà không thể nào tha thứ được? Tội ấy chắc phải là nặng nề lắm.

Tôi nghĩ tội đó chính là từ chối nhìn nhận Thiên Chúa và Con của Ngài đang hoạt động trong sức mạnh của Thánh Thần. Thứ tội này làm cho con người khép kín nơi mình và những ý nghĩ nhỏ bé của mình, khép kín đối với Thiên Chúa Đấng luôn đổi mới để cứu độ. Thánh Thần là sự sống, sự đổi mới, là niềm phấn khởi và sáng tạo. Người ta phạm đến Thánh Thần khi cái “tôi” đứng lên chống lại quyền năng sự sống. đó là từ chối ân sủng, là cố ý mù quáng trước ơn cứu độ. Đó là khi người ta gán cho Bêendêbun những gì phát xuất từ chính Thiên Chúa.

“Mẹ tôi và anh em tôi”.

Chúa Giêsu hỏi “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?”. Khi nói về những kẻ muốn bắt Ngài phải làm theo ý họ. Khi nói về những kẻ muốn bắt Ngài làm theo ý họ. Khi nêu câu hỏi này, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta hiểu được ai là những kẻ thân cận thật của Ngài, những môn đệ chân chính, những anh chị em thật sự của Ngài.

Tiêu chuẩn để là mẹ và anh em của Chúa không phải là huyết thống, nhưng là việc gắn bó với cùng một chính nghĩa, sự dấn thân cho cùng một lý tưởng, ý muốn chỉ sống để phục vụ Chúa Cha vô điều kiện mà thôi. Không gì thay đổi cả để đảm nhận, không thỏa hiệp những đòi hỏi của Tin Mừng, ta phải cắt đứt những mối liên hệ cũ và thiết lập những mối liên hệ mới thuộc một trật tự khác.

Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu không những vì Mẹ đã cho Ngài thịt máu của mình nhưng nhất là vì Mẹ hiệp nhất với Ngài trong việc tự do và vui vẻ chu toàn ý Chúa Cha. Khi hành động như Mẹ; chúng ta có thể trở thành anh chị em của Chúa Kitô cách đích thực hơn là nếu chỉ có liên hệ huyết thống với Ngài mà thôi.

Ngài chất vấn chúng ta và đặt vấn đề về chúng ta! Đó là một hồng ân mà ta cần phải đón nhận và tạ ơn.

 

21. Suy niệm của Lm. Trọng Hương

(Trích trong ‘Hạt Giống Nảy Mầm’)

  1. Hạt giống…

Đoạn Tin Mừng này gồm 2 chuyện:

a/ Chúa Giêsu trừ quỷ và bị các luật sĩ xuyên tạc:

“Các kinh sư nói Đức Giêsu bị quỷ vương Bêendêbun ám và dựa vào thế quỷ vương để trừ quỷ. Theo Đức Giêsu, lời tố cáo đó là một điều vô lý. Quả thật, Xatan không thể chống Xatan (3,23b). Nước nào, nhà nào chia rẽ thì sẽ đi tới chỗ diệt vong (3,24-25); Xatan cũng vậy (3,26). Mc 3,27 cho thấy: chẳng những Đức Giêsu không bị quỷ chi phối, không theo phe quỷ, Ngài còn chống quỷ; quỷ là người mạnh, Đức Giêsu còn mạnh hơn quỷ nữa” (Chú thích của bản dịch nhóm CGKPV).

b/ Lúc Chúa Giêsu đang giảng thì thân nhân của Ngài đến xin gặp:

Ta hãy chú ý chung quanh Chúa Giêsu có 2 vòng người:

a/ Vòng phía trong gần gũi với Ngài là những người đang nghe Ngài giảng. Họ “đang ngồi chung quanh Ngài”.

b/ Vòng ngoài là những người bà con của Ngài. Những người này đứng đó không phải để nghe giảng, mà để “gọi Ngài ra”. Văn mạch phía trước (Mc 3,20-21) còn cho biết mới đây họ còn muốn bắt Ngài về quê không cho Ngài giảng nữa vì nói Ngài đã mất trí.

Rõ ràng Chúa Giêsu coi trọng những người ở vòng trong hơn vòng ngoài: chẳng những Ngài không bỏ việc giảng để ra ngoài gặp bà con, mà còn nói những kẻ đang nghe Ngài giảng mới là gia đình thật của Ngài.

B…. nẩy mầm.

  1. Chuyện thứ nhất nhắc ta hai sự thật: a/ Quả thực có hoạt động của Xatan trong thế giới này và trong bản thân mỗi người, sức hoạt động này rất mạnh; b/ Nhưng quả thật, Chúa Giêsu mạnh hơn. Chuyện này cũng làm ta liên tưởng tới những lời chia xẻ kinh nghiệm của thánh Phaolô: “Khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay… Tôi thật là một người khốn nạn ! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này?” (Rm 7,21.24); “Thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Xatan được sai đến vả mặt tôi để tôi khỏi tự cao tự đại… Tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, đề sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi… Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,7.10)
  2. Đây là nội dung cuộc nói chuyện giữa hai em nhỏ:

– Nếu Satan đến cám dỗ, bạn làm sao chống trả?

– Mình biết Satan đến để cám dỗ, nhưng khi nó gõ cửa lòng mình, mình bảo: Có phải đức Giêsu gõ cửa đấy không ạ? Khi Satan nghe tên Giêsu là nó biến ngay !

      Người mạnh nhất cũng không thể một mình chống lại Satan (Góp nhặt).

  1. Câu Tin Mừng Luca 4,13: “Và sau khi chấm dứt mọi cám dỗ, quỉ bỏ đi chờ đợi thời cơ” phải hiểu cho đúng. Câu đó không có nghĩa là sau khi ma quỉ cám dỗ, nó để cho ta yên một thời gian. Cũng không phải là nó để ta có giờ nghỉ ngơi hầu lấy lại sức mạnh cho cuộc chiến sau. Cũng không phải Chúa ngăn cản, không để quỉ cám dỗ ta trong một thời gian. Dịch cho đúng câu đó có nghiã là: quỉ tạm lánh vào bóng tồi, khi có thời cơ thuận tiện sẽ quay lại và tiếp tục tấn công. Nên khi quỉ thôi cám dỗ ta, chính là lúc nó đang tìm cách để đánh úp ta. (Góp nhặt)
  2. Chúa Giêsu nói những kẻ nghe Lời Chúa chính là anh chị em và là mẹ Ngài. Đây không chỉ là một cách nói để khuyến khích, mà là sự thật: các thánh được Chúa coi như người nhà của Ngài; và không vị thánh nào không siêng năng nghe Lời Chúa và thực thi Lời Chúa.
  3. Trong vườn, một gốc nho héo úa giữa bao cây xanh tươi mơn mởn. Tưới bao nhiêu phân cũng chẳng thấy khá hơn. Cuối cùng, người chủ đào gốc lên xem, thì thấy có miếng gỗ nằm chắn ngang gốc nho.

Có lẽ đời ta cũng vậy. Nếu không đâm rễ sâu vào lòng đất là Lời Chúa, đời ta cũng sẽ tàn úa (Góp nhặt)

  1. Một bà kia rất thường đọc Sách Thánh và đọc rất sốt sắng. Khi được hỏi tại sao thì bà dùng một thí dụ để giải thích:

Hôm qua tôi nhận được một bức thư của một người tôi rất quý mến. Tôi đã đọc rất chăm chú và đọc đi đọc lại tới 5 lần. Không phải vì tôi không hiểu lời lẽ trong thư vốn đã quá rõ, nhưng vì tôi biết đó là những lời của một người rất thương tôi và tôi cũng rất thương người đó (United Presbyterian).