HGNM Những Ngày Lễ Đặc Biệt Tháng 12
Ngày 3/12
THÁNH PHANXICÔ XAVIÊ
Mc 16,15-20
* Lịch Sử
Thánh Phanxicô Xaviê sinh năm 1506 tại lâu đài Xaviê trong một gia đình quyền quý của Vương quốc Navarre nhỏ bé miền Bắc nước Tây Ban Nha ngày nay. Khi Ngài 5 tuổi, nước Tây Ban Nha thôn tính và sát nhập Navarre khiến gia đình Ngài lâm cảnh nước mất nhà tan. Muốn tiến thân bằng con đường trí thức, năm 17 tuổi Ngài đến Paris học (1525-1536).
Tại Paris Ngài sống trong cùng một căn phòng với chân phước Favre, và sau đó với Thánh I Nhã. Lần lượt Phêrô Favre rồi Phanxicô Xaviê được thánh I Nhã thu phục. Năm 28 tuổi, ngài cùng với nhóm bạn của Thánh I Nhã khấn sống khó nghèo, khiết tịnh và làm việc Tông đồ. Năm 31 tuổi ngài chịu chức Linh mục tại Venezia miền Bắc nước Ý năm 1537. Năm 35 tuổi ngài xuống tàu đi truyền giáo ở vùng Đông Á theo lệnh Đức Thánh Cha Phaolô III.
Tháng 4 năm 1541 ngài xuống tàu tại Lisbon và mãi 14 tháng sau mới đến được Goa bên Ấn Độ. Trong suốt 10 năm truyền giáo (1542-1552) ngài đã đi cả trăm ngàn cây số. Trong 7 năm đầu, ngài truyền giáo ở vùng Mũi Cormorin, sau đó ở Ceylan, Malaisia và từ đó đến Inđônêxia. Là vị Giám mục đầu tiên của Tỉnh Dòng đầu tiên ngoài Châu Âu, ngài yêu mến và gắn bó keo sơn với Chúa Giêsu, tha thiết với Dòng và anh em trong Dòng, kính trọng và tuân phục Thánh I Nhã, nhiệt thành lạ lùng với việc Tông đồ. Ngài đã rửa tội cho hàng trăm ngàn tân tòng và gầy dựng nhiều cộng đoàn tín hữu khắp nơi. Thành quả Tông đồ của ngài đã tạo nên một đỉnh cao trong lịch sử truyền giáo của Hội Thánh.
Trong vòng 2 năm (1549-1551) ngài đã thành lập một cộng đoàn tín hữu ở Nhật Bản; trước khi ra đi, ngài trao lại cho một Linh mục Bồ Đào Nha; 20 năm sau, cộng đoàn này đã lên đến 30 ngàn người. Cuối cùng vì muốn vào Trung Hoa truyền đạo, ngài đã đến đảo Thượng Xuyên ngay cửa khẩu Quảng Châu, để chờ thuyền lén lút đưa ngài vào Trung quốc. Tiếc rằng tại đây ngài ngã bệnh và qua đời trong một chòi tranh chỉ có anh thanh niên trẻ thông dịch viên bên cạnh. Vài tuần lễ sau, người ta từ Goa đến tìm xác ngài, đem về Goa để chôn cất.
Thánh Phanxicô qua đời ngày 3/12/1552, được Đức Thánh Cha Grêgôriô XV phong thánh cùng với thánh I Nhã vào năm 1622 và được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo.
Thánh Phanxicô Xaviê là vị truyền giáo vĩ đại, người tiên phong cho cuộc truyền giáo thời mới. Ngài hòa nhập vào dân mà ngài muốn mang Tin Mừng đến; ngài sống nghèo với những người lao động. Ngài hoạt động thật năng nổ cho cuộc truyền đạo và kích thích được tinh thần này ở Âu Châu. Hàng nghìn người đã theo gương ngài để mang Tin Mừng đi muôn phương.
Trích thư Thánh Phanxicô Xaviê gởi cho Thánh I Nhã:
“Có rất nhiều người tại những nơi này hiện giờ chưa trở thành người có đạo, chỉ vì thiếu người làm cho họ nên người có đạo.
Nhiều lần tôi đã nghĩ đến việc đi tới các Đại học bên Châu Âu, nhất là ở Paris, để điên cuồng kêu lên khắp đó đây và thúc bách những kẻ chỉ biết lý thuyết hơn là thực hành rằng: “Khốn thay, có vô số linh hồn, vì lỗi của các ông mà phải trục xuất khỏi trời và bị đẩy xuống hỏa ngục”.
Chớ gì những người đó chuyên chú vào việc Tông đồ này như họ đã chuyên chú vào văn chương để có thể trả lẽ cho Chúa về đạo lý và những nén bạc đã uỷ thác cho họ”. (CGKPV trang 535) (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống…
Đây là đoạn cuối của Tin Mừng theo Thánh Mc, ghi lại chỉ thị cuối cùng của Chúa Giêsu trước khi lên trời :
– Chúa chỉ thị : “Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo”.
– Ngài hứa tích cực hỗ trợ những sứ giả loan Tin Mừng bằng những dấu lạ kèm theo.
– Các Tông đồ đã làm theo chỉ thị đó : rao giảng Tin Mừng khắp nơi, và “dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”.
* Ý nghĩa “Những dấu lạ kèm theo”: Những dấu lạ như trừ quỷ (Cv 5,12-16 ; 8,7 ; 16,16-18), nói tiếng lạ (Cv 2,4-13 ; 10,44-46 ; 1Cr 14,2-40), đặt tay chữa bệnh (Cv 4,30 ; 9,10-17), cầm rắn mà không sao cả (Cv 28,3-6) v.v, là bảo đảm có Chúa Giêsu trợ giúp các ông để chiến thắng mọi thế lực gian tà.
B. Nảy mầm.
- Thánh Phanxicô Xaviê được Giáo hội đặt làm bổn mạng của các xứ truyền giáo. Ngài là người thực hiện đúng đoạn Tin Mừng hôm nay.
- Người truyền giáo vừa rao giảng vừa “dùng những dấu lạ kèm theo” để củng cố lời rao giảng của mình. Trong bối cảnh thời nay, “những dấu lạ kèm theo” là một cuộc sống “lạ lùng” trước con mắt người đời nhưng đúng với Tin Mừng.
- Thiên Chúa cứu độ muốn muôn dân đến với Người. Phần chúng ta, hãy cộng tác với Người: hãy đi đến muôn dân rao giảng Tin Mừng cho họ. – Ad Gentes (Đến với muôn dân) là chủ đề lớn, là đầu đề của một sắc lệnh của Vatican II.
- Một mục sư nói chuyện với một tín đồ lười biếng:
– Anh có thường đến nhà thờ không ?
– Không. Người trộm lành hấp hối trên thập giá đâu cần đến nhà thờ thế mà vẫn lên thiên đàng.
– Có khi nào anh nói về Chúa cho bạn bè nghe không ?
– Không. Người trộm hấp hối ấy đâu có nói về Chúa cho ai nghe.
– Anh có đi truyền giáo không ?
– Không. Người trộm hấp hối ấy đâu có truyền giáo cho ai.
– Anh tưởng mình giống người trộm ấy ư ? Không đâu. Có một khác biệt cơ bản: anh ta là một tên trộm đang hấp hối, còn anh là một tên trộm còn sống nhăn. (Ottobein Teacher)
- Khuôn vàng thước ngọc “Hãy nói về Chúa cho những người quanh bạn nghe ; và hãy nói về những người quanh bạn cho Chúa nghe”.
Ngày 8/12
ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM
Lc 1,26-36
* lỊch sỬ
Tín điều về “Đức Trinh Nữ Maria ngay từ thuở ban đầu đã được gìn giữ khỏi tội nguyên tổ” qua thời gian càng ngày càng rõ rệt.
Thánh Kinh không chỗ nào nói rõ điểm này cả, nhưng Hội Thánh qua thời gian (Thánh Truyền) đã hiểu những lời Thánh Kinh và giải thích: Đức Maria là tạo vật trong sạch nhất và có thể nói “thành công” nhất của Thiên Chúa. Đức Maria được ví như Eva Mới, không vương nhiễm đến tội và trở thành “Mẹ của chúng sinh”.
Dù vậy chúng ta phải nắm vững :
- Đức Maria cũng được sinh ra một cách bình thường như mọi người khác.
- Đức Maria được hưởng hồng ân lớn lao này là nhờ Đức Giêsu Kitô, qua công nghiệp của cái chết thập giá cứu độ của Người.
Về Phụng Vụ, chúng ta đã thấy có những thánh lễ tôn kính Mẹ Vô Nhiễm từ thế kỷ thứ IX, bắt đầu từ Constantinople tràn sang miền Nam Ý và Sicile. Nhưng rõ nét nhất là thánh Anselmô thành Canterburry đã du nhập thánh lễ này vào giáo phận của ngài.
Vào năm 1476 Đức Giáo Hoàng Sixtus IV, xuất thân từ dòng Anh Em Hèn Mọn, đã đem thánh lễ này vào Giáo hội La Mã.
Ngày 8/12/1854 Đức Giáo Hoàng Piô IX trong Thông Điệp “Ineffabilis Deus” đã long trọng công bố tín điều “Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội” cho toàn thể Hội Thánh Công Giáo. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống…
Vai chính trong tường thuật này là Đức Maria, được Thánh Luca mô tả với những nét như sau:
– một thiếu nữ bề ngoài bình thường như mọi thiếu nữ khác (câu 27).
– nhưng đặc biệt hơn mọi thiếu nữ vì “đầy ơn sủng” và được “Đức Chúa ở cùng” (câu 28).
– được Thiên Chúa chọn làm mẹ Đấng Messia Con Thiên Chúa (cc 30-33).
– dù không hiểu rõ (câu 34), Maria cũng sẵn sàng cho Chúa dùng mình để làm công việc của Chúa (câu 38: Fiat = “Xin Chúa cứ làm nơi tôi…”).
B. Nảy mầm.
- Đức Maria hỏi : “Việc ấy xảy ra cách nào được, vì…”. Thiên sứ đáp : “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (câu 37). Rất nhiều điều con người tưởng không thể nào làm được thế mà Thiên Chúa vẫn làm được. Ngài đã làm cho Êlisabét son sẻ được có con, đã làm cho Đức Maria đồng trinh sinh ra Đấng Cứu Thế. Thiên Chúa cũng có thể làm nơi mỗi người chúng ta những việc trọng đại, miễn là chúng ta sẵn sàng để Ngài hoạt động trong chúng ta.
- Mặc dù “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”, nhưng thường Thiên Chúa không làm một mình, Ngài thích có sự hợp tác của con người. Để cho Đấng Cứu Thế nhập thể, Thiên Chúa đã nhờ Đức Maria hợp tác. Và Đức Maria đã hợp tác bằng cách ngoan ngoãn để cho ơn Chúa hành động trong mình và qua mình : “Xin cứ làm cho tôi…”.
- Một thanh niên kia có thói quen ngủ rất say, luôn cần có mẹ gọi mới thức dậy được. Sau khi tốt nghiệp, anh đi làm ở một chỗ xa nhà. Mẹ anh mua cho anh một chiếc đồng hồ báo thức. Ngày đầu tiên anh quên vặn đồng hồ trước khi ngủ nên đến sở làm trễ. Ngày thứ hai, anh nhớ vặn đồng hồ, nhưng sáng sớm khi nó reo thì anh đưa tay tắt bỏ, nên lại đi làm trễ. Và anh bị đuổi việc. Khi anh trở về gia đình, mẹ anh hỏi về chiếc đồng hồ. Anh đáp:
– Chiếc đồng hồ đó hoàn toàn vô dụng đối với con.
– Nó vô dụng là vì con không chịu dùng nó. Mẹ anh đáp.
Bao nhiêu ơn Chúa ban cho ta cũng đều vô dụng nếu ta không xử dụng đến. (Góp nhặt)
- “Sứ thần vào nhà Trinh nữ và nói: Mừng vui lên hỡi đấng đầy ân sủng. Đức Chúa ở cùng Bà. Nghe lời chào ấy, Bà rất bối rối và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì” (Lc 1,28-29).
Đứng trước một biến cố trọng đại, bất ngờ, Mẹ đã bối rối. Sự bối rối ấy không đến từ sự hoang mang nghi ngờ như trường hợp ông Dacaria, nhưng đến từ sự băn khoăn muốn tìm hiểu thánh ý Thiên Chúa.
Phần tôi, đứng trước những khó khăn xảy đến trong cuộc sống thì hầu như chỉ biết than vãn, kêu trách Chúa mà không thử tìm xem Chúa muốn nói gì với tôi qua những biến cố ấy. Chúa vẫn đi ngang qua đời tôi nhưng tôi đã không gặp được Ngài. Chúa đứng ngoài và gõ cửa nhà tôi nhưng tôi đã không nghe được tiếng Ngài. Lòng tôi vẫn khép kín.
Lạy Chúa, xin cho con biết lắng nghe tiếng Chúa trong từng biến cố của cuộc sống, và biết xin vâng như Mẹ. (Epphata)