Sống Cuộc Đời Mình – Chương III: Tâm Linh Quân Bình

print

Chương III

TÂM LINH QUÂN BÌNH

 

Con người không những có giá trị hơn mọi thụ tạo khác nhờ ý thức, mà còn hơn nữa là giá trị tâm linh. Con người vốn là hình ảnh của Thiên Chúa, là chóp đỉnh của công trình sáng tạo, là tinh hoa của trời đất. Con người dù tội lỗi thế nào cũng không xoá nhoà hình ảnh của Thiên Chúa nơi mình; dù bị tha hoá ra sao cũng không thể huỷ hoại bản tính thiện của mình; dù có bị dục vọng kiềm chế ở mức độ nào cũng không mất đi bản chất của mình là “nhân linh ư vạn vật”: linh thiêng hơn mọi loài. Nhưng con người có quân bình thì mới đứng vững trong trời đất và đạt tới cùng đích đời mình. Chúng ta tìm hiểu điều này qua triết lý Đông phương, như một cách thức dọn đường cho Mạc khải.

I. TƯƠNG QUAN THIÊN-ĐỊA-NHÂN

  1. Triết lý Đông phương

Ðông phương quan niệm về con người với giá trị tự tại trong tương quan thiên-địa-nhân nhất thể. Trong sự hòa đồng mật thiết, Thiên Nho quan niệm: cả ba nguyên tố hợp thành để phát sinh muôn vật. Trong cuộc sinh hóa, mỗi nguyên tố lại có một tác vụ riêng: Trời sinh; Đất dưỡng; Người hoàn thành. (Lễ Ký ch. 24).

Tự bản chất, con người là sự thông giao với chính mình, với trời đất và với toàn thể vạn vật. Con người là Tâm của trời đất, như sách Lễ Ký viết: “Nhân giả thiên địa chi tâm dã”. Trong Kinh Dịch, tính thiết yếu này được diễn tả ở hào 5 quẻ Kiền và được Lễ Vận cho thấy: con người là đức của trời đất, là giao hòa của âm dương, là hội tụ của quỉ thần, là tú khí của ngũ hành.

Như vậy, theo triết lý Đông phương, con người là hình ảnh sống động của Trời, nên luôn khắc khoải tìm về siêu việt trong sự “Phối Thiên”, hòa đồng, hợp nhất với Thượng Đế. Đó là điều mà R. Tagore đã nói lên trong cuốn ‘The Religion of Man’, dựa theo kinh ‘Veda Upanishad và Vedanta’: “I am one with the Supreme, with the Deathless, with the Perfect.” (Tôi là một với Tuyệt Đối Thể, với Bất Tử và với Toàn Thiện). Độc đáo hơn nữa khi nói về tương quan Thiên-Địa-Nhân trong bài thơ của Trần Cao Vân, bằng chữ Nho, có tên là Luận Tam Tài, được dịch sang quốc ngữ với tựa đề là Vịnh Tam Tài:

Trời Đất sinh Ta có ý không?

Chưa sinh Trời Đất có Ta trong

Ta cùng Trời Đất ba ngôi sánh

Trời Đất in Ta một chữ đồng

Đất nứt Ta ra Trời chuyển động

Ta thay Trời mở Đất mênh mông

Trời che Đất chở Ta thong thả

Trời Đất Ta đây đủ hoá công.

Vịnh Tam Tài quả là một viên ngọc sáng ngời trong kho tàng tư tưởng của dân tộc Việt Nam, và là một sự đột phá trong quan niệm về con người trong trời đất. Bài thơ còn cho chúng ta cảm nhận được tư tưởng  “Nhân bản Tâm linh” thuần khiết nhất, là một nét vô cùng đặc sắc của nền triết lý Viễn Đông.

  1. Những chủ trương phiến diện

Sở dĩ con người ngày hôm nay mất quân bình, lạc lõng, chới với trong muôn ngàn đau thương khổ ải, có khi đánh mất chính mình vì đã bị ly Tâm quá xa, quên cả cội nguồn và không còn nhận ra sự thật về chính mình. Từ đó phát sinh nhiều triết thuyết và chủ trương phiến diện, tạo nên những quan niệm và lối sống lệch lạc.

Như đã dẫn luận ở phần trên, vì mang chiều kích tâm linh và siêu việt, nên con người không phải là duy vật (matérialisme); không chỉ để sản xuất (homo faber), hay con vật xã hội (social animal) như Lévi Strauss chủ trương trong cuốn Anthrologie structural.

Con người cũng không chỉ là con vật có lý trí (animal rationnel) của Aristote; hay chỉ là loài thụ tạo có lý trí (créature rationnelle); cũng không như Descartes chủ trương: “Cogito, ergo sum”: Tôi suy tư, nên tôi hiện hữu. Nếu thế, khi tôi ngủ hay lúc còn bé chẳng lẽ tôi không hiện hữu?

Khi nhận thức về con người, Pascal cũng đã rất lúng túng. Ông muốn đề cao giá trị của con người nên gọi con người là cây sậy biết suy tư (roseau pensant), nhưng rồi lại lưỡng lự phát biểu :  con người không phải là thiên thần mà cũng chẳng phải là con vật (ni ange ni bête). Đàng khác, con người cũng không phải là duy thần hay duy tâm (idéalisme) như một số triết gia đề xướng.

Tất cả các thứ duy (-isme) đều là các chủ trương lệch lạc, cắt xén con người, và những thứ nhân bản đóng kín cũng đều mất quân bình, phản tự nhiên. Muốn có sự quân bình, phải trả lại nguyên trạng cho con người toàn diện với tất cả thể chất, lý trí, ý chí, các tiềm lực và khả năng nội ngoại, đặc biệt là những cảm ứng tâm linh trong một cuộc sống hài hòa và hợp nhất với trời đất.

II. THIÊN-ĐỊA-NHÂN TRONG KINH THÁNH

Sách Sáng Thế xác quyết rằng: vũ trụ càn khôn cùng tất cả vạn sự vạn vật, kể cả con người, đều là công trình sáng tạo của Thiên Chúa. (x. St 1, 1-28). Tất cả đều là tác phẩm của cùng một Đấng Tạo Hóa, nên tất cả đều có mối tương quan với cội nguồn (dầu không nhất thiết đồng đẳng cấp về bản tính), làm nền tảng cho tình trạng tương tác mạnh mẽ giữa môi trường và con người.

  1. Thiên Chúa

Thiên Chúa đã tỏ mình ra là Đấng tối cao duy nhất (x. Đnl 6, 4), chính Người là Đấng sáng tạo trời đất và là Thiên Chúa của mọi người (x. St 1, 1-28), là nguyên ủy của toàn thể thực tại. Thực tại này phát xuất từ quyền lực của Lời sáng tạo. Điều đó có nghĩa là thụ tạo rất thân thiết với Người, chỉ vì Người đã muốn và đã sáng tạo chúng như thế. Từ đó xuất hiện yếu tố quan trọng thứ hai: Thiên Chúa không những là đối tượng đáng khao khát và yêu thương của mọi hữu thể, mà Người còn là Đấng yêu thương con người hết mực (x. Hs 11, 1-11; 2, 21-22)[1].

Thánh Kinh trình bày cho ta thấy hình ảnh một Thiên Chúa siêu việt ngàn trùng, nhưng đồng thời là một con người yêu với một tình yêu đam mê. Trong ý nghĩa đó, sách Diễm Ca được giải thích như là những bản tình ca để diễn tả liên hệ giữa Thiên Chúa với con người, và đã trở thành nguồn nhận thức và cảm nghiệm thần bí, nói lên sự kết hợp của con người với Thiên Chúa. Đó là giấc mơ nguyên thủy của con người được diễn tả qua hầu hết các tôn giáo và các triết thuyết Đông – Tây. Nhưng sự kết hợp này không phải là sự tan biến, chìm sâu vào một đại dương vô danh của thần tính, nhưng là sự hợp nhất tạo nên tình yêu, trong đó cả hai: Thiên Chúa và con người ở lại trong tình yêu và hoàn toàn trở thành một. (x. 1Cr 6, 17).

  1. Con người

Đời sống con người tự bản chất gắn liền với Thiên Chúa, Đấng dựng nên con người giống hình ảnh Ngài (x. St 1, 26tt). Con người là một thụ tạo tự do, có mối dây liên lạc vững bền và thiết yếu với Thiên Chúa. Nguồn gốc của con người chỉ rõ điều đó. Phát xuất từ lòng đất, con người không bị giới hạn nơi đó, vì sự sống của họ được liên kết với luồng sinh khí của Thiên Chúa thổi vào, nên suốt cuộc đời con người là sự liên kết với Đấng tạo hóa bằng sự vâng phục ý muốn của Ngài. Điều đó cần cho con người để chu toàn bổn phận mình, cho phép họ hiểu rằng, mình không phải là thần linh, nhưng tự căn bản lệ thuộc vào Thiên Chúa trong một mối dây liên hệ tương tự như con với Cha (x. St 5, 3).

Thật tuyệt vời khi biết chắc, mỗi sự sống con người không bị trôi dạt vào hỗn mang vô vọng, hay rơi vào vòng luẩn quẩn theo những chu kỳ bất tận. Trái lại, trong dự định từ muôn thuở, Đấng Tạo Dựng đã nói với mỗi người chúng ta: “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi” (Gr 1,5). Thật sự, mỗi người chúng ta được hình thành từ tâm tưởng của Thiên Chúa, nên nằm trong trái tim Ngài. Mỗi người chúng ta được mong đợi, được yêu thương, và thật là cần thiết. (x. Laudato si, 65).

  1. Vũ trụ

Thiên Chúa đặt con người trong một thế giới tốt đẹp mà Ngài đã dựng nên (x. St 2, 9), để họ canh tác và gìn giữ như quản gia của Ngài. Ngài trao cho con người quyền làm chủ mọi sự, mọi loài, mọi vật (x. St 1, 26. 28 – 30), nghĩa là tất cả đều lệ thuộc vào sự cai quản của con người. Tuy nhiên, cần nhớ rằng: “Mỗi loại thụ tạo mang lấy một sự tốt lành và hoàn hảo của riêng nó… Mỗi loại thụ tạo khác nhau, như đã được định trong hữu thể của nó, phản chiếu theo cách của nó một tia của sự khôn ngoan và tốt lành vô biên của Thiên Chúa. Do đó, con người phải tôn trọng sự tốt lành riêng biệt của mọi loại thụ tạo, tránh sử dụng cách vô trật tự mọi thứ”. (GLCG, s. 339).

Cũng cần nhận ra rằng: Định mệnh sau cùng của vũ trụ ở trong sự viên mãn của Thiên Chúa. Tất cả mọi loài thụ tạo đang dịch chuyển về phía trước cùng với chúng ta và ngang qua chúng ta hướng đến một đích điểm chung là Thiên Chúa, trong sự viên mãn trổi vượt ấy là chính Đức Kitô phục sinh, Đấng đã ôm lấy và chiếu sáng hết mọi sự. Con người được phú ban sự thông minh và tình yêu, nên trong Đức Kitô, con người được mời gọi để dẫn dắt hết mọi loại thọ tạo trở về với Đấng Tạo Dựng của chúng. (x. Laudato si, 83). “Trong ánh sáng chân lý này, trần gian xuất hiện không phải như một thứ gì to lớn nhưng vô nghĩa, mà là một nơi chốn được tạo dựng nhằm vào việc hiệp thông nhân vị”[2].

Là những Kitô Hữu, chúng ta cũng được mời gọi “đón nhận thế giới như là một bí tích của sự hiệp thông, như là một cách chia sẻ cùng với Thiên Chúa và với anh chị em đồng loại của chúng ta về phương diện toàn cầu. Chính niềm xác tín khiêm tốn của chúng ta mà sự thánh thiêng và nhân loại gặp nhau trong chi tiết tinh tế nhất trong cùng một tấm vải dệt liền mạch của công trình tạo dựng của Thiên Chúa, trong vết bụi sau cùng của hành tinh của chúng ta”. (x. Laudato si, 9).

III. CON NGƯỜI TRƯỚC MẠC KHẢI

  1. Vận mệnh của con người

Mạc khải Kitô giáo đã chiếu ánh sáng mới mẻ về bản sắc, ơn gọi và định mệnh cuối cùng của con người và của toàn thể vũ trụ vạn vật là chính Thiên Chúa. Khẳng định đó cho thấy bản chất của con người vượt trên chính mình, không thể tự khẳng định mình một cách đơn độc, mà luôn nằm trong trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân. Cho dù con người “thống trị mặt đất… làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất” (St 1,28), nhưng con người không thể hình thành nên bản chất người của mình, càng không hoàn thành vận mệnh đời mình.

Hơn nữa, đời sống con người đã bị tội lỗi xâm nhập (x. St 3, 1-20). Vì nghe theo Thần Dữ nên con người đã lạm dụng tự do của mình chống lại Thiên Chúa, và muốn đạt tới cứu cánh của mình ngoài Thiên Chúa. Từ đó, con người phải đi từ hình ảnh “què quặt” của tội nhân đến hình ảnh lý tưởng của người Tôi Tớ Thiên Chúa. Bởi vậy, con người càng phải quay về với nội giới thâm sâu của lòng mình thì mới gặp được Thiên Chúa, Đấng đang chờ đợi họ, và cũng nơi đó chính con người tự định đoạt về vận mệnh riêng của mình dưới con mắt của Thiên Chúa. (x. GS 14).

  1. Tương quan sống với

Bản chất và vận mệnh của con người trước tiên không phải là sống như thế nào, cũng không phải là đúng hay sai, nhưng quan trọng hơn hết là sống với ai, cho ai, vì ai. Vận mệnh con người trong mầu nhiệm sáng tạo đã bao hàm sự khao khát sống với, và chỉ có thể được hoàn thành khi sống với Chúa và với nhau. Sách Giáo lý Giáo Hội cho biết: “Tận đáy lòng, con người khao khát Thiên Chúa vì con người được tạo dựng do Thiên Chúa và cho Thiên Chúa. Thiên Chúa không ngừng lôi kéo con người đến với mình, và chỉ nơi Thiên Chúa, con người mới tìm gặp chân lý và hạnh phúc mà họ không ngừng tìm kiếm.” (s.27).

Hiến chế Mục vụ cũng cho biết: “Ý nghĩa cao cả nhất của phẩm giá con người là con người được kêu gọi kết hợp với Thiên Chúa… và con người chỉ sống hoàn toàn theo chân lý khi tự ý nhìn nhận tình yêu ấy và phó thác đời mình cho Đấng tạo dựng mình” (MV 19,1). Đó chính là nền tảng và cũng là mục đích tối hậu của đời sống tâm linh. Không có thứ tâm linh “thuần túy”, cô độc, tách lìa với Thần Linh. Mình cũng không thể là mình nếu không nối kết với toàn thể của đời mình.

Sống quả là một điều kỳ diệu, một quà tặng vô giá của Thiên Chúa, được ban cho mọi thụ tạo trong vũ trụ càn khôn. Nhưng sống chỉ được hiện diện, phô diễn, phát triển, bảo tồn và hướng đến mức độ viên mãn nơi một mình con người trong tương quan với Thiên Chúa Tạo Hóa và với Toàn Cõi Tạo Thành.  

IV. BA CHIỀU KÍCH CỦA TÂM LINH QUÂN BÌNH

Người có tâm linh quân bình là người để lòng mình mở ra với siêu việt, và từ đó mở ra với tha nhân và vạn vật. Điều này đòi con người trước tiên phải biết mở ra với chính mình.

  1. Mở ra với chính mình

Mở ra với chính mình đòi ta phải biết mình, thấy được sự nghèo nàn và những hạn chế nơi con người mình, để biết tiếp nhận điều hay lẽ phải, và trải rộng tâm hồn mình trong mọi hoàn cảnh. Điều quan trọng là không câu nệ, không chấp nhất, không bảo thủ quan điểm và lập trường của mình. Mình sẽ chẳng bao giờ là mình với cái nhìn hẹp hòi, với tư tưởng đóng kín, với tâm hồn khép chặt.

Mở ra với chính mình là để đón nhận mình và thể hiện mình như là mình. Khi cửa sổ tâm hồn được mở ra thì căn phòng nội giới mới sáng sủa, nhẹ nhàng, thanh thoát, an nhiên và trong lành.

Sự thiếu cởi mở của tâm hồn thường là do định kiến, mặc cảm và lo sợ làm nên. Đời sống con người là một cuộc hành trình vươn tới không ngừng, nên cũng phải từ bỏ không ngừng để thoát ra khỏi những trói buộc đó. Thế nhưng ta lại thích đi theo con đường mòn của người khác, bởi vì nó dễ dàng hơn, an toàn hơn, đỡ rắc rối hơn, chỉ đáng tiếc là chẳng thể khai sáng điều gì hơn.

Mở ra với chính mình đòi hỏi can đảm vượt qua cơ chế an toàn của bản thân, để trở thành điều mà mình đáng lẽ phải là. Cơ chế an toàn là một thứ thành trì khép kín, một chiến lược “bế quan tỏa cảng” để sống yên vị mà không muốn phải chạm trán với những thách đố của cuộc sống. Đó là những kiểu sống đã thành lề thói; những cách suy nghĩ đã bị cứng đọng; những quan niệm đã thành cổ hủ; những hiểu biết đã trở nên lỗi thời; những lối ứng xử đã trở thành tẻ nhạt; những việc làm đã trở nên vô hồn…

Ngoài ra, cơ chế an toàn còn được bao vây kiên cố bằng những thành lũy của sự ích kỷ, tham lam, độc đoán, quyền hành, danh vọng… khiến con người đóng kín trên chính mình, không chấp nhận điều gì khác ngoài việc sống theo theo xu hướng của bản năng. Đó là một cuộc sống bị thoái hóa, tự cắt xén chính mình.

Không còn mở ra với chính mình nữa, thì cũng không thể mở ra với Thiên Chúa và tha nhân, vì nghĩ rằng sẽ bất lợi và đòi hỏi mình phải hy sinh quá nhiều trong cuộc sống. Đôi khi chúng ta tưởng tượng quá nhiều và lo sợ quá đáng khi phải mở ra với chính mình. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy rằng, mỗi hy sinh, mỗi cố gắng vượt qua là một niềm vui sâu xa trong tâm hồn, giúp ta phấn khởi vươn lên cuộc sống mới trong Đức Kitô, Đấng luôn khuấy động để mời gọi ta bước ra khỏi khu vực an toàn của mình, và mở ngõ cho Ngài bước vào cuộc đời mình.

  1. Mở ra với Siêu việt

Cần nhìn ngắm gương Đức Giêsu để chúng ta khám phá ra những cách thức tạo ra cho mình một đời sống tâm linh quân bình. Thánh Marcô kể: “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó.” (Mc 1, 35).

Sau một ngày làm việc với bao nhiêu bận rộn và mệt mỏi, Chúa Giêsu đã thức dậy sớm đến một nơi kín đáo để cầu nguyện. Chúa Giêsu là người của những con đường, người của đám đông, nhưng đặc biệt là người của cầu nguyện. Đời sống của Ngài đong đưa giữa cầu nguyện và hoạt động. Cầu nguyện đưa Ngài đến với con người, và hoạt động lại đưa Ngài đến với Cha.

Thật ra, trọn đời sống Chúa Giêsu là Cầu Nguyện, nghĩa là luôn trong tâm thế kết hiệp liên lỉ với Chúa Cha. Chính vì thế mà Ngài luôn biết hướng người nghe đến Nước Trời là thực tại siêu việt, một thực tại vượt lên trên tất cả và ôm ấp tất cả. Dựa vào mô hình Đức Kitô mà giáo dục Kitô giáo không giới hạn con người trong khung cảnh tại thế, nhưng hướng con người đến cõi siêu việt, biết vượt lên những tầm thường để mang lại cho cuộc đời vô thường một ý nghĩa nhiệm mầu.

Hoạt động và cầu nguyện là hai nhịp thở ra và hít vào trong đời Kitô hữu. Không thể có một cuộc sống tâm linh quân bình mà không có sự tiếp xúc thân mật với Chúa hằng ngày. Riêng trong lãnh vực tông đồ, cầu nguyện là tuyệt đối cần thiết. Làm việc tông đồ là làm việc của Chúa. Làm việc của Chúa mà không kết hiệp mật thiết với Chúa thì có nguy cơ đi sai đường lạc lối, có thể làm hư hại kế hoạch của Chúa trên cuộc đời mình và tha nhân. Nhờ cầu nguyện mà ta biết sống khiêm nhường, luôn coi mình là dụng cụ trong bàn tay Thiên Chúa, để Ngài được tự do làm nên mọi sự trong cuộc đời ta theo dự định của Ngài.  

Không cầu nguyện ta sẽ dễ chú ý tới những hoạt động phô trương bề ngoài, dễ biến việc của Chúa thành việc của mình, nên dễ sinh ra tự phụ, kiêu hãnh. Không cầu nguyện là mắc phải một sai lầm điên rồ nhất, vì không kín múc được suối nguồn của tình yêu và ân sủng, là tài nguyên không bao giờ cạn kiệt trong ta.

Phải luôn cầu nguyện để thanh luyện lòng trí mình khỏi những đam mê và ham muốn, để biết đâu là ý Chúa, đâu là ý mình. Những giờ phút riêng tư thân mật bên Chúa giúp ta sáng suốt định hướng lại cuộc đời mình, nhìn lại tâm hồn mình, đổi mới bản thân mình, cũng là cách thức nạp thêm năng lượng để hoạt động tích cực và hữu hiệu hơn trên đường phục vụ tha nhân.

Cầu nguyện là ở lại trong Chúa (Ga 15, 4), nghỉ ngơi bên Chúa (Mt 11, 28), sống tình bạn thân với Chúa (Ga 15, 15). Một số người tưởng cầu nguyện là phải nói thật nhiều cho Chúa nghe, nhưng chủ yếu là để lắng nghe Chúa nói (x. Lc 10, 41-42). Chúa luôn có những niềm vui để ban tặng cho ta và những ước mơ về ta, nên ta cần dành khoảng lặng cho Ngài.

Khi được hỏi bí quyết nào khiến George Washigton Carver thành công trong thành tựu khoa học của mình với trên 300 sản phẩm hữu dụng, ông đã trả lời : “Tôi thức dậy lúc 4 giờ sáng, và trong sự yên tĩnh của buổi sớm mai, tôi lắng nghe tiếng Chúa và chương trình của Người xếp đặt cho tôi”. P. Doncocur cũng đã quả quyết:“Không vĩ nhân nào đã thành công mà không đắm mình trong tĩnh lặng để hồi tâm và cầu nguyện”.

  1. Mở ra với tha nhân

Mở ra với tha nhân là mở rộng tình yêu thương để dám đón nhận mọi sự khác biệt về suy nghĩ cũng như lối sống và tính cách riêng tư của mỗi người. Sự mở rộng này không dựa trên cảm tính hay quan điểm cá nhân nhưng dựa trên nền tảng là chính Thiên Chúa qua Đức Giêsu: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy… Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.”  (Ga 15,9.12).

Như vậy, tình yêu của Chúa Cha đổ tràn trên Đức Giêsu chính là nguồn gốc phát sinh tình yêu của Đức Giêsu với các môn đệ; và tình yêu của Chúa Giêsu với các môn đệ là nguồn gốc phát sinh tình yêu của các môn đệ với nhau. Nhờ được hòa nhập vào dòng suối yêu thương đó mà ta có khả năng sống với mọi người: “vui với người vui, khóc với người khóc”. Chính ý nghĩa “sống với” hướng dẫn toàn bộ đời sống đức tin của Kitô hữu, chứ không phải sống như thế nào, để rồi tự hào về sự hoàn hảo của mình. Tin chính là khai mở lộ trình “ra khỏi chính mình” và tìm thấy sự hoàn thành vận mạng của mình trong gặp gỡ, yêu thương.

Thế nhưng gặp gỡ tha nhân có thể làm cuộc đời thêm rắc rối, vì có những va chạm và nhiều thứ phức tạp khiến ta phải luôn cảnh giác. Trong một thế giới mà con người không ngừng tranh đấu và loại trừ, tìm kiếm và khai thác, sở hữu và chiếm đoạt, kẻ mạnh thắng người yếu thua, đầy những gian dối lọc lừa, vàng thao lẫn lộn… thì cuộc sống đầy những tai ác. Không lạ gì mà triết gia J.P. Sartre cho rằng: “Tha nhân là hỏa ngục”. Chính vì vậy mà xã hội ngày càng có khuynh hướng luật pháp hóa tất cả mọi hoạt động, kỹ thuật hóa mọi tương giao, máy móc hóa mọi nhu cầu…

Đứng trước cuộc sống nhiễu nhương như thế, không lạ gì từ xưa tới nay vẫn có có những lối sống thoát tục, né tránh, không muốn gặp gỡ, sợ bị vấy bùn, tìm kiếm an toàn và an nhàn cho bản thân. Quả thật, mở rộng với tha nhân là một thách đố lớn, vì phải vượt qua cơ chế phòng vệ và mở rộng khu vực an toàn để cho người khác thấy con người thật của mình, cả khi phải chấp nhận bị từ chối. Nhưng vì bản chất con người là yêu thương, nên ta không thể sống khác đi mà không khập khểnh, hụt hẫng, dang dở.

Điều quan trọng nhất trong mọi hoạt động phải là việc nối kết từ một trái tim đến một trái tim, nghĩa là tình yêu thương phải đi trước, mọi cái khác mới diễn tiến theo sau. Tình yêu sẽ khơi động toàn bộ tâm sinh lý của một con người, để rồi sau đó chuyển biến theo một hướng tích cực và làm nên một sức sống mới.

Đức Giêsu đã đưa ra những hình ảnh với ý nghĩa sâu xa để mời gọi ta hãy mở ra với tha nhân: là trở nên như muối để ướp mặn cho đời; là trở nên như men làm nồng thắm tình người; và cũng như Ngài, chúng ta phải trở thành tấm bánh bẻ ra cho thiên hạ.

V. QUÂN BÌNH TRONG SỰ HÒA HỢP

Đối với người Kitô hữu, tiếp nhận Thiên Chúa và tiếp nhận tha nhân cũng như nhau. Vì Thiên Chúa đã làm người qua mầu nhiệm Nhập Thể, đã thực hiện một sự hiệp thông nhân-thần, nên yêu Ngài là yêu trong chính Đức Giêsu Kitô, Đấng đã tự đồng hóa với những người hèn mọn (x. Mt 25, 44-46).

Mỗi người khốn cùng cũng là một “bí tích”, là nơi ta có thể gặp gỡ Chúa. Chính nơi mỗi người, dù với diện mạo bên ngoài tầm thường, Thiên Chúa vẫn luôn có thể tỏ lộ cho ta huyền nhiệm của Ngài. Ta nên tập nhìn mọi người anh em bằng con mắt đức tin, để cảm nhận sự hiện diện của Chúa đang sống động trong họ, và Ngài luôn có những điều muốn nói với ta trong mọi trường hợp.

Tiếng nói của Chúa trong ta không phải là tiếng nói duy nhất của Ngài. Vì thế, cần mở lòng ra để đón nhận những tư duy mới, các khả năng mới như một cách thức của Lời Chúa. Khép kín với bất cứ một cái gì, hay bất cứ ai, là khép kín khả năng có thể tái sinh chính mình. Tình yêu thực sự với Thiên Chúa đưa ta vào cuộc sống với anh em. Tình yêu thương anh em đòi ta chìm sâu trong Thiên Chúa, để múc lấy nơi Ngài nguồn sinh lực hầu tiếp tục hiến trao đến vô hạn. Ta sẽ không bị xét xử dựa vào điều gì khác ngoài tình yêu. Tội lớn nhất phải chăng là tội thiếu sót? nghĩa là không làm điều đáng lẽ phải làm cho người anh em (x. 1Ga 4, 19).

Như vậy, khi từ chối tha nhân cũng là từ chối Thiên Chúa. Nếu ta thật sự gặp gỡ Thiên Chúa trong tâm hồn mình, thì cũng gặp Ngài nơi tha nhân. Thiên Chúa và tha nhân hòa hợp làm một trong cõi lòng ta. Ta yêu tha nhân trong Chúa, và yêu Chúa nơi tha nhân. Nhờ vậy, ta nhận ra những anh em nghèo hèn bé mọn là chính hình ảnh Đức Kitô đang lê bước trong cuộc đời. Trong Chúa, ta nhận ra phẩm giá đích thực của một người, dù đó là một thai nhi, một phạm nhân hay người mất trí.

Không thể rút lui khỏi cuộc đời để đi tìm Chúa. Cần nghe tiếng Chúa nơi tiếng người khác, thấy mặt Chúa nơi anh chị em, biết ý Chúa qua ý muốn người bên cạnh, phục vụ Chúa bằng việc phục vụ tha nhân. Sự quân bình tâm linh không phải chỉ hướng vào bên trong nhưng đồng thời là sự mở rộng ra bên ngoài trước những tình cảnh của tha nhân. Và như Đức Kitô, chúng ta còn phải dám chia sẻ bằng chính sự sống của mình (x. Ga 15, 13).

Tóm lại, trong Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa và tha nhân đã hòa quyện làm một trong tương quan tình yêu, nên phải yêu mến Thiên Chúa hết tình và yêu thương tha nhân như chính mình. Tình yêu đích thực biến tha nhân thành “một nửa của hồn tôi”: “dimidium animao meao” (Horace), hội nhập con người của tha nhân và con người của tôi, đến độ cả hai hữu thể chúng tôi chỉ còn là một đối tượng của tình yêu duy nhất và một tâm hồn duy nhất (x. Cv 4, 32). Tình yêu ấy làm cho chúng ta nên giống Đức Kitô, và đạt tới chính Ngài là tình yêu sung mãn (x. Ga 1, 16).

Như vậy, quân bình tâm linh theo Kitô giáo cuối cùng không phải là sự vững vàng của một tâm thế cao vượt, để làm nên những việc phi thường, mà trên hết là sự thông hiệp giữa mình với Chúa và tha nhân, trong sự hòa hợp với thiên nhiên vạn vật, làm thành sự sống linh thiêng để hướng đến vô biên là chính Thiên Chúa, Đấng là cùng đích viên mãn của con người và toàn thể thụ tạo.        

[1] Hôsê và Edêkien đã đặc biệt diễn tả đam mê của Thiên Chúa đối với dân Người bằng những hình ảnh tình ái táo bạo là bằng hôn ước và hôn nhân.

[2] Xc. Văn kiện Hiệp thông nhân vị và quản lý tạo vật, số 4, Uỷ Ban Thần Học Quốc Tế, 2002.