Suy Niệm Lời Chúa Tuần V Phục Sinh

print

Suy Niệm Lời Chúa Tuần V Phục Sinh

Lm Seoka

CHÚA NHẬT V PHỤC SINH A..

Thứ hai: Cv 14, 5-18; Ga 14, 21-26.

Thứ ba: Cv 14, 19-28; Ga 14, 27-31a.

Thứ tư: Cv 15, 1-6; Ga 15,1-8.

Thứ năm: Cv 15, 7-21; Ga 15, 9-11.

14/05 : Kính Thánh Mátthia, Tông Đồ:

Thứ sáu: Cv 15, 22-31; Ga 15, 12-17.

Thứ bảy: Cv 16, 1-10; Ga 15,18-21.

CHÚA NHẬT V PHỤC SINH A

Cv 6, 1-7; 1Pr 2,4-9; Ga 14, 1-12

Ngày xưa chưa có đường, nhưng do đi lại nhiều nên trở thành đường mà thôi. Muốn đi và đạt đến đỉnh vinh quang cần phải có con đường. Con đường ấy chính là Đức Giêsu Kitô, Ngài đi từ trời xuống và từ đất lên, mở ra con đường đưa dẫn chúng ta về trời sum họp cùng với Ngài trong nhà Cha.

Xin cho chúng ta biết đi trên con đường do chính Chúa Giêsu đã đi và mở ra, nhờ đó chúng ta mới có thể vào được nhà Cha trên trời.

Sau một thời gian rời bỏ Việt Nam để tìm cho mình cuộc sống tự do nơi đất khách quê người. Đến nay hầu hết những người này đều có cuộc sống ổn định và sung túc. Trong khi đó, những người thân của họ ở lại thì phải sống trong hoàn cảnh khó khăn, vất vã.

Với chính sách đoàn tụ gia đình, trong những năm gần đây, nhiều Việt Kiều đã về nước để bảo lãnh những người thân của mình sang vùng đất mới để sum họp gia đình, với mong muốn những người thân của họ cũng hưởng được cuộc sống tiện nghi. thoải mái và tự do.

Tuy nhiên để được đoàn tụ với người thân bên nước ngoài, công dân Việt Nam buộc phải thoả mãn số điều kiện bắt buộc do chính phủ của các nước liên quan quy định.

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho các môn đệ biết, Ngài cũng sẽ ra đi để dọn chỗ cho các ông, rồi một ngày nào đó, Chúa sẽ trở lại, đem các ông lên ở với Người, trong nhà Cha trên trời, để các ông cũng được thừa hưởng vinh phúc đời đời.

Tuy nhiên để được đoàn tụ với Chúa Giêsu trên quê hương nước trời, Chúa Giêsu cũng đòi buộc các môn đệ và chúng ta phải thỏa mãn một số điều kiện do Chúa đề ra sau đây:

  1. Phải đi đúng con đường mà Chúa Giêsu đã đi.
  2. Phải tuân giữ những giá trị chân lý do Chúa truyền dạy.
  3. Phải hiệp thông trong sự sống của Chúa.

– Con đường mà Chúa Giêsu đi là con đường hẹp, con đường thập giá. Đó là chấp nhận hy sinh, gian khổ để thi hành những giới răn do Chúa chỉ dạy. Đó là khiêm tốn, hạ mình, hy sinh phục vụ tha nhân bằng tình yêu mến chân thành.

– Cố gắng sống theo chân lý do Chúa chỉ dạy. Chân lý ấy là sống yêu thương. Yêu không chỉ những người thân cận, không phải những kẻ yêu mình mà tình yêu phải quy chiếu vào tình yêu của Chúa Giêsu, đó là : “Yêu như Chúa yêu”. Tình yêu ấy phải dành cho hết mọi người, ở khắp mọi nơi, ngay cả kẻ thù.

– Cố gắng sống hiệp thông với Chúa bằng cách lắng nghe và thi hành lời dạy của Người; nhất là luôn gắn bó với Chúa bằng đời sống cầu nguyện, năng đón nhận Mình Thánh Chúa vào trong tâm hồn cách xứng hợp… Được vậy, sự sống và sức mạnh của Chúa mới thấm nhập và tuôn chảy trong tâm hồn ta. Ví như nhựa cây cần thiết cho sự sống cây nho và cành nho thế nào, thì linh hồn chúng ta cũng cần đến Lời Chúa và Mình Thánh Chúa, nguồn sức sống thần linh như vậy.

 Mục đích sống đạo của ta là gì, nếu không phải là hạnh phúc thiêng đàng? Nhưng để đạt được mục đích tối hậu ấy, buộc chúng ta phải đi theo con đường mà Chúa Giêsu đã đi, sống theo chân lý mà Chúa Giêsu đã sống và thực thi giới luật mà Người chỉ dạy.

Xin cho chúng ta biết kín múc sức sống của Chúa qua việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa; nhất là luôn siêng năng kết hiệp với Chúa nơi bàn tiệc Thánh Thể với tất cả lòng tin yêu.

 

Thứ hai: Cv 14, 5-18; Ga 14, 21-26.

Suy niệm 1:

Tuần này, phụng vụ lời Chúa bài đọc 1 tiếp tục mời gọi chúng ta đồng hành với Phaolô và Barnaba trên những nẻo đường truyền giáo cho dân ngoại lần thứ nhất. Đoạn sách Cvtđ hôm nay nói đến những vui buồn, sướng khổ khi thi hành sứ mạng truyền giáo.

–  Vui vì được nhiều người dân ngoại đón nhận Tin mừng của Chúa.

– Sướng vì những khả năng làm phép lạ do Chúa ban để củng cố niềm tin cho tín hữu và góp phần thuận lợi cho việc loan báo Tin mừng.

Nhưng bên cạnh đó cũng gặp rất nhiều đau khổ.

– Buồn vì bị hiểu lầm bởi dân ngoại, bị ghi kỵ, làm nhục và chống đối liên tục của những người gốc Do Thái.

– Khổ vì ném đá, bị bắt và bị đánh đập đến nữa sống nữa chết và bị trục xuất ra khỏi thành của họ.

Nhưng cho dù sướng hay khổ, vui hay buồn, thành công hay thất bại vẫn không thể nào làm sờn lòng nản chí tông đồ Phaolô và Barnaba. Bởi hai ông luôn ý thức được truyền giáo chính là lệnh truyền tâm quyết của Chúa Giêsu phục sinh trao ban cho các ngài trước khi về trời: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dânlàm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần” (Mt 28,19). 

Loan báo Tin mừng còn mang một giá trị cao quý khác gắn liền với đời sống của Phaolô, nên nếu không thi hành sứ vụ ấy ngài sẽ cảm thấy đau khổ: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng.”(1 Cr 9,16).

Làm chứng nhân cho Chúa là một vinh dự cao quý do Chúa Phục Sinh trao ban, nhưng đây lại là nhiệm vụ đầy dẩy cam go thử thách. Để thi hành nhiệm vụ này, Phaolô và Barnaba đã phải hy sinh bằng mồ hôi, nước mắt và sức lực, ngay cả phải hy mạng sống mình. Nhiệm vụ này không chỉ khó khăn đối với các tông đồ vào thời GH ban đầu, mà ngay cả ngày nay nhiệm vụ ấy lại càng trở nên khó khăn hơn đối với GH, bởi cuộc sống con người hôm nay có quá nhiều rào cản… Vì thế mà đòi hỏi con cái GH phải nổ lực và hy sinh rất nhiều.

Xin cho chúng ta biết noi gương hai thánh tông đồ Phaolô và Barnaba mà góp phần tích cực vào công cuộc truyền giáo của GH, cho dù gặp phải những chống đối, ghi kỵ, loại trừ của thế gian, vì tin rằng Chúa luôn ở bên ta để nâng đỡ, bảo vệ, dự liệu và ban ân sủng cho ta trong khi thi hành nhiệm vụ cao cả này. Như Lời Chúa phán với Phaolô:“Ơn Ta đủ cho ngươi, vì sức mạnh của Ta được tỏ bày trong sự yếu đuối” (2Cr 12,9).

 

Đọc thêm:

Để dễ nắm bắt đoạn sách Cvtđ này, ta có thể chia làm 3 phần:

  1. Sự việc xảy ra tại Icôniô.

Sau khi giũ bụi chân nhằm phản đối cách hành xử của những người gốc Do Thái tại Antiokhia miền Pixiđia. Phaolô và Barnaba đến Icôniô. Dù  đoạn tuyệt với người Do Thái, nhưng hai ông vẫn gắn bó với hội đường. Tại đây hai ông tiếp tục giảng dạy. Tương tự như những lần trước, tại đây bên cạnh thành công vì có rất đông người Do Thái và Hy Lạp tin theo nhưng cũng có người không đón nhận, nên họ mưu toan làm nhục và ném đá hai ông. Biết thế hai ông lánh sang các thành miền Lycaonia: Lytra, Đécbê, và vùng phụ cận.

  1. Phép lạ tại Lýtra.

Tại đây hai ông tiếp tục rao giảng và làm phép lạ chữa cho một người bại hai chân từ lọt lòng mẹ được khỏi. Anh ta đứng dậy và đi được.

Lời tung hô dân chúng sau phép lạ: sau khi chứng kiến phép lạ đã tung hô hai ông như thần linh mặc lốt người phàm. Họ gọi ông Barnaba là thần Dớt (Zeus), ông Phaolô là thần Hécme (Hermes), vì ông là người phát ngôn. Họ đã đem bò và vòng hoa đến trước cổng thành, và cùng với đám đông, muốn dâng lễ tế.

(Zeus và Hermes là hai thần của người Hy-lạp. Zeus được xem như vua của các thần Hy-lạp, và quan thầy của những người làm nghề trồng cấy. Có lẽ vì lý do này mà Phaolô muốn nói với dân thành: không phải Zeus ban mưa từ trời và mùa màng; nhưng là chính Thiên Chúa ban. Hermes là con của Zeus với Maia; được xem là quan thầy của những người lữ hành, tội nhân, và gái điếm. Hermes là sứ giả và đem những sứ điệp của các thần cho con người.)

  1. Phản ứng của Phaolô và Barnaba.

– Barnaba và Phaolô xé áo mình ra: Tỏ thái độ tức giận vì họ đã đặt mình ngang hàng với TC và buồn phiền vì cảm thấy bản thân xúc phạm đến Thiên Chúa.

– Sau đó hai ông giải thích cho họ hiểu rằng: “Chúng tôi đây cũng chỉ là người phàm, cùng thân phận với các bạn”. Rồi kêu gọi họ: “hãy bỏ những cái hão huyền này đi, mà trở lại cùng Thiên Chúa hằng sống, Đấng đã tạo thành trời đất với biển khơi cùng muôn loài trong đó”.

 

Suy niệm 2:

Có yêu nhau thì mới sẵn sàng lắng nghe và làm theo điều người yêu mình mong muốn. Đứa con có yêu cha mẹ thì mới trân trọng lắng nghe lời cha mẹ khuyên dạy và vui mừng thực hiện điều cha mẹ chỉ bảo. Cũng vậy chúng ta có yêu mến Chúa thì mới nghe lời và sẵn lòng làm theo lời Chúa.

Không phải bất cứ ai lãnh nhận bí tích rửa tội thì hẳn nhiên trở nên con cái đích thực của Thiên Chúa. Nhưng để nên con cái đích thực của Chúa, trước hết chúng ta phải có lòng yêu mến Chúa, bằng cách đặt Chúa vào vị trí cao nhất trong cuộc đời của ta. Ưu tiên chọn Chúa làm giá trị hàng đầu trong cuộc sống mình.

Thứ đến, yêu mến Chúa thì phải gắn bó với Chúa mật thiết. Định luật tình yêu dạy ta hiểu rằng: Yêu ai thì “ở gần” người đó, yêu ai thì muốn “ở bên” người đó và yêu ai thì muốn “ở với” và “ở trong” người mình yêu để trở nên một với người ấy.

Cuối cùng dấu hiệu người có lòng yêu mến Chúa đích thực đó là luôn tuân giữ lời Chúa. Thước đo của lòng yêu mến nơi chúng ta nhiều hay ít hệ tại ở việc chúng ta có tuân giữ lời Chúa nhiều hay ít. Nếu chúng ta nói chúng ta yêu mến Thiên Chúa mà chúng ta không thực hành lời Chúa dạy, thì có khác gì đứa con “gọi dạ bảo vâng”, nhưng chỉ vâng vâng, dạ dạ mà không làm theo lời cha mẹ chỉ dạy, thì tình yêu đó chỉ là thứ tình yêu giả hình, thứ tình yêu đầu môi trót lưỡi. Tình yêu đó chỉ là nhãn hiệu, là cái mác mà thôi. Vì thế, Chúa Giêsu luôn nhấn mạnh đến lợi ích và giá trị của việc nghe và làm theo lời Chúa: “Nghe và thực hành lời Chúa giống như người khôn xây nhà trên nền đá”; “hãy làm theo lời Chúa chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình”. Lý thuyết và thực hành phải đi đôi mới giá trị và có ích lợi, bởi vì nếu “đức tin không việc làm là đức tin chết” (Gc 2, 17).

Xin Chúa cho chúng ta luôn hết lòng tuân giữ và thực hành lời Chúa bằng tình yêu mến. Biết đặt Chúa vào vị trí quan trọng trong cuộc sống và sẵn sàng chọn Chúa làm gia nghiệp đời ta. Làm được như thế chứng tỏ là chúng ta yêu mến Chúa và xứng danh là con cái đích thực của Chúa.

 

Thứ ba: Cv 14, 19-28; Ga 14, 27-31a.

Suy niệm 1:

Nhìn lại trong suốt cuộc hành trình truyền giáo lần thứ nhất của Phaolô và Barnaba, chúng ta nhận thấy những điểm đáng chú ý sau:

– Lòng nhiệt tâm truyền giáo của Phaolô và Barnaba: Hai ông miệt mài rao giảng Tin mừng cho dân ngoại dù gặp phải biết bao nhiêu là khó khăn: Phải vượt qua đường sá xa xôi, cách trở; kiên trì chịu đựng bao là nguy hiểm: chống đối, bắt bớ, ghen tị, tù đày, ném đá …; luôn thao thức ra đi tìm đến những vùng đất mới để gieo vãi hạt giống đức tin,.

– Đến đâu rao giảng các ông cũng đều bị những người Do Thái kéo đến để chống phá. Đoạn sách Cvtđ hôm nay là một ví dụ: “Bấy giờ có những người Do-thái từ Antioch và Iconium đến Lystra, thuyết phục được đám đông. Họ ném đá ông Phaolô rồi lôi ông ra ngoài thành, vì tưởng ông đã chết. Nhưng khi các môn đệ xúm lại quanh ông, ông đứng dậy và vào thành. Hôm sau, ông trẩy đi Đécbê cùng với ông Barnaba”. Tại đây các ông tiếp tục rao giảng và giúp nhiều người tin vào Chúa Giêsu.

– Điều đáng nói là cứ sau một chuyến truyền giáo khi trở về Giêrusalem, Phaolô và Barnaba đều ghé lại thăm viếng một số nơi mà các ông đã đi qua. Với mục đích là khích lệ và củng cố đức tin cho họ; tổ chức lại cộng đoàn và chỉ định các kỳ mục thay mặt các ông coi sóc và chăn dắt cộng đoàn; sau đó các ông cầu nguyện và phó dâng các cộng đoàn cho Thiên Chúa.

– Khi điểm lại hành trình truyền giáo lần thứ nhất này ta nhận thấy hai ông đã đi qua tất cả 8 thành. (Bắt đầu từ Antiôkhia của Syria đến Xalamin và Paphô của đảo Sýp, đến Pécghê, Antiôkhia của Pixiđia, đến Icôniô, Lýtra, Đécbê, và theo đường cũ trở lại Pécghê, rồi từ Pécghê đến Áttalia, trở về Pécghê và dùng thuyền trở về Antiôkhia của Xyria). Đây là cuộc hành trình ngắn nhất trong 3 cuộc hành trình của Phaolô rao giảng Tin mừng cho dân Ngoại. Khi trở về Antiôkhia, hai ông tập họp Hội Thánh và kể lại tất cả những gì Thiên Chúa đã cùng làm với hai ông, và việc Người đã mở cửa cho các dân ngoại đón nhận đức tin. Rồi hai ông ở lại một thời gian khá lâu với các môn đệ trước khi bắt đầu cuộc hành trình thứ hai.

Tạ ơn Chúa đã ban cho GH những nhà truyền giáo nhiệt tình, đã sẵn sàng chịu mọi gian lao thử thách, ngay cả tính mạng, để gieo vãi hạt giống đức tin khắp mọi nơi. Nhờ ơn Chúa mà hạt giống quý giá ấy được gieo vào lòng đất Việt Nam. Cha ông chúng ta đã tiếp nhận, củng cố và nuôi dưỡng bằng máu nhờ thế mà hạt giống đức tin được sinh hoa trái dồi dào. Xin cho chúng ta biết trân trọng bảo vệ, nuôi dưỡng và gieo vãi hạt giống đức tin ấy khắp nơi và vào mọi tâm hồn, ngỏ hầu mọi người đón nhận được niềm vui Tin mừng cứu độ của Chúa.

 

Suy niệm 2:

Thiên tai, dịch bệnh, nghèo đói, đam mê tội lỗi, hận thù ghen ghét… tất cả những mối hiểm họa ấy như dâng tràn trong thế giới ngày nay, khiến cho lòng người đầy sóng gió và bất an. Xin Chúa thương ban bình an của Chúa cho chúng con, sự bình an đích thực trong tâm hồn như lời Chúa đã hứa.

Chưa bao giờ con người lại phải đối diện trước những lo âu, bối rối, sợ hãi và bất an như ngày hôm nay. Chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh… xảy ra hàng ngày trên khắp cùng trái đất. Thất nghiệp, vật giá leo thang, trộm cắp… gia tăng đến mức báo động.  Ly dị, phá thai, bất trung, tệ nạn xã hội …không ngừng gia tăng. Vì thế hơn lúc nào hết, con người ngày hôm nay luôn khao khát có được cuộc sống bình an đích thực.

Để chốn chạy nỗi lo sợ, buồn phiền, bất an, con người thường chỉ biết dựa vào của cải vật chất để trấn an tâm hồn đấy bất an. Chẳng hạn như:  Mua bảo hiểm xe cộ, nhà cửa, nhân mạng, y tế…Hằng đêm mơ mộng để đánh con số đề, mua tấm vé kiến thiết hy vọng bớt đi những lo âu về tiến bạc. Kẻ thì lao mình vào rượu chè và những thú vui khác để tìm những phút giây thoải mái quên đi chuyện đời. Người thì uống thuốc an thần để đi tìm giấc ngủ hy vọng quên đi những muộn phiền. Kẻ dễ tin thì đi tìm thầy bói, thầy tướng, thầy số… để kiếm tìm hậu vận cho tương lai. Người giàu có thì gởi tiền và vàng vào ngân hàng để được an tâm… Nhưng tất cả những việc làm ấy chỉ là giải pháp tạm thời, thiếu căn cơ và không bền vững nên không thể đem lại nguồn bình an đích thực cho tâm hồn. Vì thế, Chúa Giêsu nói với các tông đồ: “sự bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng” (Ga 14, 27).

Bình an của Ngài không phải là thứ bình an bên ngoài, giả tạo. Nhưng là bình an bên trong, nghĩa là không giống như sự yên ổn hay hòa bình, vì yên ổn hay hòa bình là ở bên ngoài còn bình an thì ở bên trong.

Bình an là tình trạng tâm hồn đang tương quan tốt với Thiên Chúa và tha nhân. Bình an của Chúa là bình an khi có Chúa làm chủ đời sống mình, luôn tin tưởng, phó thác và vâng theo ý Chúa trong mọi cảnh huống của cuộc đời. Bình an của Chúa là có một tâm hồn trong sạch, được giao hòa với Chúa và anh em. Bình an của Chúa ban tặng còn được hiểu là bình an với anh em mình. Sống hoà thuận với nhau, không thấy mình có điều gì làm phiền lòng anh em và thấy anh em không có điều gì làm phiền lòng mình.

Chỉ có bình an của Chúa mới làm cho chúng ta được hạnh phúc. Bởi vì bình an là thông hiệp với Thiên Chúa. Chúa Giêsu nhờ thông hiệp mật thiết với Thiên Chúa Cha nên Ngài luôn thấy bình an ngay khi kẻ thù đang đến gần và sắp giết chết Ngài.

Thế giới ngày hôm nay như đang sống trên một lò lửa. chíến tranh, khủng bố, thiên tai, động đất, khủng hoảng kinh tế, ô nhiễm môi trường…, thế gian chưa có bình an nên bình an của Chúa Giêsu ban tặng vẫn còn nguyên giá trị cho nhân loại, cho những tâm hồn đang khắc khoải tìm kiếm bình an trong cuộc sống. Mỗi người phải có bình an của Chúa mới có thể sống an bình với mọi người. Muốn có bình an ở bình diện lớn thì phải bắt đầu từ những bình diện nhỏ, là nơi mỗi người chúng ta. Không ai cho cái mình không có. Sự bình an bắt đầu từ lòng mình rồi mới lan tỏa ra xã tắc nhân quần, như cổ nhân nói: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.

 

Thứ tư: Cv 15, 1-6; Ga 15,1-8.

Suy niệm 1:

Công cuộc truyền giáo cho dân ngoại của Phaolô và Barnaba luôn vấp phải phải những khó khăn và sự chống đối.

– Khó khăn trong chọn lựa: cần phải giữ những gì và nên bỏ những gì khi người dân gốc Do Thái và dân ngoại gia nhập Kitô giáo? Cụ thể là 2 vấn đề chính: Dân ngoại có phải cắt bì và giữ Lề Luật như người gốc Do Thái khi tin theo Kitô Giáo không? Nếu buộc dân ngoại tuân giữ thì lại ảnh hưởng đến truyền thống văn hóa của họ. Còn nếu chuẩn miễn thì gặp phải sự chống đối của người gốc Do Thái.

– Chống đối bởi người Do Thái: Đọan sách Cvtđ hôm nay nói đến sự chống đối quyết liệt của người Do Thái nhằm bảo vệ quan điểm mình. Họ từ Giuđa đã đến tận Antiôkhia để tỏ thái độ chống đối Phaolô và Barnaba bằng cách buộc những tín hữu gốc dân ngoại phải cắt bì: “Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Mô-sê, thì anh em không thể được cứu độ”. Chính vì  lý do này đã khiến cho Phaolô và Barnaba phản ứng lại mạnh mẽ với họ. Cuối cùng, Phaolô và Barnaba cùng với một vài người khác phải về Giêrusalem gặp các Tông đồ và các kỳ mục, để bàn về vấn đề đang tranh luận này.

Điều này làm cho chúng ta nghĩ đến việc truyển giáo tại quê hương Việt Nam lúc đầu cũng gặp nhiều khó khăn, nhất là trong việc thờ cúng tổ tiên. Nhưng tạ ơn Chúa vì Giáo Hội chúng ta đã nhận ra và đã hội nhập dễ dàng nên công cuộc truyền giáo tại Việt Nam đã lan tỏa nhanh chóng.

Là người Việt Nam, xin cho chúng ta biết trân quý những giá trị truyền thống, văn hóa tốt đẹp của cha ông để lại. Tuy nhiên, nếu có sự khác biệt không thể dung hòa giữa truyền thống dân tộc và đức tin, chúng ta cần tìm đến ánh sáng Lời Chúa soi dẫn, nhất là đến những nhà hữu trách để được hướng dẫn để chúng ta có cách ứng xử theo đúng ý muốn của Chúa và GH.

 

Suy niệm 2:

Chúa Giêsu dùng hình ảnh quen thuộc là cây nho, để nói lên sự gắn kết sâu xa giữa Ngài với Chúng ta. Vì tình yêu Chúa Giêsu ở lại với chúng ta và mong muốn chúng ta ở lại trong Ngài để tiếp nhận sự sống dồi dào Ngài thông truyền cho chúng ta. Nhờ thế chúng ta mới có thể trổ sinh nhiều hoa trái tốt lành dâng hiến cho Chúa và dành tặng cho nhau.

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu sánh ví Ngài như là cây nho được Chúa Cha trồng xuống thế gian. Chúng ta được ví như là những cành kết hiệp trong cùng một cây nho là Chúa Giêsu.

Mục đích của người trồng nho là để thu hoạch hoa trái. Nên các cành của cây nho phải sinh nhiều hoa trái thì mới làm vui lòng ông chủ.

Khi sánh ví chúng ta là cành nho thì đồng thời Chúa Giêsu cũng mời gọi  chúng ta sinh nhiều hoa trái là các việc lành phúc đức, để Thiên Chúa được vinh hiển nơi chúng ta. Nhưng để cành nho sinh nhiều hoa trái, cần phải có hai điều kiện:

Thứ nhất gắn liền với thân nho. Cành nào càng gắn kết với với thân nho thì càng tươi tốt và sinh nhiều hoa trái. Cũng vậy để có đời sống sung mãn và sinh  nhiều hoa trái thiêng liêng tốt lành, chúng ta phải liên kết chặt chẻ với Chúa Giêsu bằng đời sống cầu nguyện và năng lãnh nhận các bí tích nhất là bí tích Thánh Thể.

Thứ hai phải được chăm sóc và chịu cắt tỉa. Niềm vui của người trồng nho là làm sao cho vườn nho sinh thật nhiều hoa trái tốt lành. Vì thế chủ vườn nho đã không ngừng chăm sóc và cắt tỉa những cành nho chu đáo. Cũng vậy, để  sinh thật nhiều hoa trái tốt lành, Thiên Chúa không ngừng chăm sóc chúng ta bằng Giáo huấn và các bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể,  đồng thời Chúa cũng hằng cắt tỉa chúng ta bằng cách cho phép sự dữ, thử thách, thất bại và đau khổ… xảy ra trong cuộc sống. Việc làm đó là cần thiết để ta được dạn dày nhờ những trãi nghiệm không ngừng, hầu mỗi ngày ta nên thanh sạch và mạnh mẻ hơn.

Xin cho chúng ta biết sống gắn bó mật thiết với Chúa và với nhau, luôn tin tưởng phó thác vào ơn ban của Chúa; nhất là can đảm để Chúa cắt tỉa đời mình mỗi ngày. Nhờ thế, cuộc sống ta mới có thể sinh được nhiều hoa trái tốt lành mà phụng sự Chúa và phục vụ ích lợi cho nhiều người. Amen.

 

Thứ năm: Cv 15, 7-21; Ga 15, 9-11.

Suy niệm 1:

Bài đọc 1, sách công vụ tông đồ hôm nay đề cập đến cuộc xung đột xảy ra giữa Phaolô và Barnaba với những tín hữu gốc Do Thái, và hướng giải quyết của Hội Thánh.

  1. Xung đột xảy xa.

Như chúng ta biết hành trình truyền giáo lần thứ nhất của Phaolô và Barnaba gặp phải một khó khăn lớn, phát xuất từ hai phía:

– Từ phía dân ngoại: Họ cũng có những văn hóa truyền thống tốt đẹp của cha ông họ cần phải tôn trọng.

– Từ phía tín hữu gốc Do Thái giáo: Họ cũng muốn gìn giữ bảo vệ những tập tục và luật lệ truyền thống của cha ông họ như: cắt bì, ăn thịt cúng, và luật Môsê.

Để hội nhập vào nền văn hóa của dân ngoại, Phaolô và Barnaba đã chuẩn miễn cho những người tin theo Chúa gốc ngoại giáo không phải cắt bì và giữ luật Môsê. Nhưng việc này đã gây ra sự chống đối mạnh mẽ đối với tín hữu gốc Do Thái. Họ đã đến giáo đoàn Antiôkhia tuyên truyền rằng: (1) Phaolô và Barnaba không phải là người hợp pháp do các tông đồ từ cộng đoàn mẹ Giêrusalem gửi đến và kêu gọi mọi người đừng nghe theo. (2) Để được cứu độ không chỉ tin vào Chúa Giêsu mà còn phải cắt bì và giữ luật Môsê nữa. Chính vì thế mà đã xảy ra xung đột nảy lửa giữa Phaolô, Barnaba với những người tín hữu gốc Do Thái.

  1. Cách giải quyết xung đột.

Các tông đồ triệu tập họp công đồng chung tại Giêrusalem, để lắng nghe tiếng nói mọi người, nhằm đưa ra những quyết định thực hành.

– Lắng nghe:

 Lời phát biểu của Phêrô là tông đồ trưởng: ông nhắc lại kinh nghiệm mà ông có được khi là người đầu tiên được TC mời gọi đem Tin Mừng cho dân ngoại, cụ thể là gia đình ông Cornêliô. Rồi khuyên mọi người đừng “quàng vào cổ các môn đệ một cái ách”. Với lời khẳng định nhờ tin vào Chúa Giêsu mà được cứu độ chứ không phải chỉ giữ lề luật: “chính nhờ ân sủng Chúa Giêsu mà chúng ta tin mình được cứu độ”.

Lời phát biểu của Phaolô và Barnaba: Hai ông chỉ kể lại những biến cố mà hai ông trãi qua trong quá trình truyền giáo. Cho thấy chính Thiên Chúa đã dùng hai ông để rao giảng, làm dấu lạ cho dân ngoại và họ đón nhận ra sao. Tất cả như để xác tín và củng cố cho lập trường của Phêrô.

– Hướng giải quyết.

Tông đồ Giacôbê, Giám mục Giêrusalem đã dung hòa bằng phán quyết: Không được gây phiền hà cho các tín hữu gốc dân ngoại, nghĩa là không đòi buộc họ cắt bì và giữ luật Môsê. Khuyên họ giữ một ít tập tục: kiêng thức ăn ô uế, tránh gian dâm, kiên găn tiết hay loài vật không cắt tiết (vật chết ngạt).

Lời đề nghị này đã làm hài lòng các tín hữu gốc dân ngoại cũng như gốc Do Thái.

Đời sống đạo của chúng ta có lúc cũng gặp phải những khó khăn,  ước gì chúng ta cũng biết tìm đến các vị hữu trách để xin sự hướng dẫn của các ngài. Cũng vậy nếu trong đời sống gia đình hay cộng đoàn chẳng may xảy ra xung đột, ước gì chúng ta cũng biết bình tỉnh ngồi lại để lắng nghe và thông cảm cho nhau. Nhất là biết dựa trên giới luật tình yêu của Chúa và giáo huấn của GH mà tìm đến lợi ích chung trong đời sống.

 

Suy niệm 2:

Người đời thường nói: “Yêu là khổ, không yêu thì lỗ, thà chịu khổ chứ không chịu lỗ”. Nhưng cái khổ lớn nhất không phải là yêu mà là bị người mình yêu từ chối tình yêu. Đúng vậy, yêu mà bị phản bội thì đau tê tái lòng. Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta đến nỗi đã thí mạng mình vì chúng ta và mong muốn chúng ta đáp lại tình yêu của Ngài. Nhưng nhân loại hình như đã hững hừ trước tình yêu của Chúa. Vì thế Ngài tha thiết kêu mời chúng ta: “Anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”, bằng cách tuân giữ giới răn của Ngài. Khi ấy ta cảm nhận được niềm vui trọn vẹn.

Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu tha thiết mời gọi: “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy”. Chúa Giêsu là tình yêu hữu hình của Chúa Cha dành cho chúng ta những người con yêu dấu của Chúa.

Vì tình yêu, Chúa Giêsu chấp nhận sinh ra mang thân phận con người để ở giữa loài người chúng ta.

Vì tình yêu, Chúa Giêsu đã chấp nhận chịu đói, chịu khát… và bôn ba đi khắp các nẻo đường đất nước Do Thái để rao giảng Tin mừng, làm phép lạ cứu chữa những ai đau khổ.

Cũng chính vì yêu, Chúa Giêsu đã chấp nhận đi vào con đường thập giá chịu đau khổ và sẵn sàng đón nhận cái chết đau thương trên thập giá vì tội lỗi chúng ta. Rồi Chúa đã phục sinh vinh hiển mang lại niềm vui và hy vọng lớn lao cho tất cả chúng ta. Nhưng vì muốn ở lại mãi với nhân loại, Chúa Giêsu đã ban lời giáo huấn và giới luật yêu thương. Đặc biệt với sáng kiến tuyệt diệu, Người đã thiết lập các bí tích nhất là bí tích Thánh Thể, để qua đó ở lại mãi với chúng ta.

Tình yêu Chúa thật quá cao vời. Sẵn sàng chấp nhận mọi gian lao đau khổ, ngay cả hy sinh tính mạng Mình để được “ở lại” với chúng ta. Vì thế, Chúa cũng mong mỏi chúng ta đáp lại tình yêu của Ngài, nên tha thiết mời gọi tất cả chúng ta: “Hãy ở lại trong tình thương của Ngài”.

Ở lại trong tình thương của Chúa, được thể hiện qua việc tuân giữ giới răn của Ngài. Bởi lẽ  thánh Phaolô trong gửi tín hữu Rôma đã nói: “Không sống theo luật, luật mới do Thánh Linh là sống phản với Thánh Linh, mà Thánh Linh chính là tình yêu Thiên Chúa”. Thánh Gioan cũng nói: “Ai giữ luật Chúa thì ở lại trong Ngài và Ngài ở lại trong kẻ ấy”. Không ai có thể nói tôi yêu mến Chúa mà không thực hiện lời Ngài.

Kinh nghiệm cho thấy, khi tôi yêu mến ai thì bất cứ việc to, việc nhỏ, việc nặng, việc nhẹ người ấy nhờ tôi, tôi sẵn sàng làm, có khi người ấy không nhờ tôi cũng làm miễn sao đẹp lòng người mình yêu. Như thế muốn ở lại trong tình yêu Chúa, chúng ta phải thực hành lời Chúa. Nghĩa là thực hiện điều Chúa truyền dạy, mà lời dạy của Chúa là giới răn yêu thương.

Trung thành sống trọn tình mến Chúa, yêu người là ta đã ở lại trong Chúa và khi đó chúng ta sẽ được Chúa ban cho niềm vui trọn vẹn là được sống mật thiết với Chúa ngay ở đời này và cho đến đời sau.

 

14/05 : Kính Thánh Mátthia, Tông Đồ:

Cv 1, 15-17. 20-26; Ga 15, 9-17

Hòa nhịp cùng với GH, hôm nay chúng ta mừng kính thánh Matthia, tông đồ. Về thân thế, sự nghiệp và hoạt động của tông đồ Matthia chúng ta không biết gì cả, bởi lẽ các sách Tin mừng không nói đến. Ta chỉ biết được một chút thông tin về thánh Matthia qua đoạn sách Cvtđ hôm nay.

Đoạn Sách Cvtđ hôm nay, thánh Luca trình bày lại sự việc các tông đồ muốn đề cử người nào đó vào thay thế chỗ cho tông đồ Giuđa Iscariốt còn bỏ trống lại sau khi chết.

Với tư cách là tông đồ trưởng và là người đại diện Hội Thánh, Phêrô đã đứng lên phát biểu trước cộng đoàn khoảng 120 người về số phận và cái chết bi thương của tông đồ Giuđa Iscariốt. Cái chết ấy xảy ra là vì ông ta đã cố ý chọn cho mình con đường gian ác mà phản bội lại Chúa Giêsu. Rồi Phêrô đề nghị cộng đoàn hãy chọn ra một người để thay thế cho Giuđa Iscariốt cho đủ con số 12 tông đồ như ngay từ đầu Chúa Giêsu đã thành lập, nhưng phải thỏa mãn với hai tiêu chí sau đây:

(1) Phải là người theo Chúa Giêsu từ khi bắt đầu Người rao giảng: “kể từ phép rửa của Gioan cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời”.

(2) Người ấy phải là chứng nhân cho sự Phục sinh của Chúa: “phải có một người trở thành chứng nhân cùng với chúng tôi về cuộc Phục Sinh của Người”.

Xét theo hai tiêu chuẩn trên thì chỉ có ông Giuse (biệt danh là Basaba, cũng gọi là Giútô) và ông Mátthia là hội đủ hai điều kiện đề ra. Sau khi cộng đoàn cầu nguyện và rút thăm, thì ông Matthia trúng thăm và được chọn vào vị trí tông đồ thay cho Giuđa Iscariốt đã bỏ trống.

Như vậy Matthia là tông đồ được chọn sau cùng để lấp vào chỗ trống của tông đồ Giuđa Iscariốt để lại. Ngài cũng là vị tông đồ âm thầm nhất, bởi các sách Tân Ước không hề nhắc đến tên, tiếng nói hay một hoạt động nào của ngài cả.

Tuy nhiên nếu dựa vào hai tiêu chuẩn được đề ra để chọn lựa vị trí tông đồ thay cho Giuđa Iscariốt ở trên, thì ta có thể biết được tông đồ Matthia là một người trung thành theo Chúa Giêsu từ đầu cho đến cùng; và là chứng nhân can đảm về sự Phục sinh của Chúa Giêsu. Nên ngài xứng đáng được cộng đoàn tin tưởng đề cử và được Thiên Chúa yêu mến tuyển chọn.

Là con người, tự nhiên ai trong chúng ta cũng thích được đứng đầu và muốn làm lớn để được nổi danh. Sẽ rất buồn nếu là người đội sổ và bị người khác xem là kẻ bé nhỏ. Nhưng với thánh Matthia thì điều đó không quan trọng; điều mà ngài quan tâm là trung thành đi theo Chúa đến cùng để được “ở lại trong tình yêu của Thầy”.

Nếu như người đời ai cũng thích làm nổi, để được nhiều người biết đến và được tung hô ca tụng, thì với thánh Matthia, tông đồ chỉ mong muốn được làm chứng nhân âm thầm cho Chúa Phục sinh với hy vọng mọi người tin nhận mà sống theo lệnh truyền yêu thương của Chúa chỉ dạy. Đó chính là con đường đúng đắn nhất và theo con đường ấy chắn chắn ta sẽ trở nên bạn hữu của Chúa Giêsu và sẽ được vinh dự thừa hưởng niềm vui và hạnh phúc trọn vẹn hôm nay và mai này.

Nhờ lời chuyển cầu của thánh tông đồ Matthia, xin Chúa ban cho chúng ta có được niềm tin kiên vững theo Chúa đến cùng; nhất là biết tích cực làm chứng nhân cho Tin mừng Phục sinh của Chúa bằng chính đời sống yêu thương như Chúa truyền dạy theo gương thánh Matthia tông đồ, mà GH mừng kính hôm nay.

 

Thứ sáu: Cv 15, 22-31; Ga 15, 12-17.

Suy niệm 1:

Để dễ nhớ đoạn sách Cvtđ hôm nay, ta có thể chia đoạn này làm hai phần:

– Phần đầu: liệt kê danh sách phái đoàn được các tông đồ và kỳ mục của Hội Thánh Giêrusalem cử đến Antiôkhia gồm có: Ngoài Phaolô và Barnaba,  còn có ông Giuđa và Xila là những người có uy tín trong Hội Thánh. Khi đến nơi, các ông triệu tập cộng đoàn lại để công bố bức thư.

– Phần thứ hai: nội dung của bức thư, gồm ba điểm:

  1. Lời chào thăm của các tông đồ và kỳ mục gửi đến anh em gốc dân ngoại tại Antiokhia, tại Xyria và Kilikia. Ngay sau đó là 3 lời xác nhận chính thức: (1) Những người Do Thái đến gây rối trước đây làm xáo trộn và gây hoang mang cho các tín hữu là những người bất hợp pháp. (2) Phaolô và Barnaba chính là người anh em thân mến với chúng tôi và đã cống hiến cuộc đời vì danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. (3) Xác nhận ông Giuđa và Xila chính là người được Hội Thánh cử đến để trình bày trực tiếp về những quyết định của công đồng.
  2. Quyết định chính thức của Công đồng dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần như sau: Không bắt tín hữu gốc dân ngoại cắt bì và giữ luật Môsê, nhưng khuyên giữ vài điều cần thiết như: tránh gian dâm, không uống tiết, không ăn thịt không cắt tiết và đồ cúng cho ngẫu tượng.
  3. Cuối cùng là lời khuyên nhủ họ cẩn thận giữ những điều mà Hội Thánh hướng dẫn và chúc họ được an mạnh.

* Sau khi nghe xong bức thư, họ vui mừng vì lời khích lệ đó.

Những xung đột xảy ra trong cuộc sống là không tránh khỏi. Ngay trong cộng đoàn Họ đạo hay gia đình cũng thường xuyên xảy ra. Vậy ta làm thế nào để giải quyết êm đẹp những xung đột ấy? Sách Cvtđ hôm nay gợi mở cho chúng ta đường hướng tốt nhất:

– Trước tiên, cùng nhau ngồi lại để tìm cách giải quyết vấn đề.

– Thứ đến, theo sự hướng dẫn của Thánh Thần để tìm ra đâu là sự thật nền tảng mọi người phải giữ, những gì có thể dung hòa, và những gì có thể chuẩn chước được.

– Sau đó, phải khiêm nhường bỏ thói quen của mình, hy sinh chấp nhận ý kiến chung, và giải quyết vấn đề trong tình yêu thương anh em; chứ không ra lệnh theo thói cha ông. 

Xin Chúa cho chúng ta luôn biết khiêm tốn nghe theo sự hướng dẫn của Thánh Thần để tìm ra sự thật. Nếu mình có sai trái, lỗi lầm thì can đảm nhận lỗi mà sửa đổi. Nếu người khác có sai trái thì hãy dùng tình thương mà sửa lỗi cho nhau theo lời dạy của Chúa và tinh thần của Công đồng Giêrusalem.

 

 Suy niệm 2:

Trước khi về cùng Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu đã để lại cho các môn đệ cũng như cho tất cả chúng ta lời nhắn nhủ yêu thương: “Đây là điều răn của Thầy, anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.

Yêu thương như Chúa là yêu thương tất cả mọi người không phân biệt bạn hay thù bằng một tình yêu “như Chúa yêu”.  

Yêu như Chúa là sẵn sàng hy sinh ngay cả mạng sống mình cho người mình yêu.

Xin cho chúng ta có được tình yêu như Chúa, ngỏ hầu xứng danh với tên gọi là bạn hữu của Chúa.

“Anh  em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” (Ga 15, 12).  Yêu thương nhau không thôi thì chưa đủ, Chúa Giêsu còn muốn các môn đệ của Ngài, trong đó có tôi và bạn, phải yêu “như Chúa yêu” nữa. Nghĩa là biết chấp nhận tất cả những cái hay cái dở, những tính hư nết xấu và tất cả những sự bất toàn và yếu đuối … của tha nhân.

Yêu thương như Thầy là phải biết kiên nhẫn trước những yếu đuối lỗi lầm, trước những giới hạn về niềm tin cũng như về mặt nhân bản của người khác.

Yêu như Chúa Giêsu là biết quan tâm tới những nhu cầu cần thiết của tha nhân. Sự quan tâm ấy không phải chỉ bằng lời nói, nhưng còn bằng những hành động rất cụ thể và thiết thực.

Chính Chúa Giêsu đã yêu chúng ta nên đã chấp nhận, kiên nhẫn trước tất cả mọi ưu khuyết điểm của ta: cái hay cũng như cái dở, cái đẹp cũng như cái xấu, cái giỏi cũng như cái dở của chúng ta… Ngài đã không ngừng quan tâm và đáp ứng lại những nhu cầu chính đáng và không ngừng mời gọi chúng ta hãy noi gương bắt chước Ngài bằng một tình yêu giống như Ngài đã yêu thương chúng ta.

 

Thứ bảy: Cv 16, 1-10; Ga 15,18-21.

Suy niệm 1:

Làm thế nào để việc loan báo Tin mừng có kết quả tốt đẹp? Đoạn sách Cvtđ hôm nay sẽ soi sáng cho chúng ta một vài gợi ý quý giá:

  1. Biết quan tâm gắn kết giáo đoàn địa phương với hội thánh.

Sau khi chia tay với Barnaba tại Antiôkhia, Phaolô chọn Xila để trở lại thăm viếng các giáo đoàn cũ như Đécbê và Lýtra. Tại đây ông bố về những quyết định của công đồng Giêrusalem liên quan đến các tín hữu gốc dân ngoại như: không đòi buộc họ phải cắt bì và giữ luật Môsê nữa, nhưng  phải giữ một số tập tục như kiêng thức ăn ô uế, tránh gian dâm và kiêng ăn tiết hay loài vật không cắt tiết. Tại mỗi nơi các ông đến thăm viếng, điều quan trọng các ông quan tâm là truyền lại cho họ những chỉ thị của công đồng Giêrusalem ban bố, để họ tuân giữ và khuyên nhủ họ. Nhờ đó mà “các Hội Thánh được vững mạnh trong đức tin và mỗi ngày thêm đông số”.

  1. Tìm kiếm nhân sự để đào tạo cho cộng tác truyền giáo.

Trở lại Lytra Phaolô đã tìm thấy Timôthê, mẹ ông là người Do-thái đã tin Chúa, còn cha là người Hy-lạp. Ông được các anh em ở Lytra và Icônia chứng nhận là tốt. Nên Phaolô muốn Timôthê cộng tác truyền giáo với mình. Phaolô đã đem ông đi làm phép cắt bì.

Tại sao phải cắt bì vì công đồng Giêrsalem đã bãi bỏ? Có nhiều lý do: (1) đã được nói ở đây là vì nể các người Do-thái ở những nơi ấy. (2) Vì mẹ của anh ta là người Do Thái nên con sinh ra phải giữ luật Do Thái. (3) Nhằm giúp cho Timôthê dễ dàng hơn khi rao giảng trong các hội đường người Do Thái, như Phaolô đã nói trong thư gửi tín hữu Corintô: “Trở nên người Do Thái để chinh phục người Do Thái…” (1Cr 9, 19-23).

  1. Phải lắng nghe sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần .

Dự tính ban đầu các ông là đi sang miền Phygia va Galát để rao giảng tại Asia, nhưng Thánh Thần ngăn cản nên các ông lại tiếp tục tới sát ranh giới Myxia và thử vào miền Bithynia, nhưng Thần Khí Đức Giêsu cũng không cho phép. Các ông bèn đi qua miền Mysia mà xuống Troa. Tại đây “ban đêm, ông Phaolô thấy một thị kiến: một người miền Makêđônia đứng đó, mời ông rằng: “Xin ông sang Makêđônia giúp chúng tôi!”.“Sau khi thấy thị kiến đó, lập tức các ông tìm cách đi Makêđônia, vì hiểu ra rằng TC kêu gọi các ông loan báo Tin Mừng cho họ”.

Qua hai lần ngăn cản của Thánh Thần, nhất là nhìn thấy thị kiến, Phaolô đã nhận ra ý Thiên Chúa nên ông đã lập tức tìm cách đi Makêđônia, vì hiểu ra rằng Thiên Chúa muốn ông đem Tin Mừng của Chúa đến Âu Châu, bắt đầu với các thành phố Hy-lạp.

Xin cho chúng ta biết mở rộng tâm hồn để nghe theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trong công cuộc loan báo Tin Mừng. Nhất là luôn biết gắn kết với GH để hiệp nhất với nhau trong những đường hướng truyền giáo; cũng như tích cực quan tâm đến việc đào tạo nhân sự kế thừa theo tinh thần của Thánh Phaolô.

 

Suy niệm 2:

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết cuộc sống theo Chúa sẽ gặp nhiều gian lao thử thách, bởi lẽ “Nếu thế gian ghét anh em, anh em biết rằng nó đã ghét Thầy trước”.

Xin cho chúng ta luôn vững tin và trung thành bước theo Chúa đến cùng cho dẫu bị người đời ghen ghét và bách hại, vì như thế ta mới xứng đáng thuộc về Chúa.

Không phải ngày hôm nay, thế gian mới ghét bỏ và bách hại những Kitô hữu, nhưng từ xưa, Chúa Giêsu cũng đã bị bao người khinh bỉ, hiểu lầm và giết hại. Các nhà cầm quyền xã hội thì nghi ngờ, giới lãnh đạo tôn giáo thì thù ghét chống đối; những người đồng hương thì xem thường, chối bỏ… cuối cùng khi lên đến đỉnh điểm thì họ ra tay bắt bớ, hành hạ, kết án và giết chết Chúa đi.

Đến thời các tông đồ, các môn đệ thi hành sứ mạnh làm chứng nhân cho Chúa cũng gặp phải nhiều khó khăn và đau khổ, đúng như những gì mà Chúa Giêsu đã nói trước đó. Khi thi hành sứ vụ rao giảng, các tông đồ và các môn đệ luôn bị người Do Thái, chính quyền và giới chức lãnh đạo Do Thái giáo cấm đoán, đe dọa, bắt bớ, hành hạ đủ mọi thứ cực hình… Cuối cùng, các ngài cũng kết thúc cuộc đời bằng cái chết bi thương vì danh Chúa Giêsu.

Nối tiếp các tông đồ là Giáo hội trong mọi thời ở khắp mọi nơi đều bị các nhà cầm quyền ghét bỏ, loại trừ, bách hại… Cụ thể ở Việt Nam trong khoảng gần 300 năm đầu (1638-1886) đã có hàng trăm ngàn tín hữu chịu đổ máu và hiến mạng sống mình để làm chứng cho niềm tin vào Chúa.

Ngày nay dù đã trãi qua hơn 2000 năm, ấy vậy mà Giáo hội nói chung và các Kitô hữu nói riêng vẫn không ngừng bị xiết chặt, ghét bỏ, trù dập, bắt bớ và giết hại khắp nơi trên thế giới. Khiến chúng ta là những người theo Chúa không ngừng phải lo lắng, sợ hãi và bất an…Nhưng với niền tin tưởng vào sự quan phòng đầy yêu thương của Chúa. Chúng ta hãy an tâm phó thác vào bàn tay uy quyền của Chúa là Cha giàu lòng thương xót chúng ta.