Tân PÂH Đời Sống Cộng Đoàn – Chương 3: Lời Nói Và Xét Đoán

CHƯƠNG BA

TÂN PHÚC ÂM HÓA

LỜI NÓI VÀ XÉT ĐOÁN

I. LỜI NÓI TRONG CUỘC SỐNG.

II. LỖI ĐỨC YÊU THƯƠNG QUA LỜI NÓI

III. LỖI ĐỨC YÊU THƯƠNG QUA VIỆC XÉT ĐOÁN.

 

I. LỜI NÓI TRONG CUỘC SỐNG

  1. Lời nói

1.1. Chỉ có một cái miệng.

Chúng ta được sinh ra với đôi mắt nằm phía trước để luôn nhìn sự việc đang diễn ra thay vì cứ ngoái nhìn lại những điều đã qua.

Chúng ta được sinh ra với đôi tai – một bên trái và một bên phải – để có thể nghe cả hai phía, để nghe đủ những lời ca tụng cũng như những lời phê bình, để phân biệt đúng – sai.

Chúng ta được sinh ra với một bộ óc nằm dưới hộp sọ, cho dù có nghèo đi chăng nữa chúng ta vẫn luôn giàu có vì chẳng ai có thể lấy cắp được, bộ óc sản sinh ra nhiều suy nghĩ và ý tưởng độc đáo.

Chúng ta được sinh ra với đôi vai nối liền đôi tay để gánh vác những nhiệm vụ, trọng trách. Hơn nữa, một để giúp đỡ bản thân, một để giúp người khác. Chúng ta được sinh ra với một đôi chân dài và lớn để đi nhiều nơi, để mắt được quan sát, để não được mở rộng.

Nhưng chúng ta chỉ được sinh ra với một cái miệng, vì miệng là vũ khí sắc bén. Nó có thể làm tổn thương, làm đau lòng hay giết chết kẻ khác. Hãy ghi nhớ câu nói:

Nói ít, nhìn xem và lắng nghe nhiều. [1]

1.2. Phụ nữ hay nói

Có người nói phụ nữ sinh ra dường như là để nói! Quả thật, nghiên cứu cho biết mỗi ngày phụ nữ nói từ năm đến bảy ngàn từ mới thoả, và nghiên cứu còn cho biết số từ của một cô bé 3 tuổi, sẽ gấp đôi của một bé trai cùng tuổi; và bé gái dùng đến năm bậc ngữ điệu thay vì chỉ có ba như bé trai. Dù sống cảnh sống nào đi nữa, đã mang kiếp phụ nữ, xu hướng này rất khó tránh khỏi? Còn nam giới thì sao? Nhiều người xác nhận rằng phái nam cũng nói không kém gì phụ nữ.Với những người lập gia đình cũng như người xuất gia. Lời nói lắm khi được dùng như những vũ khí lợi hại; có thể là do vô thức, nhưng cũng không ít khi chúng ta dùng chúng với ý thức sâu xa; những mũi tên nhọn được bắn với tầm nhắm cẩn thận. Một cô học viên của tôi đã nhiều năm lấn cấn về vấn đề ly dị hay không; lý do cũng vì không thể chịu nổi những lời mỉa mai, hạ giá của chồng. Vì thế, Nguyễn Trãi đã mô tả cái đáng sợ trong đời người, đó là sự sắc nhọn của miệng lưỡi và lòng người.

Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn,

Lòng người quanh nửa nước non quanh

Sống dưới một mái nhà, nhiều năm tháng bên nhau, có khi vài chục, hay bốn, năm chục năm liền; phải chăng vì
quá gần nhau, làm cho chúng ta nghĩ rằng mình biết nhau quá.

 “Biết rồi, nói mãi, khổ lắm”!

Chúng ta có cảm tưởng là mình thuộc lòng nhau, nên dần dà đã mất đi độ nhạy cảm, mất đi sự tôn trọng, bớt đi sự thận trọng, từ đó có thể trở nên bừa bãi trong cách ăn nói, làm xúc phạm, tổn thương nhau, gây nên buồn đau, xa cách… Dường như trong đời sống gia đình, cũng như đời sống tập thể, ngôn từ có thể là vũ khí dễ dùng và dễ bị lạm dụng chăng?

Có khi nào chúng ta nghĩ cách làm sao cho những lời của chúng ta trao nhau có thể đem lại sự khai thông, làm cho nét mặt người thân hay anh chị em thêm rạng rỡ, ánh mắt thêm niềm tin, và con tim thêm an bình?

Một số trong chúng ta có lẽ đã được trải nghiệm những sự ấm áp đó. Tuy thế, lắm lúc chúng ta đem lại cho những anh chị em đang chung sống, hay những người mình dạy dỗ, gặp gỡ trong công việc thường ngày những lời khuyên quá rẻ tiền, có nghĩa là như máy móc mà thiếu vắng sự đồng cảm, hay đi vào chiều sâu của lòng người, vào cõi lòng anh chị em mình đang đối diện. Lắm lúc chúng ta nói những lời chỉ trên môi mép như là một loại xã giao, vuốt đuôi, không thật lòng, và thiết nghĩ, nếu lòng mình không thật, thà đừng nói thì hơn! [2]

  1. Những lời nói tích cực.

2.1. Những lời nói thật.

Chân thực! một giá trị cao quý trong mọi lãnh vực cuộc sống. Ai cũng tìm kiếm, nhưng không chắc mình sẽ nhận được, hay thực hành được; dù vậy, cái thật luôn được tôn vinh và tìm kiếm trên nhiều mặt khác nhau: 

– Kinh tế – người ta luôn chuộng đồ thật, dù đắt mấy cũng kiếm tìm cho được. Tuy là của vô tri, nhưng đồ vật thật cần luôn được trân trọng và giữ gìn, tìm kiếm; không ai dại gì mua hay gìn giữ đồ dổm, mà chỉ vì bị lừa lọc mà thôi!

– Tình cảm – ai cũng quý yêu tấm chân tình. Dù tình yêu, tình bạn hay tình làng nghĩa xóm, tình đồng nghiệp hay đồng chí… nếu không thật lòng, làm sao có được những cuộc gặp gỡ sâu xa, những trao đổi cởi mở. Nếu không có chân tình, các mối tương quan chẳng khác gì các hình nộm bên nhau, vô cảm, trống rỗng và xa lạ!

– Ngôn từ – Lời thật quý hơn châu báu, lời thật xây dựng và đem lại sự sống, làm tái sinh; lời thật là lời thiện. Lời thật tạo sự tin tưởng, tạo đồng cảm và đưa đến sự gặp gỡ sâu xa của hai tâm hồn… Lời thật khó nghe, nhưng đem lại sự bình an cho tâm hồn, đặt chúng ta trong đường ngay nẻo chính, giải thoát chúng ta khỏi những sai lầm, hư danh.

– Chúng ta không thể sống xa bất cứ điều gì cho thật, dù lời nói hoặc trong bất cứ lãnh vực nào; vì Chúa chúng ta là Đấng “Chân – Thiện – Mỹ”. Chỉ trong sự thật chúng ta mới được tự do.

Sự thật sẽ giải thoát các con” (Ga 8,32). Phải, không gì quý hơn sự thật, bất cứ điều gì thật đều đáng giá, một tình yêu thật, một tình bạn chân chính, một lời nói thật lòng… Một điều đơn giản nhưng khó sống!

Ở đây chúng ta nhấn mạnh đến lời thật. Giáo Hội, gia đình, và nhất là Lời Chúa luôn dạy chúng ta, ăn ở thật thà, làm ngay nói thẳng:

Có thì nói có, không thì nói không”. Những lời dạy sống theo sự thật, thoạt nghe dễ dàng, nhưng rất đòi hỏi, sống cho được quả là một kỳ công. Trái lại, lời giả dối tác hại cho người, mà cũng tác hại cho bản thân mình.[3]

2.2. Những lời nói xây dựng.

Có những món quà trong đời quý giá hơn vàng bạc, châu báu, đó là những lời làm ấm lòng, lời tăng sinh lực, lời xua tan bóng tối mấy mù. Những lời được trao tặng đúng lúc người khác đang cần, những lời đó có ý nghĩa, giá trị và tối cần cho đời người biết bao!

Trong cuộc sống, người ta trao nhau những món quà để tỏ tình thân, lòng quý mến nhau. Nhưng có món quà vô giá mà tiền của không mua, không đổi được, và chỉ những người thân thiết, thật tình với nhau mới dám trao nhau, đó là những lời khuyên hay những lời chia sẻ tâm tình.

Người giàu tặng của, người thân tặng lời

(Tục ngữ Việt Nam)

Chuyện kể rằng Lão Tử đã nói với Khổng Tử lúc tiễn nhau rằng: “Tôi nghe nói: “Người giàu sang lấy tiền bạc để tiễn nhau, người nhân đức dùng lời nói để tiễn nhau.” Tôi không thể làm người giàu sang, nhưng trộm lấy tiếng là người nhân đức, xin có lời này để tiễn ông: “Kẻ thông minh sâu sắc thì gần cái chết, vì họ khen chê người ta một cách đúng đắn. Kẻ giỏi, đầu óc sâu rộng làm nguy đến thân mình vì họ nêu lên cái xấu của người khác …”

Không phải ai cũng nhận được những lời chân thành và hữu ích từ người khác; vì thế lời hay, lời lành là món quà quý hiếm đối với những ai đang thật sự cần. Nhưng đồng thời với những người không sáng suốt và mà lại có quyền, thì những kẻ nói thẳng rất dễ lụy đến thân. Lão Tử, người quá hiểu biết chuyện đời đã nói lên điều này vì ông kinh nghiệm: Đời là thế đấy!

Câu nói nổi tiếng của Somerset Maugham: “Phải thận trọng lời nói. Người ta có đủ thời gian để lựa lời, nhưng không có cơ hội để rút lại. Lời nói là vũ khí rất nguy hiểm mà người ta có thể vận dụng, hãy dùng nó với sự thận trọng”. [4]

2.3. Những lời nói khích lệ

2.3.1.Tấm ảnh gia đình giúp chàng thanh niên không cộc cằn. “Trong thời kỳ khai phá Mỹ Châu, có năm thanh niên Hoa Kỳ tới vùng Ohio tìm vàng. Đây là một vùng hoang vu nguy hiểm không thể lường trước được… Sau một thời gian sống nơi rừng thiêng nước độc, phải đương đầu với nhiều khó khăn thử thách; khi trở về, bốn người trong bọn họ đã đổi tính nết, mất cả phong độ, trở thành những chàng trai cộc cằn dữ tợn. Chỉ duy có một người còn giữ nguyên được phong độ dễ thương hiền hoà như trước. Người ta hỏi anh cho biết lý do nào đã giúp anh tránh khỏi những lỗi lầm như những người kia, họ đã được anh trả lời như sau:

“Vì một tấm ảnh kỷ niệm dễ thương, tôi đã mang theo trong tâm khảm tôi, xin các bạn đừng hiểu lầm là tấm ảnh người bạn gái, nhưng là tấm ảnh của gia đình tôi. Buổi sáng, trước khi lên đường, cha mẹ và các anh chị em tôi đã ngồi vào bàn, ăn bữa sáng chung với nhau. Mọi người đều tỏ ra quí mến yêu thương tôi cách đặc biệt, ai cũng thấy nghẹn ngào để ý đến tôi, lo cho tôi đủ thứ, vì tôi là người thứ nhất rời xa gia đình… Cha tôi nhắn nhủ đôi lời, rồi cả nhà đều quỳ gối trước tượng Chúa cầu nguyện cho tôi, xin ơn trên che chở gìn giữ tôi. Chính tấm ảnh kỷ niệm, những lời khuyên bảo đó đã theo tôi trong suốt chuyến đi đầy khó khăn này và đã nâng đỡ tôi những khi tôi gần như tuyệt vọng.” [5]

Lời khuyến khích sẽ xua đi những khó khăn phiền muộn và lo âu. Lời cảm thông sẽ làm cho con người xích lại gần nhau, hàn gắn lại những con tim tan vỡ. Lời yêu thương sẽ kiến tạo một thế giới hoà bình. Nhưng đau đớn thay, tình người hay bác ái thường dễ bị đổ vỡ bởi những lời tiêu cực. Có lẽ nhiều tội lỗi chúng ta thường xuyên phạm đến đời sống bác ái, là qua lời nói… Những lời đã làm tổn thương tha nhân. Để tránh những điều hại hay làm đau lòng nhau, những người khôn ngoan luôn dạy chúng ta càng nói ít càng tốt, thánh Giacôbê đã dạy:

Ai trong anh em không vấp ngã về lời nói, ấy là người hoàn hảo.” (Gc 3,2).

Thật ra, dù muốn dù không cuộc sống chúng ta luôn cần phải dùng đến lời nói. Trao đổi, học hỏi, chia sẻ với nhau là điều tốt, tuy nhiên, phải biết lúc nào mình nên nói và lúc nào cần phải giữ thinh lặng. Biết thích ứng trong mọi hoàn cảnh mới là người khôn ngoan thật sự.

“Thông minh là biết cách nói hợp lý, nghe chăm chú, trả lời dí dỏm, và ngừng nói khi cần”. (Pasteur)[6]

2.3.2. Malcolm Dalkoff, một đứa trẻ nhút nhát đã trở thành tự tin.

Cậu có rất ít bạn và luôn phải lủi thủi một mình. Một lần, cô giáo đọc cho cả lớp một đoạn truyện ngắn đề cập đến loài vật là bạn thân của con người; sau đó phân công mỗi học sinh tự viết đoạn kết cho câu chuyện. Dalkoff thích lắm, ngay chiều hôm ấy cậu đã hoàn thành bài viết của mình. Nhưng mãi cậu mới có đủ tự tin đem nộp truyện của mình cho cô giáo vào buổi học tuần sau đó.

Những gì cậu viết cũng như điểm số mà cô giáo đã cho không hề quan trọng. Đối với cậu bé, điều quan trọng nhất mà cũng là điều cậu nhớ nhất lại chính là bốn chữ cô giáo phê : “Em viết hay lắm!” Chỉ bốn chữ cũng đủ để thay đổi toàn bộ cuộc đời cậu bé. Trước khi nhận được bốn chữ đó, cậu chưa bao giờ có khái niệm về bản thân hay những điều mình đã làm. Nhưng sau buổi học hôm ấy, cậu đã chạy thật nhanh về nhà, ngồi vào bàn và đã viết ngay một câu chuyện ngắn, về tất cả những gì cậu đã từng mơ tới, và không bao giờ dám nghĩ là mình có thể biến những giấc mơ đó thành hiện thực.

Cậu viết ngày càng nhiều hơn, và cứ được một chuyện, cậu mang ngay tới cho cô giáo của mình nhận xét, “Cô ấy đúng là một cô giáo tuyệt vời!”.

Nhiều năm trôi qua, cậu bé Malcolm tự ti ngày nào, đã trở về thăm trường cũ và cô giáo ngày xưa của mình. Điều cậu cám ơn cô không phải vì cô đã trở thành một người bạn của cậu mà vì bốn chữ đầu tiên cô đã từng phê: “Em viết hay lắm!”. Những chữ ấy đã thay đổi cả một cuộc đời. [7]

2.3.3. Joe, từ chỗ mặc cảm đã thành công trong sự nghiệp.

Cũng trong hướng tích cực này. Một lời khen đúng lúc thật kỳ diệu làm sao! Câu chuyện sau đây sẽ chứng minh cách cụ thể, vì chính tác giả là người đã thừa hưởng, đã cảm nghiệm được món quà quý giá này, và ghi lại để chia sẻ cùng chúng ta.

“Cách đây 40 năm, tôi còn nhớ như in khi gia đình tôi chuyển từ vùng núi cao bang Chicago tới một khu phố nghèo ở New York để kiếm sống. New York tráng lệ và sôi động, cuộc sống tráng lệ và sôi động, tất cả những gì được chứng kiến ở đây khiến một đứa trẻ 9 tuổi như tôi cảm thấy sợ hãi. Ba tôi đã cố gắng xin cho tôi vào học ở một trường học nhỏ cách nhà không xa.

Những ngày tháng đầu tiên ở trường mới, tôi hoàn toàn cô độc. Tất cả học sinh đều xa lánh thay vì giúp đỡ tôi hoà nhập. Thậm chí khi tôi chủ động làm quen, chúng bỏ đi, chẳng thèm nhếch mép sau khi đã ném về phía tôi những cái nhìn chế giễu, miệt thị. Vài đứa lớn hơn còn tụ tập lại để bắt nạt tôi. Tôi lờ mờ hiểu ra rằng ở đây chẳng ai ưa một đứa trẻ da đen con nhà nghèo, gầy gò và quê mùa như tôi cả. Suốt ba tháng, tâm lý sợ hãi và bị bỏ rơi khiến tôi gần như đứng bét lớp, mặc dù chương trình học đối với tôi chẳng khó khăn gì.

Thế nhưng, sau kỳ nghỉ mùa đông mọi sự đã khác khi thầy Sean tới. Thầy được phân công chủ nhiệm lớp tôi thay cho thầy Paul bị nằm viện. Thầy rất nghiêm khắc nhưng không nặng lời với bất cứ ai. Dần dần lớp học trở nên có trật tự hơn, và những rắc rối của tôi cũng giảm đi nhiều. Có một điều tôi cảm thấy được an ủi, đó là thầy Sean cũng là người da đen.

Một ngày mà tôi chẳng thể nào quên, khi thầy Sean công bố kết quả thi giữa kỳ. Thầy nhìn khắp cả lớp, từng người một, và khi tới tôi, thầy dừng lại thật lâu làm tôi cảm thấy run sợ. Nhưng rồi thầy vui vẻ nói: “Bài thi này các em làm rất tốt, nhưng luôn có một người làm tốt nhất. Thầy hoan nghênh tất cả các em”. Khỏi phải nói lúc đó tôi vui như thế nào, vì tất cả các lần thầy Paul đọc điểm thi tôi đều bị than phiền.

Cuối buổi học, thầy bảo tôi ở lại, tôi sợ, rụt rè đến bên thầy, ấp úng:

Thưa thầy…”

“Ồ, Joe, hôm nay em là người làm bài tốt nhất, tuyệt lắm!” Tôi oà khóc, cái điều mà tôi chưa từng làm từ khi tới đây.

Thầy Sean ôm tôi vào lòng: “Đừng sợ, cố gắng lên, có thầy luôn ở bên em!”

Những lời của thầy Sean đã làm thay đổi cuộc đời tôi. Lúc nào trong tôi cũng có hình ảnh của thầy đang cổ vũ cho tôi. Và tôi trở về làm học sinh xuất sắc lớp vào cuối năm học đó, như khi tôi còn ở Chicago.

Năm sau, thầy Sean lại ra đi khi thầy Paul khoẻ lại. Nhưng lúc nào tôi cũng thấy như có thầy ở bên, và năm đó, cũng như những năm về sau, tôi luôn là người đứng đầu lớp. Mãi sau này, khi tôi vào đại học, khi tôi bảo vệ luận án tiến sĩ, và ngay bây giờ khi tôi đang đứng giảng bài trước hàng trăm sinh viên của một trường đại học danh tiếng, không khi nào tôi quên được hình bóng thầy.

Hôm qua, tôi mừng đến phát khóc khi biết được địa chỉ của thầy sau 40 năm xa cách. Tôi đã lái xe một mạch 300 cây số tới thăm người thầy mà tôi kính yêu nhất đời. Gặp lại thầy, tôi bật khóc, những kỷ niệm ngày đó bỗng sống lại như mới.

Ồ, Joe – thầy nói hệt như ngày trước – em vẫn yếu đuối như ngày nào”. Tôi lặng người khi nghe thầy kể:

Hôm đó bài của em chỉ được điểm B, nhưng em đã cố gắng, nhìn vào em, thầy thấy lại mình nhiều năm trước. Khi đó, một lời động viên của cô giáo đã giúp thầy vượt qua tất cả. Thầy đã tin rằng em cũng vậy, đó là lý do mà thầy đã gọi em ở lại hôm ấy. Và thầy không lầm”.[8]

2.3.4. Ma lực của lời động viên. Có lẽ món quà quý hoá ảnh hưởng đến cả đời người, giúp bước tiến, can đảm bắt đầu lại hay kiên trì với một ước mơ, một việc có giá trị, hoặc yên tâm bắt tay vào một dự tính… chính là những lời động viên khích lệ đó. Với những lời này chúng ta như tiếp sức cho những người mệt mỏi, mở lối cho người đang phân vân và dọi đèn cho ai đang lần mò trong bóng tối! Cuộc đời một con người có thể chuyển hướng hay thành tựu chính là nhờ cái “lực đẩy” này. [9]

Phải, lời động viên, thừa nhận và khích lệ… một món quà không đòi hỏi gì nhiều. Ai cũng có thể:

        –  Cho mà không sợ mất mát.

–  Nhận mà không sợ quá tải,

–  Dùng mà không sợ bị lạm phát

–  Trao mà không sợ bị từ chối !

–  Thích hợp cho mọi người, mọi lứa tuổi.

–  Có thể trao càng nhiều người, nhiều lần, trong nhiều tình huống khác nhau càng tốt.

Tuân Tử, người hay chú ý đến lãnh vực ngôn từ, đã từng nói rằng:

Được người nói lời thiện như được vàng ngọc châu báu,

Gặp người nói lời thiện thì hay hơn văn chương thơ phú,

 Nghe lời nói thiện thì vui hơn chuông trống đàn ca”. [10]

2.4. Những lời khen

2.4.1. Những nguyên tắc để khen.

Lời khen: Con dao hai lưỡi, nếu muốn có hiệu quả tích cực, chúng ta cần học cách dùng ngôn từ với sự cẩn trọng, với nghệ thuật cao. Sau đây là một số nguyên tắc giúp thực thi nghệ thuật này:

– Muốn người nghe cảm nhận được niềm vui lớn như một liều thuốc bổ tối ưu, đạt hiệu quả 100%. Chúng ta cần khen ngay lập tức.

– Khen ngợi nên chính xác, cụ thể: “Em làm việc tốt lắm”. Như thế đã tốt rồi, vì nhấn mạnh cụ thể đến công việc. Nhưng họ sẽ thích thú hơn nếu như được khen: “Em làm việc rất chu đáo và có trách nhiệm”. Như thế, khả năng làm việc chu đáo và trách nhiệm sẽ được lập lại chính xác về sau. Chúng ta cần tránh những lời khen một cách chung chung vô bổ như: “Chị hay quá, chị giỏi quá”. Hay và giỏi ở phương diện nào? Và điểm cụ thể nào? Ví dụ: “Chị hát nhạc dân ca rất có hồn”.

– Lời khen sẽ gia tăng giá trị gấp bội nếu được khen trước người khác hay đám đông. Và ngược lại, muốn phê bình ai xin làm riêng tư, kín đáo. [11]

2.4.2. Trâu cũng thích khen.

Câu chuyện dí dỏm sau đây sẽ cho chúng ta thấy giá trị của những lời tích cực; sức bật hay sự rò rỉ năng lực đều do lời nói mà ra.

Xưa có nông dân nọ nuôi một con trâu dùng để kéo xe, con trâu này đã xấu xí đen thui, lại chỉ có một sừng, nhưng thay vào khuyết điểm đó, trâu ta lại có sức mạnh phi thường, có thể kéo cả tấn hàng băng băng qua dốc núi cao chót vót. Chủ làng bên cạnh cũng có một con trâu vừa đẹp vừa có sức mạnh. Một hôm, ông ta thách đua trâu kéo hàng. Nếu con nào kéo nổi một tấn hàng qua núi cao, ông ta sẽ chịu thua số tài sản mình đang có. Chủ của con trâu đen một sừng mừng rỡ, dẫn nó đi thi. Lúc sửa soạn ra đấu trường, ông ta vô tình vỗ vào đầu trâu nói giọng giễu cợt: Này, thằng đen thui một sừng, ráng kéo lên nha! Nghe lời giễu cợt ấy, trước mặt mọi người, trâu đen tái mặt. Với sức của nó, tấn hàng chất lên lưng chẳng là gì cả, nhưng lời của chủ làm nó đau lòng, bao nhiêu sức lực tiêu tan, nó ì ạch lê từng bước. Cuối cùng tài sản của chủ nó bị ông chủ làng bên lấy sạch. Hậu quả con trâu một sừng bị mắng thậm tệ.

Vớ được món hời, vài hôm sau, ông chủ bên kia thách thi đấu nữa. Lần này số tiền đặt cược lên gấp ba. Trâu đen bèn thưa với chủ hãy đến đánh cược. Chủ bảo: Thôi đi, lần trước mày làm tao thua hết tài sản, hổng thấy hả? Nó ôn tồn đáp: Chủ ơi, tại lần trước chủ chế giễu, chê tôi trước mặt mọi người nên tôi buồn quá, kéo không nổi. Ngày mai, trước giờ đi thi, chủ hãy nói như thế này: Trâu đen ơi, tuy con không đẹp, nhưng con là đứa ngoan, giỏi nhất! Lúc đó, tôi sẽ lấy lại phần tài sản cho chủ xem.

Chủ nó làm theo lời và đặt cược. Quả nhiên, nó kéo cả tấn hàng lên núi một cách nhanh chóng. Và chủ nó lấy lại được nhiều tài sản vàng bạc. [12]

  1. Những lời nói tiêu cực.

3.1. Những lời nói dối

Lời nói là một biểu hiện của tinh thần. Trong lòng thế nào thì lời nói bộc lộ ra thế ấy. Ngược lại, khi được thể hiện ra rồi, lời nói lại gieo cấy những hạt giống tốt hoặc xấu vào tâm hồn chúng ta. Vì thế, muốn tâm hồn chân thật thì lời nói tất nhiên cũng phải chân thật. Việc nói năng tùy tiện, bừa bãi có những tác hại sâu xa mà chúng ta không thể không quan tâm sửa đổi.[13]

3.1.1. Tác hại của lời nói dối, đùa cợt, khoe khoang

Chúng ta có thể dễ dàng đồng ý với nhau về tác hại của những lời nói dối. Hiển nhiên là nó đánh mất đi giá trị tự thân của người nói, khiến cho mọi người không còn tin cậy vào anh ta được nữa, ngay cả khi anh ta đã từ bỏ việc nói dối. Vì thế, những gì người nói dối đánh mất đi là nhiều hơn những gì họ đạt được.

Nhưng không phải ai cũng có thể thấy được tác hại của những lời đùa cợt hoặc khoe khoang, khoác lác…Bởi vì chúng có vẻ như chẳng hại gì đến ai cả.

Trong thực tế, những lời đùa cợt không thật hay những lời khoe khoang vuợt quá sự thật chính là tiền thân của những lời nói dối. [14]

3.1.2. Con đường dẫn đến nói dối

Rất nhiều người trong chúng ta đã biết qua cảm giác ngượng ngập, lúng túng khi lần đầu tiên nói dối. Người nói đang đứng trước ranh giới giữa sự chân thật và dối trá, và cảm giác này giống như phản ứng tự nhiên của bản thân để cố ngăn không cho ta rơi vào sự dối trá. Thường thì người nghe rất dễ nhận ra vẻ lúng túng ấy để biết là mình đang bị nói dối. Tuy nhiên, nếu chúng ta lập lại việc nói dối nhiều lần, chúng ta không còn cảm giác lúng túng, ngượng ngập như lần đầu.

Và chính những lời đùa cợt hay khoe khoang cũng có tác dụng xói mòn làm mất đi cảm giác ngượng ngập, lúng túng đã ngăn cản không cho ta nói dối. Nếu bạn thường xuyên đùa cợt, khoe khoang quá trớn, bạn sẽ rất dễ dàng chuyển sang nói dối mà không có chút gì ngần ngại.

Mặt khác, bản thân người nói không bao giờ cũng ý thức rõ được mình đang nói những lời không chân thật. Nếu ta nhận được sự thán phục hoặc tán đồng từ người khác, dần dần ta sẽ có cảm giác như mình đang nói thật, nhưng thật ra, ta đang lừa dối chính bản thân mình. Và điều này về lâu dài sẽ khiến cho ta mất khả năng phân biệt rạch ròi giữa chân thật và dối trá.[15]

  1. 2. Những lời nịnh hót.

– Người nịnh chi phối người khác bằng cái miệng của mình, bằng những lời “bốc thơm” để được lòng, nhưng động lực chính là để lôi cuốn người nghe nịnh làm theo hướng mình muốn.

– Người nịnh thường để lấy lòng, hầu lôi cuốn người nghe về phe mình, để họ bao che, nâng đỡ khi cần… việc nịnh hót này là một hình thức tìm ô dù.

– Người nịnh vô hình chung là người điều khiển người khác bằng con đường thiếu thẳng ngay, vì thế người nghe nịnh là người tiếp tay với sự xấu.

– Khi có ô dù và được bao bọc nâng đỡ, người nịnh thường dựa thế người trên hay người có quyền để hiếp đáp người khác. “Thượng đội, hạ đạp”!

– Người nịnh thường được quyền lực đứng về phía mình; vì thế, theo vô thức, những người còn lại sẽ tự động dựa vào nhau để tự bảo vệ và nâng đỡ nhau, nên dù muốn dù không sự nịnh bợ sẽ tạo nên phe nhóm, chia rẽ.

Trên hết, về mặt xã hội, người nịnh là thành phần phá hoại ích chung, còn về mặt cá nhân, họ là người tự hạ giá chính mình.

Obreson đã cảnh tỉnh chúng ta: “Ta không nên sợ những người công kích ta, mà nên sợ những người nịnh ta”.[16]

3.3. Những lời nói châm chọc.

Những lời nói nhằm gây những điều tiêu cực cho các mối tương quan, làm lệch lạc cách hiểu việc, hiểu người. “Đâm bị thóc, chọc bị gạo” là thành ngữ mà dân chúng dùng cho loại người đi đầu này nói xấu đầu kia, rồi trở lại đầu kia đặt chuyện dèm pha người nọ, nhằm tạo sự thù hằn, hờn giận hay chia rẽ.

Chúng ta biết rằng nguyên nhân của sự đâm thọc thường do tâm bất mãn, hận thù hoặc ganh tị. Thấy ai thành công hay được quý trọng, được yêu mến thì sanh tâm muốn hạ uy tín hoặc làm giảm giá trị người đó. Ngoài ra đâm thọc là vì muốn ám hại ai hay lấy lòng người nào. Những người hay đâm thọc là người có tâm bất thiện, có ác ý, muốn gây chia rẽ. Họ suy nghĩ, nghiền ngẫm để tìm cho ra những lời châm chích đúng lúc, hợp tâm lý người nghe.[17]

Có nhiều người cho rằng: Người hay đâm thọc được ví như loài muỗi hút máu độc hại đầu này, đem chích vào đầu kia. Mỗi lần chích, họ chuyền qua một ít nọc độc, và từ từ những lời nọc độc ấy thấm vào, dần dần chuyển hoá làm ô nhiễm tư tưởng, con tim và các mối tương quan giữa người với người. Độc thay!

Theo luật nhân quả, khi dùng lời nói hại người, tâm của chúng ta chắc chắn biến động. Nếu một lời nói ra làm tan vỡ tình thân, gây ngờ vực, vì nó mập mờ, thêm bớt, lộng giả thành chơn, có lại nói không … Khi có tà ý muốn hại người, có lẽ người chưa bị hại, mình đã thấy tâm bất an rồi! Vì thế nhân gian đã cảnh cáo chúng ta hãy coi chừng!“           

 

Gậy ông lại đập lưng ông.

                   Gậy bà chẳng trúng thẳng xông lại bà[18]

3.4. Những lời nói phàn nàn kêu trách.

Tránh “than phiền, phàn nàn, kêu ca”. Henry Ford, nhà thành lập và chủ nhân của hãng xe hơi Ford đã nói thế, vì chính nhờ tránh xa sự than phiền mà ông và công nhân đã vượt được những khó khăn trong cuộc đời và sự nghiệp. Chúng ta biết rằng, khi chăm chú vào một việc gì, chúng ta có dịp để phát huy chúng; trái lại, càng than phiền bao nhiêu, chúng ta càng thấy nhiều điều để than phiền bấy nhiêu. Trên thực tế, chẳng ai muốn gần kẻ hay phàn nàn chê trách cả. Dường như “virus bịnh Than” đã rất dễ thấm nhập và lây lan. Thường chúng ta cho rằng mình hay giỏi hơn người chúng ta phàn nàn. Có người hài hước cho rằng:

Khi ta đưa ngón tay trỏ chỉ vào người mà mình phàn nàn, thì ba ngón kia chỉa lui vào bản thân mình”.

Làm sao cho sự than vãn không có chỗ đứng trong đời sống chúng ta, hay ít nhất là làm giảm thiểu chúng, có như thế cuộc đời chúng ta mới mong bay bổng lên được!

Nếu chúng ta muốn được hoàn hảo trong lời nói, thì chúng ta phải đào thải những lời phàn nàn ra khỏi cuộc sống của mình” F.A.Losito. [19]

3.5. Những lời nói tiêu cực và tác hại của chúng

3.5.1. Những lời nói tiêu cực.

Thực tế mà nói, chúng ta thường có xu hướng dễ đi vào con đường tiêu cực, đây là một thói quen nguy hiểm trong cuộc sống. Tuy vậy, không ít thành viên trong các cộng đồng than rằng trong nhà hay nhóm hoặc tập thể của mình thường có:

  • Những lời vuốt ve, nịnh bợ,
  • Những lời ba hoa, tâng bốc quá đáng,
  • Những lời hùa theo như là một loại “cuốn theo chiều gió”
  • Những lời mỉa mai, châm biếm,
  • Những lời khó chịu,
  • Những lời chọc tức,
  • Những lời nói đùa ác ý,
  • Những lời nói sau lưng,
  • Những lời hạ giá, tổn thương,
  • Những lời “thọc gậy bánh xe”,
  • Những lời bóng gió, gần xa…
  • Những lời đồn thổi,
  • Những lời không chân thật,
  • Những lời thô tục, lố lăng đùa cợt vô nghĩa,
  • Những lời than phiền,
  • Những lời thách thức,
  • Những lời cay độc, vu khống, nói xấu,
  • Những lời phán đoán về giá trị…
  • Những lời gieo rắc sự chia rẽ,
  • Những lời vô trách nhiệm, tung tin, thêm bớt cho vừa ý mình chứ không phải là sự thật khách quan…
  • Những lời vu khống, võng đoán, suy diễn: “Suy bụng ta ra bụng người”.
  • Những lời la lối như một loại “cả vú lấp miệng em”
  • Những lời của người đưa chuyện, lời tiêu cực đã nghe (đúng hay sai còn xét lại) đem mách qua, mách lại cho đương sự. [20]

3.5.2. Tác hại của những lời nói tiêu cực

Những loại hình ngôn từ nêu trên là những yếu tố cơ bản dẫn đến sự chán nản, rút lui, bỏ cuộc của một số anh chị em nhiệt tình, quảng đại và tích cực đóng góp cho công việc, cho ích chung, cho cộng đồng. Những lời cay độc thấm dần như thuốc độc làm ô nhiễm bầu khí chúng, làm mệt mỏi, căng thẳng dài ngày… tệ hơn nữa, có những người yếu đuối và ngay cả những người mạnh mẽ, nhưng lâu ngày dài tháng đã không chịu nổi, nếu không biết tự lo, vết thương có thể trở nên mưng mủ, và rốt cuộc, họ đã ngã quỵ, buông xuôi, khép kín, cô lập, hay tệ hơn nữa, phải rời bỏ cả lý tưởng mình đã chọn.

Sau đây là một số hệ quả của những lời tiêu cực mà Raymond De Saint Laurent đã nhận định:

– Một người hay châm biếm thường gây thù chuốc oán và làm mọi người xa lánh.

– Một người thiếu kín đáo, hay tiết lộ những điều cần giữ riêng cho mình, thường hay làm mất lòng người khác, mất niềm tin cậy và bị nghi ngại khi tiếp xúc.

– Một người mắc bịnh ba hoa kinh niên chỉ làm cho người nghe chán ngấy, và từ đó thiên hạ tránh xa khi thấy người đó xuất hiện.

– Một người có ác tâm xét đoán người khác, sẽ tạo nên bầu khí căng thẳng, khó chịu cho những người xung quanh.

– Một người hay nói quanh co, ẩn ý sẽ làm cho người ta nghi ngờ, ngại ngùng và tránh xa.

– Một người gièm pha, bóng gió là không dám nói thẳng sự việc, mà quanh co khéo léo. Nói không rõ ràng minh bạch, mà ám chỉ nọ kia… Những người gièm pha là những người thuộc loại thọc gậy bánh xe, có sức phá hoại ngầm, rất độc hại

– Một người nóng giận là người thường thiếu sáng suốt, và khó kiềm chế bản thân, nên rất dễ thốt ra những lời vô bổ, quá trớn, và rồi qua cơn nóng giận không thể rút lại được những gì mình đã nói. Hối tiếc, xúc phạm, đau lòng!

– Một người chỉ trích. Thật ra, mình không phải là người khác, không ở trong da thịt, hoàn cảnh của người khác. Làm sao biết rõ những gì họ phải trải qua, phải tranh đấu, phải đối phó. Biết đâu mình trong hoàn cảnh của họ, mình có thể tệ hơn chăng? Vậy tại sao lại chỉ trích? Chỉ trích luôn là con đường có sức công phá những mầm sống, chồi non, phá hoại thiện chí và những cố gắng vươn lên.[21]

  1. Phải cẩn thận trong lời nói

4.1. Cẩn thận trong lời nói sẽ mang lại cho lời nói của mình có giá trị.

Một khuynh hướng rất thông thường là chúng ta luôn nói nhiều hơn mức cần thiết. Một trong những lý do dẫn đến điều này cũng là vì “Nói dễ hơn Làm”. Đôi khi chúng ta tập thành thói quen nói rất nhiều mà không quan tâm đúng mức đến những gì mình nói ra. Sự “lạm phát” lời nói này luôn được những người chung quanh cảm nhận được và phản ứng lại bằng cách đánh giá thấp lời nói của ta. Điều này cũng có nghĩa là chỉ cần ta bớt nói đi, lời nói của ta sẽ tự nhiên có giá trị cao hơn.

Nhưng vấn đề cũng không đơn giản chỉ có thế. Việc nói năng tùy tiện, bừa bãi còn làm ta đánh mất đi năng lực suy nghĩ chín chắn đối với từng vấn đề. Thay vì tập trung sự chú ý sáng suốt để tìm ra giải pháp tốt nhất, ta dễ dàng hài lòng với bất cứ phát biểu nào vừa chợt nghĩ ra được.

Biết hạn chế lời nói một cách thích hợp, chúng ta còn tiết giảm được một năng lượng đáng kể cần thiết cho cơ thể. Cũng có thể bạn có phần nào hoài nghi về việc nói nhiều có ảnh hưởng đến sức khỏe, nhưng đó là sự thật. Người xưa cũng đã nhận biết được điều này nên có nói: “Khẩu khai thần khí tán” (miệng mở ra là thần khí phải hao tốn). Tất nhiên, nói như vậy hoàn toàn không có nghĩa chúng ta phải trở nên lầm lỳ ít nói, có điều là chỉ nên nói những gì ta thấy cần thiết mà thôi.[22]

4.2. Lời nói đi đôi với việc làm

Khi chúng ta biết quan tâm hạn chế những lời nói không cần thiết, chúng ta sẽ tiến dần đến chỗ làm được tất cả những cái mình nói.

Để cho lời nói đi đôi với việc làm không phải là chuyện dễ dàng. Nhưng nếu ta chỉ nói ra những điều đã cân nhắc thận trọng thì điều này hoàn toàn có thể thực hiện được.

Khi nói ra với sự ý thức đầy đủ là mình sẽ thực hiện lời nói đó, chính là chúng ta đã biết sống tỉnh thức trong hiện tại mà không buông bỏ những giây phút sống của mình vào sự lơ đễnh, lãng quên.

Việc giữ cho lời nói đi đôi với việc làm sẽ hoàn thiện nhân cách của bạn rất đáng kể và điều này có thể dễ dàng nhận ra được qua cung cách mà những người chung quanh sẽ đáp lại với bạn. Bạn sẽ không còn mấy khi phải nghe người khác than phiền về chuyện “Nói dễ hơn Làm”. [23]

4.3. Cùng một sự kiện, hai phản ứng khác nhau.

“Chuyện kể rằng, một ngày kia trong buổi lễ ở nhà thờ của một ngôi làng nhỏ, cậu bé giúp lễ Misa lúng túng tuột tay làm đổ chén rượu lễ. Vị Linh mục giận dữ xáng một tát tai, đuổi ra, la lớn: “Đi khỏi đây, và đừng bao giờ trở lại nữa!” Cậu bé run rẩy đi xuống, mặt đỏ bừng, vừa sợ, vừa xấu hổ. Về sau cậu bé đó trở thành Tito, nhà lãnh đạo độc tài của đảng Cộng Sản Nam Tư trong nhiều thập niên.

Cũng trong một lễ Misa khác ở một ngôi đại giáo đường, một cậu bé giúp lễ khác cũng phạm một lỗi lầm tương tự: làm đổ chén rượu lễ. Vị giám mục già không tỏ vẻ giận, nhưng lại nheo mắt, cúi xuống ghé vào tai cậu bé nói nhỏ: “Không sao! Một ngày kia con sẽ làm linh mục!”. Cậu bé đó lớn lên trở thành tổng giám mục Fulton Sheen.” [24]

 

 

 

 

II. LỖI ĐỨC YÊU THƯƠNG QUA LỜI NÓI

 

  1. Điều cốt yếu của đạo là mến Chúa yêu người.

Tôi có đạo, và tôi hân hạnh xưng mình có đạo. Nếu ai hỏi tôi về đạo, tôi thưa: Điều cốt yếu của đạo tôi là tin thờ Thiên Chúa. Khi trước tôi tưởng thế là đủ. Nhưng bây giờ xét kỹ lại, tôi thấy không đủ. Bởi vì đạo của tôi buộc không những phải tin thờ Chúa, mà còn phải thương yêu người khác.

Tôi ngỡ yêu người chỉ là điều phụ. Nhưng đọc lại Kinh Thánh, tôi thấy yêu người cũng là điều chính. Một luật sĩ đến hỏi Chúa Giêsu rằng: “Trong các điều răn, điều răn nào trọng nhất?” Chúa Giêsu đáp: “Đây là điều răn thứ nhất: ngươi phải kính mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn điều răn thứ hai cũng giống điều trước: là hãy yêu thương anh em như chính mình vậy”(Mc 12,28-31). Nếu điều răn thứ hai cũng giống điều răn thứ nhất, thì tất nhiên yêu người cũng quan trọng như mến Chúa, cũng phải giữ cẩn thận như mến Chúa.

Như thế, căn bản đạo có thể tóm tắt vào hai việc mến Chúa yêu người. Thực ra, đó chỉ là hai mặt của một tình yêu. Cả hai chỉ là một. Bỏ một tức là bỏ hai. Đủ cả hai mới thành đạo. Vì thế, kẻ vô thần không mến Chúa, thì gọi là vô đạo. Người Công Giáo không yêu người cũng là một thứ vô đạo [25]

  1. Giới răn mới.

2.1. Mến Chúa yêu người trong Cựu Ước.

Trong Cựu Ước, điều luật yêu mến Thiên Chúa được ghi lại trong sách Nhị Luật: “Hỡi Israel ! Hãy nghe đây, Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất. Ấy vậy, ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết sức ngươi. Các lời hôm nay Ta truyền cho ngươi, ngươi hãy ghi tạc trong lòng. Hãy ân cần dạy dỗ các điều đó cho con cái ngươi. Hãy rao truyền các điều đó khi ở nhà cũng như khi đi đường, khi nằm ngủ cũng như khi thức dậy. Hãy buộc những lời ấy vào tay làm dấu, mang trên trán làm phù hiệu” (Đnl 6,4-9).

Giới răn yêu người được tìm thấy trong sách Lêvi: “Ngươi chớ oán thù, chớ nuôi thù oán cùng kẻ lân bang nhục mạ mình. Hãy yêu thương người lân cận như chính mình ngươi vì Ta là Chúa” (Lv 19, 18).

2.2. Mến Chúa yêu người trong Tân Ước.

Còn trong Tân Ước, Đức Giêsu dạy :”Ngươi phải kính mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Đó là điều răn thứ nhất và quan trọng nhất. Còn điều răn thứ hai cũng giống như vậy: ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi” (Mt 22, 37-39).

2.3. Điểm khác biệt giữa giới luật yêu thương của Đức Giêsu và người Do Thái thời bấy giờ.

Khi nghiên cứu đoạn Kinh Thánh này, chúng ta thường cắt nghĩa từ ngữ “người lân cận” theo quan điểm Kitô giáo. “Người lân cận là người ở gần bên chúng ta”. Có Nghĩa là tất cả những người chúng ta gặp trên đường đời. Nhưng vào thời Chúa Giêsu, từ ngữ “người lân cận” chẳng có nghĩa như thế. Chính vì vậy Chúa Giêsu đã phải giải thích bằng một dụ ngôn khi Ngài trả lời cho nhà thông luật.[26]

“Người kia đi từ Giêrusalem đến Giêricô dọc đường bị sa vào ổ cướp. Chúng lột hết quần áo và đánh nhừ tử, rồi bỏ mặc người nửa sống nửa chết mà đi. Tình cờ một thầy cả nọ cũng xuống theo con đường ấy, thấy người kia, ông liền tránh một bên và đi qua. Cũng vậy, một thầy Lêvi đến nơi, thấy thế cũng tránh một bên và đi qua. Song một người Samari đi đường thấy vậy, liền động lòng thương người ấy. Ông liền lấy dầu và rượu xoa rịt vết thương, lại đặt lên ngựa mình, đem về nhà quán mà săn sóc. Hôm sau, ông trao cho chủ quán hai quan tiền và dặn rằng “Xin săn sóc người này, có tốn kém hơn thì lúc về tôi sẽ trả thêm”. Trong ba người đó, ông nghĩ ai là kẻ lân cận với kẻ bị cướp ? Luật sĩ thưa : Chính kẻ đã thương giúp nạn nhân. Chúa Giêsu phán : Ông hãy về bắt chước như thế” (Lc 10,29-37).

Để giúp hiểu rõ từ ngữ “người lân cận”, Đức Giêsu phải trưng dẫn trường hợp của người Samaritanô. Dân Samaritanô có quê quán ở miền đất Babylon và họ đến định cư trong dân Israel. Họ đã hấp thụ đạo Do Thái ở một mức độ nào đó, song dân Samaritanô không bị đồng hóa với giòng giống Hy Bá, ngay cả trong lãnh vực tôn giáo. Thực thế, họ không bao giờ chấp nhận hoàn toàn tôn giáo của người Hy Bá cũng như truyền thống và giống nòi của họ.

Họ đã xây một đền thờ trên núi Garizim. Họ đã thờ phượng Thiên Chúa ở đó không bằng hình ảnh, và họ  không thừa nhận đền thờ Giêrusalem. Ngoài ra, họ đã thiết lập một hàng tư tế riêng đối lập với hàng tư tế ở Giêrusalem.

Những sự tương đồng và đối lập giữa hai tôn giáo, cộng với sự gần gũi va chạm, đã tạo ra lòng thù ghét giữa người Samaritanô và người Do Thái. Chúng ta nhớ lại câu chuyện người đàn bà Samaritanô. Khi Chúa Giêsu hỏi chị ta, thì chị ta ngạc nhiên đáp: “Ông là người Do Thái mà lại xin tôi nước uống cùng tôi là người đàn bà Samaritanô sao?” Và thánh Gioan giải thích thêm: “Thật ra, dân Do Thái chẳng hề giao thiệp với dân Samaritanô”(Jn 4,9).

Như vậy, từ ngữ “người lân cận” được nói trong Cựu Ước dường như chỉ áp dụng cho một chủng tộc riêng biệt hay một nhóm có tinh thần đặc biệt [27] hay nói cụ thể ra, từ ngữ “người lân cận” ở đây có nghĩa là những người thuộc chi tộc Israel [28]

  1. Những điểm Đức Giêsu muốn qua dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu.

3.1. Chuyện ngày xưa.

Càng suy càng thấy đau xót.

Vị thầy cả chuyên giảng luật Chúa. Nhưng luật căn bản của Chúa là luật bác ái thì ngài lại không giữ.

Thầy Lêvi thuộc hạng người thế giá, lại chuyên lo việc đạo, nhưng điều răn chính của đạo là yêu thương thì họ lại không thực hành.

Còn người Samaritanô mà người Do Thái kể là kẻ ngoại, không nên đi lại tiếp xúc, thì lại thực sự yêu người.

Ông thực sự yêu người, bởi vì ông đã thực sự cho đi. Yêu thương là cho đi. Ông đã cho đi thời giờ, tiền của, công lao khó nhọc của ông, bàn tay săn sóc của ông, những lo lắng của ông đối với nạn nhân chứng tỏ ông đã cho đi rộng rãi tấm lòng yêu thương chân thành của ông. Ông đã cho đi nhiều, nên ông đã yêu thương nhiều.

Còn hai vị kia có cho gì đâu để đáng gọi là yêu thương ![29]

3.2. Chuyện hôm nay.

Cứ mỗi lần nghĩ tới dụ ngôn Chúa nói về gương yêu người, tôi lại buồn. Có một cái gì như mỉa mai làm tôi hổ thẹn. Có một cái gì cay đắng làm tôi bứt rứt. Tôi tưởng rằng, khi đưa ra gương yêu người, Chúa sẽ bảo: Hãy bắt chước thầy cả này, người giáo hữu kia. Nhưng Chúa lại bảo : Hãy bắt chước gương người ngoại đạo !

Không những thế, Chúa còn đem ra đối chiếu ba thái độ : một của thầy cả, một của người quý chức trong đạo và một người ngoại giáo. So sánh lại càng thấy rõ hai vị cao cấp trong tôn giáo kia thua kém xa người ngoại đạo.

Tất nhiên, dụ ngôn nhắc lại đạo cũ. Các người trong chuyện đều đã qua rồi.

Nhưng tôi tự hỏi : Nếu hôm nay Chúa đến đất nước này, hay đến miền này để giảng lại dụ ngôn bác ái, Chúa sẽ đem ai ra làm gương ? Biết đâu Chúa sẽ nói y nguyên dụ ngôn trên với những danh từ mới.

Nghĩ tới đây, tôi buồn kinh khủng.

Tôi buồn vì thấy nhiều khi chúng tôi giống hệt mấy người lãnh đạo tôn giáo xưa. Họ đi đâu cũng treo luật Chúa trước ngực, nhưng trong lòng thì độc ác. Cũng thế, đi đâu chúng tôi cũng mang danh hiệu của đoàn thể bác ái này, tổ chức đạo đức kia, mở miệng ra là khuyên yêu thương bác ái, nhưng lòng chúng tôi chứa đầy ganh ghét, hành động vẫn ác nghiệt, lời nói xấu như mũi tên độc bắn lén trong đêm. Đôi khi chúng tôi có làm được ít việc bác aí, nhưng bao lần làm để trình diễn hơn là thực sự bác ái.

Tôi buồn vì thấy nhiều khi chúng tôi hành động giống hệt những người Do Thái xưa. Họ không dám vào phủ đường của Philatô, nại lý do là nhà Philatô là nhà ngoại đạo, kẻ có đạo vào đó sẽ mắc dơ (Gn 18-28). Nhưng chính lúc đó, họ không ngại cáo gian và xin lên án giết một người cực thánh là Chúa Giêsu. Cũng thế, nhiều khi chúng tôi cặn kẽ với một vài hình thức đạo đức bề ngoài, nhưng lại coi thường các tội tày trời lỗi đức thương yêu, như cứng cỏi với người nghèo nàn, khinh dể kẻ yếu đuối, tàn nhẫn với người đau khổ, nói xấu bỏ vạ…Tôi lo sợ chúng tôi cũng bị Chúa mắng trách như ký lục và biệt phái xưa :

“Khốn cho các ngươi, ký lục và biệt phái giả hình, các ngươi ngốn cả nhà cửa các bà góa mà còn làm bộ cầu nguyện lâu dài.

“Khốn cho các ngươi, ký lục và biệt phái giả hình, các ngươi đi nộp thuế thập phân về bạc hà, rau ngò, rau húng, nhưng lại bỏ lơ những điều quan trọng hơn hết của lề luật là lòng chính trực, lòng nhân nghĩa, lòng thành tín. Các ngươi gạn lọc con muỗi nhưng lại nuốt trôi con lạc đà !

“Khốn cho các ngươi, ký lục và biệt phái giả hình, các ngươi rửa sạch chén đĩa, nhưng trong lòng thì đầy tham ô vô độ”

Tôi có vào số những người đó không ?

Tôi biết rằng : Đạo tôi là yêu thương và yêu thương là biết cho đi.

Tôi cũng biết rằng : lịch sử đạo tôi không thiếu những gương yêu thương.

Nhưng nơi khác có, mà có thể ở đây không có. Trước có, mà có thể hôm nay không có.

Nếu thực sự hôm nay và ở đây không có, thì không gì đau xót bằng. Là thành phần của đoàn thể, của họ đạo, của địa phận, của Giáo Hội, tôi có trách nhiệm về sự thiếu sót đó [30]

  1. Lỗi giới răn yêu thương qua lời nói: nói hành nói xấu.

Ngay từ hồi nhỏ, tôi đã được sách giáo khoa dạy rằng : không gì tốt bằng cái lưỡi, nhưng cũng không gì xấu bằng cái lưỡi.

Hồi đó tôi không hiểu lắm. Nhưng dần dần, càng đi sâu vào đời, tôi càng nghiệm thấy đúng.

Không biết tôi có bi quan hay không. Nhưng kinh nghiệm sống đã cho tôi cảm nghĩ không mấy khác những tư tưởng của mấy đoạn Kinh Thánh sau đây : “Nhiều người đã chết vì võ khí, nhưng số người chết vì chính cái lưỡi của mình lại nhiều hơn” (Huấn đạo 28,32). “Rắn rết và thú dữ thì con người trị nổi, chỉ có cái lưỡi là khó ai trị nổi. Nó đầy nọc độc. Đi đâu thì hại đó…” (Gc 3,7-8).

Cái lưỡi con người độc đến nỗi giết được người khác. Nhưng đáng sợ nhất là nó có thể giết luôn chính người có lưỡi. Tất nhiên ở đây nói theo nghĩa bóng. Giết có nghĩa là làm hại.

Lưỡi tôi hại tôi, vì tôi dùng nó để hại người khác. Cách dễ nhất để hại người khác là nói xấu họ.

Nói xấu người khác dễ ợt, chẳng vất vả gì, chẳng tốn kém gì. Nói ở đâu cũng có người nghe. Nói bất cứ điều xấu gì về người khác dù có thực, dù bịa đặt, thì cũng có người chú ý. Chính vì thế mà tôi dễ phạm và tôi coi thường[31]

4.1. Những cách nói xấu.

Thánh Bonaventura chỉ điểm cho tôi bốn cách nói xấu :

– Một là khi người khác có sự tốt còn kín, tôi tìm cách che dấu đi, kẻo có ai biết mà khen.

– Hai là khi người khác có sự tốt đã trống, tôi tìm cách dèm pha, để người ta nghi ngờ mà bớt khen.

– Ba là khi người khác có sự xấu còn kín, tôi tìm cách khui ra để người ta biết mà chê.

– Bốn là khi người khác có sự xấu đã trống, tôi tìm cách tuyên truyền rộng ra, để người ta càng thêm biết để mà chê.

Cách nào cũng xấu hết. Và cũng không một lý do nào biện minh được cho việc nói xấu của tôi [32]

4.2. Cách nói hành nói xấu thâm độc

Có kẻ khi muốn nói hành, đã khôn khéo tuyên bố danh dự trước, hoặc nói những lời có vẻ tử tế, hay đượm hài hước: đó là kẻ nói hành tinh quái và độc dữ nhất. Chúng nói: “Tôi tuyên bố rằng tôi quí mến người ấy, đàng khác, đó là một con người lịch thiệp. Tuy vậy phải nói thật, hắn đã bậy bạ khi làm chuyện đồi bại kia … Còn cô kia là con nhà đạo đức tử tế, song cô ta bị yếu đuối, sơ hở …”, và các điều khéo nói, đón trước rào sau như vậy. Con đã thấy cách lèo lái tinh quái ở đó chưa? Kẻ bắn cung, trước hết kéo cái tên về mình cho hết sức, nhưng cốt để bắn đi mạnh hơn. Những kẻ nói trên kia, có vẻ rút lời nói xấu về mình, nhưng mục đích là để bắn đi mạnh mẽ, làm cho cắm sâu vào lòng kẻ nghe hơn. Nói hành dưới hình thức hài hước thì ác hiểm hơn hết, vì như thuốc độc tự nó không mạnh, ngấm rất chậm nên dễ khử trừ, song nếu uống với rượu thì vô phương cứu chữa. Nói hành cũng vậy, một mình nó sẽ trượt tai này sang tai kia như người ta thường nói, nhưng nếu được dặm thêm vào đôi ba câu bông đùa, tinh quái, nó sẽ bám chắc vào trí người nghe. Đavít nói: “Những kẻ ấy có nọc rắn độc dưới làn môi” (Tv 139,4). Rắn độc cắn, bắt đầu ta như không cảm thấy gì, nọc nó chỉ làm cho ta ngứa và gãi bằng thích, do đó quả tim và ruột gan ta càng thấm chất độc, và sau đó vô phương chạy chữa.[33]

4.3. Thay vì nói hành lại ca tụng những tính nết xấu xa của người khác.

Dù phải rất dè giữ cho khỏi nói hành người đồng loại, song cũng còn phải giữ kẻo lại thái quá trong vấn đề đó, như có một số người vì tránh nói hành lại ca tụng, nói tốt về các tính hư nết xấu. Nếu có ai nói hành, con đừng bào chữa cho họ là ngay thẳng và thành thật. Nếu người nào rõ ràng có tính hão huyền, đừng bảo họ là hào hoa đại độ. Các điều quá thân mật nguy hiểm, đừng cho là đơn sơ vô tội. Sự bất tuân phục, đừng cho là nhiệt thành, và che đậy tính kiêu ngạo dưới danh từ cương trực, hay mệnh danh sự dâm đãng là tình bạn bè. Đừng, con đừng nghĩ là trốn tránh tật nói hành bằng cách ủng hộ các tật xấu khác. Trái lại, cái xấu phải nói là xấu, cái gì đáng trách phải trách mắng. [34]

  1. Hậu quả của việc nói hành nói xấu

5.1. Hậu quả của việc nói hành nói xấu: Ai làm mất tiếng tốt của kẻ khác cách bất công, không kể có tội, còn phải đền bù, tuỳ thứ loại của nó mà đền khác nhau. Không ai có thể vào Thiên Đàng mà còn giữ của kẻ khác, mà trong các của cải bề ngoài, danh thơm là của quí nhất. Nói hành là một thứ sát nhân, vì ta có ba sự sống:

– Sự sống thiêng liêng là ơn nghĩa Thiên Chúa.

– Sự sống thể xác mà hồn là căn nguyên.

– Đời sống xã hội mà danh tiếng là huyết mạch.

Tội làm mất sự sống thứ nhất, chết làm mất cái thứ hai, nói hành làm mất cái thứ ba. Thường thường kẻ nói hành khi khoa môi múa mỏ, sát hại ba mạng sống: nó giết hồn mình và hồn kẻ nghe nó cách thiêng liêng, và huỷ đời sống xã hội của kẻ bị nói hành. Như thánh Bênađô nói: Kẻ nói và nghe nói hành, trong mình đều có ma quỉ: kẻ nói thì có trên lưỡi như lưỡi rắn. Kẻ nghe thì có nơi tai. Đavít nói về kẻ nói hành: “Chúng mài lưỡi nhọn như lưỡi rắn” (Tv 139,4). Mà con rắn, theo nhận xét của Aristote có lưỡi chẻ làm hai và nhọn. Lưỡi kẻ nói hành y như thế, mỗi lần vận dụng lưỡi là vừa cắn vừa tiêm nọc độc vào tai kẻ nghe và vào danh thơm kẻ bị nói hành. [35]

Hỡi con, tôi tha thiết cầu mong con đừng bao giờ nói xấu ai cả, trực tiếp hay gián tiếp cũng vậy. Giữ mình đừng gán cho người khác những tội ác, những lỗi lầm giả, hoặc bới móc những lỗi kín, phóng đại những lỗi đã hiển nhiên, cắt nghĩa xấu một việc tốt, chối sự tốt mà con biết là người ta có, hay che lấp cách tinh quái sự tốt ấy hoặc làm giảm giá trị đi bởi đôi lời nói nọ kia: bằng tất cả những cách ấy, con xúc phạm nặng nề tới Thiên Chúa. Nhưng, nhất là khi cáo gian hay chối sự thật làm cho người ta bị hại, vì ở đây có hai tội: vừa nói dối, vừa làm hại người ta.

5.2. Khi tôi nói hành nói xấu, tôi tỏ ra là đồ hèn.

– Tôi hèn vì nói xấu là một điều trộm vụng. Đó là thái độ tiểu nhân, bắn lén tên độc trong đêm tối.

– Tôi hèn vì nói xấu là một việc thiếu ngay thẳng. Thường, lời nói xấu của tôi hay được ngụy trang dưới những ý hướng đạo đức giả tạo, nào là để cầu nguyện cho họ, nào là để rút kinh nghiệm… nhưng tôi thử hỏi Chúa Giêsu xem tôi thực sự có ý ngay lành hoàn toàn không ?

– Tôi hèn vì nói xấu là dùng cách đê tiện để khoe mình. Nói xấu ai tức là chê họ. Mà chê ai thì bao giờ cũng gián tiếp khoe mình không xấu như họ. Hơn nữa, sự nói xấu đó nhiều khi cũng ngầm một sự ganh tỵ kiêu căng muốn hạ người khác để mình được nổi hơn.

– Tôi hèn vì nói xấu là dùng cách bần tiện để cầu thân. Nhiều khi gặp ai, tôi không có gì cho hay nói, thì làm quà cho họ một chuyện xấu của kẻ vắng mặt. Gọi là để tâm sự, gọi là để chứng tỏ lòng mình tin tưởng. Sự tôi làm như thế đã tố cáo tôi là kẻ nghèo nàn hèn hạ.[36]

5.3. Khi tôi nói hành nói xấu, tôi bị hại lớn.

– Tôi bị hại lớn, vì tôi đã làm cho người khác không tin ở tôi. Điều đó dễ hiểu. Ai biết suy nghĩ một chút tất phải nghĩ rằng một người hay nói xấu người khác với họ, thì cũng dễ nói xấu họ với kẻ khác. Một người không biết kính trọng kẻ vắng mặt, thì đâu họ có trừ ai.

– Tôi cũng sẽ bị hại lớn, vì tôi phạm tới đức công bình bác ái. Nói xấu là một cách đâm chém và ám hại người. Tiền bạc sức khoẻ là quý nhưng danh giá còn quý hơn nhiều. Người bị tôi nói xấu sẽ bị thiệt thòi mất mát. Những tủi nhục, mặc cảm và đau đớn khó chịu khó có thể lường được. Nhiều khi lời nói xấu của tôi còn ảnh hưởng đến sự nghiệp, đến liên đới của họ đối với bạn bè, đến cả đời sống xã hội của họ nữa.

– Tôi sẽ bị hại lớn, vì khó có thể đền trả được những thiệt hại do tội nói xấu của tôi gây nên. Rắc một nắm bông gòn ra đường trước gió, rồi sau đó lượm lại, hỏi rằng kết quả được bao nhiêu. Cũng thế, lời nói xấu của tôi cũng bay từ miệng người này sang miệng người khác, làm sao dập tắt được. Rồi những đau khổ mất mát tinh thần vật chất người ta phải chịu do lời nói xấu của tôi, thì làm sao tôi đền trả được. Mà không đền trả thì không thể xong mình trước mặt Chúa.

– Tôi sẽ bị hại lớn, nhất là vì tôi sẽ bị Chúa phạt nặng nề. Sự tôi làm cho người khác thì Chúa kể như là làm cho chính Chúa. Như thế là chết tôi rồi [37]

  1. Sửa chữa tính nết xấu qua lời nói

6.1. Hãy cẩn thận khi nhận xét về các hành vi lời nói của người khác

Con đừng nói: “Người này say sưa rượu chè”, dù con nhìn thấy rõ ràng họ đang say sưa đi nữa; hay “Người kia ngoại tình”, vì con đã bắt chợt quả tang họ phạm tội; hoặc: “Người nọ loạn luân”, vì con đã thấy họ phạm lỗi ấy: tại vì chỉ mới thấy một hành động thôi chưa đủ để tặng họ danh từ ấy. Mặt trời ngưng lại một lần cho ông Gioduê thắng trận (sách Giodue 10-13), và một lần khác sầm tối lúc Chúa Cứu Thế tắt hơi, không ai lại vì đó mà nói mặt trời bất động hay tối đen! Ông Noe say rượu một lần, ông Lót một lần khác, đèo thêm vào đó một tội loạn luân, nhưng đâu có phải hai ông là kẻ nghiện rượu, hay ông thứ hai có tật loạn luân. Phêrô không là tên khát máu vì đã một lần làm đổ máu (khi chém đứt tai tên đầy tớ), hay ông là kẻ lộng ngôn chỉ vì đã nói phạm một lần (khi chối Chúa). Để đội tên một tính xấu hay một nhân đức, phải đã có tập quán và làm liên tục. Cho nên gọi một người là nóng nảy hay là đứa trộm cướp, vì ta thấy họ nóng giận hay ăn cắp một lần: đó là nói ngoa.

Dù một người đã có nết xấu lâu, ta cũng liều mình nói ngoa khi gọi họ là kẻ xấu nết. Ông Simong “hủi” gọi Mađalêna là gái tội lỗi, vì trước kia cô như thế. Nhưng ông đã nói sai, vì cô không còn thế nữa, trái lại, là người sám hối thánh thiện. Vì thế Chúa Giêsu đã bênh vực cô (Lc 7,36-50). Người Pharisiêu ngạo nghễ kia coi người thu thuế là kẻ đại nghịch bất đạo, hoặc ít nhất, kẻ bất công, ngoại tình, cưỡng đoạt, nhưng hắn lầm to, vì ông này được nên công chính ngay sau đó (Lc 18,9-14). Vì lòng nhân từ của Thiên Chúa lớn lao, đến nỗi chỉ một giây phút đủ để xin ơn và được ngay, thì ta làm sao dám quyết đoán chắc chắn rằng: người tội lỗi hôm qua, hôm nay vẫn thế? Ngày hôm qua không có phép xử đoán ngày hôm nay, và ngày hôm nay về ngày hôm qua. Chỉ có ngày sau cũng sẽ xét đoán về tất cả. Như thế không bao giờ được nói người ta độc ác mà không có nguy cơ là nói sai. Ta chỉ có thể nói – nếu có bổn phận – là họ đã làm một hành động xấu nào, đã sống trong tội thời gian nào, hay hiện thời đang làm điều ác. Nhưng không được kết luận từ ngày hôm qua, về ngày hôm nay, cũng như từ ngày hôm nay về ngày hôm quan, huống chi là về ngày mai.[38]

6.2. Hãy cẩn thận khi khiển trách tính hư nết xấu của người khác

Để khiển trách thói xấu kẻ khác, cần phải nhắm lợi ích của kẻ ấy hay của kẻ ta đang nói với. Trước mặt các thiếu nữ mà tả những chuyện ái ân kín đáo của người này người nọ, những chuyện ấy hiển nhiên là nguy hiểm; hoặc cách sống buông tuồng của người này kẻ khác, trong lời nói hay bằng thái độ cử chỉ dâm đãng: vậy nếu tôi không khiển trách ngay cuộc nói chuyện xấu ấy mà lại có ý miễn chấp, thì các tâm hồn non trẻ đang nghe kia sẽ nắm cơ hội để buông theo. Cho nên lợi ích của họ đòi tôi phải khiển trách thẳng thắn những chuyện ấy ngay lúc đó, trừ phi tôi có thể dành lại dịp khác nói tiện hơn, và ít tai hại cho kẻ mà ta nói đến. [39]

Ngoài điều kiện trên, còn phải là người có phận sự phải nói về vấn đề này nữa, như khi tôi là đầu trong cuộc hội họp ấy, mà nếu tôi không khiển trách, thì ra vẻ tôi tán thành tính xấu. Còn nếu tôi là một người bề dưới, tôi không có phận sự răn trách như thế. Nhất là tôi phải hết sức đúng trong lời nói để không một câu nào thừa. Chẳng hạn, tôi trách sự quá thân mật giữa thanh nam và thanh nữ kia, vì suồng sã và nguy hiểm, thì tôi phải cân nhắc cho đúng, đừng phóng đại thêm mảy may nào. Nếu chỉ có bóng dáng nhỏ mọn bên ngoài thôi, tôi sẽ nói chừng đó. Nếu là một sự dại dột thôi, tôi sẽ không nói thêm. Nếu chẳng có bóng dáng tội lỗi cũng chẳng có gì dại dột thật mà chỉ làm dịp cho vài đầu óc độc ác lấy cớ nói hành, thì tôi sẽ không nói gì hết. Khi nói về người đồng loại, cái lưỡi ở trong miệng cũng như dao mổ trong tay nhà giải phẫu, muốn cắt giữa hai đường gân, vậy phải nhắm sao cho vừa đúng, để khỏi nói thừa nói thiếu. Và sau cùng, khi răn trách thói xấu, ta phải gắng kiêng nể người có tính xấu ấy được chừng nào hay chừng ấy.

Người ta thường tự tiện phê bình, đoán xét các bậc vua chúa và nói xấu mọi quốc gia tuỳ theo tâm tình họ thuận hay nghịch đối với các vị ấy, phần con, đừng rơi vào lỗi ấy, ngoài sự xúc phạm Thiên Chúa, con còn có thể gây muôn ngàn mối bất hoà.

 Khi con nghe ai nói hành, hãy nghi vấn về lời cáo ấy, nếu có thể làm được cách chính đáng, nếu không, hãy bênh vực chủ ý người bị cáo. Nếu trường hợp sau này cũng không được nốt, con hãy tỏ lòng thương cảm họ, hãy gạt câu chuyện qua bên, trong khi đó con nhớ và nhắc bạn bè nhớ rằng: người không sai lỗi là nhờ ơn Chúa. Con hãy khéo đưa kẻ nói hành nghĩ đến bản thân hắn. Hãy nói vài điều tốt mà con biết về người bị nói hành.[40]

 

 

 

 

 

 

III. LỖI ĐỨC YÊU THƯƠNG QUA VIỆC XÉT ĐOÁN

 

  1. Lỗi giới răn yêu thương qua xét đoán.

1.1. Những ảnh hưởng trên việc xét đoán

1.1.1. Thành kiến.

Chính sự yêu- ghét, hay nói cách khác sự chủ quan đã sản sinh ra những đứa con ruột, một trong những đứa con đó là : thành kiến.

Câu chuyện sau đây chứng minh điều chúng ta đang đề cập:

“Có một người rất giàu, ở nước Tống bên Trung Quốc. Ông xây bức tường thật cao chung quanh nhà để đề phòng kẻ gian xâm nhập.

Một hôm, mưa to gió lớn làm một cây bên đường ngã đổ làm tường thành nhà ông sụp đi một khoảng. Người con thấy thế nói:

Xây tường thành ngay đi, nếu không trộm cướp sẽ vào.

Người láng giềng thấy tường đổ cũng sang nhìn và bảo:

Này bác, không xây tường lại e có trộm vào.

Tường chưa kịp sửa chữa lại, ngay đêm đó nhà ông phú hộ có trộm tới thăm. Sáng ra, khi biết nhà bị mất trộm, ông khen người con là khôn ngoan, thấy xa biết trước mọi sự, và nghi ngờ ông láng giềng gian xảo, lợi dụng thời cơ xâm nhập gia cư, lấy trộm đồ đạc của ông.

Ai là thủ phạm? Khó biết! Nhưng không thể bỏ qua yếu tố: có khi chính người con là thủ phạm chăng?”

Thói thường của người đời là thế!

          “Yêu ai yêu cả đường đi,

          Ghét ai, ghét cả tông ti họ hàng.”

Nếu bạn thấy ai đó làm việc gì mà bạn có ý kiến như là người đó làm việc tốt, hoặc xấu, thế là bạn bèn có ý kiến cố định về người đó, để rồi mươi ngày hay cả năm sau, khi bạn gặp lại họ, bạn vẫn còn giữ cái ý kiến của bạn về họ.

Nhưng mà trong khoảng thời gian đó, có thể là họ đã thay đổi rồi.

Cho nên, điều rất quan trọng là đừng bao giờ nói: “Hắn là thế đó”, mà nói: “Hắn đã như thế vào tháng Hai”, bởi vì tới cuối năm thì hắn đã đổi khác hoàn toàn mất rồi.

Nếu bạn nói về ai đó: “Tôi biết người này”, có thể là bạn sẽ sai hoàn toàn, bởi vì bạn chỉ biết về hắn vào khoảng thời gian nào đó, hoặc bởi một sự kiện xảy ra vào một thời điểm nào đó, ngoài ra, bạn chẳng biết gì về hắn cả. [41]

Cho nên điều quan trọng là mỗi khi gặp người nào, bạn hãy tiếp xúc với họ bằng một tâm hồn hoàn toàn trong sáng, không với những thành kiến, không với những định kiến và không với những quan điểm của riêng mình” (Krishnamurti ).

Thành kiến làm lệch sự thật, thường nghiêng về xu hướng tiêu cực, vì thế, có thể đẩy chúng ta vào lỗi phạm về đức ái. [42]

1.1.2. Yêu nên tốt, ghét nên xấu

Chúng ta có thể bị tình cảm và định kiến chi phối, nên thường đánh giá con người và sự việc một cách chủ quan, thiên lệch; có thể “vo tròn, bóp mép” mọi điều cho vừa, cho khớp với ý nghĩ và tình cảm của mình.

Chuyện ngày xưa, bên Trung Hoa có một ông quan rất được nhà vua sủng ái. Ngày kia, thiên hạ đem dâng cho nhà vua một món sơn hào hải vị. Thấy vậy, ông quan này bèn xơi trước một bát. Nhà vua nghe biết liền khen:

Rõ thật là bậc trung thần, ăn trước để xem trong món
sơn hào hải vị ấy có thuốc độc hại trẫm hay không.

Thời gian sau, ông quan này bị thất sủng. Ngày kia, thiên hạ cũng đem dâng cho nhà vua một món sơn hào hải vị. Thấy vậy, ông quan này cũng xơi trước một bát. Khi nghe biết, nhà vua bèn đùng đùng nổi giận và quát mắng: Rõ thật là đồ khinh quân phản phúc, dám xơi trước, chẳng còn kính nể gì trẫm nữa. Không những phải tội chết, mà còn phải tru di tam tộc.

Nói thế rồi, nhà vua bèn truyền lệnh:

Lính đâu? Chém đầu.

Đúng là: “yêu nên tốt, ghét nên xấu”. Làm sao biết được lòng người mà ứng xử đây? Làm sao ở cho vừa lòng người?

Những lời nhận định của chúng ta về người khác thường bị lăng kính YÊU- GHÉT làm lệch lạc. Vì thế, khi nghe điều gì, chúng ta cần tìm hiểu mối quan hệ của người nói, với đối tượng họ nói, và những gì họ nói với sự “tỉnh thức” mà một số người khôn ngoan, những triết gia, các danh nhân cũng như các nhà tâm lý… sẽ soi sáng cho chúng ta hiểu rõ hơn qua những nhận định khá rõ nét sau đây:

Một người có giá trị hay đạo đức thật sự, không cần phải chen lấn với người khác, mà nằm ở chỗ làm cho người khác “lớn lên”. Giúp cho người khác nổi bật, đèn cùng sáng, chuông cùng vang, chứ không phải dập tắt đèn người khác. [43]

1.1.3. Phóng chiếu

Theo tâm lý chiều sâu, những gì chúng ta suy diễn, nói xấu, phao tin… là những hành vi phóng chiếu, được chi phối bởi vô thức, bởi một động lực ngầm, ẩn núp bên dưới, có khi rất sâu khó nhận ra. Ngay cả đương sự cũng mờ tối về những động lực chi phối này. Tuy vậy, theo tâm lý chung thì thường tình;

Những gì mình sợ, mình ghét và ngại thấy nơi mình nhất, thì mình phóng ra nơi người khác”. (A. De Mello)

Thật vậy, ai cũng hiểu rằng: lòng nghĩ sao thì nhìn thấy vậy! Sau đây là câu chuyện chứng tỏ điều này:

Một người đàn bà trở về nhà vào ban đêm, chung quanh nhà thật tối; bà ta đang bước vào, thình lình thấy một con rắn khủng khiếp vắt ngang ngay qua cửa. Trong cơn hốt hoảng, bà vội chạy ngay tới nhà kho tìm được một cái xẻng; rồi bà ta dùng hết sức mình đâm trúng được con rắn đứt ra thành nhiều khúc. Tạm gạt xác nó ra một bên, bà vào nhà ngủ, nhưng không sao ngủ được vì cơn hốt hoảng vẫn còn. Hình ảnh con rắn cứ bò tới bò lui trong đầu bà… và còn thấy nó nhào tới, bà hốt hoảng ngồi phắt dậy! Hôm sau thức giấc, bơ phờ mệt mỏi vì thiếu ngủ, bà vội đi chôn con rắn cho khuất mắt.

Trời ơi, đó chỉ là ống nước tưới vườn, mà người làm vườn chưa kịp cuộn lại thôi!

Một sự kiện đau lòng khác nói lên sự phóng chiếu những gì tiềm ẩn bên trong!

Giết con cưng: Một ông bố đi làm về khuya, cô con gái cưng muốn giỡn, hù doạ bố cho vui. Cô vào ngồi trong tủ áo, đợi bố về sẽ làm ngáo ộp. Ông bố vừa bước vào phòng, thì thấy có tiếng động và tiếng thở khò khè đáng sợ, ông nghĩ ngay: Chắc là không ổn rồi, thời buổi này cướp giật nhan nhãn, thế là ông lùi và tìm súng thủ thế, đợi đến lúc “tên cướp” vừa thò đầu ra là ông bắn liền cho mấy phát. Bật đèn lên nhận diện “thủ phạm” thì ông hét lên và té xỉu. Ôi con tôi!!!

Điều gì đã ám ảnh hai người này?

Tại sao bà kia lại nhìn thấy con rắn, mà không nghĩ ra cái gì khác như: cái sào, cái gậy hay khúc củi chẳng hạn?

Tại sao ông kia lại nghĩ là trộm? Và quyết giết cho được thay vì có hành động nào khác?

Phải, nỗi bất an, lo sợ, sâu kín bên trong có thể làm cho mỗi người thấy hay nghĩ đến, hoặc nói ra cái điều mình đang có trong đầu. Phóng chiếu là thế! ”.[44]

1.1.4. Suy bụng ta ra bụng người

Anselm Grun, Đan viện phụ và tiến sĩ thần học người Đức đã nhiều năm đồng hành thiêng liêng và chữa trị tâm lý. Trong cuốn “Chinh phục sự tự do nội tâm” đã nêu lên lập luận của Ephithete về sự xét đoán như sau:

“Tâm lý học hiện đại cho rằng những ý tưởng của chúng ta trên sự vật, quy định sự hiểu biết của chúng ta. Chúng ta không nhìn thấy thực tại một cách khách quan, nhưng qua những cặp kính đặc biệt. Thường một cách vô ý thức, chúng ta phóng chiếu những chờ mong hoặc những nỗi sợ hãi của mình nơi các sự vật. Chính như thế đó mà chúng ta nhìn những người chung quanh qua cặp kính phóng chiếu ấy. Chúng ta phóng ra trên họ những khuyết điểm của mình và suy diễn sai lệch cách hành động của họ

Câu chuyện khá khôi hài của Watzlawik về cái rìu cho chúng ta hiểu thêm về sự phóng chiếu này.

“Một người không tìm thấy cái rìu của mình. Ông bắt đầu nghi ngờ người hàng xóm đã đánh cắp, và cứ thế trong nhiều ngày, ông nhìn người ấy với cặp mắt ngờ vực. Lòng nghi ngờ người hàng xóm cứ lớn dần, và ông nhìn thấy mỗi cử chỉ, hành động của người kia xác minh cho sự nghi ngờ đó. Cuối cùng ông chạy sang nhà người hàng xóm, đấm cửa và hét lớn:

“Thôi được, mày cứ giữ lại cái rìu đáng nguyền rủa của mày đi!”  Câu chuyện rất tiêu biểu và đáng buồn khác của sự nghi ngờ, thành kiến, rỉ tai… được thể hiện trong

vở kịch “Othello” của nhà đại văn hào Shakespeare.

“Othello rất tha thiết yêu thương vợ mình là Desdemona. Và một hôm, hoàng tử Iago đã bịa đặt và nói nhỏ vào tai Othello rằng: “vợ anh không chung thuỷ” lòng tin của chàng bị lung lay. Thành kiến đã sẵn, thêm lời rỉ tai tàn nhẫn đã gieo vào lòng Othello sự nghi ngờ lòng trong sáng của vợ. Chỉ một dấu hiệu nhỏ như chiếc khăn tay rơi ngoài vườn cũng làm cho chàng nghi ngờ và tin vào lời rỉ tai hơn nữa. Chàng đã trở nên mù quáng, mất hết sự sáng suốt. Trong cơn nghi ngờ tột độ, Othello đã siết cổ người vợ vô tội đáng thương của mình.[45]

1.2. Xét đoán xấu đến từ những nguyên nhân xấu.

1.2.1.Nguyên nhân xấu thứ nhất là lòng xấu.

Về điểm này Đức Cha Fulton Sheen đã đưa ra một nhận xét táo bạo. Ngài nói : “Người nào hay đoán xét xấu cho người khác tội gì thường là dấu chính người đoán xét có khuynh hướng ngầm nghiêng ngả rất mạnh về tội đó”. Nhận xét tâm lý này làm tôi sợ quá. Thì ra khi tôi nghĩ cho một điều xấu nào thì chắc chắn người đó đã có điều xấu ấy, nhưng hầu chắc chính tôi lại có tính ham điều xấu ấy. Sự tôi xét đoán đã vô tình tố cáo tôi. Mà thực thế, tư tưởng con người thường là sắc thái của khuynh hướng con người [46]

1.2.2.Nguyên nhân xấu thứ hai là thiếu lòng mến Chúa. Lòng người đạo đức thánh thiện thường đơn sơ và bao dung. Họ chỉ biết mình và biết Chúa. họ không dám nghĩ xấu cho ai. Hơn nữa họ còn cắt nghĩa lành cho kẻ khác. Trong Phúc Âm, hạng người hay xét đoán và hay kết án người khác không phải là ai khác ngoài Pharisiêu, mà Pharisiêu ai cũng biết là họ thế nào[47]

1.2.3.Nguyên nhân xấu thứ ba là tính kiêu ngạo.

Xét đoán ai tức là đặt mình lên trên họ. Mà có ai đặt tôi lên chức đó đâu. Chính mình tôi đặt tôi lên. Và đâu có phải vì lý do bác ái. Thường chỉ vì kiêu ngạo muốn coi mình hơn kẻ khác[48]

1.3. Nguyên nhân xấu đưa đến những hậu quả xấu.

1.3.1.Hậu quả xấu thứ nhất là tôi dễ sai lầm.

Mỗi người là một vũ trụ huyền bí. Ngay chính mình tôi mà tôi cũng chẳng rõ. người khác cũng khó hiểu được tôi. Thế thì tại sao tôi lại tưởng tôi phán đoán đúng được người khác. Đến như tòa án với tất cả những phương pháp khoa học mà vẫn có thể lầm, phương chi tôi. Tốt xấu con người tùy thuộc rất nhiều yếu tố. Thẩm định được chính xác là một điều quá khó. Phần vì trí khôn tôi nhỏ hẹp. phần vì tôi dễ bị ảnh hưởng của thiên kiến, tính xấu, tình cảm, dư luận chi phối. Nên xét đoán người khác là một mạo hiểm [49]

1.3.2. Hậu quả xấu thứ hai là làm tổn thương sự bình an của tâm hồn tôi và tâm hồn kẻ khác.

Thực thế, khi tôi nghĩ xấu cho ai thì tất nhiên tôi cho họ là không tốt. Ý nghĩ đó sẽ gây trong tôi một tình cảm bất kính và bớt tín nhiệm đối với họ. Có thể tôi sẽ dễ khinh họ, coi rẻ họ, dè dặt với họ. Có một cái gì làm tôi xa họ. Thế rồi khi gặp họ hoặc là tôi sẽ có thái độ bất kính đối với họ đúng như lòng tôi bên trong vốn nghĩ, hoặc là tôi sẽ cố gắng tạo một thái độ giả dối bôi bác bề ngoài. Cả hai cách đó đều làm tôi mất mát và cũng làm đau lòng cho kẻ bị tôi xét đoán[50]

1.3.3. Kết quả xấu thứ ba là làm cho tôi không biết rõ sự thực về tôi.

Muốn biết rõ về mình thì phải vô tư, thận trọng và khiêm tốn. Nếu tôi quen xét đoán càn cho người khác thì đâu tôi có những đức tính đó. Không lo xét mình, mà cứ lo xét người khác, đó là một đặc điểm của Pharisiêu[51]

1.3.4. Kết quả xấu thứ bốn là tôi sẽ bị Chúa xét xử nghiêm nhặt.

Có lần Chúa đã nói rõ là những gì tôi làm cho người khác, thì Chúa kể như là làm cho chính Chúa. Như thế khi tôi xét xấu cho người khác, thì tôi lỗ chắc chắn rồi. Trái lại, nếu tôi không xét đoán ai thì tôi sẽ được lời to lớn. Chúa hứa chắc chắn : “Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán”. Chúa đã hứa thì Chúa sẽ giữ lời hứa. Tôi biết tôi nhiều tội quá. Nhưng Chúa đã cho tôi một lối thoát. Tôi sẽ lợi dụng lối thoát đó[52]

  1. Đức Giêsu với việc xét đoán.

2.1. Đức Giêsu với cái hôn của Mađalêna và Giuđa.

Phúc âm chỉ nói tới hai lần Chúa được hôn. Một lần do Giuđa, một lần do Mađalêna.

Giuđa là tông đồ. Ông đi tìm Chúa, khi gặp, ông bước tới ôm Ngài, và hôn mặt (Lc 22,47). Cái hôn của ông có vẻ vừa hợp tình vừa hợp lý. Người ngoài dù lạ dù quen, dù nam hay nữ, không ai đã chê trách cái hôn đó.

Còn Mađalêna thuở còn là một cô gái bị dư luận cho là không đàng hoàng. Cô đi tìm Chúa. Khi gặp, cô quỳ xuống, khóc ướt chân Chúa. Cô lấy tóc lau, và “không ngừng hôn chân Ngài” (Lc 7,45). Nhưng cái hôn của cô có vẻ không được thích hợp. Chả thế mà ông Simon đã lẩm bẩm này nọ trong bụng và đâm nghi ngờ Chúa (Lc 7,39).

Ngay trong thời buổi tự do này, nếu câu chuyện đó xảy ra bất cứ nơi nào trên trái đất, nhất là ở nước tôi, thì chắc chắn người ta sẽ không để cô yên và chính Chúa cũng sẽ bị kết án tơi bời.

Người ta thì thế. Còn Chúa thì sao ?

Chúa đã trách cái hôn của Giuđa và đã bênh những cái hôn của Mađalêna.

Chúa thấy rõ tâm tư thầm kín của từng người. Giuđa hôn Chúa, nhưng để nộp Người. Còn Mađalêna hôn Chúa, để xin ơn làm lại cuộc đời.

Cái hôn của Giuđa chỉ tốt ở bề ngoài vì hợp phong tục, đúng luật xã giao và tình nghĩa. Nhưng ý hướng bên trong thì quá xấu.

Cái hôn của Mađalêna thì bề ngoài không được thích hợp vì những lý do dễ hiểu, nhưng bên trong đầy những ý hướng tốt đẹp.

Giá trị bên trong mới đáng kể.

Chuyện cái hôn trên đây dạy tôi phải biết dè dặt.

Nếu tôi thấy một người có hành động và thái độ xem ra không thích hợp với thói quen xã hội và tôn giáo, thì tôi đừng vội nghi ngờ họ. Họ không được xã hội đồng ý, nhưng trước mặt Chúa, chưa chắc họ đã thua ai. Rất có thể họ đã đẹp lòng Chúa hơn tôi. Chúa đã chẳng bênh Mađalêna và trách ông Simon là gì. Kẻ khinh người khác là tội lỗi đã bị Chúa đặt dưới kẻ chính họ đã khinh [53]

2.2. Đức Giêsu với những người tội lỗi.

Đức Giêsu luôn bênh đỡ những người tội lỗi.

– Một hôm, đám đông điệu một người đàn bà ngoại tình đến trước mặt Chúa Giêsu và tố cáo rằng : Chị này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Cứ theo luật thì chị này phải ném đá chết. Còn Thầy nghĩ sao ?

Chúa Giêsu bình tĩnh trả lời : “Ai trong các ngươi vô tội, thì yêu cầu ném hòn đá thứ nhất đi”. Rồi Chúa cúi xuống, lấy ngón tay viết chữ trên nền nhà, không nhìn, không nói với ai. Lúc ngẩng đầu lên, thì chỉ còn chị phụ nữ đứng đó. Chúa bảo : “Không ai kết án chị sao ? Vậy tôi cũng chẳng kết án chị. Chị về bình an và đừng phạm tội nữa” (Ga 8,1-11).

Nếu tôi đứng đó, có lẽ tôi cũng sẽ hùa theo đám đông, tỏ bộ khinh bỉ và nói những lời chê bai đối với người đàn bà tội lỗi ấy.

Nhưng đấng thánh thiện vô cùng lại không khinh chê, ghét bỏ và lên án chị. Trái lại, thái độ của Chúa còn có tính cách bênh đỡ rõ rệt

– Trên núi Sọ, tôi thấy tội dân Do Thái rõ rành rành, thế mà Chúa Giêsu còn tìm cách bênh đỡ và cắt nghĩa lành cho họ. Ngài đã cầu nguyện : “Lạy Cha, xin tha thứ cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23,24)

Nhìn thái độ Chúa, tôi thấy tất cả những thái độ hung hăng hay lên án kẻ khác thường không phản ảnh tinh thần của Chúa. Trái lại, người nào càng thánh, càng trong sạch thì lại càng giàu tình thương yêu đối với kẻ yếu đuối lầm lạc[54]

  1. Phương thuốc chữa trị

3.1. Những nguyên nhân đưa đến sự đoán xét liều

Muốn sửa chữa thói xét đoán liều ấy phải tìm nguyên do của chúng:

3.1.1. Có những tâm hồn sẵn bản tính gay gắt, chua cay khó chịu, họ biến thành chua cay gay gắt tất cả cái gì đến với họ, như lời tiên tri nói: “ Họ biến lời phê phán thành mật đắng, khi đoán xét đồng loại bao giờ cũng hà khắc và thẳng nhặt” (Amos 6,13). Những người này cần một vị lương y thiêng liêng lành nghề ra tay cứu vớt, vì tính gay gắt kia là do bản tính nên khó trị; vẫn biết tự nó không phải là tội, ít ra chỉ là khiếm khuyết, tuy vậy nó rất tai hại vì đem đặt vào ngự trị trong hồn cái thói xét đoán dông dài và nói hành.

3.1.2. Có kẻ đoán xét dông dài, không vì khó tính, song vì kiêu ngạo, họ tự nghĩ: càng hạ giá kẻ khác, họ càng nâng cao danh giá họ lên. Đầu óc kiêu căng và tự phụ ấy chỉ biết khen mình và cao tiếng ca ngợi mình đến nỗi nhìn mọi sự khác bằng nửa con mắt hệt như ông Pha-ri-siêu hợm mình kia trong Phúc Âm: “Tôi không phải như kẻ khác đâu!”.

3.1.3. Đôi người khác không đến nỗi kiêu ngạo rõ rệt như thế, mà chỉ có khoái trá đôi chút khi thấy sự xấu kẻ khác, để thưởng thức về mình và cho người khác nhè nhẹ thưởng thức cái tốt mà họ tự cho là mình có. Cái tự đắc này rất kín đáo và khó nhận thấy, đến nỗi ai không tinh mắt không khám phá ra được, và ngay chính đương sự là nạn nhân càng không nhìn nhận được nó dù ta chỉ cho họ thấy.

3.1.4. Còn kẻ khác, muốn tự bào chữa, tha thứ và làm dịu đi những cắn rứt của lương tâm, đâm đoán xét dễ dàng kẻ khác là xấu nết ngay trong điều mà chính họ phạm, hay điều xấu to lớn nào khác. Họ tưởng con số đông các phạm nhân sẽ làm cho tội họ bớt đáng trách.

3.1.5. Nhiều kẻ sẵn sàng đoán xét liều chỉ vì thích đàm đạo, thích triết lý dông dài trên phong hoá và tâm tính người đời như thao trường để luyện trí. Nếu chẳng may họ nói trúng, ôi thôi, họ càng say sưa bạo dạn khó mà ai gạt đi được.

3.1.6. Có kẻ xét đoán vì tư dục: họ xét là tốt cái họ thích, là xấu cái họ ghét, trừ ra đôi trường hợp kỳ lạ, nhưng có thật, vì quá yêu thích mà xét đoán sai lạc về cái họ yêu. Đó là hậu quả kỳ dị thật, song bắt nguồn từ một tình yêu vẩn đục, khiếm khuyết, lộn xộn và bệnh hoạn, đó là lòng ghen tương. Đối với tính xấu này ai cũng biết, một cái nhìn, một nụ cười cỏn con vô tội cũng bị kết án là bội tín, ngoại tình.

3.1.7. Cuối cùng, tính hay sợ, tính tham vọng và các yếu đuối khác của tâm trí cũng góp phần không nhỏ vào việc phát sinh nghi ngờ và đoán xét dông dài.[55]

3.2. Cách chữa trị việc đoán xét liều.

Đức bác ái là linh dược chữa mọi sự dữ, cách riêng cái tật xấu đoán xét liều này. Trước mắt kẻ bị chứng vàng da, mọi vật đều hoá màu vàng. Người ta đồn rằng: chữa bệnh này phải cho con bệnh mang chất thổ hoàng liên dưới chân. Tội đoán xét dông dài là bệnh vàng da thiêng liêng làm cho người mắc bệnh thấy gì cũng xấu. Nếu họ muốn lành phải đắp thuốc, không ở trên mắt, hay ở trí khôn, song ở trong tâm tình là chân của linh hồn. Nếu tâm tình con dịu hiền, phê phán của con cũng hiền từ. Nếu tâm tình con đầy bác ái, phán đoán của con cũng vậy.

Tôi nêu ra ba tích rất đáng phục, Isaac đã nói rằng: Rêbecca là em họ. Abimêlếch thấy ông vuốt ve mơn trớn nàng cách âu yếm, liền chợt nghĩ: nàng là vợ của ông. Một con mắt độc ác có lẽ đã nghĩ ngay: nàng là gái chơi, còn nếu là em họ, thì lại là kẻ loạn luân. Nhưng Abimêlếch đã có một tư tưởng bác ái trước sự kiện trên. Hỡi con, ta phải luôn cư xử theo gương ấy: xét đoán tốt cho người khác chừng nào hay chừng ấy. Nếu một hành động có một trăm khía cạnh, phải nhìn khía cạnh tốt nhất.

Đức Mẹ có mang, Thánh Giuse thấy rõ ràng. Song mặt khác, người biết Đức Mẹ rất thánh, rất trong sạch như Thiên Thần, không bao giờ người lại có thể nghĩ rằng: Đức Mẹ đã thụ thai ngoài con đường bổn phận. Thành ra người đã để cho Thiên Chúa xét xử lấy, còn người thì định âm thầm rút lui. Dù tất cả vẻ bên ngoài đều như thúc đẩy người nghĩ trái về Đức Trinh Nữ, người vẫn không muốn đoán xét Đức Trinh Nữ như thế. Tại sao? Vì người là công chính, như Thánh Thần Thiên Chúa nói.

Người công chính, khi không thể bào chữa cho việc làm cũng như chủ ý của kẻ mà mình biết là người liêm chính, thì không hề đoán xét, song gạt ý nghĩ ấy đi, và để Thiên Chúa xét xử. Còn Chúa Cứu Thế, khi bị đóng đinh, dù không thể bào chữa cái tội của kẻ làm khốn Ngài, ít ra Ngài giảm bớt ác tính của nó đi lấy cớ là “chúng không biết”.

Khi ta không thể bênh chữa cho tội, ít ra hãy làm nó thành đáng thương, tìm cho nó một duyên cớ nghe được, chẳng hạn: vì không biết hay vì yếu đuối.[56]

3.3. Không được xét đoán khi không có quyền và không nắm vững đầy đủ yếu tố

Như vậy không bao giờ được đoán xét người ta ư? Không bao giờ! Mình Thiên Chúa mới là Đấng xét xử kẻ tội lỗi thôi. Đã hẳn, Ngài nhờ tiếng nói của các vị thẩm phán để cho ta nghe phán quyết của Ngài, họ chỉ là dụng cụ, là phương tiện trung gian, là phát ngôn viên, họ chỉ tuyên bố điều họ đã học được nơi Ngài, rồi truyền ra. Nếu họ làm khác, nghe theo tình dục của họ, lúc ấy chính họ xét xử, và do đó, họ cũng bị xét xử. Vì cấm người thế gian không được xét xử ai với tư cách họ là người thế gian thôi!

 Nhìn và biết một điều gì, chưa gọi là đoán xét. Vì muốn đoán xét, như Thánh Kinh nói, đòi phải có một khó khăn, khúc mắc to hay nhỏ, thật hay như là thật, cần phải phanh phui ra. Cho nên Thánh Kinh nói: “ Ai không tin đã bị xét xử rồi” (Gioan 3, 18), vì không còn ngờ vực gì về sự họ sẽ bị trầm luân. Nhưng, ngờ vực về người ta có mắc tội không? Không, vì không cấm ngờ vực, nhưng cấm xét đoán. Tuy vậy, không được phép ngờ vực hay nghi ngờ trừ phi có những lý do, những chứng cớ xác đáng hết sức ép ta phải ngờ vực. Bằng không các ngờ vực, nghi hoặc sẽ thành liều lĩnh. Nếu có con mắt người xấu bụng nào thấy Giacóp hôn Rakhen gần bên giếng hoặc thấy Rêbécca nhận vòng cổ và hoa tai từ tay Êliêdêu là khách lạ trong vùng, chắc họ đã nghĩ xấu về hai trường hợp ngay lành trong sạch đó, đã hẳn là vô cớ, vô bằng. Vì, khi một hành động tự nó dửng dưng vô can mà ta rút ra một kết luận xấu, đó là một đoán xét dông dài vậy, trừ phi nhiều hoàn cảnh khác nhau ép ta lý luận như thế. Cũng là xét đoán dông dài khi ta kết luận từ một hành vi để khiển trách con người.

Sau cùng, những ai chăm lo đến lương tâm mình thường chẳng mắc vào việc xét đoán dông dài, như ong thấy sương mù hay mây đen liền lui vào tổ để làm mật: các cảm nghĩ của linh hồn đạo đức không hướng đến các vấn đề mờ tối hay những hành động uẩn khúc của đồng loại, trái lại, để tránh gặp chúng, các cảm nghĩ kia như tụ tập vào trong lòng để sinh ra các quyết định tốt mà sửa chữa chính mình.

Thích xét về kẻ khác, đó là dấu một linh hồn vô dụng. Tôi không cố ý nói đến những ai có trách nhiệm trên kẻ khác, trong gia đình cũng như ngoài xã hội, vì họ phải đem trí xem xét và coi sóc lương tâm kẻ khác. Họ hãy làm bổn phận với tất cả tình thương, xong việc, họ đừng quan tâm đến đó nữa, song chỉ còn lo cho mình.[57]

  1. Những điều kiện để xét đoán.

Một triết gia xưa đã nói : “Người với người như lang với sói”. Tư tưởng đó còn được diễn tả tệ hại hơn nơi một triết gia hiện đại : “Địa ngục chính là tha nhân”.

Theo tính tự nhiên, có lúc tôi cũng muốn chủ trương như thế. Đúng thế, kẻ khác chỉ là loài chó sói rình rập cắn xé tôi, họ chỉ là địa ngục làm khổ tôi.

Nhưng nghĩ lại, tôi thấy nghĩ như vậy là quá đáng. Tôi không chối rằng thực sự bao người đã vô tình hay hữu ý làm khổ tôi. Nhưng không vì thế tôi được quyền xét đoán và kết án họ.

Các sách thần học luân lý dạy tôi rằng chỉ trong những trường hợp hội đủ ba điều kiện sau đây mới được xét đoán :

  • Khi có quyền xét đoán.
  • Khi biết rành mạch việc phải xét đoán.
  • Khi hoàn toàn sạch mọi thiên kiến [58]

 

  1. NUÔI DƯỠNG TÂM HỒN

 

  1. Dụ ngôn cỏ lùng

Khi ấy, Chúa Giêsu phán một dụ ngôn khác cùng dân chúng rằng:”Nước Trời giống như người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. Trong lúc mọi người ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo cỏ lùng vào ngay giữa lúa, rồi đi mất. Khi lúa lớn lên và trổ bông thì cỏ lùng cũng lộ ra. Đầy tớ chủ nhà đến nói với ông rằng: “thưa ông, thế ông đã không gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Vậy cỏ lùng tự đâu mà có?

Ông đáp: “Kẻ thù của ta đã làm như thế”. Đầy tớ nói với chủ: “Nếu ông bằng lòng, chúng tôi xin đi nhổ cỏ”. Chủ nhà đáp: “Không được, kẻo khi nhổ cỏ lùng, các anh lại nhổ luôn cả lúa chăng. Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt. Và đến mùa, ta sẽ dặn thợ gặt: “Các anh hãy nhổ cỏ lùng trước, rồi bó lại từng bó mà đốt đi, sau mới thu lúa lại chất vào lẫm cho ta”.

Sau khi giải tán dân chúng, Người trở về nhà. Các môn đệ đến gặp người và thưa rằng: “Xin Thầy giải thích dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng cho chúng con nghe.” Người đáp rằng: “Kẻ gieo giống tốt là Con Người. Ruộng lúa là thế gian. Còn hạt giống tốt là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái gian ác. Kẻ thù gieo cỏ lùng là ma quỉ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần. Cũng như người ta thu lấy cỏ lùng, rồi thiêu đốt trong lửa thế nào, thì ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy: Con Người sẽ sai các thiên thần đi thu tất cả các gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác khỏi Nước Chúa, rồi ném tất cả chúng vào lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng. Bấy giờ kẻ lành sẽ sáng chói như mặt trời trong Nước của Cha mình. Ai có tai để nghe thì hãy nghe.” (Mt 13, 24-30;36-43)

 

  1. Nuôi dưỡng tâm hồn: tất cả cảm xúc, ý tưởng, lời nói đều để lại trong tâm hồn một hạt giống tốt hoặc xấu

Trong bài Tin Mừng Chúa nói với chúng ta dụ ngôn cây lúa và cỏ lùng: Nước Trời giống như người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. Trong lúc mọi người ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo cỏ lùng vào ngay giữa ruộng lúa, rồi đi mất. Khi lúa lớn lên và trổ bông thì cỏ lùng cũng lộ ra và không ai biết lý do tại sao. Rồi sau đó, Chúa Giêsu đã cho biết:

“ Kẻ gieo giống tốt là Con Người. Kẻ thù gieo cỏ lùng là ma quỉ”.

Quả thực kẻ thù gieo cỏ lùng chính là ma quỉ, nhưng nhiều khi chính chúng ta lại là những người tiếp tay cho ma quỉ để làm phát triển và nhân rộng cỏ lùng trong tâm hồn chúng ta. Bởi vì tất cả những hình ảnh, tư tưởng, hành động, lời nói của chúng ta đều tạo ra những hạt giống trong tâm hồn chúng ta. Những yếu tố này được ghi nhận lại sau mỗi lần có một ý tưởng, cảm xúc nào đó được thể hiện. Và sau đó chúng sẽ đóng vai trò như những hạt giống ngủ yên, chời đợi lúc thuận tiện để sinh khởi trở lại.

Chúng ta biết rằng những gì được thể hiện nơi tâm trí chúng ta, sẽ hình thành không phải một mà là nhiều hạt giống khác cùng loại với nó trong tâm hồn chúng ta. Và những hạt giống này lại chờ đợi có dịp để tiếp tục phát lộ ra bên ngoài.

– Thí dụ như khi chúng ta tức giận với ai đó chẳng hạn. Ngoài những cảm xúc mạnh mẽ của nóng giận được bộc lộ ra, cơn giận ấy còn gieo cấy vào tâm hồn chúng ta nhiều hạt giống khác của sự giận dữ. Những hạt giống này sẵn sàng chờ dịp để nảy mầm. Và điều này có nghĩa là về sau ta càng có những cơn giận tương tự như vậy bộc phát. Cũng thế, nếu ta tham lam, nghi ngờ, ganh tị, tất cả cảm xúc ấy đều để lại những hạt giống của chúng trong tâm hồn chúng ta.

– Khi hiểu được điều này, chúng ta càng phải cẩn thận hơn trong việc chăm sóc những cảm xúc và suy nghĩ của mình. Vâng, ngay cả những suy nghĩ cũng độc hại không kém gì hành động. Đôi khi ta thù ghét ai đó và chưa có một biểu lộ nào ra bên ngoài, nhưng ta thường xuyên nuôi dưỡng những ý nghĩ về sự thù ghét. Như vậy là chúng ta đang nung nấu, làm khổ sở tâm hồn mình bằng ngọn lửa thù hận. Qua đó chúng ta lại còn gieo cấy thêm những hạt giống xấu của sự thù hận vào tâm hồn và khi có dịp, sự thù ghét đó sẽ sẵn sàng được bộc lộ ra thành hành động.

Và còn nữa, bất kể là sự tham lam, nóng giận, nghi ngờ, ghen tỵ của ta có gây ra điều gì tổn hại cho ai đó hay chưa, nhưng chúng đã thật sự làm tổn hại chính tâm hồn ta khi ta nuôi dưỡng chúng. Chúng ta sẽ không bao giờ có được một giây phút nào yên vui, thanh thản nếu trong lòng chúng ta chất chứa đầy thù hận, ghen ghét và ganh tỵ.

Và thêm vào đó, một khuynh hướng thông thường là khi có điều gì không vừa ý hoặc bất đồng, chúng ta thường hay nhắc đến. Nên ngay cả việc phê phán, chỉ trích những điều xấu mà vượt quá mức độ cần thiết, nghĩa là không còn nhằm mục đích xây dựng nữa, cũng sẽ có tác dụng gieo cấy trong tâm hồn ta những hạt giống của sự độc hại. Hãy nhớ rằng, chỉ cần nghĩ đến, nhắc đến những điều xấu thôi, cũng đã đủ để làm thương tổn tâm hồn chúng ta nhiều khi rất nặng nề.

Nhưng may mắn thay, hạt giống tốt cũng vậy. Nếu chúng ta nuôi dưỡng những ý nghĩ về sự thương yêu, chia sẻ, cảm thông, lòng vị tha…chúng ta cũng sẽ gieo cấy được những hạt giống của sự thương yêu, chia sẻ, cảm thông, vị tha…khi có dịp, những hạt giống này chắc chắn sẽ rực nở trong cuộc sống chúng ta.

Ngay cả một cử chỉ cảm thông trước nỗi khổ đau của người khác, hoặc chân thành chia sẻ niềm vui của một người bạn vừa thành đạt…những điều như thế cũng gieo cấy vào tâm hồn chúng ta những hạt giống tốt lành.

Vì thế để có được một cuộc sống yên vui hạnh phúc, một tâm hồn trong sáng thanh thản, chúng ta cần phải biết nuôi dưỡng tâm hồn mình bằng những gì tốt đẹp, tránh xa những gì độc hại, gây thương tổn.

Cuộc sống chung quanh chúng ta có biết bao nhiêu điều tốt đẹp đáng quí và cần trân trọng. Chỉ cần chúng ta biết khéo léo nhận ra và chọn lọc, chúng ta không thiếu những hạt giống tốt đẹp để gieo trồng. Mặt khác, trong cuộc sống cũng đầy dẫy những cỏ lùng. Chỉ cần sống buông trôi, thiếu hiểu biết, cuộc đời chúng ta sẽ phải trả giá bằng những u ám, tối tăm kéo dài.

Một tâm hồn tươi đẹp đầy hoa thơm trái quí, hay tiêu điều hoang vắng với cỏ dại lan tràn. Điều đó hoàn toàn tùy thuộc vào chính chúng ta, chớ không phải ai khác.

Nuôi dưỡng tâm hồn cũng quan trọng, cần thiết không kém gì việc nuôi dưỡng thể xác, nhưng chúng ta thường lãng quên không chú ý đến việc này. Chúng ta đôi khi bỏ mặc tâm hồn mình khô cằn hoặc mọc đầy cỏ dại. Nếu ý thức được điều này và bắt đầu chăm sóc gieo trồng những hạt giống tốt lành, chắc chắn chúng ta sẽ có được một cuộc sống tươi vui và hạnh phúc như Chúa Giêsu đã nói trong bài Tin Mừng: “Bấy giờ kẻ lành sẽ sáng chói như mặt trời trong nước của Cha mình” [59]

 

[1] Tiến sĩ Trần Thị Giồng, Họa phúc từ đâu đến, trg.19

[2] Tiến sĩ Trần Thị Giồng, sđd trg.81-82

[3] Tiến sĩ Trần Thị Giồng, sđd trg.161

[4] Tiến sĩ Trần Thị Giồng, sđd trg.197

[5] Tiến sĩ Trần Thị Giồng, sđd trg.39

[6] Tiến sĩ Trần Thị Giồng, sđd trg.40

[7] Tiến sĩ Trần Thị Giồng, sđd trg.42

[8] Tiến sĩ Trần Thị Giồng, sđd trg.43-45

[9] Sđd., p.76

[10]Tiến sĩ Trần Thị Giồng, sđd  trg.78

[11] Sđd., trg.50

[12]Tiến sĩ Trần Thị Giồng, sđd trg.63

[13] Nguyễn Minh Tiến, sđd trg.134

[14] Nguyễn Minh Tiến, Hạnh phúc là điều có thật, p.134-135

[15] Nguyễn Minh Tiến , sđd., trg135-136

[16] Tiến sĩ Trần Thị Giồng, Họa phúc từ đâu đến, trg.157

[17] Tiến sĩ Trần Thị Giồng, sđd trg.172

[18]  Tiến sĩ Trần Thị Giồng, sđd trg.174

[19] Tiến sĩ Trần Thị Giồng, sđd trg..99-100

[20] Tiến sĩ Trần Thị Giồng, sđd trg.85

 

[21] Tiến sĩ Trần Thị Giồng, sđd trg.86-87

[22] Nguyễn Minh Tiến, Hạnh phúc là điều có thật, p.136-137

[23] Sđd., trg.137

[24] Tiến sĩ Trần Thị Giồng, Họa phúc từ đâu đến, trg..25

[25] GM.GB. Bùi Tuần, Nói với chính mình, trg.55-56

[26] Pascal M.Foresi, Reaching for more (Con đường thăng tiến), trg. 41

[27] Pascal M.Foresi, sđd trg.. 43

[28] Sđd, trg.41

[29] GM. GB. Bùi Tuần, Nói với chính mình, trg.60-61

[30] GM. GB. Bùi Tuần , Sđd trg.61-63

[31] GM. GB. Bùi Tuần, sđd trg.74-75

[32] GM. GB. Bùi Tuần, sđd trg..77

[33] Thánh Phanxicô Salêdiô, Sống thánh giữa đời, trg..233

[34] Thánh Phanxicô Salêdiô, sđd trg..235

[35] Thánh Phanxicô Salêdiô, sđd trg. 232-233

[36] GM. GB. Bùi Tuần, Nói với chính mình, trg.75-76

[37] GM. GB. Bùi Tuần, sđd trg.76

[38] Sđd, trg..234

[39] Thánh Phanxicô Salêdiô, Sống thánh giữa đời, trg.235

[40] Thánh Phanxicô Salêdiô, sđd trg..237

[41] Tiến sĩ Trần Thị Giồng, Họa phúc từ đâu đến, trg.109

[42] Sđd., trg107-110

[43] Tiến sĩ Trần Thị Giồng, sđd trg.116-117

[44] Tiến sĩ Trần Thị Giồng, sđd trg.111-113

[45]Tiến sĩ Trần Thị Giồng, sđd trg.114

[46] GM. GB. Bùi Tuần, Nói với chính mình, trg.70

[47] Sđd., trg.71

[48] GM. GB. Bùi Tuần, sđd trg.71.

[49] GM. GB. Bùi Tuần, sđd trg.71.

[50] GB. Bùi Tuần, sđd trg.72.

[51] GM. GB. Bùi Tuần, sđd trg.72.

[52] GM. GB. Bùi Tuần, sđd trg.72.

[53] GM. GB. Bùi Tuần, sđd trg.137-139.

[54] GM. GB. Bùi Tuần, sđd trg.66-67.

[55] Thánh Phanxicô Salêdiô, Sống thánh giữa đời, trg.227

[56] Thánh Phanxicô Salêdiô,sđd trg..230

[57] Thánh Phanxicô Salêdiô, sđd trg.230-231

[58] GM. GB. Bùi Tuần, sđd trg.69-70.

[59] Sử dụng ý tưởng của Nguyễn Minh Tiến để chia sẻ dụ ngôn cỏ lùng, Hạnh phúc là điều có thật, trg.89-93

 

print