Tân Giám mục giáo phận thi hành chức vụ từ khi nào?
J.B. Lê Ngọc Dũng
Đôi khi có những thắc mắc liên quan đến vị tân Giám mục giáo phận; hỏi rằng, khi một linh mục được Đức Giáo hoàng bổ nhiệm làm Giám mục giáo phận, thì ngài là Giám mục giáo phận chưa; ngài đã có quyền tài phán trên Giáo phận mà ngài được bổ nhiệm hay chưa; tên của ngài đã được nêu trong kinh nguyện Thánh thể hay chưa.
Đôi khi có những thắc mắc liên quan đến vị tân Giám mục giáo phận: Khi một linh mục được Đức Giáo hoàng bổ nhiệm làm Giám mục giáo phận, thì ngài:
– Là Giám mục giáo phận hay chưa?
– Đã có quyền tài phán trên Giáo phận mà ngài được bổ nhiệm hay chưa?
– Tên của ngài đã được nêu trong kinh nguyện Thánh thể hay chưa?
Trước tiên cần phân biệt “chức thánh” Giám mục, linh mục, phó tế với “chức vụ” trong Giáo hội (officium ecclesiasticum) mà các vị ấy đảm nhiệm.
Đối với Giáo hội địa phương là một giáo phận, Đức Giáo hoàng ra Tông sắc bổ nhiệm một linh mục, với “chức vụ”, hoặc:
– Giám mục phó;
– Giám mục phụ tá.
Khi mới ra Tông sắc bổ nhiệm một linh mục làm Giám mục giáo phận mà thôi thì:
b- Ngài chưa có quyền lãnh đạo hay tài phán trên giáo phận;
c- Tên của ngài có thể nêu trong kinh nguyện Thánh Thể, tuy không buộc.
Xin lý giải như sau:
1- Chưa là Giám mục, chưa là Giám mục giáo phận
Còn việc thi hành quyền lãnh đạo hay tài phán, Giáo luật quy định là không được thi hành chức vụ trước khi đảm nhận giáo phận, nghĩa là trước khi nhậm chức:
Điều 382§l, tuy không có quy định là “vô hiệu” nếu tiến chức “xen vào việc thi hành chức vụ“, nhưng nếu tìm hiểu những quy tắc luật khác, thì sẽ thấy việc thi hành chức vụ ấy là vô hiệu. Và như vậy, khi chưa nhậm chức thì tiến chức Giám mục giáo phận chưa có quyền lãnh đạo hay quyền tài phán trên giáo phận.
– Nhậm chức là điều cần thiết để có chức vụ hữu hiệu hay thành sự;
– Mặc dù đã được Đức Giáo hoàng bổ nhiệm làm Giám mục giáo phận nhưng nếu Tòa chưa khuyết vị thì chức vụ Giám mục giáo phận đó chưa hữu hiệu.
§1. Khi toà Giám mục khuyết vị, Giám mục phó tức khắc trở thành Giám mục của giáo phận vì đó mà ngài đã được đặt lên, miễn là ngài đã nhậm chức hợp luật.
b- Chưa là Giám mục giáo phận khi tòa chưa khuyết vị
§1. Việc trao ban một chức vụ mà không khuyết vị theo luật thì vô hiệu do chính sự kiện, và không trở thành hữu hiệu do sự khuyết vị sau đó.
Hãy thử xét một trường hợp cụ thể: Đức Giáo hoàng ban Tông sắc thuyên chuyển một Giám mục giáo phận A đến giáo phận B, và bổ nhiệm một linh mục làm tân Giám mục giáo phận cho giáo phận A.
§1. Trong vòng hai tháng kể từ khi nhận được tin chắc chắn về sự thuyên chuyển, Giám mục phải đến giáo phận mà ngài được sai đến và nhận chức theo Giáo luật; và kể từ ngày ngài nhận chức trong giáo phận mới, giáo phận cũ của ngài trở thành khuyết vị.
Mà khi Tòa chưa khuyết vị thì sự trao ban hay bổ nhiệm một chức vụ vào Tòa đó sẽ không hữu hiệu, căn cứ vào điều 153§1 kể trên.
Rõ ràng là khi giáo phận chưa khuyết vị thì làm sao tiến chức, có thể là Giám mục giáo phận với quyền lãnh đạo hay tài phán hữu hiệu ở giáo phận đó được.
c- Giá trị Tông sắc
Vậy Tông sắc của Đức Giáo hoàng lại không có giá trị hay sao?
– Tông sắc của Đức Giáo hoàng tất nhiên là có giá trị (valide) hoàn toàn, nhưng hiệu lực (effetto) của Tông sắc lại còn tùy thuộc những nguyên tắc luật hay những điều kiện khác. Ở đây cần phân biệt “giá trị” và “hiệu lực” của tông sắc.
Có những trường hợp cho thấy rõ ràng là có sự “bổ nhiệm” trước, rồi “hiệu lực” đến sau, kể từ ngày chức vụ bị khuyết vị.
§2. Tuy nhiên, nếu là một chức vụ, chiếu theo luật, được trao ban (conferito) trong một thời gian nhất định, thì việc trao ban có thể được thực hiện trong vòng sáu tháng trước khi hết hạn, và có hiệu lực (effetto) kể từ ngày chức vụ khuyết vị.
Trường hợp “bổ nhiệm” trước, rồi “hiệu lực” đến sau cũng tương tự như hiệu lực của bộ luật. Bộ Giáo luật được thiết lập (istituita) khi được công bố trên Công báo của Tòa Thánh (Acta Apostolicae Sedis), nhưng chỉ có hiệu lực (in vigore) sau ba tháng kể từ ngày được công bố trên Công báo. Còn luật địa phương thì chỉ hiệu lực sau khi công bố được một tháng (đ. 8).
Hơn nữa, có thể kể vài điều kiện liên quan đến sự hữu hiệu như:
2. Nêu danh tiến chức Giám mục trong Kinh nguyện Thánh Thể
1147. Kể từ ngày nhận chức của Giám mục, tất cả các linh mục cử hành thánh lễ trong giáo phận của ngài, ngay cả trong các nhà thờ và nhà nguyện của những dòng miễn trừ, đều phải nêu tên ngài trong kinh nguyện Thánh Thể.
Phải chăng chỉ nêu tên Giám mục sau khi ngài đã nhận chức, căn cứ vào chính quy định của số 1147 này?
Khi mới nhận tín về sự thuyên chuyển và chưa nhận chức ở giáo phận mới thì tòa cũ đã khuyết vị hay chưa, Giám mục còn là Giám mục giáo phận cũ hay không?
– Tòa vẫn chưa khuyết vị, nhưng vị ấy hết quyền Giám mục giáo phận.
Điều 418 có quy định:
§2. Từ khi nhận được tin chắc chắn về sự thuyên chuyển cho tới khi nhậm chức theo Giáo luật tại Giáo Phận mới, thì trong Giáo Phận cũ, Giám Mục được thuyên chuyển:
20 Được hưởng trọn vẹn khoản thù lao dành cho giáo vụ.
Về Tòa: Căn cứ vào triệt 1, Tòa cũ chưa khuyết vị khi Giám mục đó chưa nhận chức ở Tòa mới.
Hệ quả là:
– Nếu Tòa cũ có Giám mục phó thì cũng chưa thể kế vị. Chỉ được kế vị khi Giám mục chính nhận chức ở Tòa mới.
– Nếu có vị nào được Đức Giáo Hoàng bổ nhiệm làm Giám mục giáo phận cho tòa cũ thì phải đợi cho đến lúc trống tòa thì mới nhận chức (nhận Tòa) được, nghĩa là, lúc mà Giám mục thuyên chuyển nhận chức ở Tòa mới.
Có một điều cần phân biệt ở đây, đối với trường hợp thuyên chuyển: Trong giai đoạn chờ đợi nhận chức giám mục giáo phận ở Tòa mới, Giám mục được thuyên chuyển chỉ giữ quyền và có nghĩa vụ tương đương với Giám quản Giáo phận, các vị Tổng đại diện, Đại diện Giám mục hết quyền, nhưng Tòa lại chưa trở thành khuyết vị, theo như triệt 1 đã quy định.