Ngày 29 tháng 06: Thánh Phao-lô Tông đồ

print

Thánh Phao-lô Tông đồ

Ngày 29 tháng 06

Phao-lô thành Tarsê không phải là vị thánh của hết mọi người. Nhiều Ki-tô hữu tốt cảm thấy đối nghịch với Ngài vì thấy Ngài cứng cỏi, khô khan, thiếu hòa giải. Những người đương thời với Ngài cũng cảm nghĩ về Ngài như vậy.

Không kể chi đến các bạn đồng liêu của Ngài. Ngay đến các thánh trong Giáo hội như Phê-rô, Marcô và Bar-na-ba đếu có lần xích mích với Ngài. Dịu dàng như Gia-cô-bê mà cũng phải khuyên thánh nhân phải biết khéo léo hơn.

Nhưng rồi cuối cùng, tất cả đều phải nhìn nhận Ngài với niềm kính phục và tình thương mến. Đó là kinh nghiệm chung đối với những ai lúc đầu cảm thấy đối nghịch với Phao-lô, rồi sau đó ngỡ ngàng khi biết rõ Ngài trong các thư tín và sách công vụ sứ đồ. Ngài thật là một con người bất khuất, trung tín và rất thân tình với anh em. Sớm hay muộn, sau khi cởi bỏ lớp vỏ sần sùi bên ngoài đi người ta thấy rõ tính chất nhân bản và sự thánh thiện hàm ẩn của Ngài.

Thánh Phao-lô sinh tại thành Tarsê  một thành phố trù phú miền nam Tiểu Á.

Cha mẹ Ngài là những người thế giá, có quyền công dân Rô-ma. Ngài được

giáo dục để trở thành một người biệt phái đúng nghĩa. Ngài được thầy Gamaliel dạy dỗ thần học. Người người đều kỳ vọng ở người than niên thông minh này khi anh về Giê-ru-sa-lem khoảng một năm sau khi Chúa Giê-su bị đóng đinh. Kỳ vọng ấy đã thành sự, nhưng theo một đường lối không lường trước được. Mọi người đều biết là anh Phao-lô đã có mặt trong cuôc tử đạo thánh Stephanô và đã nghe Ngài cầu nguyện cho những kẻ sát hại mình.

Chẳng bao lâu sau trên đường về Damas, Saolê (tên cũ của Phao-lô) đã được thấy Chúa Giê-su phục sinh. Người biến đổi Phao-lô từ một kẻ bách hại thành một lãnh tụ Ki-tô giáo.

Ngay sau khi lãnh nhận bí tích thanh tẩy, Phao-lô, lui vào sa mạc để suy nghĩ cầu nguyện trong hai năm. Sau đó Ngài trở lại Damas. Như vậy phải đợi ba năm sau, Phao-lô mớilên Giê-ru-sa-lem bàn luận với các tông đồ. Và thánh nhân lại trở về Tarsê. Trong khoảng 10 năm . Chúng ta không thấy Phao-lô xuất hiện. Đây phải là khoảng thời gian mà với sự trợ lực của Thiên Chúa, trí khôn của thánh nhân xây dựng cây cầu nối giữa Do thái giáo với Ki-tô giáo, giữa dân Do thái với dân ngoại. Việc nối kết này là món quà lớn lao nhất thánh nhân đã trao tặng cho thế giới.

Dĩ nhiên thánh Phao-lô không phải là người đầu tiên rửa tội cho một lương dân. Thánh Phê-rô đã rửa tội cho Cornêliô. Thánh Phi-lip-phê đã rao giảng Tin Mừng ở Sa-ma-ri-a và rửa tội cho hoạn quan người Ethiôpia. Nhưng việc rao giảng có hệ thống cho những người không phải là Do thái chỉ bắt đầu ở Antyiôkia vào đầu thập niên 40. Thánh Bar-na-ba được các tông đồ sai đi xem xét tình hình. Nhưng thánh nhân đã đi xa hơn. Ngài nghĩ tới Phao-lô còn đang sống âm thầm ở Tarse và đến tìm ông. Thánh Phao-lô trở về Antiôkia với thánh Barb-na-ba. Từ đó thánh nhân hiến trọn đời cho công cuộc truyền giáo.

Ngài bỏ vai trò của Ma-ri-a và lãnh lấy vai trò của Mat-tha. Nhà học giả và chiêm niệm trở thành thầy dạy và nhà giảng thuyết.

Hết cuộc hành trình này tiếp đến cuộc hành trình khác, thánh Phao-lô không ngừng bước chân đi rao giảng Tin Mừng. Ngài đã đi truyền giáo ở Chypre,

Tiểu Á và Ma-ce-đo-ni-a, Hy Lạp. Mỗi khi Ngài đi đến đâu là ở đó nổi lên cơn giông tố nhiệt tình một bên và ghen ghét bên kia, nhốt tù, bị ném đá, đánh đập, bị đắm tàu và yếu đau và cả đến thất vọng nữa, nhưng Ngài vẫn tiếp tục công việc. Mỗi khi đến nói chuyện ở hội đường, Ngài trích thánh kinh, ở công trường, Ngài trích thơ văn cổ và từ nơi đó phát sinh một trung tâm Ki-tô giáo. Trong 12 năm trời, Ngài đã biến đổi cộng đoàn Do thái nhỏ bằng thành bào thai của một tôn giáo hoàn cầu.

Năm 57, thánh Phao-lô trở về Giê-ru-sa-lem. Bạn bè xin Ngài đừng đi. Họ biết rằng: hội đồng cộng tọa ghét Ngài, ghét cây ghét đắng mà Giáo hội nhỏ bé không đủ sức bảo vệ cho Ngài, Ngài vẫn bất khuất ra đi và trong vòng một tuần lễ, mọi sự xem ra đều ổn thỏa, nhưng rồi lộn xộn xảy ra, Phao-lô lại được cứu thoát khỏi bọn đấu tố, nhờ sự can thiệp của đội lính canh người Rô-ma.

Tiếp sau đó là hai năm tù tội (bất công vì nhà cầm quyền Rô-ma muốn được quà hối lộ). Trong thời gian này, Phao-lô vẫn dùng cơ hội thuận tiện để rao giảng Tin Mừng.

Bị áp bức bởi Festô, Phao-lô nại đến sự che chở của hoàng đế (đối với công dân Rô-ma) và được gởi về Rô-ma. Con tàu bị bão đánh và bể nát ở bờ biển Malta. Dịp này cho thấy tài điều khiển bẩm sinh của Phao-lô trong trường hợp khẩn trương. Tới mùa Xuân năm 60 (hay 61 ) đoàn người tới thủ đô. Thánh Phê-rô đã có mặt ở đây và Phao-lô lui vào bóng tối. Về những chuyến du hành của Phao-lô đi Tây Ban Nha và về cận Đông, chúng ta không có đủ tài liệu.

Truyền thống nói tới việc Ngài bị tù tội lần thứ hai dưới thời Nêrô và cho biết Ngài bị chém đầu khoảng năm 66 ở Tre Fontana.

Khi Phao-lô tới Rô-ma, Phê-rô đã có mặt, Tin Mừng đã được rao giảng, bí tích đã được cử hành, có lẽ Phúc âm đã được Marcô khởi soạn. Vậy đâu là phần đóng góp của Phao-lô như là cột trụ Chúa Giáo hội?

Trước hết phải kể đến nhiệt tâm và gương mẫu cuộc sống của thánh nhân.

Nhưng phần chính yếu thánh nhân mang lạị là nền tảng vững chắc về tri thức của Giáo hội giúp con thuyền của ngư phủ đương đầu với bão tố. Ngài không thích mơ hồ, nhưng quan tâm tới từng hệ luận tàng ẩn bên trong giáo thuyết.

Thực ra nói “giáo thuyết của Phao-lô” thì không chính xác lắm, Ngài không sáng nghĩ ra giáo thuyết. Nhưng Ngài khai sáng ra những gì đã lãnh nhận được. Chẳng hạn khi nói ” Chúa Giê-su là đức Ki-tô” Ngài dựa ra một giải thích hoàn toàn mới mẻ về Cựu ước, với những ý niệm: Giáo hội là Israel mới, ơn thánh thay thế luật Môi-sê. Đức Ki-tô là A đam mới, là “hình ảnh” hoàn hảo của Thiên Chúa.

Từ lời gọi “Sao-lê, Sao-lê, sao ngươi tìm bắt ta?” Ngài đã khai triển giáo thuyết về nhiệm thể: “đức Ki-tô là tất cả mọi sự trong mọi người”.

Từ dụ ngôn những người làm vườn nho, Ngài diễn nghĩa cho thấy Israel cũ và Giê-ru-sa-lem cũ bị thay thế bởi Giê-ru-sa-lem mới “nơi không còn lương dân hay Do thái, man rợ hay Scythia, nô lệ hay tự do.”

Có lẽ giáo thuyết về công giáo tính của Giáo hội là phần đóng góp tiêu biểu nhất của Phao-lô, khiến Ngài được mệnh danh là tông đồ dân ngoại. Thánh Phê-rô còn ngập ngừng chứ như thánh Phao-lô thì không chịu thỏa hiệp. Chính Ngài cho thấy rõ thế nào và tại sao Giáo hội phải là công giáo phổ quát và công giáo tính bao hàm những gì.

Theo Vết Chân Người – Lm. Phaolô Phạm Quốc Tuý