Bài huấn luyện hàng tháng của Ủy Ban Giáo dân (Bài 6): Chân Dung Người Phục Vụ

Bài huấn luyện hàng tháng của Ủy Ban Giáo dân (Bài 6)

 

UBGD-HĐGM. VN

Ban Nghiên Huấn

PHẦN TU ĐỨC

CHÂN DUNG NGƯỜI PHỤC VỤ

 

Đức Giêsu diễn tả sống động chân dung người phục vụ, cách đặc biệt trong bữa tiệc ly. Người mời gọi và trao ban lệnh truyền cho tất cả chúng ta, những người tiếp tục diễn tả chân dung người phục vụ trong đời sống thường ngày: “Nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13,14). Là thành viên Hội đồng mục vụ giáo xứ, hẳn là mỗi người chúng ta đều trải nghiệm những thách đố trong việc phục vụ, những cản trở nơi bản thân hoặc nơi tha nhân: bao lần chúng ta gặp những anh chị em tự thấy mình thật cao, đến độ không đón nhận sự phục vụ của chúng ta; bao lần chúng ta theo đuổi tham vọng cho mình “cao hơn một chút”, một chút hư danh hay một chút uy quyền, thay vì âm thầm và khiêm tốn phục vụ một cách vô vị lợi và trong sáng… Để phục vụ cộng đoàn, chúng ta cần có tâm thế và cung cách ứng xử của Đức Giêsu. Trở về với Người để được chinh phục bởi “tình yêu đến cùng” của Người và sống những giá trị nền tảng của đời phục vụ: quảng đại, cảm thông, và khiêm nhường…

 

Khi phục vụ cộng đoàn, không ít lần chúng ta thấy mình quá bé nhỏ giữa những người tự phụ. Dụ ngôn của Đức Giêsu về người Pharisêu và người thu thuế phác hoạ hai hình ảnh đối nghịch nhau: người Pharisêu tự thấy mình thật cao và người thu thuế tự thấy mình thật bé nhỏ (Lc 18, 9-15). Người Pharisêu hài lòng với chính mình, vâng phục lề luật, thi hành bổn phận tôn giáo… nhưng ông ta thiếu hiểu biết, thiếu cảm thông, thiếu khiêm nhường…; ông ta tự thấy mình thật cao, hài lòng với vị thế của mình và khinh chê người khác. Trong khi đó, người thu thuế, khi đối diện với Thiên Chúa, chỉ thấy mình tội lỗi và bất xứng, nên không ngừng kêu xin: “Lạy Chúa, xin thương xót con”. Đức Giêsu khẳng định: “Tôi nói cho các ông biết: người này khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không.” Khiêm tốn sống sự nhỏ bé và bất xứng của mình trước Thiên Chúa, đó là đường nét căn bản phác hoạ chân dung người phục vụ.

 

Tiếp đến, trong hành trình phục vụ cộng đoàn, không ít lần chúng ta gặp những rào cản hay trở ngại gặp Chúa, như Da-kêu (Lc 19,1-10). Nhiều lúc chúng ta thấy mình quá nhỏ bé, muốn mình “cao hơn một chút” để có thể lấn lướt những khó khăn và trở ngại nơi cộng đoàn; nhiều lúc chúng ta thấy mình đơn độc và kiệt sức giữa vô vàn việc phục vụ, giữa vô vàn những người tự nhận là “đang đi theo Đức Giêsu” nhưng chính họ lại đang che khuất Đức Giêsu khỏi chúng ta; bao lần cộng đoàn giáo xứ mà chúng ta phục vụ đã che khuất Chúa Giêsu khỏi mắt chúng ta bởi những ghe tương, ích kỷ, căng thẳng… Da-kêu đã vượt qua những rào cản ấy bằng sáng kiến trèo lên cây. Khi Đức Giêsu đi ngang qua, Người nhìn lên và nói với ông: “Da-kêu xuống mau, vì hôm nay tôi phải ở nhà của ông.” Da-kêu được chinh phục bởi thái độ của Đức Giêsu, ông đón rước Người vào nhà mình; được Đức Giêsu cảm hoá, ông thay đổi đời sống: “Đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. Tấm lòng người phục vụ theo phong cách Đức Giêsu luôn quảng đại và bao dung, có khả năng chạm đến lòng thương xót của Thiên Chúa: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này”.

 

Sau cùng, trước tình yêu “đến cùng” của Đức Giêsu, người phục vụ theo phong cách của Người cũng quảng đại phục vụ đến cùng (Mc 12,41-44). Đức Giêsu ở cửa đền thờ, Người thấy người đàn bà tới, khiêm tốn, đơn sơ, lén lút… và bỏ vài đồng trinh vào hòm tiền dâng cúng trong đền thờ. Bà nghĩ rằng không ai nhìn thấy, nhưng có một người nhìn thấy bà, đó là Đức Giêsu. Không chỉ nhìn thấy, Người còn gọi các môn đệ lại nhìn và nói với họ: “Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết.” Người giàu huyênh hoang bỏ vào thùng số tiền có vẻ nhiều, có thể đó cũng là cách họ bố thí cho người nghèo, nhưng Đức Giêsu nhận ra và khen ngợi bà goá nghèo. Tôi đã và đang phục vụ như thế nào: có dâng cho Chúa cái dư thừa và muốn phô trương? có tính toán thiệt hơn với Chúa, dâng thật nhiều nhưng cũng mong thật nhiều cho mình được “cao hơn một chút”, được nhận biết và tán dương hơn một chút? Tôi có quảng đại với Chúa như bà goá nghèo: dâng cho Chúa điều tôi có-điều tôi được Chúa ban, vì sự sống còn của chính mình? có quảng đại với Chúa, để dâng cho Ngài chính bản thân, thời gian và tâm sức, để phục vụ cộng đoàn, một cách vô vị lợi và trong sáng?

 

Lm Gioan Vũ Ngọc Tín, SJ.

 

PHẦN QUẢN TRỊ MỤC VỤ

MỖI NGƯỜI MỘT QUAN TIỀN

 

“Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền”. (Mt 20,9-10)

Dẫn vào

Từ ngày 18 tháng 10 đến 24 tháng 10 năm 2018 vừa qua, tại Batam của Inđônêxia, Tổng hội AsIPA VIII (VIII AsIPA General Assembly) với sự hiện diện các đại biểu của 11 nước Châu Á và một nước Châu Âu đã diễn ra theo trù định…[1] – bao gồm cả tín hiệu về sự nâng cấp từ AsIPA Desk[2] thành BEC Office[3] trong tương lai trước mắt (không còn xa) – với rất nhiều cảm xúc tốt đẹp.

Chủ đề “Các cộng đoàn Kitô hữu nhỏ Phúc âm hoá các gia đình hướng đến hiệp thông và sứ vụ”[4] mà Văn phòng “Giáo Dân và Gia Đình” của Liên Hội Đồng Giám Mục Châu Á (FABC) trước đó đã gửi đến các hội đồng giám mục các nước thành viên, đã được triển khai rất cụ thể.[5] Theo tôi, đó cũng là cách thể hiện những quan tâm chung, chia sẻ công việc với ý thức đồng trách nhiệm: không mơ tưởng “… sẽ được lãnh nhiều hơn…” nhưng sẵn lòng để được nhận lãnh “mỗi người một quan tiền”.[6]

Không mơ tưởng “… sẽ được lãnh nhiều hơn…”

Được sắp xếp theo thứ tự alphabet, Phái đoàn Việt Nam hầu như luôn luôn ở vị trí cuối trong mọi “xuất hiện” (ngay sau Thái Lan) – những người mới vào làm lúc “giờ thứ mười một” – theo thứ tự sinh hoạt của tổng hội.[7] Tuy nhiên, nội dung trình bày và những phát biểu của Phái đoàn Việt Nam rất nồng nhiệt, tích cực, hội nhập…[8] chan hoà với những thành viên khác cùng đến làm việc trong vườn nho của Chúa ở những thời điểm khác nhau. Có thể nói, đó cũng là một phản ánh cách thể hiện mới của Giáo hội Chúa tại Châu Á, một cách thế mới của “mỗi người được một quan tiền”.[9] Rất chan hoà.  

 

Không mơ tưởng “… sẽ được lãnh nhiều hơn…” là bầu khí chan hoà huynh đệ của những anh chị em dấn thân phụng sự Chúa trong Giáo hội. Bởi lẽ, trong Giáo hội, quyền bính là để phục vụ chứ không phải để được người ta phục vụ:[10] quyền lợi phải được sở đắc để biểu hiện sự bình đẳng trong phẩm giá và trong hành động của con người;  nâng cao phẩm giá của người tín hữu và luôn luôn nhằm đến sự thăng tiến ngày càng cao hơn; xác định ý nghĩa tự do Kitô giáo.[11] Khái niệm về bổn phận, nghĩa vụ, quyền và quyền lợi có ý nghĩa đặc biệt dưới ánh sáng mục đích siêu nhiên của Giáo hội. Bổn phận, nghĩa vụ, quyền và quyền lợi là những phương tiện giúp định hướng việc đạt đến mục đích siêu nhiên của Giáo hội. Hoạt động tông đồ, một nghĩa vụ và quyền của người giáo dân phải được nhìn trong ý nghĩa này: “Mỗi người một quan tiền”.

 

Mỗi người một quan tiền

Khi trình bày về “nhiệm vụ và quyền lợi”, Chương II tập Gợi ý cho một quy chế hội đồng mục vụ giáo xứ của Ủy ban Giáo Dân (HĐGMVN) (2010) đã dành 12 điều để linh hoạt thích ứng với ý nghĩa của “mỗi người được một quan tiền”: (1) Điều 10. Nhiệm vụ của linh mục chính xứ đối với hội đồng mục vụ giáo xứ;[12] (2) Điều 11. Nhiệm vụ của hội đồng mục vụ giáo xứ; (3) Điều 12. Nhiệm vụ của ban thường vụ hội đồng mục vụ giáo xứ; (4) Điều 13. Nhiệm vụ của chủ tịch hội đồng mục vụ giáo xứ; (5) Điều 14. Nhiệm vụ của phó chủ tịch hội đồng mục vụ giáo xứ, đặc trách nội vụ; (6) Điều 15. Nhiệm vụ của phó chủ tịch hội đồng mục vụ giáo xứ, đặc trách ngoại vụ; (7) Điều 16. Nhiệm vụ của thư ký hội đồng mục vụ giáo xứ; (8) Điều 17. Nhiệm vụ của thủ quỹ hội đồng mục vụ giáo xứ; (9) Điều 18. Nhiệm vụ của các uỷ viên hội đồng mục vụ giáo xứ; (10) Điều 19. Quyền lợi;[13] (11) Điều 20. Quyền lợi khi còn sống; (12) Điều 21. Quyền lợi khi qua đời.

 

Để kết

“Mỗi người một quan tiền…”. Hoà vào rất nhiều hoạt động phong phú của Tổng hội AsIPA VIII, Phái đoàn Việt Nam tích cực góp phần vào “mầu nhiệm – hiệp thông – sứ vụ” này của AsIPA. Theo đó, chủ đề “Các cộng đoàn Kitô hữu nhỏ Phúc âm hoá các gia đình hướng đến hiệp thông và sứ vụ”[14] có thể được triển khai thành: “Các cộng đoàn Kitô hữu nhỏ Phúc âm hóa từng cá vị để Phúc âm hóa các gia đình, để Phúc âm hóa các giáo xứ, để Phúc âm hóa các giáo phận… hướng đến hiệp thông và sứ vụ”.[15]

 

Câu hỏi giúp thảo luận

  1. Bạn nghĩ thế nào về định hướng Tin Mừng: không mơ tưởng “… sẽ được lãnh nhiều hơn…” khi làm việc Nhà Chúa và được trả công”?
  2. Bạn đang sống và dấn thân làm việc tông đồ: hãy giữ tâm tình an vui, sống hài lòng với nguyên tắc “mỗi người một quan tiền”.  Tại sao?

28-10-2018, GTHH

 

GIÁO DÂN TRONG CHIỀU KÍCH RAO GIẢNG TIN MỪNG CỦA HỘI THÁNH

PHẦN HUẤN GIÁO

Phần II: GIÁO DÂN TRONG LÒNG HỘI THÁNH

 

1/ Rao giảng Tin Mừng là chiều kích chính của Hội Thánh

 

Lệnh truyền của Đức Kitô “anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16:15) nhắm tới mọi phần tử của Hội Thánh, và như thế xác định đây là một trong các bổn phận chính của toàn thể Hội Thánh, nhất là các Hội Thánh cấp địa phương. Thật vậy Tông huấn CFL số 33 đã khẳng định: “Giáo Dân trong tư cách là thành phần của Hội Thánh nên mang sứ mệnh loan báo Tin Mừng. Các bí tích khai tâm Kitô giáo và các ân huệ của Chúa Thánh Thần đã trang bị khả năng cho họ, và thúc giục họ thi hành sứ mạng này”. Dựa vào 1 Ga 1:3, chúng ta phải hiểu như sau: một khi đã được hiệp thông với Đức Kitô, mọi Kitô hữu bất luận là ai, đều phải nhận thức rõ ràng rằng: mang hồng ân này chia sẻ cho người khác là một bổn phận bó buộc (xem Tông Huấn CFL số 34).

 

2/ Rao giảng Tin Mừng là tác vụ chuyên của Kitô hữu Giáo Dân

 

Tuy nhiên nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng của Hội Thánh này có lẽ lại được trao phó cách đặc biệt cho các Kitô hữu Giáo Dân sống giữa trần thế, như Hiến Chế Lumen Gentium số 30 của Công Đồng Vaticanô II đã xác định: “Các chủ chăn nhận thấy rõ sự đóng góp lớn lao của giáo dân cho lợi ích của Hội Thánh. Các ngài biết rằng Đức Kitô đã không đặt các ngài lên để một mình lãnh lấy tất cả sứ vụ cứu độ của Hội Thánh đối với thế giới, nhưng nhiệm vụ cao cả của các ngài là chăn dắt tín hữu và nhận biết các phận vụ và đoàn sủng nơi họ, để mọi người cùng góp phần vào công cuộc chung, tùy theo cách thức của mình.” Ta có thể nói rằng: rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật là mục tiêu tối hậu của mọi mục vụ trong Hội Thánh mà hàng giáo sĩ phải thực hiện, hầu giúp cho giáo dân chu toàn được trách nhiệm chuyên trong sứ mạng Đức Giêsu đã trao phó. Vì thế ta có thể gọi ‘rao giảng Tin Mừng’ chính là tác vụ chuyên biệt của Giáo Dân trong Hội Thánh Chúa Kitô; và khi thi hành nhiệm vụ này người Kitô hữu Giáo Dân xác định được vai trò ưu tuyển của mình trong Hội Thánh. Giáo sĩ có tác vụ chính là cai quản và thánh hoá các phần tử bên trong Hội Thánh nhờ ban các phép Bí Tích, nhưng chính các Kitô hữu Giáo Dân mới là những phần tử, vì sự hiện diện mọi lúc và mọi nơi của họ trong mọi lãnh vực trần thế đa dạng, nên mới có điều kiện nhất trong việc không ngừng thực thi mệnh lệnh “hãy đi rao giảng” mà Đức Kitô đã để lại cho Hội Thánh trước khi về trời.

 

3/ Nội dung việc Rao Giảng Tin Mừng

 

Trước hết ta tạm phân biệt nội dung ‘Rao Giảng Tin Mừng’ mà ta đang đề cập tới ở đây khác với việc truyền giáo, tức truyền đạo, tức gầy dựng một cộng đoàn gồm các kẻ tin và chịu phép rửa, tức thiết lập cũng như bồi đắp ở đó sự hiện diện của Giáo Hội địa phương vững chắc(như một cơ cấu đạo giáo). Ở đây ta hiểu rao giảng Tin Mừng trong nội dung của việc nhập thể của chính Đức Giêsu Kitô, là đưa tình yêu Thiên Chúa và các giá trị của nó thâm nhập sâu xa vào mọi thực tại của cuộc sống loài người, tới mọi nền văn hoá, mọi sinh hoạt trần thế, mọi tri thức và tinh thần, thậm chí mọi niềm tin tiềm tàng trong tâm khảm mỗi con người và mỗi dân tộc. Tông Huấn Người Kitô Hữu Giáo Dân đã nói tới điều này trong số 34, khi giải thích: “Mở toang cánh cửa đón Đức Kitô vào, việc đón nhận Ngài vào khoảng trống của cuộc sống con người không mang chút đe doạ nào cho con người và xã hội, trái lại là lối duy nhất, nếu người ta muốn nhận ra từng con người trong sự thật trọn vẹn của nó, và độ cao của con người trong những giá trị đích thực của nó”.

Như vậy chấp nhận Tin Mừng không phải là một điều gì thêm thắt vào cuộc sống con người trong tư cách cá nhân cũng như tập thể, nhưng là một điều mà con người mọi nơi và mọi thời đại đều rất cần, hầu làm cho cuộc sống của họ đạt được sự phong phú và tròn đầy đích thực. Đức Gioan Phaolô II đã tóm kết nhiệm vụ cao đẹp này dành cho các Kitô hữu Giáo Dân trong những lời rất thống thiết sau đây: “Tôi hết lòng khiêm tốn và tin tưởng nài xin anh chị em hãy để cho Đức Kitô nói với nhân loại. Vâng, chỉ có Ngài mới có những lời ban sự sống, hơn nữa một sự sống dồi dào và vịnh cửu”.

 

4/ Các lĩnh vực chính mà Tin Mừng cần cho con người và nhân loại

 

Tin Mừng không chỉ cần thiết cho con người và nhân loại vì mang lại cho họ cuộc sống đời đời (theo nghĩa cứu vớt linh hồn họ), nhưng ngay từ đời này và ngay từ bây giờ, như Đức Kitô không ngừng minh định ‘để cho được sống, và sống dồi dào’ (Ga 10:10). Tông Huấn CFL số 34 tiếp tục chỉ cho thấy: để có thể rao giảng Tin Mừng cách hữu hiệu, người giáo dân trước hết phải xoá bỏ được khoảng cách giữa Tin Mừng với cuộc sống hằng này trong chính đời sống của họ; họ sẽ “sáng tạo được một thể thống nhất trong cuộc sống, trong các sinh hoạt thường nhật, nơi bản thân, trong gia đình, nơi xã hội… nhờ được Tin Mừng gợi hứng và giúp sức thể hiện cách đầy đủ”. Từ đó trong cuộc tham gia cách đầy đủ vào cuộc sống cá nhân, gia đình, và mọi hình thái xã hội dưới mọi phương diện, người Giáo Dân sẽ làm cho Tin Mừng có dịp được rao giảng và loan truyền trong toàn thể mọi thực tại của trần thế. Trước khi cứu vớt họ cách vĩnh viễn cho cuộc sống đời đời, Tin Mừng qua cuộc nhập thể và cứu độ của Đức Giê-su, đã đi vào trong thế giới và biến đổi nó ngay giữa các thực tại trần thế.

 

Như vậy chúng ta có thể liệt kê ra đây cách tổng quát các lĩnh vực chính của thực tại chúng ta cần đưa tới Tin Mừng (hay đúng hơn Tin Mừng được đưa tới nó) hầu được biến đổi và làm cho cho các thực tại đó trở nên phong phú:

  • Lĩnh vực nhân bản với tất cả mọi chiều kích con người đã được Đức Kitô tiếp nhận lấy cho mình khi nhạp thể, cả về thể lý, tri thức và tinh thần, cũng như những gì chân chính trong niềm tin của các tôn giáo và văn hoá truyền thống của họ.
  • Lĩnh vực gia đình với tất cả chiều kích sâu xa của nó, như tôn trọng sự sống, tình yêu hôn nhân, quên mình để sống yêu thương và phục vụ lẫn nhau, và nhất là tha thứ và chấp nhận nhau trong cuộc sống thường ngày.
  • Lĩnh vực xã hội trong tất cả mọi chiều kích đa diện và phức tạp của nó, nhất là trong thế giới ngày nay. Một số lĩnh vực nổi cộm như văn hoá, kinh tế, chính trị, di dân, hay truyền thông… hiện đang có nhu cầu cao cần phải được Phúc Âm hoá cấp thời, và kêu gọi các Giáo Dân khẩn trương mang Tin Mừng tới cho chúng.

Ta sẽ triển khai các lĩnh vực này cách chi tiết hơn trong chương IV của chương trình này.

 

Sau hết, Tông Huấn cũng không quên đề cập tới trường hợp, một số giáo dân nào đó lãnh nhận được ơn gọi đặc biệt là lên đường ra đi tới  các vùng đất xa lạ để rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc chưa hề biết tới Đức Kitô (thường được gọi là truyền giáo ad gentes). “Lệnh truyền của Đức Kitô: “Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ” vẫn được rất nhiều giáo dân quảng đại hưởng ứng. Họ sẵn sàng từ giã môi trường sống, công ăn việc làm, quê hương sứ sở mình, để đến phục vụ trong những miền truyền giáo, ít là trong một thời gian nhất định” (CFL số 35).

 

Câu hỏi gợi ý:

  1. Có bao giờ bạn coi ơn gọi giáo dân của mình chính là nhận lãnh một tác vụ chuyên biệt trong Hội Thánh là rao giảng Tin Mừng cho thế giới không?
  2. Bạn có thấy chính các giáo dân trong môi trường bạn đang sống phải là cộng sự hay tác nhân của việc rao giảng Tin Mừng cho những người khác không? Lĩnh vực nào mà bạn cho là thiết yếu nhất phải được Tin Mừng hoá trong điều kiện sống cụ thể của bạn?
  3. Làm từ thiện tự nó đã phải là rao giảng Tin Mừng chưa? Nếu có hay không thì tại sao?

​Lm Gioan Nguyễn Văn Ty 

 

PHẦN MỤC VỤ

Cuộc hội nhập văn hoá trong lịch sử dân tộc Việt Nam

Lời mở

Văn hoá của một dân tộc là kết tinh của nhiều nền văn hoá trong suốt dòng lịch sử của dân tộc đó. Rồi khi nhiều người đón nhận những giá trị mới qua cuộc hội nhập văn hoá, họ lại tạo nên một nền văn hoá mới để truyền lại cho thế hệ mai sau. Từ trước đến nay, chưa có nhiều người tìm hiểu về những giá trị của các nền văn hoá khác nhau đã hội nhập và kết tinh thành nền văn hoá Việt Nam hiện nay như thế nào. Vì thế, qua bài này, chúng ta muốn tìm hiểu cách khái quát cuộc hội nhập của văn hoá trong dòng lịch sử dân tộc Việt Nam để có thể xây dựng những giá trị mới và đẩy lùi những nét tiêu cực có thể có trong cuộc hội nhập này khi so sánh với nền văn hoá toàn diện và liên đới của đạo Công giáo mà chúng ta tìm hiểu ở bài 5. Chúng ta tạm chia lịch sử văn hoá dân tộc Việt Nam thành 4 thời kỳ.

 

  1. Thời kỳ đầu tiên từ đời vua Hùng đến năm 111 TCN

1.1. Văn hoá thị tộc

Trên đất nước Việt Nam hiện nay, các nhà khảo cổ học phát hiện những di tích và hoá thạch người “Homo erectus” khoảng 500 ngàn năm thuộc thời Đồ Đá Cũ [16]. Cách ngày nay khoảng 4.000 năm đến 5.000 năm, các lớp cư dân nguyên thuỷ từ miền đồi núi tiến xuống khai phá các vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, sông Cửu Long và các đồng bằng ven biển, phát triển nền nông nghiệp lúa nước. Nền văn hoá bộ tộc thiểu số trải dài trên những núi đồi chuyển thành nền văn hoá làng xã với những ruộng vườn cố định.

 

Thời kỳ Hồng Bàng, theo truyền thuyết và dã sử, bắt đầu từ năm 2879 TCN cho đến năm 258 TCN với 18 đời Vua Hùng [17]. Từ đầu thiên niên kỷ II TCN, Việt Nam bước vào thời đại kim khí, từ đồ đồng đến đồ sắt. Đó là văn hoá Đông Sơn với nhà nước Văn Lang-Âu Lạc, văn hoá Sa Huỳnh với nhà nước Champa ở miền Trung và văn hoá Óc Eo với nhà nước Phù Nam ở miền Nam. Ba dòng văn hoá này đã dần dần giao lưu và hội nhập vào nhau tạo thành văn hoá nguyên thuỷ của Việt Nam.

 

Văn hoá thị tộc là nền văn hoá cơ sở của xã hội nguyên thuỷ, bao gồm nhiều gia đình lớn, có cùng một tổ tiên và có nền kinh tế chung: có chung tư liệu sản xuất, lao động tập thể và hưởng chung thành quả lao động. Các thị tộc của người Bách Việt sống theo tổ chức xã hội này. Hạt nhân của chế độ công xã nguyên thuỷ này là thị tộc mẫu quyền, được gặp thấy trong cả 3 nền văn hoá Bắc Trung Nam, cho đến khi người Việt sống dưới chế độ Bắc thuộc mới đổi sang chế độ phụ quyền. Nền văn hoá thị tộc ngoài việc đề cao sức mạnh cơ bắp để lao động kiếm ăn, còn mang đặc tính đề cao sự sinh sản để bảo tồn thị tộc, do đó ta thấy người Việt cả 3 miền đều có tín ngưỡng phồn thực, thờ sinh thực khí (linga và yoni) và thờ hành vi giao phối[18].

 

Văn hoá thị tộc theo mẫu quyền còn nổi bật với tín ngưỡng thờ thần Mẫu. Các vị thần ở Việt Nam chủ yếu là nữ giới. Đạo Mẫu này càng phát triển hơn trong nền văn hoá nông nghiệp (các bà thần Mây, Mưa, Sấm chớp), sau này hoà nhập cả với đạo Lão và đạo Phật du nhập từ Trung Hoa. Các vị thần Mẫu được nhiều nơi tôn kính: Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Thánh Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải ở miền Bắc; Tứ Vị Thánh Nương, Bà Ngũ Hành, Thiên Y A Na ở miền Trung; Bà Chúa Động, Bà Chúa Xứ, Bà Đen ở miền Nam. Ngày 1/12/2016, tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể, đại diện của nhân loại[19].

 

1.2. Nền văn hoá Nông nghiệp

Trong khi những bộ tộc người Việt ở vùng núi còn giữ nét văn hoá thị tộc thì những người Việt ở vùng đồng bằng hình thành nên nền văn hoá nông nghiệp với một số giá trị mới. Nền văn hoá này tồn tại hầu như trong suốt dòng lịch sử dân tộc cho đến năm 1945, khi làn sóng đô thị hoá và những ý thức hệ mới tràn vào nước ta.

Những giá trị của nền văn hoá nông nghiệp:

 

– Trọng tĩnh: nghề trồng trọt buộc con người sống định cư, chờ một thời gian lâu để cây trồng sinh hoa, kết trái và thu hoạch, nên con người trọng đời sống an tĩnh (an cư lạc nghiệp), nhà cửa ổn định, không thích di chuyển.

– Hoà hợp với thiên nhiên: nghề trồng trọt phụ thuộc hầu như hoàn toàn vào thiên nhiên (mưa thuận, gió hoà, mưa nắng nhờ Trời) nên con người tôn thờ các sức mạnh  thiên nhiên, rút ra nhiều kinh nghiệm từ thiên nhiên (được mùa lúa, úa mùa cau; nhiều nắng tốt dưa, nhiều mưa tốt lúa)…

– Trọng đức, trọng tình, trọng nghĩa, trọng văn: do sống chung với nhau thành từng làng, trong một không gian tương đối hẹp, có luỹ tre bao bọc cũng như cùng làm việc chung với nhau, đổi công cho nhau, nên cộng đồng trọng những người có đức hạnh, có tình nghĩa để bảo đảm cho đời sống chung được tốt đẹp. Nhờ sống gần nhau, dễ dàng bảo vệ lẫn nhau nên người ta trọng những nét đẹp của văn hoá hơn võ thuật, tài trí. So với những người dân tộc sống theo kiểu du mục: từng gia đình sống riêng rẽ, để đưa đoàn gia súc của mình đi từ đồng cỏ này sang đồi núi khác, hằng ngày phải đối mặt với thú dữ, bất kể thời tiết nắng mưa, sống thế nào cũng không bị ai kết án nên người dân du mục trọng võ, trọng tài, trọng lý, trọng vật.

 

Thật ra, những giá trị của văn võ, tài đức, lý tình, nghĩa vật đều lệ thuộc vào nhận thức của con người về giá trị của chúng. Khi có một nhận thức đầy đủ và toàn diện về nền văn hoá, người ta sẽ thấy cần phải văn võ song toàn, tài đức trổi vượt, tình lý trọn vẹn, nghĩa vật cân bằng.

 

– Ứng xử linh hoạt và khoan dung: do không thể chống lại thiên nhiên và cộng đồng bằng sức mạnh cá nhân và tài trí, nên người theo văn hoá nông nghiệp thường ứng xử linh hoạt (ở bầu thì trọn, ở ống thì dài), dễ bị hùa theo đám đông (xấu đều hơn tốt lỏi), âm thầm chịu đựng những chướng ngại vật trên đời (tránh voi chẳng xấu mặt nào), nhẫn nại làm việc và hy vọng sẽ qua được cơn hoạn nạn, thiên tai (ngày mai trời lại sáng).

 

– Văn hoá nông nghiệp dễ tiếp nhận sự khác biệt của các ý thức hệ, các tôn giáo như đã quen chịu đựng nắng mưa, bão lụt của trời đất. Nhưng thái độ linh hoạt này lại có thể dẫn đến thái độ ứng xử ba phải (cái gì cũng đúng), thiếu chính xác trong giờ giấc vì đã quen hành động theo con nước hay theo mùa mỗi năm, đối xử với nhau theo tình cảm nên thiếu khách quan, thiếu nguyên tắc trong tổ chức, thiếu tôn trọng pháp luật (một bồ cái lý không bằng một tí cái tình; yêu nhau cau bảy bổ ba, ghét nhau cau bảy bổ ra làm mười; yêu nhau yêu cả đường đi, ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng).

 

  1. Văn hoá thời kỳ Bắc thuộc (111 TCN-938)

Năm 179 TCN, nước Âu Lạc do An Dương Vương lập nên bị Triệu Đà, vua nước Nam Việt xâm chiếm, rồi bị nhà Hán độ hộ từ năm 111 TCN cho đến khi Ngô Quyền thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938 và lập chủ quyền cho đất nước.

 

2.1. Văn hoá nông nghiệp với tinh thần phản kháng

Người Việt liên kết với nhau trong các cộng đồng làng xã, bảo tồn tiếng Việt và các phong tục trong cộng đồng (phép vua thua lệ làng), chống lại các chính sách đồng hoá của người Trung Quốc.

– Người Việt giữ nguyên những nét căn bản của nền văn hoá nông nghiệp vì hầu hết vẫn sinh sống trong những làng xã và hành nghề nông với đời sống tự cung, tự cấp. Với ý thức phản kháng người Trung Quốc, người Việt vẫn giữ cách ăn mặc, nói năng của mình.

– Tổ chức gia đình và xã hội có sự thay đổi lớn: văn hoá dần dần nghiêng về chế độ phụ hệ, người cha là rường cột trong gia đình, gia đình trọng nam khinh nữ, xã hội theo chế độ đa thê cho phép người đàn ông có nhiều thê thiếp. Xã hội nông nghiệp cần nhiều nhân công để lao động, nên dễ dàng đón nhận các giá trị văn hoá mới này.

– Thái độ ứng xử cá nhân: chính quyền dùng chính sách chia để trị, nên gây chia rẽ giữa các địa phương, dòng họ, cá nhân với nhau khiến người Việt thường nghi ngờ, ngại ngùng với người lạ, không dám bày tỏ hay đóng góp ý kiến của mình, im lặng trước bất công khiến người khác tưởng lầm họ là kẻ đồng loã, thường tỏ thái độ bên ngoài hoà hoãn, chịu đựng, nhưng bên trong chỉ muốn ăn tươi, nuốt sống quân thù. Họ có thói quen giả vờ đồng thuận, không nói thật lòng mình, nói xấu kẻ thù vắng mặt, bao che cho đồng bào trước nỗi bất công, cùng giúp nhau lấy cắp của công vì tất cả tài sản công đều do chính tay họ làm ra. Họ thường tỏ vẻ chăm chỉ làm việc trước mắt kẻ xâm lược, nhưng khi kẻ thù quay lưng là họ ngưng làm hay chỉ làm việc cầm chừng vì không muốn làm lợi cho kẻ thù.

 

Nét văn hoá ứng xử này trải qua hàng ngàn năm bị đô hộ đã tạo thành bản sắc của người Việt, nên khi không còn sống dưới ách kẻ xâm lăng, nhiều người Việt vẫn giữ bản sắc đó. Thái độ này cần được sửa sai bằng những nhận thức mới về giá trị con người, về công bằng xã hội, bằng những kỹ năng làm việc chung và hợp tác với nhau vì công ích, và bằng nhận thức về một Thiên Chúa, một ông Trời nhìn thấu mọi sự và xét xử công minh.

 

2.2. Đón nhận một số giá trị mới của văn hoá Trung Quốc

Qua việc tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp với người Trung Quốc, người Việt nhận ra nhiều giá trị mới của văn hoá Trung Quốc.

Trước hết là sức mạnh quân sự với chiến lược, vũ khí, hoả pháo, chiến thuyền khiến người Trung Quốc thắng được Việt Nam. Tiếp theo là chữ viết và văn hoá Trung Quốc trổi vượt so với tiếng Việt còn non trẻ. Trước khi bị người Trung Quốc đô hộ, nước Văn Lang thời Hùng Vương đã có chữ viết riêng, gọi là chữ Khoa Đẩu, giống hình con nòng nọc[20]. Tuy nhiên, các giá trị văn hoá mới này bị người Việt nghi ngờ, nhiều làng xã tẩy chay, vì người Việt vẫn ý thức về ý đồ bành trướng, đồng hoá của người Trung Quốc.

 

  1. Văn hoá thời kỳ quân chủ độc lập (938-1945)

3.1. Lịch sử: thời kỳ này kéo dài 10 thế kỷ, từ thế kỷ X đến thế kỷ XX, với ba triều đại nhỏ: Ngô (939-965), Đinh (968-979), Tiền Lê (980-1009); 4 triều đại lớn: Lý (1009-1225), Trần (1226-1400), Lê (1428-1788), Nguyễn (1802-1945); xen kẽ với 3 triều đại nhỏ là Hồ (1400-1407), Hậu Trần (1407-1414), Tây Sơn (1788-1802).

Từ thế kỷ XVI, quan hệ giao thương với nước ngoài phát triển mạnh, dẫn đến sự phồn vinh của nhiều đô thị, cảng biển. Văn hoá dân tộc phát triển và giao lưu với các nước trong khu vực và một số nước phương Tây như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh , Pháp. Đây cũng là thời kỳ Thiên Chúa giáo bắt đầu được truyền bá tại Việt Nam. Các làng nghề thủ công phát triển ở miền Bắc với nghề ươm tơ tằm, dệt lụa và ở miền Trung, miền Nam với nghề làm đồ gốm. Đây là những sản phẩm để trao đổi với nước ngoài.

 

Triều đại Tây Sơn, với vua Quang Trung Nguyễn Huệ, có nhiều chính sách cải cách về ruộng đất và văn hoá (coi trọng chữ Nôm) có lợi cho người dân, nhưng chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Chúa Nguyễn Ánh, với sự giúp đỡ của người Pháp, đã đánh bại nhà Tây Sơn, mở đầu triều đại nhà Nguyễn khi lên ngôi vua năm 1802, đóng đô ở Phú Xuân, Huế, đặt quốc hiệu là Việt Nam. Trước sức mạnh quân sự, kỹ thuật vượt trội của phương Tây, triều Nguyễn không có những cải cách để khắc phục tình trạng lạc hậu của đất nước, dùng chính sách bế quan toả cảng và hệ tư tưởng Nho giáo chống lại hệ tư tưởng Thiên Chúa giáo nên dẫn đến cuộc xâm lược của thực dân Pháp (1858-1884) và nước ta rơi vào vòng nô lệ phương Tây (1884-1945).

 

3.2. Văn hoá

Người Việt vẫn giữ được những nét tiêu biểu của nền văn hoá nông nghiệp nhưng  nhận ra giá trị cao cả, linh thiêng của đất nước vì đã phải trả giá đắt cho nền độc lập và tự do của dân tộc qua các cuộc chiến tranh. Do phải chịu những cuộc nội chiến giữa các triều đại, người Việt thấy đời sống có vẻ tạm bợ, nặng nề, nên thường có tâm trạng bi quan, thiếu vẻ dấn thân, yêu đời.

Phật giáo chiếm địa vị độc tôn về tín ngưỡng trong dân chúng, nhất là trong 2 triều Lý Trần. Những giá trị văn hoá của Phật giáo để lại là thái độ bi quan, yếm thế, cho đời là vô thường, là bể khổ và giữ cho con người ăn ngay ở lành để được đầu thai vào kiếp sau tốt đẹp hơn. Vì được quần chúng tôn trọng và chính quyền ưu đãi, nên nhiều vị tu hành đánh mất tư cách đạo đức. Do đó, đại đa số dân chúng quay trở về với việc thờ cúng ông bà tổ tiên, đạo Mẫu và thờ các vị Thành Hoàng.

 

Nhà nước phong kiến đã chọn Khổng giáo làm quốc giáo để bảo đảm quyền lực, nhằm tổ chức một xã hội ổn định, trật tự, kỷ cương ở trần thế, chứ không quan tâm đến những chuyện thần thánh ở thế giới mai sau. Nho giáo chiếm lĩnh đời sống tinh thần qua những văn thơ, kinh sách được phổ biến trong dân chúng và dần dần chiếm thế độc tôn từ thế kỷ XV trở đi. Hệ thống tư tưởng Nho giáo tuy giữ cho dân tộc ổn định trong thời đại nhiễu nhương nhiều thế kỷ, nhưng lại kìm hãm sự phát triển, đổi mới, mở ra cho khoa học tiến bộ. Những nhà trí thức thường chỉ quanh quẩn với những vần thơ, bài phú ca tụng dòng họ, tìm danh lợi trong chốn quan trường.

 

Bắt đầu từ thế kỷ XVI, những giá trị mới của Kitô giáo bắt đầu được truyền bá ở Việt Nam tạo nên những xung đột dữ dội với hệ thống tư tưởng của Khổng giáo. Nhờ thông thạo tiếng Việt và sáng chế ra cách ghi âm tiếng Việt bằng chữ cái Latinh thay cho chữ Nôm, các nhà truyền giáo dòng Tên từ năm 1615-1665 đã giới thiệu những giá trị nền tảng của Kitô giáo về nền dân chủ, về gia đình một vợ một chồng sống chung thuỷ với nhau suốt đời, về sự bình đẳng nam nữ vì đều có nhân phẩm như nhau, về những khoa học thường thức để giúp cho đời sống khoẻ mạnh và tươi đẹp nên được nhiều người Việt đón nhận.

 

Sau khi quân đội Pháp bắn thị uy vào cảng Đà Nẵng năm 1847 và nhanh chóng chiếm được 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ năm 1862, cuộc bách hại người Công giáo trở nên hết sức khốc liệt vì vua quan đổ tội cho người Công giáo theo gót kẻ xâm lăng. Nhiều đám dân chúng cũng hùa theo quân lính triều đình cướp phá các làng trù phú của người Công giáo với khẩu hiệu “bình Tây sát Tả”. Tuy nhiên nhiều nhà Nho nổi tiếng yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Kỳ ngoại hầu Cường Để, Lương Văn Can, qua các phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, đã minh oan cho người Công giáo và hô hào toàn dân hãy đón nhận những giá trị mới về dân chủ, bình đảng nam nữ, hôn nhân một vợ một chồng, chữ Việt và tinh thần cởi mở với khoa học kỹ thuật của người Công giáo[21]. Những giá trị của nền văn hoá Công giáo đã được toàn dân Việt đón nhận để bước vào một giai đoạn mới của đất nước.

 

  1. Văn hoá thời kỳ phát triển và hội nhập với thế giới (1945- nay)

4.1. Lịch sử.  Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, qua Hiệp định Genève, quân Pháp rút khỏi miền Bắc Việt Nam. Việt Nam được chia thành 2 miền theo hai ý thức hệ khác nhau: miền Bắc theo chủ nghĩa Cộng Sản, miền Nam theo chủ nghĩa Tư bản với tên nước là Việt Nam Cộng Hoà. Hai miền lại bắt đầu chiến tranh khốc liệt cho đến ngày 30/4/1975. Cuộc hội nhập vào nền văn hoá thế giới của dân tộc Việt Nam bắt đầu từ 1986 khi Đảng Cộng Sản Việt Nam công bố thời kỳ đổi mới và kéo dài đến ngày nay. Việt Nam gia nhập WTO (Tổ chức Thương mại Thế giới) vào ngày 7-11-2006, và được công nhận là thành viên chính thức của tổ chức này vào ngày 11-1-2007. Việc gia nhập WTO đã mở ra cơ hội lớn người Việt hoà nhập vào nền văn hoá thế giới với xu hướng đô thị hoá, hiện đại hoá nhờ khoa học kỹ thuật và mở ra với mọi nguồn văn hoá đại chúng nhờ sách báo, phim ảnh, truyền hình, intrenet và điện thoại thông minh.

 

4.2. Văn hoá.

Những giá trị văn hoá được tạo nên trong thời kỳ xung đột mãnh liệt giữa các ý thức hệ khi hai miền Nam Bắc trở thành tiền đồn của hai thế giới Tư bản và Cộng sản, cũng như những giá trị văn hoá của các dân tộc phản ánh tâm tư của nhân loại trong một giai đoạn nhất định của lịch sử, đều đáng trân trọng. Chúng giống như những chất liệu đường, chanh, muối, nước, tự bản thân và để riêng rẽ thì rất tốt, nhưng khi hoà trộn vào nhau mà không được điều chỉnh định lượng cho phù hợp thì không thể trở thành ly nước chanh ngon ngọt, bổ dưỡng, trái lại, còn làm nguy hại đến sức khoẻ con người. Đấy là trường hợp của dân tộc Việt Nam trong thời kỳ hội nhập và phát triển với thế giới hiện nay khi có quá nhiều những giá trị đối chọi nhau.

 

Nhiều giá trị trong nền văn hoá truyền thống bị loại bỏ như niềm tin vào Trời, giá trị của các tôn giáo, vì một số người quá say mê cái mới, nhất là khi chính quyền công khai loại bỏ chúng ra khỏi chương trình giáo dục, đào tạo con người. Nhiều người trẻ choáng ngợp trước vẻ hào nhoáng của khoa học hiện đại nên bỏ hết những kinh nghiệm ngàn đời của tổ tiên. Người ta bị cuốn hút vào cơn lốc xoáy của việc hưởng thụ vật chất, đánh giá nhau theo những phương tiện, bằng cấp, tài sản bên ngoài, nên không còn trọng tình nghĩa, đức hạnh, từ đó gây nên sự đổ vỡ hạnh phúc gia đình, suy thoái trầm trọng đạo đức xã hội. Tội ác, tham nhũng, bất công và nhiều tệ nạn xã hội tràn lan khắp nơi. Vấn đề cần giải quyết là chính quyền cũng như mỗi người dân nhận thức được giá trị của việc hội nhập văn hoá và thực hiện việc hội nhập này như thế nào cho có kết quả tốt đẹp.

 

Lời kết

Vì thế, khi tìm hiểu về cuộc hội nhập văn hoá trong lịch sử dân tộc Việt Nam và kết quả hiện nay của nền văn hoá dân tộc, mỗi người chúng ta đều có trách nhiệm phân định những giá trị nào cần tiếp tục gìn giữ và phát huy, giá trị nào nên loại bỏ hoặc điều chỉnh mức độ hợp lý tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Dù đây là trách nhiệm nặng nề của chính quyền và những người lãnh đạo trong cộng đồng xã hội, nhưng cá nhân mỗi người, như một thực thể chịu ảnh hưởng của văn hoá, vẫn là chủ thể tác động vào nền văn hoá và thay đổi được những giá trị cho thế hệ tương lai. Như thế chúng ta vẫn có quyền sống trong niềm tin và hy vọng vào một tương lai tốt đẹp cho từng người cũng như cho dân tộc Việt Nam.

 

Câu hỏi gợi ý

  1. Bạn đã thu nhận được những giá trị nào trong dòng lịch sử văn hoá của dân tộc?

2.Bạn hãy liệt kê những giá trị lỗi thời mà hiện nay người Việt đang nắm giữ và đề nghị sửa đổi bằng giá trị nào của nền văn hoá Công giáo?

Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn

 

 

[1] Có 12 nước tham dự: Băng-la-đét (Bangladesh), Đức Quốc (Germany), Hàn Quốc (Korea), Ấn Độ (India), In-đô-nê-xi-a (Indonesia), Mã-lai (Malaysia), Mi-an-ma (Myanmar), Phi-líp-pin (Philippines), Xing-ga-po (Singapore), Xri Lan-ka (Sri Lanka), Thái Lan (Thailand), Việt Nam (Vietnam).

[2] AsIPA Desk (Asian Integral Pastoral Approach Desk): Bàn làm việc của AsIPA. Đây là cơ quan giúp hiện thực hoá một trong những những định hướng đậm tính “Giáo hội học” và “Sứ vụ học” của FABC về những công đoàn thời Giáo hội sơ khai: một cách thức “mới” để thể hiện niềm tin-cậy-mến của Giáo hội tại Châu Á (a new way of being Church in Asia), phát triển chương trình “Tiếp cận mục vụ toàn diện tại Châu Á” (Asian Integral Pastoral Approach Desk).

[3] BEC Office (Basic Ecclesial Community Office): Văn phòng Cộng Đoàn Giáo Hội Cơ Bản (CĐGHCB).

[4] “Small Christian communities (SCCs) evangelize families towards communion and mission”.

[5] Office of Laity and Family Federation of Asian Bishop’s Conferences – Snehalaya Family Centre, Victoria School Campus, L. J. Road, Mahim, Mumbai; India – 400 016.

[6] Mt 20,9-10.

[7] ĐGM. Louis Nguyễn Anh Tuấn hướng dẫn đoàn.

[8] Gồm: “(1) Sharing and networking on SCCs/BECs promoting the New Way of Being Church in Asia; (2) Building fraternal communion among participants; (3) Publishing General As-sembly documentation and introducing available texts based on the theme. Specific objectives of the GA VIII”.

[9] Gồm: “(1) To discover how SCCs, nourished by the Word of God, can be instruments to live the Gospel of love in families; (2) To find ways and means for families to be involved in the mission of the church in the neighbourhood through SCCs; (3) To explore how SCCs/BECs can promote the fuller growth of children, youth, men, women and the elderly, as a family of families”.

[10] X. Mc 10,45.

[11] X. G. Aranha, The mission of the family in the Church in the light of can. 226§1 (Rô-ma 2002), 123.

[12] X. BGL, đđ. 515-552.

[13] X. BGL, đđ. 305; 536.

[14] Nguyên văn: “Small Christian communities (SCCs) evange-lize families towards communion and mission”.

[15] Nghĩa là, “Small Christian communities evangelize the individuals to evangelize families to evangelize parishes to evangelize dioceses… towards communion and mission”.

[16] X. Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo Biên soạn, Từ điển Bách khoa Việt Nam, Mục từ Việt Nam, NXB TĐBKVN, 2005, tr. 890-892.

[17] X. Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, đôi khi gọi tắt là Toàn thư, là bộ quốc sử viết bằng văn ngôn của Việt Nam, viết theo thể biên niên, ghi chép lịch sử Việt Nam từ thời đại truyền thuyết Kinh Dương Vương năm 2879 TCN đến năm 1675 đời vua Lê Gia Tông nhà Hậu Lê.

[18] X. Toan Ánh, Tín ngưỡng Việt Nam, Quyển Thượng,  NXB Tp.HCM.

[19] X. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Niên giám 2016 Giáo hội Công giáo Việt Nam, NXB Tôn Giáo, 2017, tr.470.

[20] X. Văn Lang thời Hùng Vương đã từng có chữ viết riêng? Internet, 16/4/2016, về nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền.

[21] X. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Niên giám 2016 Giáo hội Công giáo Việt Nam, NXB Tôn Giáo, tr. 178-185

 

print