Các Bài Suy Niệm Ngày Thường Tuần 1 Mùa Chay

print

Các Bài Suy Niệm Ngày Thường Tuần 1 Mùa Chay

Thứ hai sau Chúa Nhật 1 Mùa Chay.

Thứ ba sau Chúa Nhật 1 Mùa Chay.

Thứ tư sau Chúa Nhật 1 Mùa Chay.

Thứ năm sau Chúa Nhật 1 Mùa Chay.

Thứ sáu sau Chúa Nhật 1 Mùa Chay.

Thứ bảy sau Chúa Nhật 1 Mùa Chay.

Thứ hai sau Chúa Nhật 1 Mùa Chay

“Những gì các ngươi làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta”.

Lời Chúa: Mt 25, 31-46

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Khi Con Người đến trong vinh quang, có hết thảy mọi thiên thần hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người, và Người sẽ phân chia họ ra, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Chiên thì Người cho đứng bên phải, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Vua sẽ phán với những người bên hữu rằng: “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta”.

Khi ấy người lành đáp lại rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ chúng con thấy Chúa là lữ khách mà tiếp rước, mình trần mà cho mặc; có khi nào chúng con thấy Chúa yếu đau hay bị tù đày mà chúng con đến viếng Chúa đâu?”

Vua đáp lại: “Quả thật, Ta bảo các ngươi: Những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta”.

“Rồi Người cũng sẽ nói với những kẻ bên trái rằng: “Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng. Vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!”

Bấy giờ họ cũng đáp lại rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu?”

Khi ấy Người đáp lại: “Quả thật, Ta bảo cho các ngươi biết, những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta”. Những kẻ ấy sẽ phải tống vào chốn cực hình muôn thuở, còn các người lành thì được vào cõi sống ngàn thu”.

SUY NIỆM 1: Thiên đàng của bác ái.

Một đêm trăng nọ, nhìn qua cửa sổ, một tu sĩ già bỗng nhìn thấy một thiên thần đang ngồi viết trên một cuốn sách vàng. Lòng tràn ngập hân hoan, vị tu sĩ rón rén đến gần và lên tiếng hỏi:

– Ngài đang viết gì trong quyển sách này thế?

 Thiên thần trả lời:

– Ta đang ghi danh những ai yêu mến Thiên Chúa.

Vừa lo lắng, vừa hồi hộp, vị tu sĩ mới hỏi xem tên của mình có trong sách không.

Thiên thần giở từng trang, chăm chú đọc từng hàng, nhưng không thấy tên ông.

Thế nhưng điều đó không làm vị tu sĩ thất vọng, ông nói với thiên thần:

– Xin Ngài vui lòng ghi tên tôi như một thầy dòng lúc nào cũng yêu mến tha nhân.

Thiên thần chiều ý ông, thế là tên ông được ghi vào sổ vàng.

Tối hôm sau, thiên thần lại hiện ra và mở quyển sổ vàng cho vị tu sĩ xem, lần này ông thấy tên mình dẫn đầu danh sách những người yêu Chúa.

Sau khi vị tu sĩ gia qua đời, xem lại nhật ký của ông, người ta thấy dòng chữ đầu tiên trong nhật ký chính là câu trích dẫn thư 1 Ga 4,20: “Nếu ai nói mình yêu mến Chúa mà lại ghét anh em mình, thì đó là kẻ nói dối, vì kẻ không yêu mến người anh em nó thấy đó, tất không thể yêu mến Thiên Chúa mà nó không thấy”. Tiếp theo lời trích dẫn vị tu sĩ ghi chú: “Tôi đi tìm kiếm linh hồn tôi, nhưng tôi không thấy; tôi đi tìm Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vượt thoát khỏi tôi; tôi đi tìm người anh em, tôi đã gặp được Thiên Chúa và linh hồn tôi”.

Từ khởi đầu, dường như Thiên Chúa đã muốn tạo dựng cho con người một thiên đàng vĩnh cửu trên trần gian này. Trong cơn gió nhẹ của mỗi buổi chiều tà, Thiên Chúa đến truyện vãn với con người, đó là hình ảnh một hạnh phúc vô biên mà con người có thể hưởng nếu ngay từ trần gian này. Thế nhưng khi con người chối từ mối liên lạc với Thiên Chúa và chối bỏ chính mình, con người cũng đánh mât hạnh phúc ấy. Ngôi Hai Thiên Chúa đã đến để tái lập thiên đàng tại thế ấy cho con người, Ngài nói với con người rằng con người sẽ có được thiên đàng ấy khi nó biết xây dựng sự hài hoà với Thiên Chúa và với con người. Và vì Thiên Chúa tự đồng hoá với con người, nên chính trong sự hài hoà với tha nhân, con người gặp gỡ Thiên Chúa và tìm lại được thiên đàng đã mất.

Có biết bao ý thức hệ và triết thuyết hứa hẹn cho con người một thiên đàng tại thế, nhưng thứ thiên đàng ấy đã khong bao giờ đền, mà thay vào đó chỉ là hoả ngục của hận thù và chết chóc mà thôi. Làm sao có thể xây dựng được thiên đàng khi người ta chối bỏ hay chà đạp tha nhân, làm sao có thiên đàng khi người ta lấy hận thù làm men cho xã hội. Ở đâu có Thiên Chúa, ở đó là thiên đàng, nhưng ở đâu có tha nhân thì ở đó cũng có Thiên Chúa, bởi vì con người là hình ảnh của Thiên Chúa. Mỗi gặp gỡ với tha nhân, mỗi nghĩa cử làm cho tha nhân là một bước tiến vào thiên đàng ngay từ cuộc sống này.

Xin cho chúng ta cảm nếm được hạnh phúc đích thực khi phục vụ tha nhân, và xin cho chúng ta luôn ý thức tha nhân chính là nơi chúng ta có thể gặp gỡ Chúa.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 2: Người bên phải, kẻ bên trái

Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trườc mặt Người và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Đức Vua mới phán với người đứng bên phải rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm.” Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? có bao giờ chúng con thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến thăm đâu?” Để đáp lại Đức Vua sẽ bảo rằng: “Ta bảo thật các ngươi: Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, thì các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. (Mt. 25, 31-40)

Thánh Mát-thêu trình bày cho chúng ta cảnh phán xét ngày tận thế không mấy ngoạn mục: không động đất, không có mặt trời tối tăm, không có những vì sao tắt sáng. Chỉ mình Đức Giê-su trong vinh quang đến ngự trên ngai, dấu chỉ uy quyền phán xét của Người. Uy quyền của Người bao trùm khắp muôn phương: các thiên thần hầu cận, các dân thiên hạ tập hợp trước dung nhan Người. Người ta nghĩ đến có việc gì xảy ra quyết liệt lắm, sau đó không còn xảy ra như thế nữa. Hành động đầu tiên của Con Người là phân tách khối người đó ra: bên phải là kẻ lành, bên trái là kẻ dữ, ở giữa là khoảng trống. Hành động phân chia này thiết lập nên sự phán xét. Sau đó là những lời giải thích về việc phán xét. Việc phán xét không theo chủng tộc như quan niệm Do thái, nhưng theo đời sống luân lý của mỗi người.

Để thưởng cho các người lành bên phải, Đức Giê-su đã phán rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc hãy đến hưởng nước trời …”. Để phạt kẻ dữ bên trái, Người phán: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời. Nước trời trước hết là ở gần Thiên Chúa. Còn lửa đời đời là xa lìa Thiên Chúa. Hai nơi đối nghịch nhau đều là đích cuối cùng sau một cuộc sống lâu dài mà Thiên Chúa hằng kiên nhẫn chờ đợi. Con Người chỉ đến phán xét và chấm dứt lịch sử thế giới sau một thời gian Thiên Chúa kiên trì tìm kiếm cứu chuộc loài người.

Những lý do xét xử là những nhu cầu trước mắt: đói, khát, trần truồng, tù đầy, đau yếu. Người lành và người dữ đều ngạc nhiên hỏi: “Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, trần truồng, đau yếu, ngồi tù đâu? Để đáp lại, Chúa đáp: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những kẻ bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Vậy được hưởng nước trời hay bị vào lửa đời đời chính là tiếp đón hay từ chối giúp đỡ Đức Giê-su Ki-tô hiện diện trong một kẻ khốn cực, chính là làm hay không làm giúp người lân cận của mình.

Mùa chay thúc bách chúng ta sống Tin mừng hẳn hoi, nghiêm túc. Sống lời Chúa nghiêm túc giúp chúng ta liên đới với mọi người tốt đẹp ở đời này, đó là cửa vào nước trời đời đời.

G.M

SUY NIỆM 3: YÊU ĐỂ ĐƯỢC SỐNG! (Mt 25, 31 – 46)

Đạo Công Giáo mà Đức Giêsu sáng lập là một thứ đạo yêu thương. Đạo yêu thương này được khởi đi từ tình yêu của Thiên Chúa đối với công trình tạo dựng và suốt dọc dài lịch sử cứu độ trong thời Cựu Ước nơi dân Israel.

Sang thời Tân Ước, Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa cho loài người. Khi Đức Giêsu đến, Ngài đã rao giảng, đã chết để minh chứng tình thương, và đã sống lại để gieo niềm hy vọng. Như vậy, có thể nói rằng: Đạo Công Giáo là “Đạo Yêu Thương”. Ai không yêu thương thì không thuộc về đạo này. Nhưng yêu thương phải đi đến hành động thực tế, chứ không thể yêu trên đầu môi chóp lưỡi!

Hôm nay, bài Tin Mừng đưa chúng ta về viễn cảnh của ngày cánh chung qua giáo huấn của Đức Giêsu.

Hình ảnh mà Đức Giêsu đưa ra chính là một hình ảnh về ngày phán xét, nơi đó, vị thẩm phán công bằng, tối cao ngự đến để xét xử.

Điều kỳ lạ, đó là vị thẩm phấn này không xét xử dựa trên chức nghiệp để thưởng công, mà là ngang qua hành vi về sự cảm thông, lòng nhân ái đối với những người bần cùng của xã hội. Lạ kỳ hơn nữa là kết thúc, vị thẩm phán ấy đồng hóa chính mình với những người được giúp đỡ khi tuyên bố: “Mỗi lần các ngươi làm cho những người bé mọn ấy là làm cho chính ta”.

Nhìn ra thế giới hôm nay, chúng ta thấy không ít nếu không muốn nói là nhan nhản những hành vi như: bon chen, lừa lọc, mưu mô quỉ quyệt, chiến tranh, hận thù, khủng bố …

Tất cả những điều đó đi ngược lại quy luật của tình yêu, và tất nhiên, không thể đi vào trong mối tương quan với vị thẩm phán trong bài Tin Mừng hôm nay.

Xin Chúa ban cho mỗi người ý thức được hạnh phúc đích thực của chúng ta ở nơi Chúa, và chỉ có nơi Ngài mới trường tồn vạn kiếp. Vì thế, ngay trong giây phút này, xin cho chúng ta biết sống yêu thương nhau để sau này được hưởng niềm vui, hạnh phúc bên Thiên Chúa tình yêu. Amen.

Ngọc Biển SSP

SUY NIỆM 4: Làm cho chính Ta

Suy niệm:

Thi hào Tagore trong tập thơ Gitanjali, bài số 50,

có kể chuyện một người ăn xin, tình cờ gặp nhà vua đi trên cỗ xe.

Anh đầy tràn hy vọng khi cỗ xe dừng lại gần anh, và nhà vua bước xuống.

Anh cứ nghĩ nhà vua sẽ cho anh thật nhiều, nhưng ngài lại chìa tay xin anh.

Người hành khất biết lấy gì mà cho, anh chỉ dâng ngài một hạt lúa nhỏ xíu.

Đến lúc chiều về, khi đổ những thứ trong bị ra, anh thấy một hạt vàng rất nhỏ.

Anh khóc vì tiếc mình đã không cho ngài tất cả những gì mình có.

Có khi nào nhà vua giàu có ngửa tay xin một người ăn mày không ?

Hơn nữa, có khi nào Đức Kitô ẩn mình dưới dạng một người ăn xin không ?

Trên chuyến xe lửa đi về vùng Darjeeling ở chân núi Hy-mã-lạp-sơn, năm 1946,

Chị Têrêsa Calcutta đã nhận được một ơn gọi thứ hai, dù chị đang tu ở dòng Loreto.

Chính trong chuyến xe lửa đó, tôi đã nghe tiếng gọi bỏ tất cả

và theo Ngài vào khu ổ chuột – phục vụ Ngài nơi những người nghèo nhất.”

Chị đã viết như thế, và chị còn giải thích thêm:

Thiên Chúa gọi tôi để làm giảm cơn khát của Đức Giêsu

bằng cách phục vụ Ngài nơi người nghèo nhất trong số các người nghèo.”

Chị Têrêsa được ơn gặp Đức Giêsu Kitô đang đói khát, đang ở khu ổ chuột.

Chị đã cho Ngài tất cả và chị không bao giờ phải ân hận về chuyện đó.

Bài Tin Mừng hôm nay hẳn đã chi phối đời của thánh Têrêsa Calcutta.

Bài này cũng hợp với Mùa Chay, mùa chia sẻ, mùa làm việc bác ái.

Hơn nữa bài này vén mở cho ta thấy một lối hiện diện khác của Đức Giêsu.

Ngài không chỉ hiện diện nơi tấm bánh thánh, nơi tâm hồn ta, nơi Giáo hội,

mà Ngài còn ở nơi những người đói, khát, khách lạ, trần truồng, đau yếu, ngồi tù.

Khuôn mặt của Ngài xem ra chẳng có gì cao quý, uy nghi, sáng láng,

nhưng đầy nét đau khổ, nhục nhằn, phiền muộn.

Đức Giêsu ở đây không phải là người ban phát đầy quyền năng,

mà là người ăn xin yếu đuối ngửa tay cần ta giúp đỡ.

“Mỗi lần các ngươi làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây,

là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (c. 40).

Ngài gọi những người khốn cùng trong xã hội là anh em nhỏ nhất của Ngài.

Làm cho họ là làm cho chính Ngài, chối từ họ là chối từ chính Ngài.

Chúng ta sẽ bị xét xử vào ngày tận thế dựa trên tình yêu.

Hôm nay ta có thể gặp Đức Giêsu ở nhà thương, nhà tù, nơi trại tỵ nạn,

nơi gần một tỷ người bị đói trên thế giới, nơi bao người thiếu nước sạch để dùng.

Hãy kính trọng trao cho Ngài những gì mình đã chắt chiu.

Cầu nguyện :

Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng

tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,

chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,

tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.

Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,

có bao điều con lãng phí

bên cạnh những Ladarô túng quẫn,

có bao điều con hưởng lợi

dựa trên nỗi đau của người khác,

có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.

Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công

chẳng ở đâu xa.

Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.

Con phải chịu trách nhiệm

về cảnh nghèo trong xã hội.

Lạy Cha chí nhân,

vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó

là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.

Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,

vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.

Thế giới còn nhiều người đói nghèo

là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.

Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,

nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

Thứ ba sau Chúa Nhật 1 Mùa Chay

“Vậy các ngươi hãy cầu nguyện như thế này”.

Lời Chúa: Mt 6, 7-15

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Khi cầu nguyện, các con đừng nhiều lời như dân ngoại: họ nghĩ là phải nói nhiều mới được chấp nhận. Ðừng làm như họ, vì Cha các con biết rõ điều các con cần, ngay cả trước khi các con xin. Vậy các con hãy cầu nguyện như thế này:

“Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con, xin chớ đến chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.

“Vì nếu các con có tha thứ cho người ta những lầm lỗi của họ, thì Cha các con, Ðấng ngự trên trời, mới tha thứ cho các con. Nếu các con không tha thứ cho người ta, thì Cha các con cũng chẳng tha thứ lỗi lầm cho các con”.

SUY NIỆM 1: Cầu nguyện

Có một nông dân xứ Ars mỗi ngày trước khi ra đồng cũng như khi đi làm về đều ghé vào nhà thờ giây lát. Trong xứ, nhiều người để ý và kính phục. Một hôm có người hỏi: “Ngày này ông ghé vào nhà thờ làm gì thế”. Người nông dân trả lời: “Tôi bàn chuyện với Chúa và Chúa bàn chuyện với tôi”.

Câu trả lời của người nông dân trên đây diễn ta được cái cốt lõi của đời sống Kitô hữu, đó là việc cầu nguyện.

Tác giả tập sách Đường Hy vọng chia sẻ kinh nghiệm: “Hoạt động mà không cầu nguyện là vô ích trước mặt Thiên Chúa, máy móc tự động có thể làm hơn con. Cầu nguyện là nền tảng đời sống thiêng liêng. Lúc cầu nguyện con kết hiệp với Thiên Chúa, như một bóng điện sáng là nhờ kết hiệp với máy phát điện. Bí quyết nuôi dưỡng đời sống Kitô là phải cầu nguyện.”

Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha, qua đó Ngài nêu bật thái độ phải có khi cầu nguyện: Trước hết là tinh thần đơn sơ khiêm tốn, gặp gỡ thân tình với Chúa hơn là nói nhiều lời ngoài môi miệng. Giờ cầu nguyện là giờ tâm sự với Chúa, chứ không phải là giờ làm bài, là giờ của con tim, chứ không phải là của khối óc. Thứ đến là tinh thần quảng đại tha thứ cho kẻ xúc phạm đến chúng ta. Đó là điều đương nhiên, vì thân phận của con người là yếu đuối, tội lỗi, và mọi người đều mắc nợ nhau trong đức bác ái của lời nói, việc làm, cách suy nghĩ, cho dù chúng ta vẫn giữ được đức công bằng.

Thật ra, như lời thánh Phaolô: chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải, nhưng chính Thánh Thần chuyển cầu cho chúng ta bằng những tiếng rên khôn ta. Nhờ Bí tích rửa tội, chúng ta đã được kết hiệp với Đức Kitô và được lãnh nhận hồng ân Thánh Thần. Chúng ta hãy cố gắng sống trong Thánh Thần để phát triển đời sống cầu nguyện, nhờ đó canh tân chính mình và môi trường sống.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 2: Kinh Lạy Cha

Kinh Lạy Cha là một kinh quan trọng đối với đời sống người Kitô hữu, vì đó là kinh do chính Chúa Giêsu đặt ra, là kinh được Giáo Hội đọc nhiều hơn cả trong các cử hành phụng vụ và các cử hành khác, là kinh tóm gọn tất cả những gì phải làm trong khi cầu nguyện.

Chúng ta cần cầu nguyện với Chúa Cha để sống và hoạt động tông đồ đắc lực, khi cầu nguyện như thế, chúng ta cậy nhờ Chúa Giêsu và nhờ chính lời cầu nguyện của Ngài. Có một điểm Chúa Giêsu căn dặn là trong khi cầu nguyện đừng có thái độ thuyết phục Thiên Chúa theo ý muốn của mình bằng những lời khéo léo dài dòng như những người ngoại giáo đối với các thần minh của họ. Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng làm như thế, bởi vì “Cha các con đã biết rõ các con cần gì, trước khi các con cầu xin”. Nói khác đi, khi cầu nguyện, chúng ta chỉ cần đơn sơ khiêm tốn nhìn nhận mình hèn mọn thiếu thốn, vạch rõ con người của chúng ta trước mặt Thiên Chúa, rồi vững dạ cậy trông tin tưởng. Thiên Chúa chẳng những sẽ lấp đầy cái trống rỗng của chúng ta, mà còn dằn lắc, còn ban cho chúng ta nhiều ơn hơn chúng ta khấn xin.

Kinh Lạy Cha là kiểu mẫu cho tất cả việc cầu nguyện. Theo thánh Luca, Kinh Lạy Cha có 5 lời nguyện, trong khi đó ở Phúc Âm Matthêu có 7 lời nguyện: 3 lời cầu đầu tiên nói về Thiên Chúa, Ðấng mà Chúa Giêsu dạy chúng ta gọi là Cha: Cha chúng con ở trên trời, sau đó chúng ta xin cho Danh Thánh Cha được hiển vinh, nước Cha được lan rộng trên thế gian, nhất là trong tâm hồn con người, và xin cho thánh ý Cha được thực hiện dưới đất cũng như trên trời. Trong phần hai, có 4 lời nguyện: xin lương thực hàng ngày, nghĩa là xin cơm bánh nuôi thân xác và của ăn nuôi hồn, tức là Lời Chúa và Mình Chúa; xin tha thứ các tội xúc phạm đến Thiên Chúa, nhưng để được tha thứ, chúng ta cũng phải tha thứ lỗi lầm của anh em; xin ơn kiên trì để lướt thắng cám dỗ hàng ngày, nhất là trong cơn thử thách sau cùng trước sức tấn công của tà thần muốn đưa chúng ta xa lìa Chúa; xin ơn thoát khỏi mọi sự dữ để có thể phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân mọi ngày trong đời sống chúng ta.

Chúng ta hãy dốc quyết không bao giờ bỏ đọc Kinh quan trọng và hiệu nghiệm này trong đời sống cá nhân, gia đình và cộng đoàn chúng ta.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 3: Tha nợ

“Vậy anh em hãy cầu xin như thế này:

“Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời

xin làm cho danh thánh Cha được vinh hiển,

triều đại Cha mau đến,

ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.

Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày,

Xin tha tội cho chúng con

Như chúng con cũng tha

Cho những người có lỗi với chúng con”. (Mt. 6, 9-12)

Theo các nhà chuyên môn Kinh thánh, trong kinh Lạy Cha, câu “xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” đúng hơn câu “xin tha tội chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con”.

Câu đó nói tới thân phận của con người là con nợ không thể trả được đối với Thiên Chúa. Đó là tình trạng của kẻ tội lỗi mà chỉ có hồng ân lạ lùng của Thiên Chúa ân xá cho ta được thôi, còn ta không bao giờ đền bù cho đủ.

Lời cầu nguyện này nhắc nhở chúng ta nhớ tới dụ ngôn tên đầy tớ dã tâm bất nhân. Nợ của chúng ta sẽ được tình yêu Thiên Chúa thương tha thứ nếu chúng ta biết yêu thương tha thứ cho kẻ có nợ chúng ta.

Thánh Gio-an nói: “Nếu ai nói: tôi yêu mến Thiên Chúa, mà lại ghét anh em mình, thì đó là kẻ nói dối. Thực vậy, kẻ không yêu anh em mình trông thấy trước mắt thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà nó không thấy” (1Ga. 4, 20). Chúng ta có thể đánh giá khả năng của chúng ta yêu mến Thiên Chúa bằng tình yêu chúng ta yêu người lân cận.

Tội chống lại tình yêu tha nhân có làm hại chúng ta gì không? Có thể chúng ta vẫn thành thật nói rằng chúng tôi yêu người lân cận cho dù họ là gì chăng nữa. Nhưng rất nhiều lần, chúng ta lãnh đạm với họ; chúng ta viện lẽ rằng không nên xen vào những việc của người khác. Có phải chúng ta một phần nào đã giống như Ca-in từ chối trách nhiệm đã giết em mình, đã giết người là anh em mình chăng?

Câu kết thúc bài Tin mừng hôm nay là: “Nếu anh em tha tội cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em …”. Chúng ta kêu xin tình thương, nhưng lại đánh nhau vì hòa bình. Chúng ta cần phải cố gắng tìm hiểu người ta. Người ta muốn được tha thứ, được thông cảm, nhưng chúng ta đã làm gì cho họ?

Tham dự Thánh lễ lúc này là để thông cảm hiểu biết nhau, để chúng ta chân thành nhìn nhận nhau là anh em, đồng bàn với nhau trong bàn tiệc tế lễ hy sinh, bàn tiệc tình yêu của Chúa và của chúng ta.

SUY NIỆM 4: CẦU NGUYỆN TRONG NIỀM TIN  (Mt 6, 7-15)

Có một linh mục là giáo sư tín lý và luân lý tại nhiều chủng viện và học viện Công Giáo, khi nói về kinh nghiệm của việc dạy Giáo lý dự tòng cho người lớn tuổi, ngài chia sẻ: “Tôi đã dạy Giáo lý cho rất nhiều bạn trẻ dự tòng, có những bạn chỉ với thời gian rất ngắn, là tôi có thể Rửa Tội cho họ được. Tuy nhiên, có những bạn thì năm này qua năm khác, tôi vẫn không Rửa Tội cho!”.

Khi chúng tôi thắc mắc thì được ngài giải thích rằng: “Rửa Tội được hay không, đối với ngài là họ có biết cầu nguyện trong đức tin không? Nếu họ cầu nguyện sốt sắng và tin tưởng, ấy là lúc chúng ta Rửa Tội cho họ được, vì họ đã gặp được Chúa thực sự. Nếu không biết cầu nguyện, thì chúng ta có dạy hết ngày này, tháng nọ hay năm kia thì họ vẫn chỉ là cái xác không hồn mà thôi!”.

Trình thuật Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy ý nghĩa, giá trị và thái độ cần có khi cầu nguyện.

Trước tiên, cầu nguyện ở những nơi kín đáo, tức là có kinh nghiệm cá nhân với Chúa trước khi chúng ta cầu nguyện nơi tập thể, cộng đoàn.

Thứ hai, cầu nguyện cách chân thành chứ không sáo rỗng, hình thức, giả tạo. Cầu nguyện chân thành tức là một tâm hồn khao khát chân lý và sẵn sàng để cho thánh ý Thiên Chúa được thực hiện nơi mình.

Cuối cùng, cầu nguyện với tinh thần tha thứ. Cảm nghiệm được tình thương của Thiên Chúa đối với mình thì cũng phải tha thứ cho anh chị em. Đây là lời cầu nguyện sống động và hấp dẫn nhất.

Trong đời sống đạo của chúng ta vẫn thấy có những người cầu nguyện rất dài, nhưng lòng đạo thì lại quá ngắn! Tại sao vậy? Thưa bởi vì họ như con sáo, cuốn băng! Cầu nguyện mà không biết mình làm gì, chỉ mong sao đọc cho hết, nói cho xong là yên tâm! Trong khi đó, không hề thay đổi lối sống khi sứ điệp Lời Chúa đòi hỏi…

Mong sao, lời kinh Lạy Cha mà Đức Giêsu dạy cho các môn đệ hôm nay cũng là lời kinh của chúng ta. Và khi chúng ta cất lên, mỗi người hãy đọc với trọn niềm tin kính, yêu mến và khao khát thực hành điều Chúa dạy. Có thế, đời sống đạo của chúng ta mới thực sự là có Chúa và có tình thương với anh chị em mình.

Xin Chúa chúc lành cho những ước nguyện của chúng ta. Amen.

Ngọc Biển SSP

SUY NIỆM 5: Biết rõ anh em cần gì

Suy niệm :

Mùa Chay là thời gian tăng cường việc cầu nguyện.

Nhưng vấn đề là cầu nguyện như thế nào theo đúng ý của Đức Giêsu.

Ngài đã cảnh báo về một thứ cầu nguyện có tính phô trương, tìm mình.

Ngài mời ta cầu nguyện một cách kín đáo (Mt 6, 6).

Cầu nguyện là gặp Cha, Đấng ở nơi kín ẩn và Đấng thấy ở nơi kín ẩn.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhắc chúng ta nhớ rằng

cầu nguyện không phải là dùng những lời kinh như một thứ ma thuật,

để lèo lái hay cưỡng bách Thiên Chúa phải theo ý mình.

Cầu nguyện là mềm mại để uốn mình theo ý Chúa.

Sức mạnh của cầu nguyện không nằm ở chỗ lắm lời,

vì không phải cứ nói nhiều là được ưng nhậm (c. 7).

Cầu nguyện cũng không phải là thông tin cho Ngài biết về tình trạng của ta,

sợ rằng nếu ta không nói thì Ngài không biết (c. 8).

Thật ra, Thiên Chúa đã biết trước nhu cầu của từng người rồi.

Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần bày tỏ để có tương quan với Thiên Chúa,

thổ lộ với Ngài cách đơn sơ hồn nhiên như con thơ nói với cha.

Qua kinh Lạy Cha, Đức Giêsu dạy các môn đệ cầu nguyện.

Ngài dạy họ gọi Thiên Chúa là Cha, Abba.

Họ được phép gọi như Ngài đã gọi và chia sẻ chức vị làm Con của Ngài.

Một lời cầu nguyện có tính tập thể: “Lạy Cha chúng con.”

Chính vì Cha là Cha của chúng con nên chúng con là anh chị em với nhau.

“Cha ở trên trời”, vì thế Cha lại thấy hết mọi người và ở bên từng người.

Cha thật siêu việt vì Cha ở trên trời cao thẳm;

nhưng Cha lại thật gần gũi,

vì Cha lo cho từng con chim sẻ, từng bông hoa ngoài đồng,

Cha cho mặt trời mọc lên và mưa rơi xuống trên mặt đất.

Ba lời xin đầu tiên của kinh Lạy Cha hướng đến Thiên Chúa Cha.

Hẳn chúng diễn tả tâm tình chủ yếu của Đức Giêsu trong suốt đời.

Bốn lời xin tiếp theo hướng đến nhu cầu của nhóm môn đệ.

Xin bánh mỗi ngày, xin ơn tha thứ, ơn thắng được cám dỗ và sự dữ.

Có khi lời nguyện của chúng ta quá qui về mình, loay hoay với cái tôi,

với những ước mơ tính toán, những âu lo cho nhu cầu vật chất.

Hãy xin Chúa những điều lớn lao cho Nước Chúa trên trần gian,

còn mọi sự khác nho nhỏ, Ngài sẽ ban thêm cho ta.

Cầu nguyện :

Lạy Cha là Đấng Tạo Hóa nhân từ,

xin cho chúng con thấy sự hiện diện của Cha

trong vũ trụ vô cùng lớn,

trong những hạt tử vô cùng nhỏ,

và trong bộ óc vô cùng phức tạp của con người.

Cha từ ái biết bao

khi ban cho chúng con một thế giới đầy mầu sắc.

Mầu xanh cỏ non, mầu hồng trái chín,

mầu vàng mặt trời xế chiều.

Cha từ ái biết bao

khi ban cho chúng con một thế giới đầy âm thanh.

Tiếng suối róc rách, tiếng chim hót véo von,

tiếng gió rì rào qua kẽ lá.

Cha từ ái biết bao

khi ban cho chúng con một thế giới đầy hương thơm.

Hương của đồng lúa mới, của hoa bưởi, hoa cau,

hương thơm của nắng xuân dìu dịu.

Chúng con ca ngợi đôi tay khéo léo của Cha

khi tạo nên sự trong ngần ngời sáng của viên ngọc,

sự lộng lẫy phong phú của muôn loài hoa lan,

sự rực rỡ hài hòa nơi đôi cánh của loài bướm,

và nhất là sự đẹp đẽ cao cả nơi con người.

Dưới lòng đất, trên núi cao,

giữa biển sâu, trong rừng vắng,

chỗ nào chúng con cũng thấy bóng dáng Cha.

Xin cho chúng con

biết chung sống với thiên nhiên này

như một người bạn, một quà tặng Cha ban,

biết giữ gìn ngôi nhà trái đất

để nó khỏi hư hỏng, cạn kiệt,

và biết chia sẻ cho nhau bao tài nguyên còn tiềm ẩn.

Ước gì đến ngày cả trái đất, cả vũ trụ này

và muôn loài Cha đã dựng nên

được cùng với cả nhân loại chúng con

vui hưởng tự do và vinh quang trong Nước Cha. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

Thứ tư sau Chúa Nhật 1 Mùa Chay

“Không ban cho dòng giống này điềm lạ nào ngoài điềm lạ của tiên tri Giona”.

Lời Chúa: Lc 11, 29-32

Khi ấy, thấy dân chúng từng đoàn lũ tụ tập lại, Chúa Giêsu phán rằng: “Dòng giống này là dòng giống gian ác. Chúng đòi điềm lạ, nhưng sẽ không ban cho chúng điềm lạ nào, ngoài điềm lạ của tiên tri Giona.

Vì Giona đã nên điềm lạ cho dân thành Ninivê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là điềm lạ cho dòng giống này như vậy. Ðến ngày phán xét, nữ hoàng phương nam sẽ đứng lên tố cáo và lên án dòng giống này, vì bà đã từ tận cùng trái đất mà đến nghe sự khôn ngoan của Salomon. Nhưng ở đây còn có người hơn Salomon. Dân thành Ninivê cũng sẽ đứng lên tố cáo và lên án dòng giống này, vì họ đã sám hối theo lời Giona giảng, nhưng ở đây còn có người hơn Giona nữa”.

SUY NIỆM 1: Dấu lạ của Thiên Chúa

“Người Do Thái đòi dấu lạ, người Hy Lạp tìm triết lý, còn chúng tôi, chúng tôi rao giảng Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh Thập giá”. Thánh Phaolô, người tự xưng là Do Thái hơn cả người Do Thái đã nêu bật não trạng của dân tộc ngài.

Người Do Thái xưa kia luôn đòi các luật sĩ làm dấu lạ để minh chứng lời mình tuyên bố, và dĩ nhiên họ đời dấu lạ nơi những ai tự xưng mình là tiên tri.

Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi sự chờ đợi này. Trong suốt giai đoạn hoạt động công khai, Ngài không chỉ bị thách đố làm dấu lạ, mà ngay khi giữ chay 40 đêm ngày để chuẩn bị sứ vụ rao giảng Tin mừng, Ngài đã bị cám dỗ thực hiện dấu lạ, như biến đá thành bánh, gieo mình xuống từ thượng đỉnh Đền thờ để minh chứng Ngài là Con Thiên Chúa. Cuộc thách đố này còn kéo dài cả khi Ngài bị đóng đinh Thập giá, lúc ấy Ngài bị thách thức: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy xuống khỏi Thập giá”.

Trong bài Tin mừng hôm nay, những luật sĩ và biệt phái đến xin Chúa Giêsu cho họ thấy một dấu lạ không hẳn là những đối thủ của Ngài. Nhưng điều Ngài muốn họ phải tẩy sạch khỏi não trạng là những định kiến, qua đó họ vẽ sẵn một khuôn mặt, một hình ảnh Đấng Cứu Thế và họ đòi buộc Chúa Giêsu phải mang lấy và phải hành động rập theo khuôn mặt ấy. Nhưng ngược lại quan niệm của họ về một Đấng Cứu Thế oai hùng, đánh đuổi ngoại xâm và tái lập một nước Do thái hùng mạnh, Chúa Giêsu muốn minh chứng Ngài là Đấng Cứu Thế qua một dấu lạ nhỏ bé khiêm tốn, yếu đuối: như tiên tri Giôna nằm trong bụng cá, Chúa Giêsu cũng sẽ nằm trong lòng đất ba ngay ba đêm. Nhìn từ bên ngoài, đây là một dấu lạ thua thiệt, dấu hiệu của sự thất bại, nhưng Thiên Chúa đã dùng dấu hiệu đó để áp dụng định luật: nhu thắng cương, nhược thắng cường.

Tìm những dấu lạ, tìm những dấu chỉ thời đại để củng cố niềm tin vào sự hiện diện cứu rỗi của Thiên Chúa trong cuộc sống không phải là một điều sai lầm, nhưng còn là điều mà các Kitô hữu trưởng thành cần phải làm. Tuy nhiên, chúng ta sẽ lạc lối nếu dõi theo vết xe cũ của luật sĩ và biệt phái giữ khư khư những định kiến và bắt buộc Thiên Chúa phải hiện diện theo những khuôn mặt, hình ảnh chúng ta đã vẽ sẵn. Vì thế, chúng ta phải chú tâm tìm những dấu chỉ hiện diện của Thiên Chúa theo ý muốn của Ngài, chứ không phải theo quan niệm của chúng ta, nghĩa là chúng là phải tìm gặp sự hiện diện của Ngài trong thân xác một người bị chết treo trên Thập giá như một tên tử tội và được chôn táng trong mồ như một người bại trận.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 2: Dấu lạ cả thể

Thế nào là phép lạ? Theo quan niệm thông thường, khi một sự kiện có giá trị tích cực không thể giải thích được thì đó là phép lạ. Những người có niềm tin tôn giáo thì cho rằng phép lạ là một sự can thiệp của Chúa.

Giáo Hội Công Giáo luôn tin có phép lạ, nhưng trong thực tế lại tỏ ra vô cùng thận trọng trong việc nhìn nhận các phép lạ; cụ thể là những gì đã và đang xảy ra tại Trung tâm Thánh Mẫu Lộ Ðức bên Pháp: từ hơn 100 năm nay, đã có trên 2,000 trường hợp khỏi bệnh được nhiều người xem là phép lạ, nhưng cho tới nay, Giáo Hội Công Giáo chỉ chính thức nhìn nhận 65 vụ thực sự là phép lạ theo đúng nghĩa mà thôi.

Thế nào là phép lạ? Thiên Chúa có làm phép lạ không? Ðó là những câu hỏi mà Tin Mừng hôm nay như muốn nêu lên để chúng ta cùng suy nghĩ. Chúa Giêsu đã thực sự làm nhiều phép lạ: Ngài biến nước thành rượu; Ngài nhân bánh và cá ra nhiều để nuôi sống đám đông; Ngài chữa lành bệnh tật; Ngài là cho kẻ chết sống lại. Tất cả những phép lạ Chúa Giêsu thực hiện đều nhằm nói lên sứ mệnh của Ngài và Ngài chính là Ðấng Thiên Chúa sai đến để cứu rỗi nhân loại. Một số người Do Thái đã tin nhận và đi theo Ngài, nhưng phần đông vẫn tỏ ra dửng dưng trước những lời rao giảng của Ngài. Riêng những thành phần lãnh đạo trong dân, như nhóm Biệt Phái, thì chẳng những không tin nhận, mà còn chống đối Ngài ra mặt, họ thách thức nếu Ngài làm một dấu lạ cả thể thì họ mới tin nhận Ngài.

Trước thái độ đó, Chúa Giêsu mượn hình ảnh của tiên tri Giôna để nói về Ngài. Tiên tri Giôna đã đến Ninivê để rao giảng sự sám hối, tất cả các phép lạ của Chúa Giêsu cũng đều nhằm nói lên sứ mệnh của Ngài và kêu gọi sám hối. Tiên tri Giôna đã ở trong bụng kình ngư ba ngày ba đêm. Giáo Hội tiên khởi đã xem đây như là một dấu chỉ loan báo chính cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu. Như vậy, nếu có một dấu lạ cả thể mà Chúa Giêsu thực hiện để đáp lại sự thách thức của những người Biệt Phái, thì dấu lạ đó không gì khác hơn là chính cái chết của Ngài: chết để nên lời, và lời ấy là lời của yêu thương.

Ngày nay, không thiếu những người thách thức Thiên Chúa. Cũng như những người Biệt Phái, họ đòi Thiên Chúa phải làm một dấu lạ cả thể nào đó, họ mới tin nhận Ngài. Nhưng mãi mãi, Thiên Chúa sẽ không bao giờ hành động như thế, Ngài mãi mãi vẫn là Thiên Chúa Tình Yêu. Ngài đã nhập thể làm người và sống cho đến tận cùng thân phận làm người. Cái chết trên thập giá vốn là tuyệt đỉnh của thân phận làm người, do đó trở thành dấu lạ cả thể nhất mà Thiên Chúa đã thực hiện, đó là dấu lạ của tình yêu.

Thiên Chúa vẫn tiếp tục bày tỏ dấu lạ cả thể ấy. Trong trái tim mỗi người, Thiên Chúa đã đặt vào đó sức mạnh vĩ đại nhất là tình yêu. Sức mạnh ấy không ngừng nung nấu con người. Sức mạnh ấy đang được thể hiện qua những nghĩa cử mà chúng ta có thể bắt gặp mỗi ngày. Ðó là phép lạ cả thể nhất Thiên Chúa đang tiếp tục thực hiện trong lịch sử con người. Tình yêu vốn là sức mạnh vĩ đại nhất, nhưng thường lại được bày tỏ qua những cử chỉ nhỏ bé và âm thầm nhất. Một nụ cười thân ái, một cái xiết tay, một lời an ủi, một cử chỉ tử tế, một ánh mắt cảm thông và tha thứ, đó là những cử chỉ nhỏ, nhưng lại là biểu hiện của dấu lạ cả thể nhất là tình yêu.

Ước gì chúng ta luôn thức tỉnh để nhận ra phép lạ Thiên Chúa vẫn tiếp tục thực hiện trong cuộc sống của chúng ta. Ước gì chúng ta cũng trở thành dấu lạ ấy cho những người chung quanh.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 3: Dấu lạ cá voi

Quả thật, ông Gio-na đã là một dấu lạ cho dân thành Ni-ni-vê thế nào, thì Con Người cũng là một dấu lạ cho thế hệ này như vậy. Trong cuộc phán xét nữ hoàng phương Nam sẽ đứng lên cùng với những người của thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã từ tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của Sa-lô-mon; mà đây thì còn hơn vua Sa-lô-mon nữa. Trong cuộc phán xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Gio-na giảng; mà đầy thì còn hơn Gio-na nữa. (Lc. 11, 30-32)

Người Do thái đòi Đức Giê-su làm một dấu lạ. Một đòi hỏi gây cấn luôn có trong đầu óc của họ về Đấng Messia đã được hứa trong Cựu ước: Ngài phải làm những dấu lạ để chứng tỏ sứ mệnh của Ngài. Thực ra nhiều lần Đức Giê-su đã làm phép lạ rồi. Nhưng lần này Người từ chối và từ chối khá quyết liệt, lại còn tố lại họ nữa: “Thế hệ này là một thế hệ gian ác: chúng xin dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được dấu lạ nào ngoài dấu lạ ông Gio-na”. Dấu lạ độc nhất Đức Ki-tô bằng lòng cho họ là dấu lạ an táng Người ba ngày trong lòng đất như Gio-na ở trong bụng quái vật của biển cả ba ngày.

Thái độ thực đáng kinh ngạc của Đức Giê-su đã đánh lạc hướng những người muốn tin Ngài, nếu họ được chứng kiến dấu lạ Ngài làm. Đức Ki-tô chẳng những từ chối đòi dấu lạ của họ mà còn dồn họ vào chân tường. Ngài đưa ra lý lẽ chứng minh họ không tin Ngài. Lý lẽ mà Đức Giê-su cho thấy là: “Trong cuộc phán xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Gio-na giảng …”. Dân Ni-ni-vê không đòi Gio-na làm dấu lạ. Ngôn sứ chỉ rao giảng đã đủ làm họ sám hối trở về. Chính ra dân Do thái phải nghe lời Đức Giê-su như vậy, hơn nữa, lời đầy uy quyền của Ngài đủ để là dấu lạ đến từ Thiên Chúa. Đức Giê-su từ chối yêu sách của họ vì dấu lạ bên ngoài chỉ thỏa mãn tò mò thôi. Chính bên trong con người lời Ngài mới làm cho họ thấy được tiếng vang dội của niềm tin cậy để nhận ra Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến, chứ không phải phép lạ hào nhoáng trước mắt.

Chúng ta cũng vậy, chúng ta phải đón nhận lời Chúa bằng một đức tin độc nhất vào Đức Giê-su. Chúng ta phải đón nhận cái chết ngược đời của Ngài làm chướng tai gai mắt những kẻ tham sân si. Nhờ đó chúng ta mới có thể đối mặt với những cái chết của chúng ta hàng ngày như thất bại, bệnh tật, buồn tủi đang chôn vùi chúng ta trong bụng thủy quái. Dù phải chết trong hoàn cảnh nào, chúng ta luôn sống tin cậy vào Đấng đã phục sinh và đừng đòi hỏi những phép lạ từ Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa, trong Đức Giê-su Ki-tô, không muốn biểu diễn quyền phép để tìm kiếm lợi lộc, nhưng chỉ lo cứu độ. Thế là đủ cho chúng ta còn đòi chi nữa!

SUY NIỆM 4: KHÔN NGOAN THẬT (Lc 11 , 29 –32)

Ở đời, người ta hay đề cao những kẻ nói hay, hót giỏi, tức là nịnh bợ tốt. Họ cũng hay khen những kẻ biết dùng mánh khóe để lừa thầy phản bạn… Người ta cũng không tiếc đưa ra những lời ca ngợi những người thành đạt, giàu có và có chỗ đứng trong xã hội, bất luận điều đó đến từ đâu!

Sống trong một xã hội như vậy, chúng ta không lạ gì khi có rất nhiều người khẳng định vị trí, vai trò của mình bằng những hành động lưu manh mà không hề áy náy!

Tuy nhiên, những điều mà người đời cho là khôn ngoan trên đây thì lại là dại dột, ngu xuẩn trước mặt Thiên Chúa. Thật vậy, người khôn ngoan trước mặt Thiên Chúa là người biết sám hối.

Tại sao thế? Thưa! Bởi vì, sám hối là biểu hiện của một tâm hồn khiêm nhường, công chính. Sám hối còn là dấu chỉ của người thuộc về Chúa. Sám hối là điều kiện cần để được cứu độ.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, các Luật Sĩ và Pharisêu đòi Đức Giêsu phải làm một dấu lạ thì họ mới tin. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã không làm và ngược lại, Ngài đã dạy cho họ phải biết sám hối, nếu không thì không thể được cứu độ. Đức Giêsu đã cảnh báo họ, khi đưa ra hình ảnh nữ hoàng phương nam, dân Ninivê sẽ được cứu độ, vì họ đã đi tìm kiếm sự khôn ngoan, biết ăn năn sám hối, còn con cái trong nhà sẽ bị loại vì không biết sám hối.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho mỗi người chúng con biết đi tìm lẽ khôn ngoan là biết ăn năn sám hối chân thành để được cứu độ. Amen.

Ngọc Biển SSP

SUY NIỆM 5: Con người sẽ là một dấu lạ

Suy niệm :

Khi đọc chuyện ông Giôna người Galilê, ai cũng nhớ ông đã bị cá nuốt ba ngày.

Sau đó ông lại được cá khạc ra trên đất liền mà vẫn còn sống.

Nhưng điều đáng nhớ hơn là sau kinh nghiệm đó Giôna đã biết vâng phục Chúa.

Ông chấp nhận đi giảng cho dân Ninivê, một dân ngoại ở vùng là Irắc bây giờ.

Thật không ngờ, lời rao giảng của ông đã kéo cả nước vào một cuộc hoán cải,

Từ vua đến dân, thậm chí cả súc vật, đều ăn chay, sám hối việc mình làm.

Thái độ của họ đã làm Đức Chúa đổi ý, không đoán phạt nữa.

Đức Chúa không muốn trừng phạt, Ngài chỉ mong con người sám hối.

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy nỗi buồn của Đức Giêsu

khi dân chúng đòi dấu lạ, dù họ đã thấy nhiều phép lạ của Ngài.

Dấu lạ ở đây phải hiểu là một điềm báo hoành tráng từ trời

để chứng thực về con người và sứ mạng của Ngài.

Khi bị cám dỗ trong hoang địa, Ngài đã không nhảy xuống từ nóc Đền thờ.

Ngài không muốn mua lòng tin của con người bằng một cử chỉ ngoạn mục.

Bây giờ Ngài cũng dứt khoát từ chối:

“Họ sẽ không được ban một dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giôna.”

Dấu lạ ông Giôna không phải là chuyện ông bị cá nuốt mà còn sống.

Dấu lạ là chính con người của ông với việc rao giảng của ông.

Dân Ninivê đã sám hối khi nghe Giôna giảng,

nhưng thế hệ đương thời với Đức Giêsu đã từ khước ngài.

Họ là một thế hệ gian ác (c. 29) vì không chịu sám hối.

“Đây còn hơn Giôna, đây còn hơn Salômôn” (cc. 31-32).

Đức Giêsu đã không thành công bằng hai ông này.

dù lời giảng của ngài còn khôn ngoan hơn lời của vua Salômôn

và thuyết phục hơn lời giảng của ngôn sứ Giôna.

Dân Ninivê và nữ hoàng Shêba sẽ kết án thế hệ này vì sự cứng cỏi của họ.

Mùa Chay là thời gian đọc lại những chuyện lạ Chúa đã làm cho đời mình.

Có những chuyện bề ngoài tưởng là chuyện tự nhiên hay ngẫu nhiên.

Chỉ ai biết nhìn mới thấy lạ.

Có khi chúng ta vẫn thèm Chúa làm một cái gì đó thật kinh khủng

để ta mạnh mẽ đổi đời và từ bỏ hoàn toàn nếp sống cũ.

Làm sao để lòng sám hối đến từ việc nhận ra những chuyện nhỏ bé

mà Chúa vẫn làm cho ta mỗi ngày nhiều lần?

Cầu nguyện :

Như người mù ngồi bên vệ đường

xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.

Xin cho con được thấy bản thân

với những yếu đuối và khuyết điểm,

những giả hình và che đậy.

Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con

cả những khi con không cảm nghiệm được.

Xin cho con thực sự muốn thấy,

thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa

chiếu dãi vào bóng tối của con.

Như người mù ngồi bên vệ đường

xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

Thứ năm sau Chúa Nhật 1 Mùa Chay

 “Ai xin thì sẽ nhận được”.

Lời Chúa: Mt 7, 7-12

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì bất cứ ai xin thì sẽ nhận được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ cửa sẽ mở cho.

Nào ai trong các con thấy con mình xin bánh, mà lại đưa cho nó hòn đá ư? Hay là nó xin con cá mà lại trao cho nó con rắn ư? Vậy nếu các con, dù là kẻ xấu, còn biết lấy của tốt mà cho con cái, thì huống chi Cha các con, Ðấng ở trên trời, sẽ ban những sự lành biết bao cho kẻ cầu khẩn Người!

“Vậy tất cả những gì các con muốn người ta làm cho mình, thì chính các con hãy làm cho người ta như thế: Ðấy là điều mà Lề luật và các tiên tri dạy”.

SUY NIỆM 1: Khuôn vàng thước ngọc

Trong Do thái giáo có hai trường phái đạo đức: phái của Shammai khắc khổ và phái của Hilel rộng rãi. Một ngày kia, có một người đến xin học tập với Shammai, anh ta thưa: “thưa thày tôi muốn làm môn đệ thầy nhưng trước hết, xin thày cho tôi còn có thể đứng trên một chân để nghe thày giảng”. Shammai đã đuổi anh ta đi với một cuốn sách dầy về luật mà ông đang cầm trên tay. Anh ta ra đi và đến gặp Hilel và cũng nói với ông lời ấy, Hilel bảo anh: “Những gì anh không thích thì đừng làm cho người khác, đó là tóm tắt về luật”. Anh ta nhận thấy đây là bài học quí giá và anh trở về.

Khổng Tử cũng trả lời cho một đệ tử: “Ký sở bất dục, vật thi ư nhân”, nghĩa là điều gì con không muốn thì đừng làm cho người ta.

Aristote đã dạy: “Đừng làm lại những điều người khác làm cho ngươi nổi giận”, Hoặc một triết gia La Mã đã bảo: “Đừng áp đặt trên người khác những điều bạn không thích”.

Trái với những tư tưởng có tính cách tiêu cực trên, Chúa Giêsu đã đưa ra khuôn vàng thước ngọc có tính cách tích cực: “Điều gì các ngươi muốn người ta làm cho mình, thì chính các ngươi hãy làm cho họ trước”. Đó là cốt lõi của Kitô giáo, là nét đặc biệt của Kitô giáo. Đừng là điều ác mà thôi thì xã hội chưa tốt đẹp. Chỉ khi nào mọi người bắt tay làm điều thiện, làm điều mình muốn người khác làm cho ta, lúc đó xã hội mới hy vọng tốt đẹp được.

Ước gì chúng ta hiểu thấu và thực hành bài học xử thế Chúa dạy hôm nay, đồng thời biết bắc nhịp cầu thông cảm với người khác, biết yêu thương và làm điều tốt cho mọi người.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 2: Cầu nguyện chẳng được gì.

Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ được mở cho. Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn? Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, Người sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin Người.

Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì luật Mô-sê và lới các ngôn sứ là thế đó. (Mt. 7, 7-12)

Tin mừng khuyến khích chúng ta hướng về Chúa luôn để cầu nguyện. Đức Ki-tô đã bảo đảm rằng những lời cầu nguyện của chúng ta không vô ích vì Thiên Chúa là Cha tốt lành hơn mọi người cha trần gian, Ngài trả lời cho những điều chúng ta xin. Nếu chúng ta kiên tâm, vững chí, bền lòng cầu nguyện, chúng ta sẽ được đoái thương. Chính Đức Ki-tô đã quả quyết thế.

Tuy nhiên, chúng ta biết không phải mọi thứ luôn luôn được như vậy. Biết bao lần chúng ta xin mà chẳng thấy cho, tìm mà không thấy, gõ cửa mà chẳng mở! Chúng ta biết rõ rất nhiều người với đức tin chân thành mạnh mẽ – và có lẽ đó là trường hợp của chúng ta – trong suốt nhiều năm cầu khẩn Chúa … và chẳng được đoái thương. Họ cầu nguyện cho người thân yêu được khỏi bệnh. Họ cầu nguyện cho người yêu trở về đường ngay nẻo chính … và chẳng thấy gì. Có phải họ cầu nguyện vô ích chăng? Có phải Đức Ki-tô đã nói quá khi Người quả quyết: “Hễ ai xin thì nhận được”. Có phải thời đó Người đã hứa mà thời nay Người không thể giữ lời hứa chăng?

Chúng ta biết rõ đây không phải là trường hợp biệt lập, nếu chúng ta khảo sát cẩn thận những lời của Đức Giê-su trong toàn bộ nội dung để soi sáng cho nhau. Lúc đó, người ta có thể tóm tắt những lời dạy của Đức Giê-su vào ba điểm sau:

Trước hết, Đức Giê-su nói với chúng ta rằng mỗi khi chúng ta hướng về Cha Người, Chúa Cha lắng nghe chúng ta và đáp lời chúng ta, Ngài không làm ngơ trước lời cầu nguyện của chúng ta. Bản văn thánh Mát-thêu đã nổi bật lên hàng đầu điều chúng ta kêu cầu.

Thứ đến Đức Giê-su cũng xác nhận Thiên Chúa không luôn luôn phải đáp lời và không cần phải ban cho những gì chúng ta cầu khẩn. Ngài đáp lời bằng ban cho những điều tốt hơn những gì chúng ta khẩn cầu. Ngài luôn luôn biết điều gì tốt hơn cho chúng ta.

Sau cùng, Đức Giê-su nhấn mạnh cho chúng ta rằng chỉ có một lời cầu nguyện luôn luôn được đoái thương là lời: “Lạy Cha, xin cho ý Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Quên lời cầu nguyện cuối cùng này thì lời cầu nguyện của chúng ta chỉ là không tưởng, và người ta cầu nguyện chẳng được gì.

J.Y.G

SUY NIỆM 3: CẦU NGUYỆN VỚI CẢ TÂM HỒN (Mt 7, 7-12)

Có nhiều người phàn nàn và trách móc Chúa rằng: đã biết bao nhiêu lần con cầu nguyện mà Chúa đã không nhận lời! Có nhiều lời cầu nguyện đã kéo dài thời gian đến độ mỏi gối chân chùn cũng chẳng thấy Thiên Chúa đáp ứng! Vậy đâu là ý nghĩa của lời hứa: “Xin sẽ được, tìm sẽ gặp, gõ sẽ mở?”

Trước tiên, chúng ta cần xác định ngay rằng: Thiên Chúa tốt lành và luôn tìm mọi cách để ban cho con cái của mình những điều tốt đẹp hơn cả điều chúng xin.

Thứ hai, chúng ta phải thành thật mà nhận thấy rằng: có nhiều điều chúng ta xin tưởng chừng như là tốt, nhưng thực ra chỉ tốt đối với thiển ý của ta, còn thực ra thì lại là điều tai hại cho người khác hay là nguy hiểm và mất phần rỗi cho linh hồn.

Thứ ba, nhiều khi Chúa để một thời gian dài nhằm dạy cho chúng ta bài học kiên trì, trung thành, tín thác vào Thiên Chúa cách tuyệt đối.

Cuối cùng, mọi lời cầu nguyện của chúng ta phải được kết thúc bằng tâm tình: “Xin cho ý Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Và “xin được theo ý Chúa, đừng theo ý con”.

Trong cuộc sống hôm nay, nhiều khi chúng ta phỏng chiếu lời cầu nguyện của mình theo kiểu: “Ăn sổi ở thì”, tức là cái gì cũng muốn cho nhanh, cho mau và phải theo ý mình, trong khi đó lời cầu nguyện là biểu hiện của đời sống tâm linh, là niền tin, là tâm tình tín thác.

Hơn nữa, nhiều người ngay khi cầu nguyện cũng toát lên sự cạnh tranh, đấu đá và muốn Chúa đứng về phía mình để làm hại người khác! Hay nhiều khi cầu nguyện mà trong lòng thì kiêu ngạo, hành động thì huênh hoang, hoặc cầu nguyện với một thái độ nhàm chán như con vẹt, như chiếc máy!

Thử hỏi, cầu nguyện như thế, chúng ta có nâng tâm hồn lên với Chúa được không? Hay thực ra chỉ là qua lần chiếu lệ, còn lòng trí thì vẫn trơ trọi như gỗ đá!

Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con cầu nguyện và xin ban cho chúng con có được tâm tình khiêm tốn, tín thác, trung thành. Xin cho mọi lời cầu nguyện của chúng con được làm vinh danh Chúa và ích lợi cho phần rỗi của chúng con. Amen.

Ngọc Biển SSP

SUY NIỆM 4: Ban những của tốt lành

Suy niệm :

“Hãy xin thì anh em sẽ được cho, hãy tìm kiếm thì anh em sẽ tìm thấy,

hãy gõ thì sẽ được mở cho anh em.

Vì hễ ai xin thì sẽ nhận được, ai tìm kiếm thì sẽ tìm thấy,

ai gõ thì sẽ được mở cho” (cc. 7-8).

Biết bao người đã tin vào lời này của Đức Giêsu và đã cầu xin.

Nhiều người đã được nhận lời, nghĩa là đã được như lòng mình ao ước.

Nhiều người khác tuy không được điều mình xin,

nhưng lại được ơn vui vẻ chấp nhận tình trạng của mình,

ơn nhận ra ý nghĩa của nó, ơn có sức chịu đựng điều không thể chịu đựng nổi.

Những người này cũng coi là mình đã được nhận lời.

Tuy nhiên, một số người khác vẫn đau khổ vì thấy không được nhận lời.

Họ xin những điều rất bình thường như có một người yêu, một đứa con…

Họ xin những điều rất tự nhiên, rất hợp lẽ,

như cho con bỏ ma túy, cho chồng bỏ vợ bé, cho có công ăn việc làm.

Bao người Do thái đã cầu nguyện khi 6 triệu đồng bào của họ bị tàn sát.

Bao người Việt Nam đã cầu nguyện trong cơn bách hại dưới các triều vua.

Có Chúa không? Chúa ở đâu? Sao Chúa lặng thinh và khoanh tay?

Chúa có lòng thương xót không? Chúa có toàn năng không?

Những câu hỏi đớn đau khiến một số người mất đức tin, trở nên vô thần.

Đức Giêsu khẳng định: xin sẽ được cho, tìm thì sẽ thấy, gõ sẽ được mở.

Thiên Chúa luôn luôn đáp trả mong đợi của con người,

nhưng không nhất thiết Ngài phải cho con người đúng điều nó muốn,

vào đúng lúc và theo đúng cách con người muốn.

Con người phải tập đào sâu và thanh luyện ao ước của mình,

tập uốn ý mình theo ý của Thiên Chúa.

Rồi cuối cùng, con người cũng thấy mình được cho, được thấy, được mở.

Ai kiên trì cầu xin đều thấy mình dần dần được biến đổi.

Thiên Chúa là Cha nhân hậu, chỉ ban cho con cái Ngài những điều tốt.

Nhưng đâu là điều tốt thật sự?

Đối với ta, đó là giàu sang, sống lâu, danh tiếng, thành công hay mạnh khỏe.

Đối với Chúa, không hẳn luôn là như vậy.

Điều Ngài thấy là tốt, đôi khi ta coi là hòn đá hay con rắn.

Và ngược lại, điều ta coi là tốt bây giờ thật ra là điều nguy hại mai sau.

Với cái nhìn của người cha, Thiên Chúa biết ta thực sự cần gì.

Hãy phó thác chuyện đời mình cho tình yêu quyền năng của Ngài,

dù khi còn sống ở đời này, ta không hiểu hết được tại sao.

Cầu nguyện :

Lạy Cha là Chúa trời đất,

Cha là Cha toàn năng, nhưng Cha lại không phải là nhà độc tài.

Cha không quyết định một cách vô lý và độc đoán.

Cha đã cho con người được chia sẻ tự do của Cha,

và Cha luôn tôn trọng tự do ấy,

dù con người đã lạm dụng tự do để làm điều xấu.

Lạy Cha toàn năng,

khi trao cho loài người chúng con tự do,

Cha đã muốn tự giới hạn phần nào sự toàn năng của Cha.

Bởi đó sự dữ có sức mạnh tung hoành trong thế giới này.

Khi lòng độc ác của một số người đã treo Con Cha lên,

chúng con hiểu Cha có đủ quyền năng để đưa Ngài xuống.

Nhưng Cha đã muốn Con Cha chia sẻ cái chết bất công

của bao người thấp cổ bé miệng.

Và Cha muốn cái chết ô nhục trên thập giá

trở nên dấu chỉ của tình yêu cao nhất, đem lại ơn cứu độ cho nhân loại.

Lạy Cha toàn năng và khiêm hạ,

chúng con tin Cha vẫn đang làm việc để phục vụ chúng con.

Cha vẫn trao ban bánh và cá cho nhu cầu hàng ngày.

Cha vẫn mở cửa khi nghe tiếng gõ rụt rè của chúng con.

Chúng con tin vào tình yêu Cha dành cho từng người ngay giữa sóng gió.

Và chúng con biết mình không bao giờ thất vọng. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

Thứ sáu sau Chúa Nhật 1 Mùa Chay

 “Hãy đi làm hoà với người anh em ngươi trước đã”.

Lời Chúa: Mt 5, 20-26

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Nếu các con không công chính hơn các luật sĩ và biệt phái, thì các con chẳng được vào Nước Trời đâu. Các con đã nghe dạy người xưa rằng: Không được giết người. Ai giết người, sẽ bị luận phạt nơi toà án. Còn Ta, Ta bảo các con: Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt. Ai bảo anh em là “ngốc”, thì bị phạt trước công nghị. Ai rủa anh em là “khùng”, thì sẽ bị vạ lửa địa ngục.

Nếu con đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có điều bất bình với con, thì con hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em con trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ. Hãy liệu làm hoà với kẻ thù ngay lúc còn đi dọc đường với nó, kẻo kẻ thù sẽ đưa con ra trước mặt quan toà, quan toà lại trao con cho tên lính canh và con sẽ bị tống ngục. Ta bảo thật cho con biết: Con sẽ không thoát khỏi nơi ấy cho đến khi trả hết đồng bạc cuối cùng!”

SUY NIỆM 1: Tha thứ

Vào thời thế chiến thứ nhất, khi nhận được tin con trai yêu quí của mình tử trận, nữ bá tước Litsi rất đau khổ và hầu như mất cả nghị lực. Tuy nhiên bà vẫn cố gắng lao mình vào việc chăm sóc bệnh nhân trong bệnh viện do bà sáng lập.

Một ngày nọ, một binh sĩ Đức được chở tới bệnh viện. Dù người lính này thuộc phe đối nghịch nhưng bà vẫn tận tình săn sóc. Khi soạn đồ đạc của anh, bà thấy chiếc ví và đồng hồ của con trai mình trong túi áo người lính. Vừa bàng hoàng, vừa tức giận, bà đã thốt lên: “Đây đúng là kẻ đã giết con tôi”. Nhưng ngay lúc đó một mảnh giấy trong chiếc ví của con bà rơi ra, bà vội nhặt lên đọc; nét chữ quen thuộc đập vào mắt bà: “Mẹ yêu quí, con luôn nhớ đến và cầu nguyện cho mẹ. Nếu chẳng may con tử trận, xin mẹ đừng quá đau buồn, hãy can đảm chịu đau khổ và cầu nguyện cho con”. Sau một hồi xúc động, bà cúi xuống tiếp tục săn sóc người lính một cách tận tình. Những giọt nước mắt tha thứ trào ra từ đôi mắt bà.

Trong cuộc sống thường ngày, chắc chắn chúng ta không có dịp để tha thứ cho những xúc phạm nặng, nhưng những phiền lòng nho nhỏ thì không thiếu và do đó chúng ta luôn được mời gọi để tha thứ. Tác giả tập sách Đường Hy Vọng đã ghi lại kinh nghiệm như sau: “Đừng tức tối vì người ta chỉ trích con, hãy cám ơn vì còn bao nhiêu tồi tệ khác nơi con mà người ta chưa nói tới. Chúa nói: nếu ai làm mất lòng con, hãy để của lễ về làm hoà với người ấy trước; còn con, con làm ngược lại: cứ dâng của lễ và phóng thanh cho mọi người biết. Con không khuyết điểm tại sao lại tức tối và tấn công khuyết điểm của người khác.”

Thật ra, tha thứ không phải là điều dễ. Nhưng đó lại là điều kiện để tôn vinh Thiên Chúa một cách xứng đáng: “Nếu ngươi đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ anh em đang có điều bất bình với ngươi, hãy đặt cuả lễ trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em trước, rồi hãy đến mà dâng của lễ”. Tha thứ không có nghĩa là một sự cắt đứt, nhưng là bắt đầu lại mối tương quan tốt đẹp với người anh em, theo gương Chúa đã tha thứ và bắt đầu lại mãi với mỗi người chúng ta.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 2: Sự thánh thiện đích thực

Chân phước Marchello, một kỹ nghệ gia giàu có người Italia, đã bán hết tất cả gia sản và sang Châu Mỹ La tinh phục vụ những người phong cùi, có kể lại câu chuyện như sau:

Tại một viện bài phung giữa rừng già miền Amazone, có một người đàn bà thoạt nhìn qua ai cũng thấy đáng thương. Từ nhiều năm qua, vì phong cùi, bà bị chồng con bỏ rơi, bà sống đơn độc trong một túp lều gỗ, mặt mũi đã bị đục khoét đến độ không còn hình tượng con người nữa.

Mang đến cho bà vài món quà, chân phước Marchello hỏi bà:

– Bà làm gì suốt ngày? Có ai đến thăm bà không?

Người đàn bà trả lời:

– Tôi sống đơn độc một mình. Tôi không còn làm được gì nữa, tay chân bại liệt, mắt mũi lại chẳng còn trông thấy gì nữa.

Marchello tỏ ra cảm thông trước nỗi khổ của bà, ngài hỏi:

– Vậy chắc bà phải cô đơn buồn chán lắm phải không?

Người đàn bà liền nói:

– Thưa ngài, không. Tôi cô độc thì có, nhưng tôi không hề cảm thấy buồn hoặc bị bỏ rơi, bởi vì tôi cầu nguyện suốt ngày và tôi luôn cảm thấy có Chúa bên cạnh.

Ngạc nhiên về lòng tin của bà, chân phước Marchello hỏi tiếp:

– Thế bà cầu nguyện cho ai?

Người đàn bà như mở to được đôi mắt mù lòa, bà nói:

– Tôi cầu nguyện cho Ðức Giáo Hoàng, cho các Giám Mục, Linh mục, Tu sĩ. Tôi cầu nguyện cho những người phong cùi bị bỏ rơi, cho các trẻ em mồ côi, cho tất cả những ai giúp đỡ trung tâm này.

Chân phước Marchello ngắt lời bà:

– Bà không cầu nguyện cho bà sao?

Với một nụ cười rạng rỡ, người đàn bà quả quyết:

Tôi chỉ cầu nguyện cho những người khác mà thôi, bởi vì khi người khác được hạnh phúc, thì tôi cũng được hạnh phúc.

Thái độ sống và cầu nguyện của người đàn bà phong cùi trên đây minh họa cho sự thánh thiện đích thực là người chỉ sống cho người khác, lấy hạnh phúc của người khác làm của mình. Ðể có được thái độ như thế, chắc chắn phải có một đức tin sâu xa, một đức tin luôn đòi hỏi con người nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa trong mọi người và yêu thương mọi người. Như vậy, thánh thiện và bác ái cũng là một: thánh thiện mà không có bác ái là thánh thiện giả hình.

Chúa Giêsu đã đến để đem lại cho sự thánh thiện một nội dung đích thực. Ngài đề ra một mẫu mực thánh thiện hoàn toàn khác với quan niệm và thực hành của người Biệt Phái và Luật Sĩ, tức là những nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó. Theo họ, thánh thiện là chu toàn một cách chi li và máy móc những luật lệ đã được quy định mà không màng đến linh hồn của lề luật là lòng bác ái; họ có thể trung thành tuyệt đối với những qui luật về ăn chay và cầu nguyện, nhưng lại sẵn sàng khước từ và loại bỏ tha nhân.

Ðả phá quan niệm và cách thực hành của những người Biệt Phái và Luật Sĩ, Chúa Giêsu đưa bác ái vào trọng tâm của lề luật; hay đúng hơn, Ngài tóm lại tất cả lề luật thành một luật duy nhất, đó là lòng bác ái. Ai muốn làm môn đệ Ngài, người đó phải vượt qua quan niệm và cách thực hành đạo của những người Biệt Phái và Luật Sĩ, nghĩa là cần phải lấy bác ái làm linh hồn và động lực cho toàn cuộc sống: “Nếu các con không ăn ở công chính hơn những Biệt Phái và Luật Sĩ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.”

Quả thật, nếu an bình, hân hoan, hạnh phúc là thể hiện của Nước Trời ngay trong cuộc sống này, thì chúng ta chỉ được vào Nước Trời, nếu chúng ta biết sống cho tha nhân mà thôi. Sống vui và hạnh phúc, phải chăng không là mơ ước của mọi người, nhưng liệu mỗi người có ý thức rằng bí quyết của hạnh phúc và niềm vui ấy chính là sống cho tha nhân không? Kỳ thực, các thánh là những người đạt được niềm vui và hạnh phúc ấy ngay từ cuộc sống này. Người Tây phương đã chẳng nói: “Một vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn” đó sao?

Nguyện xin Chúa cho chúng ta luôn biết tìm kiếm và cảm nếm được niềm vui và hạnh phúc đích thực trong yêu thương và phục vụ.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 3: Anh hãy làm như vậy

Thầy bảo thật cho anh em biết nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.

“Anh em đã nghe luật người xưa rằng: Chớ giết người, ai giết người thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì phải đưa ra tòa. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì phải đưa ra trước thượng hội đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì phải bị lửa hỏa ngục thiêu đốt.” (Mt. 5, 20-22)

Mọi người làm thế, anh hãy làm như vậy! hay câu: “Ai sao, tôi vậy”. Đó là một trong câu châm ngôn được rêu rao trong công chúng. Trong thế giới chúng ta đang sống, những phương tiện thông tin không mấy khi loan tin đúng đắn và càng ít tính chất giáo dục. Chúng ta luôn là nạn nhân bị xô đẩy bởi những quảng cáo nhằm đoàn ngũ hóa từ cách hành động đến lối suy nghĩ của chúng ta. Người ta nhấn mạnh chúng ta phải ăn những món ăn này, uống những thứ nước kia, thí dụ họ bảo phải ăn thứ dồi xúc xích này vì mọi người ăn nó, phải uống nước ngọt kia vì mọi người uống nó. Cả đến cách ăn mặc cũng phải mặc quần áo đồng phục, nam nữ như nhau. Chúng là dấu chỉ của phong trào đoàn ngũ hóa, làm mất nhân cách độc đáo của mình và hóa thành đồng loạt. Khuynh hướng này còn dẫn tới cả phương diện luân lý và lối hành xử cá nhân nữa: mọi người làm thế, anh cũng phải thế … như thể người ta đúc khuôn hạnh kiểm bắt mọi người chui vào đó cho đồng đều.

Ngôn sứ Ê-giê-ki-en nhắc nhở chúng ta phải nhớ đến trách nhiệm cá nhân. Chúng ta là những cá nhân nghĩa là chúng ta có những chọn lựa những hành vi xấu tốt theo cá tính mình và bảo đảm về những hậu quả đó. Chúng ta không thể chất những gánh nặng lên vai người khác. “Ta sẽ phán xét mỗi người theo đường lối của họ”. Người công chính sống theo đường công chính của mình, kẻ dữ sẽ chết vì đường hư đốn của nó. Họ sẽ bị xử theo sự lựa chọn cá nhân họ, chứ không theo một thời đại. Trong Tin mừng, Đức Giê-su còn đi xa hơn nữa. Luật cũ cấm giết người, Đức Ki-tô còn cấm chửi, mắng, giận anh em mình và Người còn cấm đến tận căn nguyên sinh ra những hành động xấu nữa: là tấm lòng, là con tim mỗi người.

Ai bất hòa với anh em thì mối giây liên đới với Thiên Chúa cũng bị cắt đứt. Yêu thương anh em là điều kiện cần thiết: Không có lòng mến Chúa thật, nếu lòng mến đó không bám rễ trong lòng hòa thuận với anh em, bất cứ hành vi thờ phượng nào cũng sẽ vô nghĩa và không thể đẹp lòng Thiên Chúa nếu không có hòa bình ngự trị giữa anh em với nhau.

Mùa chay là thời giờ chúng ta tới gần Chúa, nhưng Đức Giê-su nói với chúng ta rằng: “Hãy coi chừng, trước hết, hãy xem xem tâm trạng của con đối với anh em con thế nào”.

G.M

SUY NIỆM 4: TÌNH YÊU HÓA GIẢI HẬN THÙ (Mt 5, 20 –26)

Người Công Giáo chúng ta thật hạnh phúc vì được gọi Thiên Chúa là Cha và được Người nhận là con trong ân sủng. Hơn nữa, chúng ta được Con Thiên Chúa đến để cứu chuộc chúng ta bằng chính cái chết trên Thánh Giá. Mặt khác, Ngài tiếp tục thi ân giáng phúc cho chúng ta qua Giáo Hội nơi các Bí tích.

Tuy nhiên, nếu niềm vui, hãnh diện, tự hào vì được đảm bảo bao nhiêu, thì chúng ta phải cẩn trọng bấy nhiêu, vì chính Đức Giêsu đã nói: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn Luật sĩ và Pharisiêu thì anh em không được vào Nước Trời”.

Đức Giêsu đã cắt nghĩa vấn đề này bằng một loạt bài giảng về luận lý từ chương 6 đến chương 8 trong Tin Mừng theo thánh Mátthêu: đừng giận ghét, đừng gian dâm, đừng nóng giận, đừng thề thốt… Về vấn đề giận dữ, thánh Gioan còn nói rõ: “Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt”. Hơn nữa, Ngài còn nói rõ điều kiện để được Chúa nhận lời là phải tha thứ: “Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình”.

Trong cuộc sống hôm nay, biết bao mối thù hận, giận ghét ngay trong gia đình như:  mẹ chồng nàng dâu; cha mẹ với con cái; anh chị em trong gia đình với nhau… Hay hàng xóm; nghề nghiệp, bạn bè… Biết bao nhiêu giận hờn chồng chất!

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy lấy tình yêu hóa giải hận thù, vì chỉ có tình yêu mới cải tạo được con người; còn bạo lực, oán thù chỉ đem lại chết chóc mà thôi. Nếu có ai đó mà chúng ta không thể thương được thì đừng làm hại họ, nhưng hãy làm ơn cho họ.

Lạy Chúa Giêsu, xin dạy cho chúng con biết yêu thương anh chị em mình bằng tình thương của Chúa. Yêu đến nỗi đi bước trước và chết cho người mình yêu. Amen.

Ngọc Biển SSP

SUY NIỆM 5: Làm hòa

Ngày 5-2-2009, trong một cuộc gặp gỡ thường niên có tính tôn giáo,

Tổng thống Mỹ Barack Obama đã chia sẻ với các tham dự viên:

“Dù chúng ta chọn niềm tin nào, hãy nhớ rằng

chẳng có tôn giáo nào lấy căm thù làm giáo lý chủ yếu cho mình…

Chẳng có Thiên Chúa nào lại dung túng

chuyện cướp đi mạng sống của một người vô tội.”

Trên núi Sinai, ông Môsê đã nhận được giới răn “Ngươi chớ giết người.”

Đức Giêsu cho thấy uy quyền của mình trong việc giải thích giới răn ấy.

“Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…”

Ngài đã đẩy giới răn này đi xa hơn nhiều, vào tận trái tim con người:

“Ai giận anh em mình thì đáng bị đưa ra tòa” (c. 22).

Tình cảm nóng giận có thể dẫn đến nhiều chuyện không hay.

Nó khiến người ta dùng lời nói mà lăng mạ, làm nhục người khác.

Giận mất khôn, nóng giận thậm chí có thể đưa đến chỗ giết người.

Nhưng Đức Giêsu không muốn loại trừ thứ nóng giận chính đáng,

như ta thấy có nơi Ngài (x. Mc 3,5; Mt 23,17).

Mùa Chay là thời gian dành cho việc làm hòa với người anh em.

Đây là công việc vừa quan trọng, vừa cấp bách.

Quan trọng đến nỗi đòi ta để của lễ lại trước bàn thờ

và đi làm hòa với người anh em đó, rồi mới trở lại dâng của lễ.

Tương quan với Thiên Chúa cần được diễn ra trong bầu khí hòa thuận.

Chúa chỉ nhận lễ vật khi trái tim ta bình yên.

Điều đáng lưu ý là chúng ta phải đi làm hòa

với các anh em đang có điều bất bình với ta,

phải đi bước trước làm hòa dù ta chẳng phải là người gây chuyện.

Nhưng cũng phải làm hòa với cả thù địch của mình (c. 25).

Trên đường bị đưa đến cửa công, cần mau mau dàn xếp cho ổn thỏa.

Cần trả ngay món nợ chưa thanh toán, kẻo bị kết án và tống ngục.

Làm sao thời gian Mùa Chay vừa là thời gian ta làm hòa với Chúa,

vừa là thời gian ta làm hòa với một người đang sống gần bên.

Đó là thời gian người con cả thôi đứng ngoài cổng,

nhưng vào nhà để chung vui với cha và ôm lấy người em.

Cầu nguyện :

Lạy Chúa,

lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau

để làm thành một vòng tròn khép kín.

Sau đó chúng con hiểu rằng

cần phải buông tay nhau

để nhận những người bạn mới,

để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng

và trái tim được lớn lên mãi.

Lạy Chúa, chúng con biết rằng

cần phải nối vòng tay lớn

xuyên qua các đại dương và lục địa.

vòng tay người nối với người,

vòng tay con người nối với Tạo Hóa.

Chúng con thích Chúa

đứng chung một vòng tròn

với tất cả loài người chúng con,

nắm lấy tay chúng con

và đưa chúng con lên cao.

Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá

giúp chúng con biết cầm lấy tay nhau

và nhận nhau là anh em. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

Thứ bảy sau Chúa Nhật 1 Mùa Chay

 “Các ngươi hãy nên trọn lành như Cha các ngươi trên trời”.

 Lời Chúa: Mt 5, 43-48

Khi ấy, Chúa phán cùng các môn đệ rằng: “Các con đã nghe dạy: Ngươi hãy yêu thân nhân, và hãy thù ghét địch thù. Còn Ta, Ta bảo các con: Hãy yêu thương thù địch và làm ơn cho những kẻ ghét các con; hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các con, để như vậy các con nên con cái của Cha các con, Ðấng ngự trên trời: Người khiến mặt trời mọc lên cho người lành kẻ dữ, và cho mưa xuống trên người liêm khiết và kẻ bất lương.

Vì nếu các con yêu thương những ai mến trọng các con, thì các con được công phúc gì? Các người thu thuế không làm như thế ư? Nếu các con chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì các con đâu có làm chi hơn? Những người ngoại giáo không làm thế ư?

Vậy các con hãy nên hoàn hảo như Cha các con trên trời là Ðấng hoàn hảo”.

 

SUY NIỆM 1: Yêu mến thù địch

Đời nước Tề, có một người nằm mơ thấy có người đem gươm vào nhà ông mắng chửi rồi giận dữ bỏ đi. Ông ta giật mình tỉnh dậy nhưng không tài nào ngủ lại được. Sáng hôm sau, ông nói với người bạn: “Từ nhỏ đến giờ, tôi vốn là người trí dũng, đến nay đã 80 tuổi, tôi chưa hề bị ai hạ nhục, thế mà đêm qua có người đến làm nhục tôi, tôi cảm thấy bứt rứt và cố tìm gặp cho được người đó, nếu không tôi phải chết mất”.

Thế là ngay sáng hôm ấy, ông cùng với người bạn đi tìm kẻ thù. Năm năm trôi qua mà ông vẫn chưa thấy được kẻ thù. Tức tối vì bị kẻ thù làm nhục, hậm hực vì không tìm được kẻ thù, ông ta về nhà mất ăn mất ngủ mà chết.

Cicéron đã nói: “Con người là kẻ thù khủng khiếp nhất của chính mình”, vì con người tự tạo cho mình kẻ thù để rồi tự tiêu diệt chính mình.

Chúa Giêsu không đến để chối bỏ hận thù, nhưng để bày tỏ bộ mặt thật của nó và đánh bại nó. Thù hận là dấu chỉ sự thống trị của Satan theo đúng nghĩa nhất. Chính Satan gieo thù hận trong lòng con người, đặt con người vào thế chống đối và huỷ diệt nhau. Chúa Giêsu đã đánh bại kẻ thù ấy bằng cái chết yêu thương tha thứ của của Ngài.

Chỉ có yêu thương, tha thứ mới là khí giới tiêu diệt được kẻ thù. Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta khí giới ấy trong bài Tin mừng hôm nay, đó là: “Hãy yêu mến thù địch và làm ơn cho kẻ ghét ngươi”.

Mỗi người là kẻ thù của chính mình. Mỗi khi chúng ta cưu mang thù hận thì đó là lúc chúng ta tự tạo nên kẻ thù và tự tiêu diệt mình. Mỗi khi chúng ta khước từ tha thứ và không thi ân cho những kẻ thù ghét bách hại chúng ta, đó là lúc chúng ta tự giam hãm trong thù hận để tự huỷ hoại mình.

Kẻ thù khủng khiếp nhất, kẻ thù tiếp cận với con người nhất là cõi lòng tích chứa thù hận. Nếu loại bỏ thù hận ra khỏi lòng mình, chúng ta sẽ biến đổi kẻ thù thành bạn hữu, và lúc đó sự bình an và vui sống cũng được tái lập trong tâm hồn chúng ta.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 2: Yêu thương kẻ thù

Sau hơn 50 ngày bị bắt làm con tin và bị sút gần 20 ký vì sống trong thiếu thốn vật chất cũng như tinh thần, một nhà truyền giáo nọ đã bình tĩnh trả lời câu hỏi của các phóng viên về những gì mình đang suy tính trong lòng: “Tôi vẫn yêu mến đất nước và dân tộc đó, như ngày tôi mới đến truyền giáo cách đây 40 năm. Tôi đã tha thứ cho những kẻ bắt giữ và hành hạ tôi. Tôi muốn nói với họ rằng tôi không có gì thù ghét họ, nhưng vẫn yêu thương và sẵn sàng trở lại đó làm việc mục vụ”.

Những lời dạy của Chúa Giêsu mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, cũng không mập mờ, không nhượng bộ hay chiều theo khuynh hướng tự nhiên của con người muốn giới hạn tình yêu của mình đối với tha nhân.

“Hãy yêu mến anh em mình”, mệnh lệnh này được ghi rõ trong sách Lêvi 19,18. Những “anh em” được nhắc đến ở đây chỉ những kẻ thân thuộc, đồng hương, thuộc về dân riêng của Chúa. Còn câu: “Hãy ghét kẻ thù địch” thì chúng ta không gặp thấy công thức nào tương tự như vậy trong Kinh Thánh. Những lời này có thể hiểu như một diễn tả tự nhiên của tâm lý thường tình nơi con người, một hậu quả của tình yêu thương có giới hạn trong khung cảnh những kẻ thân thuộc, những người thuộc về cùng một dân tộc, một xã hội. Theo tâm thức hạn hẹp của Cựu Ước, bất cứ ai không thuộc về Dân Chúa chọn, thì người đó là kẻ xa lạn, là kẻ thù địch, không được yêu thương.

Chúa Giêsu đã đến để mạc khải sứ điệp trọn hảo hơn, bẻ gẫy những giới hạn tự nhiên: “Còn Thầy, Thầy bảo các con: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con”. Chúng ta chú ý đến hai chi tiết trong lời dạy của Chúa Giêsu: thứ nhất: không còn ai bị loại ra khỏi tình yêu thương của người môn đệ Chúa và sự phân chia con người ra làm hai loại: thân thuộc và thù địch không còn nữa. Thứ hai: Tình yêu thương đó được thể hiện bằng những hành động cụ thể, và quan trọng nhất, đó là thi ân và cầu nguyện cho những kẻ không tự nhiên được chúng ta yêu thương, và đây không còn là tình yêu thương theo tình cảm, mà là tình yêu thương thực sự hướng đến lợi ích của người khác.

Nhưng tại sao phải yêu thương như vậy? Bởi vì chính chúng ta là con cái của Thiên Chúa và do đó phải noi gương trọn lành của Ngài, Ðấng cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người lành.

Xin Chúa đổ tràn trên chúng ta tình thương của Chúa, để chúng ta được giải thoát khỏi tình yêu hạn hẹp, có tính toán, mà quảng đại yêu thương tất cả mọi người, ngay cả kẻ chống đối và có ác cảm với chúng ta.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 3: Luân lý cởi mở

Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. (Mt. 5, 44)

Bài trích sách Đệ Nhị Luật hôm nay thiết lập bước đầu tiên đến một nền luân lý cởi mở. Thực vậy, sách này chứa đựng nhiều điều răn có tính tôn giáo, nó nhấn mạnh tới mối giây liên lạc giữa Thiên Chúa và dân Do thái: “Ngươi sẽ là dân Ta và Ta sẽ là Thiên Chúa ngươi”. Điều quan trọng ở đây là hai bên liên kết với nhau được hoàn toàn tự do chọn lựa: một bên là Thiên Chúa và một bên là dân Do thái. Và những điều răn cũng do sự chọn lựa tự do này. Giới luật theo sau sự ban ơn cứu thoát và không qua một phương tiện nào khác, vì Thiên Chúa đã cứu thoát họ trước khi họ trung thành, sự trung thành của dân với lề luật cũng không phải là cách nhận biết ơn cứu độ đã có trước. Do đó, đây là nền tảng luân lý và đường lối sống đạo ăn rễ sâu vào kỷ niệm quá khứ: “Ngươi hãy nhớ” là câu nói then chốt của sách Đệ Nhị Luật. “Ngươi nhớ rằng ngươi đã làm nô lệ trong nước Ai cập và Gia-vê Thiên Chúa đã giải thoát ngươi ra khỏi đó”. Khi nhớ đến sự tự do và giao ước, Ít-ra-en sao quên được Đấng đã yêu thương và giải phóng mình? Những lúc họ lầm lạc, bất chính, áp bức, là những lúc họ quên kỷ niệm quá khứ.

Đức Giêsu trong Tin mừng, đã rao giảng một luân lý cởi mở. Còn đối với dân Do thái chỉ biết nên trọn lành ở sự giữ luật khắt khe, nên họ chống đối một kiểu nên trọn lành mới là kiểu của Cha trên trời. Đó là ân sủng, là tình yêu hậu đãi. Đức Kitô dùng hình ảnh mặt trời, mưa tưới. Thiên Chúa đã cho mặt trời mọc lên soi sáng cho muôn dân không phân biệt ai, đã làm cho mưa xuống làm phì nhiêu cho mọi loài trên trái đất. Thiên Chúa không thiên vị ai. Ngài săn sóc tất cả mọi người do lòng nhân hậu của Ngài ban cho người công chính cũng như kẻ bất lương. Theo gương Ngài mỗi người Kitô hữu không được phân biệt đối xử, cũng không được đặt rào cản lối với đức yêu người. Họ phải yêu cả kẻ thù mình, không được sống theo tình cảm tự nhiên, dù kẻ thù đó là người mắc nợ với mình. Luân lý cởi mở chính là tình yêu cho không điều kiện, hoàn toàn do ân huệ của Thiên Chúa. Chúng ta phải noi gương Ngài vì Ngài đã ban Con Một Ngài đến thương yêu chúng ta dù chúng ta là kẻ tội lỗi. Kitô hữu phải nhớ Đức Giêsu Kitô, nhớ hồng ân ban đầu của Thiên Chúa đã đoái thương mình để mình cố gắng nhờ ơn Chúa mà diễn tả lòng thương yêu đó trong đời sống mình.

J.G

SUY NIỆM 4: YÊU CẢ KẺ THÙ (Mt 5, 43 – 48)

Có nhiều nghịch lý trong Tin Mừng! Một trong những nghịch lý ấy là lời dạy của Đức Giêsu hôm nay. Ngài dạy: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”, có thế, anh em mới trở thành con của Cha trên trời.

Tại sao Đức Giêsu lại dạy như thế? Thưa! Vì chính Ngài đã sống như vậy. Hơn nữa, đây là đặc tính của Thiên Chúa Cha, vì “Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương”.

Khi Đức Giêsu mời gọi yêu kẻ thù và nên hoàn thiện như Cha trên trời, có nghĩa là Ngài muốn chúng ta phải hành động như Ngài và nên giống Thiên Chúa.

Tuy nhiên, có điều chúng ta phải cẩn trọng để không bị lầm lẫn trong chuyện yêu và thích. Yêu là làm ơn cho họ. Thích là phản ứng tự nhiên. Chính Đức Giêsu đã yêu kẻ thù, tội lỗi và làm ơn cho họ, nhưng Ngài không chấp nhận tội, vì thế, mỗi khi làm ơn, Ngài thường nói: “Hãy về và đừng phạm tội nữa”.

Mẫu gương của thánh Phanxicô cho ta thấy hai yếu tố hoàn toàn khác nhau: ngài rất gớm người cùi, nhưng lại yêu thương người cùi cách đặc biệt. Lý do: họ là hình ảnh của Thiên Chúa, được dựng nên vì tình yêu.

Mong sao, lời mời gọi của Đức Giêsu: hãy yêu kẻ thù sẽ làm cho mỗi người chúng ta đón nhận và sống trong cuộc đời chứng tá của mình, để chúng ta được trở nên giống Thiên Chúa và hoàn thiện như lời Đức Giêsu mời gọi: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”.

Lạy Chúa Giêsu, lời mời gọi của Chúa hôm nay khó quá! Nhưng xin Chúa ban cho chúng con noi gương Chúa để yêu bằng một tình yêu vô vị lợi và nhân từ. Xin Chúa biến đổi lòng chúng con và những kẻ thù đang tìm cách hại chúng con, để chúng con được nên một trong tình yêu. Amen.

Ngọc Biển SSP

SUY NIỆM 5: Yêu kẻ thù

Suy niệm:

“Tại sao anh lại bắn tôi khi cả hai chúng ta đều tin

vào sự hiện hữu của một Thiên Chúa duy nhất.”

Đó là một câu trong lá thư Đức Thánh Cha Gioan Phaolô định gửi

cho anh Ali Agca, người đã ám sát ngài vào ngày 13-5-1981 tại Rôma.

Nhưng ngài đã đích thân thăm anh trong tù năm 1983, và đã tha thứ cho anh.

Vào Đại Năm Thánh 2000, ngài đã xin Tổng Thống Ý cho anh được ân xá.

Điều đáng nói là anh đã chẳng bao giờ công khai xin ngài tha lỗi.

“Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù” (c.43).

Thật ra Luật Môsê không dạy ghét kẻ thù,

nhưng ghét kẻ thù của Thiên Chúa là chuyện có trong các thánh vịnh.

“Lạy Chúa kẻ ghét Ngài làm sao con không ghét?…

Con ghét chúng, ghét cay ghét đắng,

chúng trở thành thù địch của chính con” (Tv 139, 21-22).

Đức Giêsu dạy các môn đệ yêu kẻ thù (c. 44),

Nhưng vào sau năm 70, kẻ thù của các môn đệ là ai?

Là quân xâm lược Rôma, là thế giới dân ngoại đang bắt đạo (Mt 10, 22).

Là những người đồng hương thuộc hội đường đang ngược đãi các Kitô hữu.

Là những ai không phải là anh em, nghĩa là những ai không tin Đức Giêsu.

Đức Giêsu mời ta vượt qua khuynh hướng tự nhiên là chỉ yêu kẻ yêu mình.

Tình yêu Kitô vươn đến cả những kẻ ghét và làm hại mình nữa.

Hãy yêu kẻ thù, nhưng yêu lại không phải là một tình cảm tự nhiên.

Yêu là một thái độ của lòng nhân được diễn tả bằng những hành động cụ thể.

Yêu là cầu nguyện cho kẻ bách hại, là chào hỏi và chúc bình an cho họ.

“Tôi luôn cầu nguyện cho người anh em đã bắn vào tôi”,

Đức Gioan Phaolô II đã tuyên bố như thế sau khi hồi phục.

Yêu kẻ thù làm chúng ta được ơn trở nên con cái Cha trên trời (c. 45),

trở nên giống Cha là Đấng ban mặt trời và mưa cho kẻ bất chính.

Trở nên con cái Cha là tiến trình dài một đời,

xuyên qua những hành vi yêu thương vượt trên tự nhiên.

Cha yêu mọi người chẳng trừ ai bằng một tình yêu vô điều kiện.

Chúng ta được mời gọi trở nên hoàn thiện như Cha

nhờ yêu kẻ thù như Cha đã yêu họ (c. 48).

Kẻ thù cũng là anh em tôi, vì họ cũng là con được Cha yêu như tôi.

Chúng ta nên nghĩ đến những kẻ thù của mình, ở rất gần mình,

những người mình không muốn chào hỏi hay nhìn mặt, chỉ muốn nguyền rủa.

Tôi sẽ làm gì để bày tỏ tình yêu tha thứ đối với họ trong Mùa Chay này?

Cầu nguyện :

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,

có những ngày

đón nhận những người khác

là điều vượt quá sức con,

vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,

có những ngày

con không thể nào kính trọng kẻ khác được,

vì ý kiến, vì màu da, vì cái nhìn của người ấy.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con

có những ngày

mà yêu mến người khác

làm cho tim con đau nhói,

vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau

và những giới hạn của bản thân con.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con

trong những ngày khó khăn đó,

xin hãy nhắc cho con nhớ rằng

tất cả chúng con đều là con cái Chúa

và đừng để con quên lời Chúa nói :

“Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất

là làm cho chính Ta.” Amen. (Trích trong PRIER)

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.