Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 1 Thường Niên

print

Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 1 Thường Niên

THỨ HAI TUẦN 1 THƯỜNG NIÊN. 1

THỨ BA TUẦN 1 THƯỜNG NIÊN. 11

THỨ TƯ TUẦN 1 THƯỜNG NIÊN. 22

THỨ NĂM TUẦN 1 THƯỜNG NIÊN. 33

THỨ SÁU TUẦN 1 THƯỜNG NIÊN. 44

THỨ BẢY TUẦN 1 THƯỜNG NIÊN. 55

 

THỨ HAI TUẦN 1 THƯỜNG NIÊN

LỜI CHÚA: Mc 1, 14-20

Sau khi Gioan bị bắt, Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng Tin Mừng của nước Thiên Chúa, Người nói: “Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”.

Ðang lúc đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người thấy Simon và em là Anrê đang thả lưới xuống biển, vì các ông là những người đánh cá. Chúa Giêsu bảo các ông: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người”. Lập tức bỏ lưới, các ông theo Người.

Ði xa hơn một chút nữa, Người thấy Giacôbê con ông Giêbêđê và em là Gioan đang xếp lưới trong thuyền, Người liền gọi các ông. Hai ông bỏ cha là Giêbêđê ở lại trên thuyền cùng với các người làm công, và đi theo Người.

 

Suy Niệm 1: Thấy – Gọi – Bỏ – Theo

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Sau khi chịu phép rửa của Gioan ở sông Giođan

Đức Giêsu biết đã đến lúc mình phải rời bỏ gia đình ở Nadarét,

phải chia tay với người mẹ thân yêu,

phải từ giã nghề nghiệp mà mình đã theo đuổi mấy chục năm trời.

Sau khi nhận Thánh Thần từ trên xuống,

Đức Giêsu biết đã đến lúc mình phải lên đường

dấn thân cho sứ mạng do Cha ủy thác.

Vùng Galilê là vùng Ngài bắt đầu rao giảng Tin Mừng về Nước Trời (c.14).

Ngài mời người ta sám hối và tin vào Tin Mừng mà Ngài rao giảng.(c.15).

Nhưng Đức Giêsu không nghĩ rằng mình có thể tự mình làm mọi sự.

Ngài cần người cộng tác, dù nước Ítraen chỉ là một nước bé nhỏ.

Đức Giêsu đi tìm môn đệ, và Ngài bắt gặp các anh đánh cá nơi hồ Galilê.

Có hai đôi anh em ruột đã lọt vào mắt của Ngài.

Ngài THẤY Phêrô và Anrê đang quăng lưới bắt cá.

“Hãy theo tôi. Tôi sẽ làm các anh thành những kẻ lưới con người” (c. 17).

Đây là một mệnh lệnh nhưng cũng là một lời mời thân thương.

Ngài GỌI họ đi theo Ngài, theo chính con người của Ngài,

chứ không phải theo một lý tưởng hay một chủ nghĩa nào đó, dù là cao đẹp.

Theo Ngài sẽ dẫn đến một thay đổi lớn nơi họ: từ lưới cá đến lưới con người.

Bây giờ con người là mối bận tâm của họ, không phải là cá như xưa nữa.

Đức Giêsu cũng thấy cặp anh em ruột thứ hai là Giacôbê và Gioan.

Họ đang vá lưới trong khoang thuyền với người cha.

Khung cảnh cha con thật êm đềm, tưởng như chẳng gì có thể làm xáo trộn.

Tiếng gọi của Thầy Giêsu vang lên, gây cuộc chia ly.

Bốn anh đánh cá đầu tiên này đã BỎ để dáp lại tiếng gọi của Thầy Giêsu.

Họ đã bỏ chài lưới, bỏ nghề dánh cá, bỏ những thú vui của sông nước.

Hơn nữa họ còn bỏ gia đình, bỏ vợ, bỏ cha, để gắn bó với Thầy Giêsu.

Họ bỏ một giá trị để sống cho một Giá Trị lớn hơn,

bỏ một tình yêu để sống cho một Tình Yêu lớn hơn.

Đức Giêsu đã có kinh nghiệm về sự đau đớn khi phải từ bỏ như vậy.

Nhưng bỏ chính là để THEO (cc. 18.20).

Theo một Đấng sống không chỗ tựa đầu, và bước vào cuộc phiêu lưu bấp bênh.

Hôm nay Đức Giêsu vẫn cần những con người dám sống cho người khác,

dám bỏ lại những điều rất quý giá và thân thương,

dám bỏ lại cuộc sống ổn định và ấm êm, tiện nghi và dễ chịu.

Xin cho chúng ta nghe được tiếng gọi thì thầm của Ngài và vui sướng đáp lại.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa,

chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon,

một người đánh cá ít học và đã lập gia đình,

để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.

Chúa xây dựng Giáo Hội

trên một tảng đá mong manh,

để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.

Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con

theo Chúa, sống cho Chúa,

đặt Chúa lên trên mọi sự:

gia đình, sự nghiệp, người yêu.

Chúng con chẳng thể nào từ chối

viện cớ mình kém đức kém tài.

Chúa đưa chúng con đi xa hơn,

đến những nơi bất ngờ,

vì Chúa cần chúng con ở đó.

Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon,

bỏ mái nhà êm ấm để lên đường,

hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.

 

Suy Niệm 2: Hãy sám hối

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Thời đã mãn”. Đã hết thời cũ. Gioan Tẩy giả là tiên tri cuối cùng của thời cũ đã bị bắt giam. Hết thời của các trung gian. Nay đến thời mới, thời Thiên Chúa trực tiếp nói với nhân loại. Con Thiên Chúa xuất hiện với đầy đủ quyền năng. Người là trưởng tử mọi loài thọ sinh. Người mở đường cho đoàn em đông đảo đi theo Người vào con đường đạt tới vinh quang (năm lẻ).

Khởi đầu một thời kỳ mới đòi phải có con người mới. Hôm nay, khi đầu tiên ngỏ lời với nhân loại, Người kêu gọi đào tạo con người mới bằng 2 phương thế: Sám hối và Tin vào Tin mừng. Sám hối là từ bỏ con người cũ để trở thành người mới. Tin vào Tin Mừng để sống một đời sống mới.

Bốn môn đệ đầu tiên đã thực hành Lời Chúa dậy. Các ngài bỏ con người cũ để đi theo Thiên Chúa. Xưa kia các đệ tử đi theo thầy. Như Anrê và Gioan đã từng là môn đệ của Thánh Gioan Tẩy giả. Chỉ qua trung gian người thầy mới đến với Thiên Chúa. Nay con người mới trực tiếp được Chúa kêu gọi, trực tiếp đi theo Thiên Chúa, đến với Thiên Chúa, sống cùng Thiên Chúa.

Bỏ con người cũ với những lo toan cũ như Phêrô và Anrê. Xưa lo toan về cuộc sống trần gian. Nay lo toan về cuộc sống thiên đàng. Xưa chài lưới để bắt tôm cá. Nay đi qui tụ con người. Xưa bận tâm đến phát triển cuộc sống trần gian với bữa cơm có cá ngon. Nay lo dọn bữa tiệc trên trời.

Bỏ người cũ với những tài sản, địa vị cồng kềnh như Gioan và Giacôbê, có cả lưới và thuyền, có cả cha mẹ và những người làm công, để từ nay sống không cửa không nhà, không kẻ hầu người hạ, không có người thân thích bên mình, để hoàn toàn sống cho Nước Trời, chỉ có Chúa làm gia nghiệp, sống chết cho ơn cứu độ.

Bỏ con người cũ chỉ tin vào loài người như bà Anna. Để hoàn toàn tin vào Thiên Chúa. Quả nhiên Thiên Chúa ban cho bà một người con để sống đời sống mới vui tươi trong Chúa. Người con này là Samuel, Thiên-Chúa-nhận-lời, sẽ chấm dứt thời cũ của Hêli vì các con thầy cả không còn giữ lề luật Chúa. Chính Samuel cũng khởi đầu thời kỳ mới cho lịch sử Israel khi ông tấn phong hai vị vua đầu tiên cho Dân Chúa (năm chẵn).

Xin ban ơn cho con biết sám hối và tin vào Tin Mừng.

 

Suy Niệm 3: Sám hối và tin vào Tin Mừng

Trong sưu tập về các thánh ẩn tu trong sa mạc, có kể giai thoại như sau: Có hai tội nhân quyết tâm vào sa mạc để ăn chay đền tội. Nguyên một năm ròng rã, mỗi người giam mình trong một túp lều riêng, ngày đêm ăn chay, cầu nguyện và đánh tội. Ngày ngày các tu sĩ của cộng đoàn nọ đem thức ăn đến tận căn lều riêng cho từng người. Sau đúng một năm thử thách, các tu sĩ nhận thấy có sự khác biệt giữa hai người: một người thì vui vẻ, khỏe mạnh; một người thì ốm o buồn phiền. Cả hai đến trình diện trước Bề Trên cộng đoàn để chờ xem họ có xứng đáng được gia nhập cộng đoàn hay không. Khi được hỏi suốt một năm qua, họ đã suy niệm về những gì.

Người ốm o buồn sầu cho biết:

– Trong năm qua, ngày ngày tôi nhớ lại những tội đã phạm, từng giây từng phút tôi nhớ đến những hình phạt sẽ gánh chịu, tôi sợ hãi đến mất ăn mất ngủ.

Ðến lượt mình, người vui vẻ khỏe mạnh trả lời:

– Suốt một năm qua, từng giây từng phút, tôi hằng cảm tạ Chúa vì đã tha thứ cho tôi: tôi luôn nghĩ tới tình yêu của Ngài.

Các tu sĩ trong cộng đoàn rất cảm kích trước tâm tình của người vui tươi khỏe mạnh vì lòng sám hối của anh đã biến thành lời ca cảm tạ tri ân tình yêu Chúa.

Sám hối là khởi đầu của sự nên thánh. Dĩ nhiên, không phải tất cả những vị thánh đều bắt buộc phải là những tội nhân, nhưng tất cả đều phải bắt đầu với ý thức về tội lỗi và sự yếu hèn của mình. Càng ý thức về con người tội lỗi, bất toàn của mình, con người càng cảm nhận được tình yêu của Chúa. Ðó là cảm nhận của vua Ðavít, của thánh Phêrô, của thánh Augustinô và của tất cả các vị đại thánh trong lịch sử Giáo Hội.

Lời đầu tiên Chúa Giêsu dùng để khai mạc sứ mệnh của Ngài chính là: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Chúa Giêsu đã nối kết sám hối với Tin Mừng. Tin Mừng là gì, nếu không phải là tình yêu Thiên Chúa được thể hiện qua con người Chúa Giêsu Kitô. Sám hối không chỉ là ý thức và hồi tưởng về tội lỗi của mình; sám hối đích thực không dừng lại ở buồn phiền, sợ hãi và thất vọng, mà là ngõ tất yếu dẫn đến Tin Mừng, nghĩa là vui mừng, hoan lạc.

Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mạc khải qua cuộc sống và nhất là qua cái chết của Ngài, là một người Cha muốn được con cái yêu mến hơn là sợ hãi. Ðạo mà Chúa Giêsu thiết lập không phải là đạo của buồn phiền, của khổ đau, nhưng là đạo của Tin Mừng, của tình yêu, của hân hoan và hy vọng. Ðành rằng Thập giá là biểu tượng của Kitô giáo, nhưng người Kitô hữu không dừng lại ở chết chóc, khổ đau, buồn phiền; trái lại họ luôn được mời gọi để nhìn thấy ánh sáng, hy vọng, tin yêu và sự sống bên kia Thập giá.

Ước gì Lời Chúa hôm nay ban sức sống để chúng ta không bị đè bẹp dưới sức nặng của tội lỗi, của yếu hèn. Xin cho chúng ta luôn tiến bước trong hân hoan và tin tưởng, vì biết rằng Thiên Chúa là Cha yêu thương, không ngừng nâng đỡ và tha thứ cho chúng ta.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Chúa Giêsu đi qua, Người gọi các ông.

Người đang đi dọc biển hồ Galilê, thì thấy ông Simon với người anh là ông An-rê, đang quăng lưới xuống biển, vì họ là người đánh cá. Người bảo họ: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người (Mc. 1, 16-18)

Phúc âm Maccô có một lối văn sống đọng và cụ thể, dùng đối thoại vắn gọn và sắc bén. Câu chuyện kể cũng có một tính cách giản dị. Hiếm có những bài nói và lời giải thich dài dòng. Trái lại, chỉ bằng một từ ngữ, một chi tiết nhỏ thôi, thánh Maccô tạo cho Phúc âm của ngài một sức diễn đạt phong phú mà lại cô đọng lạ thường.

Hôm nay Maccô tóm tắt cả Tin Mừng trong vài tiếng: “Nước Thiên Chúa đã đến gần… Anh em hãy sám hối”. Liền sau đó ngài đưa ra một thí dụ là câu chuyện Chúa gọi các môn đệ đầu tiên. Chúng ta dừng lại suy niệm ở trích đoạn này.

Người liền gọi các ông.

Chúng ta thường nhấn mạnh đến việc các môn đệ đã tỏ ra mau mắn đáp lời Chúa gọi. Thực ra không phải chỉ có sự mau mắn đáp lời, mà tiếng gọi cũng diễn ra mau lẹ: “Đi xa hơn một chút. Người thấy hai ông Gia-cô-bê và Gioan, Người liền gọi các ông”.

Việc Chúa Giêsu đi dọc theo Biển Hồ là dấu chỉ Nước Trời đang hiện diện. Thiên Chúa đi vào vũ trụ, đến với con người như thế, coi như Người đã gióng lên tiếng mời gọi tức thời và khẩn thiết vậy.

Các ông liền đi theo Người.

Người ta không phải chờ đợi sự đáp trả. Cả bốn ông Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan đều dấn thân vào một nghề mới. Và thánh Maccô ghi nhận một cách rất tế nhị việc dấn thân đi theo Chúa này có điều đáng giá. Phêrô và Anrê phải bỏ lại chài lưới, dụng cụ sinh sống của các ông, còn Giacôbê và Gioan phải giã biệt người cha, không những các ông phải từ bỏ một tay nghề sẵn có, mà còn tất cả những mối giây liên hệ và tình cảm thân thương nữa.

Dấn thân trở lại với Chúa không chỉ là hành động khác trước, là thực hiện một điều gì khác, mà cũng còn là hướng dẫn con tim và cuộc sống của ta về một bến bờ khác.

Còn chúng ta…

Mỗi ngày có biết bao hoạt động đòi ta phải có sức, có tài. Cùng với mọi người. chúng ta cùng đồng lao cộng tác. Chúa Giêsu đang đi qua, Nước Trời đang hiện diện ngay tại những ven bờ này, và tiếng Chúa gọi vẫn đang vang lên cho mỗi người đang cùng ta chung sức. Đến lượt chúng ta cũng phải xem lại những mối giây liên hệ của ta hầu nối kết với những ai Chúa Kitô đang quan tâm tới.

 

Suy Niệm 5: Dứt khoát

“Hãy theo Thầy” chính là lời mời gọi đầy yêu thương, trìu mến của Đức Giêsu dành cho các môn đệ. Nhưng sự đáp trả: “Xin theo Thầy” chính là thể hiện thái độ dứt khoát của các ông cũng không kém phần tin yêu với Đấng đã yêu thương mình trước.

Hôm nay, Kinh Thánh thuật lại việc Đức Giêsu đi dọc biển hồ Galilê, Ngài thấy các ông Simon và Anrê đang quăng lưới xuống biển, rồi đi xa hơn chút nữa, Ngài thấy Giacôbê và Gioan đang vá lưới trong thuyền, cùng một mẫu số chung, Ngài cất tiếng mời gọi các ông: “Hãy theo Tôi”. Ngay lập tức, các ông bỏ mọi sự để đi theo Ngài.

Sự dứt khoát của các ông cho thấy họ đã tìm được kho tàng, chân lý, lẽ sống đích thực là chính Chúa. Các ông cũng khám phá ra lý tưởng của cuộc đời. Vì thế, các ông đành mất hết và coi mọi sự là rơm rác so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô, Chúa của các ông. Từ đây, các ông được sống cùng và sống với Đấng là đường, là sự thật và là sự sống. Thật là hạnh phúc cho bốn môn đệ đầu tiên này!

Đến lượt chúng ta, mỗi người cũng được Chúa gọi rất nhiều lần trong cuộc đời! Ngài gọi chúng ta qua lương tâm, qua các dấu chỉ, qua những sự kiện, biến cố, qua những người này hay người kia…

Ngài mời gọi chúng ta thi hành bác ái, yêu thương người nghèo, từ bỏ con đường tội lỗi, hoán cải, sống công chính và trung thành với đức tin… Tuy nhiên, nhiều khi chúng ta đã không nhạy bén đủ, hay cũng có những lúc chúng ta không muốn đáp lại lời mời gọi đó và viện cớ đủ mọi lý do để khước từ.

Như vậy, chúng ta không lạ gì khi Lời Chúa hằng ngày vẫn đọc, nhưng Lời ấy không hề ăn nhập gì với cuộc sống của mỗi chúng ta! Và lẽ tất nhiên, chúng ta vẫn trơ trọi như cây không sinh trái mà thôi.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho tâm hồn chúng con khao khát Chúa, để chúng con nhạy bén nhận ra tiếng Chúa gọi và can đảm đi theo Chúa như các Tông đồ khi xưa. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Chúa Giêsu mời gọi môn đệ

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Được nghe loan báo Tin Mừng của Chúa và được gọi để phục vụ

Tin mừng: đó là hồng ân cao trọng Chúa ban một cách nhưng không. Vậy ta hãy hoán cải, quay về với Chúa, quảng đại đáp lại tiếng Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã không ngại khó khăn, vất vả, cất bước đến miền Ga-li-lê để loan báo

Tin mừng: “Nước Thiên Chúa đã gần đến”. Chúa tha thiết mời gọi con người thay đổi đời sống để được nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa. Hơn thế nữa, Chúa cũng đã cất bước đi tìm và gọi các môn đệ đầu tiên để các ngài được ở với Chúa, yêu Chúa và cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa.

Lạy Chúa, giữa cuộc sống đầy bon chen của chúng con hôm nay, có biết bao tiếng gọi mời của thế gian và lạc thú làm con xa Chúa. Chúa đã gởi đến chúng con một tin vui và một lời mời tha thiết: “Hãy theo Ta”. Chúa muốn con được về với Chúa. Xin đừng để con mải mê với cuộc sống ở đời đến nỗi không nhận ra tiếng Chúa. Nhưng xin cho con biết lắng nghe tiếng Chúa gọi từ trên cao, ngay khi còn đang làm những việc bình thường hằng ngày, ngay khi con đang là tội nhân. Lạy Chúa, con hiểu rằng theo Chúa là từ bỏ tất cả. Dù sống trong bậc giáo dân, con vẫn xin đặt Chúa trên cha mẹ, gia đình, bạn bè, nghề nghiệp, để được cùng Chúa đi khắp nơi, đến với những ai bị bỏ rơi, những người đau khổ, tội lỗi.

Lạy Chúa, xin cho con can đảm ra khỏi con người mình, để con được Chúa hoàn toàn chiếm đoạt, hầu con có thể trở thành khí cụ tình thương của Chúa cho mọi người, để con thành dấu chỉ Nước Trời đã đến. Amen.

Ghi nhớ: “Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng”.

 

Suy Niệm 7: Chúa Giêsu gọi và chọn 4 môn đệ – tông đồ đầu tiên

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Socrate gặp chàng trai trẻ Xenophon lần đầu. Thoạt tiên, ông hỏi chàng có biết ở đâu bán cái này, cái nọ, và ở đâu người ta chế ra vật này, vật kia. Xenophon chỉ cho Socrate những thông tin cần thiết. Rồi Socrate hỏi:

– Anh có biết người ta chế tạo điều lành và nhân đức ở đâu không?

– Không.

– Vậy anh hãy theo Ta.

Đó cũng là câu của Chúa Giêsu: Hãy theo Ta.

Suy niệm

Trên bước đường rao giảng Tin Mừng, Đức Kitô đã gọi và chọn môn đệ – tông đồ đầu tiên: Simon, cũng gọi là Phêrô, và Anrê, em ông, ông Giacôbê và người em là ông Gioan, Người bảo: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người”. Nghe được tiếng Chúa gọi, các ông đã bỏ lại mọi sự để lên đường bước đi theo Chúa. Tin Mừng ghi nhận lại thái độ của các ông: “Lập tức bỏ lưới, các ông theo Người”. Các ông bỏ chài lưới, bỏ thuyền, bỏ gia đình lại mà “bước theo”. Bước theo Đức Giêsu có nghĩa là dấn thân trọn vẹn vào một cuộc phiêu lưu, cuộc phiêu lưu mà Thầy đang đi.

“Các anh hãy theo Ta”, theo Người, “Ở với Người và để Người sai đi” (x. Mc 3,14). Lời mời gọi gắn bó với Đức Kitô là ánh sáng, là nguồn sống: “Sự sáng thế gian, chính là Ta! Ai theo Ta sẽ không phải đi trong tối tăm, nhưng nó sẽ có ánh sáng sự sống” (Ga 8,12), và lên đường chia sẻ thao thức của Ngài đem ánh sáng Tin Mừng cứu độ cho mọi tâm hồn, mọi dân tộc khắp cùng trái đất.

Chúa cũng đang thì thầm gọi tôi, gọi bạn, Ngài gọi đích danh tên mỗi người: “Hãy theo Ta”, theo Ngài trước tiên là gắn bó với Ngài, sống thân mật với Ngài như Ngài mời gọi: “Hãy lưu lại trong tình yêu của Thầy” (Ga 15,9). Có tình yêu, người môn đệ ra đi tiếp nối công trình của Ngài, mang Tin Mừng cứu độ cho anh em.

Ý lực sống: “Hãy theo Thầy”, các tông đồ đã bỏ mọi sự theo Chúa, con có dứt khoát một phen theo Chúa không? Chúa phải gọi con mấy lần rồi? (Đường Hy Vọng, 61)

 

Suy Niệm 8: Gọi bốn môn đệ đầu tiên

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Nghe tin Gioan bị bắt, Chúa Giêsu trở về Galilê và giảng cho mọi người biết: Nước Chúa đã gần đến. Hãy sám hối và tin theo Người… Và khi đi rao giảng dọc bờ biển, Người gặp ông Simon và anh là Anrê đang thả lưới. Người gọi hai ông theo Người để “lưới người ta”. Và Người cũng gặp ông Giacôbê và em là Gioan đang vá lưới. Người cũng gọi hai ông. Hai ông liền bỏ chài lưới và cha là Giêbêđê mà theo giúp Người.
  2. Sự việc Gioan bị tống giam trong ngục đã chấm dứt sứ vụ của ông dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Lời đầu tiên Chúa Giêsu dùng để khai mạc sứ mệnh của Ngài là: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Chúa Giêsu đã nối kết sám hối với Tin Mừng. Tin mừng là gì, nếu không phải là tình yêu Thiên Chúa được thể hiện qua con người của Chúa Giêsu Kitô.

Satan phàn nàn với Chúa: “Ngài không công bằng. Nhiều tội nhân làm điều sai trái và Ngài lại đón nhận họ. Thật ra, có người trở lại sáu bảy lần và Ngài vẫn nhận. Tôi chỉ phạm một lỗi lớn mà Ngài kết án tôi đời đời”. Chúa nói: “Đã bao giờ ngươi xin tha thứ hoặc ăn năn chưa”? (Góp nhặt)

  1. Sám hối gồm hai khía cạnh. Khía cạnh tiêu cực là nhìn về dĩ vãng, về quá khứ của cuộc đời mình để xem mình đang sống đúng hay sai, còn thiếu những gì cần bổ khuyết. Sám hối còn mang khía cạnh tích cực là hướng đến tương lai, quyết tâm thay đổi cuộc đời để sống tốt đẹp hơn. Muốn được như vậy thì người sám hối phải biết trở nên khiêm tốn, trở nên bé nhỏ và đặt tất cả niềm tin vào Người Cha Nhân ái là Thiên Chúa tình yêu.

Ngoài ra, sám hối không chỉ là ý thức và hồi tưởng về tội lỗi của mình; sám hối đích thực không dừng lại ở buồn phiền, sợ hãi và thất vọng, mà là cửa ngõ tất yếu dẫn đến Tin Mừng, nghĩa là vui mừng, hoan lạc…

  1. Chúa Giêsu nhìn sự việc Gioan bị bắt giam bằng cái nhìn siêu nhiên và Người coi đó là sứ vụ dọn đường của Gioan chấm dứt, nên Người khởi sự đi rao giảng Tin Mừng cứu độ, hòng mọi người sẽ được hưởng ơn cứu rỗi.

Để thực hiện chương trình đó, Chúa đã kêu gọi nhiều người đến cộng tác với Người trong công cuộc lớn lao này. Đúng như lời thánh Augustinô đã nói: “Khi dựng nên chúng con, Chúa không cần chúng con, nhưng để cứu rỗi chúng con, Chúa cần chúng con giúp Chúa”. Chúa đã gọi các tông đồ đầu tiên trong hoàn cảnh đời thường như làm nghề chài lưới và ít chữ nghĩa, nhưng Chúa chỉ cần người ta có thiện chí và nhiệt thành theo Chúa. Nên khi gọi bốn tông đồ đầu tiên, thì “Lập tức các ông đã bỏ chài lưới mà đi theo Người” (Mc 1,18).

  1. Chúa gọi các môn đệ trong những tình huống khác nhau. Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy ơn gọi xem ra thật bất ngờ. Marcô cho thấy họ đang sinh hoạt  bình thường (thả lưới), bỗng Chúa đến bất ngờ và gọi các ông, và điều làm cho ta ngạc nhiên là phản ứng của họ: Họ cũng theo Chúa một cách mau mắn, cũng là một bất ngờ không kém: “Họ liền bỏ chài lưới mà đi theo Người” (Mc 1,18). Nghe kêu là đi liền, làm như hai bên đã hẹn hò với nhau trước. Đối với loài người thì thật là bất ngờ, nhưng đối với Thiên Chúa thì không, và người ta gọi đó là Chúa quan phòng.

Cái bất ngờ thứ hai là Thiên Chúa thường chọn những con người mà người đời cho là không mấy hứa hẹn hay không còn hy vọng (Abraham già nua tuổi tác), không mấy khả năng (những môn đệ đầu tiên là những người chài lưới), không mấy tốt lành (Matthêu là ngươi thu thuế). Hình như Thiên Chúa không theo tiêu chuẩn của loài người: chọn những người có tài có đức, có triển vọng tương lai. Việc Chúa làm thật bất ngờ!

  1. Truyện: Chúa làm những việc không thể ngờ.

Trong dịp lễ nhậm chức của Đức Tổng Giám mục Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, người ta đọc được bài thơ này:

Khi Thiên Chúa cần một người cha cho dân của mình, Người chọn một cụ già. Thế là Abraham đứng lên.

Thiên Chúa cần một người phát ngôn, Người lại chọn một anh chàng vừa nhút nhát vừa có tật nói ngọng. Thế là Maisen đứng lên.

Thiên Chúa cần một thủ lãnh để hướng dẫn dân của mình, Người lại chọn một người thanh niên nhỏ nhất và yếu nhất trong nhà. Thế là Đavít đứng lên.

Thiên Chúa cần một tảng đá làm nền cho ngôi nhà Giáo hội, Người đã chọn một anh chối đạo. Thế là Phêrô đứng lên.

Thiên Chúa cần một khuôn mặt để diễn tả tình Người cho nhân thế, Người lại chọn một cô gái điếm. Đó là Maria Madalena.

Thiên Chúa cần một chứng nhân để hô vang sứ điệp của mình, Người lại chọn một kẻ bắt đạo. Đó là Phaolô gốc thành Tarsô.

Thiên Chúa cần một ai đó để dân Người được qui tụ và đi đến với những người khác,

Người đã chọn ngươi. Cho dù run sợ, lẽ nào ngươi không đứng lên đáp lại lời Người.

 

Suy Niệm 9: Chúa Giêsu rao giảng và mời gọi

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Phân tích (Hạt giống…)

Bài Phúc Âm này gồm 2 đoạn:

  1. Tóm lược nội dung lời rao giảng của Chúa Giêsu: Người nói: “Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến”; Ngài cho biết điều kiện để được vào Nước ấy là “Hãy sám hối và tin vào Phúc Âm”.
  2. Ơn gọi của những môn đệ đầu tiên. Qua đó ta biết được những điểm chính yếu của một ơn gọi:

– Chúa Giêsu “thấy” (động từ đầu tiên của cả 2 bài tường thuật): ơn gọi xuất phát từ sáng kiến của Chúa.

– “Hãy theo Ta”: được gọi tức là được mời đi theo Chúa Giêsu để ở với Ngài, học với Ngài, noi gương Ngài và chia sẻ sứ mạng của Ngài.

– “Lập tức”: mau mắn đáp trả lời Chúa gọi.

– “Hai ông bỏ (bài đầu “Bỏ chài lưới”; bài sau “bỏ cha và những người làm công”) mà đi theo Ngài”: theo ơn gọi thì phải từ bỏ, kể cả tất cả những gì thân thiết nhất.

  1. Suy gẫm (… nẩy mầm)
  2. Sám hối: Satan phàn nàn với Chúa: “Ngài không công bằng. Nhiều tội nhân làm điều sai trái và Ngài lại đón nhận họ. Thật ra, có người trở lại sáu bảy lần và Ngài vẫn nhận. Tôi chỉ phạm một lỗi lớn mà Ngài kết án tôi đời đời”. Chúa nói: “Đã bao giờ ngươi xin tha thứ hoặc ăn năn chưa?”. (Góp nhặt)
  3. Paddy đang hồi phục sau ca mổ, ba bạn thân ghé thăm để khích lệ anh. Ngoài chuyện thăm hỏi, họ kể cho anh về những ca mổ họ nghe biết.

Một người nói: “Tôi nghe có một ca mổ họ để quên cái gạc trong bụng bệnh nhân và phải mổ để lấy ra”.

Người khác kể về ca mổ bác sĩ để quên kéo bên trong và bệnh nhân phải mổ lần nữa để lấy ra. Vừa nói xong, bác sĩ thực hiện ca mổ cho Paddy thò đầu vào cửa gọi lớn: ”Có ai thấy mũ của tôi không?” Và Paddy ngất đi.

Một lần xưng thú không chân thành giống như một ca mổ tồi tệ. Một vài thứ bị để quên và phải thực hiện một ca mổ khác để lấy ra. (Góp nhặt)

  1. Người ta thường hiểu ơn gọi theo nghĩa hẹp là ơn gọi làm Lm, Tu sĩ. Nhưng thực ra mọi Kitô hữu cũng đều được Chúa gọi để làm Kitô hữu xứng đáng trong bậc sống của mình.
  2. Khi Chúa gọi ai, việc đầu tiên là Ngài bảo người đó từ bỏ. Ơn gọi đầu tiên trong Cựu Ước là như thế: Thiên Chúa nói với Abraham “Hãy đi khỏi xứ sở ngươi, khỏi nhà cha ngươi”… (x. St 12,1). Ơn gọi đầu tiên trong Tân Ước cũng như thế: 4 môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu “lập tức bỏ chài lưới (bỏ thuyền, bỏ cha mẹ lại) mà theo Ngài” (x. Mt 4,20.22). Tất cả những ơn gọi khác cũng phải như thế thôi.
  3. Hai người giáo dân đứng ngoài chợ nói chuyện với nhau:

– Anh nghĩ xem chúng ta có cần tiếp tay với Cha xứ để lo việc họ đạo không? Người thứ nhất hỏi.

– Tôi cũng thường nghĩ đến điều đó. Nhưng khi tôi thấy chung quanh cha chỉ có một nhóm nhỏ những người thân tín thì tôi không muốn gia nhập nhóm nhỏ ấy nữa.

Nãy giờ đứng bên cạnh đã nghe hết, anh chen vào:

– Đúng thế, chung quanh cha xứ chỉ có một nhóm nhỏ thôi. Nhưng các anh có biết tại sao không?

– Tại sao? Tại sao? Xin cho chúng tôi biết với.

– Hồi cha mới đến xứ đạo, cha đã kêu mời mọi người cộng tác. Nhưng sau đó chỉ có một ít người đáp lời thôi. Đó là những người biết nói “VÂNG”. (Góp nhặt)

 

Suy Niệm 10: Rao giảng-chọn gọi

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Bài Tin Mừng này gồm 2 đoạn:
  2. Đoạn một: Tóm lược nội dunglời rao giảng của Chúa Giêsu: Ngài nói “Nước Thiên Chúa đã đến gần” (Mc 1,15); Ngài cho biết điều kiện để được vào Nước ấy là “Hãy sám hốivà tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15).
  3. Đoạn 2: Ơn gọi của những môn đệ đầu tiên.
  4. Sứ điệp Chúa muốn rao giảng: “Nước Thiên Chúa đã đến gần” (Mc 1,15). Vâng, đó là sứ diệp của Chúa Giêsu. Nước Trời hay Nước Thiên Chúa mà Chúa Giêsu rao giảng không phải là cuộc cách mạng chính trị như phần lớn người Do Thái bấy giờ nghĩ đến, nhưng đó là sự ngự trị của Ngài trong đời sống của những ai tin nhận Ngài. Sứ điệp của Chúa nhằm kêu gọi mọi người ăn nănđặt niềm tinnơi Ngài, và bước đitheo Ngài.

Sứ điệp ấy ngày nay vẫn còn phải được tiếp tục rao truyền cho mỗi người chúng ta cho đến khi chúng ta để cho Ngài chiếm hữu trọn vẹn mọi khía cạnh của đời sống hầu chúng ta có thể thấy, có thể cảm nghiệm được Nước Trời ngay trên trần thế này.

Để cho Ngài chiếm hữu trọn vẹn mọi khía cạnh của đời sống điều đó không phải dễ.

Có hai người giáo dân đứng ngoài chợ nói chuyện với nhau:

– Anh nghĩ xem chúng ta có cần tiếp tay với cha xứ để lo việc họ đạo không? Người thứ nhất hỏi.

– Tôi cũng thường nghĩ đến điều đó. Nhưng khi tôi thấy chung quanh cha chỉ có một nhóm nhỏ những người thân tín thì tôi không muốn gia nhập nhóm nhỏ ấy nữa.

Một người thứ ba từ nãy đến giờ đứng bên cạnh đã nghe được câu chuyện giữa hai người, anh chen vào:

– Đúng thế, chung quanh cha xứ chỉ có một nhóm nhỏ thôi. Nhưng các anh có biết tại sao không?

– Tại sao? Tại sao? Xin cho chúng tôi biết với.

– Hồi cha mới đến xứ đạo, cha đã kêu mời mọi người cộng tác. Nhưng sau đó chỉ có một ít người đáp lời thôi. Đó là những người biết nói “VÂNG”. (Góp nhặt)

Để Ngài chiếm hữu trọn vẹn mọi khía cạnh của đời sống và làm cho chúng ta cảm nghiệm được Nước Trời đang hiện diện ngay trên trần thế này chúng ta cũng phải biết nói tiếng “Vâng” như Mẹ Maria.

  1. Chúa gọi các môn đệ đầu tiên. Chúa Giêsu gọi bốn môn đệ đầu tiên trong những tình huống khác nhau. Qua bài Tin Mừng hôm nay chúng ta thấy ơn gọi xem ra thật bất ngờ.

Marcô cho thấy họ đang sinh hoạt bình thường (thả lưới), bỗng Chúa đến bất ngờ và gọi các ông, và điều làm cho ta ngạc nhiên là phản ứng của họ: Họ cũng theo Chúa một cách mau mắn, cũng là một bất ngờ không kém: “Họ liền bỏ chài lưới mà đi theo Người” (Mc 1,18).

Nghe kêu là đi liền, làm như hai bên đã hẹn hò với nhau trước. Đối với loài người thì thật là bất ngờ, nhưng đối với Thiên Chúa thì không, và người ta gọi đó là việc Chúa quan phòng.

* Cái bất ngờ thứ hai là Thiên Chúa thường chọn những con người mà người đời cho là không mấy hứa hẹn hay không còn hy vọng gì (Abraham già nua tuổi tác), không mấy khả năng (những môn đệ đầu tiên hôm nay chỉ là những người chài lưới), không mấy tốt lành (Matthêô là người thu thuế). Hình như Thiên Chúa không theo tiêu chuẩn của loài người, chọn những người có tài có đức, có triển vọng tương lai.

Trong tập lễ nhậm chức của Đức Tổng Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn người ta đọc được bài thơ này.

Khi Thiên Chúa cần một người cha cho dân của mình,

Người đã chọn một cụ già.

Thế là Abraham đứng lên.

Thiên Chúa cần một người phát ngôn,

Người lại chọn một anh chàng vừa nhút nhát vừa có tật nói ngọng.

Thế là Môisen đứng lên.

Thiên Chúa cần một thủ lãnh để hướng dẫn dân của mình,

Người lại chọn một cậu thanh niên nhỏ nhất và yếu nhất trong nhà.

Thế là Đavid đứng lên.

Thiên Chúa cần một tảng đá làm nền cho ngôi nhà Giáo Hội

Người đã chọn một anh chối đạo.

Thế là Phêrô đứng lên.

Thiên Chúa cần một khuôn mặt để diễn tả tình Người cho nhân thế.

Người lại chọn một cô gái điếm.

Đó là Maria Mađalêna.

Thiên Chúa cần một chứng nhân để hô vang sứ điệp của mình.

Người lại chọn một kẻ bắt đạo.

Đó là Phaolô gốc thành Tarsô.

Thiên Chúa cần một ai đó để dân Người được quy tụ và đi đến với những người khác.

Người đã chọn ngươi. Cho dù run sợ, lẽ nào ngươi không đứng lên đáp lại lời Người.

Vâng, các môn đệ đầu tiên đã mau mắn đáp lại lời mời gọi của Chúa

lẽ nào chúng ta lại không đứng lên đáp lại lời Người.

Lạy Chúa,

chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon,

một người đánh cá ít học và đã lập gia đình, 

để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.

Chúa xây dựng Giáo Hội  trên một tảng đá mong manh,

để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.

Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa, 

Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon, bỏ mái nhà êm ấm để lên đường,

hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.

 

 

 

THỨ BA TUẦN 1 THƯỜNG NIÊN

 

LỜI CHÚA: Mc 1, 21-28

 (Ðến thành Capharnaum), ngày nghỉ lễ, Chúa Giêsu vào giảng dạy trong hội đường. Người ta kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền, chứ không như các luật sĩ.

Ðang lúc đó, trong hội đường có một người bị thần ô uế ám, nên thét lên rằng: “Hỡi Giêsu Nadarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai: là Ðấng Thánh của Thiên Chúa”. Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: “Hãy im đi, và ra khỏi người này!” Thần ô uế liền dằn vật người ấy, thét lên một tiếng lớn, rồi xuất khỏi người ấy.

Mọi người kinh ngạc hỏi nhau rằng: “Cái chi vậy? Ðây là một giáo lý mới ư? Người dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả các thần ô uế, và chúng vâng lệnh Người”.

Danh tiếng Người liền đồn ra khắp mọi nơi, và lan tràn khắp vùng lân cận xứ Galilêa.

 

Suy Niệm 1: Đấng thánh của Thiên Chúa

(Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)

Trong Tin Mừng theo thánh Máccô,

ta không thấy có những bài giảng dài như Tin Mừng Mátthêu hay Gioan.

Nhưng bù lại Máccô đã kể khá nhiều phép lạ của Đức Giêsu.

Khung cảnh của bài Tin Mừng hôm nay

là hội đường vùng Caphácnaum vào một ngày sabát.

Theo Máccô, Đức Giêsu đã bắt đầu sứ vụ từ đây.

Chúng ta cần xem Ngài đã sống ngày sabát như thế nào.

Trước hết Ngài đã vào hội đường và giảng dạy.

Thánh Máccô không kể lại nội dung của bài giảng,

chỉ cho biết là người ta sửng sốt khi nghe Ngài

vì cách giảng đầy uy quyền (c. 22) và lời giảng thì mới mẻ (c.27).

Phép lạ đầu tiên Đức Giêsu làm ở hội đường này là trừ quỷ.

Ở đây có một người đàn ông bị thần ô uế ám.

Trước sự hiện diện của Đức Giêsu, anh ta sợ hãi nên kêu lên:

“Ông Giêsu Nadarét, ông đến tiêu diệt chúng tôi ư?

Tôi biết ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (x. câu 24).

Sự hiện diện của Đấng Thánh cũng đủ làm cho thần ô uế phải khiếp sợ,

vì ô uế và thánh thiện không đội trời chung.

và Đấng thánh thiện có khả năng triệt phá thần ô uế.

Lời của Đức Giêsu bây giờ là lời trừ quỷ, lời quát mắng,

lời ra lệnh đầy uy quyền, lời khiến thần ô uế phải tuân theo.

“Câm đi, hãy xuất khỏi người này!”

Thần ô uế đã nhập vào và làm người ấy bị tha hóa,

bị mất tự do, bị chi phối và sai khiến như một nô lệ.

Lời Đức Giêsu là lời giải phóng để anh ấy được thật sự là mình,

được giải thoát khỏi tình trạng ô uế.

Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới bị ô nhiễm,

từ không khí, nước uống đến những sản phẩm nhiễm độc của con người.

Nhưng điều đáng sợ hơn cả là bầu khí ô nhiễm về tinh thần,

bầu khí ô uế của sex thấm vào mọi ngõ ngách của cuộc sống.

Xin Đức Giêsu trả lại cho ta sự trong sạch nơi cái nhìn,

sự trong trắng nơi trái tim và sự trong suốt nơi mọi cuộc gặp gỡ.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

giàu sang, danh vọng, khoái lạc

là những điều hấp dẫn chúng con.

Chúng trói buộc chúng con

và không cho chúng con tự do ngước lên cao

để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.

Xin giải phóng chúng con

khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,

nhờ cảm nghiệm được phần nào

sự phong phú của kho tàng trên trời.

Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi

bán tất cả những gì chúng con có,

để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.

Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng

trước những lời mời gọi của Chúa,

không bao giờ ngoảnh mặt

để tránh cái nhìn yêu thương

Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.

 

Suy Niệm 2: Uy quyền của Chúa Giêsu

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Thiên Chúa toàn năng uy quyền phép tắc. Đó là điều dễ hiểu và dễ tin nhận. “Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời. Một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú”(Tv 33, 6). Cho người trinh nữ sinh con. Cho người son sẻ như bà Anna được có người con xuất sắc là Samuel. Chúa có thể làm được mọi sự. Nhưng với Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người thì khác. Chúa Giêsu tuy là người nhưng gây ngạc nhiên vì Người rao giảng như Đấng có uy quyền.

Uy quyền trong lời nói. Người đưa ra một giáo lý mới mẻ. Người nói xác quyết. Vì Người biết rõ mọi sự. Vì Người từ trời xuống nên biết rõ những sự trên trời. Vì Người từ Chúa Cha mà ra nên chỉ có Người biết Đức Chúa Cha. Hơn nữa Đức Chúa Cha đã trao cho Người nhiệm vụ làm người lãnh đạo thập toàn, đưa muôn vàn con cái đến vinh quang. Thày cả Hêli cũng có uy quyền trong lời nói. Vì thầy nói lời của Thiên Chúa. Thầy truyền đạt sứ điệp của Thiên Chúa khiến bà Anna đang lo buồn được bình an. Tuy nhiên thầy không có uy quyền trong việc làm vì thầy không thể tự mình làm được những điều kỳ diệu.

Chúa Giêsu không chỉ uy quyền trong lời nói mà còn uy quyền trong việc làm. Không chỉ nói mà còn làm. Những việc làm chưa từng có trong thế giới loài người. Chữa bệnh đã khó nhưng còn thấy được. Phục sinh kẻ chết thì tuyệt nhiên ngoài khả năng của con người kể cả những danh y tài ba lỗi lạc nhất. Nhưng Người còn thống trị được ma quỉ. Đây là điều hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Chúa Giêsu có toàn quyền chế ngự được thiên nhiên, vũ trụ, con người và cả ma quỉ cũng phải vâng phục.

Tuy nhiên uy quyền Người chỉ đạt tới mức thập toàn sau khi đã trải qua đau khổ và nhất là trải qua cái chết. Đó chính là để cảm thông với nhân loại. Và nhất là để chiến thắng quyền lực cuối cùng của ma quỉ là cái chết. Từ đó mở ra nguồn ơn cứu độ cho con người. Mở cho con người con đường dẫn đến Thiên Chúa.

Vì thế uy quyền lớn lao nhất của Chúa Giêsu đó là uy quyền thương yêu. Vì thương yêu nên dám hi sinh mạng sống mình. Vì dám chết nên khuất phục được thần chết. Vì thế uy quyền của Chúa Giêsu chính là sự sống cho nhân loại.

Xin cho chúng ta biết đi theo người trên đường thương yêu. Hoàn toàn tin tưởng nơi tình yêu thương của Người. Theo Người trên con đường hi sinh. Đó chính là con đường sự sống.

 

Suy Niệm 3: Ðấng có uy quyền

Tin Mừng hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu giảng dạy tại hội đường và chữa lành một người bị quỷ ám.

Sau khi Gioan Tẩy Giả bị bắt giam, Chúa Giêsu trở về Galilê và giảng dạy trong Hội đường một cách công khai. Ngài giảng dạy với uy quyền của Thiên Chúa, chứ không như các Tiên tri trong Cựu Ước là những người được Thiên Chúa ủy thác cho; Ngài cũng không giảng dạy như các kinh sư Do thái là những người chỉ giải thích Kinh thánh và chất lên vai người dân gánh nặng của những luật lệ tỉ mỉ bên ngoài. Giáo huấn của Chúa Giêsu là một cuộc giải phóng, một việc loan Tin Mừng cứu rồi, cách riêng cho những người nghèo khổ, những người bị loại ra bên lề xã hội. Dân chúng nghe Chúa đều nhận thấy có sự khác biệt sâu xa giữa giáolý của Chúa và những lời giảng dạy của các kinh sư Do thái.

Kèm theo lời giảng dạy, Chúa Giêsu còn làm một phép lạ chữa một người bị quỷ ám. Phép lạ này chứng minh Ngài là Thiên Chúa, Ngài có toàn quyền trên quỷ dữ, Ngài đến để chấm dứt quyền thống trị của tà thần trên con người. “Ông ấy ra lệnh cho các thần ô uế và chúng phải vâng theo”. Phép lạ Chúa Giêsu thực hiện gây hứng thú và kinh ngạc nơi dân chúng; trái lại, những kẻ chống đối Chúa thì hạch sách Ngài: “Ông lấy quyền nào mà làm như vậy?” Họ không muốn công nhận những việc Chúa làm, họ mơ ước một Vị Cứu Tinh hùng mạnh giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma, trong khi đó Chúa Giêsu lại đến để giải phóng con người khỏi quyền lực của ma quỷ và tội lỗi.

Thánh Phêrô đã mời gọi các người đồng hương của ngài: “Thưa đồng bào Israel, xin hãy lắng nghe Chúa Giêsu Nazaret, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để chứng thực sứ mệnh của Ngài, Thiên Chúa đã cho Ngài làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ giữa anh em như chính anh em đã biết điều đó”.

Nguyện cho Lời Chúa hôm nay củng cố niềm xác tín rằng sứ mệnh cứu thế phát xuất từ nơi Chúa và vẫn tiếp tục trong Giáo Hội. Giáo Hội đã lãnh nhận kho tàng đức tin và quyền thánh hóa và giáo huấn từ nơi Chúa. Xin cho chúng ta luôn trung thành với Giáo Hội và sẵn sàng đón nhận giáo huấn của các chủ chăn mà Chúa đã đặt lên hướng dẫn Dân Chúa trên đường tiến về Nước Trời.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Trong đám cử tọa

Lập tức trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên rằng: “Ông Giêsu Nagiarét, chuyện chúng tôi có can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” Nhưng Đức Giêsu quát mắng nó: “Câm đi hãy xuất khỏi người này!” Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta (Mc. 1, 23-26).

Ngày nay đâu đâu người ta cũng nghe vang lên những lời quảng cáo rùm beng cao rao cho thông điệp của mình. Và quảng cáo nào thì cũng tìm cách nói hay nói tốt cho mình là muốn phục vụ hạnh phúc mọi người. Nghe rồi, có những cái thu phục được lòng tin tưởng của ta, có những cái lại khiến ta ngờ vực. Nhưng là tín hữu xét cho cùng, chúng ta có Lời Chúa trong Phúc âm làm kim chỉ nam, và ta coi đó là chuẩn mực để đo lường phải trái, thực hư. Ta nhìn nhận rằng Lời Chúa là chân lý và uy quyền. Thế nên mỗi ngày ta tụ họp nhau để siêng năng và chăm chú lắng nghe Lời Chúa. Nhưng…

Vấn đề ai là kẻ chân chính đích thực

Trong đám cử tọa, có một người đã biết rõ Chúa Giêsu là ai: “Tôi biết ông là ai rồi”. Anh ta biết rõ Chúa Giêsu là người có uy quyền và ảnh hưởng: “Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Nhưng cách anh tuyên xưng lại sai lạc; anh biết rõ Người, nhưng anh không phục tùng Người. Anh bài xích, anh đối đầu với Người: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi?”

Con người Giêsu này luôn đặt ra vấn đề ai là kẻ chân chính đích thực, và nhất là Người thường đặt ra cho chúng tôi mỗi khi chúng tôi tuyên xưng Thiên Chúa là đấng thánh, mỗi khi chúng tôi hát bài ca Thánh, Thánh, Thánh. Giờ đây chúng ta cũng đang là người trong đám cử tọa … Liệu Chúa sẽ bảo ta câm đi hay sẽ chấp nhận lời ta ca tụng Người?

Những đòi hỏi của sự thánh thiện

Khi Mô-sê được Thiên Chúa tỏ cho ông biết sự thánh thiện của Người, tác giả sách Xuất Hành ghi nhận như sau: “Mô-sê lấy khăn che mặt, vì ông không dám nhìn Chúa” (Xh. 3, 6). Còn tác giả Thánh vịnh khi đặt câu hỏi: “Lạy Chúa, ai sẽ được cư ngụ nơi nhà Chúa?”, liền trả lời rằng: “Chính là người sống thanh liêm và thực thi công chính, và trong lòng suy nghĩ điều ngay… Người không làm ác hại đồng liêu, cũng không làm nhục cho ai lân cận …” (Tv. 15).

Bởi thế ta không thể đến với Thiên Chúa thánh thiện, nếu như ta không tỏ lòng thần phục và kính sợ Người, hay những hành động của ta không được ngay thẳng.

Chúa Giêsu nghĩ gì về lời kinh ca ngợi của tôi?

Nếu Chúa Giêsu có bảo người bị quỷ ám ấy câm đi, thì không phải vì những lời anh ta nói có chi sai lạc, mà bởi vì những lời nói ấy không đi đôi với tâm tình của anh. Ta không thể mở miệng cao rao Thiên Chúa thánh thiện, mà lại là kẻ bài xích Người, hoặc ca bài Thánh Thánh Thánh mà lại chẳng thần phục suy tôn Người. Cũng không thể lấy câu hỏi này: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can chi đến ông?”, mà thay thế cho lời kinh Lạy Cha ta vẫn thường đọc: “Nguyện cho ý Cha thể hiện”.

 

Suy Niệm 5: Giá trị của Lời Chúa

Ngày nay, rất nhiều người ham mê đọc sách, nào là sách: kiếm hiệp, truyện tranh, tiểu thuyết, nấu ăn, xã giao… lại có những người thích đọc báo, hết báo này rồi lại đến báo khác, cũng có nhiều người mê xem phim ảnh, lướt web…

Họ thi nhau kể thao thao bất tuyệt những câu chuyện ly kỳ, hấp dẫn “rất new”; và “hot” mới đọc được đây đó.

Thế nhưng, Lời Chúa là lời Hằng Sống, lời Quyền Năng, lời Biến Đổi thì lại chẳng mấy người để ý tới… Hoặc có để ý thì cũng chẳng mấy chốc Lời Chúa đã đi vào dĩ vãng vì họ không yêu mến và giữ Lời Chúa trong lòng.

Phải chăng chúng ta cũng không khác gì những người đương thời với Đức Giêsu, họ thấy những việc Chúa làm, Lời Chúa nói có uy lực, quyền năng thì trầm trồ khen ngợi, nhưng khi bảo hãy thi hành những gì Chúa dạy thì họ viện đủ mọi lý chứng để khước từ.

Mong sao, mỗi người chúng ta hãy yêu mến Lời Chúa, năng đọc và suy niệm Lời Chúa, hầu đem ra thực hành trong cuộc sống. Có thế, chúng ta mới thực sự là người tin và đi theo Chúa, nếu không, chúng ta chẳng khác gì xác không hồn, hay tin và theo Chúa trong sổ Rửa Tội, còn trong thực tế thì không có chất Kitô gì cả!

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết được giá trị của Lời Chúa, nhất là biết đón nhận Lời Chúa như lương thực cho linh hồn, để chúng con có đủ sức chống trả trước cám dỗ của Ma Quỷ. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Uy quyền của Chúa Giêsu trên quỷ ma

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu đến tiêu diệt quyền lực của ma quỷ. Con người chỉ có thể thoát khỏi sự ràng buộc của nó khi biết chạy đến với Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, với cái nhìn của Chúa, chắc chắn Chúa thấy không phải chỉ có một số ít người bị ma quỷ chế ngự, nhưng là toàn thể loài người, mỗi người một cách, đang bị ma quỷ quấy phá hoặc chế ngự. Từ khi Chúa dựng nên loài người, chẳng bao giờ ma quỷ buông tha chúng con. Nhân loại càng văn minh, ma quỷ lại càng núp dưới những bộ mặt mới lạ hấp dẫn, con người lại càng dễ bị ma quỷ chế ngự. Ảnh hưởng của nó rộng và sâu.

Nhưng lạy Chúa, Chúa là Đấng Thánh và là Con Thiên Chúa. Chúa đã đến tiêu diệt quyền lực ma quỷ và thiết lập triều đại của Thiên Chúa. Quyền năng Chúa đã chiến thắng ma quỷ. Con tin vào Chúa và chạy đến kêu cầu xin Chúa thương cứu con.

Đã nhiều lần ma quỷ chế ngự xác hồn con, đã nhiều lần con quằn quại trong đau khổ vì tội lỗi, đã nhiều lần con muốn chỗi dậy và thoát khỏi sự ràng buộc của nó, nhưng lạy Chúa, con bất lực. Xin Chúa thương nâng đỡ và giải thoát con. Xin Chúa ban ơn thúc đẩy con chạy đến với bí tích Giao Hòa để con tìm lại được sự tự do của con cái Thiên Chúa. Mỗi lần con đến với Chúa trong bí tích Thánh Thể, xin Chúa ở lại với con và ban sức mạnh cho con, để nhờ Chúa, con chiến thắng ma quỷ và tội lỗi. Xin cho con biết tiếp tay với Chúa để đẩy lùi ảnh hưởng của ma quỷ ra khỏi thế giới hôm nay. Amen.

Ghi nhớ: “Ngài giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền”.

 

Suy Niệm 7: Chúa Giêsu giảng dạy với uy quyền đến từ Thiên Chúa

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Một vị Lm nổi tiếng và thánh thiện đã chia sẻ một sự việc mà chính ngài đã gặp và trực tiếp giải quyết: Một anh thanh niên khoảng 30 tuổi, anh hãnh diện mình là cháu một Đức cha, và tự hào bản thân có nhiều khả năng đặc biệt hơn người. Nhân dịp về Bến Tre, anh ra nghĩa trang thách thức ma quỷ nhập vào mình. Ngay từ đêm ấy anh trở thành một người lạ lùng, bị điên loạn, phá phách, gia đình phải đưa vào nhà thương tâm thần Biên Hoà chữa trị nhưng chữa mãi vẫn không hết. Gia đình đem anh về nhà, ban ngày anh uống thuốc an thần liều cao nên ngủ li bì, nhưng ban đêm dù uống thuốc thế nào anh vẫn tỉnh như sáo, phá phách mọi người…

Một hôm gia đình đưa anh lên gặp cha – vị Lm đang chia sẻ câu chuyện trên. Ngài đề nghị anh xưng tội rồi đặt tay cầu nguyện cho anh. Khi cha đặt tay trên đầu anh để cầu nguyện, anh la hét lớn đến nỗi nhiều người ở dưới đường không biết có chuyện khủng khiếp gì xảy ra. Ngay sau đó tâm trí anh được ổn định và sau nhiều lần đặt tay cầu nguyện ma quỷ không còn phá anh nữa… Điều này nhắc nhở ta đừng bao giờ thách thức quỷ ma. Đây chỉ là một sự việc trong các sự việc về quỷ ám và chữa lành những người bị quỷ ám của vị Lm khả kính… Ma quỷ luôn có mặt trong thế giới con người, cuộc chiến với ma quỷ, con người trong thân phận mỏng giòn không phải là địch thủ ngang tài đồng sức, nên thường thua cuộc nếu không có trợ giúp.

Suy niệm

“Đi vào trong hội đường, Chúa Giêsu giảng dạy”, sự hiện diện của Ngài trong hội đường đã khiến cho Satan – thần ô uế đang mai phục trong một anh em phải chường mặt ra và khiếp sợ thét lên: “Ông Giêsu Nagiarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc 1,23-24).

Thật thế, Đức Giêsu là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc 1,24) như chính miệng của quỷ ma tuyên xưng, “vì là Đấng Kitô, nghĩa là Đấng được xức dầu, được thánh hiến, và là Con Thiên Chúa” (Kinh Thánh Tân ước 1995:185). Người đã xuất hiện như một ngôn sứ “có uy quyền” (Mc 1,27) và chính uy quyền đó biểu lộ nơi sức mạnh trấn áp “thần ô uế”: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này” (Mc 1,23). Trước lời giảng dạy, và lời truyền cho Satan phải rút lui, “Người ta kinh ngạc về giáo lý của Người” (Mc 1,22). Ngài giảng dạy không như các ký lục, nhưng Ngài giảng dạy với uy quyền đến từ Thiên Chúa.

Ma quỷ và hoạt động của chúng vẫn luôn hiện hữu trong xã hội ngày nay, chúng tạo vật vô hình, mưu mô, có thật và vẫn còn hoạt động rất mạnh. Nó hành động một cách trực tiếp hoặc qua những sự cám dỗ con người. Riêng trong xã hội Việt Nam hôm nay chúng ta vẫn còn nghe nói và có khi thấy: bùa ngải, thư yểm, nhất là nơi những người buôn bán như ta từng nghe nói: “ngậm ngải tìm trầm” hay “bùa yêu” của một vài người thỉnh về, đó là những thế lực của sự dữ của bóng tối mà Satan làm chủ trói buộc con người.

Chúng ta xin Chúa đến giúp chúng ta khỏi những ách nô lệ của quyền lực bóng tối này như xưa Ngài đã trục xuất chúng ra khỏi người bị quỷ ám trong hội đường lúc Ngài giảng dạy. Theo sự chỉ dẫn của Chúa Giêsu: “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy họ sẽ trừ được quỷ” (Mc 16,17; x. Lc 9,1; 9,49; 10,17-20). Bản thân của chúng ta tin mạnh, nhưng đức tin được tuyên tín nơi con người hết sức khiêm tốn phục vụ mọi người và tăng cường sự kết hợp mật thiết với Đức Giêsu Kitô bằng đời sống cầu nguyện (x. Mc 9,29), và bằng cuộc sống chay tịnh (x. Mt 17,14-24).

Ý lực sống: “Xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần” (Ga 17,15).

 

Suy Niệm 8: Một ngày ở Capharnaum

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Đức Giêsu vào hội đường Capharnaum trong ngày hưu lễ để giảng dạy, người ta kinh ngạc về giáo huấn của Ngài. Giao huấn của Đức Kitô mới mẻ vì biểu lộ tình yêu thương vô vị lợi. Ngài dạy dỗ như Đấng có uy quyền vì lời Ngài có sức biến đổi, có sức tiêu diệt thần ô uế. Sự hiện diện của Đức Giêsu làm cho thần ô uế phải tru tréo lên. Mặc dù đối kháng với Thiên Chúa, nhưng ma quỉ cũng phải tuyên xưng Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa và Ngài đã chiến thắng chúng.
  2. “Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền chứ không như các luật sĩ”.

Khi giảng dạy, các rabbi Do thái phải dựa theo truyền thống của cha ông chứ không dám có ý kiến riêng; còn Chúa Giêsu thì lấy chính sứ điệp của mình ra giảng dạy, và Ngài dạy một cách xác tín trong tư cách là Đấng Messia.

Chúa Giêsu là bậc Thầy duy nhất hiểu rõ và làm chủ hoàn toàn sứ điệp của Ngài cũng như thấu suốt khả năng thu thập của người nghe những gì hữu ích cho họ trong hoàn cảnh thực tế. Tước vị Thầy đó đã được chính Chúa Giêsu xác nhận với các môn đệ trong bữa tiệc ly: “Các con gọi Ta là Thầy, là Chúa thì thật là đúng: kỳ thực Ta là thế” (Ga 13,13).

  1. Kèm theo lời giảng dạy, Chúa Giêsu còn làm một phép lạ chữa một người bị quỉ ám. Phép lạ này chứng minh Ngài là Thiên Chúa, Ngài có quyền trên quĩ dữ, Ngài đến để chấm dứt quyền thống trị của tà thần trên con người. Phép lạ Chúa Giêsu thực hiện gây hứng thú và kinh ngạc nơi dân chúng. Trái lại, những kẻ chống đối Chúa thì hạch sách Ngài: “Ông lấy quyền nào mà làm như vậy”? Họ không muốn công nhận những việc Chúa làm, họ mơ một Vị Cứu Tinh hùng mạnh giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma, trong khi đó Chúa Giêsu lại đến giải phóng con người khỏi quyền lực của ma quỉ và tội lỗi.

Nguyện cho Lời Chúa hôm nay củng cố niềm xác tín rằng sứ mệnh cứu thế phát xuất từ nơi Chúa và tiếp tục trong Giáo hội. Giáo hội đã lãnh nhận kho tàng đức tin và quyền thánh hóa và giáo huấn từ nơi Chúa. Xin cho chúng ta luôn trung thành với Giáo hội và sẵn sàng đón nhận giáo huấn của các chủ chăn mà Chúa đã đặt lên hướng dẫn Dân Chúa trên đường tiến về Nước Trời.

  1. Thần ô uế, hoặc ma quỉ, là những thiên thần sa ngã, chúng liên kết với Satan để chống lại Thiên Chúa và chương trình cứu độ của Ngài. Chúng cám dỗ con người phạm tội và gây ra biết bao đau khổ trong đời sống con người. Thế nhưng bất cứ khi nào chúng đối diện với Chúa Giêsu, chúng đều thảm bại. Chúa Giêsu dùng quyền năng của Thiên Chúa để giải thoát con người khỏi sự thống trị của ma quỉ.

Truyện: Chúa có quyền trên quỉ.

Một bé trai hỏi bố:

– Quỉ lớn hơn con không?

– Lớn hơn.

– Quỉ lớn hơn bố không?

– Lớn hơn.

– Quỉ lớn hơn Chúa Giêsu không?

– Không con ạ. Chúa Giêsu lớn hơn quỉ.

Chú bé thinh lặng, rồi mỉm cười:

– Vậy con không sợ quỉ (Góp nhặt).

  1. Truyện: Phụng sự cho ai?

Trong kho tàng truyền thuyết của Giáo hội, chúng ta cũng có thấy một câu truyện dụ ngôn về một anh chàng khổng lồ muốn đi tìm một người mạnh mẽ nhất để phục vụ.

Truyện kể rằng: có một người không lồ sống tại đất Canaan chán cuộc sống đơn điệu buồn tẻ, chàng muốn phiêu lưu và quyết tìm cho được một người nào mạnh nhất để phục vụ.

Thoạt đầu chàng nghĩ chẳng ai mạnh bằng tướng cướp, nên xin đi theo hộ vệ cho tướng cướp. Nhưng mỗi lần sắp đi cướp, viên tướng cướp này phải nhờ đến thầy phù thủy làm phép xuất quân, thế là chàng rời bỏ tướng cướp mà đi theo thầy phù thủy.

Một hôm, thầy phù thủy đang đi bỗng gặp một cây Thánh giá thì sợ hãi dừng lại không dám đi tiếp. Thế là chàng khổng lồ bỏ rơi thầy phù thủy đến đứng bên cạnh Thánh giá, để chờ chủ nhân đó đến mà xin đi theo. Chàng cứ đứng đó chờ mãi mà chẳng thấy chủ nhân cây Thánh giá.

Tình cờ anh nghe thấy có tiếng gọi thật nhẹ nhàng. Anh quay lại bắt gặp một cậu bé với đôi má phúng phính và mái tóc óng ánh. Cậu bé nhờ anh chàng này đưa cậu qua khúc sông gần đó. Nhận lời, nhắc cậu bé lên vai, người khổng lồ lội xuống dòng sông đang chảy siết. Nhưng kỳ lạ nước mỗi lúc một dâng cao và chảy mạnh. Cậu bé mỗi lúc một đè nặng trên vai, chống chọi với sông nước để cuối cùng đem cậu bé lên bờ bên kia. Người khổng lồ mới thốt lên:

– Này cậu bé, cậu nặng đến độ tôi tưởng chừng mang cả vũ trụ trên vai.

Cậu bé mỉm cười đáp:

– Ngươi mang Đấng còn hơn cả vũ trụ nữa. Bởi vì chính tôi đã tạo nên cả trời và đất.

Cậu bé còn cho biết thêm mình chính là chủ nhân của cây Thánh giá.

Thế là chàng khổng lồ kia xin phò tá Vị Chúa Tể trời đất. Chúa dạy rằng: muốn phụng sự Ta, ngươi cứ đứng ở khúc sông này, mỗi lần có ai muốn sang sông thì ngươi hãy cõng người ấy sang.

Chàng khồng lồ tuân theo. Từ đó trở đi, người ta gọi tên chàng là Christophe, nghĩa là người mang Chúa Kitô trên vai.

Chúng ta đã chọn Đức Kitô là thủ lãnh của đời ta, chúng ta hãy tin theo và phục vụ Ngài. Nếu chúng ta muốn phụng sự Đức Kitô, chúng ta hãy theo gương thánh Christophe, bởi vì trên đời này không còn ai xứng đáng hơn ngoài Đức Kitô để cho ta đi theo phụng sự.

 

Suy Niệm 9: Chúa Giêsu giảng dạy và trừ quỷ

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống…)

  1. Đoạn Phúc Âm này mở đầu cho một đơn vị văn chương trải dài từ câu 21 đến câu 34, được gọi là “Một ngày ở Caphácnaum”, trong đó Marcô liệt kê và mô tả những việc làm tiêu biểu của Chúa Giêsu trong một ngày. Việc thứ nhất là giảng dạy, việc thứ hai là trừ quỷ. Đáng chú ý là Chúa Giêsu làm cả hai việc một cách rất uy quyền.
  2. ”Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư”: Khi giảng dạy, các rabbi do thái phải dựa theo truyền thống cha ông chứ không dám có ý kiến riêng; còn Chúa Giêsu thì lấy chính sứ điệp của mình ra giảng dạy, và Ngài dạy một cách xác tín trong tư cách là Đấng Messia.
  3. Và cũng bằng uy quyền đặc biệt ấy, Chúa Giêsu làm một hành động phi thường, là buộc quỷ xuất khỏi một người bị nó ám.
  4. Phản ứng của dân chúng: “Mọi người sửng sốt và hỏi nhau thế nghĩa là gì”: Họ hỏi nhau về nét mới mẻ trong lời giảng của Ngài và về uy quyền đặc biệt của Ngài trên cả tà thần. Câu hỏi này cũng tương đương với câu hỏi “Ông là ai?”, là câu hỏi sẽ được lập đi lập lại mãi trong tác phẩm.

B- Suy gẫm (… nẩy mầm)

  1. Mở đầu hoạt động công khai của mình, việc đầu tiên Chúa Giêsu làm là nhằm thuyết phục người ta tin tưởng vào quyền năng của Ngài, quyền năng trong lời giảng dạy và trong hoạt động. Thái độ đầu tiên ta phải có đối với Chúa Giêsu cũng là phải tin tưởng vào quyền năng của Ngài.
  2. Nhưng tin tưởng không phải chỉ là tin suông mà còn phải dám phó thác vào Ngài, đừng như câu chuyện sau:

Một người vô thần rất mê leo núi. Ngày kia trượt chân té ngã lăn từ đỉnh núi xuống. Nhưng may thay ông bám được một cành cây nằm chơ vơ giữa đỉnh cao và vực thẳm. Giữa lúc chỉ còn biết chờ chết, một ý nghĩ chợt đến với ông: Tại sao không gọi Chúa đến cứu giúp. Thế là lấy hết sức lực, người vô thần la lớn: “Lạy Chúa”. Tuy nhiên bốn bề chỉ có thinh lặng và ông chỉ nghe được tiếng dội của lời kêu van. Một lần nữa, người vô thần lại kêu xin tha thiết hơn: “Lạy Chúa, nếu quả thật Chúa hiện hữu thì xin hãy cứu con. Con hứa sẽ tin Chúa và dạy cho những người khác cũng tin Chúa”. Sau một hồi thinh lặng, bỗng người vô thần nghe một tiếng vang dậy cả vực thẳm và núi cao: “Gặp hoạn nạn thì ai cũng cầu xin như thế”. “Không, lạy Chúa, nghìn lần không. Con không giống như những người khác. Chúa không thấy sao, con đã bắt đầu tin từ khi nghe tiếng Chúa phán. Nào bây giờ xin Chúa hãy cứu con đi, và con sẽ cao rao danh Chúa cho đến tận cùng trái đất”. Tiếng ấy trả lời: “Được lắm, Ta sẽ cứu ngươi. Vậy nếu ngươi tin thì hãy buông tay ra”. Người vô thần thất vọng thốt lên: “Buông tay ra ư, bộ Chúa tưởng tôi điên sao!” (Trích “Món quà giáng sinh”)

  1. Một bé trai hỏi bố:

– Quỷ lớn hơn con không?

– Lớn hơn.

– Quỷ lớn hơn bố không?

– Lớn hơn.

– Quỷ lớn hơn Chúa Giêsu không?

– Không con ạ. Chúa Giêsu lớn hơn Quỷ.

Chú bé thinh lặng, rồi mỉm cười: “Vậy con không sợ Quỷ”. (Góp nhặt)

  1. “Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: ‘Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có thẩm quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh”. (Mc 1,27)

Vào đại học, tôi cảm thấy mọi cái đều xa lạ. Tôi náo nức chờ buổi học đầu tiên. Ngay buổi đầu, với phương pháp giảng giải, thầy đã đưa tôi đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Tôi thấy thầy thật vĩ đại. Tôi nghĩ: Thầy quả là đường dẫn tôi vào đời. Còn Chúa, Đấng đã dựng nên cả tôi và mọi người xung quanh. Chúa cho tôi tự do, dạy tôi biết yêu thương, biết cho đi và hy sinh vì anh em. Sao tôi lại có thể dửng dưng trước tình yêu và quyền năng của Chúa?

Lạy Chúa, xin cho con biết ngạc nhiên trước những điều kỳ diệu Chúa đã và đang làm cho con cũng như hết mọi người mỗi ngày. (Epphata)

 

Suy Niệm 10: Uy quyền của Chúa Giêsu

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Vâng, Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai của Chúa bằng việc giảng dạy. Và Tin Mừng bảo, Chúa giảng dạy như một Đấng có uy quyền chứ không như các luật sĩ. Tại sao lại có sự khác biệt như thế?

Thưa vì khi giảng dạy, các Rabbit Do Thái phải dựa theo truyền thống cha ông chứ không dám có ý kiến riêng; còn Chúa Giêsu thì Ngài lấy chính sứ điệp của mình ra để giảng dạy. Lời của Ngài chính là cuộc sống. Ngài dạy những gì Ngài sống. Ngài dạy một cách xác tín vì Ngài đang sống như thế, chính vì vậy là Lời dạy của Ngài có hấp lực mạnh mẽ và đầy uy quyền.

Tôi tưởng cũng nên nhắc lại ở đây một câu chuyện có thật mà tôi rất thích. Mahatma Gandhi là một vị lãnh tụ chính trị chủ trương bất bạo động, do vậy ông được mọi người dân Ấn Độ tin cậy quí mến trong mọi việc lớn nhỏ. Một hôm, có một bà mẹ dắt một bé gái đến, khẩn nài Gandhi thuyết phục con bà chừa bỏ tật xấu ăn quá nhiều kẹo. Gandhi trầm ngâm hồi lâu rồi bảo:

– Thế này nhé, tôi xin hẹn ba tuần nữa bà đưa cháu bé trở lại đây, tôi sẽ nói chuyện với cháu.

Ba tuần sau, người mẹ đưa con trở lại. Lần này Gandhi gọi bé gái đến bên cạnh và ôn tồn giải thích cho em nghe về những tai hại của thói quen ăn quá nhiều chất ngọt như kẹo bánh. Em bé gật đầu hiểu ra và hứa sẽ chừa bỏ. Bà mẹ mừng rỡ, rối rít cám ơn Gandhi, nhưng bà cũng không quên thắc mắc:

– Thưa ngài sao ngài không bảo ngay cho cháu cũng những lời khuyên quí báu ấy cách đây ba tuần?

Gandhi khiêm tốn thú nhận:

– Cách đây 3 tuần, lúc  ấy chính tôi cũng còn đang mắc phải tật xấu ăn quá nhiều đồ ngọt.

Vâng! Muốn cho lời nói có uy, nghĩa là có sức thuyết phục, thì ta phải sống trước.

Người Rôma có câu châm ngôn: Không ai có thể cho cái mình không có. 

  1. Ngoài việc giảng dạy như một Đấng có uy quyền chúng ta còn thấy Chúa mang trong mình một sức mạnh lạ lùng. Dân chúng khi thấy uy quyền của Chúa như vậy đã phải kinh ngạc thốt lên: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh” (Mc 1,27).

Ngày xưa, ở Nam Mỹ có nhiều sắc tộc chưa được nghe Tin Lành cứu rỗi của Chúa Giêsu. Ông bà Whittington, đã tự nguyện đến Martha Grosso, xứ Brasil để truyền bá danh Chúa cho họ. Hai ông bà đã lập được nhiều cộng đoàn ở đây. Cuộc sống đã được cải thiện cách rõ rệt. Rồi khi nghe còn có một sắc tộc khác nữa chưa biết đến Chúa. Không những chưa biết Chúa mà trái lại họ còn tin theo phù phép, đồng bóng. Hai ông bà quyết định dọn nhà đi đến đó ở.

Ông bà tự túc xây lấy nhà ở của mình và vì cả sắc tộc đều theo đồng bóng nên rất ghét ông bà. Hai ông bà phải tự túc trồng trọt và săn bắn mới đủ mà ăn.

Rồi thình lình một hôm kia, người ta thấy ông lý trưởng và ông trưởng ban pháp sư của sắc tộc cùng với một số người kéo đến nhà của hai ông bà. Họ khẩn khoản:

– Xin ông bà nói cho chúng tôi biết về Chúa của ông bà. Chúng tôi muốn biết rõ để cả làng chúng tôi tôn thờ Ngài.

Ông Whittington lấy làm lạ, vì trước đây họ coi mình như kẻ thù muốn trừ diệt, không biết vì lý do gì mà hôm nay họ mau đổi thái độ như vậy. Ông liền trình bày tình yêu và ơn cứu rỗi bởi Chúa Giêsu cho họ nghe. Nghe xong, tất cả đều quì mọp xuống xin giáo sĩ cầu nguyện cho họ tin Chúa.

Trong mấy tuần lễ tiếp theo, họ hăng hái đốn cây dựng ngay một nhà thờ để làm nơi thờ phượng Chúa.

Một lần kia, ông Whittington hỏi người trước là trưởng ban pháp sư nay đã tin Chúa:

– Tại sao các ông thình lình kéo đến để xin tin Chúa vậy?

Ông chủ bọn đồng bóng trả lời:

– Thưa ông bà, từ đời tổ phụ chúng tôi đến bây giờ. Tất cả chúng tôi đều làm pháp sư, đồng bóng và tà thuật. Chúng tôi nghe ma quỉ cho biết ông bà đến đây trừ diệt chúng nó. Chúng nó tức giận lắm và sai chúng tôi làm ma thuật để giết ông bà. Mỗi lần ma quỉ sai chúng tôi đi như vậy thì không ai thoát chết. Buổi tối nào chúng cũng sai tà thần đến giết ông bà, nhưng lần nào chúng cũng trở về và nói rằng, không làm sao vào nhà được, có hàng rào bọc kín chung quanh vườn, chỉ đi loanh quanh mãi rồi đành trở về. Lúc đó chúng tôi biết rằng, thần của ông bà lớn hơn các quỉ của chúng tôi nên chúng tôi quyết định bỏ tà thuật mà tin theo Đấng Chí Cao.

Lạy Chúa là Chúa toàn năng, mọi sự đều qui phục uy quyền Chúa

và không ai có thể chống lại  ý Chúa.

Xin Chúa đừng chê chúng con là gia nghiệp Chúa,

xin dùng uy quyền của Chúa mà thánh hoá chúng con,

để đời đời chúng con ca ngợi danh Chúa. Amen.

 

 

 

THỨ TƯ TUẦN 1 THƯỜNG NIÊN

 

LỜI CHÚA: Mc 1, 29-39

Khi ấy Chúa Giêsu ra khỏi hội đường. Người cùng với Giacôbê và Gioan đến nhà Simon và Anrê. Lúc ấy bà nhạc gia của Simon cảm sốt nằm trên giường, lập tức người ta nói cho Người biết bệnh tình của bà. Tiến lại gần, Người cầm tay bà, và nâng đỡ dậy. Bà liền khỏi cảm sốt và đi tiếp đãi các Ngài. Chiều đến, lúc mặt trời đã lặn, người ta dẫn đến Người tất cả những bệnh nhân, tất cả những người bị quỷ ám; và cả thành tụ họp trước cửa nhà. Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều quỷ, và không cho chúng nói, vì chúng biết Người.

Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó. Simon và các bạn chạy đi tìm Người. Khi tìm được Người, các ông nói cùng Người rằng: “Mọi người đều đi tìm Thầy”. Nhưng Người đáp: “Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành lân cận, để Ta cũng rao giảng ở đó nữa”. Và Người đi rao giảng trong các hội đường, trong khắp xứ Galilêa và xua trừ ma quỷ.

 

Suy Niệm 1: Bà phục vụ các ngài

(Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)

Sau khi chữa người bị quỷ ám tại hội đường Caphácnaum,

Đức Giê su trở về một căn nhà của một gia đình quen biết,

gia đình của hai anh Simon và Anrê, những người mới bỏ nhà để theo ngài.

Không may bà mẹ vợ của Simon lại đang lên cơn sốt.

Đức Giêsu đã lại gần giường bà nằm, cầm lấy tay bà và nâng bà dậy.

Lập tức cơn sốt lui khỏi bà và bà phục vụ các ngài.

Đây là phép lạ chữa bệnh đầu tiên của Đức Giêsu

cho một phụ nữ, tại một ngôi nhà.

Sốt chẳng phải là một bệnh quá nặng và nguy hiểm,

nhưng cũng đủ để làm người bệnh không hoạt động được,

gây cản trở những sinh hoạt bình thường trong gia đình.

Đức Giêsu đến đem lại sự chữa lành, niềm vui và sức sống.

Khi người phụ nữ được khỏi bệnh, mọi sự như sống lại.

Bếp lại có lửa, bàn lại có thức ăn, và người ta ngồi quanh cười nói rôm rả.

Hạnh phúc gia đình có khi chỉ tùy thuộc vào những điều be bé.

Hạnh phúc bị sứt mẻ lắm khi chỉ vì những chuyện không đâu.

Hãy nhìn cách Đức Giêsu chữa bệnh cho người phụ nữ này.

Thật gần gũi và thân tình, ngài chẳng nói lời nào để đuổi cơn sốt.

Khi nắm tay người bệnh nặng, ngài chấp nhận nguy cơ bị nhiễm nhơ uế.

Nhưng Đức Giêsu chẳng hề bị nhiễm gì, trái lại ngài đem đến bình an.

Ngài đã nâng bà dậy (êgeiren), có nghĩa là ngài làm bà phục sinh.

Sau khi được phục sinh thì bà đi phục vụ các vị khách.

Phục vụ hiểu theo nghĩa đơn sơ nhất là đi chuẩn bị bữa ăn.

Các thiên thần cũng đã phục vụ Đức Giê su

sau khi ngài thắng các cơn cám dỗ (Mc 1, 13).

Tuy nhiên có thể hiểu phục vụ theo nghĩa rộng hơn nhiều.

Sau khi Đức Giêsu chết trên thập giá, chỉ còn các phụ nữ ở lại đến cùng.

“Họ đã đi theo ngài và phục vụ ngài từ hồi ngài còn ở Galilê

và họ đã cùng ngài lên Giêrusalem” (Mc 15, 40-41).

Như vậy không phải chỉ các ông môn đệ mới là người phục vụ (Mc 10, 43).

Các bà cũng đã trung tín phục vụ đến cùng,

phục vụ như Thầy Giêsu, Đấng đã đến để phục vụ” (Mc 10, 45).

Chúng ta cần nhìn nhận

vai trò quý báu của người vợ, người mẹ trong nhà,

và vai trò của người phụ nữ trong giáo xứ cũng như ngoài xã hội.

 

Cầu nguyện:

Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,

xin dạy con biết phục vụ âm thầm.

Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,

xin dạy con biết yêu thương tự hiến.

Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,

xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.

Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,

xin dạy con biết coi mọi người như anh em.

Lạy Chúa Ba Ngôi,

Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,

xin cho các kitô hữu chúng con

trở thành tình yêu

cho trái tim khô cằn của thế giới.

Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,

biết sống nhờ và sống cho tha nhân,

biết quảng đại cho đi

và khiêm nhường nhận lãnh.

Lạy Ba Ngôi chí thánh,

xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa

ở sâu thẳm lòng chúng con,

và trong lòng từng con người bé nhỏ.

 

Suy Niệm 2: Mầu nhiệm hiệp thông

Chúa Giês-su hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa. “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện”. Kết hợp trọn vẹn với Chúa Cha nên việc cầu nguyện là một việc vừa tự nhiên vừa là nhu cầu thiết yếu của Chúa Giê-su. Bắt đầu ngày mới bằng việc cầu nguyện, Người múc lấy sức mạnh và tìm những chỉ dẫn cho mọi hoạt động từ nơi Chúa Cha. Không chỉ hiệp thông trong tâm tình mà còn trong hành động. Nên Người đã xuống thế làm người theo chương trình của Thiên Chúa. Trong suốt cuộc đời Người không làm gì tự ý mình, nhưng hoàn toàn làm theo thánh ý Chúa Cha. Vâng lời Chúa Cha cho đến bằng lòng chịu chết trên cây thánh giá. Đó là cuộc hiệp thông trọn vẹn. Hoàn toàn từ bỏ bản thân. Để thánh ý Chúa Cha được thể hiện.

Người cũng hoàn toàn hiệp thông với nhân loại. Hiệp thông trọn vẹn với nhân loại nên Người trở nên đồng huyết nhục, trở thành anh em của mọi người. Người đã sống hoàn toàn như một con người. Sống cuộc sống vất vả của người thợ mộc. Lang thang đây đó, “không có nơi tựa đầu”. Chịu đói chịu khát. Trải qua biết bao thử thách và đau khổ. Chịu cám dỗ. Bị phản bội. Bị trao nộp. Chịu hành hình và chịu chết. Người luôn ở gần những người nghèo khổ bệnh tật để giúp đỡ họ. Hãy chiêm ngắm cảnh tượng Người cầm tay bà nhạc mẫu của Phêrô, ân cần nâng dậy và chữa khỏi bệnh tật. Hãy chiêm ngắm cảnh tượng lớp lớp trùng điệp người bệnh vây quanh Người. Tất cả trở nên một cơ thể đau khổ vì Người hoàn toàn hòa nhập với con người. Hiệp thông trọn vẹn với con người, Người trở thành người đại diện, người trung gian, trở thành vị Thượng Tế nhân từ và trung tín dâng tâm tình thờ phượng lên Đức Chúa Cha. Và lời cầu nguyện của Người được đẹp lòng Thiên Chúa. Hiệp thông trọn vẹn với con người nên Người đã dùng cái chết mà giải phóng con người khỏi nô lệ sợ hãi cái chết. Và vì đã trải qua thử thách đau khổ Người có thể cứu những ai bị thử thách (năm lẻ).

Sa-mu-en phần nào giống Chúa Giêsu. Kết hợp mật thiết với Thiên Chúa nên “không để cho một lời nào của Người ra vô hiệu”. Kết hợp mật thiết với toàn dân. Ông quên bản thân mà lo cho việc dân việc nước. Ông đã sống mầu nhiệm hiệp thông (năm chẵn).

Để hiệp thông phải từ bỏ chính mình. Chúa Giê-su đã từ bỏ chính mình. Hoàn toàn sống cho Thiên Chúa. Hoàn toàn hiến mình vì nhân loại. Từ mầu nhiệm hiệp thông phát sinh nguồn ân phúc bao la cho nhân loại. Xin cho chúng ta hiểu điều này. Biết sống mầu nhiệm hiệp thông. Để thế giới được chứa chan ân sủng của Chúa.

 

Suy Niệm 3: Ðộng lực của việc tông đồ

Tin Mừng rất nhiều lần nhắc đến Chúa Giêsu cầu nguyện với Cha Ngài, đó là những giây phút gặp gỡ thân tình với Chúa Cha mà Ngài không bao giờ bỏ. Về phương diện thiên tính, Chúa Giêsu là Chúa Con, đồng bản tính với Chúa Cha, cho nên Ngài luôn kết hiệp với Chúa Cha. Nhưng như một con người, Chúa Giêsu đã nêu bật thái độ sống của Ngài, đó là sống mối tương quan thân tình với Chúa Cha qua lời cầu nguyện.

Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô ghi nhận: “Sáng sớm, lúc trời còn tối, Chúa Giêsu đã chỗi dậy, đi đến một nơi vắng vẻ để cầu nguyện”. Mặc dù bận rộn với rất nhiều công việc trong ngày, Chúa Giêsu vẫn không quên cầu nguyện. Nhưng đây không phải là lần duy nhất, Tin Mừng còn cho thấy rất nhiều lần Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha, và chính Ngài đã dạy các Tông đồ cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha. Ngài lấy hình ảnh cây nho và cành nho để nói lên tầm quan trọng của cầu nguyện: “Thầy là cây nho, các con là cành nho; ai lưu lại trong Thầy và Thầy trong người ấy, thì người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, các con không thể làm được gì”.

Chúng ta hãy noi gương Chúa, dành thời giờ để tiếp xúc, đối thoại, chiêm ngưỡng Thiên Chúa, như Ngài đang hiện diện trước mặt chúng ta. Muốn đạt tới việc cầu nguyện như thế, chúng ta cần phải có đức tin mạnh mẽ và lòng yêu mến Thiên Chúa như người con đối với người cha. Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói: “Cầu nguyện là việc tiếp xúc với Thiên Chúa. Hãy bắt đầu và kết thúc mỗi ngày bằng cầu nguyện. Hãy đến với Chúa như đứa con đến với cha mình”.

Chúng ta hãy cảm tạ Chúa đã cho chúng ta có những giờ phút thuận lợi để bắt đầu một ngày sống tốt đẹp hơn. Xin cho chúng ta biết sống kết hiệp mật thiết với Chúa trong cầu nguyện, nhờ đó chúng ta có thể chu toàn thánh ý Chúa và phục vụ tha nhân một cách hữu hiệu hơn.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Một ngày chồng chất công việc

Chiều đến khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói vì chúng biết Người là ai (Mc. 1, 32-34)

Khi liệt kê tất cả những công việc Chúa Giêsu đã thực hiện trong hai ngày, thánh Maccô cho ta cảm tưởng là Chúa Giêsu không cà kê công việc, mà Người đã phải đầu tắt mặt tối, nào là giảng dạy ở hội đường, đi đến nhà ông bà nhạc của Phêrô, chiều đến lại dành thời giờ chữa nhiều kẻ bệnh tật. Ngày hôm sau Người thức dậy thật sớm, đi cầu nguyện ở một nơi thanh vắng, rồi lại lên đường đi rao giảng và phục vụ những người đau ốm tật nguyền.

Mô tả trên đây giúp chúng ta nhìn ra ba nét tính nơi con người Đức Giêsu.

Một con người hoạt động

Thánh Maccô cho ta thấy Chúa Giêsu mang hình ảnh khá giống với những con người nam nữ thời nay: họ bận bịu với trăm công nghìn việc, lúc nào cũng tất bật và đa đoan đủ chuyện.

Một con người biết dừng lại

Thế nhưng, dù phải đảm đang công kia việc nọ, vậy mà Chúa Giêsu vẫn có thời giờ dừng lại để làm những công chuyện quan trọng như đáp lại tình nghĩa bạn bè và cầu nguyện.

Khoảng thời giờ giữa hai lần giảng dạy cho dân chúng, Người dành cho việc đi thăm tình nghĩa và bao lâu kẻ tiếp đón còn cần đến Người thì Người không vội ra đi.

Chúa Giêsu cũng không cắt xén những thời giờ quý báu dành cho việc cầu nguyện của Người. Người thà cắt bớt giờ ngủ và có lẽ cả giờ nghỉ ngơi giải trí nữa: “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy…”.

Một con người thấy rõ việc phải làm

Đây là nét tính nổi bật nơi con người Đức Giêsu mà ta thường gặp thấy trong sách Phúc âm. Người biết rõ việc Người phải làm. Nếu đã tổ chức chuyến đi truyền giáo lần đầu tiên ở Galilê rồi thì Người lại trở về miền Samari. Nếu đã kết nạp xong mấy môn đệ, thì Người vẫn không quên “những con chiên lạc”. Người không nghỉ ngơi sau một vài thành công. Người biết rõ mình còn phải làm gì và lần lượt tới viếng thăm và giảng dạy ở các hội đường theo một lịch trình rõ rệt.

Còn một ngày của chúng ta thì sao?

Khi phác họa một ngày làm việc của ta, ngày ấy có sẽ đầy đủ công việc như ngày làm việc của Chúa Giêsu không? Ta có biết làm cho ngày đó đầy tràn hiệu quả tốt không? Ta có biết dừng chân để đáp lại tình nghĩa bạn bè, tình nghĩa với Chúa, tình nghĩa với bà con lân cận không? Và mặc dầu đã mệt mỏi rã rời và đã chu toàn bổn phận rồi, ta có dám nhìn trước ngày hôm sau để hoạch định công việc mà không ai sẽ làm thay cho ta?

 

Suy Niệm 5: Sống tinh thần liên đới

Chúng ta đã nghe đây đó lời của một bài hát, trong đó có đoạn: “Sống trong cuộc sống, cần có một tấm lòng”. Thật vậy, trong một xã hội ngày càng giàu có, tiện nghi sang trọng, nhiều ngôi nhà cao tầng mọc lên; điện, đường, trường, trạm được mọi người quan tâm… Tuy nhiên, về tinh thần liên đới, trách nhiệm, đạo đức… thì e rằng đang xuống cấp hơn bao giờ hết! Những chuyện vô lương tâm, tàn nhẫn, bất trung diễn ra nhan nhản đến mức báo động! Lại có những chuyện tưởng chừng chỉ trong tiểu thuyết, thì giờ đây nó lại xảy ra như cơm bữa trong đời sống hằng ngày…!

Hôm nay, bài Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu chữa bệnh cho mẹ vợ ông Simon. Mẹ vợ ông Simon được Đức Giêsu biết đến là nhờ vào sự liên đới của mọi người, họ kể cho Ngài nghe về bệnh tình của bà.

Phải chăng Đức Giêsu cần sự thông báo của người ta? hay Ngài buộc họ phải nói thì Ngài mới ra tay cứu giúp? Không! Tuy nhiên, cứ theo cảm tính tự nhiên, thì việc quan tâm này rất cần thiết vì nó thể hiện sự yêu thương, liên đới tới nhau.

Sứ điệp Lời Chúa hôn nay mời gọi mỗi chúng ta hãy sống tinh thần yêu thương, liên đới, để cho ý Chúa được thể hiện trong cuộc sống thường ngày của mình, và để cho mọi người nhận ra chúng ta là con cái của Chúa khi mỗi người sống bác ái, xây dựng tình huynh đệ trong cuộc sống thường ngày.

Lạy Chúa Giêsu, chắc chắn Chúa sẽ không vui khi chúng con sống mà chỉ biết mình. Nhưng Chúa sẽ vui biết bao khi chúng con sống liên đới với tha nhân, nhất là biết giúp đỡ những người khổ đau, nghèo đói.

Xin Chúa ban cho chúng con trái tim của Chúa để chúng con yêu với tình yêu không phân biệt. Amen.

Ngọc Biển

 

Suy Niệm 6: Tin tưởng đến với Chúa

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Mọi hoạt động của Chúa đều nhằm cứu độ con người khỏi sự dữ phần hồn cũng như phần xác. Ta hãy tin tưởng đến với Chúa là Đấng Cứu Độ.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa hôm nay gợi lên cho con thực trạng đau khổ của cuộc sống nhân loại. Khi xưa cũng như ngày nay, loài người phải mang lấy biết bao bệnh hoạn, tật nguyền. Đặc biệt con nghĩ đến những chứng bệnh nan y mới phát sinh, đang đe dọa tính mạng của nhiều người. Con nghĩ tới những nạn nhân chiến tranh, những kẻ tàn phế. Con nhớ tới những nạn nhân tâm thần càng ngày càng nhiều. Con nhớ tới những kẻ đang sống nô lệ cho ma quỷ, tội lỗi, sự ác và bất công. Con nhớ tới những đau khổ hồn xác của mọi người trên thế giới, của những người trong gia đình con và của chính con.

Lạy Chúa, những đau khổ ấy thật là khó hiểu và dễ làm con nổi loạn. Nhưng lạy Chúa, con tin Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Trái tim Chúa đã và vẫn mãi ôm ấp và chữa lành những đau khổ của chúng con. Hằng ngày con chạy đến với Chúa trong thánh lễ. Xin Chúa cứu chúng con khỏi mọi sự dữ. Lạy Chúa, ngày nay Chúa vẫn đang hiện diện giữa chúng con và đang biểu lộ quyền năng cứu độ chúng con. Chúa đã lại gần cầm tay bà mẹ vợ ông Simon và đỡ dậy. Con tin rằng trong các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, Chúa đang lại gần con, cầm tay và đỡ con lên. Chúa có đủ quyền năng và muôn vàn phương thế để phục hồi và tái tạo cuộc đời chúng con cả hồn lẫn xác. Xin Chúa ra tay thực hiện và xin Chúa dạy con biết góp phần xóa bớt những đau khổ của anh chị em, để họ được sống trong niềm vui và hạnh phúc. Amen.

Ghi nhớ: “Ngài chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau”.

 

Suy Niệm 7: Chúa Giêsu nhạc mẫu của Phêrô

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Bác sĩ Tissot là một bác sĩ rất nổi tiếng người Thuỵ Sĩ. Tissot theo đạo Tin Lành nhưng luôn tôn trọng nếp sống của người Công giáo.

Một hôm ông tới chữa bệnh cho phụ nữ ngoại quốc, bà đang sốt nặng và tỏ ra hoảng hốt cáu kỉnh. Là người Công giáo, bà đòi gặp một Lm trước rồi mới chịu để bác sĩ chích thuốc chữa bệnh. Sau khi được giải tội và xức dầu, bác sĩ Tissot thấy bệnh nhân bình tĩnh dịu dàng khác thường.

Sáng hôm sau, bác sĩ Tissot trở lại, thấy bà giảm sốt và bắt đầu bình phục. Bác sĩ Tissot thường nói chân thành như là một chứng nhân cho bí tích bệnh nhân: “Nhiều bệnh nhân Công giáo đã lành bệnh nhờ bí tích xức dầu”.

Trong Đức tin Công giáo, bí tích xức dầu trợ giúp người tín hữu trong cơn đau yếu, giúp họ không nao núng trước thử thách bệnh tật cả về thể xác lẫn tinh thần. Người được lãnh bí tích thánh này được giữ vững lòng trung thành với niềm tin. Bí tích xức dầu như là bàn tay của Thiên Chúa thể hiện tình thương của Ngài chăm sóc trên bệnh nhân. Hình ảnh bí tích xức dầu chăm sóc, chữa lành bệnh nhân đưa chúng ta đến hình ảnh Chúa Giêsu đặt tay trên bà nhạc mẫu của Phêrô, bà liền được bình phục.

Suy niệm

Đức Giêsu đã “cầm tay” nhạc mẫu của Phêrô đang cơn bệnh và làm cho bà trỗi dậy. Người cũng đưa tay ra chữa lành tất cả bệnh tật, đau khổ nơi chúng ta như Ngài đã làm cho những kẻ tin được đưa đến bên Ngài (x. Mc 1,29-39).

Trong sự đau khổ bệnh tật của con người, Chúa Giêsu luôn luôn mang trong chính thân thể Ngài những đau khổ của nhân loại qua mọi thời đại. Ngài chăm sóc và chữa lành họ qua các bí tích, chính Ngài đi vào trung tâm lịch sử cứu độ mang tất cả đau thương trong thân xác Ngài trên thập tự để mọi đau thương được chữa lành như Phêrô đã tuyên tín: “Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành” (1Pr 2,24).

Ngài vẫn ở với nhân loại và đưa cánh tay cứu chữa cho những người tin. Tác giả F. Deleclos suy niệm về hình ảnh bà nhạc mẫu của Phêrô được chữa lành trong tương quan với chúng ta trong thế giới hôm nay: “Là những kẻ tội lỗi, chúng ta được quy tụ bởi đức tin, làm nên cộng đoàn Hội Thánh tìm kiếm Đức Kitô và kêu cầu Người. Giống như bà mẹ vợ của ông Phêrô, chúng ta bị nằm liệt giường và lên cơn sốt, chẳng được vui hưởng cuộc sống đích thực” (F. Deleclos, Prends ét mang La Parole, Centurion – Duculot tr. 137-138). Ngài đến và mang niềm vui được chữa lành cho chúng ta và như nhạc mẫu của Phêrô, được chữa lành, đứng lên tiến bước với niềm vui phục vụ.

Chúng ta hãy để Chúa Giêsu đụng vào trái tim nhỏ bé của mình, dù nhỏ bé nhưng vương vấn tội lỗi, để chúng ta được thanh sạch như Lời Chúa trong sách ngôn sứ Êdêkien nói: “Ta sẽ rảy nước thanh sạch trên các ngươi và các ngươi sẽ được thanh sạch, các ngươi sẽ được sạch mọi ô uế và mọi tà thần. Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi” (Ed 36,25-26).

Tất cả những yếu đuối, lo âu, bệnh tật, khiếm khuyết tâm thể lý được chữa lành. Ước chi Ngài cũng vào nhà tâm hồn của tôi, nhà tâm hồn bạn và “nâng chúng ta dậy” để chúng ta không nằm bất toàn trong sự yếu đuối, mất sức lực trong sự dữ, trong cơn u mê tội lỗi… Nhưng nhờ Ngài, chúng ta “đứng lên” như Chúa Giêsu muốn những người chạy đến với Ngài trong cơn đau bệnh.

Ý lực sống: “Người chữa trị bao cõi lòng tan vỡ, những vết thương, băng bó cho lành” (Tv 147,3).

 

Suy Niệm 8: Làm việc và cầu nguyện

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Một ngày ở Capharnaum, Chúa Giêsu bận bịu với biết bao nhiêu công việc. Ngài giảng dạy trong hội đường, chữa mẹ vợ ông Simon khỏi cơn sốt nặng; chiều đến, Ngài lại chữa mọi  người bệnh tật được người ta mang tới. Được thúc đẩy vì tình yêu Cha và yêu con người, Chúa Giêsu tất bật với sứ vụ được trao phó. Ngài con dành thời giờ cầu nguyện vào ban sáng sớm trước khi bắt đầu một ngày mới. Ngài vẫn còn thao thức bồn chồn cho đến khi sứ vụ được hoàn tất.
  2. Nhìn lại một ngày làm việc của Chúa Giêsu, ta thấy Ngài rất bận rộn: giảng ở hội đường; giảng xong, chữa một người bị quỉ ám; rời hội đường, Ngài đi chữa bệnh cho nhạc mẫu của ông Simon Phêrô. Chiều đến chưa kịp nghỉ ngơi, người ta lại đem các bệnh nhân tới và Ngài lại cứu chữa họ. Sáng sớm hôm sau khi trời còn tối mịt, Ngài đã thức dậy sớm đi đến một nơi hoang vắng để cầu nguyện, và bắt đầu một ngày mới. Dù rất bận rộn, nhưng Chúa Giêsu vẫn dành thời giờ để cầu nguyện. Dù bị đám đông ồn ào bao vây suốt ngày, Chúa Giêsu cũng có cách  tìm nơi yên tĩnh để cầu nguyện.
  3. Chúa yêu thương, nâng đỡ và thông cảm với con người, nhất là những con người đang gặp đau khổ. Ngài đến thăm nhà, chữa bệnh cho người ta cũng là cách làm cho người ta được hạnh phúc vì vừa được chữa khỏi bệnh, vừa có dịp được giãi bầu tâm sự.

Người ta kể: Vị linh mục dừng lại ghé thăm một gia đình nghèo ở Kentucky. Vừa khi linh mục chào bà mẹ, bà ứa nước mắt kêu lên: “Ôi thưa cha, con vừa được biết  cha đến thăm hôm nay. Con tin cha có thể giúp con”. Bà dốc hết bầu tâm sự, bao lo âu, bao rắc rối. Thỉnh thoảng vị linh mục chen vào một vài lời khích lệ, nhưng ngài cảm thấy hoàn toàn bất lực trước nỗi khổ tâm của bà. Kể xong, bà ngưng một lát rồi kêu lên: “Ôi thưa cha, cha giúp con nhiều quá. Cha đã giải quyết cho con mọi vấn đề”. Vị linh mục bối rối, ngài chẳng giải quyết được vần đề nào cả. Rồi ngài bắt đầu hiểu ra: bà chỉ cần mong được thông cảm.

  1. Chúa Giêsu là thầy dạy của sự cầu nguyện.

Chúng ta không muốn định nghĩa sự cầu nguyện như các nhà tu đức học mà chỉ nói đơn sơ như thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã nói: “Con đã ở như một đứa trẻ không biết chữ: con cứ đơn sơ thật thà  than thở cùng Chúa những điều con ước muốn, bao giờ con cũng được Chúa hiểu thấu tình”.

Cầu nguyện có thể ví như tình yêu. Chúng ta không thể học yêu qua sách vở được. Phải có phần thực hành. Cầu nguyện ví như học bơi lội, muốn biết bơi thì phải nhảyxuống nước, không thể vừa khô ráo trên bờ lại biết bơi. Cầu nguyện cũng như học gia chánh, muốn thực tập làm các món ăn thì phải lăn vào bếp. Cầu nguyện cũng giống như việc chăm sóc mảnh vườn, muốn có hoa đẹp thì phải trồng, phải vun xới, phải có nắng, phải tưới nước và phải chăm làm cỏ. Cầu nguyện không phải là một đề tài để bàn luận, nhưng là một thực tại để sống. Chúa Kitô là thầy dạy chúng ta, và tất cả chúng ta đều là học trò trong “lớp cầu nguyện”. Muốn có một đời sống sung mãn trong Chúa Kitô, chúng ta phải cầu nguyện (Thanh Thủy, Con đường tình yêu, tr 197).

  1. Chiêm ngắm một ngày sống của Chúa, chúng ta được mời gọi sống như Ngài. Cuộc sống người Kitô hữu không thể chỉ có những khoảnh khắc dành cho Chúa trong Thánh lễ hay kinh nguyện, mà còn phải trải dài qua những sinh hoạt và gặp gỡ hằng ngày trong cuộc sống. Người Kitô hữu phải biết thống nhất đời sống bằng cách biến những giây phút hoạt động thành một cuộc gặp gỡ thân tình với Chúa.

Thường người ta quan niệm rằng làm việc và cầu nguyện là hai việc khác nhau, có khi đối chọi nhau. Thực ra, với lòng yêu mến, chúng ta có thể biến tất cả công việc làm của chúng ta thành kinh nguyện. Như thế, suốt ngày làm việc của chúng ta là một lời kinh nguyện dâng lên Chúa. Cần nhất ban sáng khi thức dậy, chúng ta đã dâng lên Chúa mọi công việc trong ngày, thì mọi việc trong một ngày có thể trở thành kinh nguyện liên miên.

  1. Truyện: Cầu nguyện và làm việc.

Một ông cụ già dẫn một thanh niên xuống thuyền của mình. Thuyền này có hai mái chèo đề chữ “cầu nguyện”, một chiếc khác có đề hai chữ “làm việc”.

Người thanh niên nói kháy cụ già:

– Ông cụ ơi, chèo thế này chậm lắm. Người đã làm việc thì không cần cầu nguyện nữa (có ý nói: chỉ cần chèo một chiếc chèo có chữ “làm việc” thôi).

Ông cụ không nói gì, chỉ buông chiếc chèo có hai chữ “cầu nguyện” ra thôi, rồi cứ chèo chèo một chiếc có hai chữ “làm việc” kia.

Ông cụ cứ cố sức chèo nhưng thuyền không đi được bước nào, chỉ quay tròn đi thôi.

Thấy thế người thanh niên kia mới hiểu rằng, ngoài chiếc chèo làm việc ra, còn cần phải có chiếc chèo cầu nguyện nữa, thuyền mới đi được.

 

Suy Niệm 9: Một ngày của Chúa Giêsu ở Capharnaum

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Phân tích (Hạt giống…)

Chuyện này cũng diễn ra trong khung cảnh một ngày ở Capharnaum và tiếp liền chuyện hôm qua. Sau khi làm một cuộc trừ tà ở Hội đường, Chúa Giêsu đi chữa bệnh cho nhạc mẫu của Simon. Chúa Giêsu không nói lời nào, chỉ làm một cử chỉ nhỏ là đến gần cầm tay bà nâng dậy. Việc khỏi bệnh xảy ra tức thì. Bà hết bệnh và lo tiếp đãi các ngài.

Người Do thái quen coi bệnh tật là do ma quỷ gây nên. Đặc biệt bệnh sốt là dấu chỉ Thiên Chúa trừng phạt tội bất trung (x. Lv 26,15-16 Đnl 28,22). Vì người ta coi bệnh này là do ma quỷ gây nên, do đó việc Chúa Giêsu cứu chữa bệnh này cũng là một việc trừ tà (Lc 4,39), cho thấy Chúa Giêsu là Đấng đến giải thoát con người khỏi xiềng xích của sự dữ và sự chết.

Kết thúc một ngày làm việc: “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Ngài đã dậy, đi ra một nơi hoàng vắng và cầu nguyện”.

  1. Suy niệm (…nẩy mầm)
  2. Nhìn lại một ngày làm việc của Chúa Giêsu, ta thấy Ngài rất bận: giảng ở Hội đường (câu 21); giảng xong, chữa một người bị quỷ ám (cc 23-28); rời hội đường, Ngài đi chữa bệnh cho nhạc mẫu của Simon Phêrô (cc 29-32); chiều đến chưa kịp nghỉ ngơi người ta lại đem các bệnh nhân tới và Ngài lại cứu chữa (cc 32-34); Sáng sớm hôm sau khi trời còn tối mịt, Ngài thức dậy sớm đi đến một nơi hoàng vắng để cầu nguyện (c 35), và bắt đầu một ngày mới cũng rất bận rộn. Dù rất bận rộn, nhưng Chúa Giêsu vẫn dành thời giờ đề cầu nguyện; dù bị đám đông ồn ào bao vây suốt ngày, Chúa Giêsu vẫn có cách tìm nơi yên tĩnh để cầu nguyện.
  3. Nhìn lại cuộc sống đã qua, một nhà hiền triết thú nhận: Lúc thiếu thời tôi là một kẻ hiếu động. Trong sự hăng hái của tuổi trẻ, tôi thường xin Chúa cho tôi sức mạnh biến đổi thế giới này nên tốt hơn. Khi được nửa đời người, tôi ý thức mình chưa làm gì được cả, chưa thay đổi được bất cứ người nào, tôi liền đổi lại lời cầu nguyện cho thiết thực hơn: Lạy Chúa, giờ đây con chỉ xin Chúa cho con khả năng thay đổi cuộc sống của những người con tiếp xúc hằng ngày thôi”. Nhưng rồi khi tuổi đời sắp hết, tôi thấy rằng mình quá cao vọng và ảo tưởng, tôi lại thay đổi lời cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, xin ban cho con ơn thay đổi chính đời sống của con”. Nếu từ tuổi thanh xuân tôi đã cầu nguyện như thế thì có lẻ tôi không phải hối tiếc vì đã sống một cuộc đời vô ích” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”)
  4. “Chúa Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ. Nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai” (Mc 1,34)

“Tại sao Con Thiên Chúa không muốn làm vua Do thái hở mẹ? Những điều kỳ diệu của Người khiến con kinh ngạc. Chỉ cần một hơi thở của Người đủ huỷ diệt sức mạnh của Rôma. Thế mà Người lại từ chối sự trợ giúp của các binh đoàn, khiến bao gian lao khó nhọc đã trở thành vô ích? Chúng ta lại phải rên siết dưới sự bảo hộ của Rôma và để vũ khí mà ta khổ công đúc rèn phải rỉ sét ư?”

Ben Hur đã thốt lên lời ấy trong thất vọng, chán chường. Anh cũng như những người do thái khác đã thất vọng về Con Thiên Chúa. Họ chờ đợi Đấng Messia như một người có thể đem lại cho họ phồn vinh và công lý trong trần thế. Họ chỉ muốn thấy vinh quang Thiên Chúa trừng phạt đế quốc Lamã.

Phải chăng vì thế mà Chúa Giêsu không cho quỷ nói Người là ai? Con đường cứu độ không dẫn Người đến ngai vàng và vương miện trần gian. Người đến để mặc khải tình yêu của Cha, và để mặc khải được trọn vẹn, Người đã chết thay cho mọi người, những kẻ đã dửng dưng để cho máu của Người đổ trên đầu mình.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, giờ đây công cuộc cứu chuộc của Người đã hoàn tất. Xin cho con luôn biết đón nhận con đường của Người, con đường đưa đến sự sống đời đời. (Epphata)

 

Suy Niệm 10: Một ngày làm việc và cầu nguyện của Chúa Giêsu

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Nhìn lại một ngày làm việc của Chúa Giêsu, ta thấy Ngài rất bận:giảngở Hội đường (câu 21); giảng xong, chữa một người bị quỷ ám (cc 23-28); rời hội đường, Ngài đi chữa bệnh cho nhạc mẫu của Simon Phêrô (cc 29-32); chiều đến chưa kịp nghỉ ngơi người ta lại đem các bệnh nhân tới và Ngài lại cứu chữa (cc 32-34); Sáng sớm hôm sau khi trời còn tối mịt, Ngài thức dậy sớm đi đến một nơi hoang vắng để cầu nguyện (c 35), rồi lại bắt đầu một ngày mới cũng hết sức bận rộn. Dù rất bận rộn, nhưng Chúa Giêsu vẫn dành thời giờ để cầu nguyện; dù bị đám đông ồn ào bao vây suốt ngày, Chúa Giêsu vẫn có cách  tìm nơi yên tĩnh để cầu nguyện. Tại sao Chúa làm thế? Thưa vì cầu nguyện là việc hết sức cần thiết.

Hôm ấy chàng sinh viên Ozanam, bước vào một nhà thờ cổ ở thủ đô Paris để tìm một chút thanh thản cho tâm hồn. Đứng ở cuối nhà thờ nhìn lên, anh thấy một bóng đen đang quì cầu nguyên nơi hàng ghế đầu.

Đến gần, Ozanam mới nhận ra đó chính là nhà bác học André Marie Ampère (1775-1836). Chàng sinh viên không ngừng theo dõi cử chỉ cầu nguyện của vị giáo sư vật lý và hóa học nói trên. Khi ông đứng dậy ra về, chàng liền đi theo cho tới phòng làm việc của ông. Thấy chàng thanh niên đứng trước cửa phòng dáng vẻ rụt rè, giáo sư Ampère  liền cất tiếng hỏi

– Này, người bạn trẻ, anh cần gì đó? Tôi có thể giúp anh giải bài toàn vật lý nào không?

Chàng sinh viên nhỏ nhẹ trả lời:

– Thưa giáo sư, con là một sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học lắm, xin giáo sư cho phép con được hỏi một chút về vấn đề đức tin mà thôi.

Giáo sư Ampère khiêm tốn đáp lại:

– Đức tin là môn yếu nhất của tôi. Nhưng nếu được giúp ích cho anh về điều gì, tôi sẽ lấy làm hân hạnh.

Chàng sinh viên lại hỏi:

– Thưa giáo sư, người ta có thể vừa là nhà bác học vĩ đại vừa là một tín hữu cầu nguyên bình thường được chăng?

Giáo sư Ampère ngỡ ngàng trước câu hỏi vừa nêu. Với cặp môi run rẩy đầy cảm xúc, ông trả lời:

–  Chúng ta chỉ vĩ đại khi cầu nguyện mà thôi!

  1. Tác giả cuốn “Đường Hy Vọng” viết: “Hoạt động không cầu nguyện là vô ích trước mặt Chúa” (ĐHV 118).

Có lẽ chúng ta sẽ không tìm ra được mẫu gương nào, về việc liên kết giữa cầu nguyện và hoạt động hoàn hảo hơn là mẫu gương Giêsu.

Thánh sử Marcô đã cho biết: “Chiều đến, lúc mặt trời lặn, người ta dẫn đến cho Người, tất cả những bệnh nhân, những người bị quỉ ám… Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều ma quỉ” (Mc 1,32-35). Chúa rất bận rộn. Chính Chúa đã quả quyết: “Cha Ta và Ta hằng làm việc luôn” (Ga.5,17). Thế nhưng, không bao giờ vì công việc mà Chúa Giêsu đã bỏ qua việc cầu nguyện.

“Từ sáng sớm tinh sương, Chúa Giêsu đã chỗi dậy, ra khỏi nhà, tìm đến nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó” (Mc 1,35).

Chúa Giêsu đã thực sự hoà nhập hai việc cầu nguyện và hoạt động trong đời sống của Ngài. Với hồn tông đồ đầy nhiệt huyết này, Chúa Giêsu đã hoàn thành sứ mệnh và hoạt động cho Nước Trời Chúa Cha trao phó cho Ngài.

Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã dành bao nhiêu thời giờ trong ngày cho việc cầu nguyện? Đời sống hạnh phúc thực sự của chúng ta ở đâu? Nhờ Lời Chúa, nhờ sự khát khao đời sống tâm linh, hay nhờ sự cuốn hút của tiền bạc và danh lợi?

Một linh mục kia muốn làm một cuộc thống kê về tình hình của xứ đạo, ngài hỏi gia đình kia một câu hỏi thường lệ:

– Các con có thường cầu nguyện chung cả gia đình không?

Ông gia trưởng trả lời:

– Thưa cha, chúng con không có thời giờ.

– Giả như con biết một đứa con sẽ bị bệnh nếu không cầu nguyện, gia đình con có cầu nguyện không?

– Ồ con đoán chúng con sẽ cầu nguyện.

– Giả sử con biết ngày nào đó khi gia đình lơ là việc cầu nguyện, một đứa con sẽ gặp tai nạn. Con có cùng cầu nguyện không?

– Tất nhiên chúng con sẽ cầu nguyện.

– Giả sử mỗi ngày con quên cầu nguyện, giáo luật phạt 5 đô la. Con có dám sao lãng việc cầu nguyện không?

– Chắc chúng con sẽ cầu nguyện. Nhưng cha hỏi như thế để làm gì?

– Vấn đề của con là không có thời giờ. Con có thể tìm được thời giờ. Con không nghĩ cầu nguyện chung gia đình là quan trọng như nộp phạt hay giữ sức khỏe cho con. Ơn Chúa ban qua lời cầu nguyện quan trọng hơn bất cứ những gì con có thể nghĩ tới.

Bao nhiêu tấm gương của biết bao nhiêu người vẫn còn đó. Bỏ đạo, bỏ Chúa! Người ta nại ra đủ mọi thứ lý do để lý giải cho những hành vi xuống dốc về đời sống tâm linh đạo đức của mình. Nào là bận công ăn việc làm, nào là không có giờ v.v và v.v. Thế nhưng, thử hỏi, kết cục cuộc đời rồi sẽ đi về đâu?

 

 

 

THỨ NĂM TUẦN 1 THƯỜNG NIÊN

 

LỜI CHÚA: Mc 1, 40-45

Khi ấy, có một người bệnh cùi đến van xin Chúa Giêsu và quỳ xuống thưa Người rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên sạch”.

Ðộng lòng thương, Chúa Giêsu giơ tay đặt trên người ấy và nói: “Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh”. Tức thì bệnh cùi biến mất và người ấy được sạch. Nhưng Người nghiêm nghị bảo anh đi ngay và dặn rằng: “Anh hãy ý tứ đừng nói gì cho ai biết, một hãy đi trình diện cùng trưởng tế và dâng của lễ theo luật Môsê, để minh chứng mình đã được khỏi bệnh”.

Nhưng đi khỏi, người ấy liền cao rao và loan truyền tin đó, nên Chúa Giêsu không thể công khai vào thành nào được. Người dừng lại ở ngoài thành, trong những nơi vắng vẻ, và người ta từ khắp nơi tuôn đến cùng Người.

 

Suy Niệm 1: Chạnh lòng thương

(Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)

Đây là quy chế người mắc bệnh phong theo sách Lêvi (13, 45-46).

Người ấy phải mặc quần áo rách, để tóc bù xù, che môi trên,

phải vừa đi vừa kêu lên: “Ô uế! ô uế!” để người ta biết mà tránh xa.

Người phong phải ở một mình, phải ở một chỗ bên ngoài trại…

Như thế từ xa xưa, người ta đã biết đến sự dễ lây lan của bệnh phong

và ảnh hưởng nguy hiểm trên thân xác do chứng bệnh này.

Để được chứng nhận là đã khỏi bệnh, người phong phải trình tư tế,

phải qua một quá trình phức tạp để thanh tẩy trong tám ngày,

và phải dâng những con vật bị sát tế để làm lễ xá tội (Lêvi 14).

Người phong trong bài Tin Mừng hôm nay đã không giữ Luật Môsê.

Anh dám lại gần Đức Giêsu, dám tin ngài có khả năng làm anh được sạch,

mặc dù theo truyền thống Kinh Thánh,

chỉ Thiên Chúa mới làm được chuyện đó.

Đức Giêsu vì thương anh, nên cũng đã làm điều không được phép.

Ngài dám đưa bàn tay ra và đụng đến anh,

đụng đến da thịt nhơ uế của anh, đến chính phận người hẩm hiu của anh,

dù chỉ một lời của ngài thôi cũng đủ làm anh khỏi bệnh.

Cái đụng của bàn tay Đức Giêsu đã không làm ngài bị ô uế.

Trái lại, nó đã đem lại sự thanh sạch cho anh bị phong.

Để làm phép lạ chữa bệnh rất lừng lẫy này, Đức Giêsu đã phải trả giá.

Người phong khi được khỏi, đã không tránh được chuyện rêu rao.

Vì thế người ta đổ xô nhau tới khiến ngài phải ở ngoài thành.

Khi người khỏi bệnh vào được thành thì Đức Giêsu lại phải ở hoang địa!

Thái độ chạnh lòng thương và đụng đến người phong của Đức Giêsu

đã gợi hứng cho nhiều tâm hồn noi gương bắt chước.

Tại nhiều trại phong ở Việt Nam, ta thấy bóng dáng của các nữ tu.

Họ ở trại phong Bến Sắn, Di Linh, Quy Hòa, Văn Môn…

Nhiều nữ tu đã hiến dâng tuổi trẻ của mình để phục vụ người phong,

đụng đến những vết thương tàn phế nơi thân xác họ.

Các chủng sinh Miền Bắc cũng đã quen tiếp xúc với người phong,

ở lại với họ, săn sóc và chia sẻ thân phận của họ.

Giáo hội Công Giáo sung sướng được phục vụ người phong ở khắp nơi,

và coi đây như một nét đặc trưng của khuôn mặt Giáo hội.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu thương mến,

xin ban cho chúng con

tỏa lan hương thơm của Chúa

đến mọi nơi chúng con đi.

Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con

bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.

Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con

để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.

Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,

để những người chúng con tiếp xúc

cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.

Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,

không phải bằng lời nói suông,

nhưng bằng cuộc sống chứng tá,

và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa. (Mẹ Têrêxa Calcutta)

 

Suy Niệm 2: Đức tin ban sự sống

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Theo quan niệm của người Do thái, bệnh tật là tội lỗi, ô uế. Và bệnh phong là nan y. Nên người bệnh phong bị coi như đã chết. Họ chết về thể lý. Vì bệnh là vô phương cứu chữa. Nhưng ghê gớm hơn, họ chết về phương diện xã hội. Vì bị loại trừ ra khỏi xã hội. Không được còn được sống với mọi người. Nhưng kinh khủng nhất là họ chết phần linh hồn vì phạm tội. Khi chữa anh, Chúa không chỉ chữa lành thân xác. Nhưng còn tha thứ tội lỗi. Trả lại cho anh sự sống thể lý khi chữa lành vết thương. Trả lại cho anh sự sống xã hội khi cho anh đi trình diện với thày tư tế. Trả lại cho anh sự sống linh hồn khi tha tội cho anh. Cho anh được đến trước tòa Chúa dâng của lễ. Tất cả là do lòng thương xót của Chúa. Nhưng cũng vì anh tin tưởng vào Chúa. Quả thật đức tin ban cho anh sự sống. Sự sống đời đời.

Vì thế thánh Phao-lô khuyên nhủ ta hãy giữ vững đức tin. Đừng để lòng ra chai đá như người Do thái trong sa mạc. Người Do thái cứng lòng nên đã không được vào Đất Hứa, đất chảy sữa và mật, đất sự sống. Thế hệ đó, kể cả Mô-sê đều chết trong sa mạc (năm lẻ).

Ta có đức tin nhưng phải là đức tin sống động thực sự. Đừng như những người con thày cả Hê-li là Pin-khát và Khóp-ni. Họ không có đức tin. Vì họ không kính sợ Chúa. Không nghe lời răn dậy của Chúa. Dám phạm những tội tầy đình ngay trước mặt Chúa trong lều Hội ngộ. Vậy mà khi đánh nhau với quân Phi-li-tinh, dám cả gan khiêng Hòm Bia ra chiến trận. Đó là mê tín chứ không phải đức tin. Nếu có đức tin họ đã không dám phạm tội trước Nhan Chúa. Và đúng ra họ phải sám hối trước khi lâm trận. Lâm trận rồi họ không còn thời giờ nữa. Vì thế họ đã bị chết. Đến cả Hòm Bia cũng bị quân Phi-li-tinh chiếm mất (năm chẵn).

Vì thế thánh Phao-lô khuyên nhủ chúng ta phải sám hối ngay khi còn kịp. Bao lâu còn là “ngày hôm nay” thì phải lắng nghe tiếng Chúa. Đừng để lòng ra chai đá. Hãy tin. Một đức tin sống động. Như người bệnh phong. Bệnh trầm trọng nhất là tội lỗi. Tội lỗi là thứ bệnh phong không thuốc nào chữa được. Chỉ có sức mạnh, quyền năng và Lòng Thương Xót của Chúa mới chữa ta khỏi. Vì thế ngay hôm nay hãy đến với Chúa. Hãy sám hối ngay. Kẻo không kịp.

 

Suy Niệm 3: Chữa người phong cùi

Raoul Folereau, vị đại ân nhân của những người phong cùi đã ghi lại một chuyến đi của ông như sau: Ðến một nơi cách thành phố 15 cây số, chúng tôi lần theo một lối đi được chỉ trước, và sau nửa giờ đi bộ chúng tôi lạc vào một thế giới của buồn thảm, đau khổ và thất vọng. Thật thế, tại một nơi mà không ai muốn đặt chân đến, có khoảng 60 người phong cùi đang sống bên nhau. Trước đây, người ta giam họ trong một trại cùi chẳng khác nào một trại tù, mọi người nhìn họ như những kẻ bị chúc dữ, hoặc tệ hơn nữa, như những con thú dữ. Không chịu nổi sự giam hãm và cách ly như thế, một số người cùi này đã trốn thoát và đến trú ẩn giữa khu rừng này. Tại đây, tình trạng của họ càng thêm tồi tệ hơn, xung quanh họ, trên đất đầy dẫy những vết tích của căn bệnh quái ác này.

Tôi đến bên một người lớn tuổi được xem như đại diện của họ và hỏi:

– Hôm nay là chiều Thứ Bảy, cửa quán ngoài phố xá đã đóng cửa rồi; thứ hai tôi sẽ trở lại và mang theo thức ăn thức uống; tôi cũng sẽ đưa một bác sĩ đến để chăm sóc cho bà con, chúng tôi sẽ cất nhà và sẽ ở lại đây với bà con khi cần, vậy bác hỏi bà con có thể chờ cho đến ngày Thứ Hai không?

Người đó đưa mắt nhìn tôi với vẻ nghi ngờ, vì đã từ lâu họ không còn tin điều đó nữa; đối với họ, xem ra không còn ai đáng tin trên đời này nữa. Rồi ông khẩn khoản nói:

– Ông không thể giúp cho chúng tôi ngay được sao? Chúng tôi vừa mới có một người anh em qua đời, chúng tôi phải dùng đôi tay cùi lở này để đào xới một cái mộ chôn người anh em.

Tôi nhìn đôi bàn tay không nguyên vẹn vì bệnh tật, nay phải mang thương tích vì người đồng loại. Những con người khốn khổ đó nếu không nhìn thấy, không thể tin được là có thật.

Căn bệnh phong cùi vẫn là căn bệnh ghê sợ nhất đối với hiện tại. Người phong cùi đau đớn trên thân xác đã đành, mà còn đau khổ gấp bội phần trong tâm hồn khi cảm thấy bị bỏ rơi.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã gặp gỡ và chữa lành cho người phong cùi. Không những chữa lành tấm thân bệnh hoạn, Ngài còn tái lập họ trong cộng đoàn nhân loại, khi bảo bệnh nhân đi trình diện với các tư tế, nghĩa là hội nhập họ trở lại cuộc sống. Sự tái hội nhập này luôn đòi hỏi sự cảm thông, lòng quảng đại và cởi mở đón nhận của người khác. Vi trùng Hansen đục khoét và hủy hoại thân xác con người, thì cũng có biết bao thứ vi trùng khác độc hại hơn đang ẩn núp trong tâm hồn con người, tên của chúng là dửng dưng, ích kỷ, thù hận. Chúng đang giết dần giết mòn con người mà con người không hay biết.

Xin Chúa tha thứ cho những mù quáng, dửng dưng và ích kỷ của chúng ta trước bao nhiêu cảnh khốn cùng của đồng loại. Xin Ngài ban cho chúng ta một trái tim biết cảm thông và đôi tay rộng mở để san sẻ.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Hãy coi chừng

Có người bị phong hủi đến gặp Người, anh ta quì xuống van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!” Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch (Mc. 1, 40-42)

Phúc âm thánh Maccô nhấn mạnh đến một điều khá ngạc nhiên: nhiều lần Maccô tường thuật việc Chúa răn bảo, và cả đến truyền lệnh cho người ta phải giữ kín, không được nói cho ai biết Người là ai, Người làm gì. Xem ra Chúa Giêsu rất dè dặt và khôn ngoan khi nói: “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả!”

Đừng có mới nới cũ

Khi dặn dò người phong hủi được chữa lành như vậy, tiên vàn Chúa có ý nhắc nhở anh hãy biết sống trung thành.

Chúa Giêsu không tin người ta một cách mù quáng, Người biết rõ bụng dạ mỗi người. Người biết rõ ta dễ dàng thả mồi bắt bóng. Người biết được một người mắc bệnh nan y lẽ nào lại không bùi tai khi nghe một ông lang vườn nói sẽ cho người ấy rất nhiều hy vọng chữa khỏi. Người biết chúng ta hay thay đổi: chỉ mới nghe nói, đây là phát minh cuối cùng, là đồ mới cáo “tuyệt cú mèo”, là ta đã vội đổ xô đến ngay. Hãy cầm thử một tờ báo mà coi, toàn là những tin tức và sự kiện, mà điều quan trọng là những tin tức và sự kiện ấy phải là sốt dẻo. Nhưng cái là nội dung tờ báo, cái mà xét cho cùng là đường giây mối rợ thông thường và căn bản cho cuộc sống, thì không ai ghi nhớ.

Thế nên, để đối lại với thái độ này của con người là hay thay đổi và chạy theo cái mới, Chúa Giêsu nhắc nhở ta hãy biết sống trung thành, biết giữ lấy sự liên tục: “Vì anh dã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Mô-sê đã truyền để làm chứng cho người ta biết”, có nghĩa là: “Anh đừng vội thay đổi tập tục tôn giáo! Anh hãy liên kết điều vừa xảy ra cho anh với điều anh vốn đã tin. Có một sự liên tục giữa Mô-sê với tôi.Và chúng ta có thể nghe đây như tiếng vang vọng: “Có sự liên tục giữa tập giáo lý đồng ấu với lối dạy giáo lý cho người lớn, có liên tục giữa cộng đoàn lớn với cộng đoàn nhỏ, có liên tục …”

Đào sâu hơn là trải rộng

Việc Chúa Giêsu nhắc nhở người cùi được chữa lành phải kín miệng, cũng làm cho ta ý thức đến một sự lầm lạc khác vốn rình rập ta: đó là tính hời hợt nông cạn. Hãy nhớ kỹ dụ ngôn người gieo giống: cây lúa mọc lên, nhưng chết khô vì thiếu đất ẩm. Hãy coi chừng khi ta hứng lên trở lại với Chúa mà chưa có thời gian thử thách. Đừng coi nước dầu bóng bên ngoài mà cho rằng gỗ tốt: vẻ bóng loáng ấy không nhất thiết đã bền.

 

Suy Niệm 5: Yêu thương để trở nên giống Chúa

Khi Đức Giêsu đến trần gian, sứ vụ của Ngài là đến với những người nghèo để chữa lành cho họ. Ngài luôn coi đây là điều căn cốt, bởi lẽ bệnh tật theo quan niệm của người Dothái nó gắn liền với tội và hệ lụy của nó là bị Thiên Chúa phạt.

Hơn nữa, bệnh phong cùi lại là thứ bệnh nan y, hay lây và bị người đương thời coi thường, khinh bỉ. Những ai mắc phải thứ bệnh khốn khổ này thì buộc phải sống cách ly khỏi dân chúng. Thường thì họ chọn nơi mồ mả để sinh hoạt. Họ bị cấm đi lại nơi công cộng, và nếu có đi đâu gần dân chúng thì buộc phải lắc chuông để báo cho mọi người biết mà tránh cho xa kẻo bị lây và nhiễm uế.

Tuy nhiên, anh này hôm nay thật may mắn vì đã gặp được Đấng đang tìm anh để chạnh lòng thương anh. Thật vậy, khi gặp người phong cùi này, Đức Giêsu đã không tránh xa, mà ngược lại, Ngài đã đến gần và chạm vào anh để anh được sạch. Không những thế, Ngài còn phục hồi nhân phẩm cho anh khi truyền cho anh đi báo với Tư Tế để được hòa nhập với cộng đồng.

Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta hãy noi gương người phong cùi, mạnh dạn đến với Chúa, hãy mở rộng tâm hồn cho Đấng đầy yêu thương đụng chạm tới mình, để Ngài chữa lành tâm hồn đui hủi của chúng ta là những thói hư tật xấu và tội lỗi, khô khan, nguội lạnh, thờ ơ với Chúa và vô cảm với anh chị em.

Hơn nữa, chúng ta hãy xin với Chúa cho đôi chân biết đi tới, đôi tay biết vươn xa, và nhất là trái tim biết rộng mở, để đón nhận những anh chị em đau khổ, bệnh tật cả về tinh thần lẫn thể xác, hầu xoa dịu những đau khổ mà anh chị em chúng ta đang phải gánh chịu. Chỉ có thế, chúng ta mới thực sự là môn đệ của Thầy Giêsu mà thôi.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa chữa lành những căn bệnh trong tâm hồn chúng con, để chúng con được trở nên trong sạch. Xin Chúa cho chúng con được hiểu rằng, hạnh phúc của người khác là niềm vui của mình và là vinh quang của Thiên Chúa. Amen.

Ngọc Biển

 

Suy Niệm 6: Chúa Giêsu sống khiêm tốn, âm thầm hy sinh

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu chữa lành những đau khổ của con người, nhưng Chúa truyền giữ bí mật về vai trò cứu thế của Chúa. Chúa chỉ muốn sống như người tôi tớ khiêm tốn, âm thầm hy sinh phục vụ để cứu độ.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, nếu ngày nay Chúa sống trong thân phận con người giữa chúng con, chắc hẳn người ta sẽ đưa Chúa lên báo chí, truyền hình, truyền thanh. Người ta sẽ quảng cáo Chúa khắp các ngả đường. Và Chúa lại phải vất vả trốn vào hoang địa, Chúa lại tiếp tục ra chỉ thị cấm tuyên truyền đồn thổi về một vị cứu tinh mới xuất hiện.

Lạy Chúa, Chúa thực sự là Đấng Cứu Tinh nhân loại, nhưng Chúa chẳng muốn phô trương tuyên truyền. Những lời đồn đãi vội vã thường nông cạn và làm cho người ta hiểu lầm về sứ mạng của Chúa. Chính con đôi lúc vì thiếu học hỏi và suy gẫm về Chúa, nên cũng hiểu Chúa một cách méo mó, mơ hồ. Xin Chúa giúp con biết khám phá Chúa mỗi ngày. Xin giúp con chuyên chăm học hỏi và suy gẫm Lời Chúa, để có được một niềm tin xác thực và chắc chắn. Xin đừng để con theo Chúa chỉ vì những ước mơ trần tục để rồi có lúc phải thất vọng vì ảo tưởng.

Lạy Chúa, Chúa chỉ muốn sống như người tôi tớ, âm thầm, khiêm tốn, hy sinh, phục vụ. Xin cho con biết nhìn vào cuộc đời quên mình và cái chết của Chúa trên thánh giá để nhận ra tình thương và ơn cứu độ của Chúa. Và xin Chúa cho mọi người chúng con biết đem Tin Mừng đến cho người khác, không phải sự tuyên truyền quảng cáo, nhưng bằng một cuộc đời hy sinh phục vụ trong khiêm tốn và âm thầm như Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Bệnh cùi biến mất và người ấy được sạch”.

 

Suy Niệm 7: Chúa Giêsu chữa lành người bị bệnh phong cùi

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Tôi còn nhớ hồi nhỏ, ở ngôi chợ nhỏ gần nhà tôi, thường có một ông bị bệnh phong cùi lê lết xin ăn mỗi sáng. Mỗi lần theo mẹ ra chợ, tôi lại thấy ông với cái lon sữa bò cũ, miệng kêu gào lòng thương xót của mọi người.

Chẳng bao giờ tôi dám lại gần mà chỉ đứng xa xa nhìn lại với lòng thương xót xen lẫn ghê tởm. Con người ông không chỉ dơ bẩn, mà còn toát lên một cái gì đó gớm ghiếc với những miếng vải dính đầy máu và mủ trên bàn tay, bàn chân đã cụt hết ngón. Một vài người đi chợ ngang qua, thả vội những đồng bạc cắc rồi đi như chạy. Có lẽ họ cũng như tôi, dù xót thương cho thân ông ăn mày, nhưng cũng không dám lại gần vì sợ lây bệnh (Theo Vũ Ðình Trọng).

Bệnh phong là một bệnh nhiễm mãn tính, trước đây người ta thường gọi miệt thị là bệnh cùi, bệnh hủi. Những bệnh nhân này thường bị người đời xa lánh vì họ có những vết thương lở loét, hình hài không được bình thường, có người mang bệnh miệng méo xệch, thoáng nhìn người ta có cảm giác khiếp đảm, bệnh nhân xấu hổ cố giấu mặt, cử chỉ che giấu ấy thật tội nghiệp. Có những bệnh nhân phong ngón tay rụng hết chỉ còn trơ bàn tay không ngón, đáng sợ. Nhiều dân tộc hay bộ lạc, coi bệnh phong cùi là một hình phạt và người mang bệnh bị hắt hủi, đuổi ra khỏi nhà và khỏi làng. Họ sống lang thang trong rừng sâu, hay tại những nơi hẻo lánh chết trong cô đơn…

Suy niệm

Bệnh phong, đối với con Do Thái chỉ có Thiên Chúa mới chữa được, bởi vì người mắc bệnh phong mà được lành cũng giống như gọi một người chết về lại với cuộc sống. Trong Kinh Thánh Thiên Chúa ban quyền chữa bệnh phong cho những người đến từ Ngài như Môisê (x. Ds 12,9-14; Xh 4,6-8) và ngôn sứ Êlisê (x. 2V 5,9-14). Vì thế anh cùi trong Tin Mừng Maccô 1,40-45, trông cậy vào Đấng Mêssia – Đấng nhân danh Chúa đến chữa lành bệnh tật, giải thoát giam cầm như ngôn sứ Isaia đã loan báo (x. Is 61,1). Anh tìm đến Chúa Giêsu và thưa với tất cả lòng xác tín: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên sạch”. “Chạnh lòng thương Chúa Giêsu giơ tay đặt trên người ấy và nói: “Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh”. Tức thì bệnh cùi biến mất và người ấy được sạch”. Tin Mừng nhiều lần dùng từ “chạnh lòng thương” để nói tấm lòng của Ngài với người đau khổ, bệnh tật…(x. Mt 9,36; 14,14; 15,32; Mc 1,41; Lc 7,13).

Trong khi mọi người tránh xa anh theo Luật, thì Chúa Giêsu lại tiến gần chữa lành cho anh. Ngài chữa người bị bệnh phong cùi không bằng cách như ngôn sứ Êlisê đã làm đối với Naaman, viên quan của Syria, vị ngôn sứ đã truyền cho ông đến tắm gội dòng sông Giodan (x. 2V 5,1-19). Ngài chữa lành với tấm lòng cảm thương, với một lời xác quyết quyền uy của Đấng chiến thắng trên bệnh tật, sự chết và một cử chỉ cầm tay mang ý nghĩa chia sẻ đầy tình liên đới.

Ngày hôm nay trong cuộc sống có các thứ bệnh cùi của tinh thần, của tâm hồn con người: thái độ sống bất công, gian ác, điêu ngoa, dối trá… Chính những hình thức cùi này làm con người vong thân, biến dạng tâm hồn. Không chỉ cuộc sống tinh thần của cá nhân mà cả một xã hội cùi đang được hình thành, bởi những vi rút cùi gian trá điêu ngoa, thiếu thành thật đang hoành hành trong xã hội.

Ý thức được tình trạng cùi hủi của mình do bởi tội lỗi, chúng ta tin tưởng vào Đấng chữa lành là Giêsu như thánh Paschase Radbert đã suy niệm hình ảnh người phong cùi được Ngài chữa lành: “Thiên Chúa chữa lành mỗi ngày tâm hồn của người kêu cầu đến Ngài, tôn thờ Ngài với tâm hồn thánh thiện và tuyên xưng niềm tin dù mang thân phận lầm lỗi: “Lạy Chúa, nếu Ngài muốn, xin cho con được sạch”.

Ý lực sống: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con,

mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm.

Xin rửa con sạch hết lỗi lầm

tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy”. (Tv 50,3-4).

 

Suy Niệm 8: Chúa chữa người phong hủi

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Phong hủi đối với những người Do thái là chứng bệnh ghê tởm, nhơ uế, bệnh nhân phải tuyệt thông với mọi người. Ai tiếp xúc với họ cũng bị coi là uế. Vì thế, người phong hủi thường phải ở những nơi cách biệt: đi đến đâu họ phải la lớn để mọi người biết mà tránh xa. Thân phận người phong hủi thật đáng buồn tủi! Bài Tin mừng hôm nay cho biết, người phong hủi dám đến xin Đức Giêsu chữa lành. Điều đó chứng tỏ  bệnh nhân có một niềm xác tín vào Chúa Giêsu. Chúa Giêsu vừa quyền phép lại vừa rất thương yêu. Đến với Ngài, chắc chắn sẽ không phải thất vọng.
  2. Ông M. Carré nói: “Sống trong một thế giới đầy đau khổ trước mắt, thì chúng ta phải là những nhà chuyên môn của niềm tin cậy trông”. Vâng, trong lúc đau đớn tột cùng nơi thân xác vì bị trùng Hansen gặm  nhấm  rúc rỉa; trong lúc tâm hồn tan nát vì bị mọi người kinh tởm xa cách, chính trong lúc đau khổ ngút ngàn ấy người phung hủi lại hoàn toàn tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa và trọn vẹn phó thác cho tình yêu của Ngài.

Thấy anh có lòng tin, Chúa Giêsu chạnh lòng thương, giơ tay đặt trên người ấy và nói: “Ta muốn anh khỏi bệnh”. Chạm đến người phung  là phạm luật, khiến người ta khó chịu. Ngài muốn thay đổi những lệch lạc trong luật. Qua việc đặt tay của Chúa, con người được tiếp xúc thần tính của Ngài, nhờ đó được nhận lãnh ân sủng là sức sống của Ngài. Chính vì thế mà bệnh phung biến mất và anh ta được sạch.

  1. Chúa Giêsu không chỉ chữa bệnh cho người bị phong cùi, mà còn đưa tay đụng đến anh, chứng tỏ Ngài không ghê tởm anh. Ngài còn dạy anh đi trình diện với tư tế để được công nhận hết bệnh và nhờ đó được nhập vào xã hội. Như thế, người phong cùi này vừa được chữa bệnh, vừa được phục hồi nhân phẩm. Nói cách khác, Chúa Giêsu vừa chữa anh khỏi bệnh tật phần xác vừa chữa anh khỏi bệnh tật tâm hồn. Chúng  ta tự hỏi mình: sự quan tâm của ta  với những người nghèo khổ có được toàn diện như thế chưa?
  2. Hãy tỏ lòng yêu thương những người bệnh tật xấu số.

Đọc những vần thơ của thi sĩ Hàn Mặc Tử, người thi sĩ thời danh mắc bệnh cùi cách đây không lâu lắm ở trại cùi Qui Hòa (Bình định), biểu lộ những rung cảm trong cảnh sầu khổ, ta mới hiểu được nỗi đau khổ trong cảnh cô đơn thất vọng của người bị bệnh cùi như thế nào.

Đọc truyện cha Damien, vị tông đồ người hủi, ta mới thấy xúc động và cảm phục. Khi Đức Giám mục ở Hawai giới thiệu cha Damien với dân cùi ở đảo Molokai là cha tình nguyện đến phục vụ họ. Cha Damien rởn tóc gáy khi nhìn thấy họ đến sờ vào thân mình cha. Đức Cha giải thích cho cha Damien là họ không thể hiểu nổi một người ở phương xa, không bà con huyết thống gì với họ, lại còn trẻ, đẹp trai, lại có thể đến phục vụ họ trên mảnh đất cùng khốn này. Họ không tin mắt nhìn của họ nên mới đến sờ thử vào con người của cha, xem có thực sự mắc bệnh cùi không. Rồi họ nói với nhau: “Không”. Dần dần cha Damien hòa đồng được với họ, và không còn cảm thấy như ngày đầu. Một ngày kia đến lượt cha cũng mắc bệnh cùi.

  1. Còn bệnh phong hủi thiêng liêng nữa.

Điều đáng nói là chúng ta phải nhìn đến thứ bệnh cùi thiêng liêng như là một thực tế của mọi thời đại. Các nhà tu đức học và dẫn đàng thiêng liêng thường coi tội lỗi là một thứ bệnh cùi thiêng liêng. Nếu bệnh cùi thể xác khiến người ta bị cô lập hóa về phương diện thể lý, nghĩa là phải sống tách biệt khỏi gia đình và xã hội, thì bệnh cùi thiêng liêng là tội lỗi cũng khiến người ta bị cô lập hóa về đời sống thiêng liêng.

Tội làm sứt mẻ tình bạn với Thiên Chúa và người khác. Có những tội khiến ta  không còn dám đến nhà thờ và lên rước lễ. Tội còn làm sứt mẻ tình bạn, tình cộng đồng. Khi phạm tội, người ta thường muốn tránh người khác vì mắc cỡ, và người khác cũng không muốn gặp gỡ họ vì đã là nạn nhân hay không muốn trở thành nạn nhân.

  1. Truyện:  Phải biết cảm ơn Chúa

Trong cuốn truyện thuộc loại Tự Thuật của một người Cha nọ có ghi những ý nghĩ như sau:

Một đêm kia, trong lúc đang đọc báo, tôi nghe đứa con gái bé nhỏ của tôi bảo: ”Bố ơi, con sẽ đếm thử xem trên trời có mấy ngôi sao nhé”!

Sau đó tôi nghe giọng êm đềm dễ mến của con tôi bắt đầu đếm 1,2,3,4…. rồi tôi lại chú tâm vào chuyện đọc báo, không còn để ý đến tiếng con tôi nữa. Đến lúc tôi đọc xong, tôi chú ý lắng tai và nghe tiếng đứa con gái tôi vẫn tiếp tục đếm 223,224,225…. Đến đây, nó bỗng dừng lại, rồi quay sang nói với tôi: ”Bố ơi, con không ngờ trên trời có nhiều sao đến thế”.

Nghe con gái bình luận thế! Tôi chợt nhớ thỉnh thoảng tôi cũng đã thầm nói với Chúa: “Chúa ơi, để con thử đếm xem con đã lãnh nhận bao nhiêu ơn lành của Chúa”. Và càng đếm, trái tim tôi hình như càng cảm thấy thổn thức, không phải vì âu sầu, mà vì quá nhiều hồng ân Chúa đè nặng. Rồi tôi cũng đã thường phải thốt lên như con gái tôi: ”Lạy Chúa, con không ngờ đời con đã lãnh nhận nhiều ơn lành của Chúa đến thế”!

 

Suy Niệm 9: Chúa Giêsu chữa một người phong cùi

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Phân tích (Hạt giống…)

Chúa Giêsu chữa một người phong cùi:

– Việc chữa người phong cùi làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia về Đấng Messia, chứng minh Chúa Giêsu chính là Đấng Messia.

– Thái độ của người cùi chứng tỏ người này tin Ngài là Messia: anh “sấp mặt xuống” kêu xin; anh nói “Nếu ngài muốn, ngài có thể làm cho tôi được sạch” (thời đó, phong cùi được coi là chứng nan y vô phương chữa trị).

– Thái độ của Chúa Giêsu biểu lộ một sự ưu ái đặc biệt: “Ngài giơ tay đụng vào anh” (không ai khác dám đụng người cùi, vì sợ lây bệnh và lây sự ô uế).

– Lời Ngài bảo anh đi trình diện tư tế và dâng của lễ chứng tỏ Chúa Giêsu tôn trọng luật lệ đạo do thái.

  1. Suy niệm (…nẩy mầm)
  2. Chúa Giêsu không chỉ chữa bệnh cho người bị phong cùi, mà còn đưa tay đụng anh, chứng tỏ Ngài không ghê tởm anh; Ngài còn dạy anh đi trình diện với tư tế để được công nhận hết bệnh và nhờ đó được hội nhập vào xã hội. Như thế, người phong cùi này vừa được chữa bệnh, vừa được phục hồi nhân phẩm. Nói cách khác, Chúa Giêsu vừa chữa anh khỏi bệnh tật phần xác vừa chữa anh khỏi bệnh tật tâm hồn. Sự quan tâm của ta với những người nghèo khổ có được toàn diện như thế chưa?
  3. Cái nghèo cũng là một thứ “tội đầu”, vì nghèo nên khổ (như người ta quen nói “nghèo khổ”), vì nghèo khổ nên bị coi khinh và xua đuổi (như người ta quen nói “nghèo hèn”).
  4. Nạn đói xảy ra trong vùng. Một người ăn xin bên góc đường bước đến bên đại văn hào Nga, Tolstoy, đang đi ngang qua đó. Tolstoy dừng lại, lấy tiền cho nhưng không tìm được đồng nào. Ông nói với sự nuối tiếc: ” Này người anh em, đừng giận tôi. Tôi chẳng đem theo gì”.

Mặt người ăn xin sáng lên và nói: “Ông gọi tôi là anh em, đó đã là món quà rất lớn rồi!” (Góp nhặt).

Việc giúp đỡ người nghèo khổ chưa chắc có giá trị bằng thái độ tôn trọng của ta đối với họ.

  1. “Chúa Giêsu chạnh lòng thương xót, giơ tay đụng vào anh và bảo: ‘Ta muốn, anh sạch đi’. Lập tức chứng phong hủi biến khỏi anh và anh được sạch” (Mc 1,41-42)

Trong chương trình phóng sự về việc giúp đỡ đồng bào lũ lụt của Đài Truyền hình Thành phố, có một em bé đã gởi một cái quần kèm theo 5000 đồng trong túi để giúp người bị nạn. Cô bé đã nói: “Món quà này con tặng cho bạn nào bằng con để đi học”. Chắc rằng hình ảnh của những con người bất hạnh đã tạo cho cô bé một lòng thương cảm sâu sắc, và hành vi quảng đại ấy đã phần nào làm vơi bớt nỗi khổ của người bạn chẳng may.

Chúa Giêsu cũng chạnh lòng thương xót. Nhưng Ngài không chỉ làm vơi đi hoặc xóa đi bất hạnh của người bệnh bằng cách chữa lành cho anh, nhưng còn cất đi nỗi bất hạnh lớn lao của cả nhân loại là tội lỗi và cái chết, bằng cái chết trên Thập giá và sự phục sinh của Ngài.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin Ngài đập vỡ quả tim chai đá trong con và đặt trong con quả tim biết yêu thương. (Epphata)

 

Suy Niệm 10: Bài học về niềm tin và lòng biết ơn

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa chữa cho một người mắc bệnh phong cùi.

  1. Ngày xưa cũng như ngày nay, số phận của những người mắc căn bệnh này rất đáng thương.

Ông Raoul Folereau, vị đại ân nhân của người phong cùi trên thế giới có kể lại mẩu chuyện thương tâm như sau:

“Trong một thị trấn nhỏ nọ, một người đàn ông lâm bệnh nặng. Sau khi khám nghiệm, các bác sĩ nghi ngờ anh ta đã mắc bệnh phong hủi. Tuy chưa phải là một phán quyết dứt khoát, nhưng kể từ đó người ta không còn thấy anh ra khỏi nhà nữa. Gia đình anh mỗi lúc mỗi xác tín hơn về bệnh tình của anh. Thế là để che dấu con người mà họ coi như là một sự xấu hổ chung, những người thân của anh đã giam anh trong một cái mùng lớn. Người đàn ông đáng thương chỉ còn sống vất vưởng nhờ lương thực tiếp tế mỗi ngày. Ngậm đắng nuối cay từng giờ từng phút, người đàn ông chỉ còn nuôi một hy vọng: đó là bỏ trốn khỏi nhà giam của anh… Ngày nọ, anh đã làm như anh nghĩ nhưng chẳng may, anh đã bị bắt lại. Thế là mọi hy vọng đã hết. Và anh nghĩ chỉ có cái chết mới giải phóng được anh. Nghĩ là làm. Anh đã mua thuốc ngủ và tự vận. Cái chết của anh đã gây chấn động trong dư luận. Người ta yêu cầu cho khám nghiệm tử thi.

Kết quả đã làm cho mọi người sửng sốt: anh đã không bao giờ mắc bệnh phong cùi.

  1. Bài học.

+ Bài học thứ nhất là bài học về niềm tin.

Người cùi trong bài Tin Mừng hôm nay sống nhưng kể như đã chết. Rất may anh đã gặp được Chúa. Và anh đã tin chỉ có Chúa mới có thể cứu anh. Anh tin thật mãnh liệt nên anh đã nói lên lời van xin của anh với Chúa một cách rất mạnh mẽ. “Lạy Thầy, nếu thấy muốn, thầy có thể chữa tôi nên sạch” (Mc 1,40). Chỉ cần Chúa muốn là được tất cả. Và Chúa đã trả lời. Chúa muốn và lập tức bệnh cùi biến mất. Một kết quả hết sức tuyệt vời.

Vâng, đức tin là như thế. Đức tin đem lại những thành tựu thật lớn cho con người tin.

Một bà già kia đã có tuổi đi từ Buffalo đến thăm con gái tại Cleveland trên một chiếc tàu chở khách.

Khi tàu đang chạy giữa biển thì bão tố xảy đến. Ai nấy đều hốt hoảng, lo sợ. Chỉ duy có bà vẫn tỏ ra rất bình tĩnh. Bà vẫn ngồi, cúi đầu cầu nguyện.

Lúc trận bão qua rồi, nhiều người đến hỏi vì sao bà giữ được sự bình tĩnh trong cơn nguy biến như vậy. Bà đáp:

– Tôi có hai người con gái. Một đứa đã qua đời đang ở với Chúa trên Thiên Đàng, còn một đứa ở Cleveland. Trong cơn bão tố, tôi không biết mình sắp gặp đứa nào, nếu phải qua đời, tôi sẽ gặp đứa ở thiên thượng, còn nếu bình yên vô sự, tôi sẽ gặp đứa đang ở đó. Cả hai đều là con yêu dấu của tôi, dù gặp con nào tôi cũng vui mừng sung sướng cả. Vì vậy, trong cơn nguy biến, tôi chỉ chờ đợi mà không lo sợ chút nào.

+ Bài học thứ hai là bài học về lòng biết ơn.

Chúng ta còn nhớ đã có lần Chúa chữa cho 10 người mắc bệnh cùi. Chúa bảo họ đi trình diện với thầy tư tế. Đang khi đi dọc đường thì họ được sạch. Trong 10 người đó chỉ có một người trở lại tạ ơn Chúa. Người cùi trong baì Tin Mừng hôm nay cũng vậy. Mặc dầu đã bị Chúa nghiêm cấm, thế nhưng, anh ta cảm thấy mình không thể không nói lên lời cám ơn. Thế là anh đã cất cao lời tôn vinh Chúa và loan báo về Chúa cho mọi người.

Hôm đó, trên chuyến bay từ Ý về Mỹ, mang theo một số Giám Mục mới đi dự Công đồng Vaticanô II về, có mộ nữ chiêu đãi viên rất xinh đẹp. Suốt chuyến bay, cô rất bực mình vì một đôi mắt cứ nhìn chòng chọc vào cô, và đôi mắt đó không phải của ai khác hơn là Đức Cha Fulton Sheen, vị tông đồ lừng danh nước Mỹ. Khi phi cơ hạ cánh, và đợi cho hành khách xuống hết, vị Giám mục mới tiến đến trước mặt cô, nói nửa nghiêm trang nửa bông đùa:

– Cô đẹp lắm! Cô hãy cám ơn Chúa vì đã cho cô đẹp.

Câu chuyện tưởng như vậy là xong. Có ai dè đâu là mấy hôm sau, có tiếng gõ cửa văn phòng làm việc của Đức Cha Fulton Sheen. Cô chiêu đãi viên hôm nọ xuất hiện một cách đầy tự tin. Cô vào thẳng đề tài:

– Câu nói của Đức Cha mấy bữa trước làm cho con suy nghĩ mãi. Con phải cám ơn Chúa thế nào đây?

– Cô biết trại phong cùi Di linh ở Việt Nam chứ?

– Vâng, con đọc báo có nghe nói đến!

– Chúa đã lấy hết sắc đẹp của những người ở đó mà ban cho cô. Cô hãy qua bên đó an ủi họ.

Vâng! Chỉ từng ấy! Cô chiêu đãi viên trút bỏ cả tương lai huy hoàng, khoác bộ áo nữ tu và sau một thời gian tập sự học hỏi, đã tình nguyện sang Việt Nam phục vụ những người cùi ở Di Linh, để cảm ơn Chúa đã ban cho mình sắc đẹp.

 

 

 

THỨ SÁU TUẦN 1 THƯỜNG NIÊN

 

LỜI CHÚA: Mc 2, 1-12

Sau ít ngày, Chúa Giêsu lại trở về Capharnaum; nghe tin Người đang ở trong nhà, nhiều người tuôn đến đông đảo, đến nỗi ngoài cửa cũng không còn chỗ đứng, và Người giảng dạy họ.

Người ta mang đến cho Người một kẻ bất toại do bốn người khiêng. Vì dân chúng quá đông, không thể khiêng đến gần Người được, nên họ dỡ mái nhà trên chỗ Người ngồi một lỗ to, rồi thòng chiếc chõng với người bất toại xuống. Thấy lòng tin của họ, Chúa Giêsu nói với người bất toại rằng: “Hỡi con, tội lỗi con được tha”.

Lúc ấy, có một ít luật sĩ ngồi đó, họ thầm nghĩ rằng: “Sao ông này lại nói thế? Ông nói phạm thượng. Ai có quyền tha tội, nếu không phải là một mình Thiên Chúa”. Chúa Giêsu biết tâm trí họ nghĩ như vậy, liền nói với họ: “Tại sao các ông nghĩ như thế? Nói với người bất toại này: “Tội lỗi con được tha” hay nói: “Hãy chỗi dậy vác chõng mà đi”, đàng nào dễ hơn? Nhưng (nói thế là) để các ông biết Con Người có quyền tha tội dưới đất”. – Người nói với kẻ bất toại: “Ta truyền cho con hãy chỗi dậy, vác chõng mà về nhà”.

Lập tức người ấy đứng dậy, vác chõng ra đi trước mặt mọi người, khiến ai nấy sửng sốt và ngợi khen Thiên Chúa rằng: “Chúng tôi chưa từng thấy như thế bao giờ”.

 

Suy Niệm 1: Thấy họ có lòng tin

(Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)

Bối cảnh của bài Tin Mừng là căn nhà của ông Simon ở Caphácnaum.

Đức Giêsu đang được hết sức ái mộ bởi đám đông dân chúng.

Biết ngài trở về, họ tụ tập lại đông đến nỗi cửa cũng chẳng còn lối vào.

Chính vì thế khi bốn người bạn khiêng anh bất toại tới,

họ không biết làm sao mà vào được trong nhà để gặp Đức Giêsu.

Dù sao cũng có một tình cảm nào đó giữa năm người này.

Rất có thể họ là một nhóm bạn quen biết nhau và muốn giúp nhau.

Cả năm người đều tin rằng đến với Đức Giêsu là có hy vọng khỏi bệnh.

Họ đã hẹn nhau vào một ngày nhất định để lên đường.

Tình bạn được biểu lộ qua việc vất vả khiêng người bất toại.

Khi không vào được nhà, chắc cả năm người đều bối rối.

Về ư? hay chờ đợi? hay cứ liều gạt đám đông mà vào?

Hay còn một giải pháp nào khác tốt hơn?

Thời nay chúng ta khó hiểu được chuyện dỡ mái nhà mà vào.

Nhưng mái nhà của người Palestine thời ấy cũng khá đơn sơ,

chỉ gồm những thanh xà đặt trên các tường đá, rồi lợp tranh lên trên.

Nhóm năm người đã chọn giải pháp này, sau khi đã bàn bạc và nhất trí.

Kế đến là chuyện phân công.

Phải xin phép chủ nhà, phải leo lên dỡ mái bằng thang và làm một lỗ hổng,

phải kéo anh bất toại với chõng lên và hạ xuống ngay tại chỗ Đức Giêsu ngồi.

Tất cả công việc này cần nhiều sức mạnh và sự khéo léo,

nhất là cần lòng tin và tình bạn.

Hẳn Đức Giêsu đã hết sức kinh ngạc trước lòng tin này.

Lòng tin mạnh mẽ không lùi bước trước khó khăn cản trở.

Lòng tin đầy sáng tạo, dám tìm ra những con đường mới mẻ và khác thường.

Lòng tin mang tính tập thể, vì là niềm tin của cả nhóm năm người.

Lòng tin đòi vất vả, đổ mồ hôi, chứ không chỉ ở trong tâm trí.

Lòng tin táo bạo vì dỡ mái nhà có thể bị Đức Giêsu coi là là khiếm nhã.

Đức Giêsu đã thấy được lòng tin này và ngài đã chữa lành (c. 5).

Con đường trở về nhà của năm người thật là vui và nhẹ nhàng.

Người ta có thề đi ngang hàng với nhau, chứ không phải khiêng nhau nữa.

Nhìn nhóm người trên, tôi tự đặt cho mình vài câu hỏi.

Khi tôi bất toại, có người bạn nào giúp tôi không?

Tôi có khiêm nhường để cho người khác giúp tôi không?

Tôi có sẵn sàng để người khác đưa tôi đến với Giêsu không?

Tôi có chấp nhận vất vả để giúp một người bạn đang gặp khó khăn không?

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa,

xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,

để con làm bật rễ khỏi lòng con

những ích kỷ và khép kín.

Xin cho con đức tin can đảm

để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,

chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.

Xin cho con đức tin sáng suốt

để con thấy được thế giới

mà mắt phàm không thấy,

thấy được Ðấng Vô hình,

nhưng rất gần gũi thân thương,

thấy được Ðức Kitô nơi những người nghèo khổ.

Xin cho con đức tin liều lĩnh,

dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,

dám tiến bước trong bóng đêm

chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,

dám lội ngược dòng với thế gian

và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.

Xin cho con đức tin vui tươi,

hạnh phúc vì biết những gì

đang chờ mình ở cuối đường,

sung sướng vì biết mình được yêu

ngay giữa những sa mù của cuộc sống.

Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp

qua những cọ xát đau thương của phận người,

để dù bao thăng trầm dâu bể,

con cũng không để tàn lụi niềm tin

vào Thiên Chúa và vào con người.

 

Suy Niệm 2: Lắng nghe Lời Chúa

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Lời Chúa có hiệu quả khác nhau. Tuỳ cách ta đón nhận. Có lời rơi trên vệ đường. Chim chóc đến tha đi. Có lời rơi vào đất tốt. Sinh hoa kết quả gấp trăm nghìn.

Lời Chúa tăng cường đức tin cho người bị bại liệt. Đức tin đó ảnh hưởng tới những người thân. Nên họ sẵn sàng khiêng anh tới chỗ Chúa Giê-su. Đức tin của anh càng mãnh liệt hơn khi Chúa nói với anh: “Hãy đứng dậy vác giường mà về”. Nhưng Lời Chúa lại gây bất mãn cho người không tin. Những kinh sư lẩm bẩm: “Ông ta nói phạm thượng. Ai có quyền tha tội nếu không phải là Thiên Chúa”.

Lời Chúa chữa lành người bệnh. Chữa lành nhanh chóng, hiệu quả tức thì. Người bại liệt không đi nổi nay đã tự mình đứng dậy. Trước kia không mang nổi thân mình nay có thể vác giường đivề. Lời Chúa trái lại khiến các kinh sư sinh bệnh. Lúc người bệnh đứng dậy cũng là lúc các kinh sư ngã gục. Lúc người bại liệt vác giường thì các kinh sư lại liệt giường. Lời Chúa nâng dậy người bệnh và xô ngã người kiêu căng cứng cỏi.

Lời Chúa khiến người bại liệt bình an thư thái. Những người lắng nghe Chúa được tràn đầy niềm vui. Chúa đưa họ vào nơi an nghỉ. Vì họ đã có niềm tin yêu phó thác. Tâm hồn được thứ tha tội lỗi hưởng nếm sự ngọt ngào của niềm bình an và tình yêu thương được kết hiệp với Chúa. Đặc biệt người bại liệt không chỉ được Lời Chúa chữa lành thân xác mà còn được chữa lành tâm hồn khi Chúa phán: “Tội con đã được tha”. Vì thế tâm hồn ông tràn đầy bình an. Trái lại, Lời Chúa khiến các kinh sư bất an. Họ trở về tâm hồn bực tức và ganh ghét. Họ càng lún sâu trong tội lỗi nên càng bị bóng tối bất hạnh vây phủ.

Vì thế thánh Phao-lô khuyên nhủ chúng ta “hãy biết sợ rằng trong khi lời hứa được vào chốn yên nghỉ của Thiên Chúa vẫn còn đó, mà có ai trong anh em bị coi đã mất cơ hội”. “Vậy, chúng ta hãy cố gắng vào chốn yên nghỉ này, kẻo có ai cũng theo gương bất tuân đó mà sa ngã”(năm lẻ).

Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước. Là ánh sáng chỉ đường con đi. Hãy tuân theo Lời Chúa, dù phải bỏ ý riêng. Như Sa-mu-en không muốn dân Do Thái có vua. Ông sợ họ lìa xa Chúa. Và có thể ông mất quyền lợi. Nhưng ông đã tuân theo ý Chúa. Xức dầu phong cho dân Do Thái một vị vua. Dù thâm tâm ông không muốn. Xin cho chúng ta luôn sống theo Lời Chúa. Để Lời Chúa hướng dẫn tư tưởng, lời nói, việc làm của ta (năm chẵn).

 

Suy Niệm 3: Chữa người bất toại

Một điểm trong phép lạ chữa người bất toại được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay đáng chúng ta lưu ý, đó là Chúa Giêsu không nói ngay: “Ta chữa lành cho con”, nhưng Ngài nói với người bất toại: “Con đã được tha tội rồi”.

Qua đó, Chúa Giêsu mạc khải Ngài là Thiên Chúa, bởi vì chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Chính những kẻ chống đối Chúa Giêsu cũng nghĩ như thế, và vì không tin Ngài là Thiên Chúa, cho nên họ nghĩ thầm rằng: “Sao ông này lại dám nói như vậy? Ông ta nói phạm thượng”. Nhưng Chúa Giêsu đã nhân cơ hội này để một lần nữa chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa, vì Ngài đọc thấu tư tưởng thầm kín của họ. Ngài bảo họ: “Sao trong bụng các ông lại nghĩ những điều ấy?” Rồi Ngài nói với những kẻ không tin: “Trong hai điều: một là bảo người bất toại: “Con đã được tha tội”, hai là bảo: “Ðứng dậy, vác chõng mà đi”, điều nào dễ hơn”. Thật ra, hai điều này đều khó, và Chúa Giêsu quả quyết: “Ðể các ông biết: ở dưới đất, Con Người có quyền tha tội, Ta truyền cho anh hãy đứng dậy, vác chõng đi về nhà”, lập tức người ấy đứng dậy vác chõng mà đi trước mặt mọi người, khiến ai nấy đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa.

Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ để chứng minh Ngài có quyền tha tội, vì Ngài là Thiên Chúa. Như những người chống đối Chúa, ngày nay cũng có nhiều người không chấp nhận quyền tha tội của Chúa, quyền này đã được Chúa trao cho các Tông đồ, và qua các ngài cho Giáo Hội. Giáo Hội vẫn tiếp tục công việc tha tội trong Bí tích sám hối và hòa giải. Nhờ Bí tích này, tội nhân sau khi lãnh Bí tích rửa tội được ơn tha thứ và làm hòa với Thiên Chúa. Từ ít lâu nay, có một cơn khủng hoảng đối với Bí tích giải tội: nhiều người không còn lãnh nhận Bí tích giải tội, không còn quý trọng ơn tha tội, vì đã đánh mất ý thức về tội lỗi: có thể họ cần được Thiên Chúa ban cho điều này điều nọ, nhưng không thấy cần được Thiên Chúa tha cho những tội đã phạm.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta trở về với tác vụ chính của Chúa Giêsu ngay từ đầu: tác vụ tha tội, hòa giải con người với Thiên Chúa. Ước gì chúng ta luôn ý thức về tội lỗi và quý trọng ơn tha thứ qua Bí tích giải tội.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Trước tiên, phải tha thứ

Bấy giờ người ta đem đến cho Đức Giêsu một kẻ bại liệt, có bốn người khiêng. Nhưng vì dân chúng quá đông, nên họ không sao khiêng đến gần Người được. Họ mới dỡ mái nhà, ngay trên chỗ Người ngồi, làm thành một lỗ hổng, và thả người bại liệt nằm trên chõng xuống. Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giêsu bảo người bại liệt: “Này con, con đã được tha tội rồi.” (Mc. 2, 3-5)

Thường ta đến cầu nguyện với Chúa, mà lòng nặng trĩu những tâm tư; ta có những nỗi khổ của riêng mình, mà còn mang theo những đớn đau của kẻ khác nữa. Ta muốn phô bày tất cả với Chúa… Ta muốn thả tất cả xuống trước mặt Chúa như người xưa đã làm cho người bại liệt nọ vậy.

Hôm ấy người ta đã khiêng đến một người bại liệt. Vấn đề coi như nan giải, vì dân chúng quá đông, đứng bít cả cửa. Nên người ta đã khéo léo tìm cách rỡ mái nhà để thả được người bại liệt xuống và đặt anh nằm trước mặt Chúa Giêsu. Nhưng kìa Chúa Giêsu lại nói với người ấy rằng: “Này con, con đã được tha tội rồi!”

Có những người nghĩ thầm trong bụng

Khi nghe Chúa nói như vậy, người ta sửng sốt và tỏ ra cứng cỏi. Họ lý luận về hai khía cạnh: ông ta tự coi mình là Thiên Chúa, khi nói lời tha tội. Đó là một thái độ tụ kiêu, ngạo ngược. Sau nữa, cho dù có như thế đi chăng, nói rằng sự tha tội có thể chữa lành bệnh tật, thì quả là một kỳ vọng còn phi lý hơn nữa!

Điều mà các kinh sư xưa nghĩ tưởng, thì nhiều người chúng ta hôm nay cũng suy nghĩ như vậy khi nghe Giáo hội giảng dạy. Phải chăng Giáo hội có thể lấy quyền Thiên Chúa mà tha tội – và nếu có đi chăng, thì làm sao chứng minh được rằng ơn tha tội đem lại một tác động hiệu nghiệm thực? Giải đáp trước nhất cho vấn đề của chúng ta phải chăng là ơn tha thứ?

Phải, tiên vàn phải được ơn tha thứ!

Người ta sẽ có thể giải thích rộng rãi về tầm quan trọng của ơn tha thứ. Tôi chỉ muốn đè cập đến vấn đề này cách dơn giản bằng cách phân biệt ơn tha thứ và ơn chữa lành. Sự khác biệt này càng rõ nét tùy theo tương quan giữa những người liên hệ. Xin đưa ra một thí dụ: một ông bác sĩ có thể chữa trị cái chân của một con bệnh mà không cần phải yêu mến, ngay cả chuyện trò với người ấy. Cũng thế, mỗi người chúng ta có thể tiếp cận người khác theo chức năng hay nghề nghiệp, có thể tham gia vào xã hội hoàn toàn theo những quy tắc luật lệ của môn khoa học hay ngành nghề mình đã theo đuổi. Nhưng con người có những nhu cầu mà nhiều kiến thức chuyên môn sẽ không có thể thỏa mãn được như giữ được niềm tin trong cuộc sống, mặc dầu con người có những yếu đuối và giới hạn; tin theo nghĩa thông thường …

Thực vậy, Thiên Chúa có thể ban ơn tha thứ cho con người thế nào thì chúng ta cũng có thể nhân danh Người mà chuyển giao ơn ấy như vậy, hầu nối kết con người với vận mệnh của mình. Ơn tha thứ khiến cho con người được Thiên Chúa doái nhìn và xót thuơng bù đắp cho những thiếu thốn của con người.

Vậy thì, trưỡc tiên là tha thứ, một người có thể sống trong một thân xác bại liệt, nhưng không thể sống thiếu tình thương.

 

Suy Niệm 5: Quyền năng của Chúa Giêsu

Đã có lần Đức Giêsu phải than phiền vì dân chúng cứng tin vào Ngài, nhất là khi Ngài trở về quê hương. Chính sự khô cứng làm cho lòng họ trở nên trai đá, vì thế, họ không những không tin vào quyền năng của Đức Giêsu, mà họ còn vấp ngã vì Ngài nữa.

Hôm nay, lại một lần nữa, họ nghi ngờ vì Đức Giêsu lấy quyền của Thiên Chúa để chữa lành bệnh tật và tha tội.

Chuyện xảy ra là: có một người bị bại liệt, và người ta khiêng đến với Đức Giêsu để xin Ngài chữa lành. Thấy lòng tin mãnh liệt của những người khiêng cáng và của chính người bại liệt, Đức Giêsu đã ra tay cứu chữa bệnh tật thể xác và giải phóng hệ lụy phần hồn: “Tội con đã được tha rồi”; “Hãy đứng dậy, vác chõng mà về”. Thật là vui mừng và hạnh phúc! Từ nay, anh ta được tung tăng chạy nhảy trên chính đôi chân của mình. Cũng từ nay, anh không bị người đời dè bửu, khinh khi và gán cho mình tội lỗi nên mới bị phạt như vậy nữa!

Cuộc đời của chúng ta nhiều khi không bị đau bệnh phần xác như người bại liệt trong bài Tin Mừng hôm nay, nhưng chắc chắn trong tâm hồn, nhiều khi chúng ta cũng mắc phải những căn bệnh bại liệt:

Bại liệt khi chúng ta khinh thường và rẻ rúng những người nghèo, bệnh tật, ốm đau;

Bại liệt khi chúng ta có những ánh mắt phân biệt, ghen tỵ với anh chị em mình;

Bại liệt khi chúng ta thiếu sự liên đới, tình huynh đệ và vô trách nhiệm;

Bại liệt khi chúng ta thờ ơ với Chúa, nguội lạnh với đời sống đạo…

Những lúc như thế, chúng ta hãy xin Chúa đến với mình, xin Ngài đụng chạm và chữa lành, để chúng ta được lành sạch.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con là kẻ có tội, xin cho chúng con năng đến với Chúa nơi Bí tích Hòa Giải để chúng con được Chúa chữa lành. Amen.

Ngọc Biển

 

Suy Niệm 6: Tin tưởng và thi hành

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Niềm tin là thái độ căn bản của cuộc sống người Kitô hữu, và hồng ân cứu độ tùy thuộc vào mỗi người có đặt hết niềm tin nơi Chúa hay từ chối đón nhận.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, nền văn minh kỹ thuật ngày càng tiến bộ, nhất là về lĩnh vực âm thanh và hình ảnh, con người hầu như thích cảm nhận những gì mắt thấy tai nghe. Vì thế, người ta lao vào lối sống hưởng thụ thực dụng, còn niềm tin là chuyện khó hiểu xa vời.

Nhiều lúc con cũng vậy, cứ mỗi lần đến dịp lễ trọng, nhà thờ trang hoàng rực rỡ, tâm hồn con lại cảm thấy sốt sắng, phấn khởi, tưởng như niềm tin và lòng trông cậy đã đặt trọn vẹn trong tay Chúa. Nhưng Chúa ơi, rồi dịp lễ qua đi, còn lại là chuỗi ngày sống bình thường, hằng ngày phải bon chen, phải vật lộn vất vả. Giữa những khổ đau, bên cạnh những bệnh tật và hoàn cảnh sống, con như mất niềm tin, tâm hồn chao đảo, chán nản và thất vọng. Đôi lúc con cũng tỏ thái độ như những kinh sư: không tin vào quyền năng Chúa. Tuy không dám công khai phủ nhận, nhưng con âm thầm buông xuôi cho trần gian lôi cuốn, đến nỗi không còn nhận ra lòng thương xót và quyền năng của Chúa.

Lạy Chúa, chính niềm tin mãnh liệt đã soi sáng trí khôn, giúp người ta có sáng kiến mang người bất toại đến với Chúa bằng cách bất thường từ trên mái nhà xuống. Ước gì với niềm tin, không có gì ngăn cản được con đến với Chúa, dù trong hoàn cảnh đen tối nhất.

Lạy Chúa, trước lòng tin của những người đưa kẻ bại liệt đến với Chúa, con nhận ra niềm tin mình thật nông cạn. Xin ban cho con một niềm tin đích thực, để cho dù con có bị bại liệt về vật chất, thể xác, thì niềm xác tín và lòng cậy trông vào Chúa vẫn không thay đổi. Amen.

Ghi nhớ: “Con Người có quyền tha tội dưới đất”.

 

Suy Niệm 7: Chúa Giêsu chữa người bất toại do 4 người khiêng

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Ngày 6/11/1997, sáng nay các dì kể chuyện. Có một người đàn bà sinh con ngay trong đêm bão. Nhà sập rồi, đành ra bụi trúc mà sinh.

Ông cố biết ai đó không? Mẹ con Mẹt, học trò của mình đấy.

Vậy thì nên đặt tên cho bé là Linda, hoặc Số Năm. Dù bão số 5, dù hồng thủy cũng không tiêu diệt được sự sinh tồn của loài người (Trích Nhật ký truyền giáo của cha Piô Ngô Phúc Hậu).

Cơn bão Linda hay còn gọi là bão số 5 đã vào vùng đất cực Nam của quê mẹ – đất Việt vào tháng 11 năm 1997 đã gây nên bao cái chết của đồng bào, phá hủy của cải, nhà cửa và mùa màng. Nhưng dù cho bão tố nổi lên như thế, vẫn không cản được bước chân tìm kiếm sự sinh tồn cho con mình của một người mẹ, biểu tượng cho sự tìm kiếm sinh tồn của nhân loại.

Hình ảnh những bước đi tìm được sinh tồn cho con của người mẹ gợi nhớ cho chúng ta hình ảnh người bị bại liệt trong Tin Mừng, trước bão tố bệnh tật, anh trở nên bại liệt, nằm bất động không thể làm gì được…

Suy niệm

Người bại liệt nằm bất động không thể làm gì được, nhưng từ trong đáy sâu thẳm niềm tin vào Đấng Mêssia, anh làm mọi cách, qua sự giúp đỡ của những người bạn đi tìm sự sống cho chính mình. Anh tin vào Đấng Mêssia, người có thể chữa lành anh, trả lại cho anh sự sống. Chính trong niềm tin đó, qua sự giúp đỡ của anh em bạn bè mang anh trên băng ca, cất bước tìm kiếm gặp Ngài. Anh và họ như chung niềm tin nơi quyền năng của Đấng nhân danh Chúa đến và cùng nhau bước đi tìm Ngài.

Đến nơi Đấng Mêssia đang giảng dạy, vì dân chúng xô lấn tới nghe Ngài đông quá đến nỗi đường vào nhà bị tắc nghẽn, họ gây trở ngại nghiêm trọng cho bất cứ ai ở ngoài muốn gặp Chúa, trong đó có bốn người khiêng một anh liệt đến. Không thể vào nhà gặp Đấng Mêssia, họ liền nghĩ đến một cách là thả người đau bệnh từ trần nhà xuống trước mặt Chúa Giêsu. Ngài “Thấy lòng tin của họ”:

Đức tin không do dự, suy tính nhưng cương quyết làm tới cùng. Lập tức lên đường, dù bất động bởi bại liệt, nhưng đã quyết là lên đường ngay, đi tìm Đấng mà anh tin với sự giúp đỡ của bạn bè.

Đức tin không chịu lùi bước trước khó khăn, dù đám đông đã lấp kín đường đi, nhưng niềm tin đã tìm ra con đường khác để đến với Đức Giêsu: Không qua bằng cửa chính, nhưng bằng lỗ hổng ở mái nhà.

Lòng tin mang tính liên đới tập thể, đồng tâm nhất trí: Người bại liệt được sự đồng tâm của bốn người bạn, họ hiệp ý tin và cùng nhau giúp đưa người bại liệt đến với Đấng Mêssia.

Lòng tin đòi nỗ lực, đục thủng mái nhà. Đục thủng mái nhà như là biểu tượng đục thủng những gì làm tê bại thân xác và làm băng giá tấm lòng con người, đục thủng những thành kiến và những kỳ thị loại trừ của một xã hội… để được gặp Đấng mình tin.

Đó là những bước đi của đức tin, nhìn vào từng bước đi này, chúng ta càng quả quyết những gì thánh Giacôbê xác tín: “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,26). Chúa Giêsu nói với anh: “Hỡi con, tội lỗi con được tha”, đó là lời tha thứ nhưng cũng là lời chữa lành khi Người nói tiếp: “Hãy trỗi dậy vác chõng mà đi”. Việc Đức Kitô gắn liền việc chữa lành với lời tha tội, Ngài không ám chỉ tội của người bệnh là nguyên nhân gây bệnh. Ngài cũng không cho rằng tội của anh bại liệt lớn hơn những người khác. Ngài chỉ muốn khẳng định rằng anh trong tư cách là con người cũng là một tội nhân như bao người khác và tội cũng là một căn bệnh, một căn bệnh của linh hồn. Cả bệnh phần xác và bệnh phần hồn, là những biểu hiện khác nhau của căn bệnh nơi nhân loại. Đức Giêsu nói với một người bại liệt: “Anh đã được khỏi. Đừng phạm tội nữa, kẻo phải khốn hơn” (Ga 5,14). Ngài tha tội và chữa bệnh bại liệt của tâm hồn, anh được giải phóng cả hồn lẫn xác, anh đứng dậy, vác chõng đi về nhà, anh được tự do, và hết bị trói buộc: Trói buộc vào chõng với cơn bệnh bại liệt và trói buộc vào tội vì là tội nhân.

Chúng ta trong kinh nghiệm bản thân, đã từng mang ít nhiều những bệnh tật thể xác và mang những bất toại của tâm hồn trong thân phận của sự yếu đuối, tội lỗi, đó là sự bại liệt của con người. Như anh bại liệt, chúng ta hãy vững tin trong sâu thẳm và làm những bước đi cố gắng của niềm tin.

Ý lực sống: “Nhờ đức tin để đưa đến đức tin, như có lời chép: Người công chính nhờ đức tin sẽ được sống” (Rm 1,17).

 

Suy Niệm 8: Tội con đã được tha

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Nghe tin Chúa Giêsu về Capharnaum, dân chúng khắp nơi tuốn đến chật trong nhà ngoài sân, và Chúa giảng dạy họ. Bỗng có bốn người khiêng một người bất toại đến, nhưng vì dân chúng đông quá, họ phải dỡ mái nhà thòng giường và bệnh nhân xuống trước mặt Chúa. Chúa thấy họ có lòng tin thì nói với người bệnh: “Tội con đã được tha”. Các luật sĩ nghe vậy thì cho là Chúa đã phạm thượng vì họ không tin Người là Thiên Chúa, nên không có quyền tha tội, chỉ Thiên Chúa mới có quyền đó. Chúa biết họ nghĩ thế, Người muốn tỏ cho họ biết Người là Thiên Chúa có quyền tha tội, nên nói với người bại liệt: “Hãy chỗi dậy, vác giường mà về”. Người đó liền chỗi dậy vác giường đi về trước sự kinh ngạc của mọi người.
  2. Phép lạ chữa người bất toại hôm nay không phải là mục đích chính, đó chỉ là cái khung hay cái cớ để Chúa Giêsu nói về cái khác, đó là quyền tha tội. Chúa muốn cho họ biết Người là Thiên Chúa nên có quyền tha tội.

Vì thế, người ta khiêng anh bất toại đến để mong Chúa chữa cho anh. Nhưng Chúa Giêsu tha tội trước rồi sau đó mới chữa bệnh. Tội là thứ bệnh của linh hồn, nguy hiểm hơn bệnh thể xác. Nhưng chúng ta thường làm ngược với Chúa Giêsu: khi mang bệnh thể xác thì chúng ta lo chạy chữa mau lẹ, còn khi mang tội chúng ta lại không lo.

  1. Người bất toại có lòng tin Chúa nên đã nhờ người khác khiêng mình tới Chúa. Và chính những người này cũng tin Chúa nên đã chịu khó leo lên mái nhà, dỡ ngói ra, thòng người bệnh xuống trước mặt Chúa. Vì thế, muốn gặp Chúa phải có lòng tin, phải cố gắng vượt qua mọi trở ngại, và có khi còn cần nhờ người khác giúp đỡ.

Truyện: Căn nhà bỗng nhiên bốc cháy. Ông bố nghe tin liền chạy về. Về đến nơi, ông thấy đám cháy đã bốc cao và nghe có tiếng kêu thất thanh “Ba ơi cứu con với”. Khi thấy bóng đứa con út trên tầng cao, ông đã nhờ đội cứu hỏa giăng lưới bảo hộ để cho cậu nhảy xuống. Nhưng cậu vẫn do dự và sợ hãi. Lúc ấy ông la lên: “Ba đây, đừng sợ, nhảy xuống đi”. Nhận ra tiếng của cha và thấy bóng ông qua khói lửa, cậu đã thu hết can đảm nhảy xuống. Mở mắt ra, cậu đã nằm trong vòng tay của cha. Niềm tin đã cứu sống cậu (Epphata).

  1. Người bất toại thì bất lực không làm được gì. Chúng ta phải ý thức bệnh bất toại của người tội lỗi: không làm được việc gì có giá trị trước mặt Chúa vì không có ân sủng, để nhờ đó chúng ta gớm ghét tội lỗi, xa lánh những dịp tội.

Chúng ta nên biết rằng  ý thức về tội không có nghĩa là đánh mất giá trị làm người mà chỉ là nhìn nhận một chân lý khách quan: con người là tạo vật vừa dòn mỏng vừa vĩ đại trước mặt Thiên Chúa. Con người mỏng dòn nên dễ sa ngã. Con người vĩ đại do tự do mà Thiên Chúa ban cho: con người có quyền nói “có” hoặc nói “không” với Thiên Chúa. Nói “không” với Thiên Chúa là phạm tội, vì từ chối tình thương và sự hướng dẫn của Ngài. Ý thức về tội là nhìn nhận quyền năng và lòng thương xót vô bờ bến của Thiên Chúa, và đồng thời là nhìn nhận sự thật có tính giải phóng về bản thân: giải phóng khỏi tình trạng tội lỗi và đưa con người vào mối hiệp thông với Thiên Chúa.

  1. Qua phép lạ chữa người bất toại trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta hãy bằng lòng để Chúa Giêsu thực hiện nơi chúng ta những gì Ngài đã làm cho người bất toại. Chúng ta hãy trình diện với Chúa Giêsu trong bí tích Hòa giải và lắng nghe Ngài nói với chúng ta những gì Ngài đã nói với người bất toại: “Tội lỗi con đã được tha”. Tiếp đó, bài Tin mừng mời ta cảm nghiệm sự giải thoát mà người bất toại ấy từng cảm nhận sau khi đã bị ràng buộc đớn đau quá  lâu trong bệnh tật và trong tội lỗi của anh.
  2. Truyện: Nhà biên kịch Henri Ghéon.

Henri Ghéon là một nhà biên kịch nổi tiếng của Pháp, cũng là một người tội lỗi trong đệ nhị thế chiến, ông ở trong một tâm trạng bất an, đã quay trở lại với Chúa. Ông đến xin lãnh bí tích Giải tội và ông đã kể lại tâm trạng của mình lúc xưng tội như sau: “Hai tay tôi ôm đầu, miệng bập bẹ run run, tôi đổ dòng tội tuôn ra như thác… Tôi cảm thấy một thứ cặn đắng, từng ngụm, từng ngụm trào ra khỏi các thớ thịt con tim tôi với tất cả khối nặng đó, với tất cả chất độc đó đã đè nén tôi suốt hai mươi năm nay. Tôi cố cựa quậy đổ dốc nó ra cho linh mục giải tội. Và Thiên Chúa đã nghe lời tôi: “Hãy về bình an. Thánh Thần đã ngự trong con”!  Tôi trẻ lại hai mươi tuổi; hai mươi năm tội lỗi. Một niềm vui sướng mới lạ tràn ngập tâm hồn tôi. Tôi chạy, tôi nhảy, tôi bay, tôi không còn cảm thấy xác thịt nặng nề của tôi nữa”…

 

Suy Niệm 9: Quyền tha tội của Chúa Giêsu

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Phân tích (Hạt giống…)

Văn thể của đoạn này là “câu nói trong khung”, nghĩa là tác giả tuy kể một câu chuyện nhưng chuyện đó chỉ là một cái khung để làm nổi bật một câu nói của Chúa Giêsu. Câu nói quan trọng đó là c.5 “Tội của con đã được tha”. Chính câu nói này và cuộc tranh luận về nó mới là trọng tâm. Chuyện chữa người bất toại chỉ là một cơ hội, một cái khung.

Hai chi tiết văn phạm đáng chú ý:

  1. Động từ ở thể thụ động (được tha), hiểu ngầm kẻ tha tội là Thiên Chúa. Chúa Giêsu chính là Thiên Chúa.
  2. Động từ còn ở thì quá khứ (đã) nghĩa là Thiên Chúa đã tha tội rồi, trước khi anh này phải dâng lễ theo luật buộc (Lv 6,17-23).

Quyền tha tội là độc quyền của Thiên Chúa. Bởi vậy các thông giáo phản ứng ngay “Ông này phạm thượng”. Chú ý họ dùng động từ “phạm thượng” y như lời cáo trạng trước Thượng Hội Đồng Do thái (14,63-64).

  1. Suy niệm (…nẩy mầm)
  2. Người ta khiêng anh bất toại đến để mong Chúa Giêsu chữa bệnh cho anh. Nhưng Chúa Giêsu tha tội trước rồi sau đó mới chữa bệnh. Tội là thứ bệnh của linh hồn, nguy hiểm hơn bệnh thể xác. Nhưng chúng ta thường làm ngược với Chúa Giêsu: khi mang bệnh thể xác thì chúng ta lo lắng chạy chữa mau lẹ, còn khi mang tội chúng ta lại không lo.
  3. Thân nhân của người bất toại rất tích cực lo cho anh khỏi bệnh: khiêng đến nơi Chúa Giêsu đang giảng, chen lấn, leo lên mái nhà, gở mái, thòng dây xuống… Ước gì ai cũng biết tích cực lo chữa bệnh linh hồn cho thân nhân mình như vậy.
  4. Ngày kia thánh Phanxicô Salêsiô cho một người xưng tội. Người này xưng rất thành thật, khiêm nhượng và hết lòng ăn năn. Thánh nhân cảm động lắm. Sau khi xưng tội xong, người ấy hỏi:

– Bây giờ cha biết tất cả những sự xấu xa của con rồi. Cha nghĩ thế nào về con?

– Bây giờ cha nhìn con như một đấng thánh.

– Chắc cha phải nói ngược lại mới được.

– Không. Cha nói theo lương tâm của cha. Con bây giờ hoàn toàn khác trước rồi.

– Nhưng tội lỗi con đã phạm thì luôn luôn ở với con mà.

– Không phải thế đâu con ạ. Khi bà Mađalêna đã ăn năn trở lại, Chúa xem bà như một đấng thánh. Chỉ có bọn Pharisêu giả hình cứ coi bà là kẻ tội lỗi.

– Nhưng đối với cha, con muốn biết cha nghĩ thế nào về quá khứ của con?

– Cha không nghĩ thế nào cả. Điều gì không có trước mặt Chúa thì cha không nghĩ đến. Cha chỉ biết ngợi khen Chúa và vui mừng vì con đã trở lại với Chúa. Cha muốn cùng các thánh trên trời vui mừng với con.

Nói xong, thánh nhân khóc. Người kia bỡ ngỡ hỏi:

– Cha khóc à? Chắc cha khóc vì thấy con phạm nhiều tội quá?

– Cha khóc vì thấy con đã sống lại với Chúa.

Thánh nhân biết rõ phép Giải tội không phải là che dấu tội ta đã phạm, nhưng là rửa sạch hết mọi tội ta đã khiêm nhường xưng ra. (Trích “Phúc”)

  1. “Thấy họ có lòng tin như vậy, Chúa Giêsu bảo người bại liệt: Này con, con đã được tha tội rồi” (Mc 2,5)

Căn nhà bỗng nhiên bị bốc cháy. Ông bố nghe tin liền chạy về. Về đến nơi, ông thấy đám cháy đã bốc cao và nghe có tiếng kêu thất thanh ‘Ba ơi cứu con’. Khi thấy bóng đứa con út trên tầng cao, ông đã nhờ đội cứu hoả giăng lưới bảo hộ để cho cậu nhảy xuống. Nhưng cậu vẫn do dự và sợ hãi. Lúc ấy ông la lên: “Ba đây, đừng sợ. Nhảy xuống đi”. Nhận ra tiếng của cha và thấy bóng ông qua khói lửa, cậu đã thu hết can đảm nhảy xuống. Mở mắt ra, cậu đã nằm trong vòng tay của cha. Niềm tin đã cứu sống cậu.

Tương tự như thế, niềm tin vào Chúa khiến người bại liệt được chữa lành. Niềm tin cũng đem lại ơn tha thứ cho biết bao tội nhân. Vâng niềm tin đã làm cho cuộc sống tươi sáng và hạnh phúc hơn.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con luôn tin tưởng phó thác vào tình yêu của Chúa. Xin cho con biết gieo mình vào bàn tay Ngài giữa cuộc sống bao nỗi băn khoăn khắc khoải, để cuộc sống được an vui và hạnh phúc hơn. (Epphata)

 

Suy Niệm 10: Chúa có quyền tha tội

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Nghe câu chuyện Tin Mừng kể hôm nay, hầu hết chúng ta chỉ để ý đến người bất toại, mà ít người nghĩ đến 4 người đã khênh người bất toại đến với Chúa Giêsu.

Bốn người này, tuy là những nhân vật phụ, nhưng lại là những nhân vật không kém phần quan trọng. Vì nếu thiếu họ, chắc chắn người bất toại đã không có cách nào để đến được với Chúa.

Qua việc khiêng người bất toại, ta thấy những người này, vừa bày tỏ một niềm tin sáng chói vừa biểu lộ một đức ái nhiệt thành. Thực vậy, nếu không tin vào quyền năng của Chúa, thì những người này đâu có phải vất vả khiêng người bất toại đến với Chúa như thế. Hơn nữa họ lại phải làm một việc xem ra không được lịch sự cho lắm. Đó là khi thấy đám đông cản lối của họ, họ đã phải khiêng người bất toại lên mái nhà. Những ngôi nhà tại Do Thái thời đó đều có mái bằng có thể leo lên được bằng một cầu thang ở phía ngoài. Việc dời ngói, gỗ, và lá lợp trên mái để tạo một khoảng đủ rộng để thả người bất toại xuống không khó khăn gì lắm. Ở đây, chúng ta phải khâm phục những người này. Họ đã quan tâm sâu sắc đến bạn mình và mong muốn nhìn thấy người ấy được cứu giúp. Họ không chỉ “cầu nguyện về điều này”, nhưng còn hành động song song với những lời cầu nguyện đó.

Khi ghi lại sự việc này, thánh sử Marcô còn ghi chú thêm: “Thấy họ có lòng tin, Chúa Giêsu bảo người bất toại..”. (Mc 2,5). Vâng, khi thấy những việc làm đầy lòng bác ái yêu thương với một đức tin sáng ngời như vậy, thì trái tim của Chúa cũng phải rung động. Đây chính là bài học rất cụ thể cho chúng ta.

  1. “Thấy họ có lòng tin như vậy, Chúa Giêsu bảo người bại liệt: Này con, con đã được tha tội rồi” (Mc 2,5)

Theo Thánh Marcô thì việc Chúa chữa lành người bất toại hôm nay, đánh dấu một khúc quanh trong cuộc đời công khai của Chúa ở trần gian. Chúa muốn xác định với mọi người rằng: Chúa có quyền tha tội.

Mặc dầu, khi Chúa tuyên bố như thế, Chúa biết mình đã đụng phải một điểm rất nhạy cảm của Do Thái giáo, một tôn giáo độc tôn. Dưới mắt của những người Do Thái thì chỉ có Giavê mới là Chúa. Ngoài Giavê Thiên Chúa ra thì không có một Chúa, một thần nào khác. Vì thế, khi Chúa nói là mình có quyền tha tội thì lập tức Chúa bị họ kết án phạm thượng ngay. Sau này vào cuối cuộc đời công khai người ta lại một lần nữa làm như thế. Và kết quả là Thập Giá được dành cho Ngài.

Cám ơn Chúa đã dạy cho chúng ta biết bài học về lòng can đảm và cho dù có phải mất mạng Chúa cũng không bao giờ phản bội sự thật. Và chúng ta cũng phải cám ơn Chúa vì Chúa đã quá yêu thương chúng ta. Bằng sự tha thứ lạ lùng qua Bí tích Hòa giải chúng ta hiểu được tình thương của Chúa như thế nào.

Ngày kia, thánh Phanxicô Salêsiô cho một người xưng tội. Người này xưng rất thành thật, khiêm nhượng và hết lòng ăn năn. Thánh nhân cảm động lắm. Sau khi xưng tội xong, người ấy hỏi:

– Bây giờ cha biết tất cả những sự xấu xa của con rồi. Cha nghĩ thế nào về con?

– Bây giờ cha nhìn con như một đấng thánh.

– Chắc cha phải nói ngược lại, mới được.

– Không. Cha nói theo lương tâm của cha. Con bây giờ hoàn toàn khác trước rồi.

– Nhưng tội lỗi con đã phạm thì luôn luôn ở với con mà.

– Không phải thế đâu con ạ. Khi bà Mađalêna đã ăn năn trở lại, Chúa xem bà như một đấng thánh. Chỉ có bọn Pharisêu giả hình cứ coi bà là kẻ tội lỗi.

– Nhưng đối với cha, con muốn biết cha nghĩ thế nào về quá khứ của con?

– Cha không nghĩ thế nào cả. Điều gì không có trước mặt Chúa thì cha không nghĩ đến. Cha chỉ biết ngợi khen Chúa và vui mừng vì con đã trở lại với Chúa. Cha muốn cùng các thánh trên trời vui mừng với con.

Nói xong, thánh nhân khóc. Người kia bỡ ngỡ hỏi:

– Cha khóc à? Chắc cha khóc vì thấy con phạm nhiều tội quá?

– Cha khóc vì thấy con đã sống lại với Chúa.

Thánh nhân biết rõ phép Giải tội không phải là che dấu tội ta đã phạm, nhưng là rửa sạch hết mọi tội ta đã khiêm nhường xưng ra. (Trích “Phúc”)

Lạy Chúa,

xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin

để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,

nơi khuôn mặt khốn khổ

của tất cả những người bị thử thách:

những kẻ đói không chỉ vì thiếu của ăn,

nhưng vì thiếu Lời Chúa;

những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,

nhưng còn vì thiếu sự bình an, sự thật,

công bằng và tình thương; những kẻ vô gia cư,

không chỉ tìm kiếm một mái nhà,

nhưng còn tìm trái tim hiểu biết, yêu thương; những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,

không chỉ trong thân xác, nhưng cả trong tinh thần, bằng cách thực thi lời hy vọng này:

“Điều các con làm cho người bé mọn nhất trong anh em là các con làm cho chính Ta”.

(Mẹ Têrêsa)

 

 

THỨ BẢY TUẦN 1 THƯỜNG NIÊN

 

LỜI CHÚA: Mc 2, 13-17

Khi ấy Chúa Giêsu đi dọc theo bờ biển, toàn dân đến cùng Người và Người giảng dạy họ.

Khi vừa đi qua, Người thấy ông Lêvi con của Alphê, đang ngồi nơi bàn thu thuế. Người bảo ông: “Hãy theo Ta”. Ông liền đứng dậy theo Người. Và xảy ra là khi Người dùng bữa tại nhà ông, nhiều người thu thuế và tội lỗi cùng đồng bàn với Chúa Giêsu và các môn đệ của Người, vì đã có nhiều kẻ theo Người. Những luật sĩ và biệt phái thấy Người ngồi ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi, liền nói với các môn đệ Người rằng: “Tại sao thầy các ông lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi?”

Nghe vậy, Chúa Giêsu bảo họ: “Những người khoẻ mạnh không cần gì đến thầy thuốc, nhưng là những người đau yếu. Ta không đến để kêu gọi những người công chính, mà kêu gọi những người tội lỗi”.

 

Suy Niệm 1: Kêu gọi người tội lỗi

(Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)

Trong bài Tin Mừng hôm qua, Đức Giêsu đã tha tội cho anh bất toại.

Và chuyện này đã bị các kinh sư coi là phạm thượng (Mc 2, 6).

Trong bài Tin Mừng hôm nay, ngài lại tiếp tục bị tấn công,

vì làm những điều dưới mắt các kinh sư là gai chướng.

Trước hết là việc chọn ông Lêvi vào số các môn đệ.

Như bốn môn đệ đầu tiên, khi được gọi Lêvi cũng đang làm việc.

Lúc đó ông đang ngồi nơi bàn thu thuế, bận bịu với tiền bạc và sổ sách.

Ánh mắt của Thầy Giêsu chụp lấy ông và lôi cuốn ông.

Lời mời của Thầy thật rõ ràng và ngắn gọn: “Anh hãy theo tôi.”

Lêvi có ngỡ ngàng không?

Ông đang làm một nghề bị mọi người coi là ô uế

vì phải tiếp xúc với dân ngoại và dính dáng đến dối trá tham lam.

Ông bị coi là tội nhân, bị gạt ra khỏi cộng đoàn Dân Chúa.

Bây giờ ông được Thầy mời vào nhóm môn đệ của mình

Đức Giêsu có liều lĩnh không?

Ngài có sợ uy tín nhóm bị giảm sút vì sự có mặt của Lêvi không?

Đức Giêsu không định thành lập một nhóm gồm toàn những người hoàn hảo,

nên ngài đã chọn sự có mặt của Lêvi.

Như thế ranh giới giữa “môn đệ” và “tội nhân” đã bị xóa.

Môn đệ chính là tội nhân được kêu gọi để chia sẻ tình bạn và sứ vụ.

Lêvi diễn tả niềm vui của người được gọi bằng một bữa tiệc,

trong đó ông mời các bạn bè đồng nghiệp đến để chia tay.

Đức Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự.

Ngài đã vui vẻ nhận lời, đã đến nhà và ăn với họ, dù đây là điều bị cấm.

Để biện minh cho thái độ này, ngài coi tội nhân như người đau ốm.

Người đau thì cần thầy thuốc, cần sự lại gần để săn sóc của lương y.

Họ cần chữa lành và đón nhận, chứ không cần phán xét và lên án.

Đức Giêsu chính là vị lương y đến để kêu gọi người tội lỗi (c. 17).

Nhưng có ai trong chúng ta lại không là tội nhân?

Có ai trong chúng ta lại công chính thánh thiện

đến độ không cần phải sám hối (Mc 1, 15)?

Hôm nay Đức Giêsu vẫn đi ngang qua đời tôi, tưởng như tình cờ,

vẫn thấy tôi và gọi tôi, vẫn mời tôi ra khỏi chỗ ngồi vững chãi của mình,

và bỏ lại tất cả sau lưng.

Xin được như Lêvi đứng lên ngay để theo Ngài.

 

Cầu nguyện:

Lạy Cha,

thế giới hôm nay cũng như hôm qua

vẫn có những người bơ vơ lạc hướng

vì không tìm được một người để tin;

vẫn có những người đã chết từ lâu

mà vẫn tưởng mình đang sống;

vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,

ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;

vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,

bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;

vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,

dù không phải là người phong…

Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ

và biết chạnh lòng thương như Con Cha.

Nhưng trước hết,

xin cho chúng con

nhìn thấy chính bản thân chúng con.

 

Suy Niệm 2: Lời Thiên Chúa

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Lời Chúa thật mạnh mẽ. Có sức biến đổi cuộc đời. Không chỉ Lê-vi mà cả bạn bè của ông cũng theo Chúa. “Có nhiều người thu thuế và người tội lỗi cùng ăn với Chúa Giêsu và các môn đệ, vì họ đông và đi theo Người”.

Lời Thiên Chúa thay đổi số phận con người vì Thiên Chúa quá yêu thương, quá tin tưởng con người. Quá yêu thương nên trong ánh mắt Người không ai là xấu xa, đáng ghê tởm. Trái lại, mọi người đều có chỗ trong trái tim Người. Càng yếu hèn, tội lỗi, bị bỏ rơi lại càng được Thiên Chúa yêu thương, quan tâm giúp đỡ. Vì “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần”. Còn hơn thế nữa, đó là mục tiêu của Người: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi”. Thật là một tình yêu không thể hiểu được với trí óc con người.

Quá tin tưởng nên Người tin rằng mọi người đều có thể thay đổi, có thể nên tốt. Quá tin tưởng nên Người không nhìn về quá khứ mà chỉ nhìn về tương lai. Quá tin tưởng nên dù quá khứ có xấu xa đến đâu Người vẫn mở cho kẻ tội lỗi một cánh cửa tương lai. Hôm nay, Lê-vi nhận được một lời mời gọi bất ngờ: “Hãy theo Thầy”. Một người thu thuế bị coi là tội lỗi công khai được mời gọi không chỉ thay đổi đời sống mà còn nên tông đồ đi rao giảng Tin mừng, viết sách Tin mừng truyền lại Tin mừng cho đến ngàn sau. Lòng Thương Xót của Chúa là vô bờ bến.

Quả thật Chúa Giê-su là vị Thượng Tế “biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội”. Vậy nên “ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (năm lẻ).

Xót thương nên Chúa sẵn sàng ban cho Ít-ra-en một vị vua để đứng đầu, dù Sa-mu-en không muốn. Xót thương nên phán bảo, chỉ dẫn Sa-mu-en từng chi tiết trong đời sống. Xót thương nên tuyển chọn Sa-un làm vua đầu tiên của Ít-ra-en. Dù ông thuộc chi tộc nhỏ bé nhất trong Ít-ra-en (năm chẵn).

Lạy Chúa con yếu hèn tội lỗi. Xin phán một lời để thay đổi con người con. Lạy Chúa, xin hãy phán. Vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe. Chúa có lời ban sự sống đời đời.

 

Suy Niệm 3: Kêu gọi người tội lỗi

Ơn gọi của Lêvi được coi là khác thường và gây ngạc nhiên hơn ơn gọi của các Tông đồ khác, bởi vì ông là một người tội lỗi công khai. Lêvi sau này được gọi là Matthêu, một trong bốn thánh sử, ông làm nghề thu thuế cho đế quốc Rôma, lúc đó đang cai trị xứ Palestina. Những người làm nghề thu thuế được hưởng lợi tức cao, nhưng bị dân chúng ghét bỏ vì thường xảy ra những vụ gian lận hoặc lạm thu.

Ðối với người Do thái, những người thu thuế là gương mù cần phải tránh xa, xét về phương diện tôn giáo và xã hội, vì hai lý do: thứ nhất, vì họ cộng tác với chính quyền ngoại quốc; thứ hai, vì họ có bàn tay dơ bẩn bởi tiền của dơ bẩn. Ðối với những vị có trách nhiệm về luật Môsê và về phụng tự, thì người thu thuế bị loại trừ khỏi ơn cứu độ, vì họ bị coi như không thể từ bỏ con đường xấu xa, cũng không thể sửa lại những gian lận trong nghề được. Do đó, tiền của người thu thuế dâng cúng vào đền thờ không được nhận; họ không có quyền dân sự, không thể làm thẩm phán hoặc chứng nhân, tất cả những tiếp xúc với họ đều bị coi là nhơ uế.

Nhưng đó không phải là thái độ của Chúa Giêsu, bởi vì Ngài đến để kêu gọi những người tội lỗi. Việc Chúa kêu gọi Lêvi, một người thu thuế tội lỗi và ghi tên ông vào số các Tông đồ, đã bị những người Biệt phái chỉ trích và bị coi như một gương mù: “Sao ông ấy lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi”. Chúa Giêsu nghe những lời chỉ trích này và Ngài giải thích: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, chỉ có người đau ốm mới cần. Tôi đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi”.

Cũng như thời Chúa Giêsu, ngày nay không thiếu những kẻ giả hình, tự cho mình là nhân đức, thánh thiện, nhưng lại khinh thường kẻ khác. Cần phải sống kinh nghiệm tình yêu thương của Thiên Chúa để hiểu được bài Tin Mừng hôm nay. Không gì an ủi hơn việc khám phá ra tình thương của Thiên Chúa đối với người tội lỗi. Thiên Chúa đã so sánh mình với vị Mục Tử nhân lành dám bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc, và khi tìm được Ngài vác nó trên vai đưa về đàn chiên. Việc Thiên Chúa yêu thương người tội lỗi không có nghĩa là Ngài dung thứ tội lỗi. Tình yêu thương của Thiên Chúa không miễn trừ việc nhìn nhận lỗi lầm của con người, cũng không cho phép con người lạm dụng lòng nhân hậu của Ngài. Chúa Giêsu đã đến để giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi. Ngài thấu hiểu sự yếu đuối của con người và sẵn sàng tha thứ, với điều kiện là con người thành thật nhìn nhận tội lỗi của mình và trở lại với Ngài.

Hãy để ơn Chúa tha thứ, cứu rỗi và giải thoát chúng ta. Như Lêvi xưa, xin Chúa cho chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa và mau mắn chỗi dậy theo Chúa, ngay lúc này đây, sợ rằng ơn Chúa qua đi mà không trở lại. “Hôm nay, nếu các ngươi nghe tiếng Chúa, các ngươi đừng cứng lòng nữa”.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Kìa Người đến dùng bữa!

Đức Giêsu lại đi ra bờ biển hồ. Toàn thể dân chúng đến với Người, và Người dạy dỗ họ. Đi ngang qua trạm thu thuế, Người thấy ông Lê-vi là con ông An-phê, đang ngồi thu thuế ở đó. Người bảo ông: “Anh hãy theo tôi!” Ông đứng dậy đi theo Người. (Mc. 2, 13-14)

Chúa Giêsu thường bị những con mắt hay soi bói và đả kích Người bám theo. Mọi cử chỉ của Người đều bị họ rình mò, giải thích và sàng lọc theo luật lệ của những người Pharisiêu. Các kinh sư là những người rất quen với công việc này; và họ cũng thường có cơ hội dễ dàng.

Hạng người rình mò như thế vẫn còn, bởi lẽ tất cả chúng ta tự bản tính vốn dễ dàng xếp loại mọi người, phân cách người lành với kẻ dữ và nhất là muốn dựng lên bức vách ngăn giữa cái gì là khả kính với bất kính, ít nữa là xét theo quy tắc và quan điểm của ta.

Thực ra Giáo hội vẫn còn là một tập hợp những con người đáng trọng cũng có và không đáng kinh cũng có, nơi đây Chúa Giêsu đến cư ngụ, bởi vì ngay lúc ban đầu, từ những con người tội lỗi mà Chúa đã lập nên Giáo hội vậy.

Giáo Hội là một tập hợp đủ thứ

Theo cái nhìn của những người trí thức Mác-xít tích cực, thì Giáo hội thường quy tụ những con người yếu hèn, bất lực trong việc tự giải quyết lấy thân phận con người và xã hội của mình, nên mới chạy đến với những cái nạng gọi là “Thiên Chúa” hay “đức tin” vậy.

Nơi đây có Chúa cư ngụ

Thực ra, hơn nơi nào khác, Chúa Giêsu chỉ thích tìm cư ngụ nơi những con người đã không tìm được ở nơi mình bất cứ một lý lẽ nào để biện minh cho sự công chính của mình, nơi những kẻ không có lấy một sự đáng tôn đáng kính nào khác, ngoài chuyện họ sống trung thực, can đảm và sẵn sàng thú nhận mình là kẻ tội lỗi.

Quả thực, người tội lỗi là người sống trung thực, vì người ấy biết rõ mình. biết nơi mình không có được tất cả sự bền bỉ cần thiết để sống trọn phẩm giá con người, và để được như thế, cần phải có ơn Chúa. Người có tội không gian lận với mình.

Người tội lỗi cũng là người can đảm. Có người đã viết điều này: có can đảm hay không ở tại biết làm cho sự thật phải yên lặng hoặc không làm cho sự thật yên lặng? Quả quyết mình dốt nát hay dấu nhẹm sự ấy, đàng nào can đảm hơn? Tỏ ra run sợ trước Thiên Chúa thánh thiện và siêu phàm, phải chăng kém can đảm hơn là trốn chạy khỏi tôn nhan Người?

Sau cùng con người tội lỗi luôn ở tư thế chuẩn bị sẵn; người ấy biết rõ rằng điều tốt nhất đang ở phía trước, nên sẵn sàng lại lên đường.

Có thế ta mới hiểu được tại sao Chúa Giêsu thích lui tới hạng người này và tại sao chúng ta không được vấp phạm vì hành động của Giáo hội mẹ ta và vì những ai thường đến chung sống với họ vậy.

 

Suy Niệm 5: Nhạy bén với tình thương của Chúa

Ơn gọi luôn luôn đến từ Chúa. Chúa muốn gọi và chọn ai tùy ý Ngài. Tuy nhiên, nếu chỉ có Chúa gọi và con người không đáp trả thì không trở thành một ơn gọi.

Hôm nay, Chúa gọi Mátthêu, người thu thuế. Dù là con người tội lỗi vì mang trong mình cái tội phản quốc, tức là trù dập dân, o ép người đồng hương, để hưởng lợi nhuận trên xương máu của đồng bào.

Tuy nhiên, khi nhận ra mình tội lỗi ngập đầu như vậy, và được Đức Giêsu yêu thương trìu mến chọn và gọi mình, thì Mátthêu đã không ngần ngại thả lỏng cây bút chuyên ghi chép những chuyện phi nhân, bất nghĩa và sẵn sàng buông mình vào bàn tay từ ái của vị Thầy dễ thương để tùy Ngài hướng dẫn, ngõ hầu sau này dùng ngòi bút mới để viết lên những trang Tin Mừng mang đậm tình thương của Thiên Chúa cho nhân loại, mà chính ông là người được yêu thương cách nhiệm mầu và cảm nghiệm cách đặc biệt.

Nhiều khi trong cuộc sống, chúng ta bỏ lỡ nhiều cơ hội được Chúa yêu thương, một phần do kiêu ngạo như những người Pharisêu, luôn coi mình là hạng người ưu tuyển, nên không nhạy bén trước tình yêu của Thiên Chúa; mặt khác, không giống như Mátthêu, nhiều khi chúng ta lại quá tự ty đến độ không dám đến với Thiên Chúa vì cho rằng mình không xứng đáng.

Tất cả những lý do đó hoàn toàn không phù hợp với Tin Mừng, vì Đức Giêsu đến không phải để kêu gọi người công chính, mà là kêu gọi người tội lỗi, bởi vì người đau yếu mới cần thầy thuốc, người khỏe mạnh thì không cần.

Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta hay có thái độ khinh thường những người tội lỗi và tự mãn vì mình là người đạo đức, nhưng không chừng, con cái trong nhà lại bị loại ra ngoài, còn phường tội lỗi và gái điếm lại vào Nước Trời trước chúng ta!

Xin Chúa Giêsu ban cho mỗi người chúng ta mặc lấy cái nhìn của Chúa, luôn yêu thương những người tội lỗi, đồng thời biết mau mắn đáp trả lời mời gọi của Ngài để ra đi chia sẻ tình thương của Chúa cho anh chị em xung quanh. Amen.

Ngọc Biển

 

Suy Niệm 6: Thiên Chúa gọi kẻ Ngài muốn

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Thiên Chúa gọi kẻ Ngài muốn. Chúa kêu gọi ông Lêvi và giúp ông thoát khỏi cảnh sống bất công. Chúa cũng kêu mời từng người chúng ta theo Ngài, để sống đời thánh thiện.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ban cho con một điều rất quý là sự tự do. Vì có tự do, con phải chọn lựa: hoặc theo Chúa, hoặc theo ma quỷ, tội lỗi, thế gian. Theo Chúa là để sống một cuộc đời thánh thiện, theo Chúa cũng có nghĩa là từ bỏ tội lỗi, tính mê nết xấu.

Lạy Chúa, chắc chắn rằng trong niềm tin, con đã chọn Chúa, nhưng trong cuộc sống, rất nhiều lần con đã làm theo ý của ma quỷ, thế gian và xác thịt. Con cần phải đứng về phía Chúa để loại trừ tội lỗi. Tuy nhiên, cũng như ông Lêvi được Chúa yêu thương, con cũng cần được Chúa ghé mắt đoái nhìn.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đi đến dùng bữa tiệc tại nhà ông Lêvi. Đó là cử chỉ thân tình và Chúa đã biểu lộ lòng nhân từ. Chúa đến nhà ông như một dấu hiệu ông đã thuộc về Chúa. Hôm nay, không những Chúa đến với con, mà còn hơn thế nữa, Chúa dẫn con đến nhà Chúa, đến với Chúa để hưởng trọn niềm vui của người được ơn tha thứ.

Xin Chúa giúp con biết dứt khoát, cương quyết can đảm đứng dậy đi vào cuộc sống mới, như ông Lêvi đã hành động.

Chúa đã gọi tên ông Lêvi và kêu mời ông đi theo Chúa. Hôm nay Chúa cũng gọi đích danh con, Chúa đang đứng đó chờ con. Xin Chúa giơ tay cứu vớt tâm hồn con đang ngập tràn tội lỗi. Được ở bên Chúa, con cảm thấy an tâm và hạnh phúc, vì Chúa có sức mạnh thay đổi tâm hồn và cải hóa con trở thành người tốt. Amen.

Ghi nhớ: “Ta không đến để kêu gọi những người công chính, mà kêu gọi những người tội lỗi”.

 

Suy Niệm 7: Chúa Giêsu gọi Lêvi-người thu thuế

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Phaolô – vị tông đồ dân ngoại. Ban đầu là một biệt phái hăng say bắt bớ Giáo hội của Chúa. Trên đường Đamas, Thiên Chúa đã cho Phaolô té ngựa và bị mù ba đêm ngày. Ông đã trở vào làng, âm thầm cầu nguyện, lắng nghe tiếng Chúa và tuân theo ý Ngài. Phaolô đã nhận ra thiên ý và đã tuân theo ý: Từ một thái độ hung hăng, bắt bớ Giáo hội, Ngài đã trở nên vị tông đồ nhiệt thành, làm chứng cho Chúa Kitô (x. Cv 26,4-18).

Trở thành môn đệ, Phaolô đã hết mình với sứ vụ: “Vì tình yêu của Đức Kitô thúc bách chúng tôi” (2Cr 5,15). Tình yêu của Chúa giúp Phaolô vượt qua mọi thử thách, mọi cam go và ông đã trung thành với sứ mạng đến nỗi quên mọi hiểm nguy, quên mọi thử thách để chỉ nghĩ tới việc đem dân ngoại trở lại.

Suy niệm

Người thuế vụ trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu luôn bị anh em đồng bào mình khinh miệt vì hai lý do: Thu thuế ăn chặn của dân và làm tay sai cho đế quốc Rôma để bóc lột dân mình… Với người Do Thái, thu thuế là hình ảnh của những gì là xấu xa nhất, tội lỗi nhất, đáng khinh miệt nhất bị coi đồng hạng với những kẻ cắp và phụ nữ ngoại tình.

Theo phong tục của người Do Thái, một người ngoan đạo, không được giao du với những người bị coi là tội lỗi. Lại càng không bao giờ ăn uống cùng bàn với họ để khỏi bị lây nhiễm hoặc bị ô uế… Thế nhưng, Chúa Giêsu lại gọi người thu thuế Lêvi theo Ngài. Gọi một người tội lỗi làm môn đệ, một hành động khiến người Do Thái không thể hiểu được. Ngài lại còn đồng bàn với những kẻ thu thuế khác như là những người đồng hội, đồng thuyền với quân tội lỗi… Trong Tin Mừng đã ghi lại những khoảnh khắc của Đức Kitô đã ngồi cùng bàn với phường thu thuế, tiếp xúc với bọn đĩ điếm, kẻ tội lỗi (x. Mt 9, 10-13; Mc 2,15-17; Lc 5,10; 7,36-50; 15,1-2; 19,7). Cùng đồng bàn với họ, Đức Giêsu đã hòa mình với tội nhân để gắn bó sẻ chia… Sứ mạng của Ngài là để cứu độ tất cả, chữa những người bất hạnh, trong đó có cả những tội nhân. Ngài là vị thầy thuốc đến cứu chữa (x. Mt 9,12-13) như Ngài tuyên bố “Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10).

Tội nhân là người bệnh người mang vết thương, Đức Giêsu đến chữa lành cho họ. Ngài sẵn sàng đồng bàn, nghĩa là cùng chia sẻ gánh nặng tội lỗi trên thân thể Ngài, mang nó lên thập giá và tiêu diệt nó nhờ cuộc Phục sinh vinh hiển của Ngài (x. 1Cr 15,26). Trên thập giá, Ngài xin ơn tha thứ những kẻ đóng đinh Ngài (x. Lc 23,34).

Khi nghe tiếng gọi của Đức Kitô, người thu thuế Lêvi đã bỏ tất cả để cất bước theo Chúa Kitô, bỏ cả một nghề nghiệp đang hốt bạc, bỏ cả một quá khứ tội lỗi để Chúa Kitô thánh hiến trở thành môn đệ Matthêu, ngài cất bước chia sẻ với anh em mình trên con đường cứu độ. Bao nhiêu quá khứ không đẹp như những vết thương được Chúa Giêsu chữa lành nên con người tông đồ của Tin Mừng.

Ý lực sống: “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10).

 

Suy Niệm 8: Chúa gọi ông Lêvi

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Chúa Giêsu đi dọc bờ biển giảng dạy dân chúng. Người thấy ông Lêvi (Matthêu) đang ngồi thu thuế. Người gọi ông, ông liền theo Người, và dọn tiệc thiết đãi Người với các kẻ thu thuế và nhiều người tội lỗi. Thấy vậy, nhóm luật sĩ và biệt phái hỏi môn đệ Chúa: Sao Thầy các ông ăn uống với phường thu thuế và kẻ tội lỗi? Chúa nghe thấy vậy thì đáp: Thầy thuốc không cần cho người khỏe mạnh mà chỉ cần cho kẻ yếu đau. Cũng thế, Ta không đến để kêu gọi  người lành thánh mà đến để kêu gọi người tội lỗi ăn năn thống hối.
  2. Theo tục lệ đế quốc La Mã thời bấy giờ, chính phủ cho người ta đứng ra thầu thu thuế. Nộp tiền thầu cho chính phủ xong, những người thu thuế được độc quyền đánh thuế nặng nhẹ tùy ý. Làm một nghề dễ kiếm ăn như thế, mấy ai kiêng giữ được những sự tham lam nhũng nhiễu dân chúng? Vì thế, người Do thái có ác cảm với bọn thu thuế không chỉ vì tội tham lam mà còn vì họ là tay sai cho đế quốc La Mã nữa.

Lêvi là người tội lỗi công khai (làm nghề thu thuế). Trong khi mọi người khinh dễ ông, khai trừ ông và tránh xa ông, coi như đồ ghê tởm, thì Chúa Giêsu không chê ông mà còn chọn ông làm môn đệ Ngài.

  1. Việc Chúa Giêsu chọn một người thu thuế như Lêvi làm môn đệ đã đem lại sự vui sướng chẳng những cho chính Lêvi mà còn cho những người thu thuế khác. Vì thế họ dọn một bữa tiệc để ăn mừng. Xưa nay họ chỉ thấy mới có một mình Chúa Giêsu không chê họ mà còn chọn một người trong bọn họ làm môn đệ.

Bữa ăn hay bữa tiệc thường được diễn tả sự gần gũi thân tình. Ở đây Đức Giêsu và các môn đệ đến dùng bữa tại nhà ông Lêvi cùng với nhiều người thu thuế và các người tội lỗi, chứng tỏ Chúa bầy tỏ tình thương đối với những người tội lỗi. Chính tinh thần này lôi kéo những người tội lỗi đến với Người.

  1. Việc Chúa Giêsu gọi Lêvi là người thu thuế đi theo Người lại là cớ gây ra sự phê bình và chỉ trích của người Do thái, nhất là các luật sĩ và biệt phải.

Họ vốn có quan niệm chật hẹp, khép kín và khinh rẻ đối với những người tội lỗi, nên khi thấy Chúa Giêsu và các môn đệ tiếp xúc thân tình với những người tội lỗi, thì họ đã tỏ ra khó chịu nên họ đã phê bình và chỉ trích Chúa. Họ đã hỏi các môn đệ: “Sao! Ông ấy ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi” (Mc 2,16)?

  1. Để sửa lại quan niệm hẹp hòi của luật sĩ, Chúa Giêsu đã trả lời cho họ: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mc 2,17). Chính vì Lêvi ý thức thân phận tội lỗi bất xứng của mình cho nên anh rất mừng khi được Chúa gọi, và quảng đại bỏ tất cả để theo Người.

Truyện: Chính vì ham mê cờ bạc mà anh hàng xóm của tôi, sau khi tiêu hết tài sản của gia đình, đã dùng những viên thuốc ngủ để kết thúc cuộc đời, ngay trong lúc đứa con thứ hai của anh chào đời. Thế nhưng anh đã không chết.

Sau khi từ bệnh viện trở về, tôi thấy anh sống trong im lặng, lầm lũi như một kẻ độc hành, lòng mang nặng mặc cảm tội lỗi, yếu hèn.

Sau một tháng suy nghĩ và do dự, tôi quyết định đến thăm anh, và chỉ sau mấy lời tôi hỏi  thăm, anh đã bật khóc.

Tôi đã quyết định đúng và đã bước đến với anh khi anh đang cần chia sẻ và cảm thông. Nhưng không phải lúc nào tôi cũng làm như vậy, trong khi có biết bao người đang cần đến nụ cười thông cảm của tôi.

Lạy Chúa, Chúa đã không kết án người tội lỗi. Xin cho con biết thông cảm và đừng bao giờ xét đoán hay lên án anh em (Epphata).

  1. Truyện: Xanh vỏ đỏ lòng.

Hai người bạn vào trong một tiệm nữ trang. Sau khi nhìn và chiêm ngưỡng nhiều viên đá quí, họ để ý đến viên ngọc sần sùi không được bóng láng cho lắm.

– Viên đá này không có gì đáng lưu ý cả – một người nói, làm sao lại để nó đây?

Người chủ tiệm kim hoàn bèn cầm nó lên và nắm chặt trong lòng bàn tay. Vài phút sau, viên đá mờ đục không bóng láng đó trở nên lóng lánh muôn mầu cách kỳ diệu.

– Làm sao có thể như vậy – hai người bạn hỏi.

– Đây là một viên đá mắt mèo, được gọi là viên đá thiện cảm. Nó cần có sự đụng chạm với một bàn tay nóng ấm để các tia sáng của nó hiện lộ ra – người chủ tiệm trả lời.

Chúa Giêsu cũng thế! Ngài có một cái nhìn đặc biệt về Lêvi mà những người khác không có. Chúa đã nhìn thấy trong Lêvi có một thiện chí. Ngài đã gọi ông và quả thực Ngài đã không lầm. Cuộc đời sau này của Lêvi – Matthêu cho chúng ta thấy rõ điều đó.

 

Suy Niệm 9: Chúa Giêsu kêu gọi Lêvi làm môn đệ

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Phân tích (Hạt giống…)
  2. Chúa Giêsu kêu gọi Lêvi làm môn đệ Ngài:

– Lêvi là một người tội lỗi công khai (làm nghề thu thuế). Trong khi mọi người khinh dễ anh, khai trừ anh và tránh xa anh, thì Chúa Giêsu không chê anh mà còn chọn anh làm môn đệ Ngài.

– Chính Chúa Giêsu đến với anh để chọn anh chứ không phải anh đến với Chúa để xin đi theo Ngài.

– Khi được Chúa Giêsu gọi, Lêvi đã mau mắn bỏ mọi sự để theo: “Ngài bảo ông ‘Hãy theo Ta’. Ông liền đứng dậy theo Ngài”.

  1. Việc Chúa Giêsu chọn một người thu thuế như Lêvi làm môn đệ đã đem lại sự vui mừng sung sướng chẳng những cho chính Lêvi mà còn cho những người thu thuế khác. Vì thế họ dọn một bữa tiệc để ăn mừng. Xưa nay họ chỉ thấy mới có một mình Chúa Giêsu không chê họ mà còn chọn một người trong bọn họ.
  2. Nhân dịp có mấy người biệt phái chỉ trích thái độ Chúa Giêsu thân thiện với những người tội lỗi, Ngài cho biết thêm Ngài chính là “Thầy thuốc” đến trần gian để cứu chữa những người tội lỗi.
  3. Suy niệm (…nẩy mầm)
  4. Lêvi nào dám đến với Chúa Giêsu, vì ông ý thức thân phận tội lỗi bất xứng của mình. Chúa Giêsu biết mặc cảm đó nên đã tự động đến tìm ông. Đối với những người tội lỗi, chúng ta đừng chờ họ đến với mình mà phải chủ động tìm đến với họ.
  5. Chính vì Lêvi ý thức thân phận tội lỗi bất xứng của mình cho nên anh rất mừng khi được Chúa gọi, và quảng đại bỏ tất cả để theo Ngài. Chúng ta càng ý thức thận phận bất xứng của mình thì càng nhận biết ơn gọi của mình là một hồng ân và càng sẵn sàng từ bỏ mọi sự để theo Chúa.
  6. “Ta không đến để kêu gọi người công chính mà kêu gọi những người tội lỗi”. Đó là lập trường của Chúa Giêsu. Nếu tôi tự coi là công chính thì không bao giờ tôi được Ngài đến gọi tôi.
  7. “Chúa Giêsu nói: ‘Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mc 2,17)

Chỉ vì ham mê cờ bạc mà anh hàng xóm của tôi, sau khi tiêu hết tài sản của gia đình, đã dùng những viên thuốc ngủ để kết thúc cuộc đời, ngay trong lúc đứa con thứ hai của anh chào đời. Thế nhưng anh đã không chết.

Sau khi từ bệnh việc trở về, tôi thấy anh sống trong im lặng, lầm lũi như một kẻ độc hành, lòng mang nặng mặc cảm tội lỗi, yếu hèn.

Sau một thoáng suy nghĩ và do dự, tôi quyết định đến thăm anh, và chỉ sau mấy lời tôi hỏi thăm, anh đã bật khóc.

Tôi đã quyết định đúng và đã bước đến với anh khi anh đang cần chia sẻ và cảm thông. Nhưng không phải lúc nào tôi cũng làm được như vậy, trong khi có biết bao người đang cần đến nụ cười thông cảm của tôi.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã không kết án người tội lỗi. Xin cho con biết thông cảm và đừng bao giờ xét đoán hay lên án anh em. (Epphata)

 

Suy Niệm 10: Chúa Giêsu kêu gọi người tội lỗi …

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Chúa Giêsu kêu gọi Lêvi làm môn đệ Ngài:

– Chúa kêu gọi ông đang lúc ông ngồi ở bàn thu thuế. Tất cả những người thu như ông đều bị liệt vào hạng những người tội lỗi công khai. Lêvi biết rất rõ điều đó. Ông bị mọi người khinh dễ, khai trừ và tránh xa.

Với mọi người thì là như thế nhưng với Chúa Giêsu thì khác. Chúa đã không chê ông mà còn chọn ông làm môn đệ Ngài. Tin mừng cho chúng ta thấy:

– Chính Chúa Giêsu đến với ông để chọn ông chứ không phải ông đến với Chúa. Ngài gọi ông “Hãy theo Ta”. Ông liền đứng dậy theo Ngài.

Việc Chúa Giêsu chọn một người thu thuế như Lêvi làm môn đệ đã đem lại sự vui mừng sung sướng chẳng những cho chính Lêvi mà còn cho cả những người thu thuế khác. Chính vì thế mà họ đã dọn một bữa tiệc để ăn mừng.

Đứng trước sự việc đó, một số luật sĩ và biệt phái đã chỉ trích Chúa, Nhân dịp này Chúa đã cho mọi người biết  Ngài chính là “Thầy thuốc” đến trần gian để cứu chữa những người tội lỗi.

  1. Thử hỏi qua câu chuyện này chúng ta rút ra được bài học gì cho chúng ta?

– Trước hết câu chuyện cho chúng ta thấy cái nhìn của Chúa Giêsu đối với một con người khác với cái nhìn của con người với nhau.

Hai người bạn vào trong một tiệm nữ trang. Sau khi nhìn và chiêm ngưỡng nhiều viên đá quí, họ để ý đến một viên ngọc sầm xùi không được bóng láng cho lắm.

– Viên đá này không có gì đáng lưu ý cả – một người nói, làm sao lại để nó ở đây?

Người chủ tiệm kim hoàn bèn cầm nó lên và nắm chặt trong lòng bàn tay. Vài phút sau, viên đá mờ đục không bóng láng đó trở nên lóng lánh muôn màu cách diệu kỳ.

– Làm sao có thể như vậy – hai người bạn hỏi.

– Đây là một viên đá mắt mèo, được gọi là viên đá thiện cảm. Nó cần có sự đụng chạm với một bàn tay nóng ấm để các tia sáng của nó hiện lộ ra! – người chủ tiệm trả lời.

Chúa Giêsu cũng thế! Ngài có một cái nhìn đặc biệt về Lêvi mà những người  khác không có. Chúa đã nhìn thấy trong Levi có một thiện chí. Ngài đã gọi ông và quả thực Ngài đã không lầm. Cuộc đời sau này của Lêvi – Mathêo cho chúng ta thấy điều đó.

Thứ đến là lòng quảng đại của Chúa.

Rõ ràng là Chúa biết rất rõ về con người của Lêvi, nhưng Chúa không chấp.

Tại một thiền viện kia có nhiều đệ tử đang theo học thiền định dưới sự hướng dẫn của thiền sư Sengai. Một người trong bọn họ thường hay dậy ban đêm, vượt tường ra phố để dạo mát cho thỏa thích.

Một đêm kia, Sengai đi giám sát phòng ngú, thấy một đệ tử vắng mặt và cũng khám phá ra được chiếc ghế đẩu cao mà anh ta thường đùng để leo qua tường. Sengai dời chiếc ghế đi chỗ khác và đứng thay vào chỗ đó. Khi anh chàng rong chơi trở về, không biết rằng Sengai là chiếc ghế, anh ta đặt chân lên đầu thầy và nhảy xuống đất. Khi khám phá ra việc mình đã làm, anh ta hoảng sợ nhưng Sengai nhỏ nhẹ bảo anh: 

– Sáng sớm nay trời lạnh tắm. Con hãy cẩn thận kẻo bị lạnh đấy!

Từ đó, người đệ tử  không bao giờ bỏ ra ngoài ban đêm nữa.

Sau cùng là nỗ lực của chính bản thân.

Một chàng trai trẻ luôn tự cho mình là giỏi giang. Sau khi tốt nghiệp đại học, chàng trai tìm mãi mà vẫn không có được một công việc lý tưởng và chàng thất vọng.

Rồi một hôm, vì không chịu nổi được sự giày vò của lương tâm, chàng đi ra bờ biển, định kết thúc cuộc đời của mình. Đúng lúc đó, thì có một ông lão nhìn thấy và đã cứu chàng. Ông lão hỏi:

– Tại sao mà con lại đi vào con đường tuyệt vọng này vậy?

Chàng trai trả lời:

– Vì không có ai thừa nhận, yêu thương và trọng dụng con cả.

Ông lão cúi xuống nhặt một hạt cát lên, đưa cho chàng trai nhìn, rồi vứt nó xuống bãi cát và nói với chàng trai:

– Cháu hãy nhặt hạt cát ta vừa vứt xuống cho ta!

Chàng trai nói:

– Con không thể làm được.

Ông lão không nói câu nào, mà chỉ lẳng lặng móc từ trong túi ra một hạt ngọc trai sáng lóng lánh, rồi vứt nó xuống bãi cát. Sau đó, ông hỏi chàng trai:

– Con có thể tìm lại được hạt ngọc trai đó không?

– Đương nhiên là cháu có thể. Chàng trai trả lời.

Ông lão bèn nói:

– Cháu phải hiểu, hiện nay bản thân cháu chưa phải là một viên ngọc trai, vì thế cháu không nên đòi hỏi người khác thừa nhận cháu ngay lập tức. Nếu không được người khác thừa nhận, cháu phải nghĩ đến cách làm cho bản thân mình trở thành một viên ngọc trai đã chứ.

Chàng trai im lặng, cúi đầu.

Vâng! Có những lúc, bạn cần phải biết rằng mình chỉ là một hạt cát bình thường, chứ chưa phải là một viên ngọc trai quý hiếm. Nếu bạn muốn trở nên xuất sắc và nổi trội, thì cần phải nỗ lực làm cho bản thân biến thành viên ngọc trai đã.