Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 15 Thường Niên

print

Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 15 Thường Niên

THỨ HAI TUẦN 15 THƯỜNG NIÊN.

THỨ BA TUẦN 15 THƯỜNG NIÊN.

THỨ TƯ TUẦN 15 THƯỜNG NIÊN.

THỨ NĂM TUẦN 15 THƯỜNG NIÊN.

THỨ SÁU TUẦN 15 THƯỜNG NIÊN.

THỨ BẢY TUẦN 15 THƯỜNG NIÊN.

THỨ HAI TUẦN 15 THƯỜNG NIÊN

Lời Chúa: Mt 10,34 – 11,1

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: “Các con chớ tưởng rằng Thầy đến để mang hoà bình cho thế gian: Thầy không đến để đem hoà bình, nhưng đem gươm giáo. Vì chưng, Thầy đến để gây chia rẽ con trai với cha mình, con gái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ chồng mình: và thù địch của người ta lại là chính người nhà mình. Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy. Kẻ nào yêu con trai con gái hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy.

Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó.

Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy, và kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp Đấng đã sai Thầy. Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri; và kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa người công chính, thì sẽ lãnh phần thưởng của người công chính. Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con: người ấy không mất phần thưởng đâu”.

Sau khi Chúa Giêsu truyền dạy xong các điều ấy cho mười hai tông đồ, Người rời khỏi đó để đi dạy dỗ và rao giảng trong các thành phố của các ông.

 

Suy Niệm 1: Không xứng với Thầy

Suy niệm:

Văn Cao là một nhạc sĩ có tài với bản Tiến Quân Ca bất hủ.

Nhưng ông cũng là một thi sĩ ít được ai biết đến.

Ông có làm một bài thơ ngắn Không Đề như sau:

“Con thuyền đi qua để lại sóng.

Đoàn tàu đi qua để lại tiếng.

Đoàn người đi qua để lại bóng.

Tôi không đi qua tôi để lại gì?”

Ông muốn để lại chút gì cho đời của kẻ đã mang tiếng ở trong trời đất.

Và ông hiểu rằng mình không thể để lại gì, nếu không vượt qua chính mình.

Cái tôi và tất cả những gì thuộc về nó, đều là đối tượng phải vượt qua.

Vượt qua cái tôi không làm tôi mất nó, nhưng lại được một cái tôi viên mãn.

Phải chăng đó là điều Văn Cao, một Kitô hữu ẩn danh đến lúc chết,

muốn gửi gấm qua những vần thơ này?

Có những giá trị hầu như được mọi người nhìn nhận.

Có những giá trị thiêng liêng máu mủ như cha mẹ, con cái.

Đặc biệt trong xã hội Do thái, hiếu thảo với cha mẹ là điều được đề cao.

Đức Giêsu cũng đã phê phán thái độ bất hiếu đối với cha mẹ (Mt 15, 3-6).

Mạng sống của con người cũng là một giá trị cao quý.

Đụng đến mạng sống con người là xúc phạm đến chính Thiên Chúa,

như ta thấy trong chuyện Cain giết em là Aben (St 4, 9-10).

Trước những giá trị thiêng liêng như thế, ta cần yêu mến, giữ gìn.

Yêu cha, yêu mẹ, yêu con trai, con gái, là những điều hợp đạo lý.

Giữ gìn mạng sống của mình là điều phải làm.

Tuy nhiên, Đức Giêsu đã đưa ra một đòi hỏi mới mẻ và đáng sợ.

Ngài không cấm các môn đệ yêu cha mẹ, con cái, hay mạng sống,

vì đó là những giá trị thiêng liêng cao quý.

Nhưng Ngài không chấp nhận họ yêu những giá trị này hơn Ngài.

Ngài không muốn họ đặt Ngài ở dưới những giá trị đó.

Đơn giản Ngài muốn họ coi Ngài là một Giá Trị hơn hẳn, Giá Trị viết hoa.

Khi cần chọn lựa giữa các giá trị, Ngài đòi họ ưu tiên chọn Ngài.

Cụm từ “không xứng đáng với Thầy” được nhắc đến ba lần (cc. 37-38).

Chỉ ai dám yêu Ngài hơn người thân yêu, dám vác thập giá mình mà theo,

người ấy mới xứng đáng với Thầy.

Chỉ ai dám mất mạng sống của mình vì Thầy,

người ấy mới lấy lại được sự sống tròn đầy ở đời sau (c. 39).

Đức Kitô là ai mà đòi chúng ta phải đặt Ngài lên trên các thụ tạo như vậy,

nếu Ngài không phải là hiện thân của chính Thiên Chúa?

Đừng quên chính Ngài đã mất mạng sống mình vì tôi trước.

Chỉ khi tôi đi qua tôi, nhờ đặt tôi và mọi sự thuộc về tôi dưới Đức Kitô,

tôi mới có gì để lại cho đời, tôi mới giữ lại được mọi giá trị khác.

Xin làm được điều thánh Biển Đức dạy:

“Phải tuyệt đối không coi gì trọng hơn Đức Kitô.”

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

xin cho con thấy Chúa thật lớn lao,

để đối với con, mọi sự khác trở thành bé nhỏ.

Xin cho con thấy Chúa thật bao la,

để cả mặt đất cũng chưa vừa cho con sống.

Xin cho con thấy Chúa thật thẳm sâu,

để con dễ đón nhận nỗi khổ đau sâu thẳm nhất.

Lạy Chúa Giêsu,

xin làm cho con thật mạnh mẽ,

để không nỗi thất vọng nào

còn chạm được tới con.

Xin làm cho con thật đầy ắp,

để ngay cả một ước muốn nhỏ

cũng không còn có chỗ trong con.

Xin làm cho con thật lặng lẽ,

để con chỉ còn loan báo Chúa mà thôi.

Xin Chúa ngự trong con thật sống động,

để không phải là con,

mà là chính Ngài đang sống.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

Suy Niệm 2: Bình an của Chúa

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúa Giêsu đến khiến người ta phải dứt khoát chọn lựa. Hoặc Chúa hoặc ma quỉ. Hoặc trần gian hoặc Nước Trời. Chọn lựa đó dẫn đến hai con đường khác nhau.

Trần gian tìm thu tích vun quén cho mình. Vì thế nên áp bức bóc lột người khác. Mạnh được yếu thua. Trần gian được thể hiện rõ nét trong toan tính của Pha-ra-ô. Để bảo vệ quyền lực và để làm giầu cho mình, Pha-ra-ô ra lệnh giết con trai của người Do thái. Và bắt người Do thái làm nô lệ (năm lẻ).

Trần gian trở thành tinh vi hơn khi ngụy trang dưới lớp vỏ đạo đức. Người Do thái một mặt thờ kính Chúa rất sốt sắng. Dâng rất nhiều lễ vật. Nhưng mặt khác lại không ngừng phạm tội ác, áp bức bóc lột đồng loại. Chúa dùng I-sa-i-a cảnh báo họ đó là lối sống đạo không đẹp lòng Chúa (năm chẵn).

Trái lại người đi theo Chúa phải luôn từ bỏ tất cả những gì ngăn cản ta đến với Chúa. Dù đó là cha mẹ, anh em, con cái. Thậm chí phải bỏ chính mình, bỏ cả mạng sống mình nữa.

Nhưng kết quả thật khác xa. Kết quả trước mắt là bình an. Người chỉ lo chiếm đoạt và ức hiếp bóc lột sẽ tạo ra chiến tranh, bất bình. Bản thân người chỉ lo tính toán để hại người cũng không được bình an. Những nhà độc tài luôn lo sợ và nghi ngờ. Dục vọng làm cho tâm hồn con người không bao giờ an nghỉ.

Trái lại những người theo Chúa, từ bỏ mình lại luôn được bình an. Một niềm bình an sâu thảm vì đã thoát được tất cả những dục vọng, thèm muốn, chiếm đoạt. Và nhất là vì đã được chính Chúa làm phần thưởng.

Trong tầm nhìn cánh chung, những người chỉ lo thu tích, chiếm đoạt bằng áp bức bóc lột người khác sẽ mất tất cả khi bước vào đời sau. Tệ hơn thế, họ còn bị xét xử, kết án và bị trừng phạt.

Trái lại những người đã biết cho đi, quên mình sẽ được phần thưởng trọng hậu. Ngay cả những cử chỉ bác ái quên mình bé nhỏ như cho một ly nước lã thôi, Chúa cũng ghi nhớ và thưởng công xứng đáng. Khi sống quên mình và biết nghĩ đến người khác, người môn đệ kiến tạo hòa bình trên thế giới. Đó là nền hòa bình chân thực phát xuất từ tâm hồn. Đó là bình an của Chúa.

 

Suy Niệm 3: Chúa Sẽ Ðền Bù

Có thể nói, bài Tin Mừng hôm nay cho hệ quả của bước đường theo Chúa. Theo Chúa, người môn đệ phải chấp nhận nhiều thua thiệt: họ có thể bị chống đối từ ngoài xã hội đến trong gia đình, và một cách nào đó, Chúa Giêsu cũng bị xem là nguyên cớ của các tranh chấp, chống đối. Thật thế, làm sao không có đối nghịch giữa ánh sáng và bóng tối, giữa Chúa Giêsu và thế gian, giữa quyền lực Thiên Chúa và quyền lực thế gian. Bước theo Chúa, người môn đệ phải chọn lựa, và chỉ chọn lựa tình yêu Chúa mới cho họ xứng đáng được gọi là môn đệ Ngài.

Chắc chắn, khi chọn lựa như vậy, người môn đệ không tránh khỏi những mất mát, thua thiệt. Tuy nhiên, Thiên Chúa sẽ không để họ phải thất vọng, Ngài sẽ đền bù vượt quá sự chờ đợi của họ. “Ðón tiếp một tiên tri, sẽ nhận được phần thưởng dành cho một tiên tri; đón tiếp người công chính, sẽ nhận được phần thưởng dành cho người công chính; đón tiếp kẻ rao giảng, sẽ nhận được phần thưởng dành cho kẻ rao giảng”. Người môn đệ của Chúa đừng sợ mất phần thưởng, nhưng hãy sợ mình chưa trung thành trong bổn phận của mình mà thôi.

Với Thiên Chúa, dù công khai hay âm thầm, sứ mệnh kẻ rao giảng bao giờ cũng cần thiết. Thiên Chúa luôn cần đến những người ngày đêm nhiệt thành rao giảng và làm chứng cho Ngài bằng đời sống hoạt động tông đồ, nhưng Ngài cũng cần đến những người hỗ trợ cho công việc tông đồ bằng đời sống âm thầm cầu nguyện và hy sinh. Lịch sử chỉ nhớ đến những vĩ nhân, chứ lịch sử không đủ giấy bút để ghi lại hết những khuôn mặt đã góp phần vào đời sống của các vĩ nhân. Lịch sử không nhớ, nhưng Thiên Chúa lại ghi nhớ tất cả, Ngài không bỏ sót một khuôn mặt nào, và phần thưởng của họ cũng có giá trị như của các vĩ nhân.

Xin Chúa cho chúng ta biết biểu lộ lòng trung thành với Chúa và Giáo Hội bằng những đóng góp nhỏ bé trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Dù chỉ là những việc nhỏ bé, âm thầm, không được ai biết đến, nhưng chúng ta hãy tin rằng chúng vẫn hiện diện và có giá trị trước mặt Chúa.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Thực hành giới răn của Chúa (Mt 10,34-11,1)

Với cái nhìn trần tục, chúng ta có thể cho rằng những lời dạy của Chúa Giêsu cho các đồ đệ xem ra thật chói tai: “Thầy đến để đem chia rẽ con trai với cha, con gái với mẹ. Ai yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì không đáng làm môn đệ Thầy. Ai không vác thập giá mình hàng ngày mà theo Thầy, thì cũng không xứng đáng làm môn đệ Thầy”.

Thử hỏi, trên trần gian này có ai dám yêu cầu những điều như vậy nơi những kẻ theo họ không? Nhưng Chúa Giêsu đã không ngần ngại dùng ngôn ngữ như vậy, để khắc ghi mạnh mẽ vào tâm trí những người nghe điều Người muốn nói trong cách thức phù hợp với tâm thức của những người đương thời.

Thật vậy, để nhấn mạnh điều gì đó người ta thường dùng cách nói táo bạo, nghịch lý thường tình như những lời chúng ta vừa đọc lại trên: “Ai yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì không đáng làm môn đệ Thầy”. Chúa muốn chỗ ưu tiên trên hết mọi người và mọi sự. Chính vì vậy mà sự hiện diện của Chúa là dấu gây nên mâu thuẫn, gây chia rẽ: “Thầy không đến mang sự bình an, nhưng chia rẽ. Thầy đến để chia rẽ con trai với cha, con gái với mẹ”.

Sự trung thành với Chúa, việc sống thực hành những giới răn Chúa làm cho mỗi người Kitô trở thành như kẻ thù của chính người thân thuộc, vì nếp sống mới mẻ của người Kitô không phù hợp với nếp sống trần gian, tinh thần Phúc Âm không phù hợp với tinh thần phàm tục. Luật Chúa luôn luôn dạy điều nghịch lại những ước mơ ích kỷ của con người. Giáo huấn Phúc Âm không bao giờ là điều tiện lợi dễ dàng. Thánh giá hy sinh là chiều kích không thể nào tách rời ra khỏi cuộc đời của người theo Chúa. Thánh giá là dấu chỉ, là bằng chứng của tình yêu.

Nhìn vào Chúa Giêsu, Thầy chúng ta, bị treo trên thập giá, chúng ta hiểu được mức tận cùng của tình yêu đích thực. Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi trao nộp Con Một của Ngài cho thế gian giết chết trên thập giá. Hy sinh mạng sống mình cho Chúa và anh chị em, đó là vận mệnh không thể tránh được của người Kitô. Ðể theo Ngài trọn vẹn, trung thành cho đến cùng, người đồ đệ cần nhiều can đảm, hy sinh và ơn soi sáng hướng dẫn Chúa.

Lạy Chúa, Xin đổ tràn tình yêu Chúa xuống trên chúng con, để chúng con sống trung kiên với Chúa và quảng đại với anh chị em chung quanh.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 5: Chúa Giêsu không đem đến bình an

“Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo.”

Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì sẽ không xứng với Thầy. Ai giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được.” (Mt. 10, 34. 38-39)

Những lời gây kinh ngạc

Nếu có ai hỏi ta Chúa Giêsu đến mang lại và dạy dỗ cho con người cái gì, ta sẽ trả lời rằng Chúa đến dạy người ta biết sống yêu thương nhau; Người đem hòa bình, Người hiệp nhất những ai chia rẽ. Và chúng ta sẽ có thể trưng ta nhiều câu Phúc Âm minh chứng rằng vì những mục đích trên, mà Chúa Giêsu đã làm người ở giữa chúng ta, đã chết và sống ại vì hạnh phúc loài người.

Vậy thì những lời của Phúc Âm vừa nghe, quả làm ta ngạc nhiên Chúa Giêsu khẳng định rằng Người “Không đến đem bình an cho trái đất, nhưng để đem gươm giáo”. Người dám nói rằng Người đến: “Để gây chia rẽ giữa con trai với cha mình, giữa con gái với mẹ…” Chúa Giêsu Người gieo rắc chia rẽ! Chúa Giêsu gây chia rẽ hơn là tạo hiệp nhất! Có ai dám nghĩ như vậy không? Ai mà cho rằng những lời đó là từ môi miệng Chúa? Vậy mà đúng như thế đó.

Những sự kiện minh chứng.

Ta nên lưu ý rằng Chúa Giêsu không khẳng định là Người có chủ tâm gây chia rẽ người ta. Người chỉ nhìn nhận sự kiện xảy ra. Người ta sẽ bất đồng ý kiến với nhau về Người. Có những người sẽ ủng hộ Người, người khác lại chống đối Người. Sẽ có những hiểu lầm, những cắt đứt quan hệ, những xung đột ở khắp nơi trên thế giới và ngay cả trong các gia đình, là vì Người và vì giáo huấn của Người.

Đó chính là điều vẫn xảy ra, mãi mãi những kẻ tin và những kẻ không tin Chúa Kitô vẫn xung khắc với nhau. Mãi mãi chồng và vợ, cha và con chia rẽ nhau và gây khổ cho nhau vì đôi bên không cùng một lập trường khi phải đối mặt với giáo huấn của Chúa Kitô.

Chúa Giêsu lúc nào cũng vẫn muốn gieo sự bình an, nhưng Người cũng là con người thực tế, vì biết rằng trên trần gian Người sẽ mãi mãi là chủ đề gây trang cãi, chống đối và chia rẽ vậy.

J.Y.G

 

Suy Niệm 6: HÒA BÌNH TRONG CHÂN LÝ (Mt 10, 34 – 42; 11, 1)

Sống trong bối cảnh xã hội hiện nay, chúng ta thấy tình hình căng thẳng trên Biển Đông ngày càng leo thang! Các nước có liên quan đã lên án sự ngang ngược, cách hành xử vô lý của Trung Quốc muốn bá chủ vùng Biển này. Đồng thời người ta lo ngại sẽ xảy ra chiến tranh!

Qua câu chuyện Biển Đông, người dân đều mong muốn có hòa bình, không chiến tranh. Tuy nhiên, ai cũng biết, muốn không xảy ra đụng độ, các bên phải ngồi lại để đàm phán, tôn trọng và chấp nhận sự thật. Có thế, chúng ta mới hy vọng hòa bình lặp lại trên Biển Đông.

Hôm nay, Đức Giêsu tuyên bố một câu xem ra rất nghịch lý: “Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa người ta với cha mình, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà” (Mt 10, 34-36). Thoạt nghe, chúng ta thấy xem ra có vẻ mâu thuẫn, bất thường và khó hiểu. Tuy nhiên, đi vào chiều sâu của vấn đề, chúng ta mới thấy sáng tỏ một chân lý, đó là: chỉ có bình an đích thực khi chấp nhận sự thật; chấp nhận loại trừ những sai quấy. Bao lâu ta còn để cho sự ác, bất công, gian dối lộng hành, thì bấy lâu chúng ta không có bình an, nếu có, cũng chỉ là thứ bình an giả tạo.

Như thế, chúng ta cũng đâu lạ gì khi trong gia đình có những thành phần chống đối nhau. Tại sao thế? Thưa, chỉ vì có những chuẩn mực trong cuộc sống, những lựa chọn khác nhau, dẫn đến hệ quả khác nhau.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta phải đắn đo và cẩn trọng khi chọn lựa. Khi đã chọn điều tốt, phải kiên trì bảo vệ để đạt được sự bình an đích thực.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết chiến đấu trong sự thiện, để luôn đứng về phía sự thật, hầu đem lại sự bình an thực sự. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Đặt Chúa lên địa vị ưu tiên

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Người môn đệ của Chúa Giêsu phải dứt khoát chọn lựa Tin Mừng hơn mọi sự, phải đặt tình yêu đối với Chúa hơn mọi tình cảm gia đình, hơn cả bản thân mình.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con cảm tạ Chúa đã mời gọi con làm môn đệ của Chúa, và đã ban cho con biết bao hồng ân để con được theo Chúa cho đến hôm nay. Đứng trước tình yêu cao vời đó, con chưa biết đáp lại như ý Chúa muốn, con chưa đặt Chúa lên địa vị ưu tiên và chưa yêu mến Chúa trên hết mọi sự.

Lạy Chúa, nhiều khi với cái nhìn nông cạn, con đã sống cho tình người nhiều hơn là sống cho tình Chúa. Con để mặc cho tình cảm tự nhiên làm chủ cuộc sống. Con chỉ làm những điều mình ưa thích, hoặc chỉ làm để đẹp lòng người ta hơn là quan tâm đến việc làm đẹp lòng Chúa. Con vẫn ngại hy sinh, sợ thua thiệt. Con chỉ muốn yên thân. Chính vì sợ phiền toái hay chống đối, mà con đã không dám sống Tin Mừng. Rút cuộc, con đã gặt hái sự chán nản thất vọng, hơn là niềm vui và tình yêu Chúa.

Lạy Chúa, chính Chúa quả quyết: “Ai tìm sự sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm thấy được”. Xin Chúa giúp con biết yêu mến Chúa trên hết mọi sự, trên tình cảm gia đình, trên những người mà con hằng yêu mến, trên những vật mà con hằng gắn bó, trên cả bản thân con. Xin cho con biết nhìn lên Chúa trên thập giá ngõ hầu con cảm nhận được thế nào là tình yêu Chúa dành cho con, để con sống xứng đáng với tình yêu Chúa. Đòi hỏi của Chúa thật là quyết liệt và tuyệt đối. Các tông đồ đã nghe được lời mời gọi của tình yêu Chúa và đã sống trọn vẹn cho Chúa và cho Tin Mừng. Xin cho con bắt chước đời sống các ngài, để con dứt khoát đi theo Chúa, can đảm dâng cuộc sống cho Chúa và chấp nhận những đòi hỏi của Tin Mừng. Amen.

Ghi nhớ: “Thầy không đến để đem hòa bình, nhưng đem gươm giáo”.

 

Suy Niệm 7: Tin tưởng vào Chúa

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Ngày hôm sau, khi một chút ánh sáng mặt trời lọt vào hầm tàu, tôi nhận ra chung quanh tôi những gương mặt buồn sầu và tuyệt vọng của các tù nhân khác. Bầu khí sầu thảm như đám tang. Một trong các tù nhân đã tìm cách treo cổ tự tử với một sợi dây thép. Những người khác gọi tôi. Tôi đến nói chuyện với anh. Sau cùng anh lắng nghe lời tôi. Cách đây hai năm trong một cuộc họp liên tôn tại California, tôi đã gặp lại anh. Mặt mừng rỡ, anh tiến tới gặp tôi và cám ơn tôi. Anh đã cho mọi người xem các vết sẹo còn hằn trên cổ.

Trong cuộc hành trình, khi các tù nhân biết có giám mục Nguyễn Văn Thuận, họ đến với tôi để kể lể các nỗi âu lo của họ. Tôi đã chia sẻ các khổ đau của họ và an ủi họ hàng giờ và suốt cả ngày. Trong ba ngày trên tàu, tôi an ủi các tù nhân khác và tôi suy niệm về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Đêm thứ hai, giữa cái lạnh của Thái Bình Dương trong tháng mười hai, tôi bắt đầu hiểu rằng ơn gọi của tôi bắt đầu một giai đoạn mới. Trong giáo phận, tôi đã đưa ra các sáng kiến khác nhau cho công tác rao truyền Tin Mừng cho người bên lương. Giờ đây, tôi phải cùng Chúa Giêsu đi về nguồn gốc của việc loan báo Tin Mừng, phải cùng Ngài ra đi chết “bên ngoài tường thành” bên ngoài tường thánh (ĐHY Phan xicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Chứng nhân Hy Vọng).

Suy niệm

Trong ngữ cảnh của đoạn Tin Mừng hôm nay là tất cả những xung đột, chia rẽ mà Chúa Giêsu nói đến, đó là hình ảnh biểu tượng những sự việc xảy ra trong sứ mạng loan báo Tin Mừng Phục sinh. Các ngôn sứ cũng nói tiên tri về hình ảnh biểu tượng chia rẽ của ngày sau hết, thời kỳ Mêssia: “Quả thật, con trai khinh thường cha, con gái đứng lên chống lại mẹ, nàng dâu chống mẹ chồng, người trong nhà hóa ra thù địch” (Mk 7,6; x. Ml 3,24).

Chia rẽ xung đột còn xảy ra giữa Đức Kitô và những người liên hệ: Thầy trò chia ly, môn đệ phản Thầy, bán Thầy, chối Thầy… Giáo hội cũng đã trải qua những cuộc bách hại, xung đột và chia rẽ với những thế lực chống Tin Mừng trong suốt chiều dài lịch sử, từ những cuộc bách hại đầu tiên ở đế quốc Rôma vào thế kỷ I. Ngày hôm nay Giáo hội vẫn còn bị bách hại tại nhiều nơi trên thế giới đặc biệt nơi các nước Hồi giáo. Gần nhất, chúng ta thấy rõ trong lịch sử Giáo hội Việt Nam, những cuộc bắt hạch đạo đẫm máu giữa những người cùng một dân tộc. Sự chia rẽ nơi Giáo hội Chúa Kitô trong lịch sử: Chính Thống Giáo ở thế kỷ X, Tin Lành ở thế kỷ XVI…

Denys le Chartreux đã suy tư về sự chia rẽ, xung đột trong Giáo hội như sau:

“Những người tin, yêu mến Thiên Chúa tìm kiếm sự bình an tâm hồn, họ sẽ cảm nghiệm bổn phận bất tuân với những điều xấu. Họ sẽ chia rẽ với những gì làm cản trở đời sống thiêng liêng và sự trong sáng của tình yêu Thiên Chúa”….

Đứng trước xung đột nội tâm, chia rẽ, những cảnh tang thương mà ta phải đối diện. Chúng ta hãy chiêm ngắm sự tranh đấu hiệp nhất trong thánh ý Cha của Đức Kitô nơi vườn Cây Dầu để tiếp tục chiến đấu, vượt qua xung đột để lửa tình yêu, bình an và hy vọng được đốt lên trong tâm hồn. Chúng ta ngắm nhìn khuôn mặt của Chúa Kitô vác thập giá, Ngài đang cùng ta tranh đấu, gánh trên vai xung đột chia rẽ, để chúng ta cùng với Ngài lãnh nhận chiến thắng Phục sinh.

Ý lực sống:

“Chúng ta hãy cương quyết xông pha chiến trận đang chờ đợi ta. Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Đức Giêsu Đấng khơi nguồn đức tin và làm cho nó nên hoàn tất; vì trông mong niềm vui đang chờ đón mình, Người đã chịu khổ giá, bất chấp sự hổ thẹn” (Dt 12,2).

 

Suy Niệm 8: Phải chọn lựa dứt khoát (Mt 10,34-11,1)

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Bài Tin mừng hôm nay làm cho chúng ta có cảm tưởng Chúa Giêsu đưa ra toàn là những điều nghịch lý. Tại sao Chúa Giêsu không đem đến hoà bình mà lại đem chiến tranh? Thực sự phải đi sâu vào vấn đề mới có thể hiểu được. Chúng ta đừng tưởng hòa bình là không có chiến tranh. Nhưng đúng hơn hoà bình đích thực chỉ có sau những trận chiến ác liệt. Trận chiến là cuộc phân chia phải-trái, thiện-ác, và quyết liệt là chọn lựa điều thiện. Vì thế, nếu chưa chiến đấu là còn lưỡng lự chưa dứt khoát. Thiên Chúa không chấp nhận tình trạng dở dở ương ương. Nóng thì nóng hẳn, nguội thì nguội hẳn, hâm hâm dở dở, Thiên Chúa sẽ loại trừ.

Sự chọn lựa của người môn đệ theo Chúa

“Anh em đừng tưởng Thầy đem đến bình an cho trái đất: Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà” (Mt 10,34-36).

Nghe có vẻ ngược đời, nhưng sự chia rẽ ở đây nói lên một sự lựa chọn cho người môn đệ. Những ai dám sống và hành động theo con đường Chúa Giêsu, thì thường bị người đời coi là dại dột, là ngu xuẩn, là điên rồ, thậm chí còn bị ghen ghét hoặc bị bách hại đủ điều. Vì thế, Người đòi môn đệ phải sẵn sàng chia sẻ sự đau khổ mà Chúa Giêsu phải chịu. Vì thực tế sẽ có sự chia rẽ từ trong gia đình: trong cùng một nhà mà có những người tin Chúa và có kẻ lại không tin. Nhưng ai bền đỗ đến cùng thì sẽ được ơn cứu độ.

Có thể nói, bài Tin mừng hôm nay cho biết hệ quả của bước đường theo Chúa. Theo Chúa, người môn đệ phải chấp nhận nhiều thua thiệt: họ có thể bị chống đối từ ngoài xã hội đến trong gia đình, và một cách nào đó, Chúa Giêsu cũng bị xem là nguyên cớ của các tranh chấp, chống đối. Thật thế, làm sao không có đối nghịch giữa ánh sáng và bóng tối, giữa Chúa Giêsu và thế gian, giữa quyền lực Thiên Chúa và quyền lực thế gian. Bước theo Chúa, người môn đệ phải chọn lựa, và chỉ chọn lựa tình yêu Chúa mới cho họ xứng đáng được gọi là môn đệ Ngài.

Thứ tự ưu tiên trong việc lựa chọn

“Ai yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10,37).

Phải chăng Chúa Giêsu đặt ra một điều kiện của Chúa quá khó? Sở dĩ Ngài đưa ra điều kiện như vậy, để nói lên một sự dứt khoát chứ không phải nửa vời. Ngài không khuyến khích việc vô ơn bất hiếu với cha mẹ, hoặc phải sống vô tâm vô tình với người thân, nhưng là Ngài muốn nhấn mạnh đến sự ưu tiên chọn Chúa là trên hết và Ngài đòi hỏi sự so sánh hơn kém khi phải chọn lựa. Nếu phải chọn lựa giữa Chúa Giêsu với cha mẹ và người thân, thì những người quyết tâm theo Chúa phải dám chọn Chúa Giêsu là gia nghiệp.

Bỏ cha, bỏ mẹ, vợ con, anh em là bỏ những cái gì ngoài mình, nhưng Chúa còn đòi hỏi hơn nữa là dám bỏ cả mạng sống nếu phải làm chứng cho Chúa (Mỗi ngày một tin vui).

Hoa quả của lòng bác ái

“Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy… Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mt 10,40.42).

Chúa Giêsu khẳng định về chiều kích tương quan hàng dọc với Thiên Chúa dựa trên tương quan đức ái với đồng loại. Khi chúng ta làm điều gì cho anh em là chúng ta đang làm cho chính Chúa Giêsu và cũng đồng thời đang làm cho Chúa Cha.

Việc bác ái dù nhỏ nhất nhưng luôn có giá trị cứu độ. Thiên Chúa sẽ trả lẽ cho chúng ta trong nước của Ngài bằng với những gì chúng ta đã trao tặng cho tha nhân, dù chỉ là một bát nước lã thì Thiên Chúa cũng ghi nhận.

Vấn đề được Thiên Chúa ân thưởng không hệ tại ở giàu hay nghèo, cũng không hệ tại cho hàng tỷ đồng hay chỉ là một bát nước lã, nhưng là biết sống tương quan đức ái với tha nhân, giúp đỡ nhau vì lòng mến Chúa và yêu đồng loại. Người cho nhau một ly nước vì Chúa thì có giá trị hơn gấp bội so với người cho cả gia tài chỉ vì được ca tụng đời này (Hiền Lâm).

Truyện: Cách vác thập giá

Một hôm, Chúa Giêsu hiện ra với hai môn đệ, Ngài đưa họ đến đầu con đường rồi trao cho mỗi người một cây thập giá và nói: “Các con hãy vác thập giá này và đi đến cuối con đường, Thầy sẽ đợi các con ở đó”. Nói xong, Chúa biến đi. Và hai môn đệ bắt đầu vác lấy thập giá của mình.

Người thứ nhất xem ra vác nhẹ nhàng, chân rảo bước mỗi lúc một nhanh. Nội trong ngày hôm đó, anh đã đến cuối đường và vui mừng gặp Chúa Giêsu đang đứng chờ sẵn ở đó.

Còn người thứ hai mãi đến chiều hôm sau mới đi hết con đường, xem ra anh ta mệt mỏi, không còn vác, nhưng kéo lê thập giá mỗi lúc một nặng thêm và làm anh ta gần kiệt sức. Vừa gặp Ngài, anh ta phàn nàn ngay: “Chúa đối xử bất công quá. Chúa cho con cây thập giá nặng, còn anh kia Chúa cho thập giá nhẹ, nên anh ấy đã đến trước con lâu như vậy”.

Gương mặt vui tươi của Chúa bỗng trở nên nghiêm nghị. Ngài nói: “Này con, Ta không đối xử bất công, hai cây thập giá giống và nặng như nhau. Con đừng trách thập giá nặng nhẹ, nó trở nên nặng là vì tâm hồn con ngay từ đầu và trong suốt quãng đường Ta đã chỉ, con luôn than phiền và càng than phiền thì nó càng trở nên nặng nề. Người bạn đồng hành của con đến trước, vì tâm hồn lúc nào cũng tràn đầy yêu thương”.

 

Suy Niệm 9: ,,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống…)

Phần cuối của bài Phúc Âm hôm nay nói về sứ mạng tông đồ. Chúa Giêsu thẳng thắn cho biết những đòi hỏi khó khăn của Phúc Âm:

– Vì Phúc Âm đòi hỏi người ta phải chọn lựa theo hay không theo, nên nó có thể gây nên chia rẽ ngay giữa những người thân, kẻ không theo chống lại những người theo.

– Vì Phúc Âm là giá trị cao quý nhất cho nên nếu cần thì người ta phải dám từ bỏ tất cả những thứ khác để đổi lấy nó.

Sau cùng Chúa Giêsu khuyến khích người ta quảng đại tiếp đón những sứ giả của Phúc Âm, vì tiếp đón họ là tiếp đón Chúa và sẽ được Chúa trọng thưởng.

B- Suy gẫm (…nẩy mầm)

  1. Thú thật Lời Chúa mấy ngày nay khiến con rất sợ: để đón nhận Phúc Âm của Chúa, con phải hy sinh và từ bỏ rất nhiều, khi làm tông đồ của Chúa, con cũng sẽ đương đầu với biết bao khó khăn và gian khổ. Con hiểu được tại sao nhiều người không kiên trì sống đức tin, và nhiều người ngại làm tông đồ cho Chúa. Con cũng sẽ đào ngũ chăng? Con cũng sẽ nản lòng chăng? Thật tình con không muốn thế bao giờ. Xin cho con được kiên trì và can đảm.
  2. ”Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy”: Hiện giờ con đang yêu những gì hơn Chúa? Xin cho con sức mạnh dám từ bỏ những thứ đó để con xứng đáng với Chúa.
  3. ”Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy”: Xin cho con biết Thập giá của con hiện nay là gì và xin cho con thêm sức mạnh để vác nổi Thập giá ấy.
  4. Một thiếu nữ đẹp, con nhà quyền quý muốn nhập vào một dòng tu rất khắc khổ. Để thử thách ơn gọi của cô, Mẹ bề trên vẽ lên một bức tranh rất đáng sợ về những đòi hỏi khắc khe của tu viện. Nghe xong, cô bé có vẻ lung lay im lặng. Một lúc sau Mẹ bề trên hỏi:

– Con không nói gì ư?

– Thưa Mẹ, con chỉ có một câu hỏi: trong nhà Dòng này có nhiều Thánh Giá không?

– Ồ, khắp nơi trong nhà dòng, chỗ nào cung có Thánh Giá.

– Vậy thì thưa Mẹ, con hy vọng sẽ không gặp khó khăn gì cả, bởi vì mọi nơi và trong mọi giây phút, con đều có Thánh Giá bên cạnh con. Con có thể chịu đựng được tất cả. (Góp nhặt)

  1. ”Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó”. (Mt 10,39)

Kìa một em bé! Đúng rồi một em bé! Làm thế nào để cứu được em bây giờ? Hàng chục cặp mắt đang dõi theo em với vẻ đầy lo lắng và thương xót. Bỗng từ trên thành cầu, một người vội lao xuống cố nắm lấy bàn tay nhỏ xíu của em đang quờ quạng giữa khoảng không tưởng chừng vô vọng… Em bé đã được cứu sống! Khoảng khắc quá mỏng manh giữa cái chết và sự sống.

Câu chuyện đã xảy ra vào một buổi chiều tháng năm cách đây gần một năm… Như một luồng sáng chiếu vào cõi lòng vốn vị kỉ của tôi, và tôi đã hiểu một tình yêu cao cả đòi hỏi sự dấn thân quên đi chính mạng sống mình để cứu lấy mạng sống của người khác. Tình yêu đó chính là tình yêu mang tên Giêsu.

Lạy Chúa, xin cho con hiểu thế nào là mầu nhiệm “tự hủy” của Ngài, để luôn biết quảng đại dấn thân cứu sống người anh em mà không sợ đau thương hay nguy hiểm. (Hosanna)

 

Suy Niệm 10: ,,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Thú thật, Lời Chúa mấy ngày nay khiến tôi rất sợ: Để đón nhận Tin Mừng của Chúa, phải hy sinh và từ bỏ rất nhiều. Khi làm tông đồ của Chúa, phải đương đầu với biết bao khó khăn và gian khổ. Chính vì thế mà chúng ta thấy có rất nhiều người không đủ kiên trì và nhiều người ngại làm tông đồ cho Chúa.

Chúng ta có đào ngũ chăng? Chúng ta có nản lòng chăng? Thật tình thì chúng ta không muốn thế bao giờ. Cầu xin Chúa cho chúng ta được kiên trì và can đảm.

Một thiếu nữ đẹp, con nhà quyền quý muốn nhập vào một dòng tu rất khắc khổ. Để thử thách ơn kêu gọi của cô, mẹ bề trên vẽ lên một bức tranh rất đáng sợ về những đòi hỏi khắt khe của tu viện. Nghe xong, cô bé có vẻ hơi lung lay trong im lặng. Một lúc sau mẹ bề trên hỏi:

– Con không nói gì ư?

– Thưa mẹ, con chỉ có một câu hỏi: trong nhà dòng này có nhiều Thánh Giá không?

– Ồ, khắp nơi trong nhà dòng, chỗ nào cũng có Thánh Giá.

– Vậy thì thưa mẹ, con hy vọng sẽ không gặp khó khăn gì cả, bởi vì mọi nơi và trong mọi giây phút, con đều có Thánh Giá bên cạnh con. Con có thể chịu đựng được tất cả. (Góp nhặt).

  1. Chúa nói thêm “Ai không vác Thập Giá mình mà theo Thầy thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10,38).

Mẹ Têrêsa nói: “Tình yêu thương, để tồn tại được, phải được nuôi dưỡng bằng sự hy sinh, đặc biệt là hy sinh bản thân mình. Hy sinh có nghĩa là đem cho đi ước nguyện của chúng ta, lý trí của chúng ta, cuộc sống của chúng ta với lòng tin bất diệt. Hy sinh cũng có nghĩa là tình yêu. Càng hy sinh nhiều, chúng ta càng yêu thương Thiên Chúa và nhân loại nhiều.

Ông Ngô Phụng sống vào thời vua Khang Hy nhà Thanh, được dân Đài Loan tôn kính như một vị thánh. Ông được triều đình nhà Thanh bổ nhiệm làm thông sự kiêm chức hương trưởng và trấn trưởng cai trị một bộ lạc dân sơn cước. Bộ lạc này sống trong mê tín dị đoan, hàng năm đều giết một người để tế thần.

Một lần nọ, Ngô Phụng cỡi ngựa vừa đi dạo để xem xét sự tình, bỗng ông nghe thấy từ phía xa xa, bên sườn núi trước mặt, có tiếng ồn ào, huyên náo. Ông phi ngựa tới thì thấy một cảnh hãi hùng bày ra trước mắt. Nơi gốc cây cổ thụ, một thiếu nữ bị trói chặt, miệng kêu gào thảm thiết. Người nữ tên là Sơn Tuệ Lân bị bộ lạc bắt để giết tế thần. Ngô Phụng lặng lẽ tiến đến bên gốc cây và đứng trước mặt thiếu nữ như muốn chết thay cho nàng. Thấy viên quan cai đến, anh tù trưởng rất sợ hãi. Ngô Phụng khuyên họ đừng giết người như thế. Họ thả cô Sơn Tuệ Lân và hứa sẽ không tế thần bằng cách giết người như vậy nữa. Từ đó cô Sơn Tuệ Lân dầu có người yêu, nhưng nguyện không lấy chồng để trả ơn, hầu hạ người cứu mình.

Một ngày kia, viên tù trưởng đến gặp Ngô Phụng, kể lể các thiên tai đang gây thiệt hại cho dân sơn cước của mình và xin Ngô Phụng cho phép giết một người để tế thần, hầu tránh cho dân chúng khỏi phải chịu sự trừng phạt của thần thánh. Ngô Phụng chấp thuận và nói với viên tù trưởng:

– Lúc sắp rạng đông đêm 10 tháng 8, về phía Đông Nam xóm Xã Khẩu, anh em sẽ thấy một người cỡi ngựa trắng, mặc áo đỏ đi qua. Anh em có thể giết người ấy để tế thần.

 Viên tù trưởng trở về và chuẩn bị kế hoạch. Khi người cỡi ngựa trắng, mặc áo đỏ phi tới, dân sơn cước núp chờ sẵn đã bắn chết ngay người đó. Thi hành xong nhiệm vụ, bọn tráng niên chạy ùa tới bên xác chết, họ đều trố mắt kinh ngạc, vì người bận áo đỏ không ai xa lạ. Đó chính là Ngô Phụng, vị quan ân nhân của họ. Ngay lúc ấy, người con trai họ Ngô và cô em gái nuôi Sơn Tuệ Lân phi ngựa tới. Họ khóc ngất bên xác người cha.

Trước mặt dân sơn cước, con trai Ngô Phụng đọc tờ di chúc cho họ nghe, trong đó cho biết, ông Ngô Phụng dâng sớ lên triều đình xin miễn tội cho bọn đã bắn chết ông, và xin cải thiện đời sống của dân thiểu số, đồng thời cũng khuyên dân sơn cước từ đây trở đi nên bỏ hẳn tục lệ tế thần bằng mạng người. Nghe xong tờ di chúc, tù trưởng trong 48 thôn xóm lập tức nhóm họp và quyết định từ đây bãi bỏ tục lệ tế thần bằng mạng người. Họ dựng bia ở các bộ lạc để ghi nhớ người đã vì nghĩa hy sinh mạng sống.

Ngô Phụng chết đi để cho bao người được sống. Cách đây gần hơn ngàn năm, Đấng Cứu Thế Giêsu đã đến trần gian, chịu chết để cứu cả nhân loại.

Câu chuyện trên làm cho tôi nhớ lại Lời của Chúa Giêsu: “Ta đến để cứu chứ không để hủy diệt”.

Vâng, Chúa đến để tìm cách cứu con người chứ không bao giờ muốn hủy diệt con người. Hủy diệt thì rất dễ nhưng Chúa không làm thế. Cứu chuộc thì khó nhưng Chúa lại chọn con đường này.

 

 

THỨ BA TUẦN 15 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Mt 11, 20-24

Khi ấy, Chúa Giêsu quở trách các thành đã chứng kiến nhiều phép lạ Người làm mà không chịu sám hối: “Hỡi Côrôzain, khốn cho ngươi! Hỡi Bethsaiđa, khốn cho ngươi! Vì nếu đã xảy ra tại Tyrô và Siđon các phép lạ diễn ra nơi các ngươi, thì họ đã mặc áo nhặm, rắc tro mà ăn năn hối cải từ lâu rồi. Nên Ta bảo các ngươi: Trong ngày phán xét, Tyrô và Siđon sẽ được xét xử khoan dung hơn các ngươi.

“Còn ngươi, hỡi Capharnaum, chớ thì ngươi nhắc mình lên tận trời sao? Ngươi sẽ phải rơi xuống địa ngục, vì nếu các phép lạ diễn ra giữa ngươi mà xảy ra tại Sôđôma, thì thành ấy đã tồn tại cho đến ngày nay. Vậy Ta bảo thật các ngươi: Trong ngày phán xét, Sôđôma sẽ được xét xử khoan dung hơn ngươi”.

 

Suy Niệm 1: Không sám hối

Suy niệm:

Lời giảng đầu tiên của Đức Giêsu là một lời mời sám hối (Mt 4, 17).

Những phép lạ Ngài làm cũng là một lời mời tương tự.

Phép lạ không phải chỉ là những biểu lộ của uy quyền và tình thương.

nhằm vén mở khuôn mặt của Thiên Chúa và của Con Ngài.

Phép lạ còn là lời mời gọi đổi đời, vì Nước Trời đã gần đến.

Đức Giêsu quở trách các thành đã lần lữa không chịu sám hối,

dù họ đã được chứng kiến phần lớn các phép lạ Ngài làm (c. 20).

“Khốn cho ngươi, hỡi Khoradin ! Khốn cho ngươi, hỡi Bếtxaiđa!”

Đức Giêsu đã kêu than như một ngôn sứ, buồn phiền và đau đớn,

trước sự cứng lòng của những nơi mà Ngài đã đặt chân và thi ân.

Khoradin là một vùng ở tây bắc của Hồ Galilê (Mc 10, 13).

Nay chỉ còn là cánh đồng gạch vụn, với dấu tích của một hội đường.

Bếtxaiđa nghĩa là “nhà của cá”, nằm nơi sông Giođan đổ vào Hồ nói trên.

Thành này ngày nay cũng biến mất, có lẽ vì bị tràn ngập bởi phù sa.

Đức Giêsu đã so sánh hai thành này với hai thành dân ngoại Tia và Xiđôn.

Nếu Tia và Xiđôn nhận được sự hiện diện của Đức Giêsu,

hẳn họ đã ăn năn sám hối từ lâu rồi (c. 21).

Caphácnaum được coi là trụ sở của Đức Giêsu khi thi hành sứ vụ.

Nơi đây Ngài đã làm bao điều tốt lành (Mt 4, 13; 8, 5; 9, 1; 17, 24).

Vậy mà có vẻ nó lại không muốn đón nhận Đấng mang ơn cứu độ.

Phải chăng vì nó đã tự hào, tự cao trước những ơn Chúa ban?

“Ngươi sẽ được đưa lên tới tận trời sao? Ngươi sẽ bị tống xuống âm phủ.”

Đức Giêsu dám so sánh Caphácnaum với Xơđôm.

Xơđôm là một thành phố trụy lạc, đã bị thiêu hủy hoàn toàn (St 19, 25).

Ngài cho rằng Xơđôm mà được thấy những điều kỳ diệu Ngài làm,

hẳn nó đã hoán cải và còn tồn tại đến nay (c. 23).

Đến ngày phán xét, con người sẽ bị xét xử theo điều mình đã lãnh nhận.

Lãnh ít thì sẽ được khoan hồng nhiều hơn.

Mỗi người chúng ta thật sự chẳng rõ mình đã nhận được bao nhiêu.

Chúng ta dễ có thái độ tự cao của những người được gần gũi Chúa.

“Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt Ngài,

và Ngài cũng đã từng dạy dỗ trên các đường phố của chúng tôi” (Lc 13,26).

Nhưng điều quan trọng không phải là đã nghe giảng và đã thấy phép lạ.

Điều quan trọng là sám hối.

Những ơn lộc Chúa ban cho đời Kitô hữu lại đòi ta phải hoán cải nhiều hơn.

Chúng ta không thể coi mình là Caphácnaum để khinh Xơđôm được.

Thiên Chúa xét xử theo điều Ngài ban cho từng con người,

từng nền văn hóa hay văn minh, từng vùng đất hay từng tôn giáo.

Làm sao tôi có thể thấy được những phép lạ Chúa làm cho tôi mỗi ngày?

Có những phép lạ xảy ra đều đặn và bình thường nên tôi không nhận ra.

Mỗi cử chỉ yêu thương tôi nhận được cũng là phép lạ.

Mong tôi đáp lại phép lạ đó bằng một cử chỉ yêu thương.

 

Cầu nguyện:

Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,

những ơn con thấy được,

và những ơn con không nhận là ơn.

Con biết rằng

con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,

biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.

Con thường đau khổ vì những gì

Cha không ban cho con,

và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.

Tạ ơn Cha vì những gì

Cha cương quyết không ban

bởi lẽ điều đó có hại cho con,

hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.

Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha

dù con không hiểu hết những gì

Cha làm cho đời con.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

Suy Niệm 2: Tấm lòng chai đá

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Tấm lòng chai đá vô tâm trước tiếng gọi thiêng liêng. Nghe mà không thấy vì ham mê trần thế, chỉ nghe được tiếng gọi trần tục. Tấm lòng chai đá vô ơn trước những ân huệ thiêng liêng vì mải mê tìm lợi lộc vật chất. Tấm lòng chai đá vô cảm trước sứ điệp sám hối vì không bao giờ chìm vào đáy sâu tâm hồn để biết vũng lầy tội lỗi xấu xa của mình, nên không ghê tởm mà tìm đường ăn năn trở về.

Ca-phác-na-um và Cô-rô-za-in là những thị trấn lớn, trung tâm thương mại sầm uất. Những tàn tích của hội đường còn lại cho thấy hai thị trấn này thật giầu có, vào thế kỷ thứ 1 mà đã có những công trình kiến trúc sang trọng và tinh xảo. Có lẽ vì giầu có nên họ mải mê với tiền bạc. Tâm hồn họ không tìm thấy lối thoát trong vòng xoay vừa khắc nghiệt, vừa mê đắm của tiền bạc. Chúa Giê-su đã lấy đó làm trung tâm rao giảng Tin mừng. Chúa đã làm ở đó biết bao phép lạ. Nhưng cư dân ở đó vẫn dửng dưng. Nên Chúa đã phải lên tiếng cảnh báo họ sẽ phải chịu cuộc xét xử nghiêm khắc hơn những nơi khác.

Cuộc đời Mô-sê là dấu chỉ. Công chúa Pha-ra-ô có tấm lòng mở rộng, nhậy cảm và quảng đại, nên đã đón nhận Mô-sê dù ông chỉ là một đứa trẻ của dân tộc nô lệ. Không những đón nhận, công chúa còn đưa ông vào cung điện để nuôi nấng dậy dỗ như một hoàng tử. Trong khi đó hai người đồng hương chỉ vì tự ái cá nhân đã chối từ ông. Có lẽ câu chuyện lạ lùng của Mô-sê đã được dân Do thái truyền tụng. Thế mà họ chẳng quan tâm đến ông, không chấp nhận lời khuyên giải có tình có lý của ông. Mà lại còn sinh lòng thù hận muốn làm hại ông. Thói tự ái kiêu căng cũng khiến tâm hồn họ ra vô cảm trước các giá trị thiêng liêng và cả trước vận mệnh dân tộc đang bị nô lệ nữa. Họ xứng đáng bị xét xử nghiêm ngặt hơn công chúa Pha-ra-ô (năm lẻ).

A-khat nhờ biết lắng nghe tiếng Chúa, trông cậy vào Chúa nên dù yếu kém, chẳng sợ gì liên quân Ít-ra-en và A-ram. Hai vua cậy vào sức mình sẽ bị Chúa trừng phạt. A-khat biết cậy trông vào Chúa sẽ được Chúa cứu (năm chẵn).

Xin cất khỏi mình con quả tim chai đá, ban cho con quả tim bằng thịt để con nhậy cảm trước Lời Chúa, trước các giá trị Tin Mừng và để con quảng đại thực hành Lời Chúa.

 

Suy Niệm 3: Lắng Nghe Lời Chúa

Văn minh càng tiến bộ, càng lôi kéo con người đến sa đọa và hủy hoại nền tảng gia đình và xã hội. Ngay từ thời xa xưa, các Tiên Tri trong Cựu Ước đã thấy được hiểm họa ấy. Việc chúc dữ các đô thị là một trong những đề tài nổi bật trong lời rao giảng của các ngài. Sôđôma, Gômôra, Babylon, Tyrô, Siđôn là đối tượng của những lời rủa xả nặng nề nhất của các tiên tri. Những đô thị này không những là nơi phát sinh những sa đọa luân lý, mà còn là biểu tượng của óc tự mãn, sự tôn thờ ngẫu tượng của con người.

Chúa Giêsu cũng tiếp tục truyền thống tiên tri ấy khi Ngài lên tiếng chúc dữ một số thành phố như Corazin, Betsaida. Cuộc sống vật chất sung túc làm cho con người sa đọa, đồng thời chối bỏ tương quan với Ðấng Tạo Hóa. Con người được tạo dựng không phải để sống đơn độc một mình; chính trong tương quan với tha nhân mà con người nên thành toàn hơn, do đó gia đình và xã hội là nhân tố thiết yếu cho sự phát triển toàn diện con người.

Làng mạc, thành phố, đô thị, tự nó là những xã hội cần thiết để con người xây dựng các tương quan và nhờ đó phát triển nhân cách. Tuy nhiên, thay vì giúp con người phát triển, các đô thi thường lại đày đọa con người vào nỗi cô đơn và chối bỏ mối tương quan với Thiên Chúa. Sự trống rỗng trong lòng người dân đô thị cũng là dấu chỉ sự vắng bóng Thiên Chúa. Kinh Thánh không ngừng nhắc nhở con người biết rằng chỉ trong Thiên Chúa, con người mới có thể tạo được tương quan đích thực giữa người với người. Loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, con người không những rơi vào sa đọa, mà còn cắt đứt mọi tương quan với tha nhân.

Lắng nghe Lời Chúa, đó là bí quyết để xây dựng cuộc sống xã hội, thắt chặt quan hệ với tha nhân và trở nên thành toàn. Ðó là điều Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ chúng ta trong Tin Mừng hôm nay: con người không thể xây dựng một xã hội tốt đẹp, nếu loại bỏ Thiên Chúa và những giá trị thiêng liêng ra khỏi cuộc sống.

Nguyện cho Lời Chúa soi sáng và hướng dẫn chúng ta trong cuộc sống, để khi mưu sinh và xây dựng xã hội, chúng ta biết đặt Thiên Chúa vào trọng tâm cuộc sống, đeo đuổi những giá trị thiêng liêng và xây dựng tình người.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Ăn Năn Thống Hối (Mt 11,20-24)

Bài Tin Mừng hôm nay là lời khiển trách của Chúa Giêsu đối với cư dân thuộc các thành phố tại miền Galilêa, nằm gần bờ hồ Tibêria. Ba thành phố đó là Khôradin, Bétxaiđa và Caphácnaum. Thành phố Khôradin nằm cách ba cây số về hướng đông bắc của Caphácnaum. Thành Bétxaiđa là quê hương của tông đồ Philiphê, Phêrô, Andrê – em ông Phêrô. Thành Caphácnaum được đặc biệt gọi tên là thành của Chúa Giêsu, nơi Chúa thường hay lui tới, sau những lần rao giảng Tin Mừng qua vùng phụ cận. Tắt một lời, đây là những nơi mà dân chúng ít nhiều đã chứng kiến tận mắt, và được hưởng phúc lành những phép lạ của Chúa, đã được nghe những lời giảng dạy của Người. Thế nhưng, không phải tất cả đều tin nhận Chúa.

Chúa Giêsu đã dành cho dân chúng tại ba thành phố nhiều ơn lành. Thế nhưng, họ không ý thức, không biết quý trọng lắng nghe, không thay đổi đời sống, trở lại với Người. Mục tiêu Chúa nhắm đến là sự ăn năn thống hối của những ai nghe lời Chúa, để lãnh nhận ơn cứu rỗi. Hơn nữa, sự tự phụ, kiêu ngạo của dân thành Capharnaum càng cao, thì sự hủy diệt họ càng nặng nề. Ân huệ được trao ban cho ai nhiều, thì người đó sẽ phải trả lẽ, phải chịu trách nhiệm nhiều hơn.

Những lời khiển trách của Chúa Giêsu có thể được xem như là những lời tổng kết về kết quả của các vụ rao giảng của Chúa tại miền Galilêa. Chúa Giêsu đã thu nhập những môn đệ tại vùng này, nhưng đây chỉ là sự đáp trả của một thiểu số, còn đa số thì vẫn lơ là, không màng chi, dù được chứng kiến những phép lạ Chúa đã thực hiện. Những phép lạ này là dấu chỉ trên Nước Chúa,là lời cảnh tỉnh và thôi thúc con người ăn năn trở lại cùng Thiên Chúa: “Hãy ăn năn thống hối, vì Nước Trời đã gần bên”. Chuyện xưa còn mang tính thời sự cho ngày hôm nay, Lời Chúa và những việc kỳ diệu Thiên Chúa vẫn còn tiếp tục thực hiện trong lịch sử con người, cách riêng trong cuộc đời mỗi người chúng ta. Lòng ăn năn thống hối phải là bước đầu tiên chuẩn bị chúng ta tin nhận Chúa. Xin hãy thương ban cho con một quả tim mới, một tinh thần mới, để con đừng hoang phí hồng ân Chúa ban cho con.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 5: Chúa Giêsu Đe Dọa

Bấy giờ Người bắt đầu quả trách các thành đã chứng kiến phần lớn các phép lạ Người làm mà không sám hối:

“Khốn cho các ngươi, hỡi Khô-ra-din! Khốn cho ngươi, hỡi Bét-xai-đa! Vì nhiều phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xi-đon,thì họ đã mặc vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối.” (Mt. 11, 20-21)

Khi Thiên Chúa tỏ mình ra cho người ta cùng một cách. Người hiện diện với những người này hơn với những người kia. Người nói rất rõ ràng cho người này, tối tăm khó hiểu cho người khác. Người luôn sử sự như vậy đó.

Khi Chúa Giêsu chưa đến ở giữa chúng ta, Thiên Chúa duy trì mối liên hệ đặc biệt với dân Ít-ra-en. Chẳng một dân tộc nào mà được Chúa dùng các ngôn sứ mà nói với họ, như đã nói với dân tộc này. Chẳng một dân tộc nào đã được nhìn xem kỳ công của Chúa, như Chúa đã dùng mà tỏ mình ra cho dân tộc này vậy. Đường lối ấy, Chúa vẫn tiếp tục. Khi Đức Giêsu đã sinh ra-Xứ Pa-lét-tin lại được Chúa ưu đãi. Nhưng Chúa Giêsu cũng không tỏ mình đồng đều ở khắp nơi. Chúa đã làm nhiều phép lạ hơn, và giảng dạy rõ ràng hơn ở những miền này hơn là những miền kia.

Chúa làm như vậy để gây hiệu quả. Đến ngày phán xét, những ai đã lãnh nhiều, sẽ bị đối xử nghiêm nhặt hơn. Chỉ là công bình thôi. Cho ai nhiều hơn thì đòi người ấy nhiều hơn.

Chúng ta hãy coi chừng

“Khốn cho ngươi, hỡi Kho-ra-din! Chúa phán, khốn cho ngươi hỡi Bét-xai-đa! Khốn cho ngươi, hỡi Ca-phác-na-um!…vì đến ngày phán xét, đất Xơ-đôm còn được xử khoan hồng hơn các ngươi” Lời đe dọa này thật dễ hiểu. Những thành phố này đã lãnh nhận nhiều hơn từ nơi Chúa Kitô. Nhưng chính họ lại tỏ ra lì lợm và cứng lòng tin hơn. Họ phải gánh lấy hậu quả vì không đón nhận Người và tin vào Người.

Chúng ta đang sống trong một đất nước mà đức tin Kitô giáo đã phát triển tứ lâu năm và sâu xa. Những cơ may cho ta gặp gỡ Đức Kitô và nhận biết Phúc âm đã và vẫn còn rất nhiều. Có thể là lời đe doạ của Đức Kitô cũng nói cho chúng ta hôm nay chăng?

J.Y.G

 

Suy Niệm 6: SÁM HỐI ĐỂ ĐƯỢC ƠN THA THỨ (Mt 11, 20-24)

Sự cố ngày 11-09-2001 tại nước Mỹ khi tòa nhà tháp đôi sụp đổ và cướp đi sinh mạng của biết bao nhân tài đã làm cho cả thế giới phải sững sờ! Tại sao một đất nước nổi tiếng về an ninh, khoa học… lại để xảy ra biến cố đáng tiếc này? Sau hàng loạt những câu hỏi nhằm thỏa mãn sự thắc mắc tự nhiên của con người, thì câu hỏi quan trọng nhất và cũng là gốc rễ, căn nguyên của vấn đề được đưa ra, câu hỏi đó là: “Tại sao Thiên Chúa cho phép xảy ra một thảm họa kinh hoàng như vậy?” Và người ta nhận được câu trả lời của một người dân: “Tôi nghĩ Thiên Chúa rất buồn vì điều đó, bởi vì từ nhiều năm nay, chúng ta đã yêu cầu Ngài đi ra khỏi trường học và đời sống của chúng ta. Như thế, chúng ta làm sao có thể mong Chúa can thiệp khi ta đã khẩn thiết xin Ngài hãy để mặc chúng ta một mình!”.

Thật vậy, tội lớn nhất của con người ngày hôm nay chính là tội không tin có Thiên Chúa, nếu Thiên Chúa có thật, thì người ta cũng muốn loại bỏ Ngài ra khỏi cuộc sống. Vì thế, đã có một thời người ta tuyên bố rằng: “Thiên Chúa đã chết”. Đã có lần người ta lên tới cung trăng rồi bảo rằng: “Chẳng có Thiên Chúa đâu cả!”. Và cũng có một thời người ta cho rằng: khoa học tiến bộ sẽ là lời giải đáp cho mọi vấn đề, và lúc đó, khoa học sẽ trở thành nấm mồ chôn vùi Thiên Chúa!

Thật vậy, con người ngày nay ảo tưởng và ngây ngô khi nghĩ rằng: “Một tay che kín cả bầu trời” nên không cần có Thiên Chúa nữa. Họ muốn loại bỏ tôn giáo và tự tin trong thế giới thực nghiệm. Nền tảng của họ được xây dựng thuần túy trên những phát minh khoa học. Đây là những lựa chọn sai lầm.

Nên biết rằng: Thiên Chúa là nguyên nhân đệ nhất của mọi vấn đề. Lời Chúa phải là nền tảng để khám phá, xây dựng và phát minh. Một nhà nghiên cứu khoa học chân chính sẽ nhận ra quyền năng của Thiên Chúa ngay trong công trình khảo cứu của mình. Thật vậy, chính nhà bác học Newton đã nhìn nhận: “Tôi thấy Thiên Chúa đi qua ống kính viễn vọng của tôi!”.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta sám hối để được ơn tha thứ. Phải từ bỏ thái độ chai lỳ, vô ơn và bất kính trước những ơn lành mà Ngài đã ban xuống trên cuộc đời, trong gia đình, nơi Giáo xứ và ngoài xã hội. Đừng giả điếc làm ngơ; đừng kiêu ngạo, tự phụ và ích kỷ, khiến cho Lời Chúa bị bóp nghẹt và không trổ sinh hoa trái được.

Lạy Chúa Giêsu, xin tha thứ cho chúng con. Xin cho chúng con biết sám hối, nhạy bén để nhận ra thánh ý Chúa và mau mắn thi hành để khỏi bị khiển trách như dân thành Khoradin, Bethsaiđa và Capharnaum. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 7: Tạ ơn hồng ân – thanh tẩy sám hối

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa ban cho ta rất nhiều hồng ân mà những người khác không được. Phải biết sống xứng đáng với tình thương của Chúa: hoán cải và sống theo Lời Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa tưới gội cuộc đời con bằng muôn vàn hồng ân. Chúa cho con được sống, được sống mạnh khoẻ, an vui hạnh phúc. Và ngay cả bệnh tật khổ đau cũng chính là quà tặng của tình yêu Chúa dành cho con. Nhưng nhất là Chúa cho con được biết Chúa, được nghe lời Tin Mừng yêu thương, được gặp Chúa và lãnh nhận ơn thánh qua các bí tích, được sống trong Hội Thánh. Con không thể nào kể hết những hồng ân con đang lãnh nhận.

Nhưng lạy Chúa, cũng như những người Do Thái ngày xưa, con đã không nhận ra tình thương Chúa để sống cho xứng đáng. Rất nhiều lúc con đã thờ ơ coi thường Chúa, rất nhiều lúc con đã cứng lòng gạt Chúa ra khỏi cuộc đời con. Rất nhiều lúc con xem việc theo Chúa như là một gánh nặng.

Con thực sự cảm thấy xấu hổ khi nhìn thấy nhiều người lương dân sống tốt hơn con. Nếu họ được hồng ân biết Chúa như con, chắc chắn họ còn thánh thiện hơn con bội phần.

Lạy Chúa, xin Chúa tha thứ cho sự cứng lòng và vô tâm của con. Mỗi một hồng ân là một dấu hiệu của tình thương Chúa. Xin Chúa giúp con luôn nhận ra tiếng gọi của tình yêu Chúa để con ăn năn sám hối thay đổi đời sống. Xin giúp con biết tận dụng những ơn Chúa ban để ngày ngày con lớn lên trong đời sống đức tin và đức mến. Chúa đi qua đời con, giơ tay vẫy gọi dồn dập, con nguyện bước theo Chúa và sống xứng đáng với tình thương Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Trong ngày phán xét, Tyro và Siđon sẽ được xét xử khoan dung hơn các ngươi”.

 

Suy Niệm 8: Sám hối

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Một bé gái rất nghịch ngợm. Vì bé không chịu nói xin lỗi nên bà mẹ đã phạt bằng cách cất hết đồ chơi và bắt nằm trên giường.

 Tan sở về, người cha lên lầu thăm bé và nói: “Chỉ cần con xin lỗi, mẹ sẽ cho ăn và trả lại đồ chơi”.

Cô bé ngước nhìn với vẻ cương quyết, không chút hối hận, và nói: “Ba ạ, họ lấy đồ chơi của con, không cho con ăn tối, nhưng họ không thể lấy đi những suy nghĩ của con!”. Dù thế nào đi nữa, bé vẫn khăng khăng giữ những ý nghĩ của mình.

Hối hận thật cần thiết!

Suy niệm

Sôđôma, Gômôra, Babylon, Tyrô, Siđôn là những đô thị sầm uất nhưng cũng là đối tượng của các ngôn sứ lên án vì nếp sống thực dụng, vật chất, hưởng thụ dẫn tới những sa đọa luân lý, tôn thờ ngẫu tượng của ngoại bang… Tiếp tục truyền thống ngôn sứ, Chúa Giêsu lên tiếng chúc dữ một số thành phố như Corazin, Betsaida và Capharnaum nằm trên bờ hồ Giênêgiarét. Cuộc sống vật chất sung túc nơi các thành phố sầm uất này, làm cho con người không chỉ sa đọa, đồng thời chối bỏ tương quan với Ðấng Tạo Hóa qua việc họ không tin vào lời giảng dạy của Đấng Thiên Sai đang ở giữa họ giảng dạy kèm theo các phép lạ phi thường như là dấu chỉ thời đại nước Thiên Chúa đang đến.

Chúa Giêsu và các môn đệ đã nhiều lần rao giảng Tin Mừng, cũng như làm nhiều phép lạ ở các thành phố Corozain, Bethsaiđa và Capharnaum. Thế mà dân ở đây vẫn cứng lòng không lãnh nhận giáo huấn Chúa. Chính sự chối bỏ, cứng tin của họ, làm cho họ bị phán xét nặng hơn Tyrô và Siđon – những thành phố phồn thịnh, nổi tiếng thời Cựu ước, cũng là cửa ngõ bị ảnh hưởng của đời sống ngoại giáo xâm nhập vào Israel, nên các ngôn sứ hay phê phán nặng lời các thành phố này (x. Is 23; Ed 26-28; Ge 4, 4-8; Am 1,9-10; Dcr 9,2-4). Sôđôma là thành phố tội lỗi đã bị Chúa hủy diệt bằng lửa… Các thành phố Corozain, Bethsaiđa và Capharnaum bị hình phạt nặng hơn Tyrô Siđon và Sôđôma vì ngoan cố không chịu nghe theo Chúa.

Không tin, loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, con người không những rơi vào sa đọa, làm lòng người trống rỗng vắng bóng Ngài như lòng các dân đô thị xa xưa cùng với các hậu quả…

Kinh Thánh không ngừng nhắc nhở chúng ta biết rằng chỉ tin vào Thiên Chúa, con người mới biết đặt Thiên Chúa vào trọng tâm cuộc đời, sống những giá trị thiêng liêng và xây dựng tình người với nhau.

Ý lực sống:

Để tâm suy nghĩ: “Trong ngày phán xét, Tyrô và Siđon sẽ được xét xử khoan dung hơn các ngươi” (x. Mt 11,22).

 

Suy Niệm 9: Chúa khiển trách dân thành cứng lòng tin (Mt 11,20-24)

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Chúa Giêsu khiển trách các dân Khoradin, Bếtsaiđa và Capharnaum. Các thành này đã chứng kiến “phần lớn các phép lạ” Ngài đã làm. Thế nhưng họ không hối cải. Tại sao? Vì họ kiêu căng. Ta cũng nên biết rằng so với các thành khác, những thành này có trình độ kiến thức Thánh kinh cao hơn. Khi thấy sự kiêu căng đã khép kín lòng họ, Chúa Giêsu nghĩ tới những kẻ “bé mọn” nhờ khiêm tốn mà nhận được mạc khải của Thiên Chúa. Vì thế, Chúa Giêsu cho biết những người dân thành ấy sẽ chịu án phạt nặng nề hơn cả án phạt mà xưa Đức Chúa đã giáng xuống thành Sôđôma.

“Khốn cho ngươi, hỡi Khoradin!”

Khi lên án hai thành này, Chúa Giêsu kết án thái độ cứng lòng tin của họ trước Lời rao giảng và những phép lạ Ngài làm. Ngài cũng cảnh báo với họ là, đến ngày phán xét, họ sẽ không còn lý do gì để bào chữa nữa. Thật vậy, Chúa Giêsu đã đưa ra một so sánh: ”Nếu dân Tia và Siđon xưa được chứng kiến phép lạ như họ thì những dân ấy đã ăn năn thống hối rồi”.

Đây cũng là một cảnh báo cho mọi người chúng ta, không ít trong chúng ta vẫn chai cứng trong tội lỗi, mặc dù mỗi ngày trong Thánh lễ và các cử hành phụng vụ, chúng ta được nghe rao giảng, được kêu gọi cải thiện đời sống, được chứng kiến bao nhiêu kỳ công của Chúa và những phương thế hữu ích nơi các bí tích và lề luật giúp ta sống đạo. Để rồi một ngày kia trước tòa phán xét, chúng ta không còn lý do gì để bào chữa; chúng ta còn đáng án phạt nặng hơn những người ngoại không được nghe biết Tin mừng.

“Nếu các phép lạ đã làm nơi người mà…”

Chúa Giêsu đã rảo qua các thành phố ở bờ hồ Giênêzaret, để rao giảng và làm nhiều phép lạ nhằm kêu gọi con người hối cải. Sự sai lầm có thể biện minh bằng việc không nghe không thấy. Nghe và nhìn là bằng cớ tố cáo lỗi lầm. Án phạt của các thành Khoradin, Bếtsaiđa, Capharnaum là ở đó. Đong đấu nào, sẽ được đong lại bằng đấu ấy. Có trao ban là có quyền mong đợi đáp trả: đáp trả bằng tiếng không thì cũng chẳng mong gì được ở lòng thương xót. Nói một cách nào đó, tiếng không này có thể gọi là tội: có những tội tích cực biểu lộ qua hành động, qua việc sa lầy trong tội; có những tội tiêu cực biểu lộ qua thái độ dửng dưng, làm ngơ, một thái độ như thế cũng đủ bị kết án rồi (Mỗi ngày một tin vui).

“Sự cố ngày 11/09/2001 tại Mỹ”

Khi Toà nhà tháp đôi bị sụp đổ và cướp đi sinh mạng của biết bao nhân tài đã làm cho cả thế giới phải sững sờ! Tại sao một đất nước nổi tiếng về an ninh, khoa học… lại để xảy ra biến cố đáng tiếc này? Sau hàng loạt những câu hỏi nhằm thỏa mãn sự thắc mắc tự nhiên của con người, thì câu hỏi quan trọng nhất và cũng là gốc rễ, căn nguyên của vấn đề được đặt ra, câu hỏi đó là: “Tại sao Thiên Chúa cho phép xảy ra một thảm họa kinh hoàng như vậy?” Và người ta nhận được câu trả lời của một người dân: “Tôi nghĩ Thiên Chúa rất buồn vì điều đó, bởi vì từ nhiều năm nay, chúng ta đã yêu cầu Ngài đi ra khỏi trường học và đời sống của chúng ta. Như thế, chúng ta làm sao có thể mong Chúa can thiệp khi ta đã khẩn thiết xin Ngài hãy để mặc chúng ta một mình”.

Thật vậy, tội lớn nhất của con người ngày hôm nay chính là tội không tin có Thiên Chúa, nếu Thiên Chúa có thật, thì người ta cũng muốn loại bỏ Ngài ra khỏi cuộc sống. Vì thế, đã có một thời người ta tuyên bố rằng: “Thiên Chúa đã chết”. Đã có lần người ta lên tới cung trăng rồi bảo rằng: “Chẳng có Thiên Chúa đâu cả!” Và cũng có một thời người ta cho rằng: khoa học tiến bộ sẽ là lời giải đáp cho mọi vấn đề, và lúc đó, khoa học sẽ trở thành nấm mồ chôn Thiên Chúa (Ngọc Biển).

Phải biết tận dụng cơ hội

Dù bạn không phải là “fan” bóng đá, hẳn bạn cũng xuýt xoa tiếc rẻ cho một đội bóng “toàn sao” sau 90 phút thi đấu với không biết bao nhiêu cơ hội ăn bàn mười mươi, nhưng lại để vuột trôi qua trước mũi giày mà không thể chuyển thành bàn thắng và rồi bị thủng lưới trong những phút đá bù giờ. Quy luật trong bóng đá là thế: đội bóng nào không biết tận dụng cơ hội, đội đó sẽ chuốc lấy thất bại.

Theo dòng thời sự để ví von, cũng có thể nói như thế. Các đội bóng Khoradin, Capharnaum, Betsaiđa, với biết bao cơ hội là những phép lạ thực hiện ở giữa họ mà họ không “ghi được bàn thắng” trước đối thủ là sự ác, ắt là họ sẽ không thoát khỏi thất bại ê chề: chính họ sẽ bị trầm luân. Chả bù với các “đội” Tia và Siđon, giá mà họ chỉ có được một nửa cơ hội như thế thôi, ắt họ đã ghi bàn quyết định là sám hối ăn năn và lãnh nhận được ơn cứu độ rồi (5 phút Lời Chúa).

Truyện: Lời Chúa nhắc nhở

Trong cuốn nhật ký của một người thanh niên đạo đức, người ta tìm thấy những dòng tự thuật như thế này:

“Bước ra khỏi nhà sách một ít, tôi nhận ra số tiền dư mà chị bán hàng mới đưa lộn cho tôi. Lương tâm tôi nhắc phải sống công bằng. Nhưng tôi đã tự trấn an: “Nhằm nhò gì ba cái lẻ đó. Hơn nữa đó là lỗi của người khác chứ đâu có phải là lỗi của tôi”. Và tôi tiếp tục bước đi.

Tới nửa đoạn đường, chân tôi cứng lại như có một sức mạnh nào đó níu kéo lại, khi tự đáy lòng tôi Lời Chúa vang lên: “Khốn cho ngươi”. Tôi tự nghĩ: chắc hẳn Chúa đang buồn vì hành động của tôi, vì tôi đã biết Chúa nhiều. Sau giây phút ngập ngừng, tôi quyết định trở lại hiệu sách và hoàn lại số tiền cho chị. Chị nhìn tôi, cười thật tươi sau tiếng cám ơn. Chưa bao giờ tôi cảm thấy được nhẹ nhàng cả người như thế.

 

Suy Niệm 9: ,,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống…)

Chúa Giêsu khiển trách các thành dọc bờ hồ Galilê là Khônradin, Bétsaiđa và Cáphácnaum.

Các thành này đều chứng kiến ”phần lớn các phép lạ” Chúa Giêsu đã làm. Thế nhưng họ không hối cải. Tại sao? vì họ kiêu căng. Ta cũng nên biết rằng so với các thành khác, những thành này có trình độ kiến thức Thánh Kinh cao hơn (x. câu 23: “Ngươi tưởng sẽ được nâng lên đến tận trời ư?”). Khi thấy sự kiêu căng đã khép lòng họ, Chúa Giêsu nghĩ tới kẻ “bé mọn” nhờ khiêm tốn mà nhận được mặc khải của Thiên Chúa. Bởi thế, trong đoạn tiếp liền sau, Chúa Giêsu sẽ cảm tạ Thiên Chúa “Vì đã dấu không cho những bậc thông thái biết điều này, nhưng lại mặc khải cho những kẻ bé mọn”. (Câu 25).

B- Suy gẫm (…nẩy mầm)

  1. “Khi ấy Chúa Giêsu khiển trách các thành đã chứng kiến nhiều phép lạ Ngài làm mà không chịu sám hối”: Phép lạ này là để khơi dậy lòng sám hối, vì phép lạ cho người ta thấy việc kì diệu của Chúa, rồi vì nhìn lại thấy mình bất xứng với Chúa nên phải sám hối để xứng đáng với Chúa hơn.
  2. Thời vua Luis 13 đang trị vì nước Pháp, ngày kia hoàng hậu Anne d’Autriche mở tiệc đãi khách. Hôm đó bà đeo sợi dây chuyền bằng ngọc. Thánh Vincent de Paul có mặt trong bữa tiệc đó, đã nói với bà: “Thưa hoàng hậu, nếu bà muốn bà có thể làm một phép lạ”.

Hoàng hậu nhìn thánh nhân với vẻ đầy kinh ngạc. Thánh nhân nói tiếp: “Vâng, bà có thể đổi viên ngọc này thành bánh mì giúp những người nghèo đói”. Vài giờ sau, phép lạ đã xảy ra: Hoàng hậu trao cho thánh Vincent được Paul sợi dây chuyền ấy để bán lấy tiền mua bánh mì cho người nghèo.

Ngày nay vẫn xảy ra những phép lạ tương tự, hiểu theo nghĩa những việc kì diệu được thực hiện do ơn Chúa tác động. Khi thấy những “phép lạ” bác ái, hy sinh do người khác làm, tôi có sám hối về lòng ích kỷ của mình không?

  1. Những thành ven biển hồ được nghe Lời Chúa và được chứng kiến các phép lạ của Ngài nhiều hơn những vùng khác. Lẽ ra họ phải tin Chúa hơn những nơi khác. Nhưng vì họ không tin nên hình phạt của họ nặng hơn những nơi khác. Ai nhận lãnh nhiều nén bạc hơn thì có trách nhiệm nhiều hơn.

Tôi cũng nhận lãnh nhiều nén bạc hơn nhiều người khác. Đó là đặc ân của tôi nhưng cũng là trách nhiệm của tôi.

  1. Có nhiều kiến thức về Chúa chưa hẳn đã ích lợi hơn là không có kiến thức nhưng lại có tâm hồn biết ngưỡng mộ những kì công của Chúa.
  2. Bước ra khỏi nhà sách một ít, tôi nhận ra số tiền dư mà chị bán hàng đưa lộn, lương tâm tôi nhắc tôi phải sống công bằng. Nhưng tôi đã tự trấn an “nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ. Hơn nữa đó là lỗi của người khác chứ đâu phải là lỗi của tôi”. Và tôi tiếp tục bước đi.

Tới nửa đoạn đường, chân tôi cứng lại như có một sức mạnh nào đó níu kéo, khi tự đáy lòng tôi Lời Chúa vang lên “Khốn cho ngươi”. Tôi tự nghĩ: chắc hẳn Chúa đang buồn vì hành động của tôi, vì tôi đã biết Chúa nhiều. Sau giây phút ngập ngừng, tôi quyết đinh trở lại hiệu sách và đưa số tiền cho chị. Nhìn chị cười tươi sau tiếng cám ơn tôi cảm thấy nhẹ cả người.

Lạy Chúa, đó không phải chỉ là niềm vui của Chúa mà còn là niềm hạnh phúc của con. Xin cho con luôn can đảm thực thi những Lời Chúa đòi hỏi, vì Chúa là Đấng công mình. (Hosanna)

 

Suy Niệm 10: ,,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Chúa Giêsu khiển trách các thành dọc bờ hồ Galilê là Corazin, Bethsaida và Capharnaum.

Các thành này là những thành đã chứng kiến “phần lớn các phép lạ” Chúa Giêsu làm. Thế nhưng, họ không hối cải. Tại sao? Vì họ kiêu căng nên lòng họ đã khép lại trước những việc Chúa làm nên Chúa đã bỏ họ mà nghĩ tới những kẻ “bé mọn”, nhờ khiêm tốn mà nhận được mặc khải của Thiên Chúa. Bởi thế, trong đoạn tiếp liền sau, Chúa Giêsu sẽ cảm tạ Thiên Chúa “Vì đã giấu không cho những bậc thông thái biết điều này, nhưng lại mặc khải cho những kẻ bé mọn” (Mt 11,25).

Vâng, được nghe Lời Chúa và được chứng kiến các phép lạ Chúa làm nhiều hơn những vùng khác, lẽ ra họ phải tin Chúa nhiều hơn. Nhưng vì họ không tin nên hình phạt của họ sẽ nặng hơn. Ai nhận lãnh nhiều nén bạc hơn thì có trách nhiệm nhiều hơn.

Vâng, ai nhận lãnh nhiều nén bạc hơn thì có trách nhiệm nhiều hơn. Đó là luật công bằng. Có thì phải biết cho đi.

Thời vua Luis 13 đang trị vì nước Pháp, ngày kia hoàng hậu Anne d’Autriche mở tiệc đãi khách. Hôm đó bà đeo một sợi dây chuyền bằng ngọc. Thánh Vincent de Paul cũng có mặt trong bữa tiệc đó. Ngài đã nói với bà:

– Thưa hoàng hậu, nếu bà muốn bà có thể làm một phép lạ.

Hoàng hậu nhìn thánh nhân với vẻ đầy kinh ngạc. Thánh nhân nói tiếp:

– Vâng, bà có thể đổi viên ngọc này thành bánh mì giúp những người nghèo đói.

Vài giờ sau, phép lạ đã xảy ra: Hoàng hậu trao cho thánh Vincent de Paul sợi dây chuyền ấy để bán lấy tiền mua bánh mì cho người nghèo.

Ngày nay vẫn xảy ra những phép lạ tương tự, hiểu theo nghĩa những việc kì diệu được thực hiện do ơn Chúa tác động. Khi thấy những “phép lạ” bác ái, hy sinh do người khác làm, tôi có sám hối về lòng ích kỷ của mình không?

  1. “Khốn cho ngươi hỡi Corazin! Khốn cho ngươi hỡi Bethsaiđa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm ở Tyrô và Siđôn thì họ đã mặc vải thô, rắc tro lên đầu và tỏ lòng sám hối” (Mt 11,21). Lời quở trách quả có nặng nề nhưng nó nói lên tính cách nghiêm trọng của vấn đề. Biết nhiều về Chúa mà không cố gắng trở nên giống Chúa, phải coi đó là một thiếu sót vô cùng lớn lao. Chúa chẳng mong chờ chúng ta cái gì lớn hơn là chính cuộc sống giống như Chúa của chúng ta.

Trong cuốn nhật ký của một người, người ta tìm thấy những dòng tự thuật như thế này: “Bước ra khỏi nhà sách một ít, tôi nhận ra số tiền dư mà chị bán hàng đưa lộn. Lương tâm tôi nhắc tôi phải sống công bằng. Nhưng tôi đã tự trấn an “nhằm nhò gì ba cái lẻ đó. Hơn nữa đó là lỗi của người khác chứ đâu phải là lỗi của tôi”. Và tôi tiếp tục bước đi.

Tới nửa đoạn đường, chân tôi cứng lại như có một sức mạnh nào đó níu kéo, khi tự đáy lòng tôi Lời Chúa vang lên “Khốn cho ngươi”. Tôi tự nghĩ: chắc hẳn Chúa đang buồn vì hành động của tôi, vì tôi đã biết Chúa nhiều. Sau giây phút ngập ngừng, tôi quyết định trở lại hiệu sách và hoàn lại số tiền cho chị. Nhìn chị cười tươi sau tiếng cám ơn tôi cảm thấy nhẹ cả người.

Cũng trong tập hồi ký của mình, thủ tướng của nước Anh thời đệ nhị thế chiến là ông Winston Churchill đã kể lại một câu chuyện như sau:

Cha mẹ ông đưa ông về Scotland nghỉ hè. Ngày nọ, cậu bé Winston đang tắm trong một dòng sông gần nhà, thì chân cậu bị vọp bẻ. Cậu kêu la thất thanh. Nghe tiếng kêu, một cậu bé trai từ nông trại gần bên đã vội chạy đến và nhảy ngay xuống sông cứu Winston.

Cảm động vì nghĩa tử của cậu bé, ngày hôm sau, cha mẹ của Winston đã tìm đến nông trại để cám ơn cậu bé. Ông hỏi cậu bé lớn lên sẽ làm gì, cậu bé đáp:

– Cháu nghĩ rằng, cháu sẽ tiếp tục nghề nông của ba cháu.

Cha của Winston gợi ý:

– Cháu không có hoài bão nào khác hơn ư?

Cậu bé đáp:

– Cháu luôn mơ ước được làm một bác sĩ, nhưng nhà cháu nghèo như thế này thì lấy tiền đâu cho cháu đi học.

Nghe thế, ông bố của Churchill liền hứa hẹn:

– Cháu đừng lo, hoài bão của cháu sẽ được thực hiện, bác sẽ giúp cháu.

Winston Churchill sau này trở thành thủ tướng nước Anh. Năm 1934, trong chuyến công tác tại Bắc Phi, ông bị sưng cuống phổi trầm trọng. Bác sĩ riêng của ông, người đã khám phá ra thuốc Peniciline đã chữa trị cho ông. Đây là lần thứ hai bác sĩ này đã cứu mạng cho Winston Churchill, bởi vì cậu bé đã từng cứu Winston khỏi chết đuối năm xưa không ai khác hơn là cậu bé nhà nghèo có tên Alexandre Flenmming, mà nay là bác sĩ riêng của thủ tướng.

Lạy Chúa, xin cho con biết mở rộng tâm hồn để đón lấy những hồng ân Chúa ban.

Đồng thời xin cho con biết luôn can đảm để thực thi điều Chúa đòi hỏi, để cuộc đời chúng con là lời ca tụng Chúa. Amen.

 

 

 

THỨ TƯ TUẦN 15 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Mt 11, 25-27

Khi ấy, Chúa Giêsu thưa rằng: “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. Mọi sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con trừ ra Cha; và cũng không ai biết Cha trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho”.

 

Suy Niệm 1: Cha mặc khải

Suy niệm:

Bài Tin Mừng hôm nay là một lời nguyện tự phát của Đức Giêsu.

Đó là một lời tạ ơn, một lời ngợi khen của Con dâng lên Cha.

Đức Giêsu gọi Thiên Chúa bằng từ Abba thân thương gần gũi,

nhưng Thiên Chúa ấy cũng là Đấng siêu việt ngàn trùng,

Đấng quyền uy tối thượng, Chúa Tể cả trời đất (c. 25).

Đức Giêsu ca ngợi Cha vì hành vi mặc khải của Cha cho con người.

Cha có một kế hoạch cứu độ nhân loại qua Con của Cha là Đức Giêsu.

Và Cha muốn vén mở kế hoạch đó cho con người biết.

Có những người đã thành tâm đón nhận, và có những người cố ý từ chối.

Nhưng tất cả đều không nằm ngoài chương trình của Cha (c. 26).

Lối nói kiểu Do thái của Đức Giêsu có thể khó hiểu đối với ta ngày nay:

“Cha đã giấu các điều này trước những người khôn ngoan thông thái.”

Thật ra, chẳng phải Thiên Chúa ghét bỏ hay phân biệt đối xử,

vì Ngài muốn cho mọi người được cứu độ (1 Tm 2, 4).

Chẳng phải Cha ghét bỏ các người khôn ngoan và cổ võ sự ngu dốt.

Ngài cũng không che giấu mầu nhiệm Nước Trời trước một ai.

Nhưng quả thật ai tự hào, tự mãn với hiểu biết khôn ngoan của mình,

và khép lại trước những gì vượt quá trí hiểu nông cạn của họ,

người ấy sẽ không có cơ may đón nhận được mặc khải của Thiên Chúa.

Một số kinh sư và người Pharisêu giỏi giang về Sách Thánh và truyền thống,

đã không thể đón nhận được cái hoàn toàn mới mẻ nơi giáo lý Đức Kitô,

vì họ quá bám víu vào cái biết cũ mà họ coi là tuyệt đối.

Nhưng các người bé mọn, ít tri thức và sách vở, lại dễ dàng đón nhận hơn.

Họ hồn nhiên mở ra trước mặc khải của Thiên Chúa qua Đức Giêsu.

Chính vì thế họ biết được những điều sức người không thể nào đạt tới.

Câu cuối (c. 27) là một mặc khải lớn của Đức Giêsu trong tư cách là Con.

Ngài cho thấy giữa Cha và Con có sự hiểu biết nhau cách độc nhất vô nhị.

“Không ai biết rõ Con trừ ra Cha và không ai biết rõ Cha trừ ra Con…”

Sự hiểu biết nhau thân tình và sâu xa này

như thể tạo ra một thế giới riêng giữa Cha và Con.

Muốn biết Cha phải nhờ Con, Đấng duy nhất có đủ thẩm quyền mặc khải.

Hơn nữa, muốn biết Con cũng phải nhờ Cha mặc khải.

Phêrô phải nhờ Cha mới biết được Đức Giêsu là ai (Mt 16, 17).

Nói chung Cha và Con làm nên một thế giới riêng tư, nồng ấm.

Nhưng thế giới ấy lại không khép kín, mà mở ra để mời con người vào.

Cha và Con đều muốn mặc khải thế giới ấy cho con người.

Cha đưa ta gặp Con, Con đưa ta gặp Cha.

Chỉ cần gặp Con hay Cha là có thể bước vào thế giới đó, để gặp cả Cha và Con.

Chị Edit Stein là một phụ nữ Do thái được coi là thông thái, trí tuệ.

Chị đậu tiến sĩ triết học với hạng tối danh dự tại Đức.

và là người cộng tác với ông tổ của Hiện tượng luận là triết gia Husserl.

Việc tìm kiếm Chân Lý đã dẫn chị đến với đạo Công giáo.

Chị đã đi tu Dòng Kín Cát Minh và đã bị giết tại trại giam của Đức quốc xã.

Chị Bênêđícta Thánh Giá được phong thánh năm 1998 bởi Đức Gioan Phaolô II.

Sự thông thái khiêm tốn đã giúp Chị gặp được Nước Trời như một kẻ bé mọn.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,

nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,

dễ thấy Chúa hiện diện

và hoạt động trong đời con.

Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,

xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,

khép kín và nghi ngờ.

Xin dạy con sự hiền hậu

để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.

Xin dạy con sự khiêm nhu

để con dám buông đời con cho Chúa.

Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,

vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,

hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

Suy Niệm 2: Tâm tình khiêm nhường

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Lạy Cha là Chúa Tể trời đất”. Chúa Giê-su dùng lời kinh long trọng này để cho ta hiểu biết một chân lý: Thiên Chúa là chủ tất cả. Mọi sự ta có đều là của Người ban cho. Chính vì thế tâm tình ta phải có là tâm tình khiêm nhường bé nhỏ. Đó chính là tâm tình của công dân Nước Trời. Những thái độ tự cao tự đại hoàn toàn trái ngược, không thích hợp, và sẽ không được đón nhận vào Nước Trời.

Những ai tự hào mình khôn ngoan thông thái hãy cẩn thận. Ngay trí khôn họ không thể tự mình có được. Trí khôn là do Thiên Chúa ban cho. Vì thế có gì mà đáng tự hào. Và nếu trí khôn không đưa đến Nước Trời thì cũng vô ích. Hiểu biết về Nước Trời là sự khôn ngoan vượt trên mọi sự khôn ngoan. Nhưng mầu nhiệm Nước Trời chỉ có Thiên Chúa nắm giữ. Và Người muốn mặc khải cho ai tùy ý. Và Người lại mặc khải cho những kẻ bé mọn. Vì thế bé mọn chính là thái độ khôn ngoan thông thái nhất.

Hai bài đọc Cựu Ước minh họa chân lý này. Át-sua hùng mạnh chính là do Thiên Chúa ban. Để làm cây roi của Chúa mà trừng phạt những sai lỗi của các nước nhỏ. Nhưng Át-sua không ý thức điều đó. Tưởng là cường thịnh do sức riêng. Nên Thiên Chúa sẽ hạ bệ nó xuống, tước bỏ hết sức mạnh mà nó tự hào. Chúa sẽ hạch tội nó: “Cái rìu lại tự cao với kẻ cầm rìu mà chặt hay cái cưa tự đại với người kéo cưa sao? Như thể ngọn roi kéo được kẻ giơ nó lên, cây gậy nhấc được kẻ không phải là gỗ vậy” (năm chẵn).

Mô-sê dù đã được học hết mọi sự khôn ngoan trong cung điện vua Ai cập. Dù đã kiên trì thanh luyện 40 năm trong sa mạc. Vẫn phải có thái độ khiêm nhường. Cởi bỏ dép. Khiêm tốn trước mặt Thiên Chúa trong bụi gai cháy đỏ. Chính với thái độ khiêm nhường, dễ dậy đó nói lên tâm tình khiêm nhường của Mô-sê. Tâm tình khiêm nhường nói lên lòng khao khát đón nhận mầu nhiệm. Nhờ đó Mô-sê đã được Thiên Chúa bày tỏ mầu nhiệm. Cho ông biết tên Thiên Chúa. Cho ông biết chương trình của Người. Và cho ông được tham dự vào chương trình đó. Và vì ông khiêm nhường đón nhận, ông trở thành người lãnh đạo thiết lập Dân Thiên Chúa, ban lề luật cho Dân Thiên Chúa (năm lẻ).

Lạy Chúa con chỉ là hư vô. Mọi sự con có đều là của Chúa. Mọi sự con là cũng là bởi Chúa. Xin dạy con biết khiêm nhường để xứng đáng được Chúa dậy bảo.

 

Suy niệm 3: Cần Trở Nên Bé Mọn

Con người có thể khước từ Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa thì không bao giờ từ bỏ con người; Ngài luôn mời gọi con người trở về để lãnh nhận ân sủng và sự thật của Ngài. Thiên Chúa mời gọi mọi người, không phân biệt, nhưng từ phía con người có thể có một trong hai thái độ: thái độ của những kẻ bé mọn khiêm tốn để cho Chúa dạy dỗ; và thái độ của những kẻ thông thái, tự cao, cho mình thuộc một nhóm nhỏ tách rời khỏi đại đa số dân chúng.

Những kẻ thông thái được Chúa Giêsu trực tiếp nhắm đến trong Tin Mừng hôm nay là nhóm Biệt Phái đang đứng trong hành lãnh đạo sinh hoạt tôn giáo và chống đối Chúa. Họ đến với Chúa bằng con đường của sự thông hiểu về luật Môsê; họ cho rằng chỉ cần am tường lề luật Môsê trong Kinh Thánh cũng như trong truyền khẩu là con người có thể đến với Chúa: họ tự phụ mình biết Thiên Chúa, nhưng thực ra họ lìa xa Ngài.

Con đường Chúa Giêsu mạc khải để giúp con người đến với Thiên Chúa chính là Ngài, mà mỗi người chúng ta được mời gọi đón nhận với tâm hồn đơn sơ khiêm tốn: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. Nếu cậy dựa vào sự khôn ngoan của mình, con người sẽ không gặp được Thiên Chúa, nhưng nếu để Chúa Thánh Thần hướng dẫn và nhờ qua Chúa Giêsu Kitô, con người có thể đạt tới sự thông hiệp với Thiên Chúa và được cứu rỗi: “Lạy Cha, con chúc tụng Cha, vì điều Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết, thì Cha lại mạc khải cho những người bé mọn”.

Chúng ta cần trở nên những người bé mọn theo tinh thần Phúc Âm, để cảm nếm và sống hòa hiệp với Thiên Chúa. Ðức tin Kitô giáo hướng dẫn chúng ta đến một con người cụ thể, một vị Thiên Chúa chấp nhận sống với con người, chứ không phải những lý lẽ thần học cao siêu. Một con người khiêm tốn có thể có đức tin sâu xa hơn một nhà thông thái. Ðức tin là một hồng ân cần được lãnh nhận hơn là kết quả của sưu tầm trí thức của con người.

Thánh Têrêsa Avila, tuy không học hành nhiều, nhưng đã có kinh nghiệm sống động về Thiên Chúa và đã trình bày kinh nghiệm thiêng liêng của mình một cách tốt đẹp, đến nỗi đã được đặt làm tiến sĩ Hội Thánh, vì giáo huấn của thánh nữ để lại là kho tàng thiêng liêng quý báu giúp mọi thành phần Giáo Hội đến với mầu nhiệm Thiên Chúa.

Dĩ nhiên, Chúa Giêsu không có ý loại bỏ những bậc thông thái, nhưng chỉ có ý cảnh tỉnh những ai cậy dựa vào sự thông thái rằng họ sẽ không đến được với Chúa, không có đủ điều kiện để lãnh nhận mạc khải của Chúa. Tuy nhiên, không thiếu những trường hợp có sự hòa hợp giữa thông thái và đức tin Kitô giáo. Thánh Tôma Tiến sĩ là một điển hình. Nói chung, thái độ khiêm tốn để Chúa soi sáng hướng dẫn là điều căn bản cần phải có luôn.

Xin Chúa mở rộng tâm hồn chúng ta để lắng nghe Lời Chúa với tâm hồn khiêm tốn, mến yêu. Xin cho chúng ta biết sống theo sự soi sáng của Thánh Thần để đến với Chúa và anh em.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy niệm 4: Kinh Nghiệm Thiêng Liêng (Mt 11,25-27)

Con người có thể khước từ Thiên Chúa nhưng Thiên Chúa thì không bao giờ từ bỏ con người, không bao giờ ngưng mời gọi con người trở về lãnh nhận ân sủng và sự thật Người ban cho nhưng không: “Hết thảy những ai mệt mỏi và vất vả hãy đến với Ta, Ta sẽ nâng đỡ, ủi an”. Thiên Chúa mời gọi tất cả mọi người, không phân biệt một ai, nhưng từ phiá con người, khi đáp lại lời mời gọi của Chúa, mỗi người chúng ta có thể có một trong hai thái độ: thái độ đơn sơ, khiêm tốn đón nhận Chúa để cho Ngài hướng dẫn dạy dỗ; hoặc ngược lại, thái độ tự cao của kẻ cho mình là khôn ngoan, không cần đến Thiên Chúa.

Những kẻ khôn ngoan thông thái mà Chúa Giêsu nhắm đến trong đoạn Tin Mừng trên đây là những người biệt phái tinh thông Lề Luật và lãnh đạo sinh hoạt tôn giáo của dân Israel. Có thể nói, những kẻ khôn ngoan thông thái này đến với Chúa bằng con đường hiểu biết, nhất là sự thông thái Lề Luật Môsê. Họ nghĩ rằng chỉ cần am tường những Lề Luật của Môsê là họ có thể đến với Thiên Chúa. Họ ỷ lại vào sự hiểu biết và sự tự phụ cho mình biết rõ Thiên Chúa, nhưng thật ra, họ đang xa lìa Ngài.

“Lạy Cha, con chúc tụng Cha là Chúa trời đất, vì Cha đã giấu những điều đó ngoài những kẻ khôn ngoan thông thái, nhưng lại mạc khải cho chúng con, những kẻ bé mọn”. Mỗi người chúng ta cần trở nên bé nhỏ đơn sơ theo tinh thần Phúc Âm để cảm mến và sống mầu nhiệm Thiên Chúa. Ðức tin Kitô hướng ta đến gặp một con người cụ thể, một vì Thiên Chúa chấp nhận đến với con người. Ðức tin Kitô không dựa trên những lý lẽ thần học cao siêu. Ðức tin là một hồng ân cần được khiêm tốn đón nhận hơn là kết quả của cuộc sống sưu tầm trí thức.

Thánh Têrêsa Avila tuy không được học hành nhiều nhưng có kinh nghiệm sống động về Thiên Chúa. Thánh nữ đã trình bày những kinh nghiệm thiêng liêng của mình cách tốt đẹp đến độ Ðức Thánh Cha Phaolô VI đã tuyên bố thánh nữ là tiến sĩ của Giáo Hội, bởi vì giáo huấn của thánh nữ để lại là kho tàng thiêng liêng quý báu giúp các thành phần Giáo Hội đến với mầu nhiệm Thiên Chúa.

Dĩ nhiên, đoạn Tin Mừng hôm nay không có ý nói là Chúa Giêsu hoàn toàn loại bỏ những nhà thông thái, nhưng chỉ có ý cảnh tỉnh rằng những ai ỷ lại vào sự hiểu biết thông thái của mình, thì sẽ không đến được với Thiên Chúa. Không thiếu những trường hợp có sự hài hòa giữa sự thông thái và đức tin Kitô như thánh Thomaso thành Aquino. Trong mọi trường hợp, thái độ khiêm tốn chấp nhận để cho Thiên Chúa soi sáng hướng dẫn là điều căn bản cần phải có luôn.

Lạy Chúa,

Xin thương mở rộng tâm hồn cho con được lắng nghe Lời Chúa với hết lòng khiêm tốn và biết ơn. Xin thương giúp con sống theo sự soi sáng của Chúa Thánh Thần để đến với Chúa và anh chị em một cách dễ dàng và sâu xa hơn.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy niệm 5: Đường Lối Cư Xử Của Chúa

Vào lúc ấy, Đức Giêsu cất tiếng nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết điều này, nhưng lại mắc khải cho những người bé mọn.” (Mt. 11, 25)

Không giống như mọi người

Thiên Chúa không hành động như phần đông người ta, không suy nghĩ như họ, không xét đoán theo cùng tiêu chuẩn như họ.

Đối với phần đông, quy luật chung vẫn là: “Mạnh được yếu thua.” Người giầu có nhiều cơ may thăng tiến, kẻ nghèo thì họa chăng mới được, người khôn ngoan thông thái được mọi người kính trọng, hạng thứ dân ít học vốn bị coi thường. Kẻ có tiền, có quyền giống như: “Miệng quan có gang có thép.” Kẻ trắng tay lý lẽ cũng không. Ai có địa vị, người ấy có quyền ăn quyền nói, kẻ thấp hèn lên tiếng chẳng ai nghe.

Nhưng đối với Chúa lại khác hẳn, kẻ làm đầu phải trở lên người rốt hết, người rốt hết sẽ lên kẻ đứng đầu. Người mạnh trở lên yếu, kẻ yếu được lên mạnh, những bậc khôn ngoan thông thái đã bị giấú không cho biết những mầu nhiệm Nước Trời, trong khi những kẻ bé mọn lại được Chúa mặc khải cho những thực tại tuyệt vời ấy.

Lời tiên báo cho những kẻ bé mọn.

Khi thấy những người khôn ngoan thông thái bịt tai không nghe những lời giáo huấn của Chúa, còn những kẻ bé mọn lại dễ dàng tiếp nhận, Chúa Giêsu trong trạng thái hứng khởi, liền cất tiếng ngợi khen Cha.

Những kẻ bé mọn mà Phúc Âm nói đến ở đây, ta có thể gặp họ ở khắp nơi. Đó là những con người ít được học hành. Những người chẳng có địa vị cao trong xã hội, những người không thành đạt mấy trong cuộc đời, những người sống khiêm tốn. Họ có được sự nhạy bén để mở lòng ra đón nhận những sự thuộc về Chúa, một sự nhạy bén mà những người khác không có.

Nhưng những kẻ bé mọn của Phúc Âm cũng có thể là những người khôn ngoan và thông thái chân thật. Tuy nhiên không phải bất cứ người khôn ngoan thông thái nào cũng là chân thật cả. Mà chỉ có những ai không vênh vang kiêu hãnh về sự hiểu biết và khôn ngoan của mình mới là những người khôn ngoan thông thái chân thật. Chỉ có những người ấy mới có được tâm hồn của những kẻ bé mọn vậy.

J.Y.G

 

Suy Niệm 6: KHIÊM TỐN ĐỂ ĐÓN NHẬN MẶC KHẢI (Mt 11, 25-27)

Xem lại CN 24 TN A // lễ Thánh Tâm A //và lễ thánh Phan-xi-cô At-si-di ngày 4/10.

Để cảnh báo tác hại của rượu, một nhà khoa học đã làm một thí nghiệm trong một cuộc hội thảo. Ông bỏ mấy con sâu vào trong hai cái lọ: một lọ nước và một lọ rượu. Kết quả là sâu trong lọ rượu chết nhanh chóng, còn sâu trong lọ nước thì vẫn sống.

Tuy nhiên, trước kết quả đó, một thanh niên cuối phòng hội thảo giơ tay phát biểu: “Thưa mọi người, con sâu không sống được trong rượu, vì vậy, phải uống thật nhiều rượu để diệt trừ sâu trong người!”. Tuyên bố như thế là dại dột, thiếu hiểu biết. Nếu cứ uống rượu để diệt sâu thì có lẽ người chết trước khi sâu sinh thì!

Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy: sự kiêu ngạo của con người khiến cho họ trở nên chai lỳ, cứng cỏi. Một khi họ đã đeo cặp kính râm, thì trước mắt họ mọi sự đều là màu đen hết!

Hôm nay, Đức Giêsu đã tạ ơn Chúa Cha vì Người không cho những người thông thái và khôn ngoan biết mầu nhiệm Nước Trời, nhưng lại mặc khải Nước Trời cho những kẻ bé mọn.

Trong thực tế chúng ta vẫn thấy có nhiều người rất bình dân, học hành chẳng tới đâu, họ là những người khiêm tốn, nên đời sống đức tin của họ sâu xa và sống động! Ngược lại, những người tài giỏi, uyên thâm thì đức tin lại leo lét. Tại sao vậy? Thưa vì đức tin là một quà tặng của Thiên Chúa trao ban cho những ai biết khiêm tốn đón nhận chứ không phải là kết quả của cuộc sưu tầm trí thức nơi con người.

Ơn cứu độ sẽ được dành cho những ai khiêm tốn và cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa chứ không đến được với những người kiêu căng, ngạo nghễ và cậy dựa thuần túy vào khoa học. Hạng người này, Thiên Chúa sẽ loại trừ, hay nói đúng hơn vì họ không chịu đón nhận tình thương và mạc khải của Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con đức tin. Xin Chúa cho chúng con được trở nên đơn sơ để đức tin nơi chúng con ngày càng được lớn lên trong ân sủng của Chúa. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Mạc khải cho kẻ bé mọn

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa đã được tỏ bày cho những kẻ bé mọn, nhờ đó họ được ngụp lặn trong tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con đường cứu chuộc của Chúa hoàn toàn đi ngược lại với khôn ngoan của người đời. Chúa đã xuống thế trong lòng Đức Trinh Nữ Maria, một thiếu nữ tầm thường bình dị của làng quê Na-da-rét. Chúa đã để lại cho nhân loại một giáo huấn đi ngược lại với cách suy nghĩ của con người. Chúa đã đem lại sự sống đời đời khi đón nhận cái chết trên thập giá. Tất cả đã không thể nào làm cho các thầy thông luật và biệt phái hiểu được. Họ đã từ chối Chúa, bởi vì họ muốn dẫn Chúa đi theo con đường của họ, mà không muốn đưa tay mình để được bàn tay quảng đại của Chúa dẫn dắt.

Lạy Chúa, Chúa muốn dẫn con đến với Chúa Cha, muốn cho con được sự sống thân mật trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Chỉ có Chúa mới biết rõ Chúa Cha. Còn con chỉ biết bước theo Chúa, chỉ biết nghe theo lời Chúa dạy. Xin Chúa giúp con trút bỏ đi những ý nghĩ riêng tư của mình để có thể lắng nghe lời Chúa dạy bảo. Chúa kêu mời con tìm về Lời Chúa trong thánh kinh, để nhờ Lời Chúa, con có thể đến với Chúa, nhờ Lời Chúa con hiểu biết Chúa ngày một hơn. Xin Chúa ban cho con một thái độ khiêm cung đích thực, một tâm hồn biết lắng nghe Lời Chúa và đón nhận chân lý của Chúa. Con cám ơn Chúa vì niềm hạnh phúc lớn lao Chúa ban cho con. Được biết Chúa và theo Chúa, được sống trong Chúa và sống với Chúa, đó là hồng ân cao cả nhất đời con. Xin Chúa giúp con cảm nhận được niềm vui ấy trong suốt cuộc đời. Amen.

Ghi nhớ: “Chúa đã giấu không cho những người khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn”.

 

Suy Niệm 7: Tinh thần trẻ thơ

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Chị Têrêsa thành Lisieux sống và mang tinh thần bé nhỏ: Luôn làm những việc bé nhỏ, chị đã thổ lộ và cầu nguyện: “Con là một linh hồn rất bé mọn, chỉ có thể dâng những điều bé mọn cho Chúa”.

Nhờ tinh thần phó thác vào Chúa, chị cảm nhận ra tình yêu Chúa ngay cả những đen tối nhất của tâm hồn đó là cảm nghiệm được nước Trời: “Ngay cả những khi gặp thử thách ốm đau, con không sợ, vì Chúa luôn ở bên con, nâng đỡ con, vì Ngài đã nâng đỡ con từ khi con còn tấm bé, và sẽ nâng đỡ con mãi mãi cho đến hơi thở cuối cùng”.

Chính tinh thần bé nhỏ đã khiến chị sờ tới nước Trời và trong Thiên Chúa chị được bình an tâm hồn khi đặt mỗi gánh nặng bệnh tật vào Chúa.

Suy niệm

Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha: “Con xưng tụng Cha vì Cha đã mạc khải nước Trời cho những người bé mọn”. Người mang tâm tình thơ ấu bé nhỏ, người anh em hay chị em, tín thác vào tình yêu của Chúa Cha và để cho Ngài làm việc.

Chúa Giêsu đã chọn lựa những con người bé nhỏ, tầm thường để mạc khải nước Chúa và những người mang Tin Mừng đó là những anh thuyền chài không được trọng dụng trong xã hội.

Còn những con người học thức tài ba như Phaolô như Matthêu lại tự chấp nhận bé nhỏ để nước Trời được tỏa hiện trong các ông và tự các ông đến với anh em mình. Người mang tinh thần bé nhỏ được nước Trời mạc khải, được phác họa với hình ảnh Kinh Thánh:

“Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ

 Trong con hồn lặng lẽ an vui” (Tv130,2).

Nhỏ bé, nép mình vào lòng Chúa, phó thác tất cả để được Thiên Chúa đỡ nâng, vì thế Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy đến với lòng Chúa để được nâng đỡ bồi dưỡng tâm hồn.

Cuộc sống hôm nay, con người luôn mong muốn được vĩ đại, sự mong muốn và phấn đấu vĩ đại của con người đã lấn át mạc khải nước Trời. Con người quên tinh thần bé nhỏ tín thác, sự vĩ đại mà họ muốn khẳng định và định đoạt tất cả, cái giá của sự vĩ đại mang danh “tự do” làm cho tôi và bạn quên Thiên Chúa gạt Ngài ra khỏi đời sống trong từng cách sống. Dù rằng, chúng ta vẫn luôn tuyên xưng mình là người có đạo, người tin Chúa. Đó chính là một thực tế của thế giới ngày hôm nay ở khắp mọi châu lục, đặc biệt là châu Âu, cái nôi của Kitô giáo. Nơi cuộc sống của chúng ta cũng thế.

Trong cuộc sống hằng ngày, ai trong chúng ta cũng đã cảm nghiệm được vất vả, mang gánh nặng, chịu gian nan thử thách, chịu đau khổ cả tinh thần lẫn vật chất, từ bản thân đến gia đình và xã hội. Với tinh thần bé nhỏ bên Chúa, con người hôm nay tìm thấy được một nơi yên nghỉ sau những giây phút mệt mỏi của đời sống và đặt tất cả mọi nỗi lo âu, những gánh nặng trần thế như Chúa Giêsu đã khẳng định: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30). “Các con hãy mang lấy ách của Ta”. Đây là kiểu nói bóng trong truyền thống Kinh Thánh nơi các thầy rabbi xưa quen dùng, hàm ý nhìn nhận ai là thầy (x. Hc 51,26; Is 55,1). Chúng ta nhìn nhận và học nơi Thầy Giêsu hiền lành và khiêm nhu, tràn đầy tình thương, nhân từ, tha thứ và liên đới như Thầy đã dạy.

Thật thế, con người sẽ tìm thấy bình an, khi nhìn nhận sự bé nhỏ của mình trước Đấng Tạo Hóa và phó thác vào Ngài, họ sẽ được chính nước Trời khi giữa phong ba, giữa những mỏi mệt của cuộc sống đó là mầu nhiệm nước Trời mà người không tin vào Chúa Giêsu không thể cảm nghiệm.

Ý lực sống:

“Hãy để trẻ nhỏ đến với Ta, đừng ngăn cấm chúng vì nước Trời thuộc về chúng” (Mt 19,14).

 

Suy Niệm 8: Chúa mạc khải cho kẻ bé mọn (Mt 11,25-27)

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Sau khi khiển trách những thành ven Biển hồ đã không tin Ngài vì cậy vào sự thông thái của mình. Chúa Giêsu lên tiếng tạ ơn và chúc tụng Chúa Cha đã mạc khải Tin mừng cho những người bé mọn, tức là những người “nghèo trong tinh thần”, mà Ngài đã nói trong bài giảng về Bát phúc, những người tội lỗi, những kẻ ít học.

Người hèn mọn là đối tượng của lòng Chúa xót thương. Chúng ta tìm kiếm xem tại sao Thiên Chúa lại thiếu cảm tình với người khôn ngoan, thông thái? Phải chăng Thiên Chúa ganh tỵ với họ? Hay phải chăng Thiên Chúa chỉ muốn con người kém cỏi, hèn mọn?

Qua lời cầu nguyện cùng Cha, Chúa Giêsu cho chúng ta biết: Thiên Chúa là Cha, là chủ tể vũ trụ vạn vật, Ngài hoàn toàn tự do và đầy yêu thương, Ngài tỏ mình cho ai là sáng kiến của Ngài, Ngài muốn chỉ bảo ai điều gì, khi nào và thế nào là tuỳ ý Ngài. Nhưng chắc chắn Ngài không tỏ mầu nhiệm Nước trời cho những người tự phụ là khôn ngoan thông thái theo quan niệm của thế gian mà chỉ tỏ cho những người đơn sơ bé mọn.

Cụ thể những người biệt phái, những luật sĩ là hạng người được coi là trí thức thông thái, đã không tiếp nhận Tin mừng của Chúa và không nhận Ngài là Đấng đã được tiên báo trong Thánh kinh mà họ nghiên cứu tỉ mỉ. Trái lại, những kẻ đơn sơ bé mọn như các Tông đồ, là những người ít học mà các luật sĩ và biệt phái khinh thường, nhưng những kẻ bé mọn đó lại đón nhận Tin mừng, tin nhận Ngài là Cứu Chúa và làm theo lời Ngài chỉ dạy.

“Lạy Cha là Chúa tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn (Mt 11,25)

“Mặc khải” có nghĩa là làm cho những gì đã giấu kín được tỏ lộ ra. Mang ra ánh sáng những gì đang ở trong bóng tối, hay làm cho một ngươi hiểu những gì họ chưa biết hay còn mù mờ. Chúa Giêsu so sánh giữa những người khôn ngoan thông thái với kẻ bé mọn để dạy mọi người cần có thái độ của trẻ thơ: tin tưởng, khiêm nhường, ham học hỏi, để người chuyển thông cho họ những kiến thức về Thiên Chúa. Bởi vì, thái độ kiêu hãnh và nghi ngờ sẽ cản người ta nhận ra những gì Thiên Chúa muốn mạc khải cho.

Để hiểu mầu nhiệm Nước trời, con người cần có thái độ khiêm nhường: trông cậy hoàn toàn vào Thiên Chúa chứ không phải ỷ vào sức mình.

Chúng ta cần trở nên những người bé mọn theo tinh thần Phúc âm, để cảm nếm và sống hoà hiệp với Thiên Chúa. Đức tin Kitô giáo hướng dẫn chúng ta đến một con người cụ thể, một vị Thiên Chúa chấp nhận sống với con người, chứ không phải những lý lẽ thần học cao siêu. Một con người khiêm tốn có thể có đức tin sâu xa hơn một nhà thông thái. Đức tin là một hồng ân cần được lãnh nhận hơn là kết quả của sưu tầm trí thức của con người.

Thánh Têrêsa Avila, tuy không học hành nhiều, nhưng đã có kinh nghiệm sống động về Thiên Chúa và đã trình bày kinh nghiệm thiêng liêng của mình một cách tốt đẹp, đến nỗi đã được đặt làm tiến sĩ Hội thánh, vì giáo huấn của thánh nữ để lại là kho tàng thiêng liêng quí báu giúp mọi thành phần Giáo hội đến với mầu nhiệm Thiên Chúa (Mỗi ngày một tin vui).

Hãy trở nên bé mọn trước Thiên Chúa

Người leo núi có những tâm trạng trái ngược nhau. Đứng ở dưới mặt đất bằng, tầm mắt người ta thật hạn hẹp; nhưng khi leo lên tới đỉnh núi thì ngay lập tức lại thấy mình thật bé nhỏ và bị nhấn chìm trước quang cảnh đang trải rộng dưới chân. Có thể mượn tâm trạng đó để cảm nghiệm sự sâu thẳm vô biên của Mầu nhiệm Thiên Chúa. Có dám bỏ vị trí lè tè chật chội của cái tôi ích kỷ và đáp ứng những đòi hỏi của cuộc sống thánh thiện, lúc đó người ta mới thấy được sự nhỏ bé của mình và đồng thời cảm nhận được sự cao cả thánh thiện của Thiên Chúa.

Bạn không nhất thiết phải là người mù chữ thất học mới có thể đặt niềm tin vào Thiên Chúa. Trái lại, như người ta thường nói: “Càng học càng thấy mình dốt”, điều kiện ban đầu để đến với Thiên Chúa không phải là bằng cấp này, học vị kia mà là thái độ khiêm tốn. Chính nhờ nhận biết mình bé mọn bạn có thể sẵn sàng đón nhận mạc khải của Chúa. Và một khi đã bước vào thế giới của mầu nhiệm, bạn sẽ càng thấy mình bé mọn và càng khao khát Thiên Chúa nhiều hơn nữa (5 phút Lời Chúa).

Truyện: Đám táng Thiên Chúa

“Thiên Chúa đã chết”, đó là câu nói của triết gia Nietzche mà sau này được nhiều người lặp lại. Ngày nọ, những người này muốn cử hành lễ nghi an táng, để từ biệt ý nghĩ Thiên Chúa hiện hữu. Họ nhờ bác phu già trông coi nghĩa trang đào sẵn cho một cái huyệt. Hiện diện trong buổi lễ, ngoài bác phu già, tất cả đều là bậc trí thức trong xã hội. Khi người chủ trì khai mạc buổi lễ thì bác phu già la lên:

– Không thể được, vì quan tài chưa đến.

Thiên Chúa vô hình, cần gì đến quan tài để tẩm liệm. Một vài người xúm lại kéo bác phu già ra xa, nhưng ông vùng vẫy và la lớn:

– Không. Thiên Chúa không chết. Thỉnh thoảng không ngủ được, ra đây ngồi, tôi vẫn nghe tiếng tim Ngài đập, nếu không tin, tối nay tụ họp lại đây quí vị sẽ thấy.

Động tính hiếu kỳ, họ bỏ dở buổi lễ và hẹn nhau tối sẽ trở lại. Tuy nhiên, tiếng động bên ngoài vọng lại khiến suốt đêm họ không thể nhận ra đâu là tiếng đập của quả tim Thiên Chúa. Họ dời tụ điểm đến một vùng quê, nhưng vắng tiếng động thành phố thì lại có tiếng côn trùng. Cuối cùng họ quyết định gặp nhau tại sa mạc. Bầu khí tĩnh mịch của sa mạc về đêm làm họ cảm thấy được cất khỏi gánh nặng lo toan, trở về với cõi lòng và chăm chú lắng nghe. Bỗng một người la to: “Tôi đã nghe thấy”. Nhiều người khác phụ họa: “Chúng tôi cũng đã nghe thấy”. Có người phân tích âm thanh của nó giống như âm thanh của mỗi lần cố gắng sống hoàn thiện. Họ đã tin phục lời bác phu già và nhất là tìm lại được niềm tin.

 

Suy Niệm 9: ,,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống…)

Đoạn này tiếp liền sau đoạn hôm qua: sau khi khiển trách những thành ven bờ hồ đã không tin Ngài vì cậy vào sự thông thái của mình, Chúa Giêsu lên tiếng tạ ơn và chúc tụng Chúa Cha đã mặc khải Tin Mừng cho những người bé mọn, tức là những người “Nghèo trong tinh thần” mà được Chúa nói lên trong Bát Phúc (Tv 19,8. 116,6), những người tội lỗi, những kẻ ít học.

Ngài còn nói “vì ý Cha đã muốn an bài như vậy”. Nghĩa là những thái độ hoặc tin hoặc cứng lòng tin mà Chúa Giêsu gặp chẳng phải là chuyện may rủi, cũng chẳng phải do tài năng hay bất tài của Ngài, mà là chương trình khôn ngoan của Thiên Chúa. Ngài luôn ưu ái những kẻ bé mọn và hạ bệ những bậc khôn ngoan.

B- Suy gẫm (…nẩy mầm)

  1. Chúa Giêsu là một con người lạc quan, mặc dù vừa thất bại ở các thành ven biển hồ, Ngài vẫn lên tiếng tạ ơn và chúc tụng Chúa Cha. Sở dĩ Ngài lạc quan vì Ngài thấy được kế hoạch của Chúa Cha.

Sau khi bị thất bại, tôi dễ chán nản muốn bỏ cuộc. Xin Chúa cho con lạc quan như Chúa, để luôn tin tưởng vào thành công cuối cùng của việc loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Xin cho con lạc quan đến nỗi vẫn ca tụng tạ ơn Chúa vì những thất bại của con.

  1. Thiên Chúa giấu không cho những người khôn ngoan biết những mầu nhiệm của Ngài, mà lại mặc khải cho những người bé mọn biết những điều ấy. “Chúa hạ bệ những kẻ kiêu căng, Ngài nâng cao những người phận nhỏ”.

Dù con biết được điều gì đi nữa, dù con có thành công bao nhiêu đi nữa, xin cho con luôn khiêm tốn, tự biết mình chỉ là kẻ bé mọn trước mặt Chúa.

  1. Được Thiên Chúa mặc khải cho biết về Ngài, đó là một đặc ân cao quý. Biết bao người thông thái nhưng không có đức tin. Còn con, từ hồi nhỏ mới sinh ra đã được ơn đức tin. Con xin tạ ơn và chúc tụng Chúa.
  2. Niềm vui và sự phấn khởi là sợi chỉ xuyên suốt của toàn bộ Thánh Kinh. Thánh Phalô đã nhắc nhở các tín hữu “Anh em hãy vui lên. Tôi nhắc lại anh em hãy vui luôn”. Cho dù cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu có là trọng tâm của Kitô giáo, cho dù hy sinh có là con đường tu đức của Kitô hữu, thì Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô vẫn là tên gọi của đạo Chúa. Kitô giáo thiết yếu là một Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô để đón nhận, để sống và để loan báo. Mà nói đến Tin Mừng là nói đến hân hoan. (Trích “Chờ đợi Chúa”)
  3. Một hôm sói hỏi sóc:

– Vì đâu mà họ nhà sóc ngươi luôn vui vẻ nhảy nhót còn bọn sói chúng ta luôn buồn sầu?

– Ông buồn vì ông ác. Tính độc ác đã bóp nghẹt tim ông. Còn chúng tôi vui vẻ vì chúng tôi hiền lành và không làm điều ác cho ái. (Tolstoi kể)

  1. “Vâng lạy Cha vì đó là điều làm đẹp ý Cha”. (Mt 11,26).

Lạy Chúa, Chúa đã đến và đã xin con tất cả, và con cũng đã hiến dâng cho Chúa tất cả: cặp mắt, đôi chân và đôi bàn tay. Vì con là phụ nữ, ưa ngắm nhìn mái tóc óng ả của con, ưa ngắm nhìn những ngón tay thon nuột của con. Thế mà giờ đây đầu con hầu như không còn sợi tóc nào, cũng chẳng còn đâu những ngón tay hồng hồng xinh xắn, chỉ còn lại vài que củi khô nham nhúa… Thế nhưng con không hề muốn nổi loạn, con lại muốn dâng lên cho Chúa lời tạ ơn,… Bởi vì, đời con đã được quá ư đầy tràn đến kì diệu. Sống trong tình yêu Chúa, cuộc đời con cũng lấp đầy chan chứa.

Lời nguyện cầu của chị Véroniquae đẹp quá. Cứ dạt dào, bay vút hoà quyện với lời tạ ơn của Chúa Giêsu.

Lạy Chúa Giêsu, xin dạy con biết khám phá nơi con những khả năng Chúa ban, biết trân trọng những tặng vật Chúa ký thác, và tận dụng những cơ hội Chúa gởi trao. (Hosanna)

 

Suy Niệm 10: ,,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Nếu đọc kỹ Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu là một con người lạc quan. Mặc dù vừa thất bại ở các thành ven Biển Hồ, Ngài vẫn lên tiếng tạ ơn và chúc tụng Chúa Cha. Sở dĩ Ngài lạc quan vì Ngài thấy được kế hoạch của Chúa Cha.

Chúng ta hãy tập sống lạc quan như Chúa, bởi vì khi sống lạc quan chúng ta mới có nhiều niềm vui và niềm vui sẽ đem lại hạnh phúc cho chúng ta. Xin được trích đọan một câu chuyện nhỏ từ trên mạng:

Hôm đó trời ảm đạm. Cô ngủ quên và trễ giờ làm việc. Rồi mọi việc trong văn phòng làm cô như muốn điên lên. Khó khăn lắm mới làm xong mọi việc. Rồi cô đón xé buýt về như mọi hôm. Chỉ có điều hôm nay cô rất bực mình. Một ngày thật “tồi tệ “, cô nghĩ thế.

Lần này cũng như mọi lần, chuyến xe buýt lại đến đón khách trễ, tệ hơn lại còn hết chỗ ngồi. Xui xẻo gì đâu! Cô đành phải đứng. Chiếc xe làm cô lắc lư tứ phía. Đã bực mình, cô càng cảm thấy buồn bực hơn!

Chợt cô nghe một giọng nói phía trước. Giọng nói của một người đàn ông cũng “bị” đứng như cô.

– Trời đẹp lắm phải không quí vị!

Vì đông quá, cô không nhìn rõ được mặt ông ta. Cô chỉ nghe được giọng ông đang giới thiệu huyên thuyên về cảnh mùa xuân, rồi cảnh vật những con đường xe buýt đi qua! Nào là nhà thờ, công viên, nghĩa địa, đội cứu hỏa. Và lạ thay, hầu như tất cả mọi hành khách trên xe đều nhìn ra ngoài cửa sổ để ngắm cảnh vật ông giới thiệu. Ông nói hăng say và nhiệt tình đến mức cô phải mỉm cười. Đây là nụ cười đầu tiên trong ngày.

Rồi cũng về đến nhà. Khi chen giữa đám đông để xuống xe, cô cố liếc nhìn người “hướng dẫn viên du lịch”. Ồ! Ông nào có trẻ trung gì. Ông đã đứng tuổi, trên mặt có hàm râu quai nón, đeo kính đen và cầm trên tay cây gậy nhỏ màu trắng.

– Ồ! Ông bị mù!

Xin Chúa cho chúng ta có được tinh thần lạc quan để luôn biết ca tụng Chúa kể cả những khi thất bại trong cuộc đời.

  1. Thiên Chúa giấu không cho những người khôn ngoan biết những mầu nhiệm của Người, mà lại mặc khải cho những người bé mọn: “Chúa hạ bệ những kẻ kiêu căng, Ngài nâng cao những người phận nhỏ” (Lc 1,52). Những người phận nhỏ là những người đơn sơ ngay thẳng thật thà. Đó là những tâm hồn được Chúa yêu quí.

Một hôm sói hỏi sóc:

– Vì đâu mà họ nhà sóc các anh luôn vui vẻ nhảy nhót còn bọn sói chúng ta luôn buồn sầu?

– Ông buồn vì ông ác. Tính độc ác đã bóp nghẹt tim ông. Còn chúng tôi vui vẻ vì chúng tôi hiền lành và không làm điều ác cho ai. (Theo Tolstoi).

Vâng, Chúa luôn yêu quí những tâm hồn đơn sơ bé nhỏ. Đã có lần Chúa nói: “Nếu anh em không trở nên như trẻ nhỏ, anh em sẽ không được vào Nước Trời” (Mt 18,3).

Ông Babis sống tại bang Indiana bên Hoa Kỳ, kể lại một kinh nghiệm nhận ra tình yêu thương của Thiên Chúa trong và qua đứa cháu nội của ông như sau:

“Vì một trường hợp sinh nở khó khăn, nên một trong hai đứa cháu nội của tôi vừa được sinh ra đã chết. Đứa còn sống sót nhưng bị tàn tật nặng cả về thể xác lẫn tinh thần, vô phương chữa trị. Dĩ nhiên là cha mẹ của cháu buồn lắm. Là ông bà nội, chúng tôi cũng buồn không kém.

Thằng bé có khuôn mặt kháu khỉnh làm sao! Nhưng lại tàn tật trông thật đáng thương! Tuy nhiên, ai trong gia đình cũng đều yêu thương cháu cách đặc biệt, ai cũng muốn quấn quít với cháu.

Mỗi khi bế cháu vào lòng, tim tôi se lại và một nỗi buồn nào đó lại đè nặng tâm hồn tôi. Cho đến một ngày nọ, tôi còn nhớ rõ lắm, nhớ thật rõ. Lúc đó đứa cháu nội tôi đã được hơn hai tuổi. Chiều hôm đó, tôi trông cháu giúp con tôi để chúng đi dâng lễ. Tôi đặt thằng bé nằm trên giường và mở cho nó nghe một đĩa nhạc mang nội dung Thánh Kinh, hầu hết là những bài ca giáo lý do các trẻ em hát. Thằng bé vừa nghe, vừa mỉm cười, nó múa máy động chân động tay, còn miệng thì ầm ừ những gì mà tôi không hiểu.

Tôi nhìn cháu phản ứng, bỗng dưng nỗi buồn trong lòng tôi tan biến giữa những tiếng hát của đám trẻ vang lên trong đĩa hát.

Bất chợt tôi cảm nghiệm sâu xa rằng, Thiên Chúa hiểu những tiếng ầm ừ của thằng cháu tôi và Ngài lắng nghe nó với tất cả lòng yêu thương. Ngài nói chuyện với nó qua giọng kể và tiếng hát của những em nhỏ phát ra từ đĩa hát.

Xác tín ấy đã hàn gắn vết thương lòng tôi, đồng thời cũng củng cố lòng tin của tôi vào tình thương yêu nhân từ Chúa dành cho mỗi người. Cũng hôm ấy tôi hiểu Lời Chúa trong Tin Mừng. “Hãy để trẻ nhỏ đến cùng Ta đừng ngăn cản chúng, vì Nước Trời thuộc về những ai giống như chúng.” (Mt 19,14)

 

 

THỨ NĂM TUẦN 15 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Mt 11, 28-30

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: “Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an.

Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng”.

 

Suy Niệm 1: Hiền hậu và khiêm nhường

Suy niệm:

Sống làm người ở đời ai tránh được gánh nặng.

Chẳng phải chỉ những người bốc vác ở cảng mới mang gánh nặng.

Gánh nặng gắn liền với phận người.

Có gánh nặng gia đình, gánh nặng nghề nghiệp, gánh nặng tuổi tác.

Có gánh nặng buồn đau của quá khứ, gánh nặng lo âu cho tương lai.

Xem ra mỗi người không vác nổi gánh nặng của mình.

Ai cũng thấy có lúc cần đến người khác.

Đức Giêsu nhìn thấy những ai đang mang gánh nặng vào thời của Ngài.

Đặc biệt những kẻ phải giữ chi li hơn 600 điều luật của phái Pharisêu.

Luật Chúa lẽ ra phải đem đến niềm vui hạnh phúc,

thì lại trở thành “những gánh nặng chất lên vai người ta” (Mt 23, 4).

Đức Giêsu mời đến với Ngài tất cả những ai đang vất vả,

tất cả những ai chưa là môn đệ của Ngài.

Ngài hứa sẽ cho họ được nghỉ ngơi trong tâm hồn (cc. 28. 29).

Sự nghỉ ngơi ở đây chính là sự bình an sâu xa của người được cứu độ,

được hưởng các mối phúc ngay từ bây giờ,

và bắt đầu được sống trong ngày Sabát vĩnh cửu với Thiên Chúa.

“Hãy đến với tôi; hãy mang ách của tôi; hãy học với tôi.”

Lời mời của Đức Giêsu lôi kéo những ai vất vả đến với Ngài.

Ngài mời họ làm môn đệ và sống theo giáo huấn của Ngài.

Trong Cựu Ước, ách tượng trưng cho Luật Thiên Chúa ban cho Môsê

Đi theo làm học trò Đức Giêsu, không phải là không có ách.

Ách của Đức Giêsu chính là lời giáo huấn của Ngài.

Lời giáo huấn ấy chúng ta đã được nghe trong Bài Giảng trên núi.

“Ách của tôi êm ái và gánh của tôi nhẹ nhàng” (c. 30).

Nhiều người không hiểu tại sao Đức Giêsu lại bảo ách mình êm ái,

khi mà Ngài đưa ra những đòi hỏi triệt để hơn,

tận căn hơn những đòi hỏi của Luật được giải thích bởi Môsê.

Thật ra sự êm ái nhẹ nhàng không bắt nguồn từ việc được đòi hỏi ít hơn,

nhưng đến từ tình yêu của tôi đối với Đức Giêsu.

Bài Tin Mừng hôm nay có 7 chữ tôi.

Cái tôi hiền hậu và khiêm nhường của Đức Giêsu thu hút tôi mến Ngài

Chính tình yêu làm cho ách và gánh của Ngài trở nên êm nhẹ.

Người ta thấy nặng nề khi bị áp lực phải giữ các luật lệ bên ngoài,

nhưng lại dễ làm theo sự thúc đẩy của một tình yêu bên trong.

Tự do hơn và vui tươi hơn, đó là điều ta cảm thấy khi sống cho Giêsu.

Làm sao để việc giữ đạo, theo đạo, sống đạo,

không trở thành một gánh nặng đè trên người Kitô hữu?

Làm sao để chúng ta tự do hơn và vui tươi hơn khi đến gặp Giêsu

và tìm được sự nghỉ ngơi cho tâm hồn mình?

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa đã yêu trái đất này,

và đã sống trọn phận người ở đó.

Chúa đã nếm biết

nỗi khổ đau và hạnh phúc,

sự bi đát và cao cả của phận người.

Xin dạy chúng con biết đường lên trời,

nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.

Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu,

chúng con thấy mình được thêm sức mạnh

để xây dựng trái đất này,

và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.

Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa,

xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời

không làm chúng con quên trời cao;

và những vẻ đẹp của trần gian

không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa.

Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con,

mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

Suy niệm 2: Hãy mang lấy ách của Ta

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Đời sống con người thật vất vả vì phải mang nhiều gánh nặng. Có thể là gánh nặng bản thân. Gánh nặng trách nhiệm. Và nhất là gánh nặng nô lệ.

Gánh thì nặng. Một cổ hai ba ách tròng vào. Người dân chỉ mong được hạnh phúc. Nhưng I-sa-i-a cho biết họ chỉ gặp đau khổ. Mà những đau khổ dường như vô nghĩa: “Như người đàn bà mang thai, lúc gần sinh nở, phải quằn quại, kêu la vì đau đớn, … Chúng con đã mang thai, đã quằn quại, nhưng chỉ sinh ra gió”. Thật là vô vọng (năm chẵn).

Gánh nặng trở nên tủi nhục đau thương khi phải sống dưới ách nô lệ. Như dân Do thái bên Ai cập. Tuy nhiên Thiên Chúa là tình yêu thương. Quan tâm đến thân phận con người. Hiểu thấu gánh nặng của con người. “Ta thật sự quan tâm đến các ngươi và cách người ta đối xử với các ngươi bên Ai cập”. Nên Chúa quyết định sai Mô-sê đến gặp Pha-ra-ô để giải phóng dân Chúa. Để đưa “lên miền đất tràn trề sữa và mật” (năm lẻ).

Miền đất chảy sữa và mật thực ra là chính Chúa. Vì chỉ nơi Chúa ta được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Bao lâu chưa đến với Chúa ta còn đuổi theo thế gian. Đuổi theo thế gian thì còn vất vả long đong. Ham mê quyến rũ. Nhưng tất cả chỉ là gánh nặng. Càng đuổi theo dục vọng càng thấy mệt mỏi chán chường. Như thánh Âu-tinh từng trải nghiệm. Chúa mời gọi mọi người đến với Chúa. “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”. Đến với Chúa ta được bình an, thư thái, hạnh phúc. “Hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng”. Chỉ Thiên Chúa mới thoả mãn mọi khao khát sâu xa của con người. Vì Chúa là nguồn sự sống. Nguồn hạnh phúc. Nguồn bình an. Nơi Người ta nếm cảm được hương vị dịu ngọt không bút nào tả xiết.

Hãy mau đến theo lời mời của Chúa. Chỉ nơi Chúa ta mới được giải thoát khỏi ách nô lệ. Chỉ nơi Chúa ta được gánh yêu thương nhẹ nhàng, êm ái và tràn đầy an ủi.

 

Suy niệm 3: Hãy Ðến Với Chúa

Những kẻ vất vả mang gánh nặng mà Tin Mừng hôm nay nhắc đến được các nhà chú giải hiểu là những con người đơn sơ khiêm tốn, sẵn sàng để Thiên Chúa dạy dỗ hướng dẫn, như được nói đến trong đoạn Tin Mừng trước đó. Tâm hồn họ đã sẵn sàng, giờ đây, Chúa Giêsu mời gọi họ đến với Ngài để được Ngài nâng đỡ bổ sức cho; hay nói theo một bản dịch Kinh Thánh khác: để được Ngài giải thoát khỏi gánh nặng. Gánh nặng nào? Ðó là gánh nặng của lề luật mà các nhà thông thái chất trên vai những con người đơn sơ, hèn mọn. Họ bó gánh nặng đặt lên vai người khác, còn chính họ thì không muốn động ngón tay vào, như lời Chúa trách cứ thái độ giả hình của những người Biệt Phái. Tinh thần vụ luật, vụ hình thức đã làm cho những vị lãnh đạo Do Thái giáo không còn quả tim để thông cảm nữa.

Chúa Giêsu mời gọi dân chúng đến với Ngài để được Ngài giải thoát khỏi gánh nặng và được nâng đỡ bổ sức. Chống lại những người Biệt Phái, Chúa Giêsu đề ra một cái ách mới cho những ai chấp nhận Ngài. Ðây chẳng phải là không còn lề luật, bởi vì giáo huấn của Chúa Giêsu đòi hỏi không thua gì lề luật của Môsê. Nhưng đối với Chúa Giêsu, những kẻ tuân giữ luật Chúa được sức mạnh tinh thần nâng đỡ ủi an, đó là sức mạnh của Thánh Thần mà Ngài đã ban cho các môn đệ để họ tuân giữ luật Chúa, và như vậy luật Chúa trở nên nhẹ nhàng, dễ chu toàn.

Người Kitô hữu không lẻ loi một mình, không tự sức mình tuân giữ luật Chúa. Hằng ngày họ được Chúa nuôi dưỡng bằng chính Mình Máu Thánh Ngài và được ban cho tràn đầy Thánh Thần. Sống theo ơn soi sáng của Thánh Thần, họ sẽ cảm nghiệm được rằng đời sống đức tin với tất cả những hệ lụy, những đòi buộc của nó, sẽ không còn là gánh nặng, mà là niềm vui và sức mạnh trong mọi biến cố, mọi hoàn cảnh cuộc đời.

Xin cho chúng ta biết lắng nghe lời mời gọi đến với Chúa, tin tưởng vào Chúa và lấy tình yêu đáp trả tình yêu để “ách Chúa trở nên êm ái và gánh Chúa trở nên nhẹ nhàng” cho chúng ta.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy niệm 4: Gánh Nặng Cuộc Ðời (Mt 11,28-30)

Theo các nhà chú giải thì những kẻ mệt mỏi và vất vả mà đoạn Phúc Âm nhắc đến là những kẻ đã được nói đến trước đó như là những con người đơn sơ, khiêm tốn, sẵn sàng để cho Chúa dạy bảo, hướng dẫn. Tâm hồn họ đã được chuẩn bị sẵn sàng. Giờ đây, Chúa mời gọi họ một cách tha thiết hơn. Hãy đến với Ngài để được Ngài nâng đỡ, an ủi. Nơi bản văn Kinh Thánh khác, câu quả quyết của Chúa Giêsu: “Ta sẽ nâng đỡ, an ủi” được chuyển dịch là: “Ta sẽ giải phóng họ khỏi gánh nặng”. Và gánh nặng nào đây? Thưa, đó là gánh nặng phức tạp mà các nhà thông luật đặt ra đè năng trên vai những con người đơn sơ bé nhỏ, bắt buộc họ phải tuân giữ hết điều này tới điều khác.

Chúa Giêsu đã trách những người biệt phái, thông luật và giả hình như sau: “Họ bó những gánh nặng đặt trên vai dân chúng. Còn họ thì không muốn đụng ngón tay”. Tinh thần vụ hình thức, vụ Lề Luật Môsê, đã làm cho những vị lãnh đạo dân Do Thái không còn có một quả tim để thông cảm nữa. Chúa Giêsu mời gọi dân chúng đến với Ngài để được giải thoát khỏi những gánh nặng của cuộc đời, khỏi những gánh nặng của luật lệ, vụ hình thức.

“Hãy mang lấy ách của Ta, ách êm ái, gánh nhẹ nhàng”. Chống lại những người Pharisiêu, Chúa Giêsu đề ra cho những ai chấp nhận Ngài một ách mới, nhưng đây không có nghĩa là không còn luật lệ gì nữa cả. Không phải vậy, giáo huấn của Chúa Giêsu rất đòi hỏi không thua gì những đòi hỏi của luật Môsê. Nhưng kẻ tuân giữ Luật Chúa thì còn được sức mạnh Chúa nâng đỡ an ủi, đó là Thánh Thần sự thật mà Chúa Giêsu hứa sẽ ban cho các đồ đệ, để giúp các ngài tuân giữ Luật Chúa và như vậy khiến Luật Chúa trở nên nhẹ nhàng, dễ chu toàn.

Người đồ đệ Chúa không lẻ loi, không tự sức mình mà tuân giữ các giới răn, có Chúa Thánh Thần ngự trong họ, giúp họ hướng về Thiên Chúa mà họ gọi là Cha “Abba”. Sống theo sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, người đồ đệ sẽ cảm nghiệm được rằng đời sống đức tin với tất cả những hệ luận của nó sẽ không còn là gánh nặng nữa, nhưng là niềm vui, sự ủi an và cả những thử thách.

Lạy Chúa,

Con hết lòng cảm tạ Chúa, vì tình thương bao la Chúa không ngừng nâng đỡ con. Con cảm tạ Chúa vì đã ban cho con hồng ân của Chúa Thánh Thần, để soi sáng, nâng đỡ con trong những lúc gian nan thử thách. Xin cho con được tin tưởng đến với Chúa, lấy tình yêu đáp lại tình yêu.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy niệm 5: Luật Đè Nặng, Luật Giải Thoát

“Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.” (Mt. 11, 28-30)

Ách lề luật

Chúa Giêsu hay ngỏ lời với đám người bình dân, Người thường gặp trên các nẻo đường. Họ là những con người nghèo khổ, bé mọn mà Phúc Âm rất hay nói đến. Cuộc sống của đám người này chẳng có gì là sung sướng. Một trong những lý do thực tế là họ đã phải tuân thủ quá nhiều luật lệ mà giới chức sắc thời đó đã áp đặt lên họ. Và bởi không sao giữ nổi hết những luật lệ tỉ mỉ đó, lên lương tâm họ đâm ra bối rối. Họ đâu có biết rằng trong nhiều trường hợp người ta đã lợi dụng họ.

Thời ấy luật lệ thường quá tỉ mỉ và thường bất công. Những người thấp cổ bé họng cứ phải lầm lũi phục lụy. Còn kẻ có địa vị ăn trên ngồi trước lại khôn khéo tìm kẽ hở để được miễn trừ luật. Gánh nặng quả đã đè năng lên vai những người bé mọn ấy.

Ách tình yêu.

Chúa Giêsu muốn giải thoát họ, người mời gọi họ đổi cái ách ngăn cản họ sống lấy cái ách mới sẽ làm họ sống. Ách đó chỉ gồm có một luật mà thôi: Luật tình yêu.

Nếu Chúa Giêsu bảo người ta phải mang ách là vì điều Người kêu gọi là đòi hỏi cấp bách phải thi hành. Con đường Người đặt cho ta đi quả là gay go, cánh cửa Ngài mở ra cho ai sẽ đi theo Người là cánh cửa hẹp. Thế nhưng Chúa bảo đó là ách êm ái nhẹ nhàng. Tất nhiên là người ta mang ách đó bởi vì tình yêu.

Khi ta cảm thấy ngột ngạt vì phải chu toàn những bổn phận, phải giữ những điều trung tín, phải tôn trọng những lời nói, phải thực hành những điều Phúc Âm truyền buộc thì chỉ có một lý do: Là vì không có tình yêu ở đấy. Khi không có tình yêu, chẳng có gì ý nghĩa. Khi có tình yêu trong công việc, mọi việc đều mang ý nghĩa. Và điều gì có thể coi như nặng nề, bỗng nhiên hóa ra nhẹ nhàng hơn nhiều.

J.Y.G

 

Suy Niệm 6: MANG “ÁCH” VÀ “GÁNH” CỦA CHÚA ĐỂ ĐƯỢC BÌNH AN (Mt 11, 28-30)

Xem lại CN 14 TN A // lễ Thánh Tâm A // lễ thánh Phan-xi-cô At-si-di ngày 4/10

và thứ Tư tuần 2 MV.

Trong xã hội ngày nay, số người tự tử khá cao. Điều đáng nói là những người tự tử ở độ tuổi thanh thiếu niên lại nhiều nhất. Tại Nhật Bản, người ta ước tính cứ 16 phút lại có một người tự tử. Tự tử chiếm tỉ lệ cao hơn cả tại nạn giao thông ở đất nước này.

Khi tìm hiểu nguyên nhân, người ta nhận thấy nhiều bạn trẻ bế tắc trong công việc, thất bại trong tình yêu, không tìm ra ý nghĩa, giá trị của cuộc sống, nên đã tìm đến cái chết như một sự giải thoát. Nói chung, họ thấy gánh nặng cuộc đời quá lớn, khiến không thể mang vác nổi, vì thế đành “hạ gánh buông trôi” cho dòng đời đưa đẩy.

Hôm nay, Đức Giêsu mời gọi hãy mang lấy “ách” và “gánh” của Ngài để được bình an và hạnh phúc, vì “ách” của Ngài thì êm ái và “gánh” của Ngài thì nhẹ nhàng. Đồng thời Đức Giêsu cũng mời gọi mỗi chúng ta hãy học với Ngài vì Ngài hiền hậu và khiêm nhường trong lòng.

“Ách” của Đức Giêsu chính là  sự “hiền hậu”, “khiêm nhường”. Khi mang lấy trong mình sự “hiền hậu”, “khiêm nhường”, chúng ta sẽ thấy mọi chuyện chở nên êm ái và nhẹ nhàng.

Còn “gánh” của Đức Giêsu chính là “luật yêu thương”.

Trong đời sống của người tín hữu, chúng ta sẽ gặp không ít những khó khăn bên trong và bên ngoài. Khó khăn về thể lý lẫn tinh thần. Khó khăn về những hiểu lầm, cố chấp, bất công. Khó khăn về sự chung thủy… Những cái đó chính là những “ách” và “gánh” của cuộc đời.

Khi mang “ách” và “gánh” cuộc đời như vậy, chúng ta cảm thấy nặng nề và muốn buông xuôi, bỏ cuộc, bởi vì chúng ta đối diện và phải mang cái “ách” đó bằng sự kiêu ngạo, tự phụ, ích kỷ chứ không phải là hiền hậu và khiêm nhường theo tinh thần của Chúa. Hơn nữa,“gánh” của cuộc đời mà chúng ta vẫn mang theo chính là sự bảo thủ, ghen ghét, không thông cảm và cố chấp chứ không phải là “luật yêu thương”!

Mong sao mỗi chúng ta hãy mang lấy “ách” và “gánh” của Đức Giêsu và hãy học cùng Ngài để được bình an.

Lạy Chúa Giêsu, trong cuộc sống, chúng con luôn phải đối diện với những lo toan như cơm, áo, gạo, tiền, khiến đôi khi chúng con cảm thấy nặng nề và thất vọng. Xin Chúa ban cho chúng con biết đến với Chúa để được Chúa cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Ách êm ái, gánh nhẹ nhàng

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu mời gọi mọi người hãy mang lấy ách êm ái và gánh nhẹ nhàng của Người giữa cuộc sống khổ ải trần gian.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, có những lúc con gặp sự chẳng lành, những lo lắng khổ đau. Có lúc người thân nhất cũng không hiểu và thông cảm với con, lòng con chán chường thất vọng. Lúc đó, Chúa nhìn thấy và mời gọi con đến nương tựa vào Chúa. Chúa đến chia sẻ cuộc sống với con, Chúa đem bình an và sự vững tin cho con giữa cảnh đời đen trắng, tối tăm. Con cảm nhận tình yêu thương Chúa muôn đời. Xin đừng để con bao giờ quên chạy đến cậy nhờ lòng yêu thương của Chúa.

Lạy Chúa, từ lúc mở mắt chào đời cho đến hơi thở cuối cùng, con được nhiều người nâng đỡ ủi an như cha mẹ, vợ chồng, anh em, bạn hữu… Nhưng sự nâng đỡ ấy còn nhiều giới hạn, và thường ngắn ngủi mau qua. Chỉ nơi Chúa con mới tìm được sức nâng đỡ lâu dài và niềm an ủi vô tận, vì tình thương Chúa vô bờ và tồn tại đến muôn đời.

Lạy Chúa, xin dạy con biết chạy đến với Chúa. Con sẽ tìm được bình an khi đến với Chúa nơi tòa Cáo giải. Con sẽ tìm thấy sức mạnh để chịu các thử thách hy sinh nhờ ơn bí tích, nhất là sức sống thần thiêng của Thánh Thể Chúa. Chúa hằng nuôi dưỡng và bổ sức con, nâng con dậy khi con xiêu té. Con nương tựa trọn vẹn vào Chúa.

Xin ban cho con hoa trái của tình yêu là sự dịu hiền, là lòng khiêm cung. Xin dạy con học nơi tình yêu Chúa lòng khiêm nhường và sự dịu ngọt; và xin Chúa giúp con hiến trọn đời mình để mang lấy ách êm ái và gánh nhẹ nhàng của Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”.

 

Suy Niệm 7: Thiên Chúa luôn thương yêu

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Khi Đức Giám mục Watts còn nhỏ, ngày nọ chạy sang nhà một bà già hàng xóm. Bà nhờ ngài đọc cho bà nghe một đoạn Kinh Thánh rồi nói: “Khi con lớn chút nữa, người ta sẽ bảo con rằng Thiên Chúa luôn rình xem khi nào con phạm lỗi để trừng phạt. Nhưng ta không muốn con nghĩ như thế, mà ta muốn con chăm đọc Kinh Thánh để luôn nhớ rằng Thiên Chúa luôn thương yêu con, Ngài luôn để mắt nhìn đến con”.

Suy niệm

Trong cuộc sống hằng ngày, ai trong chúng ta cũng đã cảm nghiệm được vất vả, mang gánh nặng, chịu gian nan thử thách, chịu đau khổ cả tinh thần lẫn vật chất, từ bản thân đến gia đình và xã hội.

Bên Chúa, con người hôm nay tìm được thấy một nơi ngơi nghỉ sau những giây phút mệt mỏi của đời sống và đặt tất cả mọi nỗi lo âu, những gánh nặng trần thế như Chúa Giêsu đã khẳng định: “Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi” (Mt 11,28). “Các con hãy mang lấy ách của Ta”. Đây là kiểu nói bóng trong truyền thống Kinh Thánh nơi các thầy rabbi xưa quen dùng, hàm ý nhìn nhận ai là thầy (Hc 51,31; Is 55,1). Chúng ta nhìn nhận và học nơi Thầy Giêsu hiền lành và khiêm nhu, tràn đầy tình thương, nhân từ, tha thứ và liên đới như Thầy đã dạy.

Con người sẽ tìm thấy bình an, khi nhìn nhận sự bé nhỏ của mình trước Đấng Tạo Hóa và phó thác vào Ngài, họ được chính nước Trời khi giữa phong ba cuộc đời giữa những mỏi mệt của cuộc sống đó là mầu nhiệm nước Trời mà người không tin vào Chúa Giêsu không thể cảm nghiệm.

Chúng ta mang tâm tình tín thác trong cuộc sống: “Hãy trao phó mọi việc trong tay Chúa, thì bạn sẽ thành công, Ngài sắp xếp mọi sự để thực hiện ý Người (Cn 34,4).

Ý lực sống:

“Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi” (Mt 11,28).

 

Suy Niệm 8: Hãy đến với Chúa (Mt 11,28-30)

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Chúa Giêsu kêu gọi những kẻ khổ cực lầm than đến với Ngài để được nâng đỡ giúp sức. Chúa Giêsu ở giữa con người, sống kiếp con người. Ngài cảm thông với tất cả những lao đao, khốn cùng của con người. Ngài muốn chúng ta đến với Ngài để được an ủi, đỡ nâng. Hãy đến với Chúa là mạch tình yêu. Tình yêu ban sức mạnh để ách trở nên êm ái và gánh được nhẹ nhàng.

“Đang vất vả mang gánh nặng nề (Mt 11,28)

Gánh nặng nào đây? Đó là lề luật thời Chúa Giêsu. Do thái giáo có lề luật phải giữ chi li hơn 600 điều, mà Biệt phái đè nặng trên vai những con người đơn sơ bé nhỏ, bắt buộc họ phải tuân giữ hết điều này tới điều khác. Luật Chúa lẽ ra phải đem đến niềm vui hạnh phúc, thì lại trở thành “những gánh nặng”chất lên vai. Chính vì thế, mà Chúa Giêsu kêu gọi dân theo Ngài vượt qua tinh thần câu nệ lề luật, đặt niềm tin vào luật mới yêu thương, để tìm được “sabat” đích thực là được nghỉ ngơi trong tâm hồn, được hưởng sự bình an sâu xa của người được cứu độ, để bắt đầu cuộc sống mới trong Thần khí.

“Tất cả những ai đang vất vả… hãy đến” (Mt 11,28)

Thường tình khi gặp gian nan thử thách buồn phiền, con người hay tìm giải sầu cách tự nhiên trong men rượu, cà phê, thuốc lá, hay tệ hơn nữa trong xì ke ma tuý. Có một cách thanh tao hơn để con người giải sầu là tìm đến bạn hữu chân tình để tâm sự cho vơi đi những nỗi buồn phiền.

Bài Tin mừng hôm nay giới thiệu cho mọi người Kitô hữu chúng ta một phương thế siêu nhiên, để vượt qua những thử thách, buồn phiền để được an bình tươi vui trong tâm hồn, đó là đến với Chúa: “Hãy đến cùng Tôi, Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”.

– Đến với Chúa để học cách sống của Ngài.

– Đến với Chúa để sống như Ngài giảng dạy.

– Đến với Chúa để đón nhận tình thương của Chúa: vì Chúa là nguồn an ủi.

“Anh em hãy mang lấy ách của Tôi” (Mt 11,29)

Mang lấy ách của tôi là một kiểu nói bóng các thầy Ráp-bi xưa quen dùng, hàm ý nhìn nhận ai là thầy.

Trường học của Chúa Giêsu, người theo học được mời gọi sống theo gương mẫu của Ngài: hiền lành và khiêm nhường, nghĩa là bất bạo động, tràn đầy tình thương, nhân từ, tha thứ và liên đới giữa mọi người, đặc biệt là những người bé mọn, bị bỏ rơi, bị khinh miệt, kỳ thị và đàn áp.

Khi biết cách sống tình yêu thương đại đồng và phát huy tình yêu thương không biên giới đó, nghĩa là không hận thù, không bạo động, con người sẽ đạt được bình an nội tâm và thể hiện nó ra trong cuộc sống cá nhân, gia đình và xã hội (Trần Hữu Thành).

“Vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29)

Thực ra, trước Chúa Giêsu mấy trăm năm, nhà hiền triết Lão Tử cũng đã đưa ra chủ trương: “Nhu nhược thắng cương cường”: lấy mềm dịu thắng cứng rắn (nhu thắng cương, nhược thắng cang). Đây là một chủ trương mới lạ, khó được chấp nhận, chỉ những người có tâm hồn cao thượng mới hiểu và chấp nhận được chủ trương này. Hôm nay chúng ta thấy lời khuyên của Chúa Giêsu rất gần với chủ trương của Lão Tử. Và trong thực tế, có rất nhiều người đã thực hiện lời khuyên của Chúa Giêsu. Họ đã thành công và đã để lại tấm gương sáng muôn đời cho nhiều người. Chúng ta hãy nhớ lại lời khuyên của Chúa Giêsu trong Tám mối phúc thật: “Phúc cho ai có tinh thần hiền lành vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”.

Truyện: Lạn Tương Như và Liêm Pha

Lạn Tương Như được phong làm tướng quốc. Liêm Pha cậy mình có nhiều công hơn mà lại bị đứng dưới, nên tức giận hăm he hễ gặp mặt Tương Như là giết đi. Tương Như vì thế cứ lánh mặt mãi… Một hôm Tương Như ra ngoài, gặp toán lính tiền đạo của Liêm Pha, vội sai tên đánh xe đi tránh vào trong ngõ, đợi Liêm Pha đi qua rồi mới đi ra. Bọn xá nhân thấy thế càng giận bèn họp nhau hỏi Tương Như:

– Chúng tôi bỏ nhà cửa, xa thân thích đến đây hầu ngài, tức coi ngài là bậc thượng phu nên mến mà theo. Nay ngài cùng Liêm tướng quân cùng hàng mà hạng thứ lại ở trên. Liêm Pha dọa, ngài đã không báo lại, đã tránh ở triều, nay lại tránh ở ngoài đường. Sao ngài lại sợ quá như vậy? Chúng tôi lấy làm xấu hổ, vậy xin đi thôi, không ở nữa.

Tương Như nói: – Các ngươi xem tướng quân có hơn được vua Tần không?

Bọn xá nhân đáp: – Không.

Tương Như nói:

– Lấy cái oai của vua Tần, thiên hạ ai dám chống, mà Tương Như này dám mắng giữa triều đình, lại làm nhục cả quần thần nữa. Tương Như dẫu hèn, há lại sợ một Liêm tướng quân ư? Nhưng ta nghĩ, Tần sở dĩ không dám đánh Triệu là vì e có ta và Liêm tướng quân. Nay hai con hổ tranh nhau, thế không cùng sống. Tần nghe tin, tất thừa cơ đánh Triệu. Ta sở dĩ chịu nhục tránh Liêm tướng quân là coi việc nước là trọng và thù riêng là khinh vậy thôi.

Bọn xá nhân mọp lạy mà rằng:

– Tiểu nhân chúng tôi trí hẹp làm gì hiểu nổi đại chí của tướng công.

Liêm Pha khi nghe thuật lại việc làm của Tương Như cả thẹn mà rằng: “Ta thật còn kém Lạn Tương Như xa lắm”. Bèn đến tạ tội với Tương Như, quì mọp mà rằng: “Tôi tính thô bạo, đội ơn tướng quân bao dung, nghĩ lấy làm hổ thẹn quá”. Tương Như đỡ dậy, nắm tay cùng khóc và kết làm bạn sống chết với nhau (Nguyễn Duy Cần, Cái DŨNG của thánh nhân, 1958, tr 162-163).

 

Suy Niệm 9: ,,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống…)

Trong ngôn ngữ Thánh Kinh, ”gánh” chỉ luật lệ, và ”mang lấy ách” là chỉ học với. Chúa Giêsu kêu mời chúng ta học với Ngài và đón nhận luật của Ngài.

Học với Chúa Giêsu là học được tính hiền lành khiêm tốn.

Luật của Ngài là luật yêu thương.

Bởi thế ai mang lấy ách của Ngài và học với Ngài thì tâm hồn người đó sẽ được bình an.

B- Suy gẫm (…nẩy mầm)

  1. “Hãy đến với Ta hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng”: Ôi một lời kêu gọi xuất phát từ một tấm lòng yêu thương bao la! Chúa rất quan tâm lo lắng khi thấy tôi đau khổ và mệt mỏi. Ngài rất muốn nâng đỡ và xoa dịu tôi nên mới lên tiếng kêu mời tôi. Lẽ ra tôi phải tìm đến Ngài trước, thế mà Ngài lại kêu mời tôi trước.

Mà sở dĩ Ngài kêu mời tôi là vì rất nhiều lần khi tôi gặp khốn khổ tôi đã không chạy đến Ngài, tôi đã chạy đến với ai khác, tôi ngã lòng không muốn cầu nguyện nữa.

  1. “Ta hiền lành và khiêm tốn”: Hẳn là 2 đức tính này quý giá đặc biệt lắm nên Chúa mới mô tả mình như thế.

Tôi có hiền lành không? Tôi còn phải học gì thêm ở tính hiền lành của Chúa?

Tôi có khiêm tốn không? Tôi còn phải học gì thêm ở tính khiêm tốn của Chúa?

  1. “Ách của Ta êm ái”: Điều làm cho Luật của Chúa trở nên êm ái là tình yêu. Nếu tôi không yêu Chúa thì việc tôi giữ luật sẽ trở thành nặng nề. Nếu tôi không yêu thương anh chị em thì việc tôi sống chung với họ sẽ làm cho cả tôi và họ khổ sở. Xin giúp con ngày càng yêu thương nhiều hơn.

Lạy Chúa, xin cho con cảm nghiệm được: chỉ nơi Ngài con mới kín múc được niềm vui và sự an bình đích thực. (Hosanna)

 

Suy Niệm 10: ,,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. “Hãy đến với Tôi hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng” (Mt 11,28).

Chúa kêu gọi những ai khó nhọc và gánh nặng đến với Chúa.

Thường tình thì chẳng có ai mà lại kêu gọi những người vất vả khó nhọc và đầy những gánh nặng đến với mình. Những loại người này đến chẳng những không có lợi gì, mà còn có thể gây ra những phiền hà rắc rối cho mình là đàng khác.

Chỉ có Chúa mới kêu gọi như thế, bởi vì Ngài không đến để được phục vụ mà là để phục vụ và đã gọi là phục vụ, thì bao giờ cũng có yếu tố thua lỗ ở trong đó. Chúa Giêsu phục vụ không công. Ngài ban phát thật nhiều mà nhận lại chẳng có gì. Chính vì thế mà Ngài mới kêu gọi những đối tượng chẳng được mấy ai lưu tâm đến với Ngài. Tất cả chỉ vì tình thương mà thôi.

Mỗi khi chúng ta gặp khốn khổ chúng ta hãy chạy đến với Chúa. Chắc chúng ta sẽ không phải thất vọng.

  1. “Hãy học với Tôi” (Mt 11,29).

Học ở đây không giống như học chữ mà là học làm người.

Công Minh Tuyên đến học thầy Tăng Tử. Ở nhà thầy đã ba năm mà không mấy khi đọc sách.

Thầy Tăng Tử hỏi: “Ngươi đến đây học đã ba năm nay, ta xem ý ngươi không mấy khi học tập sách vở như các anh em khác, là tại làm sao?

– Công Minh Tuyên nói: Thưa thầy, con vẫn học. Con thấy: thầy ở trong nhà, trước mặt song thân, lúc nào cũng hiếu thuận, hoà nhã, cho đến giống vật như chó, mèo, thầy cũng không quở mắng bao giờ; – thầy ứng tiếp bạn bè cung kính ung dung, rất có lễ độ, kẻ dở người hay, ai nấy đều nể phục; – Thầy ở triều đình, đối với kẻ dưới, bề ngoài rất là nghiêm trang, mà trong bụng rất là nhân từ, không có ý hại ai bao giờ cả. Ba điều ấy con lấy làm vui lòng học mãi mà chưa được. Con đâu dám không học mà cứ ở cửa nhà thầy”.

Thầy Tăng Tử nghe đoạn, tạ lại Công Minh Tuyên và nói rằng: “Ta nay thật không bằng con”.

Đó là học làm người. Học làm người thì phải học suốt đời. Có lẽ suốt cuộc đời cũng chưa xong. Phải học hoài học mãi.

  1. “Tôi hiền lành và khiêm tốn” (Mt 11,29).

Hẳn là 2 đức tính này quý giá một cách đặc biệt lắm cho nên Chúa mới bảo với các môn đệ như thế.

Lịch sử cho chúng ta thấy: sự kiêu ngạo đã gây nên bao thảm họa:

 – Satan nguyên là một thiên thần nhưng vì kiêu ngạo mà đã thành quỉ sứ.

 – Tổ tông loài người chúng ta cũng chỉ vì kiêu ngạo mà gây ra biết bao nhiêu đau khổ cho cả loài người.

 – Ngược lại, những người biết sống hiền lành và khiêm nhường sẽ là những người đẹp lòng Chúa.

“Chúa hạ kẻ quyền thế xuống và nâng người hèn mọn lên.” (Lc 1,52).

Bởi vậy chúng ta hãy cố học cho bằng được hai đức tính này.

Vua Philipphê nước Macedonia là cha sinh ra vua Alexandre le Grand, hằng ngày có các thiếu niên quí phái hầu cận. Sáng sáng, họ có bổn phận phải vào tận long sàng đánh thức nhà vua mà tâu:

– Xin bệ hạ nhớ cho: “Vua cũng là người”.

 Vua sai người nhắc mình mỗi ngày như thế là để chế ngự tính khí kiêu ngạo, là thói thường làm hư hoại cuộc sống con người.

Vua chẳng qua cũng chỉ là một người. Chúng ta cũng hãy nên tự nhắc cho mình hoặc viết chữ lớn dán ở phòng ngủ: Ta nên nhớ ta là một người, phận sự ta phải ăn ở cho xứng đáng.

Đối với bản thân hay tha nhân, ta phải luôn sống cho xứng nhân vị là bậc làm người.

Thánh Philipphê Nêri biết tính mình rất nóng và trước Mình Thánh Chúa, ngài xin Chúa giúp ngài chữa lành tính nóng nảy này. Chúa hứa giúp ngài.

 Sau đó Nêri bước ra khỏi nhà thờ và chỉ công việc cho giáo dân. Hôm đó một anh thanh niên xưa nay rất thân với ngài bỗng dưng không chịu nghe lời lại còn dám cãi to tiếng với ngài nữa. Nêri nổi giận “sạt” anh ta một trận. Nhưng sau đó, ngài nghĩ lại, hối hận vì sự nóng nảy của mình, và xin Chúa tha. Cuối ngày hôm đó, lại có một giáo dân bình thường, rất hiền lành, dễ bảo, nay bỗng trở chứng, làm Nêri nổi cơn thịnh nộ một lần nữa.

 Tối đó, trước Mình Thánh Chúa, Nêri cúi đầu thưa Chúa:

– Con xin lỗi Chúa vì con đã nóng nảy. Mà tại sao Chúa lại không giúp con sửa tính xấu này?

 Chúa trả lời thánh nhân rằng:

 – Con ạ, con xin Ta giúp sửa đổi tính nết và Ta đã giúp con bằng cách cho hai người bạn thân tốt của con tạo dịp cho con sửa mình, thế mà con đâu nhận ra đó là ơn của Ta!

Vâng, đừng quá quan trọng chính mình. Hãy coi mình chỉ là một con người…

Lạy Chúa,

Chúa đã khiêm tốn và kiên trì

nhận lấy những thất bại trong cuộc đời

cũng như mọi đau khổ của thập giá,

xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách

chúng con phải gánh chịu mỗi ngày,

thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến

và trở nên giống Chúa hơn. Amen.

 

 

THỨ SÁU TUẦN 15 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Mt 12, 1-8

Khi ấy, vào ngày Sabbat, Chúa Giêsu đi ngang cánh đồng lúa. Các môn đệ của Người đói, liền bứt bông lúa mà ăn.

Thấy vậy, các người biệt phái thưa với Người rằng: “Kìa, các môn đệ của Ngài làm điều không được phép làm trong ngày Sabbat”.

Người nói với các ông rằng: “Các ông không đọc thấy Đavít và những người đi với ông đã làm gì khi đói lả sao? Các ông cũng không đọc thấy Đavít vào đền thờ Chúa ăn bánh trưng hiến, bánh mà ông và các kẻ theo ông không được phép ăn, chỉ trừ các tư tế được ăn mà thôi sao? Hay các ông không đọc thấy trong luật rằng: Ngày Sabbat, các tư tế trong đền thờ vi phạm ngày Sabbat mà không mắc tội đó sao?

Tôi bảo cho các ông biết, đây có Đấng còn trọng hơn đền thờ nữa. Vì nếu các ông biết được điều này là: “Ta muốn lòng nhân từ, chứ không muốn hy lễ”, chắc các ông không bao giờ lên án những người vô tội, vì chưng Con Người cũng là chủ ngày Sabbat”.

 

Suy Niệm 1: Ta muốn lòng nhân

Suy niệm:

Đức Khổng Tử đòi người quân tử phải có năm đức tính gọi là ngũ thường.

Đứng đầu của ngũ thường là lòng nhân.

Ngài viết: “Người quân tử mà bỏ đức nhân thì làm sao được gọi là quân tử?

Người quân tử dù trong một bữa ăn cũng không làm trái điều nhân,

dù trong lúc vội vàng cũng theo điều nhân (Luận Ngữ, IV, 5).

Trong giáo huấn của Đức Giêsu, lòng nhân có một chỗ đứng đặc biệt.

Hai lần câu này của ngôn sứ Hôsê được trích dẫn trong Mátthêu:

“Ta muốn lòng nhân, chứ đâu cần lễ tế” (9, 13; 12, 7).

Xem ra câu này không dễ hiểu, nên Ngài khuyên ta học cho biết ý nghĩa.

Giữ ngày sabát là điều rất quan trọng trong Do thái giáo.

Theo Luật Chúa, đó là ngày nghỉ ngơi, ngừng mọi công việc.

Đối với người Pharisêu, bứt lúa được xem như gặt lúa, nên là việc bị cấm làm.

Hành vi bứt lúa của các môn đệ bị coi là vi phạm ngày sabát.

Thay vì trách họ theo lời người Pharisêu, Thầy Giêsu lại bênh vực họ.

Ngài trưng dẫn trường hợp Đavít và các thuộc hạ khi đói bụng

đã ăn bánh thánh hiến vốn dành riêng cho các tư tế (Lv 24,5-9; 1 Sm 21,1-6).

Hiển nhiên đây là chuyện vi phạm Lề Luật vì có nhu cầu chính đáng.

Nếu chấp nhận chuyện Đavít thì càng phải chấp nhận chuyện của các môn đệ,

vì họ đi theo một Đấng mà Đavít phải gọi là Chúa (Mt 22, 43).

Luật giữ ngày sabát thật ra không phải là một đòi buộc luân lý tuyệt đối.

Các tư tế phải làm việc phụng sự Chúa, chuẩn bị các lễ vật vào ngày sabát.

Nếu họ được phép vi phạm ngày sabát mà không mắc tội (c. 5),

thì huống hồ là Thầy Giêsu và các môn đệ của Ngài,

những người làm việc cho Nước Trời, nhưng lại phải chịu đói nên mới bứt lúa.

Đức Giêsu không có thái độ bất kính với ngày sabát.

Nhưng Ngài là chủ ngày sabát, Ngài có quyền xác định điều gì được phép làm.

Ngài thấy gánh nặng đè lên con người bởi những cấm đoán chi li,

khiến con người ngột ngạt, mệt mỏi.

Giữ Luật phải đem lại cho con người hạnh phúc,

phải đi với lòng nhân.

Giữ Luật mà cứng nhắc, thiếu lòng nhân, lòng bao dung,

thì đó là thứ hy lễ Chúa không cần (Hs 6, 6).

Thật ra không có sự đối nghịch giữa luật lệ với lòng nhân.

Giữ luật là cách biểu lộ lòng nhân, vì luật trên hết là luật yêu thương.

Người giữ luật thực sự là người có khuôn mặt vui tươi và trái tim rộng mở.

Khi yêu thì người ta trở nên chi li.

Không phải chi li để xét đoán người khác.

Nhưng chi li vì thấy những nhu cầu nhỏ bé của tha nhân.

Chỉ xin giữ mọi luật lệ nhỏ bé thật chi li, chỉ vì yêu bằng tình yêu quá lớn.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu, vì con bé nhỏ,

nên xin yêu ngài bằng khả năng bé nhỏ của con.

Cho con biết yêu

những công việc bé nhỏ mỗi ngày,

những công việc âm thầm,

những bổn phận mà con làm vì yêu mến.

Cho con biết yêu những hy sinh bé nhỏ mỗi ngày,

vui lòng đón nhận những thánh giá tuy nhỏ,

nhưng làm tim con đau đớn.

Cho con biết yêu tinh thần bé nhỏ của trẻ thơ,

đơn sơ thú nhận mình yếu đuối và bất lực,

sung sướng nương tựa vào duy một mình Chúa.

Hơn nữa, xin cho con can đảm,

dám chọn những gì giúp con trở nên bé nhỏ hơn,

nhờ đó con vui tươi phục vụ mọi người

và hạnh phúc khi thấy Chúa lớn lên trong con.

Mỗi lần bị cám dỗ tự cao,

xin cho con biết ngắm nhìn con đường Chúa đã đi,

con đường bé nhỏ và khiêm hạ.

Ước gì con được làm bạn của Chúa

trên đường từ Bêlem đến Núi Sọ,

và được ở bên Chúa trong Nước Trời. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

Suy niệm 2: Giá trị tối thượng

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Cuộc sống thế giới hôm nay đảo điên. Bậc thang giá trị đảo lộn. Con người u u mê mê chẳng còn phân biệt được thật giả, đúng sai, ác thiện. Người ta không còn phân định được đâu là giá trị tối thượng. Chúa Giê-su phân định rạch ròi.. Theo Chúa Giê-su Thiên Chúa yêu thương con người. Và vì thế con người cần phải xác đinh 3 chân lý.

Giá trị tối thượng là sự sống. Sự sống là món quà quí giá nhất Chúa ban cho con người. Có sự sống là có tất cả. Mất sự sống là mất tất cả. Vì thế những gì vi phạm sự sống cần được tháo bỏ. Những người hủy diệt sự sống phải bị trừng phạt. Vì thế Chúa đề cao việc cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống. Vì thế Chúa trừng phạt người Ai cập vì hủy hoại sự sống của người Ít-ra-en (năm lẻ). Vì thế Chúa bênh vực các tông đồ tuốt lúa ngày sa-bát. Sự sống là giá trị tối thượng.

Lề luật tối thượng là lòng nhân hậu. Để bảo vệ con người cần phải có luật lệ. Để xã hội tiến triển trật tự cần phải có luật lệ. Nhưng nếu những luật lệ đó trở thành bất nhân, không bảo vệ con người, không đem lại hạnh phúc cho con người, cần phải phá bỏ. Thờ phượng Chúa là điều phải làm. Nhưng nếu vì lề luật mà bất nhân thì Chúa không ưng nhận. Chúa khẳng định: “Ta muốn lòng nhân chứ không cần hi lễ”. Lòng nhân hậu là lề luật tối thượng.

Quyền tối thượng là ở nơi Thiên Chúa. Có sự sống. Có luật lệ để bảo vệ sự sống. Nhưng Thiên Chúa mới là chủ của cả sự sống lẫn luật lệ. Vì thế Thiên Chúa có quyền trên sự sống và luật lệ. Mà Thiên Chúa lại là Đấng Giầu Lòng Thương Xót. Vì lòng nhân hậu Người sẵn sàng phá vỡ luật lệ cho vua Khít-ki-gia được sống thêm 15 năm khi thấy những giọt nước mắt và nghe tiếng khóc của vua (năm chẵn). Người ra tay trừng phạt Pha-ra-ô và người Ai cập vì đã thấy Ít-ra-en bị bóc lột và nghe thấy tiếng họ rên siết than van. Người bênh vực các tông đồ tuốt lúa ăn vì Người thương các ông đói bụng. Và Người làm chủ ngày sa-bát.

Xin cho con nhận biết quyền tối thượng của Thiên Chúa trong lịch sử, trong thế giới và trong đời con. Để con giữ luật tối thượng theo lòng nhân hậu của Người. Biết kính trọng giá trị tối thượng là sự sống Chúa ban tặng.

TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

 

Suy niệm 3: Ngày Hưu Lễ

Chương 12 Tin Mừng Mátthêu qui tụ những tranh luận giữa Chúa Giêsu và các vị lãnh đạo Do thái giáo thời Chúa Giêsu về những đặc tính của nếp sống tôn giáo. Cuộc tranh luận hôm nay liên quan đến việc thực hành đạo đức căn bản của người Do thái, đó là việc giữ ngày Hưu lễ. Ðây là một thực hành quan trọng đến độ người Biệt Phái đã dùng việc Chúa Giêsu không tuân giữ luật Hưu lễ để lý luận và nói với dân chúng rằng Chúa Giêsu không phải là Ðấng đến từ Thiên Chúa, không phải là Ðấng Mêsia.

Việc dành riêng một ngày nghỉ cho Thiên Chúa đã bị lạm dụng đến mức việc tuân giữ ngày Hưu lễ không còn là do tình yêu mến tôn thờ đối với Thiên Chúa, nhưng là một hình thức ràng buộc con người. Qua cuộc tranh luận với những người Biệt Phái về việc giữ ngày Hưu lễ, Chúa Giêsu mở rộng cho chúng ta thấy giá trị tôn giáo đích thực của ngày Hưu lễ, và do đó phải sống tinh thần ngày Hưu lễ đó như thế nào?

Cuộc tranh luận của Chúa Giêsu đều được trình thuật đầy đủ trong các Tin Mừng Nhất Lãm, nhưng nơi Tin Mừng Mátthêu, tác giả lưu ý hai điểm: thứ nhất, quyền hành của Chúa Giêsu trên các việc thực hành đạo đức; thứ hai, lòng nhân từ có ưu tiên trên việc thực hành đạo đức. Trả lời cho thắc mắc của những người Biệt Phái tại sao các môn đệ Ngài không giữ luật Hưu lễ, Chúa Giêsu nhắc lại việc xẩy ra trong Cựu Ước liên quan đến Ðavít và những người tùy tùng khi đói, tức khi khẩn thiết, đã làm điều không được phép làm, hoặc việc các tư tế trong Ðền thờ không nghỉ ngày Hưu lễ mà cũng không mắc tội. Rồi Chúa kết luận: “Nếu các ông hiểu được ý nghĩa của câu này: “Ta muốn lòng nhân từ, chứ đâu cần lễ tế, ắt các ông sẽ chẳng lên án kẻ vô tội”. Lòng nhân từ phải là căn bản cho những phán đoán của chúng ta đối với anh em; cần phải hành xử theo lòng nhân từ này hơn là chỉ xét đoán anh em theo những việc bên ngoài.

Vả lại, những việc đạo đức và việc nghỉ ngày Hưu lễ, là để con người đến gần Thiên Chúa, thế mà Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã hiện diện giữa họ, thì lòng đạo đức không còn là một cái gì tuyệt đối phải thi hành nữa. Các tư tế làm việc trong Ðền thờ ngày Hưu lễ mà không lỗi luật, thì các môn đệ Chúa Giêsu lỗi luật thế nào được, vì đã có Chúa Giêsu bên cạnh họ. Ngài là Con Thiên Chúa cao trọng hơn Ðền thờ. Chúa Giêsu muốn nhân dịp này để mạc khải chính Ngài là Ðấng Mêsia cao trọng hơn Ðền thờ và làm chủ cả ngày Hưu lễ; nhưng các người Biệt Phái không nhìn nhận điều này.

Xin Chúa giúp chúng ta vượt qua tinh thần vụ hình thức trong đời sống đức tin. Xin cho chúng ta tâm hồn nhân từ như Chúa để biết đối xử với người khác mỗi ngày một tốt đẹp hơn.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy niệm 4: Tinh Thần Vụ Hình Thức (Mt 12,1-8)

Cuộc tranh luận trên của Chúa Giêsu với những người biệt phái được tường thuật cách đầy đủ trong cả bốn Phúc Âm, nhưng nơi Phúc Âm thánh Mátthêu này thì tác giả xem ra muốn lưu ý độc giả hai điểm: thứ nhất là lòng nhân từ ưu tiên trên việc thực hành những việc đạo đức và thứ hai là quyền hành của Chúa Giêsu vượt lên trên những việc đạo đức.

“Ta ưa thích lòng nhân từ chứ không ưa thích của lễ”. Lòng nhân từ phải là căn bản cho những phán đoán của ta đối với anh chị em. Cần hành xử theo lòng nhân từ này hơn là chỉ lo xét đoán anh chị em theo những việc bề ngoài. Hơn nữa, những việc đạo đức trong đó có việc nghỉ ngày sabát là để con người đến gần Thiên Chúa. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đang hiện diện giữa các tông đồ, Người làm cho những việc đạo đức khác trở thành thứ yếu, bởi vì một khi đã đạt đến mục tiêu là sống hiện diện với Chúa rồi, thì những phương tiện, những việc đạo đức phải nhường chỗ. Nếu các biệt phái chấp nhận rằng các thầy tư tế làm việc trong đền thờ vào ngày nghỉ sabát sẽ không lỗi luật nghỉ sabát, thì những đồ đệ của Chúa Giêsu lỗi luật ngày sabát sao được vì đã có Chúa bên cạnh họ rồi.

“Ðây có Ðấng cao trọng hơn đền thờ”. Chúa Giêsu dùng việc tranh luận để mạc khải về chính mình là Ðấng cao trọng hơn đền thờ, là Ðấng Thiên Sai, Ðấng dĩ nhiên có quyền trên ngày sabát. Ước chi chúng ta đừng xét xử anh chị em qua những việc đạo đức bên ngoài. Những việc làm này là điều tốt, đáng làm, nhưng không phải là tiêu chuẩn tuyệt đối để ta dựa vào mà xét xử anh chị em. Lòng nhân từ thì quan trọng hơn.

Lạy Chúa, Xin giúp con vượt qua được tinh thần vụ hình thức trong đời sống đức tin. Xin thương ban cho con tâm hồn nhân từ yêu thương như Chúa, để biết cảm thông và đối xử với anh chị em chung quanh mỗi ngày một tốt đẹp hơn.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy niệm 5: Những Luật Phải Vi Phạm.

Khi ấy vào ngày sa bát, Đức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa; các môn đệ thấy đói và bắt đầu bứt lúa ăn. Những người Pha-ri-sêu thấy vậy, mới nói với Đức Giêsu: “Ông coi, các môn đệ ông làm điều không được phép làm trong ngày sa bát!” (Mt. 12, 1-2)

Các môn đệ đói.

Các môn đệ Chúa bị cơn đói dày vò. Luật ngày sa bát không cho phép các ông bứt lúa mà ăn trong ngày ấy. Các môn đệ vẫn cứ bứt lúa ăn. Các người Pha-ri-sêu cho đó là xì-căng-đan. Đức Giêsu dùng sự cố này để bày tỏ quan điểm của Người về ngày sa bát.

Quan điểm đó của Chúa, chúng ta biết rõ rồi. Ngày sa bát phải phục vụ con người… ngày sa bát được phép làm điều lành. Nếu những luật chi phối ngày sa bát đã nén cản trở yêu thương, ta không được làm nô lệ cho những luật ấy và ngần ngại vi phạm. Nhưng thực tế không phải là phạm luật, bởi lẽ có môt luật được đặt lên hàng ưu tiên và làm lu mờ mọi luật khác: Luật tình yêu. Để yêu thương để giúp người đang túng đói, ta đừng phải sợ thay đổi nội quy, tập tục và luật lệ.

Có những người đang đói.

Theo thói quen ta vốn nghĩ là mình không còn nô lệ cho những luật lệ bất công vốn ngăn trở ta phục vụ tha nhân. Ta lầm rồi đấy. Những luật ấy tuy không áp dụng cho việc tuân giữa này sa bát hoặc ngày chúa nhật, nhưhg nó vẫn tồn tại.

Trên thế giới có những người đang đói ăn. Có nhiều người đang đói ăn. Cónhững người đang chết đói. Cần phải cho họ ăn. Cần phải có đủ trí tưởng tượng và con tim mới giúp họ sống được. Những điều gì đang xảy ra. Có những luật ngăn cản người ta chừng nào hay chừng ấy trong công việc cứu giúp những con người đói khổ kia.

Những luật này, chính các nước giầu tự ấn định cho mình, không những để cho mình vẫn là những nước giầu có mà muốn khuếch trương thêm sự giầu có của họ. Những luật ấy chính chúng ta tự đặt ra cho mình để tiếp tục sống trong tiện nhgi xa hoa.

Ngày nào chúng ta mới dám vi phạm tất cả những luật lệ này để có được một con tim rộng mở biết yêu thương hơn nữa.

J.Y.G

 

Suy Niệm 6: GIỮ LUẬT VÌ LÒNG MẾN (Mt 12, 1-8)

Chúng ta vẫn thường nghe những người khác tôn giáo nhận định về người Công Giáo như sau: “Những người theo đạo Công Giáo sướng thật! Ngày Chủ nhật họ ăn mặc đẹp, nghỉ ngơi để đi lễ nhà thờ”.

Lời nhận định tuy thật đơn sơ nhưng cũng đủ để cho chúng ta thấy rằng: Ngày Chúa Nhật là ngày của Chúa. Ngày tưởng niệm và tạ ơn Chúa vì Ngài đã tạo dựng nên tất cả cho con người hưởng dùng. Đồng thời cũng là ngày tưởng niệm hồng ân cứu chuộc của Đức Giêsu nơi lịch sử nhân loại. Trong ngày này, chúng ta thi hành việc bác ái, nâng đỡ những người túng thiếu, bần cùng. Đồng thời, chúng ta cũng dùng ngày này để làm mới lại tình yêu của mọi thành viên trong gia đình.

Như vậy, vì tình yêu, Thiên Chúa dựng nên tất cả. Cũng vì tình yêu, con người được đón nhận tất cả. Nên cũng chỉ có con đường duy nhất chính là tình yêu để dẫn đưa con người đến gặp Thiên Chúa và đến được với nhau.

Nếu làm mọi chuyện chỉ vì sợ tội, sợ mất chức, sợ tiếng chê, rồi sinh ra nhu nhược hay tàn ác trong khi thi hành bổn phận thì thật là tắc trách. Tự bản chất, con đường này không thể gặp được Thiên Chúa và không thể có mối tương quan thân tình với nhau, bởi vì nó được thi hành bằng mệnh lệnh của cái đầu mà không phải bằng tình thương của trái tim.

Hôm nay, Đức Giêsu khiển trách những người Pharisêu về thái độ nệ luật của họ, nên đã đánh mất đi tương quan với Thiên Chúa và với nhau trong tình yêu. Họ đã thể hiện và củng cố uy quyền của mình bằng sự tàn ác, vô nhân đạo và mất đi tính người. Vì thế, Đức Giêsu cho họ biết là lòng nhân hậu thì quý hơn của lễ được làm nên bởi sự ích kỷ, bất nhân, tàn ác. Thiên Chúa cần sự bao dung, tha thứ và nhân hậu trong của lễ. Vì thế, Đức Giêsu đã nói: “Ta muốn lòng nhân chứ không cần lễ tế” (Mt 12, 7).

Như vậy, Đức Giêsu nhấn mạnh đến ý nghĩa cốt lõi của ngày Sabát và đưa con người đến chỗ nhận ra ý định yêu thương của Chúa, đồng thời mời gọi con người biết cộng tác vào việc thánh hóa ngày ấy theo như ý Thiên Chúa muốn.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con tạ ơn Chúa vì nhờ lề luật của Chúa mà chúng con được tự do, hạnh phúc. Xin cho chúng con biết tuân giữ luật vì lòng yêu mến. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Ý nghĩa thật của lề luật

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu dạy ta biết ý nghĩa của lề luật: lề luật là để phục vụ con người, giúp con người thực thi ý muốn của Thiên Chúa là sống nhân nghĩa với tha nhân.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, nhóm biệt phái thường bất bình tranh luận với Chúa về những điều được phép hay không được phép làm trong ngày lễ nghỉ. Nhân những cuộc tranh luận ấy, Chúa cho chúng con hiểu rằng tôn giáo không phải là một quyền lực áp đặt, để biến con người thành một thứ máy móc, hay những kẻ nô lệ. Trái lại, sống trong đạo là một hành động của tình yêu mến. Chúa đã khẳng định: “Ta muốn lòng nhân chứ không muốn lễ tế”.

Lạy Chúa, Chúa đến không phải để đánh đổ mọi tập tục và lề luật, nhưng là để kiện toàn chúng bằng cách mặc cho chúng tinh thần bác ái yêu thương. Vì thế, mọi lề luật đều trở nên trống rỗng và vô nghĩa nếu không được tuân giữ vì tình yêu.

Lạy Chúa, con chợt giật mình khi nhiều năm tháng qua con sống một cách máy móc, giữ giới răn Chúa là vì sợ chứ không phải vì yêu mến Chúa và yêu mến anh chị em. Vì vậy, đời sống đức tin đối với con là một gánh nặng, các thứ lề luật đè nặng trên vai đôi lúc tưởng chừng như không kham nổi. Con cũng chẳng khác gì người biệt phái, sống giả dối, hình thức bề ngoài, còn nội tâm thì trống rỗng khô khan.

Lạy Chúa, xin tha thứ cho đời sống bất xứng của con. Xin ban cho con Thần Khí Tình Yêu của Chúa, để từ nay con sẽ sống cho Chúa và tha nhân với tất cả tình yêu, hầu đáp lại tình thương mà Chúa đã dành cho con. Amen.

Ghi nhớ: “Con Người cũng là chủ ngày sabbat”.

 

Suy Niệm 7: Luật lệ là do ân sủng và tình thương của Chúa

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Nhà giảng thuyết Alexander Smellie có lần viết: Cụm từ “tôi phải” là một quy luật đạo đức khi lương tâm được ơn trên soi sáng hướng dẫn, nhưng khi lương tâm lệch lạc vì tội lỗi, hẹp hòi và quá khích, câu đó có thể đẩy ta vào chỗ đi ngược lại Đức Kitô.

 Một người Ấn Độ nói với một quan chức Anh: “Khi người chồng chết, thì lương tâm bảo chúng tôi là phải hoả thiêu người vợ góa trong tang lễ của chồng”.

Quan chức Anh đáp: “Nếu anh làm thế, thì lương tâm bảo tôi là phải treo cổ anh !”.

Suy niệm

Ngày Sabát là ngày thánh thiêng vì là ngày của Chúa, ngày nhớ đến công trình tạo dựng và giải phóng dân của Ngài. Từ “Sabát” theo tiếng Hipri có nghĩa là “nghỉ ngơi”, tức là ngừng hoạt động. Muốn ám chỉ ngày thứ Bảy, sau sáu ngày sáng tạo, ngày thứ Bảy Thiên Chúa nghỉ ngơi (x. St 2,1-2) cho con người cũng được nghỉ ngơi trong Chúa. Việc giữ ngày Sabát trở thành luật lệ Cựu ước vào thời Môisê. Ngày Sabát được quy định để dân Chúa tuyển chọn – dân Israel:

Nhớ sự hoàn tất cuộc sáng tạo của Thiên Chúa (x. Xh 20,8-11).

Giữ dấu hiệu Giao ước Đức Chúa với dân Israel – dân được tuyển chọn (x. Ed 20,12).

Nhớ sự cứu chuộc Đức Chúa giải phóng ách nô lệ Ai Cập cho dân Ngài (x. Đnl 5,12-15).

Cho nên với người Do Thái, việc giữ ngày Sabát một cách tỉ mỉ chu đáo nói lên tầm quan trọng của đời sống trong tôn giáo… Ai vi phạm ngày này có thể bị xử tử (x. Xh 31,14), bị ném đá (x. Ds 15,32-36).

Câu chuyện xảy ra vào một ngày Sabát: Thầy trò Giêsu đang mệt vì đói, băng qua đồng lúa và các môn đệ đã bứt các bông lúa để ăn. Theo sách Đệ Nhị Luật thì hành động này được phép làm: “Khi vào đồng lúa của người đồng loại, anh em có thể lấy tay bứt bông lúa” (x. Đnl 23, 26). Nhưng theo các người biệt phái, điều này bị cấm làm trong ngày Sabát, vì các môn đệ Chúa Giêsu bứt lúa và vò trong tay (trước khi ăn như người ta thường làm) giống với việc gặt và xay lúa, mà gặt và xay lúa là một trong ba mươi chín việc không được phép làm trong ngày Sabát. Cho nên, người biệt phái kết luận việc các môn đệ bứt lúa tức là làm việc là phạm đến Luật Môisê.

Đức Giêsu đã trưng dẫn chuyện vua Đavít để trả lời cho sự buộc tội của người pharisiêu với môn đệ Ngài: Đavít là ăn bánh tiến (x. 1 Sm 21,1-6). Bánh này gồm mười hai ổ lớn được đặt trước nhà tạm (x. Lv 24,5-9). Vào ngày Sabát, bánh mới được thay, bánh cũ chỉ dành cho các tư tế dùng, cho nên vua đã làm điều không được phép làm. Trong truyền thống Do Thái, vua Đavít là thánh vương nên được coi là đạo đức mẫu mực. Nếu Đavít và các thân cận khi đói lấy bánh tiến dành riêng cho tư tế, có thể được miễn giữ luật liên quan đến bánh thánh thì Đức Giêsu và các môn đệ trong trường hợp nào đó cũng có thể được miễn giữ ngày Sabát thánh như sách Macabê cũng đã nhắc đến (x. 1Mcb 2,34-38).

Hơn thế nữa, Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, Ngài là “Chúa” của ngày Sabát. Ngài mạc khải chính mình như là sự sống viên mãn và là cùng đích của giới luật ngày Sabát. Ngài đưa ngày Sabát đến viên mãn. Ngài mặc cho ngày đó một ý nghĩa tương quan với con người do ân sủng và tình thương của Thiên Chúa: “Ngày Sabát được lập ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày Sabát”.

Ðể chứng minh điều đó, Chúa đã chữa người bại tay trong ngày Sabát. Qua đó, Chúa Giêsu dạy chúng ta dùng ngày Chúa Nhật – Sabát mới trong mầu nhiệm Phục sinh, để thờ phượng Chúa và phục vụ anh chị em, làm cho anh em sống triển nở trong ơn thánh. Chúng ta quyết tâm vâng lời Chúa và tha thiết cầu nguyện cho mọi Kitô hữu hiểu ý nghĩa của ngày Chúa nhật – Sabát của Kitô giáo.

Ý lực sống:

“Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gc 2,8).

 

Suy Niệm 8: Tinh thần của Lề Luật (Mt 12,1-8)

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Người biệt phái trách môn đệ Chúa Giêsu không giữ ngày hưu lễ, vì bứt gié lúa để ăn lúc đói. Người biệt phải chỉ xét trên mặt chữ của bản luật, mà không nhìn thấy nhu cầu của anh em mình. Luật được Thiên Chúa ban hành không phải để gò ép, nhưng là để thăng tiến con người, giúp con người đi trên con đường ngay thẳng. Vì thế, phục vụ con người đúng lý, đúng cách là thi hành luật trọn hảo nhất. Do đó, Chúa Giêsu đã nói với người biệt phái: “Ta chuộng nhân nghĩa chứ không phải lễ tế”.

Bộ luật của người Do thái nhận tại núi Sinai khi Chúa truyền cho Maisen chỉ có 10 điều, nhưng được giải thích cách tỉ mỉ trong sách Lêvi và Đệ nhị luật thành hơn 500 điều. Một trong những điều quan trọng là ngày nghỉ Sabat, thuộc giới răn thứ 3 trong Thập điều, được tuân giữ chi tiết, cặn kẽ và nếu phạm vào có thể bị ném đá chết.

Thực ra, khi ban bố Lề Luật, Thiên Chúa muốn sự yêu mến và tự nguyện, nhưng dần già, được giải thích quá tỉ mỉ đến cả những chi tiết nhỏ nhặt. Để rồi, các tiến sĩ – luật sĩ – biệt phái thì sinh ra vụ luật và dùng luật làm thứ bình phong che chắn và làm lợi cho họ; còn dân chúng thì cảm thấy nặng nề, để rồi thay vì yêu mến và tự nguyện, họ chỉ giữ vì buộc phải giữ và luật trở thành gánh nặng đè trên vai họ (Hiền Lâm).

“Paparazzi” theo tiếng Ý là tên gọi những tay chuyên rình chụp hình lén những nhân vật nổi tiếng để gây xì-căng-đan. Nhưng người Biệt phái này hẳn cũng đóng vai paparazzi đeo bám theo Chúa Giêsu và các môn đệ bén gót mới có thể bắt gặp các ông này bứt lúa ăn trong ngày sabat, một việc họ bảo là không được phép làm trong ngày hưu lễ. Thế là có cớ để “kiếm chuyện” với Chúa Giêsu. Mang sẵn một định kiến đầy ác ý tìm cách bắt lỗi người khác như thế là tự bít kín mọi ngõ ngách để cảm thông, và đồng thời biến lề luật trở thành công cụ săn lùng và kết án người khác (5 phút Lời Chúa).

Hôm nay, trước cảnh các môn đệ Chúa Giêsu đói bụng, bứt mấy bông lúa vò nát để ăn, nhân cơ hội này người biệt phái bắt bẻ Chúa Giêsu về luật sabát, bởi vì:

– Người Biệt phái chú tâm đến hình thức của luật đến nỗi quên đi bản chất của luật là bác ái yêu thương, họ sẵn sàng để người khác đói khát chứ không thà lỗi luật. Luật là cứu sống chứ không phải giết chết.- Họ vốn chủ trương là hassidim, nghĩa là giữ luật cách khắt khe, nên khi bắt bẻ Chúa Giêsu là ngầm ý đề cao mình và che giấu sự giả hình của mình.

– Họ xem luật như cứu cánh và bắt buộc Thiên Chúa phải theo ý họ mà thưởng công cho họ. Trong khi luật chỉ là dẫn đường, còn cùng đích phải là Thiên Chúa.

Cuộc tranh luận của Chúa Giêsu đều được trình thuật đầy đủ trong các Tin mừng Nhất lãm, nhưng nơi Tin mừng Matthêu, tác giả lưu ý hai điểm:

– Thứ nhất, quyền hành của Chúa Giêsu trên các việc thực hành đạo đức.

– Thứ hai, lòng nhân từ có ưu tiên trên việc thực hành đạo đức.

Trả lời cho thắc mắc của những người biệt phái tại sao các môn đệ Ngài không giữ luật Hưu lễ, Chúa Giêsu nhắc lại việc xảy ra trong Cựu ước liên quan đến Đavít và những người tuỳ tùng khi đói, tức khi khẩn thiết, đã làm điều không được phép làm; hoặc việc các tư tế trong Đền thờ không nghỉ ngày Hưu lễ mà cũng không mắc tội. Rồi Chúa kết luận: ”Nếu các ông hiểu được ý nghĩa của câu này: ‘Ta muốn lòng nhân từ, chứ đâu cần lễ tế, ắt các ông sẽ chẳng lên án kẻ vô tội”. Lòng nhân từ phải là căn bản cho những phán đoán của chúng ta đối với anh em; cần phải hành xử theo lòng nhân từ này hơn là chỉ xét đoán anh em những việc bên ngoài (Mỗi ngày một tin vui).

Lề luật tối thượng là lòng “nhân hậu”. Để bảo vệ con người cần phải có luật lệ. Để xã hội tiến triển trật tự cần phải có luật lệ. Nhưng nếu những luật lệ đó trở thành bất nhân, không bảo vệ con người, không đem lại hạnh phúc cho con người, cần phải phá bỏ. Thờ phượng Chúa là điều phải làm. Nhưng nếu vì lề luật mà bất nhân thì Chúa không ưng nhận. Chúa khẳng định: “Ta muốn lòng nhân chứ không cần hy lễ”. Lòng nhân hậu là lề luật tối thượng.

Truyện: Tấu khúc nhạc yêu thương

Thi sĩ George Herbert, người Anh, ngoài tài làm thơ, ông còn có năng khiếu về hoà nhạc.

Một buổi tối nọ, lúc đang trên đường đi dự buổi hoà nhạc, thi sĩ gặp một chiếc xe ngựa bị sa lầy. Trên xe hàng hóa chất rất nặng. Bác đánh xe ngựa thì già yếu và con ngựa thì quá đỗi gầy còm.

Không chút ngần ngại, thi sĩ đã bỏ cây đàn bên vệ đường rồi giúp bác đánh xe ngựa bốc dỡ hàng hoá và đẩy chiếc xe ra khỏi vũng lầy. Sau đó, ông lại tiếp tục giúp xếp hàng lên xe. Rồi nhìn con ngựa gầy còm mà ái ngại cho nó, ông tặng bác đánh xe ngựa một số tiền để mua cỏ cho nó ăn.

Công việc xong xuôi thì trời đã về khuya. Bộ đồ dạ hội của thi sĩ cũng đã lem luốc những bùn. Tuy thế, ông vẫn đến nơi đã hẹn. Tới nơi thì buổi dạ hội đã xong rồi.

Một người bạn nói với ông: “Nhà thơ của chúng ta đã lỡ mất một buổi hoà nhạc tuyệt vời”.

Thi sĩ George Herbert mỉm cười đáp lại: “Phải, đúng thế. Nhưng để đền bù lại, tôi đã tấu được một khúc nhạc tuyệt vời hơn rất nhiều. Đó chính là tấu khúc nhạc yêu thương”.

 

Suy Niệm 9: ,,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống…)

Chúa Giêsu bị các người biệt phái kết án vì chuyện các môn đệ Ngài bứt lúa trong ngày Sabbat.

Thực ra điều mà các người biệt phái trách không phải vì họ đói mà bứt lúa để ăn (x. Đnl 23,26; cho phép ăn lúa nơi đồng của người khác), nhưng vì họ đã làm việc trong ngày hưu lễ (x. Xh 34, 21; cấm gặt lúa trong ngày Sabbat: người biệt phái quá vụ luật đã coi việc bứt vài bông lúa có nghĩa là gặt lúa!). Trong câu chuyện này cũng nên lưu ý câu trả lời của Chúa Giêsu trích Hôsê 6,6 “Ta muốn tình thương chứ không màng hy lễ”.

B- Suy gẫm (…nẩy mầm)

  1. Vụ việc này là một mình họa cho thấy Luật (“ách”) của người biệt phái do không có tình thương trong đó nên đã trở thành nặng nề như thế nào. Họ không hề quan tâm đến cơn đói của các môn đệ, mà chỉ rình mò xem các ông có làm gì phạm đến luật không để mà kết án.

Khi không có tình thương, mọi sở hữu nhỏ nhoi của anh chị em tôi đều có thể bị tôi kết án. Ngược lại, khi đã thương thì tôi có thể thông cảm cho những sai lầm đó cách đễ dàng.

  1. “Ta muốn lòng nhân từ, chứ không muốn hy lễ”: Chúa Giêsu muốn tôi lấy lòng nhân từ mà đối xử với anh chị em. Đó chính là của lễ quý hơn mọi của lễ khác mà tôi có thể dâng lên cho Chúa.
  2. “Con người cũng là chủ của ngày Sabbat”: tôi phải giữ luật vì Chúa chứ không phải vì luật.
  3. Qua vụ việc này, Chúa cũng dạy ta đừng xét đoán người khác một cách ”lý thuyết”, mà phải để ý đến hoàn cảnh nữa.
  4. Ngày nọ Khổng Tử dẫn đệ tử từ nước Lỗ sang nước Tề. Trong đám đệ tử có Nhan Hồi và Lộ Tử là hai môn sinh được Khổng Tử sủng ái nhất.

Thời Đông Chu, loạn lạc khắp nơi khiến dân chúng lầm than đói khổ. Thầy trò Khổng Tử cũng có nhiều ngày nhịn đói cầm hơi. Ngày đầu tiên đến đất Tề, Khổng Tử và các môn sinh được một người nhà giàu biếu một ít gạo. Khổng Tử liền phân công: Lộ Tử và các môn sinh khác vào rừng kiếm củi, còn Nhan Hồi dảm nhận việc nấu cơm.

Đang đọc sách ở nhà trên, Khổng Tử bỗng nghe thấy tiếng động ở nhà bếp. Nhìn xuống, Ngài bắt gặp Nha hồi đang mở vung xới cơm cho tay vào nắm từng nắm nhỏ rồi bỏ vào miệng. Khổng Tử than thở: ”Người học trò tín cẩn nhất của Ta lại là kẻ ăn vụng”.

Khi Lộ Tử và các môn sinh khác trở về, Khổng Tử cho tập họp các môn sinh lại và nói: ”Bữa cơm đầu tiên trên đất Tề làm cho Thầy chạnh lòng nhớ đến quê hương, Thầy muốn xới một bát cơm để cúng Cha mẹ. Nhưng liệu nồi cơm này có sạch không?”

Nhạn Hồi chắp tay thưa: ”Dạ nồi cơm này không sạch. Khi cơm vừa chín con mở vung ra xem thử. Chẳng may một cơn gió tràn vào. Bồ hóng và bụi rơi xuống làm bẩn nồi cơm. Sau đó con xới cơm bẩn ra định vất đi. Nhưng nghĩ rằng cơm ít mà anh em thì đông. Cho nên con đã ăn phần cơm ấy. Thưa Thầy như vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi”.

Nghe Nhạn Hồi nói xong, Khổng Tử lại ngẩng mặt lên trời mà than rằng: ”Chao ôi! Thế ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu được đúng sự thật. Suýt nữa Khổng Tử này trở thành kẻ hồ đồ”.

  1. “Ta muốn lòng nhân từ, chứ không muốn hy lễ”. (Mt 12,7)

Tôi đứng đó dưới ánh mặt trời. Trước mặt tôi bóng đen đổ dài phía sau trên nền đất. Tôi chợt nghĩ: Mặt trời sao đen thế!

Xoay người 180 độ, cái bóng vẫn đổ dài phía sau trên nền đất. Nhưng truớc mặt tôi Mặt trời bừng sáng rược rỡ.

Lời Chúa hôm nay hé mở cho tôi lối sống mới, lối sống tự do của lòng nhân từ, không sợ hãi, không hình thức nệ luật.

Lạy Chúa, bước vào đời con phải chấp nhận luật chơi của cuộc sống. Xin cho con luôn ý thức luật lệ chỉ là phương thức để con sống hoàn thiện và là cầu nối để con đến với Thiên Chúa và tha nhân. (Hosanna)

 

Suy Niệm 10: ,,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Luật pháp đã định rằng, những người đi đường nếu đói thì được bứt vài bông lúa hay bẻ vài cái bắp bên đường để ăn. Các môn đệ của Chúa đã dùng tay bứt vài bông lúa chứ không dùng liềm để cắt. “Khi vào đồng lúa của người đồng loại, anh có thể lấy tay bứt những bông lúa, nhưng không được tra liềm cắt lúa của người đồng loại” (Đnl 23,26). Ông Thompson trong cuốn “Xứ thánh và Kinh Thánh” kể rằng, khi ông du hành qua xứ Palestine thì thấy phong tục này vẫn còn.

Thế nhưng, dưới mắt những đạo sĩ và các luật sĩ Do Thái thì sự việc không đơn giản như thế. Lỗi của các tông đồ không phải là bứt và ăn bông lúa mì nhưng vì họ đã làm việc ấy trong ngày Sabat. Luật ngày hưu lễ rất phức tạp và rườm rà. Luật pháp cấm làm việc trong ngày Sabat nhưng những nhà dạy luật không hài lòng với sự cấm đoán đơn thuần đó, phải định rõ là việc làm gì. Vì thế, họ nêu ra 39 việc bị cấm làm trong ngày Sabat. Trong số những việc bị cấm đó có việc gặt hái, đập lúa và nấu nướng. Tuy nhiên, những nhà giải thích luật không chỉ đưa ra rồi để vấn đề ở đó. Mỗi mục trong danh sách ghi những việc làm bị cấm phải được định nghĩa rõ ràng. Ví dụ: cấm mang gánh nặng. Nhưng gánh nặng là gì? Một gánh nặng là bất cứ vật gì cân nặng bằng hai trái vải khô. Trong ngày Sabat, tất cả những gì có thể tượng trưng cho việc làm đều bị cấm. Sau này, một giáo sư nổi tiếng người Do Thái là ông Maimonides nói: “bứt bông lúa mì cũng là một cách gặt”.

Đáp lại sự chỉ trích của các luật sĩ và đạo sĩ Do Thái, Chúa Giêsu đưa ra ba luận điểm:

  1. Ngài trích dẫn “hành động của Đavid” (1Sm 21,1-6)

Khi Đavid và những người tùy tùng của ông bị đói chạy vào đền Tạm – đền Tạm hay lều Tạm không phải Đền thờ vì việc này xảy ra trước khi Đền thờ được xây dựng và ăn bánh tiến là bánh chỉ thầy tư tế mới được phép ăn. Đavid và đám tùy tùng của ông bị đói nên đã lấy bánh thánh này ăn và họ không bị bắt lỗi gì. Như vậy sự đòi hỏi của nhu cầu con người, sự đói khát của con người là khẩn thiết hơn bất kỳ tập quán và nghi lễ nào.

  1. Ngài trích dẫn việc làm ở Đền thờ trong ngày Sabat.

Nghi lễ trong đền thờ cũng luôn luôn liên hệ đến việc làm: nào nổi lửa, giết và chuẩn bị con vật tế lễ, nào mang chúng lên bàn thờ và nhiều việc khác nữa. Thế nhưng, đối với thầy tư tế thì những việc làm này hoàn toàn đúng, vì những việc này được coi là việc phụng vụ trong đền thờ cần phải được tiếp tục.

Nhưng cũng những công việc này mà được người khác làm thì lại vi phạm luật.

  1. Ngài trích dẫn lời Thiên Chúa nói với tiên tri Hôsê: “Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ” (Hs 6,6).

Điều Thiên Chúa muốn hơn của lễ là tình yêu thương. Trong câu chuyện này, Chúa Giêsu đã đưa ra nguyên tắc là sự đòi hỏi của nhu cầu con người phải được đặt trước mọi đòi hỏi khác. Sự đòi hỏi của việc thờ phượng, của nghi lễ, của phụng vụ rất là quan trọng và có chỗ đứng của nó, nhưng ưu tiên trên mọi đòi hỏi vẫn là những đòi hỏi của nhu cầu con người.

  1. Khi vì nhu cầu chính đáng của con người, thì những giá trị khác do con người đặt ra phải lui lại đàng sau.

Thi sĩ George Herbert, người Anh, ngoài tài làm thơ còn có năng khiếu về âm nhạc. Thi sĩ thường cùng với bạn bè ngồi ngâm thơ và hòa nhạc.

Một buổi tối, lúc đang trên đường đi dự buổi hòa nhạc, thi sĩ gặp một chiếc xe ngựa bị sa lầy. Trên xe hàng hóa chất nặng. Bác xà ích thì già yếu và con ngựa thì quá đỗi gầy còm.

Không chút ngần ngại, thi sĩ đã bỏ cây đàn bên vệ đường rồi giúp người xà ích bốc rỡ hàng hóa và đẩy chiếc xe khỏi vũng lầy. Sau đó, ông lại tiếp tục xếp hàng lên xe. Rồi ái ngại cho con ngựa còm, ông tặng bác xà ích một số tiền để mua cỏ cho nó.

Công việc xong xuôi thì trời đã về khuya. Và bộ đồ dạ hội của ông cũng đã lem luốc những bùn. Tuy thế, ông vẫn đến nơi đã hẹn. Tới nơi thì buổi dạ hội đã xong rồi.

Một người bạn nói với ông:

– Nhà thơ của chúng tôi đã lỡ mất một buổi hòa nhạc tuyệt vời.

Thi sĩ George Herbert mỉm cười đáp:

– Phải, đúng thế. Nhưng để bù lại, tôi đã tấu được một khúc nhạc tuyệt hơn nhiều.

Đời người ví như một khúc nhạc. Nhưng có khúc nhạc nào đẹp cho bằng những khúc nhạc tình thương được vang lên tự cõi lòng con người.

Một cử chỉ đẹp, một hành vi quảng đại, một hy sinh quên mình vì tha nhân đều là nốt nhạc của tình thương yêu chân thành. Chúng vang lên để khích lệ, để phấn khởi lòng người, để làm cho cuộc đời thêm tươi sáng và an vui.

 

 

THỨ BẢY TUẦN 15 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Mt 12, 14-21

Khi ấy, các người biệt phái đi ra ngoài, bàn mưu kế chống lại Chúa Giêsu để hãm hại Người. Biết thế, Chúa Giêsu rời bỏ nơi ấy. Có nhiều kẻ đi theo Người, và ai có bệnh, đều được Người chữa lành. Người cấm họ đừng cho ai biết Người, để ứng nghiệm lời tiên tri Isaia đã chép rằng:

“Này là tôi tớ Ta đã chọn, là người Ta rất yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng. Ta sẽ cho Thần trí ngự trên Người. Người sẽ rao giảng sự công chính cho dân ngoại. Người không cãi cọ hay dức lác, và không ai nghe tiếng Người ngoài đường phố. Người không bẻ gãy cây sậy đã giập, không dập tắt tim đèn còn khói, cho đến lúc Người khiến sự công minh được toàn thắng. Dân ngoại sẽ hy vọng vào danh Người”.

 

Suy Niệm 1: Hài lòng về Người

Suy niệm:

Chúng ta đã từng thấy một Đức Giêsu đầy uy quyền

trong Bài Giảng trên núi và trong các phép lạ (Mt 6-9).

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy một Đức Giêsu ở vào thế yếu.

Khi biết nhóm Pharisêu tìm cách giết mình thì Ngài lánh đi (c. 15).

Ngài đã lánh đi nhiều lần khi gặp chống đối và đe dọa.

Ngài lánh đi khi nghe tin Gioan bị nộp, rồi bị giết (Mt 4, 12; 14, 13).

Đức Giêsu không đối đầu với kẻ bách hại như Ngài đã dạy môn đệ (Mt 10, 23).

Ngài chỉ đón lấy cái chết khi Cha muốn.

Đức Giêsu có tiếng tăm nhưng cũng rất âm thầm.

Ngài chữa bệnh cho đám đông theo Ngài, nhưng lại muốn giữ kín (c. 16).

Ngài không muốn những phô trương rầm rộ, những biểu dương hoành tráng.

Đây là chọn lựa của Ngài ngay từ đầu sứ vụ

khi Ngài từ chối không nhảy xuống từ nóc đền thờ để người ta vỗ tay.

Và Ngài đã sống sự âm thầm này đến cuối đời

khi Ngài không bước xuống khỏi thập giá để được kẻ thù tin kính.

Sự phục sinh của Ngài có thể nói cũng là chuyện âm thầm,

vì Ngài chỉ hiện ra với các môn đệ của Ngài (1 Cr 15, 5-8).

Ngài chẳng hiện ra để đòi mạng Philatô, Caipha, Hêrốt…

Giáo hội nhỏ bé của Ngài cũng đã âm thầm lớn lên sau hai mươi thế kỷ.

Giáo hội này vẫn từ chối dùng quyền lực và bạo lực để xây dựng Nước Trời.

Các Kitô hữu đầu tiên đã thấy khuôn mặt người Tôi Trung nơi Đức Giêsu.

Đức Giêsu đã làm trọn từng nét của người Tôi Trung này (Is 42, 1-4).

Đây là người được Thiên Chúa yêu mến, tuyển chọn và hài lòng,

là người có Thần Khí Thiên Chúa, để được sai đến với muôn dân.

Người Tôi Trung này sẽ loan báo công lý trước muôn dân,

và sẽ đưa công lý đến toàn thắng (c. 20).

Tuy nhiên việc loan báo của người Tôi Trung này lại không ồn ào.

“Người sẽ không cãi vã, không kêu to,

chẳng ai nghe thấy Người lên tiếng giữa phố phường” (c. 19).

Đức Giêsu đã loan báo Tin Mừng như một lời mời gọi.

Ngài không dùng quyền năng Cha ban để đe dọa hay làm hại ai,

nhưng để phục vụ mọi người trong âm thầm và khiêm hạ.

Không bẻ gẫy cây lau bị giập, không làm tắt tim đèn leo lét (c. 20).

Nâng niu những gì còn có chút hy vọng,

gìn giữ những sự sống mong manh và khơi dậy những thiện chí còn ẩn giấu.

Đó là điều Đức Giêsu vẫn làm khi đến với những người bị loại trừ,

những tội nhân và người thu thuế.

Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã nhắn nhủ các Đức Giám mục Việt Nam

trong buổi triều yết ngày 27-6-2009 như sau:

“Trong tinh thần đối thoại và hợp tác tôn trọng nhau,

chỉ mong Giáo hội có thể góp phần xứng đáng vào sinh hoạt quốc gia,

vào việc phục vụ tất cả người dân.”

Xin cho chúng ta biết sống phục vụ như người Tôi Trung Giêsu

để “xây dựng một xã hội công bằng, liên đới và bình đẳng.”

 

Cầu nguyện:

Lạy Thầy Giêsu,

Thầy không gọi chúng con là tôi tớ,

Thầy cũng không chỉ coi chúng con là môn đệ.

Thầy còn coi chúng con như bạn hữu của Thầy,

vì Thầy đã thổ lộ cho chúng con

những điều riêng tư thầm kín nhất

trong tương quan giữa Thầy với Cha.

Hơn nữa, sau phục sinh,

Thầy đã gọi các môn đệ là anh em.

Mặc nhiên Thầy tự nhận mình là Anh Trưởng

đứng đầu một đoàn em đông đúc.

Xin cho chúng con

luôn thi hành ý muốn của Cha

để trở nên những người em

cùng huyết nhục với Thầy.

Lạy Thầy Giêsu, Thầy đã nâng chúng con lên

làm môn đệ, làm bạn, làm anh em của Thầy.

Còn Thầy lại hạ mình xuống

phục vụ chúng con như người tôi tớ,

rửa chân cho chúng con như một nô lệ

và chết thay cho chúng con trên thập giá.

Xin cho chúng con hiểu được tấm lòng của Thầy

Xin cho chúng con hiểu được tấm lòng của Thầy

và sống yêu thương mọi người như anh em. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

Suy Niệm 2 Niềm hy vọng cho muôn dân

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Từ khi có xã hội loài người chưa có ngày nào không có chiến tranh. Hòa bình luôn là một khao khát không bao giờ đạt tới. Xây dựng hòa bình đường như là một công việc vô ích làm nản lòng những tâm hồn thiện chí nhất. Tại sao con người mơ ước hòa bình nhưng không bao giờ đạt tới hòa bình? Thưa vì con người chưa đạt tới công lý. Con người cư xử với nhau theo thú tính. Kẻ mạnh hiếp kẻ yếu. Cá lớn nuốt cá bé. Ai cũng muốn chiếm đoạt của cải thật nhiều. Ai cũng muốn thống trị người khác. Thú tính được tự tung tự tác khi ta có sức mạnh.

Người Ai cập có sức mạnh liền bắt người Do thái làm nô lệ cho mình. Hơn nửa triệu người Do thái làm nô lệ đã đem lại biết bao lợi ích kinh tế cho người Ai cập. Nghe thấy tiếng rên siết của người Do thái bị áp bức bóc lột, Chúa đã ra tay giải thoát họ. Phải có sức mạnh vô biên của Chúa, người Ai cập mới chịu để người Do thái ra đi (năm lẻ).

Thời Mi-ka cũng xảy ra như vậy. Những người có quyền bính trong tay “muốn cánh đồng nào là chúng cướp lấy, muốn ngôi nhà nào là chúng chiếm đoạt. chúng bắt giữ cả chủ lẫn nhà, cả người lẫn gia nghiệp”. Và tiên tri cho biết Chúa sẽ ra tay để đem lại công lý (năm chẵn).

Thời Chúa Giê-su xuất hiện là thời Chúa thực hiện lời hứa. Là Thiên Chúa quyền năng vô biên làm nên những phép lạ cả thể. Nhưng Chúa không dùng quyền năng để phục vụ quyền lợi cá nhân. Trái lại Người dùng quyền năng để phục vụ con người. Tất cả những ai đau yếu bệnh tật đều được Người chữa lành. Tất cả những người tội lỗi đều được tha thứ. Tất cả những người bị hất hủi đều được yêu thương.

Chúa không dùng quyền năng để áp bức bóc lột. Chúa không giết chết, nhưng cứu sống. Chúa không đè bẹp, nhưng nâng dậy con người. Chúa không dìm xuống, nhưng nâng những người bé nhỏ lên. Như Isaia đã tiên báo: “Cây lau bị giập, Ngươi không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi”.

Như thế Người đưa công lý đến toàn thắng không bằng quyền uy thống trị, sức mạnh đàn áp. Nhưng bằng cúi xuống yêu thương phục vụ. Phục hồi những gì tàn tạ. Chữa lành những ai đau yếu. Và hồi sinh những người thoi thóp. Đó chính là niềm hi vọng lớn lao cho muôn dân. Vì công lý sẽ tràn lan khắp địa cầu.

 

Suy Niệm 3: Người Tôi Trung Hiền Lành

Chúa Giêsu biết rõ những người Biệt Phái ghen ghép và mưu hại Ngài, Ngài đã kín đáo rời khỏi miền Galilê để tiếp tục sứ mệnh của Ngài tại nhiều nơi khác, Ngài còn cấm những kẻ theo Ngài không được tiết lộ cho thiên hạ biết Ngài là ai. Thánh Mátthêu đã nhận ra trong sự kiện này lời tiên tri Isaia đã ứng nghiệm, như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay.

Ðấng Thiên Sai là Con Thiên Chúa. Thần Khí Thiên Chúa luôn ngự trên Ngài, nhưng theo lời tiên tri Isaia, khi Ngài xuất hiện thì đây là dấu để nhận ra Ngài; một con người hiền lành và khiêm nhường thật trong lòng, Ngài không cãi vả, không la lối, Ngài không bẻ gẫy cây sậy đã dập, không dập tắt tim đèn còn khói. Ðó chính là lòng nhân từ kiên nhẫn, xót thương của Chúa. Nhưng Ngài hiền lành không phải để buông xuôi, mà là để thâm nhập tâm hồn con người, cho đến lúc sự công chính được toàn thắng và muôn dân nước đều hy vọng vào Ngài.

Thật ra, trong suốt cuộc sống tại thế và cho đến hôm nay, Chúa Giêsu vẫn kiên nhẫn chờ đợi với hy vọng mọi người trở về với Ngài để được cứu thoát. Chẳng hạn với người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, một thứ tội phải bị ném đá, Chúa Giêsu chỉ nói: “Tôi cũng không kết án chị, chị hãy về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”. Ngài luôn quả quyết: “Tôi đến để kêu gọi người tội lỗi ăn năn trở lại”, và thực tế, Ngài đã chữa lành những kẻ bị coi là tội lỗi và bị xã hội ruồng bỏ.

Lời Chúa hôm nay một lần nữa cho thấy ơn cứu rỗi ở tầm tay chúng ta: được cứu rỗi hay không là do chúng ta, vì Chúa vẫn kiên nhẫn và ban ơn đầy đủ, chỉ cần chúng ta thành tâm trở về với Ngài. Người trộm lành chỉ trong giây phút hướng tâm hồn về Chúa và tin tưởng nơi Ngài, đã được Chúa hứa cho ở trên Thiên Ðàng với Chúa ngay hôm đó. Còn Giuđa đã thất vọng đến chỗ tự vẫn, thì đó là dấu chưa hiểu lòng Chúa thương yêu bao la đến mức nào.

Xin Chúa cho chúng ta thấu hiểu lòng Chúa luôn yêu thương kiên nhẫn chờ đợi chúng ta. Xin cho chúng ta hết lòng trở về với Chúa để được ơn cứu độ.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Làm Chứng Cho Sự Thật (Mt 12,12-21)

Chúng ta có thể nhận ra hai phần khá rõ của đoạn Tin Mừng trên. Phần một tóm lược cuộc đời của Chúa Giêsu, nhất là về những hành động chữa lành các bệnh nhân như dấu chỉ Nước Chúa ngự đến. Và phần thứ hai là một đoạn trích từ sách Ngôn sứ Isaia chương 42, 1-4, nói về dung mạo người tôi tớ của Giavê Thiên Chúa được áp dụng cho chính Chúa Giêsu. Khi tóm lược về những việc làm của Chúa Giêsu, đoạn Phúc Âm hôm nay nhấn mạnh đến hai chi tiết: một bên là những người Pharisiêu chống đối Chúa họp nhau lại để tìm cách bắt Ngài, trong khi đó thì dân chúng lại theo Chúa rất đông và những người bệnh được chữa lành.

Bị chống đối nơi này, Chúa Giêsu đi nơi khác và tiếp tục sứ mạng của Người. Chúa không ngừng thi ân, mặc dù có những kẻ khước từ không nhìn nhận những ân ban đó. Rồi nơi những lời trích từ sách Ngôn sứ Isaia, nói về người tôi tớ hiền lành của Thiên Chúa được áp dụng cho Chúa Giêsu Kitô, chúng ta có thể lưu ý đến những lời nói về Chúa Giêsu như là kẻ luôn trung thành làm chứng cho sự thật: “Ta sẽ đặt Thánh Linh của Ta trên Người, và Người sẽ rao giảng sự thật cho các ông. Người sẽ không cãi cọ, không có những hành động bạo lực. Cây sậy đã giập, Người không bẻ đi. Cho đến khi Người đem sự thật đến chỗ toàn thắng”.

Rao giảng sự thật và đem sự thật đến chỗ toàn thắng, đó là lời tóm gọn đủ và đúng cuộc đời của Chúa Giêsu trên trần gian này. Sau này, trước mặt quan Philatô xử án Chúa, thì Chúa Giêsu cũng đã mạnh mẽ chấp nhận: “Ta sinh ra trên trần gian là để làm chứng cho sự thật. Ai hành động theo sự thật thì nghe theo Ta”. Chúa Giêsu cương quyết làm chứng cho sự thật, nhưng với công thức hiền lành, với tình thương nhân từ, biết thông cảm và nâng dậy những ai lạc bước như chủ chăn nhân từ đi tìm con chiên lạc.

Là đồ đệ của Chúa, mỗi người được mời gọi theo gương Chúa làm chứng cho sự thật giữa anh chị em, nhưng làm chứng với một tâm hồn tràn đầy tình yêu thương và diệu hiền.

Lạy Chúa, Xin dạy con sống noi gương Chúa làm kẻ phục vụ anh chị em hết tình thương mến, nhân hậu và thông cảm.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 5: Bất Bạo Lực

Đây là người tôi trung Ta đã tuyển chọn,

Đây là người Ta yêu dấu: Ta hài lòng về Người.

Ta cho thần khí Ta ngự trên Người.

Người sẽ loan báo công lý trước mặt muôn dân.

Người sẽ không cãi vã, không kêu to,

Chẳng ai nghe thấy Người lên tiếng giữa phố phường.

Cây lau bị giập, Người không đành bẻ gẫy,

Tim đèn leo lét. Chẳng nỡ tắt đi,

Cho đến khi Người đưa công lý đến toàn thắng.

Và muôn dân đặt niềm hy vọng nơi danh Người.” (Mt. 12, 18-21)

Người có khả năng cứu kẻ khác.

Bạn hãy đọc lại Kinh thánh cả Cựu Ước lẫn Tân Ước, bạn sẽ nhận thầy điều này. Người được Thiên Chúa sai đến với con người để cứu họ, không phải là kẻ tàn bạo. Đó là một người hiền lành, một người nhân hậu. Người hùng mạnh, nhưng không bao giờ ỷ sức mạnh để ức hiếp, đàn áp đập tan. Người nhẫn nại, có khả năng chịu khổ, biết chịu đựng. Sức mạnh lớn lao của Người là yêu thương, cảm thông cho đi và tha thứ.

Con Người đã cứu loài người ấy tên là Giêsu. Để cứu vớt muôn người, Người đã không đả kích sự sống của ai, mà lại trao ban sự sống mình cho họ. Ta phải nhìn ngắm con người đó, phải tin tưởng vào Người, phải bắt chước Người.

Hãy giết chết bạo lực.

Mỗi ngày xã hội thời nay ngày càng trở nên tàn bạo, ngày càng có nhiều người nghĩ rằng chỉ có bạo lực. Thể lý hay tinh thần. Mới có thể duy trì được hòa bình, giải phóng người bị áp bức, đem lại quyền lợi cho những người bị tước mất. Họ đi sai đường rồi. Họ lầm lạc đáng thương. Bạo lực chỉ có thể sinh thêm bạo lực mà thôi.

Ta phải giết chết bạo lực. Phải lấy yêu thương, nhẫn nhịn và nhân hậu để thắng bạo lực. Phải học cho biết sự hiền hòa. Chỉ những sức mạnh đó, chứ không sức mạnh nào khác mới có thể cứu vớt con người.

Người có sức mạnh thật là người hiền từ. Kẻ bạo lực hóa ra lại là người yêu. Yêu thương dẫn đến sự sống, bạo lực đưa đến chết chóc. Khi gieo chết chóc cho người khác, người ta chỉ làm cho chết chóc thêm lên. Khi tự mình biết chết đi, ta gieo vãi sự sống. Chính những con người không dùng bạo lực mới cứu được thế giới này.

J.Y.G

 

Suy Niệm 6: ĐỨC GIÊSU, NGƯỜI TÔI TRUNG CỦA THIÊN CHÚA (Mt 12, 14-21)

Đoạn Tin Mừng này nằm trong bối cảnh Đức Giêsu chữa lành một người bại liệt, lần này xảy ra ngay giữa Hội Đường và lại vào đúng ngày Sabát. Vì thế, những người Pharisêu tính kế lập mưu để tìm cách giết Đức Giêsu.

Khi biết được ý định của họ, Đức Giêsu đã tìm cách để lánh đi nơi khác. Ngài cũng cấm không cho những kẻ theo mình tiết lộ điều gì liên quan đến Ngài. Sự tránh né này không phải vì sợ hay do nhát đảm hoặc yếu thế…, nhưng là để tránh đi sự hiểu lầm vì “giờ” của Ngài chưa tới. Đây cũng chính là thái độ của những người cao thượng lấy “nhu thắng cường, nhược thắng cương”.

Sang phần hai của bài Tin Mừng, thánh Mátthêu đã khéo léo khi giới thiệu Đức Giêsu như người Tôi Trung trong Cựu Ước mà tiên tri Isaia đã loan báo. Những đặc tính để nhận ra Ngài là: hiền lành và khiêm nhường, không cãi vã, không la lối. Ngài không bẻ gẫy cây sậy đã giập, không dập tắt tim đèn còn khói.

Lời Chúa hôm nay muốn mời gọi chúng ta hãy sống yêu thương, nhân từ và kiên nhẫn. Không vì ghen tức mà tìm cách hại người khác chỉ vì việc tốt họ đã làm. Cũng không vì ích kỷ đến độ thấy người khác tốt lành hơn, nhân hậu hơn, làm được nhiều việc tốt hơn mà sinh lòng ác độc đối với anh chị em chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, hình ảnh Chúa hiền hậu, khiêm nhường và hết lòng yêu thương luôn là lời mời gọi cho chúng con noi theo. Xin Chúa cho chúng con trở nên những con người thánh thiện, luôn biết yêu thương người khác. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Lòng Chúa xót thương

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Thiên Chúa xót thương không nỡ bẻ gãy cây lau bị dập, không nỡ dập tắt tim đèn còn khói. Chúa thương ta cả khi ta đang lỗi lầm. Hãy tin cậy lòng Chúa xót thương.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa có lòng yêu thương con người đến kỳ lạ. Khi con sống tốt, Chúa thương con đã đành. Nhưng Chúa vẫn thương con và còn thương hơn, khi con đang yếu đuối phản bội Chúa.

Lúc con đang như cây sậy đã dập nát vì tội lỗi, Chúa không bỏ con nhưng còn săn sóc để con đứng dậy. Chúa nhờ bạn bè, anh chị em và nhất là các chủ chăn trong Giáo Hội để nhắc nhở hướng dẫn con. Đôi khi Chúa dùng cả những biến cố xảy đến trong đời để thức tỉnh con. Xin cho con biết đón nhận những săn sóc của Chúa.

Lúc con đang như tim đèn còn nghi ngút khói là lúc niềm tin con đang chao đảo với bao sóng gió cuộc đời, Chúa vẫn không bỏ con. Chúa dùng các phương thế trong Giáo Hội là Lời Chúa và các bí tích, Chúa dùng anh em, bạn bè và các bề trên của con để củng cố lại niềm tin cho con. Lại còn bao lời cầu nguyện của Giáo Hội vây bọc để đỡ nâng đức tin cho con. Xin cho con đừng mất lòng trông cậy vào Chúa.

Đứng trước lòng xót thương của Chúa đã dành cho con, con xin được vinh hạnh trở nên dụng cụ cho lòng Chúa xót thương.

Xin đừng để con theo tính tự nhiên mà xa tránh hoặc khinh thường những anh chị em đang lỡ lầm. Trái lại, xin cho con biết luôn cầu nguyện, biết thông cảm và giúp đỡ anh em đứng dậy. Amen.

Ghi nhớ: “Người cấm họ đừng cho ai biết Người, để ứng nghiệm lời đã phán”.

 

Suy Niệm 7: Tin vào Thiên Chúa quan phòng dù đau khổ

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Kế hoạch Phân Sáp được vua Tự Đức cho thi hành vào năm 1851 và 1856, gồm bốn mặt:

– Mặt thứ nhất, không cho người công giáo ở trong làng công giáo của mình, nhưng phải đến ở trong các làng bên lương.

– Mặt thứ hai, mỗi người công giáo phải bị năm người lương canh giữ cẩn mật.

– Mặt thứ ba, các làng công giáo bị phá hủy, của cải ruộng đất của người công giáo bị tịch thu và giao vào tay những người bên lương, những người này sử dụng và nộp thuế lại cho Nhà nước.

– Mặt thứ bốn, không cho người đàn ông công giáo ở một nơi với người đàn bà công giáo, không cho vợ chồng công giáo ở với nhau, mỗi người phải đi ở một nơi xa nhau, con cái của người công giáo thì phải để cho gia đình người lương nuôi.

Đây là một kế hoạch nhằm tiêu diệt Giáo hội Công giáo Việt Nam. Nhưng bàn tay Chúa dẫn đưa lạ lùng: Giáo hội Công giáo Việt Nam đến hôm nay vẫn còn lớn mạnh và phát triển không ngừng.

Suy niệm

Trong sứ mạng của Đấng Thiên Sai, Chúa Giêsu luôn gặp sự chống đối đó là hình ảnh báo trước mầu nhiệm thập giá đỉnh cao của sứ vụ cứu độ. Chúa Giêsu nhắc đến lời ngôn sứ Isaia về Người Tôi Tớ của Thiên Chúa: Người Tôi Tớ được Chúa yêu thương, ban Thần Khí xuống trên Ngài để Ngài đem Tin Mừng cứu độ đến cho toàn dân. Ngài hiền lành khiêm tốn, âm thầm và đầy tình xót thương. Ngài bị sát tế vì để cứu độ con người. Người Tôi Tớ đau khổ của Thiên Chúa là hình ảnh tiên báo về Ðức Giêsu – Con Thiên Chúa.

Ðức Giêsu tiên báo cuộc thương khó ứng với lời ngôn sứ Isaia đã viết về Con Người sẽ được hoàn tất (x. Lc 18,31). Sau này các tông đồ khẳng định Chúa Giêsu như chiên bị đem đi sát tế (Cv 8,32), Người Tôi Tớ hiền từ chịu chết cho nhân loại mà ngôn sứ Isaia loan báo… (1Pr 2,22-23).

Trong kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng Thiên Sai phải chịu khổ nhục như người tôi tớ đau khổ. Tất cả biểu lộ bằng thập giá và thập giá trở nên khí cụ cứu độ mà Chúa Kitô dùng và đường thập giá là đường cứu độ đưa ta vào sự sống như trong Kinh Tiền Tụng Thương Khó, Giáo hội tuyên xưng: “Vì nhờ cuộc khổ nạn sinh ơn cứu độ của Con Chúa, toàn thế giới đã nhận biết phải tuyên xưng uy linh Chúa và nhờ quyền lực khôn tả của Thập giá, thế gian đã bị xét xử, và quyền năng của Ðấng chịu đóng đinh được toả sáng”.

Ngày hôm nay, từng giây phút trong cuộc đời, Đức Kitô vẫn là Người Tôi Tớ đau khổ đang cùng chúng ta vác thánh giá tiến về đồi Calvariô. Mọi sự đau khổ, mọi khốn khó, vấp ngã của con người đều nương trong thập giá với Người Tôi Tớ Thiên Chúa.

Ý lực sống:

Hãy vác thập giá mình hằng ngày (x. Lc 9,23).

 

Suy Niệm 8: Người tôi tớ của Thiên Chúa (Mt 12,14-21)

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Tiên tri Isaia tuyên sấm về Người tôi tớ của Thiên Chúa, Người tôi tớ được Thiên Chúa yêu thương. Thiên Chúa ban Thần khí xuống trên Người, để Ngài đem Tin mừng cứu độ đến cho toàn dân. Người tôi tớ này hiền lành, khiêm nhường, âm thầm và đầy tình xót thương. Đây chính là hình ảnh tiên báo về Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa. Người đã bị sát tế vì phần rỗi nhân loại. Người không muốn bị mất bất cứ ai nên đã sống với con người, dạy dỗ, giúp đỡ và dùng chính Thịt Máu mình để làm chứng cho tình yêu của Người đối với nhân loại.

Chúa Giêsu biết rõ những người biệt phái ghen ghét và mưu hại Ngài, Ngài đã kín đáo rời khỏi miền Galilê để tiếp tục sứ mệnh của Ngài tại nhiều nơi khác. Ngài còn cấm những kẻ theo Ngài không được tiết lộ cho thiên hạ biết Ngài là ai. Thánh Mátthêu đã nhận ra trong sự kiện này lời tiên tri Isaia đã ứng nghiệm, như được ghi lại trong Tin mừng hôm nay.

Đấng Thiên Sai là Con Thiên Chúa. Thần khí Thiên Chúa luôn ngự trên Ngài, nhưng theo lời tiên tri Isaia, khi Ngài xuất hiện thì đây là dấu nhận ra Ngài: một con người hiền lành và khiêm nhường thật trong lòng, Ngài không cãi vã, không la lối, Ngài không bẻ gãy cây sậy đã giập, không dập tắt tim đèn còn khói. Đó chính là lòng nhân từ kiên nhẫn, xót thương của Chúa. Nhưng Ngài hiền lành không phải để buông xuôi, mà là để thâm nhập tâm hồn con người, cho đến lúc sự công chính được toàn thắng và muôn dân nước đều hy vọng vào Ngài (Mỗi ngày một tin vui).

Thời Chúa Giêsu, những người biệt phái cũng có một lòng hăng say tương tự với ý thức hệ của lề luật. Họ đã nhân danh lề luật để ném đá người khác, họ đã nhân danh lề luật để loại bỏ biết bao người ra khỏi lề luật, nhất là họ đã nhân danh lề luật để đóng đinh Chúa Giêsu.

Đối lại sự tàn bạo của những người nhân danh lề luật hay ý thức hệ để tiêu diệt người khác, Chúa Giêsu để lộ lòng khoan dung cảm thông vô bờ. Tin mừng hôm nay ghi lại lời tiên tri Isaia để nói về lòng nhân hậu của Chúa Giêsu: Ngài không cãi có dức lác, không ai nghe tiếng Ngài ngoài đường phố. Ngài không bẻ gãy cây sậy đã giập, không dập tắt tim đèn còn khói cho đến khi sự công chính được toàn thắng.

Các xã hội thời nay càng ngày càng bạo động. Ngày càng có nhiều kẻ nghĩ rằng chỉ có bạo động – về tinh thần hoặc thể lý – mới có thể duy trì hòa bình, giải phóng những người bị áp bức, trả quyền lợi cho những kẻ đã bị cướp đoạt. Họ đã đi lạc đường. Họ đã sai lầm thảm thương.

Bạo động chỉ có thể sinh ra bạo động mà thôi.

Phải giết chết bạo động, phải thắng vượt nó bằng tình thương, sự kiên nhẫn và lòng nhân từ. Phải học lại cho biết ở dịu hiền. Đó là những sức mạnh có thể cứu loài người, chứ không phải sức mạnh nào khác. Người mạnh thật chính là một người hiền lành. Kẻ bạo động là con người yếu đuối. Tình thương thì mạnh, bạo lực thì yếu. Tình thương dẫn đến sự sống, bạo lực đưa tới sự chết. Khi làm cho kẻ khác chết, ta chỉ sản xuất được chết chóc mà thôi. Khi để cho mình bị giết chết, ta gieo rắc sự sống. Chính những kẻ bất bạo động mới cứu được thế giới (J.Y.G).

Cách đây vài thập niên, giới khoa học đã nỗ lực phác hoạ lại khuôn mặt thật của Chúa Giêsu dựa trên những dấu vết trên tấm khăn liệm thành Tôrinô, được coi là tấm khăn đã dùng để tẩm liệm Chúa Giêsu. Đi tìm một bức chân dung thật của Chúa Giêsu có lẽ là mong ước của không ít người. Song, đứng trước những kết quả đạt được, thì vẫn còn tồn tại nhiều ý kiến trái ngược nhau. Thế nhưng, vẫn có đó một bức chân dung thật của Chúa Giêsu, một bức chân dung không kém phần giá trị, đó là bức chân dung được vẽ lên từ chính Lời Chúa. Quả thật, Lời Chúa hôm nay đã vẽ nên một bức chân dung tuyệt vời về Chúa Giêsu, một Chúa Giêsu thật nhân từ, khoan dung, đầy lòng thương xót: “Cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi” (5 phút Lời Chúa).

Truyện: Lòng nhân hậu của Mahatma Gandhi

Năm 1922, Mahatma Gandhi, nhà cách mạng bất bạo động của Ấn đã bị chính quyền bảo hộ kết án tù 6 năm. Biết ông là người gây nhiều ảnh hưởng, viên quản đốc trại đã biệt giam ông, mọi liên lạc đều do người cai tù Phi châu da đen nổi tiếng là lạnh lùng đảm nhận. Vì bất đồng ngôn ngữ, cả hai chỉ có thể trao đổi với nhau bằng cử điệu và ánh mắt.

Ngày nọ, trên đường đem cơm đến phòng giam của Gandhi, người tù da đen bị con rắn độc cắn. Không bỏ lỡ một giây, Gandhi để phần cơm sang bên, vội vàng lấy mảnh chén vỡ vạch hình chữ thập trên vết cắn, rồi kề miệng hút hết lượng máu nhiễm độc, sau đó với số thuốc gia truyền đem theo, ông đã dùng để rịt vết thương cho người ấy. Người da đen liền quì xuống trước mặt Gandhi tỏ dấu cám ơn. Trái tim chai cứng giờ đây đã biết rung động, vì đây là lần đầu tiên trong kiếp sống khốn khổ của anh, anh đã nhận được một đối xử bằng tình người. Cũng từ đó anh hết lòng giúp đỡ Gandhi, và nhờ thế nhà cách mạng còn sống sót để tiếp tục lãnh đạo cuộc tranh đấu.

Chính quyền Anh đã an tâm khi dựng lên bức tường ngăn cách Gandhi với các đồng hương, bức tường ấy là người da đen lạnh lùng vô cảm. Thế nhưng có một sợi dây leo đã bò qua được bức tường ấy, đó là sợi dây leo tình thương.

 

Suy Niệm 9: ,,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Phân tích

Mặc dù bị các người biệt phái Pharisiêu chỉ trích, Chúa Giêsu không trả đũa nhưng “lánh đi nơi khác” (c15); Dù Ngài đã làm những phép lạ hiển hách và được dân chúng ngưỡng mộ, Ngài vẫn khiếm tốn “cấm họ không được tiết lộ Ngài với ai” (c16).

Thái độ bất bạo động đó làm cho Ngài rất giống với hình ảnh Người Tôi Tớ hiền lành mà Isaia đã tiên báo: “Ngài sẽ không cãi vã, không to tiếng. Chẳng ai nghe thấy Ngài lên tiếng giữa phố phường, cây lau bị dập Ngài không đành bẻ gẫy, tim đèn loe lét Ngài không nỡ tắt đi…”

  1. Suy gẫm
  2. Những người biệt phái đã bao phen chống đối Chúa Giêsu. Hôm nay họ còn bàn mưu hãm hại Ngài. Chúa Giêsu thừa khả năng chống lại họ, nhưng Ngài rời nơi ấy tránh đi nơi khác. Đối đầu và trả đũa không phải là phương cách hay nhất. Khi nào còn có thể nhường thì nhường, còn có thể nhịn thì nhịn.
  3. “Ai có bệnh đều được Ngài chữa lành. Ngài cấm họ đừng nói cho ai biết Ngài”. Chúa không muốn phô trương những phép lạ của Ngài, một đàng không muốn người ta hiểu sai về tư cách Đấng Messia của Ngài, mặt khác vì khiêm tốn như lời Ngài đã dạy: “Đừng phô trương công đức trước mặt người ta”.
  4. “Ngài sẽ không cãi vã, không to tiếng. Chẳng ai nghe thấy Ngài lên tiếng giữa phố phường”. Xin Ngài dạy cho con được như Ngài, không thích to tiếng, cãi cọ, ăn thua…
  5. “Cây lau bị dập Ngài không đành bẻ gẫy; tim đèn leo lét Ngài chẳng nỡ tắt đi…”. Xin Chúa dạy con noi gương Chúa, trân trọng bảo vệ, khuyến khích và nuôi dưỡng những gì tốt đẹp còn lại trong lòng những kẻ mà người ta đã cho là hư đốn.
  6. Một hôm satan thích chí vô cùng vì đã phát minh ra được một cái gương vô cùng kỳ diệu: Bất cứ điều gì trong gương ấy cũng bị đảo lộn. Khuôn mặt kiều diễm nhất nhìn vào tấm gương cũng xấu xí, ghê rợn. Satan nghĩ có thể đưa tấm gương lên thiên đàng để chia rẽ Thiên Chúa và các thiên thần.

Satan liền đội tấm gương lên đầu và bay thẳng lên trời. Dọc đường hắn nhìn vào tấm gương và càng thích thứ khi thấy gương mặt xấu xí của hắn nay càng xấu xí hơn. Nhưng càng bay tới thiên đàng thì hắn càng thấy gương mặt hắn xấu thê thảm. Cứ thế chưa tới cửa thiên đàng thì hắn không chịu vẻ thô bạo xấu xí của hắn nữa. Tay hắn run lẩy bẩy và đánh rơi tấm gương xuống trần gian. Tấm gương vỡ tan từng mảnh và lan tràn khắp trên mặt đất. Đó là khởi đầu đại họa cho con người: từng hạt cát nhỏ bám vào mắt ai thì nằm mãi ở đó, và người đó chỉ thấy cái xấu trên thế gian này thôi.

Câu chuyện trên muốn nói rằng: nhìn thấy cái xấu nơi người khác không phải là điều tự nhiên của con người, đó là một cái nhìn của quỷ.

Nơi mỗi người vẻ đẹp của Thiên Chúa vẫn còn chiếu sáng. Chính cái nhìn này mới là nền tảng cho đức ái Kitô giáo.

 

Suy Niệm 10: ,,,,

(LM Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Những người Pharisêu đã bao phen chống đối Chúa Giêsu. Hôm nay, họ còn bàn mưu hãm hại Ngài. Chúa Giêsu thừa khả năng chống lại họ, nhưng Ngài rời nơi ấy tránh đi nơi khác. Khi nào còn có thể nhường được thì nhường, còn có thể nhịn được thì nhịn. Đối đầu và trả đũa không phải là phương cách hay nhất.

Lý do: Đối đầu dễ dẫn đến hận thù và hận thù thì dễ đưa đến bế tắc. Vua Philipphê nước Macedonia khi đang đem quân đi vây thành Mêtôn, thì có một tên cung thủ đại tài tên là Astê đến xin vào đội tinh binh của nhà vua. Người ấy khoe rằng, tài nghệ cung tên của mình rất hay, chim bay dầu lẹ đến mức nào, anh ta cũng bắn không sai bao giờ. Vua mỉa mai bảo:

– Được, để bao giờ đánh trận với chim se sẻ ta sẽ dùng đến tài của ngươi.

Astê nghe câu nói mỉa mai ấy thì căm tức vô cùng. Chẳng cần phải suy nghĩ lâu dài, anh liền chạy thẳng vào thành sắp bị vây để chờ dịp trả thù.

Một hôm, Astê đứng trên bờ thành, thấy vua Philipphê đang đi kinh lý các trại đóng ngoài thành, liền lấy một cây tên, viết vào mấy chữ: “gửi cho con mắt bên phải của vua Philipphê”, rồi bắn xuống. Tên trúng giữa mắt phải của vua.

Vua cho rút mũi tên ra rồi truyền cho ghi lên mũi tên ấy câu này: “Ta mà lấy được thành này, Astê sẽ bị xử giảo”, rồi bảo quân sĩ bắn tên ấy vào thành.

Sau quả đã xảy ra đúng như vậy.

Vâng! Vua Philipphê đã phải mua một giá rất đắt khi thấy mình nói được một lời có ý vị. Nhưng mà Astê còn trả giá đắt hơn cái thú trả thù của anh ta.

Hãy nhớ lời của Chúa Giêsu: “Hãy học với Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29), “hãy tha thứ để được thứ tha” “Điều gì anh em muốn người khác làm cho mình thì cũng hãy làm cho người ta như thế” (Mt 7,12).

  1. Con người ta khi có được một chút tài năng hay một chút cơ nghiệp gì thì rất dễ lên mày lên mặt. Tật phô trương, háo danh dường như là một căn bệnh trầm kha của con người. Chúa Giêsu thì không như thế. Mặc dầu làm được những phép lạ hiển hách khiến dân chúng phải kinh ngạc nể phục, Ngài vẫn muốn sống khiêm nhu âm thầm, lặng lẽ.

“Ngài sẽ không cãi vã, không to tiếng. Chẳng ai nghe thấy Ngài lên tiếng giữa phố phường” (Mt 12,19). “Cây lau bị dập Ngài không đành bẻ gãy; tim đèn leo lét Ngài chẳng nỡ tắt đi…” (Mt 12,20).

* Chúa đi qua đường, người ta chặn ngõ lại, các tông đồ sôi gan lên xin phép Chúa khiến lửa Trời xuống báo oán, nhưng Chúa thản nhiên và hiền từ chỉnh huấn lại các Ngài: “Không hiểu các con theo tinh thần của ai vậy?”

* Đặc biệt nhất là trong giờ thương khó, gương hiền lành của Chúa chí ái chúng ta chói sáng hơn vàng thượng thập giữa lửa hồng. Tiên tri Giêriêmia đã khéo léo cụ thể thái độ hiền lành ấy bằng một hình ảnh tuyệt đẹp: “Tôi như con chiên hiền lành bị đem đi sát tế” (Gr 11,19).

Hiền lành của Chúa chính là sức mạnh, sức mạnh của giọt nước làm thủng đá, của khí trời làm gãy sắt…

Chỉ có những tâm hồn mạnh mẽ thật, biết xả kỷ, biết tự chủ, tự thắng mới hiền lành được.

Tại sao đa số người ta không sống hiền lành được.

Thưa: Người ta không hiền lành được vì người ta hay kiêu ngạo, tự cho mình là trung tâm vũ trụ và không dám hy sinh để mưu ích cho kẻ khác.

Người ta không hiền lành được là vì người ta thường chỉ nghĩ đến quyền lợi cá nhân và cố gắng bảo vệ, bênh giữ chúng bằng đủ mọi thứ thủ đoạn, kể cả những thủ đoạn hiểm ác người ta cũng không trừ.

Người ta không hiền lành được là vì người ta hay tự coi mình hơn kẻ khác, không muốn cho ai hơn mình và do đó luôn luôn sống trong tình trạng báo động để tự vệ.

Nói tóm lại, con người sống tự cao, ích kỷ, tự phụ là sống yếu nhược vì bị các tính xấu đó “xỏ mũi” sai khiến…

Hãy nhìn vào gương Chúa Giêsu, thầy nhân lành, Cha chí ái của chúng ta, để học với Ngài bài học về sự hiền lành để có thể chinh phục được cả thế giới này.

Thánh Phanxicô Salesiô đã có lần quả quyết: “Kẻ hiền lành sẽ làm chủ các tâm hồn và mọi ý chí sẽ ở trong lòng họ”.

Sau đây là lời cầu nguyện mà mỗi một tu sĩ Bác Ái Truyền Giáo đọc trước khi làm việc Tông Ðồ. Lời ấy cũng được dùng như lời Cầu Nguyện của Y Sĩ trong trung tâm Shishu Bhavan, trung tâm trẻ em ở Calcutta:

Lạy Chúa, vua Chữa Lành, con quỳ gối trước Ngài,

Vì mọi quà tặng tuyệt hảo đều xuất phát từ Chúa,

Xin ban cho con đôi tay khéo léo, một tâm trí minh mẫn, một tâm hồn tử tế và hiền lành.

Xin cho con chỉ nhắm đến một mục đích,

đó là sức mạnh để xoa dịu phần nào sự đau khổ của anh chị em con,

và thực sự nhận biết đó là điều tiên quyết của con. Amen.