Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 16 Thường Niên

Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 16 Thường Niên

 

THỨ HAI TUẦN 16 THƯỜNG NIÊN.

THỨ BA TUẦN 16 THƯỜNG NIÊN.

THỨ TƯ TUẦN 16 THƯỜNG NIÊN.

THỨ NĂM TUẦN 16 THƯỜNG NIÊN.

THỨ SÁU TUẦN 16 THƯỜNG NIÊN.

THỨ BẢY TUẦN 16 THƯỜNG NIÊN.

THỨ HAI TUẦN 16 THƯỜNG NIÊN

Lời Chúa: Mt 12, 38-42

Khi ấy, có mấy luật sĩ và biệt phái thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ”.

Người trả lời: “Thế hệ hung ác gian dâm đòi một dấu lạ! Nhưng sẽ không cho dấu lạ nào, trừ dấu lạ tiên tri Giona. Cũng như xưa tiên tri Giona ở trong bụng cá ba đêm ngày thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba đêm ngày như vậy.

Tới ngày phán xét, dân thành Ninivê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và lên án nó, vì họ đã nghe lời tiên tri Giona mà sám hối tội lỗi, nhưng đây có Ðấng cao trọng hơn Giona.

Ðến ngày phán xét, nữ hoàng phương nam sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và lên án nó: vì bà từ biên thuỳ trái đất đã đến nghe lời khôn ngoan của vua Salomon, nhưng đây có Ðấng cao trọng hơn Salomon”.

 

Suy Niệm 1: Đòi dấu lạ

Suy niệm:

Sinh trong một gia đình người Pháp giàu có, quý phái và đạo đức,

Anh Charles de Foucauld mất đức tin từ năm 16 tuổi.

Hai năm sau Anh học ở trường sĩ quan Saint-Cyr nổi tiếng của Pháp,

đã đi thám hiểm nước Ma rốc ở châu Phi và được huy chương vàng.

Sau thời gian đó anh đã muốn suy nghĩ về đời mình.

Đời sống đạo đức của người chị em họ đánh động Anh nhiều.

Anh đi nhà thờ dù chẳng tin gì, chỉ thích lặp đi lặp lại lời nguyện này:

“Lạy Chúa, nếu Chúa hiện hữu, thì xin làm cho con nhận biết Chúa.”

Chúa đã làm cho Anh nhận biết Ngài vào một ngày cuối tháng 10-1886.

Khi được chị họ giới thiệu với cha sở Huvelin ở Paris, anh đã xin học đạo.

Nhưng cha lại bảo anh vào tòa giải tội và xưng tội.

Anh ngần ngại, nhưng đã chấp nhận quỳ xuống,

và bất ngờ nếm được niềm vui khôn tả của người con lưu lạc trở về.

Đời Anh đã bắt đầu sang trang từ giây phút ấy.

Chúa đưa Anh trở lại không bằng những dấu lạ lùng,

nhưng qua bà chị họ đạo đức, qua cha sở Huvelin nhiều kinh nghiệm.

Ơn hoán cải của Anh không dựa trên những dấu lạ làm Anh ngất ngây,

nhưng đến từ khiêm nhường tìm kiếm và quỳ xuống đón nhận.

Chỉ ai biết quỳ xuống mới nhận ra dấu bình thường là dấu lạ.

Đức Giêsu không vui khi người Pharisêu và những người đương thời

muốn thấy dấu lạ và tìm kiếm dấu lạ (cc. 38-39).

Họ chờ mong một dấu lạ làm họ lóa mắt, gây ấn tượng mạnh,

khiến họ không thể chối cãi và buộc họ phải tin.

Tiếc rằng Đức Giêsu không bao giờ có ý muốn làm thứ dấu lạ như vậy.

Ngài không làm dấu lạ để biểu diễn quyền năng của mình trước con người.

Ngài chỉ làm dấu lạ để phục vụ nhu cầu con người và loan báo Nước Chúa.

Dấu lạ là dấu chỉ mời gọi chứ không cưỡng bức người xem phải tin.

Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ, nhưng họ vẫn không tin, vẫn đòi dấu lạ mới,

và còn bảo dấu lạ của Ngài là nhờ dựa vào tướng quỷ (Mt 12, 24).

Khăng khăng đòi dấu lạ cho thấy lòng họ dứt khoát từ chối Đức Giêsu.

Chẳng có dấu lạ nào làm họ thay đổi được cái nhìn về Ngài.

Đức Giêsu đã từng trách các thành vùng Galilê vì họ không sám hối (Mt 11,20).

Nay Ngài cũng quở trách một số người Pharisêu như vậy.

Vào ngày phán xét, chính dân Ninivê và Nữ hoàng Phương Nam sẽ kết án họ,

vì họ đã cứng lòng không tin Đức Giêsu (cc. 41-42).

Làm thế nào chúng ta nhận ra những dấu lạ Chúa vẫn làm cho đời ta,

để ta không đòi hỏi thêm dấu lạ nữa,

nhưng mãn nguyện với những gì mình nhận được?

Làm thế nào để chúng ta hạnh phúc

vì vẫn được nghe giảng bởi chính Đấng còn hơn Giôna nữa,

vẫn được tiếp xúc với Đấng còn khôn ngoan hơn vua Salômôn nữa?

 

Cầu nguyện:

Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,

những ơn con thấy được,

và những ơn con không nhận là ơn.

Con biết rằng

con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,

biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.

Con thường đau khổ vì những gì

Cha không ban cho con,

và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.

Tạ ơn Cha vì những gì

Cha cương quyết không ban

bởi lẽ điều đó có hại cho con,

hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.

Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha

dù con không hiểu hết những gì

Cha làm cho đời con.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

Suy Niệm 2: Dấu lạ đức tin

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Người Do thái đòi xem dấu lạ. Óc hiếu kỳ thích những điều mới lạ thì ai cũng có. Nhưng trong vận mệnh thiêng liêng những dấu lạ có ích gì nếu chỉ để xem cho vui. Thiên Chúa đã làm biết bao kỳ công. Nhưng không phải để biểu diễn cho người ta vui mắt. Những điềm kỳ dấu lạ Chúa thực hiện chỉ vì đời sống, đặc biệt đời sống thiêng liêng của con người mà thôi. Vì thế dấu lạ lớn lao quan trọng nhất phải là dấu lạ đức tin.

Chúa chỉ làm dấu lạ khi ta có đức tin. Dân Do thái ở trong một hoàn cảnh nguy nan như mành chỉ treo chuông. Họ lấy gì đối địch với quân binh Ai cập hùng mạnh. Nhưng vì tin vào Chúa họ chỉ ngồi im. Và Chúa đã làm điều kỳ diệu nhất. Cho người Do thái vượt qua Biển đỏ khô chân (năm lẻ).

Gio-na trở thành dấu lạ vì dân Ni-ni-vê có đức tin. Nếu Ni-ni-vê không có đức tin, Gio-na không thể trở thành dấu lạ. Nói cách khác việc Gio-na nằm trong bụng cá cũng trở thành vô ích vì chẳng đem đến ơn cứu độ.

Đức tin phải dẫn đến việc làm. Tin không phải ngồi chờ sung rụng. Nhưng dấn thân vào việc làm. Mô-sê phải giơ gậy trên biển. Con cái Ít-ra-en phải bước xuống lòng biển. Ni-ni-vê phải từ bỏ nếp sống tội lỗi. Ăn chay đền tội. Nữ hoàng Se-ba phải từ bỏ quê hương. Giong buồm vượt biển xa xôi. Chấp nhận sóng gió.

Và sau cùng đức tin phải dẫn đến thay đổi đời sống. Ít-ra-en vượt qua Biển Đỏ rồi ký kết giao ước tuân giữ Lời Chúa. Mi-kha nói với dân nếu tin Chúa phải thay đổi đời sống. Dâng tiến bò bê không đủ nữa. Phải thực thi công bằng. Quý yêu nhân nghĩa. Và khiêm nhường bước đi với Thiên Chúa (năm chẵn). Ni-ni-vê thay đổi nếp sống. Tiết độ đức hạnh. Công bình bác ái. Nữ hoàng Sê-ba thay đổi nếp sống. Áp dụng những gì mắt thấy tai nghe tại Giu-đa trong xứ sở mình.

Chúa Giêsu là dấu lạ lớn lao nhất khi nằm trong mồ ba ngày. Dấu lạ đó thay đổi vận mệnh đời tôi. Đem ơn cứu độ cho tôi. Đem đến cho tôi tình yêu và hi vọng. Nhưng Chúa tử nạn và phục sinh chỉ thực sự trở thành dấu lạ khi tôi tin tưởng. Niềm tin phải có hành động. Hành động đầu tiên là hoán cải. Chừa bỏ tội lỗi xưa cũ. Và hành động phải dẫn đến việc cùng chết với Chúa để được cùng sống với Chúa. Chết cho tội lỗi. Sống cho Thiên Chúa. Chết cho xác thịt. Sống theo Thân Khí.

 

Suy Niệm 3: Dấu Chỉ Yêu Thương

Trong quyển tự thuật “Vì Danh Ta”, một Mục sư người Hungari đã kể lại kinh nghiệm của ông. Bị bắt và bị chuyển từ trại này sang trại khác, vị Mục sư vẫn âm thầm rao giảng Lời Chúa cho các bạn tù. Trong 13 năm tù, ông đã giúp cho rất nhiều bạn tù được gặp gỡ Chúa. Ông đã kết thúc quyển tự thuật cũng là bài ca tuyên xưng đức tin của ông như sau:

“Trong suốt thời gian bị tù đày, tôi đã hiểu được rằng Lời Chúa đi vào tâm hồn con người dễ dàng hơn giữa những đau khổ và bách hại. Ðó là lý do cho thấy mùa gặt thiêng liêng trong các ngục tù luôn luôn dồi dào. Tôi không tự cho mình là người anh hùng, lại càng không phải là vị tử đạo. Nhưng vào lúc sống tự do, nhìn lại đằng sau, tôi có thể nói với tất cả thành thật rằng 13 năm bị tra tấn đánh đập, đói khát, 13 năm đau khổ và xa gia đình để làm mục sư cho hàng ngàn tù nhân trong các trại giam, 13 năm như thế quả thật đáng giá”.

Những dòng trên đây quả là một phấn khởi cho tất cả những ai đang vì niềm tin của mình mà phải chịu bách hại và đau khổ. Những đau khổ thử thách mà các Kitô hữu phải trải qua thường là dấu chỉ cao đẹp nhất, qua đó Thiên Chúa tỏ mình cho con người.

Chúa Giêsu như muốn nói đến điều đó, khi Ngài mượn hình ảnh tiên tri Yôna để loan báo về chính cái chết của Ngài. Cũng như Yôna đã vâng phục Thiên Chúa đến rao giảng sự sám hối cho dân thành Ninivê, thì Chúa Giêsu cũng vâng phục Chúa Cha để sống kiếp con người và trở thành dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa cho con người. Qua hình ảnh Yôna để loan báo sự vâng phục cho đến chết của Ngài, Chúa Giêsu muốn nói đến con đường mạc khải của Thiên Chúa, đó là con đường tình yêu. Ngài đã tạo dựng con người theo hình ảnh Ngài, nghĩa là có tự do và biết yêu thương, cho nên Thiên Chúa đã chọn con đường yêu thương để đến với con người. Ngài đã hóa thân làm người, sống trọn vẹn kiếp người, và cuối cùng chịu chết treo trên Thập giá, tất cả để trở thành lời mời gọi đối thoại yêu thương.

Mãi mãi Thiên Chúa chỉ đến với con người qua dấu chỉ của tình yêu. Người Kitô hữu luôn được mời gọi để nhận ra những dấu chỉ yêu thương ấy trong cuộc sống của mình, không những qua những chúc lành và may mắn, mà còn qua những mất mát, khổ đau thua thiệt nữa. Nhận ra những dấu chỉ yêu thương của Thiên Chúa trong cuộc sống, người Kitô hữu cũng được mời gọi để trở thành những dấu chỉ yêu thương của Ngài cho mọi người chung quanh. Trở thành dấu chỉ yêu thương có nghĩa là chấp nhận sống vâng phục và vâng phục cho đến chết như Chúa Giêsu. Trở thành dấu chỉ yêu thương giữa tăm tối của cuộc sống, giữa đọa đày bách hại, người Kitô hữu vẫn tiếp tục chiếu sáng trong tín thác, yêu thương, phục vụ, tha thứ.

Xin cho lý tưởng chứng nhân luôn bừng sáng trong chúng ta, để dù sống trong đau khổ, thử thách, chúng ta vẫn trung thành với tình yêu Chúa.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Phép Lạ Trong Cuộc Ðời (Mt 12,38-42)

Tại sao những người kinh sư và pharisiêu cứ một mực đòi Chúa làm một dấu lạ đặc biệt, cho dẫu những phép lạ Ngài đã thực hiện trong thời đó không phải là hiếm có? Chính vì họ không có tâm hồn trong sạch và ngay thẳng. Họ đến với Chúa với thái độ ganh tỵ, quá khích, tranh giành ảnh hưởng. Vì thế, họ đã không nhận ra những phép lạ Chúa Giêsu đã làm cũng như không hiểu được ý nghĩa và giá trị của phép lạ. Những phép lạ Ngài làm chỉ nhằm ích lợi cho và vì con người, để con người nhận ra tình thương cứu độ Thiên Chúa đã và đang hoạt động, đang hiện hữu nơi một con người cụ thể với tên là Giêsu. Chính Chúa Giêsu, Ðấng cứu độ, làm cho con người được cùng nhau sống hạnh phúc và sung mãn trong Nước của Ngài.

Trong cuốn sách nổi tiếng rất quen thuộc với chúng ta có tựa đề Phép Lạ Trong Những Cái Thường Ngày, tác giả đã đưa ra những tư tưởng, những lời khuyên rất sâu sắc và thiết thực, làm mẫu mực cho những suy tư và tâm tình sống của chúng ta. Có lẽ trong chúng ta ai cũng đồng ý với ý tưởng của tác giả. Một khi chúng ta nhìn tha nhân và thế giới quanh ta với cái nhìn trong sạch, một khi đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời của ta, thì không có gì là không giúp chúng ta nhận ra sự quan phòng của Chúa. Chúa luôn can thiệp trong mọi giây phút của cuộc đời chúng ta. Phần chúng ta, chúng ta có sẵn sàng hay có đủ kiên nhẫn và khiêm nhường để nhận ra sự can thiệp của Ngài không. Hãy nhắm mắt lại và để tâm quan sát mọi cơ phận của ta cũng như mọi hoạt động, những chuyển động đang diễn ra trong ta và trong thế giới chúng ta đang sống, với sức sống của muôn loài thụ tạo. Từ cái to lớn vĩ đại nhất cho đến cái vi phân tử, rồi niềm tin, tư tưởng, ý nghĩ, tâm tư, tình cảm của con người, đâu đâu chúng ta cũng gặp thấy quyền năng và sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa. Tất cả những điều kỳ diệu đó là gì nếu không phải là những phép lạ trong cuộc đời ta.

Cảm tạ Chúa đã cho chúng con có phước được biết Chúa và được làm con Chúa. Chúng con biết rằng đức tin sẽ trở nên án phạt cho con nếu con để sự kiêu ngạo, tính ích kỷ thống trị con. Xin củng cố đức tin và xin ban sức mạnh của tình yêu Chúa cho chúng con, nhờ đó đức tin mà chúng con đã lãnh nhận được trổ sinh nhiều hoa trái, đem lại ơn cứu độ cho chúng con và cho tất cả mọi người, đó là phép lạ lớn nhất của cuộc đời con.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 5: Ngài là ai?

Người đáp: “Thế hệ gian ác và ngoại tình này đòi dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ngôn sứ Gio-na. Quả vậy, ông Gio-na đã ở trong bụng kình ngư ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày đêm như vậy.” (Mt. 12, 39-40)

Những kẻ thù của Chúa Giêsu giả bộ muốn biết rõ về những bằng chứng Người có thể đưa ra để mình chứng cho sứ mạng của mình: “Thưa Thầy, chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ nhãn tiền trên trời.” Vẻ lịch sự của họ là hoàn toàn giả dối. Họ không đòi bằng chứng để được thuyết phục, bởi họ đã nghĩ bụng rằng Chúa Giêsu sẽ không thể làm dấu lạ ấy.

“Dấu lạ … trên trời!”

Nhóm Pha-ri-sêu hiểu “Dấu lạ” là một sự lạ lùng nhãn tiền khẳng định rõ ràng Chúa Giêsu có quyền nằng siêu việt; họ đòi phải xảy ra ở “trên trời” nơi mà mọi người ở trần gian này không thể nhìn xem mà bắt chước được. Làm như vậy họ có ý nói xa nói gần rằng những phép lạ thực hiện ở Nagiarét trước đây như cho khỏi bệnh tật, làm sống lại v.v… Vì xảy ra ở trên mặt đất nên đã có thể là do những phù phép mà có. Khi Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều lần thứ nhất, họ cũng có mặt để nêu lên sự khác biệt giữa ân huệ do Chúa Giêsu ban tặng và man na của Mô-sê “Từ trời ban xuống”

Khoa học có thể giải thích hết.

Nhóm Pha-ri-sêu lầm lạc ở chỗ là dù Chúa Giêsu có đưa ra bằng chứng về sứ mệnh của mình, thì họ vẫn có lý do trước để chống đối Người: Họ không muốn nhìn nhận Người là Đấng Mê-si-a (Thiên sai): Chẳng đời nào họ sẽ chấp nhận gia nhập “Nước Thiên Chúa” mà Người rao giảng. Họ có một quan niệm về đạo giáo hoàn toàn khác biệt: Phụng thờ Thiên Chúa Ít-ra-en là công việc của họ, nên Chúa Giêsu phải xoay quanh lợi ích tức thời của họ. Chẳng ai sẽ được là ngôn sứ nếu họ không ưng thuận. Thần trí cứng lòng tin đã không thay đổi. Thời đại chúng ta hôm nay là hôm nay cũng vậy, khoa hoc mệnh danh là độc lập thì tống trát đòi Thiên Chúa ra trước phiên họp khoáng đại của các thành viên; tại đây và chỉ ở đây, người ta mới công nhận cho Chúa được làm phép lạ mà thôi. Người ta không tìm kiếm những lý do đủ dễ tin, nghĩa là “chịu nhận đó là dấu lạ của Chúa.” Người ta thích lên án Chúa để bắt Người phải chịu nhận là bất lực bất toàn, hoặc (và đây là phán quyết biệt đãi nhất mà người ta có thể trông chờ ở những vị thẩm phán tốt) tuyên bố rằng chúng tôi còn chưa biết thiên nhiên có sức mạnh tới đâu nữa.

Chúa Giêsu không muốn cho người ta nhìn nhận Người qua những dấu lạ không phải là dấu lạ mà thường ngày Người ban cho ta trong Mầu Nhiệm Phục Sinh của Người.

Ta đón nhận Đức Giêsu là bởi chính con người của Người vậy!

J.M

 

Suy Niệm 6: PHÚC CHO AI KHÔNG THẤY MÀ TIN (Mt 12, 38-42)

Người Việt Nam chúng ta thường có câu: “Bụt chùa nhà không thiêng”. Câu nói đó hàm ý rằng: những người ở gần và sống bên cạnh chúng ta, dù họ có tốt và làm được nhiều chuyện lành thánh thế nào thì cũng chẳng có gì phải quan tâm và những lời họ nói cũng chẳng cần phải tin. Một lý do đơn giản là: “Gần chùa gọi Bụt bằng anh”.

Hôm nay, thánh Mátthêu trình thuật cho chúng ta thấy việc Đức Giêsu khiển trách những Kinh sư và Pharisêu cứng lòng không chịu tin vào những lời giảng và những việc Ngài làm. Lòng họ đã trở nên trai cứng. Trái tim họ đã hóa đá. Trước mắt họ, Đức Giêsu cũng chỉ là con Bác Thợ Mộc. Vì thế, họ thách thức Đức Giêsu phải làm một dấu lạ để họ trông thấy thì họ mới tin.

Tại sao vậy? Thưa! Đòi hỏi dấu lạ là đặc trưng của người Dothái, nhất là giới lãnh đạo. Trước mắt và tâm thức của những người này khi nhìn về Đấng Cứu Thế  phải là một con người oai hùng lẫm liệt. Đấng ấy phải là người đánh đông dẹp bắc. Phải là người đưa dân Dothái đến bến bờ tự do và bá chủ mọi quốc gia. Và, như một sự tất yếu, Đấng ấy phải làm được dấu lạ. Nếu không đáp ứng sự hiếu tri của họ thì họ không tin.

Tuy nhiên, Đức Giêsu đã không đi theo con đường mà họ thách đố. Con đường cứu thế của Ngài là khiêm tốn và tự hạ, con đường của hiền lành và nhân hậu, chứ không phải con đường của thách thức, kiêu ngạo, khoe khoang… Vì thế, Ngài sẵn sàng làm những dấu lạ để cứu giúp và củng cố niềm tin của người đương thời, nhưng nếu vì thách thức, đi ngược lại với sứ mạng và ích lợi cho phần rỗi của con người thì không bao giờ Đức Giêsu làm.

Lời Chúa hôm nay muốn dạy cho chúng ta rằng:

Thứ nhất, tìm những dấu lạ để tin cũng được, nhưng đây không phải là đức tin trưởng thành. Đức tin trưởng thành là đức tin của những người không thấy mà vẫn tin. Bởi vì Đức Giêsu đã nói với Tôma: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”.

Thứ hai, không nên thuần lý để thách thức Thiên Chúa như những người Dothái. Cần tránh cho xa ý tưởng bắt Thiên Chúa phải làm theo ý của mình.

Cuối cùng, tin Chúa thì phải hành động. Đức tin không có việc làm là đức tin chết. Thật vậy, Ma Quỷ nó cũng tin có Thiên Chúa, nhưng nó không hề hành động theo điều nó đã tin, tức là tôn thờ Người.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một đức tin trưởng thành. Xin cũng ban cho chúng con lòng yêu mến Chúa tha thiết. Biết khiêm tốn để nhận ra thánh ý Chúa và thi hành. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 7: Tín nhiệm nơi Chúa

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu đến không phải để làm những dấu lạ nhãn tiền chiều theo tính hiếu kỳ và sự cứng lòng của con người. Chúng ta hãy hoàn toàn tín nhiệm vào Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con thấy điều làm cho Chúa đau khổ nhất đó chính là sự cứng lòng tin. Chúa đã cảnh cáo, trách mắng người Do Thái không chịu tin vào Chúa. Họ đã hững hờ, coi thường những dấu lạ mà Chúa đã thực hiện. Vì đối với họ, những dấu lạ đó chưa đủ sức thuyết phục.

Lạy Chúa Giêsu, niềm tin của con ngày hôm nay nhiều lúc cũng như thế, nhiều lần, con cũng đã đòi Chúa ban cho phép lạ nào đó, nhiều lúc con đã mặc cả với Chúa trong lúc cầu nguyện. Con muốn tin vào Chúa và theo Chúa, nhưng lại với điều kiện Chúa ban ơn cho con trước, mà những ơn đó nhiều lúc lại chẳng cần thiết cho sự sống linh hồn con. Con muốn Chúa thực hiện theo ý con, trước khi con vâng theo Ý Chúa.

Lạy Chúa, ngay cả thời đại hôm nay, Chúa vẫn đang âm thầm hoạt động. Xin mở con mắt đức tin của con, để con thấy được nhiều dấu lạ trong thế giới hôm nay: Một Giáo Hội mỗi ngày một tăng trưởng, một tình thương ngày càng lan rộng, và chung quanh con, biết bao người đang sống gắn bó mật thiết với niềm tin vào Chúa là Đấng Tử Nạn và Phục Sinh.

Trước những dấu lạ đó, xin cho con được noi gương dân thành Ni-ni-vê, biết thống hối ăn năn. Và xin cho con biết đón nhận lời khôn ngoan của Chúa. Con hết lòng tín nhiệm nơi Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Nữ hoàng phương nam sẽ chỗi dậy lên án thế hệ này”.

 

Suy Niệm 8: Muốn được cứu độ cần tin Chúa

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Giôna được lệnh của Thiên Chúa phải đi rao giảng sự sám hối cho dân thành Ninivê đầy tội lỗi. Nhưng ông sợ và trốn sứ mạng khi ông lấy tàu đi Tácsít. Chúa cho một trận cuồng phong nổi lên khiến thuỷ thủ vô cùng sợ hãi; họ nghi ngờ trên tàu có người nào đó là kẻ có tội khiến thần thánh nổi giận trừng phạt.

Họ gieo quẻ để tìm người đó, thì quẻ rơi trúng ông Giôna. Ông biết tội mình và tự đề nghị người ta ném mình xuống biển. Thế là sóng yên bể lặng (x. Gn 1,1-16). Một con cá lớn nuốt ông vào bụng. Nằm trong bụng cá, ông đọc một thánh vịnh cầu xin Chúa cứu giúp trong cơn ngặt nghèo. Sau ba ngày, con cá nôn ông ra trên đất liền (x. Gn 2,1-11).

Thiên Chúa lại gọi ông một lần nữa, và lần này ông vâng lời đi rao giảng cho dân thành Ninivê, với một cách miễn cưỡng. Nhà vua và dân chúng nghe lời rao giảng của ông thì mau mắn làm việc đền tội…

Suy niệm

Hình ảnh Giôna ở trong bụng cá ba ngày, báo trước về Ðức Giêsu cũng sẽ đi vào lòng đất ba ngày qua cái chết và Phục sinh vinh quang để đem lại ơn cứu độ cho những ai tin vào Ngài. Cho nên dấu lạ Chúa Kitô trong lòng đất là dấu lạ vĩ đại nhất mà ai muốn được cứu độ chỉ cần tin Ngài.

Khi nói về dấu lạ Giôna và so sánh với dấu lạ Chúa bị chôn trong lòng đất, Chúa Kitô cảnh tỉnh về sự cố chấp không tin của người Do Thái. Xưa kia, dân thành Ninivê đã hối cải khi nghe lời giảng dạy của Giôna. Nữ hoàng Saba từ phương Nam xa xăm nghe biết Salômôn nổi tiếng khôn ngoan vì danh Chúa, nên cất bước đến Giêrusalem lãnh hội. Nay dân Do Thái, đặc biệt là biệt phái và tiến sĩ luật, kiêu căng tự phụ vào sự hiểu biết và đạo đức không chịu lãnh nhận và tin theo giáo huấn của Đấng Cứu Thế – Đấng hơn cả ngôn sứ Giôna, có lời khôn ngoan hơn vua Salômôn đang hiện diện và giảng dạy giữa họ, nên họ chết trong sự cố chấp, cứng tin… vì thế trong ngày phán xét dân thành Ninivê và nữ hoàng Saba sẽ trỗi dậy tố cáo sự cố chấp cứng tin của họ.

Ðể được ơn cứu độ, chúng ta phải tin vào Ðức Giêsu, nghe giáo huấn và sám hối như lời dạy: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15), sống theo Tin Mừng trong từng giây phút của cuộc sống…

Ý lực sống:

“Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước,

là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119,105).

 

Suy Niệm 9: Về dấu lạ Giôna (Mt 12,38-42)

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Những người biệt phái không nhận Chúa Giêsu là Messia vì họ cố chấp, nhưng họ viện cớ là vì họ không thấy dấu lạ. Chúa Giêsu kể lại cho họ dấu lạ tiên tri Giona ở trong bụng cá ba ngày. Qua lời giảng của tiên tri Giona, dân thành Ninivê đã hối cải. Cũng vậy, Chúa Giêsu sẽ đi vào lòng đất, vào cái chết và Phục sinh vinh quang, để đem lại ơn cứu độ cho những ai tin vào Người, cụ thể là cho những người biết ăn năn thống hối và sống theo Lời Chúa trong từng giây phút của cuộc sống. Còn họ thì Chúa cho biết đến ngày phán xét họ sẽ bị xét xử rất nặng.

Người Việt Nam chúng ta có câu: “Bụt nhà không thiêng”. Câu nói ấy hàm ý rằng: những người ở gần và sống bên cạnh chúng ta, dù họ có tốt và làm được nhiều chuyện lành thánh thì cũng chẳng có gì phải quan tâm, và những lời họ nói cũng chẳng cần phải tin. Một lý do đơn giản là: “Gần chùa gọi Bụt bằng anh”.

Chúa Giêsu làm nhiều phép lạ, và dân Do thái đã được thấy những phép lạ ấy. Những người biệt phái và luật sĩ cũng đã được chứng kiến những phép lạ ấy, nhưng họ vẫn không tin Ngài là Đấng Messia Thiên Sai. Hôm nay họ còn muốn thách thức Chúa đòi Chúa làm một dấu lạ để chứng tỏ Ngài là Đấng Messia. Chúa không chấp thuận yêu cầu của họ, trái lại, Ngài phàn nàn về thái độ cố chấp của họ bằng hai câu chuyện: tiên tri Giona và nữ hoàng Saba.

Nhắc lại chuyện Giona ngày xưa, nhằm lưu ý họ rằng: Ngày xưa dân thành Ninivê chỉ nghe lời rao giảng miễn cưỡng của tiên tri Giona. Vậy mà cả thành từ vua đến dân, từ già đến trẻ, từ người đến súc vật đều ăn chay sám hối và khấn xin sự tha thứ của Chúa. Vậy mà hôm nay có Người còn hơn Giona, Đấng mà thánh Gioan Tẩy giả loan báo đã đến và rao giảng, vậy mà họ không để tâm ăn năn hối cải. Thật đáng buồn.

Chúng tôi muốn Thầy làm một dấu lạ”(Mt 12,38)

Nhiều lần chúng ta cũng mong Chúa làm một phép lạ vĩ đại và tỏ tường. Chẳng hạn hiện ra trước mắt nhiều người, và nếu thấy những dấu lạ vĩ đại ấy thì mọi người sẽ tin thờ Chúa.

Thực ra, Chúa thừa sức làm những dấu lạ như thế. Nhưng nếu làm thế sẽ là một áp lực, một bó buộc, khiến người ta phải tin thờ Ngài. Và con người sẽ không còn tự do, Chúa không còn là một Thiên Chúa yêu thương mời gọi nữa.

Quả thật, ngay trong cuộc sống đã có rất nhiều dấu chỉ, nhưng vấn đề là chúng ta có thể đọc ra ý nghĩa của những dấu chỉ xảy ra hằng ngày trong cuộc sống của mỗi người chúng ta hay không. Rất nhiều lần chúng ta sống chẳng khác gì những người mà Kinh thánh nói: “Có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe, có trí mà không hiểu”.

Trong cuốn sách nổi tiếng rất quen thuộc với chúng ta có tựa đề “Phép lạ trong những cái thường ngày” tác giả đã đưa ra những tư tưởng, những lời khuyên rất sâu sắc và thiết thực, làm mẫu mực cho những suy tư và tâm tình sống của chúng ta. Có lẽ ai trong chúng ta cũng đồng ý với ý tưởng của tác giả.

Một khi chúng ta nhìn tha nhân và thế giới quanh ta với cái nhìn trong sạch, một khi đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời của ta, thì không có gì là không giúp chúng ta nhận ra sự quan phòng của Chúa… Chúa luôn can thiệp trong mọi giây phút của cuộc đời chúng ta. Phần chúng ta, chúng ta có sẵn sàng hay có đủ kiên nhẫn và khiêm nhường để nhận ra sự can thiệp của Ngài không. Hãy nhắm mắt lại và để tâm quan sát mọi cơ phận của ta cũng như mọi hoạt động, những chuyển động đang diễn ra trong ta và trong thế giới chúng ta đang sống, với sức sống của muôn loài thọ tạo. Từ cái to lớn vĩ đại nhất đến cái vi phân tử, rồi niềm tin, tư tưởng, ý nghĩ, tâm tư tình cảm của con người, đâu đâu chúng ta cũng gặp thấy quyền năng và sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa. Tất cả những điều kỳ diệu đó là gì nếu không phải là những phép lạ trong cuộc đời của chúng ta (Mỗi ngày một tin vui).

Truyện: Thấy Chúa là thấy sự sống trong tất cả

Một cụ già suốt ngày ngồi trên ghế xích đu và thề sẽ không bao giờ đứng dậy cho đến khi nào gặp được Chúa. Một cô bé đang chơi với một quả bóng thấy thế hỏi:

-Suốt ngày cụ ngồi đong đưa trên chiếc ghế này để chờ đợi Chúa sao?

-Đúng thế, trước lúc nhắm mắt lìa đời, ta muốn tin chắc rằng có một Thiên Chúa. Ta cần một dấu chỉ.

-Nhưng tới nay ta chưa nhận được dấu chỉ nào.

-Thưa cụ, Chúa cho cụ một dấu chỉ mỗi khi cụ hít thở, mỗi khi cụ ngửi một cánh hoa thơm, mỗi khi cụ nghe tiếng chim hót, mỗi khi có một đứa bé chào đời. Chúa cho cụ một dấu chỉ mỗi khi cụ cười hay mỗi khi cụ khóc, mỗi khi cụ cảm thấy nước mắt lăn trên gò má cụ. Chúa ban cho cụ một dấu chỉ trong mưa gió và khi thời tiết thay đổi. Có biết bao nhiêu dấu chỉ, nhưng tại sao cụ chưa tin? Cụ ơi, Chúa ở trong cụ. Chúa ở trong cháu. Không cần phải tìm kiếm, vì Ngài luôn có đó. Má cháu luôn căn dặn cháu: ”Này Lily, nếu con tìm những cái vĩ đại thì con đã nhắm mắt lại rồi, bởi vì thấy Chúa là thấy những điều đơn sơ. Thấy Chúa là thấy sự sống trong tất cả”.

Cụ già ngạc nhiên trước những lời như thế từ miệng một cô bé nhỏ xíu.

Phần cô bé, cô vừa chạy vừa nói lớn: Má cháu căn dặn: “Này Lily, nếu con tìm những cái vĩ đại thì con đã nhắm mắt lại rồi, bởi vì thấy Chúa là thấy những điều đơn sơ. Thấy Chúa là thấy sự sống trong tất cả” (Chờ đợi Chúa).

 

Suy Niệm 10: ,,,,,,,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống…)

Những người biệt phái không nhận Chúa Giêsu là Đấng Messia vì họ cố chấp, nhưng họ viện cớ là vì họ không thấy dấu lạ. Thực ra Chúa Giêsu đã cho họ biết bao nhiêu dấu lạ mà họ có chịu thấy đâu. Vì thế Ngài nói chẳng cần cho họ dấu lạ nào khác ngoài dấu lạ Giôna, tức là ám chỉ Ngài sẽ chết và sống lại. Nhưng Ngài cũng biết là dấu lạ đó cũng chẳng thể mở mắt họ nổi, cho nên Chúa Giêsu bảo đến ngày phán xét tội của họ sẽ rất nặng.

B- Suy gẫm (…nẩy mầm)

  1. ”Chúng tôi muồn thấy Thầy làm một dấu lạ”. Nhiều lần chúng ta cũng mong Chúa làm phép lạ tỏ tường. Chẳng hạn hiện ra trước mặt nhiều người. Chúng ta nghĩ nếu có những dấu lạ ấy thì mọi người đều tin thờ Chúa.

Thực ra Chúa thừa sức làm những phép lạ như thế. Nhưng những dấu lạ như thế sẽ là một áp lực, một bó buộc khiến người ta phải tin thờ Ngài, không cách nào khác được. Và như thế con người không còn được tự do, Chúa không phải là một Thiên Chúa yêu thương mời gọi nữa.

Chúa ít khi làm dấu lạ, nhưng thích ban dấu chỉ. Những dấu chỉ kín đáo, đơn sơ là những tiếng mời gọi nhẹ nhàng và yêu thương. Và những dấu chỉ như thế có rất nhiều. Chỉ cần ta biết mở mắt mở lòng ra là có thể thấy ngay.

  1. Một cụ già suốt ngày ngồi trên ghế xích đu và thề sẽ không bao giờ đứng dậy cho đến khi gặp được Chúa. Một cô bé đang chơi với một quả bóng thấy thế liền hỏi:

– Suốt ngày cụ ngồi đong đưa trên chiếc ghế này để chờ đợi Chúa sao?

– Đúng thế, trước lúc nhắm mắt lìa đời ta muốn tin chắc rắng có một Thiên Chúa. Ta chỉ cần một dấu chỉ. Nhưng tới nay ta chưa nhận được dấu chỉ nào.

– Thưa cụ, Chúa cho cụ một dấu chỉ mỗi khi cụ hít thở, mỗi khi cụ ngửi một cách hoa thơm, mỗi khi cụ nghe tiếng chim hót, mỗi khi có một đứa trẻ chào đời. Chúa cho cụ một dấu chỉ mỗi khi cụ cười hay mỗi khi cụ khóc, mỗi khi cụ cảm thấy nước mắt lăn trên gò má cụ. Chúa ban cho cụ một dấu chỉ trong mưa gió và khi thời tiết thay đổi. Có biết bao nhiêu dấu chỉ nhưng tại sao cụ chưa tin? Cụ ơi, Chúa ở trong cụ, Chúa ở trong cháu. Không phải cần tìm kiếm vì Ngài luôn có đó. Má cháu luôn căn dặn cháu: “Này Lily, nếu con tìm những cái vĩ đại thì con đã nhắm mắt lại rồi, bởi vì thấy Chúa là thấy những điều đơn sơ. Thấy Chúa là thấy sự sống trong tất cả”.

Cụ già ngạc nhiên khi thấy những lời như thế thốt ra từ môi miệng một cô bé nhỏ xíu. Phần cô bé, cô vừa chạy vừa nói lớn: “Má cháu luôn căn dặn: này Lily, nếu con tìm những cái vĩ đại thì con đã nhắm mắt lại rồi, bởi vì thấy Chúa là thấy những điều đơn sơ. Thấy Chúa là thấy sự sống trong tất cả”. (Trích: “Chờ đợi Chúa”)

  1. Vấn đề của chúng ta ngày nay không phải là không có dấu chỉ mà là không biết đọc ý nghĩa của những dấu chỉ đó. Có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe, có trí mà không hiểu. Chẳng hạn, tôi có hiểu ý nghĩa những dấu chỉ mà Chúa cho xảy ra nơi chính bản thân mình không: tôi bị bệnh… tôi bị người ta phê phán… tôi vừa gặp thất bại… Tại sao? Qua những điều ấy, Chúa muốn nói gì với tôi?

 

Suy Niệm 11: ,,,,,,,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Những người Pharisêu và luật sĩ thách thức Chúa làm một phép lạ. Chúa thừa sức làm những phép lạ như họ yêu cầu. Nhưng như chúng ta thấy trong Tin Mừng, xem ra như Chúa muốn người ta nhận ra tình thương của Chúa qua những dấu chỉ nhiều hơn. Dấu chỉ thì kín đáo, đơn sơ, là những tiếng mời gọi nhẹ nhàng và yêu thương. Những dấu chỉ như thế có rất nhiều. Chỉ cần ta biết mở mắt, mở lòng ra là có thể thấy ngay.

Đây là một thí dụ: Cuộc cách mạng 1789 bùng nổ khiến thầy Gioan Maria Vianney phải bỏ dở việc học. Nhưng sau đó thầy tìm hết cách để tự học dưới sự dìu dắt của cha xứ. Nhưng khổ thay, học mấy cũng chẳng nhớ. Rất may lúc ấy địa phận đang trải qua một thời gian thiếu linh mục nên thầy Vianney được bề trên gọi về để khảo hạch. Và lẽ dĩ nhiên là lần nào cũng… trượt.

Vianney không nản lòng, cứ tiếp tục học. Cuối cùng, bề trên thấy thầy bền chí… nên gọi cha xứ đến để hỏi về thầy:

– Thầy có lòng đạo đức không?

– Thưa có.

– Thầy có kính mến phép Thánh Thể?

– Thưa có.

– Thầy có siêng năng lần hạt không?

– Thưa có.

Cha chính địa phận quyết định: “Thôi, cho thầy chịu chức vì thầy bền chí, chứ nếu khảo hạch mãi thì cũng chẳng đi đến đâu, không bao giờ đỗ được”.

Về sau, Vianney đã trở thành một vị thánh thời danh, thu hút nhiều tâm hồn trở về với Chúa. Năm 1925, Đức Piô XII đã đặt Ngài làm bổn mạng các cha xứ.

Vâng, chẳng ai thấy được sự thánh thiện đạo đức như thế nào. Ta không cân-đo-đong-đếm được sự thánh thiện đạo đức nhưng ta có thể nhận ra được sự thánh thiện đạo đức qua các dấu chỉ bên ngoài. Thầy Vianney dốt nát, nghèo khổ nhưng thầy không bao giờ bỏ lần chuỗi, không bao giờ quên viếng Thánh Thể mỗi ngày. Những việc làm như thế là những dấu chỉ để bề trên nhận ra thầy có ơn gọi và quả thực bề trên đã không sai lầm.

  1. Dấu chỉ không thiếu nhưng vấn đề là chúng ta cóđọc ra được ý nghĩa của những dấu chỉ xảy ra hằng ngày ngay trong cuộc sống của mỗi người chúng ta hay không. Rất nhiều khi chúng ta sống chẳng khác gì những người mà Kinh Thánh nói: “Có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe, có trí mà không hiểu” (Mt 13,13-14).

Thí dụ như khi gặp một tai nạn, khi có được một tin vui, khi được chứng kiến cảnh một người mù mới được phục hồi thị giác, khi một người mẹ mới sinh được một người con vv.. Ta có hiểu được ý nghĩa qua những dấu chỉ mà Chúa cho xảy ra như thế hay không? Tại sao? Và qua những điều ấy, Chúa muốn nói với ta điều gì?

Một vị Giám Mục trong một chuyến đi công tác, phải đi ngang qua một giáo xứ nhỏ ở ngoại thành. Ngài tạt xe vào thăm. Khi vừa tới nơi thì ngài thấy có một lớp Giáo lý dành cho người dự tòng đang học. Hỏi cha xứ, ngài mới biết lớp này sắp mãn khóa và các học viên lớn tuổi này sẽ được chịu Bí Tích Thánh Tẩy.

Vị Giám Mục chợt nảy ra ý muốn, muốn kiểm tra trình độ Giáo Lý của họ nên hỏi: “Theo các anh chị, dựa vào đâu mà người khác có thể nhận ra các anh chị là người Công giáo?”

Mọi người nhìn nhau, không thấy ai lên tiếng trả lời. Rõ ràng đây là một câu hỏi quá bất ngờ. Vị Giám Mục lập lại câu hỏi thêm nhiều lần nữa, và ngài đã kín đáo làm một dấu Thánh Giá nhỏ trên ngực như để muốn nhắc khéo một câu trả lời đúng đắn cho cả lớp học và cũng là để gỡ thể diện cho cha xứ…

Bất ngờ, một người dự tòng đứng dậy và mạnh dạn trả lời: “Thưa Đức Cha, theo con nghĩ, dấu chỉ để mọi người biết chúng con là người Công giáo, chính là… Tình Yêu ạ!”

Vị Giám Mục, và cả cha xứ lúc ấy đều suýt buột miệng bảo: “Sai” nhưng cả hai đều kịp dừng lại, các ngài thấm thía hơn ai hết câu trả lời của người dự tòng trẻ tuổi kia.

Vâng, người đó đã trả lời rất đúng, không những đúng bài bản mà còn đúng ý Chúa nữa.

Chắc không ai trong chúng ta quên lời của chính Chúa Giêsu: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ của Thầy là chúng con yêu thương nhau” (Ga 15,35).

Khi người ta hỏi về nạn phá thai thì mẹ Têrêsa trả lời: “Đối với tôi, đây là dấu chỉ cho thấy hoặc là xứ sở này quá nghèo đói đến nỗi không thể chăm sóc cho những cuộc sống Chúa dựng nên, hoặc dân chúng nước này đang chạm phải một sai lầm to lớn”.

Lạy Chúa!

Tình thương không bao giờ miễn cưỡng.

Nhưng là niềm vui, tự do, sức mạnh.

Tình thương diệt sự bối rối.

Ở đâu thiếu tình thương,

ở đó sợ hãi và buồn chán xuất hiện.

Tình thương là hân hoan.

Tình thương là nhiệt hứng.

Tình thương là mạo hiểm.

Tình thương là quảng đại,

Tình thương là trao đổi.

Ai cho nhiều, thì được nhiều.

Vì chúng ta có những gì chúng ta cho. Amen.

 

 

 

 

THỨ BA TUẦN 16 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Mt 12, 46-50

Khi ấy, Chúa Giêsu còn đang nói với dân chúng, thì mẹ Người và anh em Người đứng ngoài tìm cách nói chuyện với Người. Có kẻ thưa rằng: “Kìa, mẹ Ngài và anh em Ngài đang đứng tìm Ngài ngoài kia”.

Nhưng Người trả lời kẻ ấy rằng: “Ai là mẹ Ta, ai là anh em Ta?”

Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ mà nói: “Đây là mẹ Ta và là anh em Ta, vì hễ ai làm theo ý Cha Ta trên trời, thì người ấy là anh em, chị em và là mẹ Ta vậy”.

 

SUY NIỆM 1: Ai là mẹ tôi?

Suy niệm:

Bài Tin Mừng hôm nay có thể làm chúng ta bị sốc.

Đức Giêsu đang giảng cho một đám người khá đông.

Chắc là họ đứng chen chúc nhau đến nỗi khó lòng đến gần Ngài được.

Chính vào lúc này thì mẹ và anh em Ngài đến, không rõ lý do.

Họ muốn nói chuyện với Đức Giêsu, nhưng đành phải đứng ở ngoài.

Có người vào báo cho Ngài về chuyện đó.

Chúng ta tưởng Ngài sẽ ngưng ngay bài giảng để ra gặp mẹ và anh em.

Một giọt máu đào hơn ao nước lã.

Mẹ Ngài hẳn đã phải đi một đoạn đường xa để đến gặp con trò chuyện.

Nhưng lạ thay Đức Giêsu vẫn tiếp tục giảng.

Ngài vẫn tiếp tục nói chuyện với đám đông đang nghe Ngài,

thay vì đi ra nói chuyện với mẹ.

Sự quan tâm của Ngài nhắm vào những người ở trong đây,

hơn những người đứng ở ngoài kia.

Sau đó Ngài lại đặt những câu hỏi vừa dễ lại vừa lạ:

“Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” (c. 48).

Dĩ nhiên đó là những người đang đứng ngoài kia,

đang chờ được gặp mặt và nói chuyện với Ngài.

Nhưng đó không phải là đáp án của Đức Giêsu.

Chính Ngài cho ta đáp án bằng cách giơ tay chỉ các môn đệ mà nói:

“Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi” (c. 49).

Có một gia đình máu mủ đậm đà đứng ở ngoài kia,

và một gia đình mới rất thân thương đứng ở trong này.

Đức Giêsu không coi thường tình mẫu tử hay tình họ hàng ruột thịt.

Điều Ngài muốn nhấn mạnh ở đây là chuyện Ngài có một gia đình mới.

Các môn đệ của Ngài thuộc về gia đình này.

Họ là mẹ, là anh chị em của Ngài, vì họ thi hành Ý muốn của Cha Ngài.

Chính Đức Giêsu là người Con luôn thi hành Ý muốn của Cha.

Ai thi hành Ý Cha trên trời cũng trở nên gần gũi với người Con (c. 50).

Chúng ta có họ với Đức Giêsu và làm nên một gia đình bao la rộng lớn.

Bỗng nhiên chúng ta thấy mình gần Cha, gần Giêsu và gần nhau.

Nước Trời bắt đầu đến khi hơn hai tỉ kitô hữu

nhận ra là mình cùng muốn làm trọn Ý Cha,

cùng gắn bó keo sơn với Giêsu và cùng coi nhau là anh chị em (Mt 23, 8).

Đức Giêsu có nhiều anh chị em trong gia đình của Ngài.

Các phụ nữ thật là chị em của Ngài, dù xã hội Ngài trọng nam khinh nữ.

Đức Giêsu cũng không chỉ có một người mẹ tên là Maria.

Bất cứ ai sống theo ý Cha trên trời trong niềm vâng phục phó thác,

bất cứ ai sinh Đức Giêsu ra cho môi trường sống của mình,

bất cứ ai làm cho Ngài lớn lên trong trái tim nhân loại,

người ấy là mẹ Đức Giêsu.

Trong gia đình mới là Giáo Hội của Đức Giêsu,

Maria đã là Mẹ Đức Giêsu theo ý nghĩa tuyệt vời nhất.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

xin thương nhìn đến Hội Thánh

là đàn chiên của Chúa.

Xin ban cho Hội Thánh

sự hiệp nhất và yêu thương,

để làm chứng cho Chúa

giữa một thế giới đầy chia rẽ.

Xin cho Hội Thánh

không ngừng lớn lên như hạt lúa.

Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,

đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.

Ước gì Hội Thánh trở nên men

được vùi sâu trong khối bột loài người

để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.

Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp

để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.

Xin cho Hội Thánh

trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,

nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.

Cuối cùng xin cho chúng con

biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,

nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.

Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,

nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

SUY NIỆM 2: Mẹ và anh em của Chúa

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Tình yêu thương của Chúa thật lạ lùng cao sâu khôn lường. Vì yêu thương Chúa tuyển chọn dân Israel. Một nhóm người bé nhỏ, một đoàn người nô lệ, một đám đông ô hợp, nhưng dưới sự dẫn đưa của Chúa, đã trở thành một dân tộc hùng mạnh chiến thắng Pha-ra-ô.

Tình yêu thương dịu dàng qua việc chăm sóc họ. Ít-ra-en là dân riêng, là đoàn chiên được Chúa dẫn đưa. Tình yêu thương mãnh liệt qua việc tha thứ những phản bội bất trung. Mỗi khi gặp khốn khổ, họ ăn năn sám hối kêu cầu: “Lạy Chúa,… Xin đừng giữ mãi cơn giận. Xin lại thương xót chúng con”, thì Chúa lại tha thứ và ban ơn nâng đỡ.

Hôm nay, với lời: “Phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh em, chị em tôi, là mẹ tôi”, Chúa muốn nối lại tình yêu thương với một Dân Mới trong một liên hệ mới.

Đó là mối liên hệ cao hơn và sâu hơn. Không còn là tuyển chọn một dân, hôm nay Chúa nâng liên hệ lên một tầm cao mới: Cho ta được trở thành gia đình của Chúa, trở thành mẹ và anh em của Chúa. Như Đức Mẹ đã lắng nghe Lời Chúa, đã cưu mang Lời Chúa trước khi cưu mang Ngôi Lời, nhờ vâng lời Chúa mà trở thành Mẹ Thiên Chúa, thì tất cả chúng ta, nếu biết lắng nghe và thực hành thánh ý Chúa, cũng sẽ trở thành Mẹ Thiên Chúa. Như Chúa Giêsu đã vâng lời Đức Chúa Cha nên được Đức Chúa Cha khen tặng là Con Yêu Dấu, bất cứ ai vâng lời Đức Chúa Cha cũng được trở nên Con Yêu Dấu của Đức Chúa Cha, trở thành anh em chị em của Chúa Giêsu.

Đó là mối liên hệ rộng lớn hơn. Cuộc tuyển chọn không còn giới hạn vào dân Israel nữa, nhưng mở rộng trên khắp toàn cầu. Không còn là một dòng dõi theo chủng tộc, huyết thống, nhưng là một dòng dõi thiêng liêng. Bất cứ ai trên thế giới này thi hành thánh ý Thiên Chúa đều thuộc về gia đình Thiên Chúa. Vì thế Dân Mới, gia đình Thiên Chúa sẽ mở rộng trên toàn thế giới, qui tụ đủ mọi người thuộc mọi chủng tộc, ngôn ngữ khác nhau.

Thật lạ lùng tình thương của Thiên Chúa. Thật cao sâu ý định cứu độ của Thiên Chúa. Xin cho con biết thi hành thánh ý Chúa để được trở thành gia đình của Chúa và được góp phần vào công cuộc cứu độ tốt đẹp này.

 

SUY NIỆM 3: Thực Hành Lời Chúa

Mỗi tác giả Tin Mừng đều có một lối giải thích về thái độ của Chúa Giêsu đối với gia đình của Ngài, và sự khẳng định về tình liên đới của Ngài đối với gia đình thiêng liêng gồm những ai thực thi ý Chúa. Ðối với thánh Marcô, thái độ của Chúa Giêsu được tỏ ra sau khi Chúa chọn Nhóm Mười Hai. Trong Nhóm Mười Hai đã có một cuộc tranh cãi sôi nổi về chuyện ai sẽ được ngồi bên tả hay bên hữu Chúa Giêsu; những người có họ hàng với Ngài dĩ nhiên nuôi nhiều hy vọng hơn. Chính trong bối cảnh đó, Chúa Giêsu khẳng định trong Nước Ngài, quan hệ máu mủ ruột thịt không quan trọng bằng niềm tin; gần gũi với Ngài không đương nhiên là bà con ruột thịt, mà chính là những ai thực thi ý Chúa.

Trong Tin Mừng Luca, thì thái độ của Chúa Giêsu đối với gia đình ruột thịt của Ngài được ghi lại như một kết luận của toàn bộ những lời giảng dạy của Ngài về Nước Chúa, cũng như những điều kiện để thuộc về Nước Chúa. Như vậy, đối với Luca, chỉ có việc lắng nghe và thực thi Lời Chúa mới thực sự làm cho con người được đi vào quan hệ mật thiết với Chúa Giêsu.

Ðoạn Tin Mừng hôm nay là phần kết luận của trình thuật về cuộc chiến đấu giữa thần khí Chúa và thần khí ma quỷ. Ma quỷ vốn làm cho con người ra câm điếc đối với Lời Chúa; do đó, như người câm được Chúa Giêsu chữa lành, con người cũng cần phải được tháo cởi khỏi xiềng xích của ma quỷ mới có thể lắng nghe được Lời Chúa và thần khí của Ngài. Ðức Maria chính là mẫu mực của con người không hề bị giam hãm trong xiềng xích của ma quỷ. Mẹ luôn luôn lắng nghe và đáp trả Lời Chúa. Chính vì lắng nghe Lời Chúa mà Mẹ đã cưu mang Con Chúa; nơi Mẹ, quan hệ máu mủ ruột thịt với Chúa Giêsu được xây dựng trên chính thái độ lắng nghe Lời Chúa; Mẹ chỉ là Mẹ Chúa Giêsu, bởi vị Mẹ đã lắng nghe Lời Chúa.

Chúa Giêsu đã đề cao thái độ của Mẹ Maria, để từ đó nói lên mối giây liên kết đích thực trong gia đình Giáo Hội mà Ngài sẽ thiết lập. Hầu hết các tôn giáo đều dựa trên gia đình như là cộng đoàn nền tảng nhất. Truyền thống khôn ngoan và luật Do Thái luôn đề cao tầm quan trọng của gia đình. Chúa Giêsu xem ra đã làm một cuộc cách mạng táo bạo khi xây dựng tôn giáo của Ngài, không dựa trên mạng lưới những quan hệ gia đình, mà trên nền tảng của sự tự do. Trong gia đình Giáo Hội, con người trở nên thân thiết với nhau, không nhất thiết nhờ máu mủ ruột thịt, mà do chính niềm tin.

Dĩ nhiên, gia đình tự nhiên vốn là nơi con người đón nhận và nuôi dưỡng đời sống đức tin; gia đình là trường học đầu tiên về cung cách làm người cũng như sự trưởng thành trong đức tin. Chúa Giêsu không bao giờ chối bỏ vai trò ấy của gia đình. Cộng đoàn xã hội, nhất là xã hội gia đình là môi trường cần thiết giúp con người đón nhận và phát huy đức tin.

Khi đề cao thái độ lắng nghe và thực thi Lời Chúa của Ðức Maria, Chúa Giêsu muốn chúng ta thấy rằng đức tin là sự gặp gỡ cá biệt giữa con người với Thiên Chúa, đó là cuộc gặp gỡ của mỗi người mà không ai có thể thay thế được. Càng sống Lời Chúa, càng đi sâu vào sự thân tình với Chúa, con người càng nhận ra tương quan của mình với tha nhân. Hai giới răn mến Chúa và yêu người gắn liền mật thiết với nhau là thế đó: người yêu mến Chúa một cách nồng nàn không thể không yêu thương người anh em của mình, trái lại, lòng bác ái đối với tha nhân cũng không thể không làm cho con người thêm gần gũi với Chúa hơn.

Ước gì chúng ta biết chạy đến với Ðức Maria như mẫu gương của lắng nghe và thực hành Lời Chúa; chạy đến với Người như người Mẹ thân thương của mỗi người, chúng ta cũng hãy đón nhận tha nhân như người anh em trong cùng một gia đình của Chúa.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 4: Thiếu Nữ Ðầy Ơn Phúc (Mt 12,46-52)

Qua đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe trên đây, Chúa Giêsu muốn mạc khải cho những người đương thời và cho mỗi người chúng ta về mối tương quan mới giữa Chúa và những kẻ thuộc về Người. Dân chúng đến nghe Chúa giảng dạy, có lẽ biết rõ và quan trọng hóa gia đình theo huyết thống của Người. Tuy nhiên, Chúa muốn mở rộng cái nhìn của Người để lắng nghe Chúa, mạc khải cho họ mối tương quan mới quan trọng hơn giữa Chúa và những ai thuộc về cộng đoàn mới mà Người đang thiết lập. Ðó là mối tương quan dựa trên việc thi hành thánh ý Thiên Chúa Cha: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi? Ðây là mẹ, là anh em tôi, là những ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Ðấng ngự trên trời”. Ðó là đại gia đình mới của Chúa Giêsu, được mở rộng cho tất cả mọi người, mỗi thành viên trong gia đình mới này liên kết với nhau, không phải bằng mối dây thân tình ruột thịt, nhưng bằng một mối dây thần thiêng, liên kết vững bền và trường tồn, phát sinh từ việc thi hành thánh ý của Thiên Chúa Cha, Ðấng ngự trên trời.

Khi trả lời cho đám đông muốn Chúa dành ưu tiên cho mẹ và anh em đang đến tìm Chúa, cho gia đình tự nhiên của Chúa, một gia đình nhỏ, được xây trên tình thân ruột thịt, Chúa Giêsu không chối bỏ mối quan hệ giữa Chúa và Mẹ Maria cũng như những anh chị em thân thuộc, nhưng Người mạc khải cho thấy mối tương quan quan trọng hơn, trọn vẹn hơn, và trong tương lai sẽ được mở rộng ra cho tất cả những ai chấp nhận thực hành thánh ý Thiên Chúa. Phẩm vị của Mẹ Maria không chỉ hệ tại nơi mối liên hệ ruột thịt với Chúa Giêsu, nhưng còn, và nhất là dựa trên mối dây thiêng liêng thực hiện thánh ý Thiên Chúa.

Hơn ai hết, Mẹ Maria đã chấp nhận thực hiện thánh ý Thiên Chúa ngay từ đầu với lời thưa “Xin Vâng” trong biến cố truyền tin. Mẹ là người đã luôn thực thi trọn vẹn thánh ý Chúa, Mẹ đã phó thác cả cuộc đời Mẹ trong hai tiếng “Xin Vâng”, và đã để Thiên Chúa dùng Mẹ như khí cụ mang ơn cứu độ đến cho mọi người. Vì thế, Mẹ đã được gọi là “Người Ðầy Ơn Phước”. Ðầy Ơn Phước đã trở thành tên của Mẹ. Thiên thần đã gọi Mẹ là “Thiếu Nữ Ðầy Ơn Phước”.

Có thể nói, Chúa Giêsu đã xác nhận trước mặt mọi người phẩm vị cao cả của Mẹ Maria khi Người trả lời cho đám đông: “Ðây là mẹ, là anh em tôi, là những ai thi hành thánh ý của Cha tôi, Ðấng ngự trên trời”. Và một cách gián tiếp, chúng ta có thể nói thêm rằng chính giây phút đó, Chúa Giêsu như muốn đề ra mẫu gương của Mẹ Maria cho tất cả những ai muốn bước vào sống trong đại gia đình mới của Người, đó là hãy sống vâng phục và thi hành thánh ý Thiên Chúa Cha như Mẹ Chúa đã nêu gương.

Lạy Mẹ Maria,

Mẹ là Mẹ Ðấng Cứu Thế và là Mẹ chúng con. Mẹ đã thi hành trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa. Xin thương dạy chúng con biết nhận ra thánh ý Chúa trong đời sống và khiêm nhu thực thi trong mọi hoàn cảnh, để chúng con và tất cả những người chúng con gặp gỡ cũng cảm nếm được niềm vui của đại gia đình Chúa hôm nay và cho đến muôn đời.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 5: Hiệp Nhất Nên Một Nhờ Cùng Thưa Vâng Với Chúa

Người bảo kẻ ấy rằng: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” Rồi người giơ tay chỉ các môn đệ mà nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi.” (Mt. 12, 48-50)

Để đánh tan mọi hiều lầm, Chúa chúng ta đã không cần bảo cho người ta biết Người là con trai duy nhất của thân mẫu Người. Về vấn đề này, ở Ca-phát-na-um cũng như ở Nagiarét, người ta đã nhất mực cho rằng: Mọi người đều coi Đức Giêsu là “Con bà Ma-ri-a”

Cha chúng ta …

Thiết tưởng là điều thiển cận khi cho rằng Chúa Giêsu coi nhẹ những mối dây liên hệ gia đình tự nhiên. Trái lại, Chúa Giêsu không lãnh đạm với thân mẫu Người, và luôn bày tỏ lòng kính trọng đối với cha mẹ; Người cũng dạy phải luôn luôn tôn trọng những mối tương quan liên hệ giữa các thành viên của cùng một gia đình.

Nhưng trong đại gia đình của Chúa Cha mà Người là Con Một, và chúng ta tất cả đều là nghĩa tử, thì không còn sự phân biệt kỳ thị nữa. Cả điều này chính Chúa cũng giảng dạy nhiều lần.

Luật yêu thương và tôn trọng anh em trong một gia đình tiềm ẩn trong (tư tưởng) thần học trên đây về tình yêu đại đồng, bởi lẽ mọi người bốn bể đều là anh em con một cha: “Tứ hải giai huynh đệ” Bởi vậy chúng ta có hai lý do để tôn kính và yêu mến cha mẹ ta: Các Ngài có quyền được ta tôn kính và yêu mến vì là cha mẹ; Các Ngài cũng có quyền được ta mến yêu và trọng kính vì là thành viên của đại gia đình Thiên Chúa. Đối với người cận thân cũng thế! Người cận thân cũng có thể được gọi là anh em ta một cách chính đáng, vì người ấy thực sự nằm trong ý định của Thiên Chúa. Ta hãy nhớ lại lời thánh Phao-lô nhắc nhở ta là con cái Thiên Chúa, là anh em với Chúa Giêsu Kitô, là người cùng thừa hưởng Nước Trời.

Ý Cha.

Mối dây liên kết ta với Chúa Giêsu Kitô không phải là mối liên hệ tự nhiên theo huyết tộc; liên hệ tự nhiên này dù rất cao quý vẫn không phải là liên hệ tạo lên tình huynh đệ giữa ta, mà chính là sự vâng phục ý Cha trên trời. Trong cuộc sống của tôi, khi tôi từ chối ý Chúa hoặc uốn nắn ý Người theo sở ước của tôi, tôi không thuộc về gia đình của Người. Tôi không được quyền gọi người thân cận tôi là anh em của tôi, nếu tôi không sống và thực thi ý Chúa.

Khi đưa ra điều kiện trên đây để được làm anh em, chị em Người, mẹ Người. Chúa Giêsu quả thực biết rõ và muốn mời gọi ta tham dự vào sự sống vô cùng quý giá, vô cùng phấn khởi: Sự sống Thiên Chúa vậy.

J.M

 

SUY NIỆM 6: MẸ VÀ ANH EM CỦA ĐỨC GIÊSU (Mt 12, 46-50)

Xem lại thứ Ba tuần 3 TN

Trong cuộc sống, vì nhiều hoàn cảnh, các thành viên trong gia đình nhiều khi phải phân tán để ra đi đến nơi xa lạ nhằm kiếm miếng cơm manh áo hay học hành hoặc vì sứ vụ… Nỗi lòng nhớ quê hương và người thân hẳn không bao giờ vơi đi trong lòng người xa quê! Như vậy, nếu may mắn có cơ hội gặp được người thân nơi đất khách quê người thì thật là hạnh phúc, nhất là người đó lại là cha mẹ hay anh chị em thân thiện với mình.

Hôm nay, bài Tin Mừng cho thấy phản ứng ngược lại tình cảm tự nhiên của Đức Giêsu. Khởi đi từ việc Mẹ Maria và anh em của Đức Giêsu đến gặp Ngài. Khi được tin báo, thay vì hồ hởi, tay bắt mặt mừng để ra chào đón Mẹ và anh em của mình, thì Đức Giêsu lại chỉ tay vào các môn đệ và những người đang nghe giảng mà nói: “Đây là mẹ và anh em của ta”. Phải chăng có phũ phàng quá không???

Thực ra, qua câu nói này của Đức Giêsu không có ý hạ thấp, giảm nhẹ vai trò Đức Maria là thân mẫu của mình, cũng như không hề phủ nhận tình nghĩa anh em trong dòng họ. Nhưng mặt khác, Ngài muốn đề cao Đức Mẹ và anh em mình cách cụ thể, bởi vì chính các ngài là những người đã vâng theo thánh ý Chúa cách triệt để. Cũng qua câu nói này, Đức Giêsu đã đưa dân chúng đến một quan hệ khác còn quan trọng hơn tình mẫu tử và tình anh em ruột thịt, đó là những người nghe và mau mắn thi hành Lời Chúa thì đáng được gọi là mẹ hay anh chị em của Ngài hơn.

Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi chúng ta hãy biết lắng nghe và mau mắn thi hành Lời Chúa trong đời sống hằng ngày, để trở thành thành viên trong đại gia đình của Chúa thực sự. Chỉ những ai được tháp nhập vào trong đại gia đình này mới là những người được ơn cứu độ, vì con cái thì mới được ở trong nhà.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban ơn thánh của Chúa xuống trên chúng con, để chúng con trở nên những con chiên ngoan ngoãn nhờ biết mau mắn thi hành Lời Chúa. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 7: Mẹ Ta và là anh em Ta

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu thiết lập Hội Thánh là Dân riêng mới. Dân riêng mới được quy tụ không theo tiêu chuẩn huyết thống, nhưng theo tiêu chuẩn tin và thi hành ý muốn Chúa Cha.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, dân riêng thời Cựu ước bao gồm những con cháu của gia đình tổ phụ Gia-cóp. Họ liên kết với nhau nhờ tình máu huyết. Còn Chúa, Chúa quy tụ dân riêng của Chúa theo một tiêu chuẩn khác. Ai sống theo thánh ý Chúa Cha, người đó trở nên dân riêng, trở nên người thân của Chúa. Nhờ đó, tất cả mọi người đều có cơ hội trở nên con cái trong đại gia đình Chúa thiết lập.

Thoáng nghe Tin Mừng hôm nay, con có cảm tưởng dường như Chúa lạnh lùng với thân bằng quyến thuộc. Nhưng suy gẫm thêm, con mới hiểu rằng: tình máu mủ dù có thắm thiết đến đâu cũng không thể chặt chẽ bằng mối tình thiêng liêng được liên kết bằng tình yêu Chúa. Chúa không dạy con bỏ tình ruột thịt, nhưng dạy con biết cùng nhau sống thánh ý Chúa Cha để mọi mối tình nhân loại được vững bền và có giá trị cao cả.

Các tín hữu thời Giáo Hội sơ khai là tấm gương quý báu cho con. Họ đã trở nên anh chị em vì cùng tin và cùng sống Tin Mừng của Chúa. Họ đã góp tất cả của cải để chia đều cho nhau. Chúng con là anh chị em ruột thịt cũng không thể làm được như vậy.

Lạy Chúa, xin cho con nhận ra ý nghĩa cao cả của Bí tích Rửa Tội, vì nhờ đó, con được dẫn vào mối liên hệ thân thích mới. Nhưng nhất là xin Chúa giúp con sống bí tích Rửa Tội, thực thi Thánh Ý Chúa trong cuộc sống, để nhờ đó con được thực sự trở nên con cái Thiên Chúa và là anh chị em với nhau. Amen.

Ghi nhớ: “Người giơ tay trên các môn đệ mà nói: Ðây là mẹ Ta và là anh em Ta”.

 

Suy Niệm 8: Xin đến, để thực thi ý Chúa

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Đức cha Gioan Baotixita Bùi Tuần chia sẻ hành trình ơn gọi giám mục của Ngài:

‘‘Khi tôi được gọi làm giám mục phó giáo phận Long Xuyên, đất nước và Giáo hội Việt Nam đang sôi động chuyển biến từng ngày, từng giờ. Tình hình thì rất nghiêm trọng, còn tôi thì rất hèn mọn, yếu đuối.

Tôi vâng lời Toà Thánh trong muôn vàn lo âu. Với tâm tình phó thác, tôi nói với Chúa: “Này con xin đến, để thực thi ý Chúa”.

Suy niệm

Ðức Giêsu không bao giờ coi nhẹ tình cảm gia đình, Ngài càng không hề lãnh đạm với mẹ và anh em của Ngài. Tuy nhiên Ngài luôn đề cao mối liên hệ thiêng liêng trong niềm tin và lòng yêu mến theo Tin Mừng.

Cho nên Ngài khẳng định: “Ai làm theo ý Cha Ta trên trời, thì người ấy là anh em, chị em và là mẹ Ta vậy”, cao hơn mối liên hệ thiêng liêng dựa trên Lời Chúa mà Ngài đang mang sứ mạng rao truyền, sẽ dệt nên niềm tin và lòng yêu mến cho người lãnh nhận. Ngài khẳng định trong tương quan với nước Ngài, quan hệ máu mủ ruột thịt không quan trọng bằng niềm tin khi biểu lộ thực thi ý Chúa. Đại gia đình thiêng liêng mà các thành viên đều mang tiêu chuẩn nghe và thi hành ý Thiên Chúa.

Khi khẳng định, Mẹ và anh em Ngài chính là người nghe và thực hành Lời, Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy Mẹ Maria chính là người lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành hơn ai hết. Thật thế, Mẹ Maria là người đầu tiên đã lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành khi Mẹ thưa với sứ thần đến truyền thánh ý Chúa trong cuộc đời Mẹ, khi đáp trả: “Vâng, này tôi đây là nữ tỳ của Thiên Chúa, xin hãy thực hiện nơi tôi điều Ngài truyền”, lời xin vâng đã khai mở ơn cứu rỗi và sự sống mới cho thế giới. Mẹ đã trở nên gương mẫu cho mọi người Kitô: Lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy.

Chính Mẹ cũng đã đi trước nêu gương và muốn cho chúng ta sống như Mẹ đã sống. Nơi tiệc cưới Cana, Mẹ truyền: “Hãy làm theo lời Ngài truyền”, hành động đó đã dọn sẵn mọi sự để Chúa làm phép lạ mang đến niềm vui cho những người chung quanh… Mẹ luôn suy gẫm trong lòng các biến cố cuộc đời Đấng Cứu Thế, đặc biệt, dưới chân thập tự, Mẹ sống đức tin vào Thiên Chúa mãnh liệt nhất. Cho nên, trên phương diện gia đình đức tin: Nghe và thực hành Lời Chúa, Đức Maria xứng đáng là Mẹ hơn ai hết.

Chúng ta cùng ý thức mình thực sự là anh chị em với Chúa, khi sống: Xin vâng theo thánh ý Chúa (Lc 1,38).

Ý lực sống:

‘‘Lạy Chúa, này con đến để thi hành thánh ý Chúa” (Dt 10,7).

 

Suy Niệm 9: Gia đình thiêng liêng (Mt 12,46-50)

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Theo Chúa Giêsu, tình huyết nhục là tình rất cần thiết. Chính Ngài là con người nên cũng sống theo tình cảm đó. Tuy nhiên, ở đây, không phải Chúa Giêsu coi nhẹ tình gia đình tự nhiên, cũng không phải Ngài lãnh đạm với Mẹ và anh em của Ngài, nhưng Ngài đề cao mối liên hệ thiêng liêng trong niềm tin và lòng yêu mến. Thái độ và lời nói của Chúa Giêsu trong chuyện này nhằm đề cao những người lắng nghe và làm theo Lời Chúa. Chúa quí chuộng họ còn hơn những kẻ có liên hệ huyết nhục với Ngài nữa.

Trong cuộc sống, vì nhiều hoàn cảnh, các thành viên trong gia đình nhiều khi phải phân tán để ra đi đến nơi xa lạ nhằm kiếm miếng cơm manh áo hay học hành hoặc vì sứ vụ… Nỗi lòng nhớ quê hương và người thân hẳn không bao giờ vơi đi trong lòng người xa quê. Như vậy, nếu may mắn có cơ hội được gặp người thân nơi đất khách quê người thì thật là hạnh phúc, nhất là người đó lại là cha mẹ hay anh chị em thân thiện với mình.

Hôm nay, bài Tin mừng cho thấy phản ứng ngược lại tình cảm tự nhiên của Chúa Giêsu. Khởi đi từ việc Mẹ Maria và anh chị em của Chúa Giêsu đến gặp Ngài. Khi được tin báo, thay vì hồ hởi, tay bắt mặt mừng để ra chào đón Mẹ và anh em của mình, thì Chúa Giêsu lại chỉ tay vào các môn đệ và những người đang nghe giảng mà nói: “Đây là mẹ và anh em của ta”, phải chăng có phũ phàng không?

Có người khi đọc đoạn Tin mừng này sẽ nghĩ rằng, Chúa Giêsu xem nhẹ sự hiện diện của Mẹ Ngài chăng? Không phải thế, Ngài còn đề cao Mẹ Maria nữa là khác, vì trong việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa thì có ai bằng Mẹ được, bởi: “Đức Maria hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”.

Chúa Giêsu coi việc những ai nghe Lời Chúa và đem ra thực hành trở nên như ngang hàng với Mẹ và anh em của Ngài, như thế thật phúc cho ai sống và thực hành Lời Chúa.

Thật vậy, chúng ta trở thành mẹ Chúa – bởi vì đã gián tiếp sinh ra Đức Kitô nơi anh em. Như thánh Phaolô đã chia sẻ cảm nghiệm của mình: “Trong Đức Giêsu Kitô, nhờ Tin mừng, chính tôi đã sinh ra anh em” (1Cr 4,15) (Hiền Lâm).

Thật ra, thái độ và lời nói của Chúa Giêsu trong câu chuyện hôm nay rõ ràng là nhằm đề cao những người biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Chúa quí trọng họ hơn những người có liên hệ huyết nhục với Ngài.

Mátthêu không nêu lên lý do tại sao mẹ và anh em Chúa Giêsu lại đến tìm Ngài. Điều đó có lẽ không cần thiết. Mátthêu chỉ muốn tạo cho Chúa Giêsu một dịp để bộc lộ tư tưởng của Ngài về mối liên hệ mới, mối liên hệ đích thực của mọi người với Chúa: “Ai là mẹ ta và anh em ta?” (Mt 18,48)

Câu trả lời của Chúa Giêsu đưa người nghe đến một sự so sánh giữa liên hệ huyết thống và liên hệ đức tin. Chúa không phủ nhận Đức Maria là thân mẫu của mình cũng không phủ nhận anh em trong dòng họ của mình, nhưng từ dòng họ huyết thống, Chúa Giêsu đưa mọi người nghe đến một quan hệ khác còn quan trọng hơn tình mẫu tử và tình anh em của Ngài: Ngài giơ tay chỉ các môn đệ và nói: “Đây là mẹ Ta, đây là anh em Ta”(Mt 12,49). Và Chúa còn giải thích thêm: “Phàm ai thi hành ý muốn của cha Ta, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh em Ta, là mẹ Ta” (Mt 12,50). Nói cách khác, quan hệ với Thiên Chúa phải được coi là quan trọng hơn quan hệ huyết thống rất nhiều (Lm. Đinh Tất Quý).

Thánh Mátthêu mô tả “mẹ và anh em” Chúa là những người “đứng bên ngoài” (x. Mt 12,46), còn các môn đệ, những người đang nghe Ngài giảng là những người ở vòng trong. Một cách công khai, Chúa Giêsu cho biết nếu chỉ dựa vào mối liên hệ huyết thống thì chưa phải là người thân thiết chưa thuộc về gia đình Thiên Chúa với Ngài. Đúng hơn, gia đình của ngài gồm tất cả những ai “thi hành ý muốn của Cha”. Đó là một cơ hội cho tất cả mọi người, không phân biệt quốc gia dân tộc, không phân biệt giàu nghèo, đều có thể thuộc về gia đình của Chúa nếu thi hành ý muốn của Cha trên trời. Nhưng ý muốn của Cha là gì? Xin thưa đó là tin vào Chúa Giêsu và làm theo lời Ngài dạy (x.Ga 6,40) (5 phút Lời Chúa).

Truyện: Bà có phải là Mẹ của Giêsu không?

Vào một buổi tối mùa đông nọ, một người phụ nữ đang ngồi trên xe hơi đi ngang qua một con đường trong thành phố. Bà thấy một em bé trai, đi chân không, áo quần rách rưới, nhìn chăm chú và thèm muốn các đôi giày để sau tủ kính của một hiệu buôn. Bà cho dừng xe lại, bước xuống xe, lại gần vỗ nhẹ vào má em, vừa cười vừa nói:

-Em làm gì ở đây vào giờ lạnh buốt thế này?

-Em xin Chúa Giêsu cho em một đôi giày. Bé trả lời.

-Vậy thì đi theo cô.

Bà vừa nói vừa cầm tay em bé dẫn đi.

Hãy thử xem Đức Giêsu cứu giúp những đứa trẻ như em và làm chúng hạnh phúc không?

Bà đi vào tiệm buôn, một nơi quá quen thuộc đối với bà. Bà mua cho em một đôi tất len dày và một đôi giày chắc chắn rồi tự tay bà xỏ cho em. Em bé đứng há hốc miệng nhìn, chẳng nói được một lời nào. Khi người đàn bà sắp từ giã em, em chăm chăm nhìn bà, nước mắt trào ra, và hỏi bà:

-Bà ơi! Bà có phải là Mẹ của Giêsu không?

 

Suy Niệm 10: ,,,,,,,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

Mỗi tác giả Tin mừng đều có một lối giải thích về thái độ của Chúa Giêsu đối với gia đình của Ngài, và sự khẳng định về tình liên đới của Ngài đối với gia đình thiêng liêng gồm những ai thực thi ý Chúa.

Đối với thánh Marcô, thái độ của Chúa Giêsu được tỏ ra sau khi Chúa chọn nhóm mười hai. Trong nhóm mười hai đã có một cuộc tranh cãi sôi nỗi về chuyện ai sẽ được ngồi bên tả hay bên hữu Chúa Giêsu; những ngưới có họ hàng với Ngài dĩ nhiên nuôi nhiều hy vọng hơn. Chính trong bối cảnh đó, Chúa Giêsu khẳng định trong Nước Ngài, quan hệ máu mủ ruột thịt không quan trọng bằng niềm tin; gần gũi với Ngài không đương nhiên là bà con ruột thịt, mà chính là những ai thực thi ý Chúa.

Trong Tin mừng Luca, thì thái độ của Chúa Giêsu đối với gia đình ruột thịt của Ngài được ghi lại như một kết luận của toàn bộ những lời giảng dạy của Ngài về Nước Chúa, cũng như những điều kiện để thuộc về Nước Chúa. Như vậy, đối với Luca, chỉ có việc lắng nghe và thực thi lời Chúa mới thực sự làm cho con người được đi vào quan hệ mật thiết với Chúa Giêsu.

Đoạn Tin mừng Mattêu hôm nay là phần kết luận của trình thuật về cuộc chiến đấu giữa thần khí Chúa và thần khí ma quỉ. Ma quỉ vốn làm cho con người ra câm điếc đối với Lời Chúa; do đó, như người câm được Chúa Giêsu chữa lành, con người cũng cần phải được tháo cởi khỏi xiềng xích của ma quỉ mới có thể lắng nghe được lời Chúa và thần khí của Ngài. Đức Maria chính là mẫu mực của con người không hề bị giam hãm trong xiềng xích của ma quỉ. Mẹ luôn luôn lắng nghe lời Chúa mà Mẹ đã cưu mang Con Chúa; nơi Mẹ, quan hệ máu mủ ruột thịt với Chúa Giêsu được xây dựng trên chính thái độ lắng nghe lời Chúa; Mẹ chỉ là Mẹ Chúa Giêsu, bởi vì Mẹ đã lắng nghe lời Chúa.

Chúa Giêsu đã đề cao thái độ của Đức Maria, để từ đó nói lên mối giây liên kết đích thực trong gia đình Giáo hội mà Ngài sẽ thiết lập. Hầu hết các tôn giáo đều dựa trên gia đình như là cộng đoàn nền tảng nhất. Truyền thống khôn ngoan và luật Do thái luôn đề cao tầm quan trọng của gia đình. Chúa Giêsu xem ra đã làm một cuộc cách mạng táo bạo khi xây dựng tôn giáo của Ngài, không dựa trên mạng lưới những quan hệ gia đình, mà trên nền tảng của sự tự do. Trong gia đình Giáo hội, con người trở nên thân thiết với nhau, không nhất thiết nhờ máu mủ ruột thịt, mà do chính niềm tin.

Dĩ nhiên, gia đình tự nhiên vốn là nơi con người đón nhận và nuôi dưỡng đời sống đức tin; gia đình là trường học đầu tiên về cung cách làm người cũng như sự trưởng thành trong đức tin. Chúa Giêsu không bao giờ chối bỏ vai trò ấy của gia đình. Cộng đoàn xã hội, nhất là xã hội gia đình là môi trường cần thiết giúp con người đón nhận và phát huy đức tin.

Khi đề cao thái độ lắng nghe và thực thi lời Chúa của Đức Maria, Chúa Giêsu muốn chúng ta thấy rằng đức tin là sự gặp gỡ cá biệt giữa con người với Thiên Chúa, đó là cuộc gặp gỡ của mỗi người mà không ai có thể thay thế được. Càng sống lời Chúa, càng đi sâu vào sự thân tình với Chúa, con người càng nhận ra tương quan của mình với tha nhân. Hai giới răn mến Chúa và yêu người gắn liền mật thiết với nhau là thế đó: người yêu mến Chúa một cách nồng nàn không thể không yêu thương người anh em của mình, trái lại, lòng bác ái đối với tha nhân cũng không thể làm cho con người thêm gần gũi với Chúa hơn.

 

Suy Niệm 11: ,,,,,,,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Thái độ và lời nói của Chúa Giêsu trong câu chuyện hôm nay rõ ràng là nhằm đề cao những người biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Chúa quý trọng họ hơn những người có liên hệ huyết nhục với Ngài.

Matthêô không nêu lên lý do tại sao mẹ và anh em Chúa Giêsu lại đến tìm Ngài. Cái đó có lẽ không cần thiết. Matthêô chỉ muốn tạo cho Chúa Giêsu một dịp để bộc lộ tư tưởng của Ngài về mối liên hệ mới, mối liên hệ đích thực của mọi người với Chúa: “Ai là mẹ tôi và anh em tôi?” (Mt 18,48).

Câu trả lời của Chúa Giêsu đưa người nghe đến một sự so sánh giữa liên hệ huyết thống và liên hệ đức tin. Chúa không phủ nhận Đức Maria là thân mẫu của mình cũng như không phủ nhận anh em trong dòng họ của mình, nhưng từ dòng họ theo huyết thống, Chúa Giêsu đưa mọi người nghe đến một quan hệ khác còn quan trọng hơn tình mẫu tử và tình anh em của Ngài: Ngài giơ tay chỉ các môn đệ và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi”. (Mt 12,49). Và Chúa còn giải thích thêm: “Phàm ai thi hành muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên Trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (Mt 12,50). Nói cách khác, quan hệ với Thiên Chúa phải được coi là quan trọng hơn quan hệ huyết thống rất nhiều.

  1. Suy gẫm đến đây tự nhiên một câu hỏi được đặt ra cho mỗi người chúng ta là: Vậy thì tôi đã là anh em của Chúa chưa? Trong cuộc sống, tôi đã thi hành thánh ý Chúa chưa? Và ai trong chúng ta dám mạnh dạn trả lời là có?

Một lần nữa, Lời Chúa lại cật vấn chúng ta, bắt chúng ta phải suy nghĩ lại cách sống của chúng ta, ý nghĩa cuộc sống của chúng ta. Bởi vì, như Chúa nói: “Con cái thì mới được ở trong nhà” (Ga 8,35).

Nhìn lại cuộc sống cụ thể của chúng ta, chúng ta phải thú nhận rằng, thường chúng ta hay làm theo ý ta hơn là ý Chúa. Có những lúc chúng ta biết đó là không hợp ý Chúa vậy mà chúng ta vẫn cứ làm. Cũng có những lúc chúng ta biết Chúa muốn cho chúng ta làm thế này nhưng chúng ta vẫn lại làm thế khác.

Đây là dịp chúng ta phải điều chỉnh lại, củng cố lại mối giây liên hệ của chúng ta đối với Chúa. Cách tốt nhất vẫn là thực hành những gì Ngài muốn.

Thánh François De Sale nói: “Làm theo Thánh ý Chúa chưa đủ, mà còn phải làm một cách vui vẻ và nhiệt tình nữa.”

Abraham Lincoln là tổng thống Hoa Kỳ lần kia vào một bệnh viện, tổng thống thấy một thương binh trẻ, chân bị bó bột trông rất đau đớn. Tổng thống thông cảm và tỏ ra lòng biết ơn đối với người lính trẻ đã hy sinh cho tổ quốc và đồng bào. Tổng thống cúi xuống hỏi:

 – Bạn cần tôi giúp gì không?

 Người lính không nhận ra người hỏi mình là ai, nhưng cũng khiêm tốn đáp lại rằng:

– Nhờ ông viết dùm cho tôi lá thư, gởi về thăm cha mẹ tôi.

Tổng thống đã viết theo lời đọc của người lính: Ba mẹ kính mến, con là Josepth đã bị thương nặng, nhưng may còn sống. Con gửi lời thăm mến ba mẹ, nhất là con cám ơn ba mẹ đã dạy dỗ, nên con đã biết làm trọn bổn phận của người Công giáo. Bác sĩ bảo: chắc con khó lành hẳn được. Con cầu Chúa chúc lành cho ba mẹ, xin Chúa cho ba mẹ cũng như con được lòng vâng theo thánh ý Chúa. Cho con hôn hai em con là Jean và Marie.

Ký tên: Josepth.

Tiếp đó tổng thống ghi thêm “thư này do Abraham Lincoln viết giùm”. Khi anh thương binh trẻ đọc lại lá thư, anh rất kinh ngạc, vì thấy tên tổng thống ký ở dưới, anh liền nhìn tổng thống với lòng kính phục và hỏi:

– Thưa Ngài, vậy Ngài là tổng thống nước Mỹ?

Tổng thống trả lời:

– Phải.

Rồi tổng thống nói tiếp.

– Bạn đã nhận ra tôi là tổng thống, bạn còn muốn tôi giúp gì nữa?

– Xin Ngài nâng đỡ cẳng chân đau của tôi một chút,

Tổng thống ngồi xuống giường, bên cạnh thương binh với tấm lòng biết ơn của một vị Tổng thống. Tổng thống đã nâng đỡ cẳng chân đau của người thương binh trẻ suốt đêm mà ngủ.

Vâng, một tấm gương quá đẹp.

Để kết thức tôi xin gửi mọi người lời cầu nguyện của một người bệnh nhân:

Lạy Chúa Giêsu, cơn bệnh Chúa gởi đến con,

Con xin vâng nhận như một hồng ân từ tay Chúa.

Tuy nó hành hạ xác con, nhưng nó làm con nên giống Chúa hơn.

Xin dạy con biết cam chịu nỗi đau đớn này như Chúa.

và xin biến những đau khổ thành lợi ích cho những người con yêu thương.

Một lần nữa, con xin dâng Chúa xác thân,

ý chí, ưu tư, thao thức, những chiến đấu, và cả đời sống con.

Con tin tưởng

đặt quãng đời quá khứ con trong tay Chúa,

nó là bạn con để Chúa thanh luyện,

còn hiện tại để Chúa thánh hóa

và tương lai con để Chúa uốn nắn,

chăm lo như lòng Ngài mong ước.

Lạy Chúa, con chỉ còn một ý muốn đó là chu toàn Thánh Ý Chúa. (Ludovic Giraud)

 

 

 

 

THỨ TƯ TUẦN 16 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Mt 13, 1-9

Ngày ấy, Chúa Giêsu ra khỏi nhà và đi đến ngồi ở ven bờ biển. Dân chúng tụ tập quanh Người đông đảo đến nỗi Người phải xuống thuyền mà ngồi, còn tất cả dân chúng thì đứng trên bờ. Và Người dùng dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều. Người nói:

“Này đây, có người gieo giống đi gieo lúa. Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường, chim trời bay đến ăn mất. Có hạt rơi xuống trên đá sỏi, chỗ có ít đất, nó liền mọc lên, vì không có nhiều đất. Khi mặt trời mọc lên, bị nắng gắt, và vì không đâm rễ sâu, nên nó khô héo. Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc um tùm, nên nó chết nghẹt. Có hạt rơi xuống đất tốt và sinh hoa kết quả, có hạt được một trăm, có hạt được sáu mươi, hạt ba mươi.

Ai có tai để nghe, thì hãy nghe”.

 

SUY NIỆM 1: Có tai thì nghe

Suy niệm:

Dụ ngôn người gieo giống đầy tính lạc quan, hy vọng.

Ðức Giêsu gieo hạt giống Lời Chúa khắp nơi.

Có hạt bị chim trời ăn mất, khi chưa kịp nảy mầm.

Có hạt bị khô cháy khi chưa bám rễ.

Có hạt đã thành cây, nhưng bị gai làm chết ngạt.

Thực tế đau buồn ấy làm nản lòng nhiều người.

Ðức Giêsu đã gặp biết bao chống đối và thất bại.

Ngài có thật là Ðấng được Thiên Chúa sai đến

để thiết lập Nước Trời trên trần gian không?

May thay có những hạt rơi vào đất tốt,

và đem lại kết quả gấp bội.

Nhìn vào khuôn mặt của Giáo Hội hôm nay,

nhiều người thất vọng trước những khó khăn, khủng hoảng.

Ðức Giêsu khuyên ta hãy vững lòng.

Lời Chúa vẫn còn gặp được mảnh đất phì nhiêu.

Dụ ngôn người gieo giống đòi chúng ta phải xét mình

Có bao hạt Lời Chúa được gieo vào lòng tôi?

Ðâu là số phận của chúng?

Có hạt rơi vào lòng tôi như rơi trên mặt đường.

Tôi nghe mà không hiểu.

Không hiểu vì không muốn hiểu, vì cố tình né tránh,

bởi lẽ Lời Chúa đòi tôi hoán cải và từ bỏ mình.

Thế là Lời Chúa trượt đi như nước đổ lá khoai.

Có hạt rơi vào lòng tôi như rơi trên đất đá.

Tôi vội vã, hớn hở đón lấy ngay,

nhưng chỉ dừng lại ở bề mặt hời hợt.

Lời Chúa không đâm rễ sâu trong mảnh đất đời tôi.

Khi thử thách gay gắt của cuộc sống ập đến,

tôi té nhào và bỏ cuộc, chẳng dám sống Lời Ngài.

Có hạt rơi vào lòng tôi như rơi trong bụi gai.

Bụi gai là nỗi lo âu chuyện đời, là đam mê của cải.

Bụi gai bóp nghẹt, làm cây Lời Chúa không sinh trái.

Có hạt rơi vào long tôi như rơi vào đất tốt.

Tôi nghe và hiểu.

Tôi hiểu được là nhờ dám sống Lời Chúa trong đời.

Chỉ ai hiểu nhờ sống mới đem lại mùa bội thu.

Dụ ngôn trên đòi tôi xét lại thái độ nghe Lời Chúa,

đòi tôi cải tạo lại mảnh đất lòng mình.

Có biết bao gai góc, đá sỏi trong mảnh đất đời tôi.

Có bao hạt giống bị mất mát vì tôi từ khước.

Nếu tôi dám để cho một câu Lời Chúa tự do lớn lên

thì đời tôi sẽ hoàn toàn thay đổi.

Hôm nay, tôi được mời gọi đi gieo hạt.

Nhưng trước hết, tôi cần được Lời Chúa biến đổi,

cần hiểu sâu nhờ dám sống Lời Chúa tận căn.

Xin Chúa giúp tôi tìm ra những lối gieo mới,

để Lời Chúa sai trái hơn trong thế giới hôm nay.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.

Chúng con thường xây nhà trên cát,

vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy,

nhưng lại không dám đem ra thực hành.

Chính vì thế

Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.

Xin cho chúng con

đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa,

đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.

Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình,

để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng truởng.

Ước gì ngôi nhà đời chúng con

được xây trên nền tảng vững chắc,

đó là Lời Chúa,

Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

 

SUY NIỆM 2: Hãy đón nhận lời yêu thương

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Thiên Chúa yêu thương. Yêu thương nên phải ngỏ lời. Từ tạo thiên lập địa đến tận thế Thiên Chúa không ngừng nói với nhân loại. Bằng những hình thức khác nhau.

Lời quyền năng. Tạo dựng vũ trụ vì yêu thương. Đưa con người từ hư vô trở thành hiện hữu. Ngoài Thiên Chúa không ai làm được. Đó là yêu thương sáng tạo.

Lời giải thoát. Lời Chúa hướng dẫn Mô-sê lập nên kỳ tích chiến thắng quân binh Ai cập, lập nên Dân Chúa. Đó là yêu thương che chở.

Lời chăm sóc. Chúa chăm sóc Dân Chúa từng miếng ăn ngụm uống. Hướng dẫn lấy nước từ tảng đá, thu lượm man-na bởi trời. Đó là yêu thương nuôi dưỡng (năm lẻ).

Lời kết hợp. Yêu thương ngày càng mãnh liệt. Thiên Chúa đặt lời vào miệng Giê-rê-mi-a để cùng vị tiên tri rao giảng. Đó là yêu thương trao ban (năm chẵn).

Lời ân sủng. Đến thời sau hết, Thiên Chúa ban chính Con Một. Là Ngôi Lời nhập thể. Trở nên một với loài người. Chúa Giê-su chính là người đi gieo hạt giống Lời Chúa. Suốt đời lặn lội gieo vãi. Yêu thương của Chúa chờ đợi con người đáp trả.

Tự do của con người thật khủng khiếp. Vì thế Lời Chúa gặp nhiều thất bại. Có những tâm hồn thờ ơ chai lì như con đường bị người ta dẫm đạp lên. Lời ân sủng như nước đổ lá khoai không thấm xuống được. Có những tâm hồn cứng cỏi lạnh lùng như sỏi đá. Lời ân sủng đành héo khô. Có những tâm hồn tràn đầy ham hố dục vọng như những bụi gai xù xì. Ân sủng đành bị bóp nghẹt không trổ sinh hoa trái. Nhưng Thiên Chúa kiên trì quyết đi đến thành công.

Lời yêu thương là lời tự hiến. Chính Chúa Giê-su, người đi gieo Lời Chúa giờ đây trở thành hạt lúa chịu mục nát đi. Mục nát đi để chìm xuống con đường. Mục nát đi để làm mềm đá sỏi. Mục nát đi để tiêu diệt gai góc. Người trở thành hạt giống mục nát đi cho cây đời chúng ta mọc lên lớn mạnh. Người chịu tàn lụi đi để ta trổ sinh hoa trái trăm ngàn. Đó là tình yêu tuyệt đối.

Lời Chúa yêu thương tha thiết muốn ngỏ với ta. Xin cho ta trở thành thửa đất tốt đón nhận. Xin cho ta sẵn sàng đem Lời Chúa đi gieo khắp nơi.

 

SUY NIỆM 3: Hạt Giống Lời Chúa

Một em bé 13 tuổi bị phong cùi và bị xua đuổi ra khỏi làng, có nhà truyền giáo nọ đưa em về nhà nuôi dưỡng, săn sóc. Cảm động trước tấm lòng tốt của nhà truyền giáo, em bé hỏi:

– Tại sao ông quan tâm lo lắng cho tôi như vậy?

Nhà truyền giáo trả lời:

– Bởi vì Thiên Chúa là Cha đã dựng nên chúng ta giống hình ảnh Ngài. Ngài yêu thương chúng ta và muốn chúng ta yêu thương liên đới với nhau. Ngài đã sai Con Một Ngài là Chúa Giêsu Kitô xuống trần gian để dạy mỗi người chúng ta sống xứng đáng với phẩm giá con người, vì thế vâng lời Ngài dạy, cha săn sóc cho con.

Từ đó, em bé này không bao giờ quên được cử chỉ yêu thương của nhà truyền giáo. Chẳng những thế, em còn xin làm môn đệ Chúa Giêsu và dùng thời gian còn lại để săn sóc cho những người phong cùi khác tại trung tâm của nhà truyền giáo.

“Vâng lời Chúa dạy, tôi săn sóc phục vụ anh chị em”. Ðó là điều Thiên Chúa, qua hình ảnh của người gieo giống trong Tin Mừng hôm nay mong đợi nơi những môn đệ Chúa Kitô, những kẻ đã lãnh nhận hạt giống ân sủng và Lời Chúa trong cuộc đời của mình. Câu chuyện trên đây là một trong muôn vàn sự kiện cụ thể để chứng minh Lời Chúa qua các thế hệ phải trổ sinh hoa trái tốt đẹp trong lịch sử cuộc đời con người. Thiên Chúa vẫn tiếp tục thực hiện công việc của Ngài, nhưng nhiều khi chính con người từ chối chấp nhận Ngài và làm cho hạt giống ân sủng và Lời Chúa không trổ sinh được.

Người Kitô hữu chúng ta có thể biến những cánh đồng xã hội thành những cánh đồng tốt tươi, hoặc làm cho chúng trở thành những cánh đồng hoang, cỏ lác mọc um tùm. Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta ý thức bổn phận làm cho hạt giống Lời Chúa trổ sinh hoa trái tốt đẹp, có sức biến đổi cuộc đời mình và làm chứng cho tình yêu Chúa nơi những người chúng ta gặp gỡ.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 4: Người Gieo Giống (Mt 13,1-9)

Hôm nay chúng ta bắt đầu đọc và suy niệm chương thứ 13 Phúc Âm theo thánh Mátthêu. Chương 13 này được các nhà chú giải gọi là bài diễn văn thứ ba trong số năm bài diễn văn của Chúa Giêsu được tác giả Phúc Âm thánh Mátthêu ghi lại trong sách Phúc Âm của mình. Và mục đích của bài diễn văn dài này được ghi nơi chương 13 là để trình bày một chương trình sống của người đồ đệ của Chúa, người đồ đệ lắng nghe Lời Chúa.

Có tất cả là bảy dụ ngôn được tác giả xếp lại với nhau và hôm nay chúng ta suy niệm dụ ngôn về người gieo giống. Dụ ngôn này dài và gồm có ba phần. Phần thứ nhất Chúa Giêsu công bố dụ ngôn người gieo giống. Phần thứ hai Chúa Giêsu giải thích thêm tại sao Ngài dùng dụ ngôn mà giảng dạy. Và phần thứ ba Chúa Giêsu giải thích ý nghĩa của dụ ngôn cho các môn đệ.

Chúng ta hãy suy niệm ý nghĩa chung của dụ ngôn. Chúa Giêsu dạy cho các đồ đệ của Ngài ngày xưa và cho chúng ta hôm nay một bài học về tinh thần lạc quan trong đời sống đức tin. Cuối cùng, ơn Chúa sẽ thắng, Lời Chúa sẽ được đón nhận và sinh hoa kết quả tốt đẹp. Những hoa trái đó có thể bù cho những thiệt mất trong thời gian chờ đợi chiến thắng cuối cùng và vĩnh viễn của Lời Chúa và ân sủng cứu rỗi của Ngài.

Bài học về tinh thần lạc quan tin tưởng này được giãi bày trong bốn dụ ngôn về hạt giống, về hạt cải, về men trong bột và về hạt giống tự động mọc lên. Ở những câu đầu công bố dụ ngôn (Mt 13,1-9) chúng ta thấy yếu tố chính mà tác giả Phúc Âm thánh Mátthêu muốn chúng ta lưu ý đến không phải là mảnh đất, không phải là người gieo giống mà là chính hạt giống. Tuy có bị mất mát, bị thiệt thòi vì những hoàn cảnh môi trường khác nhau, nhưng có hạt giống trổ sinh được hoa trái.

Sau này, khi giải thích về dụ ngôn cho các môn đệ, yếu tố chính không còn là hạt giống nữa mà là các loại đất khác nhau đón nhận hạt giống. Các loại đất tốt xấu là những trạng thái tâm hồn con người đón nhận hạt giống Lời Chúa.

Nhưng hôm nay chúng ta hãy dừng lại chiêm ngắm hạt giống trổ sinh hoa trái. Chúng ta hãy tin tưởng vào sức mạnh của Lời Chúa, không ngã lòng thất vọng trước những nghịch cảnh, những môi trường không thuận lợi cho Lời Chúa. Những người Do Thái chống đối khước từ Chúa đã không làm hư chương trình cứu rỗi của Ngài. Ngày hôm nay cũng không thiếu những hoàn cảnh đối nghịch với Lời Chúa nhưng chắc chắn sẽ không diệt bỏ được sức mạnh trổ sinh hoa trái của Lời Chúa. Ðây là điểm tựa cho niềm hy vọng của người đồ đệ.

Lạy Chúa là niềm hy vọng của con,

Chúa là người gieo hạt giống Lời Chúa khắp nơi. Xin thương mở rộng tâm hồn chúng con đón nhận Lời Chúa, làm cho Lời Chúa được trổ sinh nơi đời sống chúng con, trổ sinh tinh thần kiên trì, phục vụ quảng đại và hoán cải canh tân đời sống mình mỗi ngày một tốt đẹp hơn.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 5: Dụ Ngôn Là Gì?

Người nói: “Kìa người gieo giống đi ra gieo giống. Trong khi người ấy gieo, thì có những hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. Có những hạt rơi trên nơi sỏi đá, chỗ đất không có nhiều; nó mọc ngay vì đất không sâu; nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết khô. Có những hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt. Có những hạt rơi nhằm đất tốt, nên sinh hoa kết quả: Hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục.” (Mt. 13, 3b. 4-8)

Trong chương mười ba này, thánh Mát-thêu gom lại tất cả bảy dụ ngôn. Trong bài Phúc Âm này, ta chỉ đọc bốn là dụ ngôn cỏ lùng, kho bạc, ngọc quý, và chiếc lưới. Còn ba dụ ngôn khác, thì hai dụ ngôn Người gieo giống và hạt cải cùng có chung với Mát-cô và Lu-ca, riêng dụ ngôn men trong bột có chung với một mình Lu-ca mà thôi. Bảy dụ ngôn này quen gọi là: “Những dụ ngôn ven Biển Hồ về Nước Trời”, đã được giảng cho dân chúng trong cùng một ngày hay không thì không rõ, còn đám đông dân chúng, theo như Phúc Âm thứ nhất trình bày, thì rõ ràng vẫn là một đám đông ấy đã nghe Chúa giảng.

Qua những dụ ngôn này, Chúa Giêsu chủ tâm làm rõ nét những đặc tính của Nước Trời, đặc biệt là những tính chất mà truyền thống Do-thái hoặc không biết đến đã làm cho méo mó.

Để diễn tả phát triển của Nước Trời, Chúa Giêsu đã dùng hai hình ảnh tương phản nhau: Ở hai giai đoạn đầu, Nước Trời có vẻ khiêm tốn nhỏ bé, tăm tối, nhưng ở giai đoạn chót thì kết quả lại tuyệt vời, xán lạn. Nước Trời có giá trị cao quý, nhưng được giấu kín theo kiểu kho báu bị chôn vùi mà người ta phải khám phá, hoặc theo kiểu viên ngọc mà chỉ những người biết và kiếm tìm mới lượng giá được. Nước Trời đem lại những kết quả khác nhau tùy thái độ tâm tình và lòng mở ra đón nhận của mỗi người. Giai đoạn hiện tại của Nước Trời là thời kỳ pha trộn, chung sống giữa người lành kẻ dữ đợi ngày phân biệt và lựa chọn cuối cùng này.

Dụ ngôn là gì?

Đó là những câu chuyện được tạo dựa theo những phong tục và nếp sống thường ngày với mục đích trình bày một giáo lý nào đó trong lãnh vực siêu nhiên, tức là những mầu nhiệm về Nước Trời. khi so sánh hình ảnh tự nhiên trong câu chuyện của dụ ngôn. Tóm lại dụ ngôn là một sự so sánh cụ thể cốt để trình bày một giáo huấn trừu tượng.

Nước Trời.

Người ta rất hay bỏ qua ý nghĩa chính dụ ngôn để quan tâm đến những ý nghĩa ám chỉ, quên đi Nước Trời để đem áp dụng vào một hoàn cảnh cá nhân, cụ thể. Làm như vậy không phải là điều sai trái, nhưng khi ta chăm chú nghe lời ấy đúng như Chúa đã phán thì lời lẽ của Chúa cũng có sức mạnh, càng “thúc bách” để ta cố gằng hiểu biết đúng như ý Chúa muốn. Tại sao ta lại cho là khó thực hiện điều ấy, khi mà chính Chúa thực ra muốn nói gì, thì Người đều giải thích rõ cho ta vậy.

J.M

 

SUY NIỆM 6: HÃY LÀ THỬA ĐẤT TỐT (Mt 13, 1-9)

Xem lại CN 15 TN A

Hôm nay, Đức Giêsu dùng dụ ngôn “người gieo giống” để giúp cho những người đương thời nhận ra mình đang thuộc thành phần nào trong dụ ngôn, qua đó cần có một thái độ phù hợp với Tin Mừng.

Trước tiên, Đức Giêsu nói: “Có hạt rơi xuống vệ đường, chim trời bay đến ăn mất”. Hình ảnh này cho thấy có nhiều kẻ đón nhận Lời Chúa, nhưng Lời ấy không sinh ích lợi cho họ vì sự hời hợt chóng qua, nên Lời Chúa không thấm nhập gì trong lòng, khiến những thứ tội lỗi sớm chiếm hữu tâm hồn họ.

Rồi: “Có hạt rơi xuống trên đá sỏi, chỗ có ít đất, nó liền mọc lên, vì không có nhiều đất. Khi mặt trời mọc lên, bị nắng gắt, và vì không đâm rễ sâu, nên nó khô héo”. Thật vậy, có người đón nhận theo trào lưu, theo sở thích hay hiệu ứng đám đông, chứ không có chiều sâu. Vì thế, khó khăn xảy đến, họ là những người cao chạy xa bay vì sợ liên lụy, không dám can đảm để chấp nhận mình là người thuộc về Chúa nữa. Tâm hồn họ sẽ héo dần theo năm tháng vì không có Chúa ở cùng.

Và: “Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc um tùm, nên nó chết nghẹt”. Trong đời sống của con người hiện nay cũng vậy, họ có quá nhiều sở thích, đến nỗi cái chính yếu lại trở thành phụ thuộc, cái bên lề lại đưa vào chính diện. Tin Chúa, nhưng đồng thời cũng tin đủ thứ, đời sống đức tin của họ thuộc dạng người thiếu lập trường, nên: “Gió chiều nào thì ngả theo chiều đó”.

Cuối cùng: “Có hạt rơi xuống đất tốt và sinh hoa kết quả… ”. Tuy nhiên, để trở thành thửa đất tốt theo tinh thần Tin Mừng, mảnh vườn tâm linh của con người phải là một mảnh vườn đơn sơ, chân thành để hạt giống một khi được gieo vãi, thì sẽ có cơ hội phát triển và trổ sinh bông hạt dồi dào.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con là hạt giống tốt và thửa ruộng màu mỡ, để Lời Chúa được lớn lên trong tâm hồn chúng con và được phát triển qua hành động tốt chúng con làm hằng ngày. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

SUY NIỆM 6: Dụ ngôn người gieo giống

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)               

  1. Đọc bài Tin Mừng hôm nay chúng ta thấy hình ảnh người gieo giống thật lạ: không những chỉ gieo vào đất tốt, mà còn gieo vào cả những nơi hạt giống khó có thể mọc lên như đá sỏi, bụi gai… Nhưng cuối cùng, chỉ có những hạt gieo nơi đất tốt mới sinh hoa kết trái.

Thiên Chúa của chúng ta cũng vậy, mặc dù con người có tội đến đâu đi nữa, nhưng ơn Chúa vẫn tuôn tràn trên tất cả. Nếu chúng ta để cho ơn Chúa biến đổi, Người sẽ làm cho chúng ta  được sinh lợi gấp trăm. Còn nếu chúng ta cố chấp, lười biếng… khiến hạt giống bị chết nghẹt, đó là trách nhiệm về phía chúng ta. Chúa Giêsu dạy chúng ta phải biết tin tưởng vào sức mạnh của Chúa và tích cực cộng tác với ơn Chúa ban.

  1. Chính vì lớn lên ở thôn quê, chứng kiến cảnh gieo trồng, Chúa Giêsu đã mượn những hình ảnh của những sinh hoạt thôn dã để nói về Nước Trời. Việc gieo giống là một sinh hoạt rất bình thường và gần gũi của cuộc sống để trình bầy giáo lý của Ngài. Tất cả những sự việc bình thường  hằng ngày có thể trở thành đề tài cho chúng ta chiêm ngưỡng và rút ra những bài học bổ ích. Xin Chúa cho chúng ta biết nhìn, biết chiêm ngưỡng và một thiện chí muốn học hỏi từ những việc bình thường trong cuộc sống hằng ngày.

Người gieo giống đã gieo hạt giống khắp nơi, một cách có thể nói là phung phí. Hằng ngày và hàng tuần, Chúa cũng ban Lời Chúa cho chúng ta  một cách quảng đại. Khi chúng ta dự Thánh Lễ, khi chúng ta nghe giảng, khi chúng ta đọc sách đạo đức, khi chúng ta nguyện ngắm, khi chúng ta nghe huấn đức, khi chúng ta học…

  1. Hạt giống là Lời Chúa và là chính Chúa Kitô. Người đi gieo chính là Thiên Chúa hiện thân trong Chúa Giêsu đã gieo trong yêu thương. Yêu thương đến độ chính Người lại trở nên một hạt giống, chịu chôn vùi, chịu mục nát để biến cải những mảnh ruộng gai góc, sỏi đá thành mầu mỡ phì nhiêu, mong một mùa gặt đầy những bông lúa chín vàng trĩu nặng.

Thiên Chúa luôn luôn gieo vãi Lời Người khắp nơi, với mọi hạng người, với mọi hoàn cảnh. Người gieo vừa hào phóng vừa kiên trì, vừa hy vọng vừa yêu thương. Thiên Chúa muốn tỏ bày cho chúng ta thấy lòng quảng đại và hy vọng của Người đối với chúng ta. Người không tính toán hơn thiệt khi ban phát. Ngài không ngần ngại gieo hạt giống “Lời Chúa” và “Ân sủng” vào tâm hồn mỗi người. Người gieo không loại trừ. Những mảnh đất phì nhiêu mầu mỡ nhận được hạt giống đã đành. Cả đến những mảnh đất sỏi đá, gai góc cũng được hưởng ơn mưa móc. Cả đến lối mòn có bước chân người cũng không bị lãng quên. Người gieo không bỏ rơi một mảnh đất nào, một ngõ ngách nào. Người gieo muốn cho hạt giống được gieo vãi khắp chốn (Hiền Lâm).

  1. Quả thật, Thiên Chúa vô cùng quảng đại, mặc dầu Ngài biết chúng ta sẽ lãng phí thật nhiều ân huệ của Ngài, nhưng Ngài vẫn cứ vung tay ban phát thật rộng rãi. Chúng ta thử tưởng tượng: nếu Chúa so đo tính toán để không uổng phí chút nào những ân huệ của Ngài thì tình cảnh chúng ta sẽ ra sao? Nhưng không bao giờ Thiên Chúa hành động như thế. Sự quảng đại của Thiên Chúa trong việc ban phát các ơn lành cho chúng ta, làm cho chúng ta an tâm và tin tưởng vào tình yêu của Ngài. Ngài chẳng bao giờ rút lại tình yêu ấy, chỉ có chúng ta có thể từ chối hoặc bóp nghẹt, không cho tình yêu của Ngài triển nở trong chúng ta mà thôi.
  2. Chắc chắn thính giả của Chúa Giêsu hôm ấy không điếc, họ đều có tai và nghe được lời Ngài giảng dạy. Thế mà cuối dụ ngôn, Chúa lại thêm một câu “khó nghe”: “Ai có tai thì nghe”. Quả thật, có những tâm hồn bịt tai lại trước Lời Chúa, như trường hợp những mảnh đất mà hạt giống bị chối từ hoặc chết yểu vì không đâm rễ sâu. Không phải Ngài sợ người ta không nghe được câu chuyện, nhưng Ngài muốn nhắc nhở người nghe hãy biến Lời Ngài thành hiện thực. Nghĩa là: nghe thôi thì không đủ, mà còn phải làm theo Lời đó nữa. Lời Chúa chỉ đem lại ơn cứu độ cho những ai biết hoán cải cuộc sống của mình bằng việc thực thi Lời đó.

Muốn cho hạt giống phát triển tốt thì phải bỏ thời gian chăm nom tưới bón đàng hoàng. Muốn cho Lời Chúa sinh hoa kết quả, chúng ta cũng không làm gì khác. Cần phải biết dùng thời giờ để lắng nghe, suy gẫm xem Chúa muốn ta làm gì mới có thể làm đúng ý Ngài và chắc chắn sẽ cho hoa quả tốt: “Hạt được một trăm, hạt được sáu mươi, hạt được ba mươi” hay không là tùy thuộc mức độ thấm nhuần Lời Chúa trong tâm hồn người tín hữu (5 phút Lời Chúa).

  1. Truyện: Không có lối học đế vương.

Cách đây 23 thế kỷ, nhà toán học Euclide, thành Athènes ở Hy Lạp, đến thành Alexandria để mở trường dạy học. Vua Ptolémée nước Ai cập lúc đó dẫn hoàng tử Seronus đến xin học. Nhà vua xin dạy môn toán sao cho thật dễ bởi vì Seronus là hoảng tử.

Euclide trả lời:

– Tâu đức vua, không có lối học đế vương. Mọi môn đồ giàu cũng như nghèo đều phải hết sức tập trung ý chí và cố gắng làm việc hăng say thì mới có kết quả. Cách ngôn nói: “Không bao giờ thời tiết làm nên một thủy thủ” hoặc “Đại dương dễ dàng rơi ra những viên sỏi nhưng giấu kín những hạt ngọc”.

Lời Chúa cũng chỉ có kết quả nơi những tâm hồn biết đón nhận và đem ra thực hành như thế.

 

Suy Niệm 7: ,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Qua dụ ngôn người gieo giống, Chúa Giêsu cho thấy rằng: đời sống của con người phong phú hay cằn cỗi là tùy ở thái độ đón nhận Lời Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, khi hạt lúa chưa gieo xuống thì mảnh đất còn là mảnh đất hoang, nhưng khi gieo lúa xuống thì mảnh đất biến thành ruộng lúa. Chính hạt lúa đã biến mảnh đất thành ruộng và làm cho nó có một giá trị.

Chúa là hạt giống mà Chúa Cha gieo vào lòng con, con đã đón nhận Chúa và nhờ đó con đã trở nên con Thiên Chúa. Sự hiện diện sống động của Chúa trong con đã hoàn toàn biến đổi con người con, làm cho con có một giá trị mới, một ơn gọi mới, một cuộc sống mới. Một khi đã đón nhận Chúa, tâm hồn con không thể trở về tình trạng đất hoang nữa, mà chỉ còn có thể là mảnh ruộng tốt hay xấu mà thôi. Con trở nên tốt hay xấu không phải tại Chúa, nhưng là do con, tùy con đón nhận Chúa như thế nào, tùy con có sống phù hợp với giáo huấn của Chúa hay không.

Lạy Chúa, con xác tín rằng nhờ ơn Chúa, con đã có một cuộc sống mới, một cuộc sống có giá trị và phong phú. Xin cho con biết cố gắng tận lực phát huy ơn Chúa nơi con, vì đó mới chính là mục đích của đời sống con.

Sống ở trên đời này, con người đã đặt ra cho mình nhiều mục đích: đạt đến đỉnh cao danh vọng, bằng mọi cách tích lũy của cải để được giàu sang, làm sao để lưu danh thơm tiếng tốt lại cho đời… Phần con, Chúa đã cho con sống theo một hướng khác hẳn: đó là làm cho sức sống của Chúa không ngừng lớn lên trong con. Và con có bổn phận phải dọn sạch những gai góc sỏi đá và tội lỗi có nguy cơ bóp chết ơn Chúa. Xin Chúa giúp con. Amen.

Ghi nhớ: “Nó sinh hoa kết quả gấp trăm”.

 

Suy Niệm 8: ,,,

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

 

 

Suy Niệm 9: ,,,,,,,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

Những

 

Suy Niệm 10: ,,,,,,,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Chúa Giêsu đã dùng việc gieo giống, tức là một sinh hoạt rất bình thường và gần gũi của cuộc sống để trình bày Giáo Lý của Ngài. Ngài có một cách nhìn và những ý nghĩ rất sâu sắc về những sự việc bình thường này.

Tất cả những sự việc bình thường hằng ngày đều có thể trở thành đề tài cho chúng ta chiêm ngưỡng và rút ra những bài học bổ ích. Xin Chúa cho chúng ta biết nhìn, biết chiêm ngưỡng và một thiện chí muốn học hỏi từ những việc bình thường trong cuộc sống hằng ngày.

Người gieo giống đã gieo hạt giống khắp nơi, một cách có thể nói là phung phí. Hằng ngày và hằng tuần, Chúa cũng ban Lời Chúa cho chúng ta một cách rất quảng đại: Khi chúng ta dự Thánh lễ, khi chúng ta nghe giảng, khi chúng ta đọc sách đạo đức, khi chúng ta nguyện gẫm, khi chúng ta nghe huấn đức, khi chúng ta học.

Cám ơn Chúa về lòng quảng đại của Người.

  1. “Có những hạt rơi nhằm đất tốt nên sinh hoa kết quả, hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục” (Mt 13,8).

Tại sao lại có sự khác biệt về kết quả như thế?

Có một yếu tố quan trọng mà ít người hiểu. Đó là ngoài yếu tố của con người còn có sự can thiệp của Thiên Chúa: “Phaolô trồng, Apôllô tưới và Chúa cho mọc lên” (1Cr 3,6). Người Việt Nam của chúng ta cũng có một ý tương tự: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Ngày mai và ngày mốt chúng ta sẽ được Chúa giải thích rõ ràng hơn. Theo tinh thần của bài Tin Mừng thì yếu tố con người cũng rất quan trọng.

Người nông dân thường nói: nhất thủy, nhì phân, tam cần, tứ giống. Phải có nước, có phân, phải cày xới thật nhiều thì hạt giống mới mọc được.

Cách đây hơn 23 thế kỷ, nhà toán học Euclide, thành Athène ở Hylạp, đến thành Alexandria để mở trường dạy học. Vua Ptolémée nước Ai Cập lúc đó dẫn hoàng tử Seronus đến xin học và nhà vua xin ông dạy môn toán sao cho thật dễ bởi vì Seronus là hoàng tử.

Euclide trả lời:

– Tâu đức vua, không có lối học đế vương. Mọi môn đồ giàu cũng như nghèo đều phải hết sức tập trung ý chí và cố gắng làm việc hăng say thì mới có kết quả. Cách ngôn nói: “Không bao giờ thời tiết làm nên một thủy thủ”. “Đại dương dễ dàng rơi ra những viên sỏi nhưng dấu kín những hạt ngọc”.

Nếu kiến thức cũng chỉ có được hiệu quả nơi những người có tim óc thuận lợi, thì Lời Chúa cũng thế. Lời Chúa cũng chỉ có kết quả nơi những tâm hồn biết đón nhận và sẵn sàng.

Trong kho tàng những câu chuyện dạy đời, người ta đọc được câu chuyện vui này: Có một người đi biển tình cờ gặp phải nạn sóng to gió lớn khi thuyền của ông đang vượt biển khơi như các môn đệ trong Tin Mừng. Và trong trận cuồng phong bão tố thập tử nhất sinh ấy, ông cũng thấy Đức Giêsu đang đi trên mặt biển tiến về phía ông. Nhớ lại đoạn Tin Mừng, ông kêu to: “Lạy Chúa, nếu thật là Ngài, xin hãy cho tôi cũng đi trên mặt nước mà đến với Ngài”. Đức Giêsu bảo: “Hãy lại đây”.

Nghe thế, ông vội mặc chiếc áo an toàn và phao cứu hộ, xong xuôi ông nhảy xuống nước tiến về phía Đức Giêsu bất chấp sóng to gió cả. Đức Giêsu mỉm cười đưa tay đón lấy ông và hỏi:

– Tại sao con nghi ngờ Lời Ta nói, hỡi kẻ kém lòng tin.

Nghĩ mình bị Chúa trách oan, ông vội vã cãi lại.

– Đâu có, con có nghi ngờ Lời Chúa nói bao giờ đâu.

Chúa lắc đầu hỏi:

– Thế tại sao con lại mặc chiếc áo an toàn và phao cứu hộ trước khi con tiến về phía Ta?

Nhìn hai vật vô ích trên mình, ông gãi đầu thưa:

– Cái này…, những cái này con mang theo chỉ để phòng hờ!

Đây có lẽ cũng là thái độ của rất nhiền người trong chúng ta.

Ngược lại, tại một thôn của người dân tộc. Có một gia đình kia rất nghèo nhưng lại đạo đức. Hai vợ chồng chăm chỉ làm ăn nên mùa màng gặt về năm nào cũng dư ăn. Ngặt một nỗi là bà con chung quanh thường hay thiếu hụt. Họ chạy đến chị K’Bông vay mượn, hẹn đến mùa sau sẽ trả. Có nhiều người mượn đã mấy mùa rồi mà vẫn chưa có để trả. Gia đình tỏ vẻ không bằng lòng. Một hôm bà mẹ của chị gọi chị lại nói:

– Sao mà mày ngu vậy? Bạ ai cũng cho mượn hết, người ta không trả cho mày thì lấy gì mà ăn?

Chị mỉm cười trả lời:

– Mẹ này, không sao đâu! Mình nghe Lời Chúa dạy: cho mượn là việc mình phải làm, còn trả lại là việc của người ta!

Như vậy, hạt giống Lời Chúa có sinh hoa kết quả hay không là tuỳ ở mỗi người. Người dám can đảm đem Lời Chúa vào cuộc sống thì kết quả sẽ thật dồi dào, còn những ai chỉ nghe không thôi thì Lời Chúa chẳng khác gì bị rơi vào chỗ đầy gai góc, sỏi đá. Tâm hồn mỗi người chúng ta như thế nào thì mỗi người chúng ta phải  tự trả lời trước mặt Chúa.

Lạy Chúa, con tin Chúa, con tin Chúa hết lòng. Amen.

 

 

 

THỨ NĂM TUẦN 16 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Mt 13, 10-17

Khi ấy, các môn đệ đến gần thưa Chúa Giêsu rằng: “Tại sao Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ?” Người đáp lại: “Về phần các con, đã cho biết những mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không cho biết. Vì ai đã có, thì ban thêm cho họ được dư dật; còn kẻ không có, thì cái họ có cũng bị lấy đi.

Bởi thế, Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ: vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe và không hiểu chi hết. Thế mới ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói về họ rằng: “Các ngươi lắng tai nghe mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì. Vì lòng dân này đã ra chai đá, họ đã bịt tai, và nhắm mắt lại, kẻo mắt thấy được, tai nghe được, và lòng chúng hiểu được mà hối cải, và Ta lại chữa chúng cho lành”.

“Phần các con, phúc cho mắt các con vì được thấy; và phúc cho tai các con vì được nghe. Quả thật, Thầy bảo các con: Nhiều vị tiên tri và nhiều đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy, mà không được thấy; mong ước nghe điều các con nghe, mà không được nghe”.

 

Suy Niệm 1: Anh em thật có phúc

Suy niệm:

Tiền định là một trong những vấn đề gây tranh cãi trong thần học.

Có người nhấn mạnh quá đến tác động của ơn Chúa cần để được cứu độ,

đến nỗi coi nhẹ tự do và trách nhiệm của con người.

Có người còn dám cho rằng Chúa đã định sẵn từ vĩnh cửu

những ai phải vào hỏa ngục hay được lên thiên đàng.

Thật ra Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ (1 Tm 2, 4; 4, 10).

Kế hoạch của Ngài là cứu độ toàn thế giới, chẳng trừ một ai.

Muốn được cứu thoát, con người phải dùng tự do mình mà đón lấy ơn Chúa.

Ơn Chúa có tác động trên tự do con người,

nhưng lại không áp đặt hay cưỡng ép nó, vì nếu thế sẽ chẳng còn tự do.

Chính Thiên Chúa ban tự do cho con người, và chính Ngài tôn trọng tự do ấy.

Thiên Chúa không thể tiền định lời đáp của con người trước lời mời của ân sủng.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, có những câu cần được soi sáng.

“Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời,

còn họ thì không” (c. 11).

Câu này có thể bị hiểu lầm là Thiên Chúa có sự phân biệt đối xử.

Các môn đệ thì được ơn hiểu biết, còn đám đông thì không.

Thật ra Đức Giêsu chỉ muốn nói lên sự kiện này,

các môn đệ là những người đã đáp lại tiếng gọi của Ngài,

nên họ được ơn hiểu biết, ơn nắm bắt được mầu nhiệm Nước Trời.

Còn đám đông những người từ chối thì khó lòng hiểu được.

Một câu khác cũng cần được hiểu đúng: “Người đã có lại được cho thêm,

còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi” (c. 12).

Ở đây Đức Giêsu chỉ muốn nói rằng những ai đã mở lòng đón nhận

thì càng được Thiên Chúa ban cho sự hiểu biết đức tin sâu xa hơn.

Còn những người đã khép lòng trí lại, thì về mặt thiêng liêng sẽ bị nghèo đi.

Vào buổi ban đầu, các môn đệ tin theo Đức Giêsu chỉ là nhóm nhỏ.

Còn một đám đông lớn người Do thái không tin nhận Ngài.

Đức Giêsu giảng cho họ bằng những dụ ngôn đơn sơ gần gũi.

Ngôn ngữ của dụ ngôn vừa dễ hiểu đối với người mở lòng đón nhận,

vừa khó hiểu đối với những ai từ chối và khép kín (c. 13).

Đức Giêsu không chơi khăm con người khi giảng bằng dụ ngôn,

để khiến họ trố mắt nhìn mà không thấy, lắng tai nghe mà không hiểu.

Nếu họ không hiểu được dụ ngôn, thì không phải lỗi tại Ngài,

mà do quả tim họ đã ra chai đá, do họ nhắm mắt, bịt tai .

Họ không hiểu vì không muốn hoán cải và được chữa lành (c. 15).

Như các môn đệ xưa, các Kitô hữu ngày nay cũng là người có phúc.

Chúng ta được thấy, được nghe nhiều điều mà người khác không được.

Ước gì chúng ta tìm được thứ ngôn ngữ thích hợp

để ai cũng có thể nghe được và hiểu được sứ điệp cứu độ của Chúa.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,

nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,

dễ thấy Chúa hiện diện

và hoạt động trong đời con.

Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,

xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,

khép kín và nghi ngờ.

Xin dạy con sự hiền hậu

để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.

Xin dạy con sự khiêm nhu

để con dám buông đời con cho Chúa.

Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,

vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,

hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

Suy Niệm 2: Rất gần và rất xa

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Nước Trời thật lạ lùng. Rất gần mà cũng rất xa. Cũng như dụ ngôn. Rất dễ hiểu và cũng rất khó hiểu. Đó không phải là vấn đề của trí khôn nhưng là vấn đề của trái tim. Trái tim nhậy bén sẽ có ánh mắt nhậy bén và đôi tai nhậy bén để nhìn và thấy, nghe và hiểu. Nhìn bên ngoài thấy cả bên trong. Nghe âm thanh hiểu cả ý nghĩa. Trái tim chai đá không có mắt và không có tai. Nên không thấy và không nghe. Có thấy có nghe cũng không hiểu.

Ai được thấy và được nghe nhiều như dân Do Thái. Khi đoàn dân đến núi Si-nai, Chúa đã ban phép cho họ được thấy Chúa hiển hiện trong khung cảnh linh thiêng và uy nghiêm: “Cả núi Si-nai nghi ngút khói, vì Đức Chúa ngự trong đám lửa mà xuống” (năm lẻ). Thế nhưng lòng họ chai đá nên đã mau chóng phản bội, và Chúa đã phải lên án họ: “Ta đã đưa các ngươi vào miền đất xanh tươi… Nhưng khi vào rồi, các ngươi đã làm nhơ nhớp đất của Ta”. Họ đã nhậy bén với của cải dục vọng, nên đã chai đá với Lời Chúa và đời sống tâm linh. Họ đã “bỏ Chúa là mạch nước trường sinh để làm những hồ nứt rạn, không giữ được nước”. Đuổi hình bắt bóng nên họ mất tất cả (năm chẵn).

Đúng như lời Chúa dạy: “Ai có sẽ cho thêm. Ai không có ngay cái họ có cũng sẽ bị lấy đi”. Những ai có trái tim nhậy bén càng nghe càng hiểu, càng thấy càng tin. Và càng say mê đi tìm Chúa. Lại càng được Chúa cho thấy nhiều hơn, phán dậy nhiều hơn. Vì thế họ càng thêm phong phú. Những ai chạy theo của cải danh vọng chức quyền thế gian sẽ có trái tim chai đá. Uể oải với đời sống tâm linh. Ngại ngùng đối diện với Chúa. Càng lười càng chán. Càng ngại càng xa. Và ma quỉ không dại gì mà không lấy hết những gì họ đang có. Như chim chóc tha hạt giống rơi bên vệ đường.

Lời Chúa là vô cùng quí giá. Từ ngàn xưa biết bao tổ phụ và tiên tri đã ao ước mà không được nghe. Giờ đây ta thật hạnh phúc vì được tiếp xúc với Lời Chúa. Tuy nhiên rất gần mà cũng rất xa. Rất dễ mà cũng rất khó. Đó là tùy trái tim ta hướng về đâu. Nếu ta hướng về thế gian trái tim sẽ chai đá. Ta sẽ chẳng thể nghe và hiểu Lời Chúa. Xin cho con một trái tim nhậy bén luôn khao khát Lời Chúa. Để Lời Chúa ở trong lòng, trong tim, trong cuộc đời con. Để con càng nghe càng hiểu. Càng nhìn càng thấy. Và càng tha thiết khao khát Chúa.

 

Suy Niệm 3: Tại Sao Dùng Dụ Ngôn

Kitô giáo là đạo từ trời xuống, vì những giáo lý và niềm tin Kitô do chính Thiên Chúa truyền xuống. Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa chính là mạc khải về Thiên Chúa cho con người.

Trong lời rao giảng của Ngài, Chúa Giêsu thường dùng dụ ngôn để nói về Nước Trời, một thực tại không thể diễn tả được bằng ngôn ngữ loài người, và nếu có diễn tả được, thì con người cũng không thể hiểu nổi vì nó vượt khỏi thế giới khả giác này, hay nói như thánh Phaolô, đó là thực tại mà mắt con người chưa từng thấy, tai chưa từng nghe, lòng người chưa từng cảm nghiệm được. Thực tại ấy không thể thu hẹp trong một vài câu định nghĩa, mà phải diễn tả bằng dụ ngôn, vì cách diễn tả này không giới hạn, nhưng tạo thuận lợi cho việc tìm hiểu sâu xa hơn.

Dụ ngôn là một thứ ngôn ngữ nói với những người trong cuộc, những người sống trong tình thân với nhau. Ðể hiểu được dụ ngôn, cần phải có hai đức tính quan trọng, đó là tâm hồn rộng mở và ước muốn tìm hiểu. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Về phần các con đã được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không”. Nói khác đi, các môn đệ đã được chấp nhận vào cộng đoàn của những kẻ tin vào Chúa Giêsu, vì thế, các ông có thể hiểu rõ những mầu nhiệm. Còn những kẻ ở bên ngoài, nhất là những kẻ ở bên ngoài vì kiêu hãnh, vì khép kín, vì định kiến, như các Luật sĩ và Biệt phái, thì khi nhìn vào các mầu nhiệm họ chỉ thấy bí ẩn và khó hiểu. Chính cách trả lời của Chúa là tiêu chuẩn để biết được ai là người thuộc về Chúa và ai là người ngoài cuộc: “Nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe. Còn các con, mắt các con thật có phúc vì được thấy, tai các con có phúc vì được nghe”.

Ước gì chúng ta được vào số những người mà Chúa Giêsu cho là có phúc, tức là những người thấy, nghe và hiểu được Lời Chúa cũng như nhận ra ý Chúa trong mọi biến cố cuộc sống.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Cứng Đầu

Người đáp: “Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không. Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng bị lấy mất. Bởi thế, nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìm mà không nhìn, nghe mà không nghe không hiểu.” (Mt. 13, 11-13)

Nếu những người Pha-ri-sêu không hiểu biết gì (về mầu nhiệm Nước Trời) thì không phải lỗi tại Thiên Chúa, hay tại Đức Kitô. Chính họ không muốn hiểu, không muốn thấy. Chính họ không không ưa Đức Kitô, cũng chẳng thích giáo huấn của Người. Sự “họ không muốn” ấy là điều rất quan trọng, bởi đó là vấn đề con người hoàn toàn tự do đối với Thiên Chúa, vấn đề mà chúng ta đều có kinh nghiệm.

Luôn luôn vịn cớ.

Đây là một sự kiện: Khi ta nhất định có thái độ cố chấp người khác có thể nói hoài, cũng chẳng làm thay đổi được quyết định của ta. Dù trong trường hợp bình thường hoặc trong những lúc quan trọng của đời sống, ta cởi mở khá được bao lâu để thực sự lắng nghe người khác. Nhất là khi người khác ấy là người yêu thương ta. Nhưng ta sẽ chẳng nhìn thấy gì, chẳng nghe được gì, bởi lẽ ta dã để cho dục vọng làm mù quáng, tiếng mời gọi xôn xao của cám dỗ lấn át, bất kể cám dỗ nào, vì cám dỗ thì vô vàn vô số…

Ta hãy thành thực với chính mình! Biết bao lần ta đã có thể trở thành kẻ mù lòa, điếc lác, bởi vì dục vọng và cám dỗ đã điều đình với ta, đã thỏa mãn cái tôi của ta. Sau đó, ta sẽ chẳng bao giờ tố cáo mình, vì đã không cố gắng lắng nghe (người ta). Ta đổ cho người khác đã gây lên thất bại cho ta. Hoặc giả nếu ai ngăn cản ta làm những chuyện điên rồ, thì ta nổi khùng la ó là bất công.

Còn Chúa thì …

Vì những người Pha-ri-sêu không khá hơn ta, họ đã làm y hệt như ta, họ đã không muốn nghe lời Đức Kitô, vì lời Người không làm cho hứng thú. Không phải Thiên Chúa không chịu cho họ yêu mến, hiểu biết Lời Người, mà chính họ từ chối đó thôi.

Phần chúng ta cũng vậy. Kìa Chúa đã dùng miệng ngôn sứ I-sai-a mà phán:

“Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu,

Trố mắt nhìn cũng chẳng thấy.

Vì lòng dân này đã ra đần độn…”

Thiên Chúa không có dính líu gì trong chuyện này, mà bởi chúng ta không muốn mà thôi.

Chúng ta đã tố cáo Chúa đã ban bố mười điều răn để đè nén tự do của ta. Nhưng vì lạm dụng tự do mà ta phải chuốc lấy tai họa, thì ta cũng lại tố cáo Người đã đổ những tai họa lên đầu ta, mà không nghĩ rằng chính ta đã tự gây nên cho mình, chứ đâu phải Chúa.

 

Suy Niệm 5: XIN ĐƯỢC BIẾN ĐỔI (Mt 13, 10-17)

Xem lại CN 15 TN B

Đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe xem ra có vẻ khó hiểu. Vì khó hiểu,  nên các môn đệ đã hỏi Đức Giêsu: “Tại sao Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ?”.  Sự khó chịu và thắc mắc này đã được chính Đức Giêsu trả lời cho các ông biết nguyên do:

Nghe mà không chú ý, suy gẫm; nghe mà không cảm thấy Chúa nói với mình để mà sám hối, sửa sai, thì cũng như người có tai mà không nghe.

Thật vậy, có nhiều người miệng thì đọc “lỗi tại tôi mọi đàng”, nhưng tay thì lại “đấm ngực người khác”. Những người như thế thì chẳng khác gì: “Vịt nghe sấm”; hay “nước đổ lá khoai”, nên có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, trố mắt nhìn cũng chẳng thấy. Họ là những người không hề có thiện chí để cho Lời Chúa soi chiếu và hướng dẫn mình. Lời Chúa đến rồi lại đi như “khách bộ qua đường”,  không để lại nơi tâm hồn họ điều gì cả, nên họ đâu có thấy điều gì sai lỗi mà phải sửa! Vì thế, chúng ta không lạ gì vẫn còn đó những người: “Bên ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”.

Thái độ đón nhận Lời Chúa như thế, hẳn không bao giờ và không thể nhận ra Lời Chúa như là vị mật ngọt ngào hay như dòng suối mát cho tâm hồn. Ngược lại, họ coi Lời Chúa như một cái gì đó khó ưa, khó dùng, khiến tâm hồn không thể đón nhận, chỉ “vì lòng dân này đã ra chai đá”, nên không còn có chỗ cho Thiên Chúa ngự trị.

Khi nói như thế, Đức Giêsu muốn mặc khải rằng: Nước Trời chỉ dành cho những người đơn sơ, chân thành và yêu mến. Vì họ là những người bé mọn, đơn thành nên đã có thì lại được đầy dư. Còn kẻ không có nghĩa là không tin như Kinh sư và Pharisêu, thì những cái đang có tức lòng tin truyền thống của họ cũng sẽ bị lấy đi, và mọi việc họ làm đều trở nên vô ích.

Với nhiều người ngày nay, có lẽ đức tin không đến nỗi quá cứng lòng như những Kinh sư và Pharisêu! Nhưng con người đang rơi vào tình trạng thờ ơ, dửng dưng, vô cảm với chính Lời Chúa và những nghĩa vụ liên quan đến đức ái qua anh chị em đồng loại. Đây có lẽ là điều nguy hiểm không nhỏ đến ơn cứu độ, bởi vì có thể nói: đây là căn bệnh “ung thư” thời đại mới nơi tâm hồn rất nhiều người.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho tâm hồn chúng con được trở nên đơn sơ, bé nhỏ để đáng được hiểu Lời Chúa mặc khải cho chúng con. Xin cho chúng con biết yêu mến Lời Chúa và mau mắn thi hành để đáng được hưởng ơn cứu độ. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Đón nhận Chúa, Chúa ban ơn thêm

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Nếu ta có thiện chí đón nhận Chúa, Chúa sẽ ban ơn thêm. Nếu ta không muốn đón nhận, ta sẽ ngày càng cứng lòng tối dạ hơn.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, các tông đồ và dân chúng thật có phúc vì được nghe chính Chúa giảng dạy. Và ai đã đón nhận thi hành giáo huấn của Chúa lại là người có phúc hơn. Hằng ngày con được nghe Lời Chúa qua Phúc Âm, thật sự đây cũng là ơn phúc lớn lao cho con. Nhưng nhiều khi con chỉ nghe cho qua, không một mảy may suy nghĩ, không muốn tìm hiểu thêm, không muốn tin Lời Chúa dạy. Hơn nữa, con chưa nhận ra được bổn phận phải thực hành điều Chúa dạy. Ơn Chúa luôn gần kề mà con không biết đón nhận. Xin Chúa thứ tha và giúp con biết chuyên chăm lắng nghe, học hiểu và sống Lời Chúa mỗi ngày.

Lạy Chúa, đã nhiều lần con tự hào là người công giáo, có đức tin, biết giáo lý Chúa dạy. Thực ra con đã hiểu Chúa được rất ít, đức tin và lòng yêu mến của con có là gì! Rất nhiều lúc con đã khép lòng lại không để Chúa đi vào đời con, con đã bịt tai nhắm mắt không muốn nhìn nhận Chúa và anh chị em. Bởi vậy con lắng tai nghe mà không hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy. Thật vậy, đã bao lần con đã nhắm mắt làm ngơ trước những đòi hỏi của Tin Mừng. Đã bao lần con bịt tai giả điếc khi phải nghe những điều luật của Chúa. Đã bao lần con khép chặt lòng mình lại để khỏi thực hiện những việc làm yêu thương.

Lạy Chúa, xin đừng để con vì cứng lòng mà càng ngày càng lìa xa Chúa. Xin giúp con biết dùng ơn Chúa cách hữu hiệu để ngày càng tiến xa hơn trong đời sống Kitô hữu. Amen.

Ghi nhớ: “Về phần các con, đã cho biết những mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không cho biết”.

 

Suy Niệm 7: Sẵn sàng đón nhận giáo huấn Chúa dạy

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Trong dân gian (folklore) của mọi dân tộc đều có thơ hoặc truyện ngụ ngôn. Ngụ ngôn là một trong những thể loại tự sự cổ xưa nhất. Ngụ ngôn nêu thẳng ra một kết luận đạo lý, kết luận này khiến cho câu chuyện có ý nghĩa giáo huấn và phúng dụ. Phần kể truyện của những câu chuyện khá giống truyện cổ tích (nhất là những truyện cổ tích về các loài vật), với giai thoại; phần đạo lý của nó gần với tục ngữ, cách ngôn.

Một loạt tác phẩm ngụ ngôn khác, gọi là parabole (Pháp) hay pricha (Nga) mà ta gọi là dụ ngôn, các dụ ngôn chỉ nảy sinh ở một số văn cảnh, có thể không có những vận động cốt truyện, có thể rút thành một so sánh đơn giản và về nội dung nó hướng tới chất “hiền minh” sâu sắc của trật tự tôn giáo hoặc đạo đức.

Suy niệm

Chúa Giêsu thường lấy dụ ngôn mà giảng dạy về đạo lý nước Trời, Tin Mừng Matthêu nhấn mạnh: “Người lấy dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều” (Mt 13,3), Matthêu thường dùng động từ nói (lalein) khi Chúa Giêsu thốt ra các dụ ngôn, vì đây không còn là rao giảng (kêrussein) loan báo công bố nước Trời, nhưng là giáo huấn về nước Trời.

Thông thường sau mỗi dụ ngôn, Đức Giêsu nói lớn tiếng: “Nếu ai có tai để nghe, thì hãy nghe” (Mt 11,15; 13,9; 13,43), nghĩa là ai hiểu được thì hiểu, hiểu tùy tình trạng hay trình độ tâm linh mỗi người; hoặc ai biết cách nghe thì sẽ hiểu, ai thật lòng tìm hiểu thì sẽ hiểu (x. Mt 7,7-8). Cho nên, điều tối cần là nội tâm: Có sẵn lòng tiếp nhận, lắng nghe thông điệp ẩn giấu trong dụ ngôn. Ai không có sự sẵn sàng, thì chỉ nghe được câu chuyện thôi. Trong số dân chúng nghe giáo huấn của Chúa Kitô, có kẻ không sẵn sàng đón nhận, nên Chúa Giêsu dùng lời ngôn sứ Isaia khẳng định: “Các ngươi lắng tai nghe mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì. Vì lòng dân này đã ra chai đá, họ đã bịt tai, và nhắm mắt lại, kẻo mắt thấy được, tai nghe được, và lòng chúng hiểu được mà hối cải, và Ta lại chữa chúng cho lành”…

Riêng các môn đệ bên cạnh Đấng Cứu Thế: “Bởi vì anh em được ơn hiểu biết các mầu nhiệm nước Trời, còn họ thì không. Ai đã có thì được cho thêm và sẽ có dư thừa”… (Mt 13,11-12), nhờ gắn bó và biết Ngài cùng với lòng khiêm tốn, đơn sơ và chân thành nên được Thiên Chúa chúc phúc mạc khải nước Trời như lời cầu nguyện:”… con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn” (Lc 10,21). Chính vì thế, Chúa Giêsu khẳng định các môn đệ có phúc hơn các ngôn sứ (x. Mt 13,17).

Xin ban cho con quả tim đơn sẵn sàng đón nhận những giáo huấn Cha dạy và những gì ban tặng cho con…

Ý lực sống:

“Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết” (Ga 15,15b).

 

Suy Niệm 8: Lý do giảng bằng dụ ngôn (Mt 13,10-17)

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Sấm ngôn của tiên tri Isaia làm chúng ta khó hiểu. Tại sao lắng nghe mà không hiểu? Trố mắt nhìn mà chẳng thấy? Phải chăng Thiên Chúa không muốn cho chúng ta hiểu? Nếu tách lời sấm riêng ra thì chúng ta có thể đặt vấn đề như vậy. Nhưng lời sấm này đặt trong mạch văn và trong toàn bộ Thánh kinh thì không thể cắt nghĩa như vậy.

Thiên Chúa luôn yêu thương và muốn cứu thoát con người. Chúa Giêsu được sai xuống trần gian chỉ vì mục đích đó. Thế nên, nếu con người không được ơn cứu độ, không phải vì tại Thiên Chúa, nhưng vì tại con người bưng tai chẳng thèm nghe, bịt mắt không thèm nhìn mà thôi.

Lưu ý quan trọng:

Đoạn Tin mừng gây không ít thắc mắc cho người đọc, vì nó khiến chúng ta nghĩ rằng Chúa Giêsu cố ý dùng dụ ngôn khó hiểu để người ta không hiểu được và không được cứu rỗi.

Thực ra, ở đây Chúa Giêsu trích một câu của tiên tri Isaia. Mà Isaia nói đến một thực tế (chứ không phải ý muốn của Thiên Chúa) là sự cứng lòng của dân, đến nỗi dù họ có tai có mắt mà cũng như điếc như mù, cho họ nghe và xem cái gì cũng vô ích. Một số người thời Chúa Giêsu cũng thế.

Bởi vậy, Chúa Giêsu khuyến khích chúng ta: “Ai có tai thì nghe”, nghĩa là ai cũng có khả năng hiểu dụ ngôn (ai cũng có tai) nhưng điều quan trọng là dùng khả năng đó để thực hiện những điều mình đã nghe. Càng thực hiện thì càng hiểu Nước trời hơn, càng sống Lời Chúa thì càng hiểu Lời Chúa hơn (Giải thích của Carôlô).

Hôm nay Chúa Giêsu giải thích cho các Tông đồ về việc Ngài dùng dụ ngôn để giảng dạy về mầu nhiệm Nước trời. Lý do rất dễ hiểu vì đạo của Chúa là đạo từ trời. Bởi vậy trong lời giảng, Chúa Giêsu hay  dùng dụ ngôn để giúp cho dân chúng dễ hiểu hơn. Thực ra khi nói về Nước trời, một thực tại không dễ diễn tả bằng ngôn ngữ loài người, và nếu có cố gắng, thì con người cũng không thể hiểu nổi vì nó vượt khỏi thế giới khả giác. Hoặc như thánh Phaolô nói: “Đây là thực tại mà mắt con người chưa từng thấy, tai chưa từng nghe, lòng người chưa từng cảm nghiệm”. Thực tại ấy không thể thu hẹp trong một vài câu định nghĩa, mà phải diễn tả bằng dụ ngôn, vì cách diễn tả này không giới hạn, nhưng tạo thuận lợi cho việc tìm hiểu sâu xa hơn.

Câu trả lời của Chúa Giêsu, mới nghe thì hình như có vẻ mâu thuẫn. Chúa giảng dạy dân chúng hẳn là có mục đích để cho họ hiểu, và việc Chúa thay đổi cách giảng, dùng hình thức dụ ngôn, cũng không ngoài mục đích đó, vì dụ ngôn là sự so sánh cụ thể làm cho dễ hiểu một giáo huấn trừu tượng, nghĩa là dùng hình ảnh cụ thể trong đời sống để so sánh làm cho người ta dễ hiểu một giáo thuyết trừu tượng. Thế mà Chúa lại nói: Chúa giảng dạy dụ ngôn để cho dân chúng không hiểu được mầu nhiệm Nước trời, mà chỉ dành riêng cho các môn đệ được hiểu thôi. Như thế là tại sao? Sau khi giảng dạy dụ ngôn người gieo giống, Chúa đã tuyên bố: “Ai có tai để nghe thì hãy nghe”. Chúa đã dùng dụ ngôn mà nói, có ý gợi lên nơi thính giả sự tò mò tìm hiểu, và nếu ai không hiểu mà hỏi Chúa sẽ được Chúa giải thích cho.

Dụ ngôn là một thứ ngôn ngữ nói với những người trong cuộc, những người sống trong tình thân với nhau. Để hiểu được dụ ngôn, cần phải có hai đức tính quan trọng, đó là tâm hồn rộng mở và ước muốn tìm hiểu.

Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Về phần các con đã được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước trời, còn họ thì không”. Nói khác đi, các môn đệ đã được chấp nhận vào cộng đoàn những kẻ tin vào Chúa Giêsu, vì thế, các ông có thể hiểu rõ các mầu nhiệm. Còn những kẻ ở ngoài, nhất là những kẻ ở bên ngoài vì kiêu hãnh, vì khép kín, vì định kiến, như các luật sĩ và biệt phái, thì khi nhìn vào các mầu nhiệm họ chỉ thấy bí ẩn và khó hiểu. Chính cách trả lời của Chúa là tiêu chuẩn để biết được ai là người thuộc về Chúa và ai là người ngoài cuộc: “Nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe. Còn các con, mắt các con thật có phúc vì được thấy, tai các con có phúc vì được nghe” (Mt 13, 16) (Mỗi ngày một tin vui).

Truyện: Lời tỏ tình của Thiên Chúa

Một nhà bác học nọ muốn làm một cuộc nghiên cứu tại một vùng sa mạc. Ông nhờ một người Ả rập làm hướng đạo. Lên đường từ rạng đông, người bác học thấy người Ả rập làm một cử chỉ khó hiểu là trải tấm thảm lên cát và hướng về mặt trời phủ phục cầu nguyện. Nhà bác học hỏi:

– Ông bạn làm gì vậy?

Người Ả rập trả lời: – Tôi cầu nguyện với Chúa.

Nhà bác học lại hỏi: – Nhưng ông bạn có thấy, có nghe, có sờ được Chúa không?

Thấy người Ả rập thinh lặng vì bị tấn công quá bất ngờ, nhà bác học nói thêm: -Ông bạn quả là một tên khùng, ông bạn tin ở một người mà ông bạn không bao giờ thấy được, sờ được.

Ngày hôm sau, khi mặt trời vừa lên, nhà bác học bước ra khỏi lều nhìn chung quanh và đưa ra nhận xét: – Hẳn tối qua phải có một con lạc đà đi ngang qua đây.

Một chút ánh sáng lóe lên trong ánh mắt người Ả rập, anh hỏi nhà bác học:

– Ông có thấy tận mắt con lạc đà không?

Dĩ nhiên nhà bác học chỉ có thể trả lời là không. Sau câu trả lời không ấy, người Ả rập kết luận:

– Ông quả là một người ngu: ông không thấy, không nghe, không sờ được con lạc đà mà lại bảo rằng đêm qua nó đi qua đây.

Nhà bác học liền lý luận như một nhà khoa học chân chính: – Tôi không thấy, không nghe, không sờ được nó, nhưng tôi thấy dấu chân nó trên cát, đó là dấu chỉ biểu hiện con lạc đà.

Người Ả rập đưa tay về hướng mặt trời và nói: – Ông hãy nhìn những dấu vết của Đấng Tạo Hoá. Hãy biết rằng Ngài hiện hữu và yêu thương chúng ta.

 

Suy Niệm 10: ,,,,,,,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

Những

 

Suy Niệm 11: ,,,,,,,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Chúa Giêsu giải thích cho các tông đồ về việc Ngài dùng dụ ngôn để giảng dạy cho người ta. Lý do rất dễ hiểu là vì đạo của Chúa là đạo từ trời.

Bởi vậy trong lời rao giảng, Chúa Giêsu hay sử dụng dụ ngôn để giúp cho dân chúng hiểu những mầu nhiệm cao siêu dễ dàng hơn. Thực ra khi nói về Nước Trời, một thực tại không dễ diễn tả bằng ngôn ngữ loài người, và nếu có cố gắng diễn tả, thì con người cũng không thể hiểu nổi vì nó vượt khỏi thế giới khả giác này, hoặc nói như lời thánh Phaolô: “Đây là thực tại mà mắt con người chưa từng thấy, tai chưa từng nghe, lòng người chưa từng cảm nghiệm” (1Cr 2,9). Thực tại ấy không thể thu hẹp trong một vài câu định nghĩa, mà phải diễn tả bằng dụ ngôn, vì cách diễn tả này không giới hạn, nhưng tạo thuận lợi cho việc tìm hiểu sâu xa hơn.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Về phần các con đã được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không” (Mt 10,11). Nói khác đi, các môn đệ đã được chấp nhận vào cộng đoàn của những kẻ tin vào Chúa Giêsu, vì thế, các ông có thể hiểu rõ những mầu nhiệm Chúa mạc khải. Còn những kẻ ở bên ngoài, nhất là những kẻ ở bên ngoài vì kiêu hãnh, vì khép kín, vì định kiến, như các luật sĩ và Pharisêu, thì khi nhìn vào các mầu nhiệm họ chỉ thấy bí ẩn và khó hiểu. Cách trả lời của Chúa là tiêu chuẩn để biết được ai là người thuộc về Chúa và ai là người ngoài cuộc: “Nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe. Còn các con, mắt các con thật có phúc vì được nghe” (Mt 13,13.16).

  1. Vấn đề còn lại của chúng ta hôm nay là làm sao chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa những dụ ngôn của Chúa?

Như trên tôi vừa nói: Muốn hiểu được Lời Chúa, nhất là những lời được diễn tả bằng dụ ngôn thì cần phải có hai đức tính quan trọng này: Đó là tâm hồn rộng mở và ước muốn tìm hiểu. Không có hai đức tính đó thì có mắt cũng như mù, có tai cũng như điếc. Đúng như Lời Chúa quả quyết: “Họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe” (Mt 13,14).

Đây là câu chuyện tôi lấy xuống từ Internet. Câu chuyện có tựa đề là: “Những Bài Học Từ Trẻ Thơ”.

Khi đứng trên cánh đồng sau mùa thu hoạch, tôi chỉ nhìn thấy mảnh đất nứt nẻ với những gốc rạ khô cằn. Còn các con của tôi, chúng nhìn thấy những bông hoa dại rực rỡ có cánh trắng muốt, mịn màng mà chúng có thể hái tặng mẹ.

Khi có một người say rượu cười với tôi trên đường, tôi thấy đó là một gã đàn ông bẩn thỉu, hôi hám, khiến tôi có cảm giác ghê sợ nên vội nhìn đi chỗ khác. Các con tôi lại thấy nụ cười thân thiện trên môi ông và chúng cũng đáp lại bằng những nụ cười.

Khi nghe bản nhạc mình yêu thích, tôi ngồi một mình, lặng lẽ thưởng thức những giai điệu ngọt ngào của nó. Trong khi đó, các con tôi lại rủ nhau nhảy theo điệu nhạc, hát to thành tiếng và đôi khi còn tự đặt lời hát mới cho riêng mình.

Khi đang trên đường mà bị một cơn gió thốc vào mặt, tôi cảm thấy bực bội vì mái tóc rối tung, thậm chí còn phải giảm tốc độ lại. Các con tôi thì nhắm mắt, dang rộng hai tay, mơ bay theo gió, thậm chí còn ngã lăn ra đất và cười vang.

Khi cầu nguyện, tôi thường khấn xin những điều tốt đẹp cho bản thân và gia đình mình, còn các con tôi lại thì thầm: “Cám ơn Ngài đã ban cho chúng con những người bạn tốt. Xin giúp chúng con không gặp ác mộng trong giấc ngủ đêm nay. Cảm ơn vì Ngài đã thương yêu và luôn phù hộ chúng con”.

Khi bước qua vũng sình, tôi thấy đôi giày bê bết bùn và nghĩ đến tấm thảm sẽ bị bôi bẩn. Các con tôi lại thấy một trò vui mới với những cây cầu mà chúng sẽ xây bằng bùn bắc qua dòng sông nhỏ. Mùa mưa là một mùa tuyệt vời để chúng say mê chơi đùa với những con giun dễ thương đang sống trong vũng sình bùn ấy.

Tôi thường dạy các con những điều lớn lao trong cuộc sống, mong rằng chúng sẽ có thể thích ứng được với cuộc đời đầy rẫy những hiểm nguy và cạm bẫy này. Nhưng các con tôi lại dạy tôi những bài học bổ ích hơn thế. Chúng chỉ cho tôi cách hòa nhịp với cuộc sống, cách thưởng thức từng ngày bằng tâm hồn rộng mở để nhận thấy cuộc đời đáng sống hơn nhiều.

Quả thật tâm hồn rộng mở là chìa khoá giúp ta hiểu được những điều lạ lùng ngay trong cuộc sống này.

Có lần Chúa đã cầu nguyện: “Lạy Cha là Chúa trời đất, con đội ơn Cha vì đã không mặc khải mầu nhiệm Nước Trời cho những bậc khôn ngoan thông thái, nhưng lại mặc khải cho những kẻ bé mọn” (Mt 11,25).

Những kẻ bé mọn ở đây chính là các môn đệ và những người bình dân nghèo khó.

 

 

 

THỨ SÁU TUẦN 16 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Mt 13, 18-23

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Vậy các con hãy nghe dụ ngôn về người gieo giống: Kẻ nào nghe lời giảng về Nước Trời mà không hiểu, thì quỷ dữ đến cướp lấy điều đã gieo trong lòng nó: đó là kẻ thuộc hạng gieo dọc đường.

Hạt rơi trên đá sỏi là kẻ khi nghe lời giảng, thì tức khắc vui lòng chấp nhận, nhưng không đâm rễ sâu trong lòng nó: đó là kẻ nông nổi nhất thời, nên khi cuộc bách hại, gian nan xảy đến vì lời Chúa, thì lập tức nó vấp ngã.

Hạt rơi vào bụi gai, là kẻ nghe lời giảng, nhưng lòng lo lắng việc đời, ham mê của cải, khiến lời giảng bị chết ngạt mà không sinh hoa kết quả được.

Hạt gieo trên đất tốt, là kẻ nghe lời giảng mà hiểu được, nên sinh hoa kết quả, đến nỗi có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi”.

 

Suy Niệm 1: Sinh hoa kết quả

Suy niệm:

Dụ ngôn người gieo giống của Đức Giêsu là một dụ ngôn đầy nét hy vọng.

Nếu có một lúc nào đó người môn đệ chán nản

vì thấy có bao hạt giống được gieo vãi mà chẳng thu lại được gì,

bao điều cản trở sự lớn lên của Nước Thiên Chúa,

thì dụ ngôn này nhắc cho họ thấy rằng có những hạt lúa được bội thu.

Kết quả của những hạt lúa bội thu thì gấp nhiều hơn số lúa đã gieo vãi.

Bài Tin Mừng hôm nay là một lời giải thích dụ ngôn trên của Đức Giêsu.

“Anh em hãy nghe dụ ngôn người gieo giống” (c. 18).

Đức Giêsu mời gọi như thế với các môn đệ của thời Ngài và của mọi thời đại.

Cả bốn hạng môn đệ sắp được Ngài kể ra đều là những người đã nghe Lời.

Lời đây là lời Tin Mừng, lời giảng dạy của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa.

Lời này được ví như hạt giống mà Đức Giêsu gieo vãi trong tim môn đệ (c. 19).

Trái tim người môn đệ là một thửa đất nhận hạt giống ấy.

Chỉ có một loại hạt giống như nhau, cũng như chỉ có một người gieo.

Kết quả khác nhau là tùy vào chất lượng của đất, chất lượng của trái tim.

Có bốn loại đất, bốn loại môn đệ với tâm hồn khác nhau.

Loại đất vệ đường, đất cứng, khiến hạt giống chỉ nằm ở bên trên.

Lời Chúa chỉ được nghe suông ngoài tai, nhưng không được đón nhận vào tim.

Chính vì thế loại môn đệ này được coi là không hiểu (c. 19).

Không hiểu không phải vì trí khôn kém cỏi hay vì người truyền đạt yếu.

Không hiểu chỉ vì không muốn hiểu, lòng không muốn đón nhận.

Khi lòng không ưng thì quỷ đến và cướp mất hạt giống đã gieo.

Loại đất sỏi đá là loại đất chỉ có một lớp đất mỏng thôi.

Hạt giống được gieo thì mọc lên ngay,

nhưng vì không có rễ sâu nên chỉ sống được một thời gian ngắn (c. 21).

Loại môn đệ thứ hai này chẳng những nghe mà còn vui vẻ đón nhận ngay (c. 20).

Nhưng sự đón nhận vội vã này rất hời hợt, và niềm vui cũng không sâu.

Họ tưởng làm môn đệ chỉ gặp toàn niềm vui và an bình.

Chính vì thế khi phải trả giá để sống Lời Chúa, thì họ vấp ngã ngay và bỏ cuộc.

Loại đất có bụi gai là đất có thể làm hạt giống lớn lên thành cây,

nhưng cây lại bị gai lấn át làm chết ngạt (c. 22).

Bụi gai của loại môn đệ này là nỗi lo lắng chuyện đời và lòng ham mê giàu có.

Bụi gai nằm ngay giữa thửa đất trái tim, lớn mạnh đến nỗi làm cây lúa úa vàng.

Cuối cùng là đất tốt, đất chẳng như vệ đường, chẳng có sỏi đá hay bụi gai.

Hạt giống gặp đất tốt này thì sinh hạt, hạt được một trăm, sáu chục hay ba chục.

Loại môn đệ cuối này khác hẳn với loại thứ nhất vì nghe và hiểu Lời Chúa (c. 23).

Tuy nhiên, kết quả đem lại nhiều hay ít còn tùy mức độ mở ra của từng người.

Lời Chúa hôm nay mời ta nhìn lại thửa đất của trái tim mình.

Những cứng cỏi, những hời hợt thiếu rễ sâu, những chi phối của đam mê vật chất.

Bao hạt giống được gieo mà chưa sinh hoa trái.

Xin Chúa giúp ta dọn dẹp, cải tạo lại thửa đất của tâm hồn

để tim ta có ít chỗ cho thế gian và nhiều chỗ hơn cho Thiên Chúa.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu, Khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng

Chúng con ít khi nghĩ đến những hạt giống

Đã âm thầm chịu nát tan

Để trao cho đời cây lúa trĩu hạt.

Có bao điều tốt đẹp

Chúng con được hưởng hôm nay

Là do sự hy sinh quên mình của người đi trước,

Của các nhà nghiên cứu, các người rao giảng,

Của ông bà, cha mẹ, thầy cô,

Của những người đã nằm xuống

Cho quê hương dân tộc.

Đã có những con người sống như hạt lúa,

Để từ cái chết của họ

Vọt lên sự sống cho tha nhân.

Nhờ công ơn bao người,

Chúng con được làm hạt lúa.

Xin cho chúng con

Đừng tự khép mình trong lớp vỏ

Để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình,

Nhưng dám đi ra

Để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ.

Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày.

Để chọn tha nhân và Thiên Chúa,

Chúng con phải chết cho chính mình.

Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm vượt qua

Đi từ cõi chết đến nguồn sống,

Đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở

Trước Đấng Tuyệt Đối và tha nhân. Amen

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

 

Suy Niệm 2: Lời ban sự sống

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Lời Thiên Chúa là lời quyền năng. Nhưng là lời yêu thương. Yêu thương nên Lời Thiên Chúa luôn ban sự sống cho nhân loại. Từ tạo thiên lập địa, Lời Thiên Chúa sáng tạo nên muôn loài. Cho muôn loài từ hư vô sang hiện hữu. Đặc biệt là sự sống. “Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời. Một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú” (Tv 33,6). Thời Mô-sê vì sự sống của dân Chúa bị đe doạ, bị áp bức, bị tổn thương. Nên Chúa dùng lời Chúa mà giải phóng dân Người. Và trong sa mạc, tại núi Xi-nai Chúa ban Mười Lời, cũng gọi là Mười Điều Răn, để dân Chúa thực hành. Bao lâu dân Chúa thực hành lời Chúa dạy, họ được sống và bình an: “Những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời”. (năm lẻ).

Suốt dọc dài lịch sử, Chúa luôn gửi đến các tiên tri, để thúc giục dân tuân giữ Lời Chúa. Thoạt tiên Lời Chúa được ghi khắc trên hai bia đá, chứa đựng trong Hòm Bia. Nhưng điều Chúa mong muốn là Lời Chúa không chỉ được khắc trên bia đá, nhưng được ghi khắc trong thâm tâm mỗi người. “Người ta sẽ không còn nói đến Hòm Bia của Đức Chúa nữa, không còn lưu tâm, không nhớ tới, chẳng nuối tiếc, cũng chẳng làm lại nữa”. Bấy giờ Lề Luật được ghi khắc trong lòng. “Mọi dân tộc sẽ nhân danh Đức Chúa quy tụ tại Giê-ru-sa-lem; chúng sẽ không còn sống buông thả theo lòng dạ xấu xa ngoan cố của mình nữa”. Khi họ nhập tâm Lời Chúa và hết lòng tuân giữ thì đất nước sẽ phát triển: “Khi các ngươi tăng số và phát triển trong xứ” (năm chẵn).

Chúa liên tục gieo vãi Lời Chúa. Thời cuối cùng Chúa gieo chính Lời Chúa bằng xương bằng thịt. Là Ngôi Lời Thiên Chúa. Là Chúa Giê-su Ki-tô. Người là hạt giống gieo vào lòng đất. Chịu mục nát đi để sinh hoa quả dồi dào. Nhưng loài người thờ ơ với Lời Chúa. Nên Lời Chúa gặp phải đường đi, không bén rễm mọc lên được. Lời Chúa gặp phải đá sỏi cứng lòng cũng không phát triển được. Lời Chúa gặp phải bụi gai dục vọng ham mê đời này nên bị bóp nghẹt. Chỉ một số ít tâm hồn mở lòng đón nhận, lập tức Lời Chúa sinh hoa kết quả. Kết quả lớn nhất là đem lại cho ta sự sống đời đời.

Lời Chúa là yêu thương. Yêu thương nên ban cả Con Một. Để ta được sống. Nhưng ta phải thiết tha sống. Phải mở lòng đón nhận. Phải cày xới tâm hồn. Phải có trái tim mềm mại ngoan ngoãn. Phải diệt trừ ham hố dục vọng trần gian. Lời Chúa mới phát triển. Đem lại cho ta sự sống đời đời.

 

Suy Niệm 3: Tinh thần lạc quan

Sự gieo trồng nào cũng mang niềm hy vọng. Chúa Giêsu đã đọc được tinh thần lạc quan ấy của nhà nông, cho nên Ngài đã mượn hình ảnh gieo trồng để nói lên mầu nhiệm Nước Trời. Nhưng xem chừng những hình ảnh gieo trồng mà Chúa Giêsu dùng trong Tin Mừng hôm nay không giống với kỹ thuật canh tác hiện nay. Thật thế, vào thời Chúa Giêsu, đất Palestin vốn khô cằn, người nông dân thời Chúa Giêsu không cày bừa dọn đất trước khi gieo trồng, nhưng gieo vãi trước, rồi sau đó mới cày đất xới bón. Thành ra, có hạt rơi xuống đất tốt, có hạt rơi trên vệ đường, có hạt rơi vào bụi gai. Dù kỹ thuật có khác, dù tiến trình canh tác có khác, người nông dân ở bất cứ thời đại nào cũng giống nhau ở chỗ họ có tinh thần lạc quan. Ðất đai có tươi tốt hay khô cằn, thiên nhiên có ngược đãi hay thuận lợi, mùa gặt tươi tốt vẫn luôn là niềm hy vọng của kẻ gieo trồng.

Chúa Giêsu dường như muốn gieo chính niềm lạc quan ấy vào tâm hồn các môn đệ khi đưa ra dụ ngôn người gieo giống: có hạt rơi bên vệ đường, có hạt rơi trên đá sỏi, có hạt rơi vào bụi gai, nhưng kết quả của mùa gặt vẫn gấp trăm, gấp ngàn. Qua muôn thế hệ, hạt giống Nước Trời vẫn được gieo vãi: có hạt rơi vào vệ đường, sỏi đá, bụi gai của những chống đối và bách hại, hạt giống ấy vẫn nẩy mầm tươi tốt sinh nhiều bông hạt. Người môn đệ Chúa Giêsu luôn tiếp tục gieo vãi hạt giống Lời Chúa, họ luôn được mời gọi đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa và kiên trì, dù thành công hay thất bại. Trong thư 1Cor. thánh Phaolô đã diễn tả đúng tinh thần lạc quan và kiên trì của người gieo giống: “Tôi trồng, Apollô tưới, nhưng Thiên Chúa cho mọc lên”.

Vệ đường, sỏi đá, bụi gai vẫn tiếp tục cản trở công việc gieo trồng, nhưng người nông dân của Nước Trời không vì thế mà bỏ cuộc. Có những gieo vãi qui mô ồ ạt, nhưng cũng có những gieo vãi âm thầm: âm thầm trong thinh lặng hằng ngày, âm thầm trong những khước từ, âm thầm trong những bách hại dưới mọi hình thức, nhưng đó vẫn là sự âm thầm cơ bản nhất trong bất cứ sự gieo vãi nào, hay nói theo Ðức Phaolô VI trong Tông huấn Loan Báo Tin Mừng: đó là một sự công bố thinh lặng Tin Mừng, nhưng rất hiệu nghiệm.

Ước gì Lời Chúa hôm nay đem lại niềm tin và lạc quan hy vọng cho chúng ta. Xin cho Lời Chúa củng cố chúng ta trong niềm xác tín rằng những gì chúng ta gieo trong đau thương và nước mắt sẽ được trổ bông chín vàng trong mùa gặt của Ngài.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Biến đổi tâm hồn

Những lời giải thích của Chúa Giêsu thức tỉnh những đồ đệ của Chúa mọi thời đại. Có bốn thái độ đối với Lời Chúa: thái độ của mảnh đất bên vệ đường, thái độ của mảnh đất sỏi đá, thái độ của mảnh đất có bụi gai, thái độ của mảnh đất tốt đón nhận hạt giống để cho hại giống sinh hoa kết quả gấp trăm, gấp sáu mươi, gấp ba mươi.

Hôm nay Thiên Chúa vẫn còn gieo vãi hạt giống Ngài xuống trần gian trong nhiều cảnh huống khác nhau. Chúa Giêsu là Lời Thiên Chúa đến với mỗi người chúng ta trong nhiều hoàn cảnh và Chúa gặp phải nhiều phản ứng khác nhau, Giáo Hội không ngừng mang Lời Chúa đến với con người mọi thời đại, nhưng con người đáp lại như thế nào và chính mỗi người chúng ta đây đáp lại như thế nào?

Thần dữ có thể cám dỗ làm ta lạc hướng; những thử thách, những khó khăn có thể làm ta thối chí ngã lòng; những bận tâm lo lắng chuyện trần tục, những ham muốn hưởng thụ làm cho ta quên mất Chúa và Lời Ngài. Mỗi người chúng ta cần xin Chúa biến đổi tâm hồn trở thành như đất tốt, một tâm hồn khiêm tốn quảng đại sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa và yêu mến Lời Chúa. Càng được yêu mến thì Lời Chúa mới trở nên tác động và trở nên hữu hiệu làm cho cuộc sống trở nên những hoa trái tốt.

Lạy Chúa, Ngày hôm nay Chúa vẫn còn nói với mỗi người chúng con, ngày hôm nay Chúa đến với chúng con qua chính Lời Chúa, qua lời rao giảng của Giáo Hội và qua những tiếng kêu cầu trợ giúp của anh chị em. Xin cho chúng con đừng nhắm mắt làm ngơ, đừng bịt tai giả điếc, đừng đóng kín con tim, nhưng khiêm tốn lắng nghe và quảng đại đáp trả.

Lạy Chúa, Này con đây xin hãy phán và con xin lắng nghe.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 5: Người gieo và hạt giống

Hễ ai nghe lời rao giảng Nước Trời mà không hiểu, thì quỷ dữ đến cướp đi điều đã gieo trong lòng người ấy: đó là kẻ đã được gieo bên vệ đường.

Còn kẻ được gieo trên đất tốt, đó là kẻ nghe Lời và hiểu, thì tất nhiên sinh hoa kết quả và làm ra, kẻ được gấp trăm, kẻ được sáu chục, kẻ được ba chục.” (Mt. 13, 19-23)

Chúa giảng về dụ ngôn người gieo giống, nhưng hầu như chỉ chú ý đến hạt giống, dẫu rằng người gieo giống ở đây đúng là “Con Người”. Chúa đã giải thích cho biết hạt giống là Lời Chúa; Lời mặc khải những mầu nhiệm “Nước Trời”, khi con người đón nhận và gắn bó với Lời Người, thì lời thiết lập Nước Trời giữa mọi người.

Ta không áp dụng trực tiếp cho chính lời Chúa, nhưng áp dụng cho những người nghe qua hình ảnh những mảnh đất khác nhau mà hạt giống được vãi xuống. Điểm nổi cộm của dụ ngôn là những mảnh đất khác nhau: Người gieo và hạt giống không thay đổi, nhưng đất gieo không cống hiến những thành công như nhau. Tóm lại lời Chúa phải chịu số phận rủi ro, đó mới là đối tượng thực sự của dụ ngôn. Chúa đã chỉ có thể nói giản dị rằng: Hạt giống tốt và người gieo hào phóng; còn anh em, hãy làm phần còn lại là mảnh đất gieo để có chắc được mùa lúa tốt.

Nước Trời.

Vì hay nói và nói quá nhiều về Nước Trời, nên người ta không còn thấy bận tâm về chuyện này nữa. Nước Trời trở thành một sáo ngữ đạo đức, trống rỗng. Thế nhưng, chúng ta hiện là những người có trách nhiệm đối với Nước Trời. một Nước Trời không thuộc thế gian này, điều mà ta hằng nhắc nhở mình, để không làm việc luống công, hoặc không thoái thác công việc, vì Giáo Hội chúng ta là của những người nghèo.

Đúng là khi ta nói về Nước Trời, lời ấy dù vẫn là một mà đã được hiểu một cách rất khác nhau tùy như ta quan niệm này hay ta quan niệm kia, bênh vực cho nhóm này hay nhóm kia mà ta hiểu lời Chúa (Nói) về Nước Trời một cách khác nhau. Điều quan trọng ta cần biết không phải là xem chúng ta hoặc người khác thuộc về nhóm nào, mà là cách ta đón nhận Lời Chúa trong đời sống của ta ra sao.

Lời Chúa cho tất cả mọi người, và mọi người phải sống Lời Chúa.

Cùng một Lời Chúa ấy được nói cho hết thảy mọi người. Lời ấy là sức sống, là tình yêu phải được mọi người đón nhận để mà sống. Khi ta có những thái độ kỳ thị loại trừ, hoặc từ chối gieo lời Chúa trong mảnh đất này hay mảnh đất kia, chúng ta không làm giống như Đức Giêsu là người gieo yêu thương chỉ những mảnh đất phì nhiêu, nhưng trên cả những mảnh đất sỏi đá gai góc. Làm như vậy là chúng ta không muốn, không để cho Lời Chúa được nảy nở và triển vậy.

J.M

 

Suy Niệm 6: TRỞ NÊN THỬA ĐẤT NÀO CHO HẠT GIỐNG? (Mt 13,18-23)

Xem lại CN 15 TN A

Đức Giêsu thường dùng dụ ngôn để giảng dạy một chân lý nào đó. Tuy nhiên, dụ ngôn người gieo giống hôm nay không những được Đức Giêsu kể, mà chính Ngài còn đích thân giải thích ý nghĩa của nó. Khi giải thích dụ ngôn, Đức Giêsu nhắm vào trọng tâm các đối tượng trong việc lắng nghe Lời Chúa.

Đức Giêsu đã dùng hình ảnh các thứ đất và số phận của những hạt giống, để nói lên sứ điệp cho các môn đệ và những người nghe giảng cũng như cho mỗi chúng ta hôm nay.

Hạt giống rơi bên vệ đường, chính là ám chỉ đến những người nghe mà chẳng hiểu, hay dửng dưng với Lời Chúa, hoặc tách biệt Lời Chúa ra khỏi cuộc sống.

Hạt giống rơi vào sỏi đá là dấu hiệu của một tâm hồn nông nổi, rất vui vẻ, sẵn sàng đón nhận Lời. Nhưng không có chiều sâu nội tâm, nên khi ra khỏi nơi chốn, vị trí hay với thời gian là quên hết, họ không quan tâm lưu giữ và thực hành Lời Chúa.

Hạt rơi vào bụi gai chính là những người có quan tâm đến Lời Chúa. Nhưng họ đã để cho sự đời chèn ép, chiếm thế. Nền kinh tế thị trường đã làm cho họ không còn chú trọng đến Lời Chúa, vì Lời Chúa làm cho họ phải đi ngược dòng với con người và xã hội.

Cuối cùng là hạt rơi vào đất tốt. Ấy là những người có lựa chọn ưu tiên cho Lời Chúa chiếm vị trí quan trọng trong mọi chiều kích của cuộc đời họ. Họ để cho Lời Chúa trở thành kim chỉ nam hướng dẫn mọi hành vi, vì thế, hệ quả chính là được một vụ mùa bội thu…

Mong sao, Lời Chúa hôm nay là dịp để chúng ta xác định lại chiều kích sống đạo của mình, nhằm hiệu chỉnh trong cuộc sống. Đừng vì hình thức, vụ luật như hạt rơi bên vệ đường. Hay hời hợt, giỗng tuếch như hạt rơi vào sỏi đá. Hoặc đừng để những lợi lộc trần gian, ăn chơi trác táng mà quên phần thưởng Nước Trời như hạt rơi vào bụi gai. Nhưng hãy như thửa đất tốt để Lời Chúa trở nên phong phú và đem lại ơn cứu độ cho chúng ta. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 5: Cộng tác để hạt giống Lời chúa phát triển

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Hạt giống Lời Chúa được gieo vào lòng mỗi người. Hạt giống ấy đạt kết quả ra sao là tùy thuộc vào thái độ đón nhận của chúng ta. Để sinh hoa trái dồi dào, chúng ta hãy cộng tác tích cực làm cho hạt giống nảy mầm và phát triển phong phú.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nhọc công vỡ đất và gieo hạt vào hồn con. Hạt giống là Lời Chúa và chính Chúa. Chúa giao cho con quyền coi sóc thửa ruộng hồn mình. Ngày qua ngày, con ao ước trở thành thửa ruộng tốt, một thửa ruộng không có gai góc sỏi đá và những con đường mòn dọc ngang chai cứng. Nhưng thực tế thì khác. Đã có lúc con phí phạm đánh mất ơn Chúa, đã có lần con làm ngơ, bịt tai trước lời mời gọi yêu thương. Lần này qua lần khác, tâm hồn con dần dần trở nên chai cứng, khiến hạt giống Nước Trời èo uột, khô héo.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa biết rõ điều đó. Nhưng lòng quảng đại của Chúa vẫn ban phát cách rộng rãi và lòng nhân từ Chúa vẫn kiên tâm chờ đợi con đáp lời. Con xin dâng lời cảm tạ vì Chúa vẫn một lòng thương con. Tâm hồn con càng tội lỗi, thửa ruộng con càng chai lỳ, Chúa càng ban ơn dồi dào phong phú, con tin chắc rằng không bao giờ Chúa rút lại tình yêu thương ấy.

Xin Chúa giúp con biết săn sóc tâm hồn đã được Chúa cứu chuộc và thánh hóa. Xin đừng để con bóp nghẹt ơn Chúa, bóp nghẹt tình yêu Chúa đang triển nở trong con. Xin Chúa giúp con biết chăm sóc thửa ruộng hồn mình bằng cách nhổ đi những cỏ dại tội lỗi, đốt cháy đi những rơm rác của thói hư tật xấu, để có thể sinh nhiều hoa trái như lòng Chúa ước mong. Amen.

Ghi nhớ: “Kẻ nghe lời giảng mà hiểu được, nên sinh hoa kết quả”.

 

Suy Niệm 6: Dụ ngôn người gieo giống

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Một ông vua nọ có thói quen mỗi ngày nghe một đoạn trong kinh Bagayad Gita. Người phụ trách việc đọc kinh này là một nhà sư đạo đức, thông thái.

Cứ mỗi lần đọc xong một đoạn kinh, ông lại dùng đến kiến thức uyên bác của mình để giải thích cho vua nghe. Và ngày nào ông cũng đặt câu hỏi: “Bệ hạ có hiểu những gì thần vừa dẫn giải không?”. Nhưng lần nào nhà vua cũng chỉ trả lời: “Khanh nên hỏi điều đó với khanh trước đã”…

Ngày nọ, giữa lúc đọc kinh, ông bỗng được giác ngộ và nhận ra tất cả mọi sự đều là hão huyền. Thế là nhà sư quyết từ bỏ mọi sự và lên đường bắt đầu cuộc sống của một người hành khất. Trước khi ra đi, ông nói với nhà vua: “Tâu bệ hạ, thế là cuối cùng hạ thần đã hiểu được”.

Giác ngộ đích thực, hiểu biết chân lý chính là thực thi chân lý.

Suy niệm

Chúa Giêsu giải thích dụ ngôn gieo giống. Mảnh đất được gieo trồng là hình ảnh tâm hồn chúng ta. Để cho mảnh đất trở nên tốt hầu hạt giống của Thiên Chúa gieo vào sinh hoa, chúng ta cần phải chuẩn bị, như người nông dân lượm những hạt đá để trên bờ rào. Hình ảnh đó gợi nên cho chúng ta tâm tình biết sửa chữa mình không ngừng để cuộc sống chúng ta luôn tràn ngập bình an, ân sủng, đó là giống đã được nảy mầm, kết hoa và đơm hạt.

Nếu cứ để tâm hồn chúng ta hoang sơ như những mảnh đất chưa được nhặt lượm những sỏi đá, cỏ lùng không bị tàn diệt, chắc chắn dù hạt giống ân sủng được nảy mầm, đời sống chúng ta như Chúa ví trong dụ ngôn: Rễ không đủ sâu gặp nắng gắt chết khô, hay chết nghẹt vì bụi gai…

Thiên Chúa gieo giống, Ngài luôn mong đến việc sinh hoa kết quả nơi các tâm hồn được tượng trưng bằng hình ảnh nhiều loại đất gieo trồng tiếp nhận hạt giống. Ngài luôn tưới gội, mưa nắng để cho đất vốn được nhặt sỏi kỹ lưỡng nảy thêm trù phú tạo điều kiện cho hạt giống nảy mầm như Thánh Vịnh có nói: “Chúa đã viếng thăm ruộng đất và tưới giội: Ngài làm cho đất trở nên phong phú bội phần” (Tv 64).

Ngài – người gieo hạt giống đã làm tất cả để hạt, Lời Ngài giảng dạy nảy sinh mầm. Hạt giống Lời Chúa sinh được hoa trái, nhưng còn phụ thuộc vào mảnh đất có được canh tác tốt hay không. Giống không sinh được hạt nếu không có sự cộng tác của mảnh đất con người. Mảnh đất phải được dọn cỏ lùng, mảnh đất phải được nhặt những viên đá để hạt giống Chúa được tự do tăng trưởng, được sinh hoa kết trái mang lại lợi ích thiêng liêng cho cuộc sống.

Hãy nhặt đi những sỏi đá trong mảnh đất hồn tôi, hãy nhổ đi những cụm cỏ lùng luôn đe dọa đến hạt giống như Đức Giêsu đã cảnh báo trong khi giải thích dụ ngôn và thường xuyên cảnh báo các môn đệ qua mệnh lệnh chống lại ảnh hưởng của thế gian (x. Lc 9,57-62; 14,28-33; 16,19-31; Ga 15,19; 12,6).

Mong rằng khi mùa gặt tới, mảnh đất đời tôi, đời bạn nuôi dưỡng giống, ít nhất cho những hạt sinh được ba mươi…

Ý lực sống:

“… Những lo lắng thế gian và sự giàu có của vật chất làm cho giống chết nghẹt” (Thánh Têrêsa Avila).

 

Suy Niệm 7: Ý nghĩa dụ ngôn người gieo giống (Mt 13,18-23)

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Bài Tin mừng là ý nghĩa dụ ngôn người gieo hạt giống, chính Chúa Giêsu đã giải thích cho các môn đệ. Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu đưa ra bốn mẫu người khi đón nhận Lời Chúa:

Đón nhận một cách ơ hờ, lãnh đạm, không tha thiết với Lời Chúa.

Đón nhận, nhưng nhất thời và hay thay đổi.

Có lòng tha thiết nghe Lời Chúa nhưng tâm hồn lo toan trăm mối nên cuối cùng cũng không sinh hoa kết quả

Còn người chăm chú lắng nghe, tìm hiểu, và ra sức đem ra thực hành thì sinh hoa kết quả gấp trăm, sáu mươi hay ba mươi.

Vậy mỗi người chúng ta hãy tự xét xem mình thuộc loại người nào khi đón nhận Lời Chúa.

Nhận xét của chúng ta qua bài Tin mừng này là dụ ngôn này trực tiếp dạy chúng ta: số phận khác nhau hay kết quả khác nhau của Lời Chúa là tuỳ thuộc vào tâm hồn hay thái độ của thính giả. Bởi vì hạt giống là Lời Chúa thì bao giờ cũng tốt, không bao giờ có hạt giống xấu, cũng như hạt giống, dù được gieo vào chỗ đất nào thì cũng mọc lên, nhưng kết quả khác nhau. Vì thế, đồng ruộng hay đất đai có một vai trò quan trọng không kém cho kết quả thu hoạch, nghĩa là kết quả của Lời Chúa hoàn toàn tuỳ thuộc vào ruộng đất là tâm hồn hay thái độ của người nghe.

Nên lưu ý, những hình ảnh gieo giống mà Chúa Giêsu dùng trong Tin mừng hôm nay không giống với kỹ thuật canh tác hiện nay. Thật thế, vào thời Chúa Giêsu, đất Palestine vốn khô cằn, người nông dân thời Chúa Giêsu không cầy bừa dọn đất trước khi gieo trồng, nhưng gieo vãi trước, rồi sau đó mới cầy đất xới bón. Thành ra, có hạt rơi xuống đất tốt, có hạt rơi trên về đường, có hạt rơi vào bụi gai. Dù kỹ thuật có khác, dù tiến trình canh tác có khác, người nông dân ở bất cứ thời đại nào cũng giống nhau ở chỗ họ có tinh thần lạc quan. Đất đai có tươi tốt hay khô cằn, thiên nhiên có ngược đãi hay thuận lợi, mùa gặt tươi tốt vẫn luôn là lòng hy vọng của kẻ gieo trồng (Mỗi ngày một tin vui).

Chúa Giêsu xếp thính giả vào bốn hạng người theo những tâm trạng khác nhau. Bốn hạng người này thì có ba hạng người làm cho Lời Chúa thất bại, và chỉ có một hạng người để Lời Chúa được thành công.

Ba hạng làm cho Lời Chúa thất bại vì những lý do khác nhau:

+ Hạng đường đi: lý do khách quan, vì do ma quỉ đến cướp đi bằng cách quyến rũ người ta chạy theo thú vui xác thịt, những vẻ đẹp của văn minh hưởng thụ, những tiến bộ của khoa học kỹ thuật làm cho người ta trở nên chai đá đối với những thực tại siêu nhiên.

+ Hạng đá sỏi: lý do chủ quan, đó là những người nông nổi, bồng bột, nhất thời, cho nên thiếu kiên nhẫn. Khi nghe lời giảng thì thích thú (bén rễ) và có khi đưa ra những quyết định canh tân rất là vĩ đại. Nhưng họ chỉ sốt sắng theo tình cảm nhất thời, nên khi gặp khó khăn là bỏ cuộc, chán nản; lòng mến Chúa của họ dễ tan biến như sương buổi sáng, như nắng về chiều.

+ Hạng bụi gai: lý do chủ quan, vì khi nghe Lời Chúa, người ta lại lo lắng việc đời: như lo ăn, lo làm, lo giải trí, xã giao.., và những ham mê sự đời như vật chất, danh vọng, địa vị và thú vui xác thịt… khiến cho Lời Chúa bị chết nghẹt.

+ Hạng đất tốt: thành công vì hạt được một trăm, hạt sáu mươi và hạt ba mươi. Đây là những người nhiệt thành chăm chỉ nghe Lời Chúa và nỗ lực cách kiên trì trong việc tìm hiểu và đem ra thực hành để thánh hóa bản thân.

Lời Chúa được gieo vào lòng tín hữu tốt sẽ tuỳ ơn kêu gọi và thiện chí của từng người mà đem lại những kết quả khác nhau: một trăm, sáu mươi ba mươi (Giải thích của Trần Hữu Thành).

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận Lời Chúa. Nếu mảnh đất tâm hồn chúng ta luôn mở ra, Lời Chúa sẽ thấm nhập chúng ta và cuộc sống chúng ta sẽ trở nên tươi tốt. Qua miệng tiên tri Isaia Chúa đã đảm bảo với chúng ta: “Như mưa tuyết rơi từ trên trời không trở về trời, nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nảy lộc”. Cũng thế: “Lời Ta một khi xuất phát từ miệng Ta, nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mệnh Ta giao phó”.

Truyện: Nước làm sạch rổ rau

Bà vợ đi lễ về làm cơm sáng hơi muộn làm cho người chồng khó chịu. Người chồng thì khô khan, thỉnh thoảng mới đến nhà thờ. Vợ thì siêng năng đi lễ để nghe Lời Chúa.

Bụng đang đói, chồng tức bực hỏi vợ: – Em đi lễ hằng ngày như vậy để được cái gì?

Bà vợ trả lời: – Được nhiều lắm, anh ạ.

Chồng hỏi tiếp: – Được cái gì?

Vợ thản nhiên đáp: – Được nghe Lời Chúa. Được Lời Chúa soi dẫn và rửa sạch tâm hồn em!

Chồng trợn mắt: – Rửa sạch?

Vợ chỉ vào rổ rau mới rửa, trả lời: – Vâng, nước đã làm cho bụi bặm rổ rau này sạch trơn!

Người chồng hiểu, lặng thinh và suy nghĩ!

 

Suy Niệm 10: ,,,,,,,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống…)

Chúng ta hãy nghe chính Đức Giêsu giải nghĩa 4 loại đất, tiêu biểu cho 4 thái độ của con người trước Lời Chúa:

– Đất vệ đường: những kẻ chẳng thiết tha gì đến Lời Chúa. Lời gieo xuống đó chẳng bao lâu thì bị quỷ dữ cướp đi.

– Đất lẫn sỏi đá: những người mau mắn đón nhận Lời Chúa nhưng không quý chuộng bao nhiêu. Khi gặp chút gian khó thì bỏ cuộc.

– Đất có nhiều gai: những người cũng đón nhận lời Chúa, nhưng điều họ quan tâm hơn là những đam mê, vui thú, của cải… Các thứ sau này như gai góc um tùm dần dần làm cho Lời Chúa chết ngạt.

– Đất tốt: những người sốt sắng nghe Lời và quảng đại thi hành.

  1. Suy gẫm (… nảy mầm)

Mỗi ngày Chúa Nhật chúng ta dự Thánh Lễ, Lời Chúa đều được gieo vào lòng chúng ta.

– Có khi nghe xong chúng ta quên liền. Sau Lễ, nếu có ai hỏi ta bài Tin Mừng hôm nay nói gì, chắc ta không trả lời được. Chúng ta là vệ đường.

– Có khi chúng ta cảm thấy Lời Chúa rất hay và có ý muốn làm theo. Nhưng trở về với cuộc sống nhộn nhịp, vài ngày sau ý muốn ấy đã tắt ngúm. Chúng ta là đất lẫn sỏi đá.

– Có khi chúng ta thực tâm thi hành lời Chúa. Thế rồi chuyện này chuyện nọ trong cuộc sống xảy đến. Chúng ta quan tâm giải quyết những chuyện ấy hơn. Lời Chúa bị bóp chết. Chúng ta là đất có nhiều gai góc.

– Chỉ cần một câu Tin Mừng thôi nhưng được suy gẫm kỹ và được kiên trì thực hiện thì sẽ sinh kết quả gấp trăm.

Một ông vua nọ có thói quen mỗi ngày nghe một đoạn trong kinh Bagayad Gita. Người phụ trách việc đọc kinh này là một nhà sư đạo đức, thông thái. Cứ mỗi lần đọc xong một đoạn kinh, ông lại dùng đến kiến thức uyên bác của mình để giải thích cho vua nghe. Và ngày nào ông cũng đặt câu hỏi “Bệ hạ có hiểu những gì thần vừa dẫn giải không ?” Nhưng lần nào nhà vua cũng chỉ trả lời “Khanh nên hỏi điều đó với khanh trước đã”…

Ngày nọ, giữa lúc đọc kinh, ông bỗng được giác ngộ và nhận ra tất cả mọi sự đều là hão huyền. Thế là nhà sư quyết từ bỏ mọi sự và lên đường bắt đầu cuộc sống của một người hành khất. Trước khi ra đi, ông nói với nhà vua “Tâu bệ hạ, thế là cuối cùng hạ thần đã hiểu được: Giác ngô đích thực, hiểu biết chân lý chính là thực thi chân lý”.

 

Suy Niệm 11: ,,,,,,,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Chúa Giêsu giải thích về ý nghĩa của những loại đất. Các loại đất Chúa nói ở đây chính là hình ảnh của những người nghe Lời Chúa.

Có người chỉ nghe một cách hời hợt. Họ được ví như những mảnh đất ở vệ đường. Lời Chúa như hạt giống rơi vào chỗ đất khô, khó mà có thể bén rễ và nảy mầm.

Có những người nghe một cách thành tâm nhưng không kiên vững. Họ được ví như những mảnh đất pha lẫn đầy đá sỏi. Lời Chúa có thể nảy mầm nhưng khó mà phát triển.

Có người cũng thành tâm nghe nhưng đồng thời lại lo lắng về nhiều việc khác. Họ được ví như những mảnh đất bị gai che phủ chèn ép, nên không thể sinh hoa kết trái được.

Và cuối cùng, có những người nghe và cố gắng thi hành. Họ được ví như những mảnh đất tốt. Hạt giống Lời Chúa có đủ điều kiện để nảy mầm, phát triển và sinh nhiều hoa trái.

  1. Đây là dụ ngôn được chính Chúa Giêsu giải thích. Dụ ngôn này nhắm vào hai hạng người: hạng người thứ nhất là những người nghe Lời, nhưng đồng thời dụ ngôn cũng đề cập đến những người giảng Lời. Dụ ngôn không chỉ có ý nói với đám đông đang lắng nghe, nhưng còn muốn nói cho nội bộ các môn đệ nữa.

Chúng ta tự hỏi, Chúa muốn điều gì khi kể dụ ngôn này?

* Trước hết Chúa muốn cho họ hiểu rằng, trong khi đi gieo Lời Chúa hay truyền đạo, người môn đệ của Chúa không được nản lòng. Bởi thế, chúng ta không nên ngạc nhiên nếu đôi khi có sự nản lòng và thất vọng trong lòng các môn đệ. Vậy thì dụ ngôn này phải là bài học đem lại sự khích lệ cho các ngài.

* Thứ đến, họ phải luôn xác tín rằng, dù khi gieo vãi có khó khăn đến đâu đi nữa thì mùa gặt chắc chắn cũng phải đến. Không có nông gia nào lại nghĩ rằng, tất cả các hạt giống mình gieo xuống đều đơm bông kết hạt. Sẽ có một số bị gió cuốn đi. Một số rơi nhằm những chỗ không thể mọc được, nhưng điều đó không thể trở thành cớ để bỏ việc gieo hạt, cũng như không vì thế mà làm cho niềm hy vọng về mùa gặt không còn. Khi gieo hạt người nông dân phải luôn tin tưởng rằng, dầu có phải mất đi một số hạt nhưng nhất định cuối cùng, mùa gặt cũng phải đến. Những người đi gieo Lời Chúa, đi giảng đạo cũng phải có niềm tin như thế.

* Cuối cùng, dụ ngôn cũng còn ngầm dạy rằng, trong khi chờ đợi hạt giống nảy mầm và sinh hoa kết quả thì người gieo giống phải biết kiên trì:

– Khi một người ra đi gieo giống, anh không thể và không được trông đợi có kết quả tức khắc.  Trong thiên nhiên, sự tăng trưởng không bao giờ vội vã, phải mất một thời gian dài để hạt giống đơm bông kết trái. Và để hạt giống được nảy mầm đem lại hoa trái trong lòng người ta thì có thể còn phải mất một thời gian dài hơn nữa. Lời Chúa có thể rơi vào lòng người ta trong thời niên thiếu và cứ nằm yên đó cho đến một ngày nó sẽ thức tỉnh và cứu vớt họ khỏi những sự cám dỗ lớn, giải thoát linh hồn họ khỏi sự hư mất đời đời.

Ông H.L.Gee có thuật lại câu chuyện sau đây. Tại nhà thờ nơi ông thường lui tới để tham dự các giờ thờ phượng, có một cụ già cô độc tên Tôma. Cụ sống rất thọ, thọ hơn bạn bè cụ, nên hầu như không còn ai biết cụ nữa. Lúc cụ Tôma qua đời, ông Gee nghĩ rằng, sẽ chẳng có ai thân thiết tiễn đưa cụ. Nghĩ thế nên ông quyết định phải đi với cụ đến nơi an nghỉ cuối cùng. Đúng là không có ai đi tiễn đưa cụ cả. Hôm đó trời lại mưa tầm tã. Người nào người nấy ướt như chuột. Khi quan tài gần đến nghĩa trang, thì ông thấy có một quân nhân đang đứng ở cổng chờ. Đó là một sĩ quan…. nhưng trên áo mưa không thấy quân hàm. Người đó đến bên huyệt dự lễ an táng. Lễ xong, ông ta tiến đến trước huyệt đưa tay lên chào theo nghi thức dành cho một vị vua. Rồi… ông Gee và quân nhân đó cùng đi về. Khi họ đang đi, gió thổi bật cái áo mưa của vị sĩ quan và ông Gee chợt nhìn thấy quân hàm của ông ta: quân hàm thiếu tướng. Vị sĩ quan nói với ông Gee: “Có lẽ ông ngạc nhiên không hiểu tôi đến đây làm gì. Nhiều năm trước đây, cụ Tôma là giáo viên dạy giáo lý ở nhà thờ tôi. Tôi là một thằng bé ngỗ nghịch và là một thứ gai nhức nhối cho cụ. Cụ không hề biết cụ đã làm gì cho tôi, nhưng cả đời tôi mang ơn cụ và hôm nay tôi phải đến để nghiêng mình chào tiễn biệt cụ lần cuối cùng”.

Đúng là cụ Tôma không biết được việc mình đã làm, không một giáo sư hay một nhà truyền đạo nào biết được những việc làm của mình sẽ ra sao. Công tác của chúng ta là gieo ra không chút nản lòng và phần còn lại hãy để cho Chúa.

 

 

 

THỨ BẢY TUẦN 16 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Mt 13, 24-30

Khi ấy, Chúa Giêsu phán một dụ ngôn khác cùng dân chúng rằng: Nước trời giống như người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. Trong lúc mọi người ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo cỏ lùng vào ngay giữa lúa, rồi đi mất.

Khi lúa lớn lên và trổ bông, thì cỏ lùng cũng lộ ra. Đầy tớ chủ nhà đến nói với ông rằng: “Thưa ông, thế ông đã không gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Vậy cỏ lùng từ đâu mà có?” Ông đáp: “Người thù của ta đã làm như thế”. Đầy tớ nói với chủ: “Nếu ông bằng lòng, chúng tôi xin đi nhổ cỏ”.

Chủ nhà đáp: “Không được, kẻo khi nhổ cỏ lùng, các anh lại nhổ luôn cả lúa chăng. Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt. Và đến mùa, ta sẽ dặn thợ gặt: Các anh hãy nhổ cỏ lùng trước, rồi bó lại từng bó mà đốt đi, sau mới thu lúa lại chất vào lẫm cho ta”.

 

Suy Niệm 1: Đừng nhổ cỏ lùng

Suy niệm:

Cỏ lùng ở đâu mà ra vậy?

Cỏ lùng trong ruộng khiến các đầy tớ ngỡ ngàng.

Thửa ruộng vốn chỉ được gieo giống tốt.

Vậy mà khi lúa mọc lên và trổ bông.

cỏ lùng lại xuất đầu lộ diện.

Bởi đâu mà có cỏ lùng, có người xấu?

Bởi đâu mà ở nơi ta tưởng là trong ngần

lại bất ngờ có dấu hiệu của sự vẩn đục?

Có tác động xấu xa nào của Thần Dữ đẩy đưa?

Có sự ưng thuận chiều theo nào của con người?

Ông có muốn chúng tôi nhổ đi không?

Chúa có muốn chúng tôi tiêu diệt mọi kẻ xấu không?

Ngài có muốn chúng tôi xây dựng một Giáo Hội toàn bích,

một xã hội chỉ gồm toàn những người tốt không?

Lắm khi chúng ta nóng nảy như Gioan và Giacôbê,

đòi đốt cả làng người Samari, vì họ không tiếp Chúa.

Ðừng, sợ rằng khi nhổ cỏ lùng, lại làm hư rễ lúa.

Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt.

Như thế Thiên Chúa để cho cỏ mọc chung với lúa.

Ngài chấp nhận tình trạng vàng thau lẫn lộn.

Ngài nhẫn nại với tội nhân, với cỏ lùng.

Cỏ lùng chẳng bao giờ thành lúa được.

Nhưng người xấu có thể hoán cải nên người tốt.

Chính vì thế Thiên Chúa cứ kiên tâm chờ đợi.

Chờ đợi vì tin vào sự hoán cải của con người.

Chờ đợi vì tôn trọng tự do lựa chọn của họ.

Chờ đợi vì nuôi một niềm hy vọng lớn lao.

Sự thánh thiện của Thiên Chúa ở nơi sự chờ đợi.

Ngài còn chờ đợi cho đến ngày tận thế.

Trong thế giới và Giáo Hội không có hai hạng người:

hạng cỏ lùng và hạng lúa tốt.

Cỏ lùng và lúa tốt nằm ở nơi tim mỗi người.

Mỗi người đong đưa giữa cỏ lùng và lúa tốt,

giữa cái thiện và cái ác, giữa thiên thần và Satan.

Ngay trong những hành vi tốt đẹp nhất của tôi,

tôi vẫn thấy có chút vị kỷ, chiếm đoạt.

Thiên Chúa vẫn chấp nhận cỏ lùng ở trong tôi.

Ngài chờ tôi được thanh luyện dần dần,

để rồi mọi sự trong tôi thành lúa tốt.

Kitô hữu không dung túng sự dữ,

họ dám hy sinh để xây dựng một thế giới yêu thương.

Nhưng họ không dùng bạo lực để chống lại ác nhân.

Họ nhẫn nại biến đổi trái tim kẻ thù,

vì họ tin vào sức mạnh của tình yêu,

tin vào Ðức Giêsu, Ðấng đã bị sự dữ nuốt chửng

nhưng cuối cùng là Ðấng toàn thắng.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con,

xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.

Mỗi lần con thấy Chúa,

xin biến đổi ánh mắt con.

Mỗi lần con rước Chúa,

xin biến đổi môi miệng con.

Mỗi lần con nghe lời Chúa,

xin biến đổi tai con.

Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn

sau mỗi lần gặp Chúa.

Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa

trong nụ cười của con,

thấy sự dịu dàng của Chúa

trong lời nói của con.

Thế giới hôm nay không cần những kitô hữu

có bộ mặt chán nản và thất vọng.

Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm

cùng đi với Chúa và với tha nhân

trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

Suy Niệm 2: Tình yêu và lòng khoan dung

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Tình yêu thương của Thiên Chúa thật lớn lao. Luôn có sáng kiến. Luôn đi bước trước. Và luôn trung tín. Chúa đã có sáng kiến và đi bước trước khi tuyển chọn Áp-ra-ham. Chúa vẫn trung tín khi giải thoát dân Ít-ra-en khỏi ách nô lệ Ai-cập. Chúa có sáng kiến đi bước trước khi ban Lề Luật cho dân. Giao ước ký kết trên núi Xi-nai là bằng chứng tình yêu. Cũng là để chính thức xác nhận Ít-ra-en là dân riêng của Chúa. Đó là một giao ước một chiều. Hoàn toàn có lợi cho dân Ít-ra-en. Thấy tất cả những việc Chúa làm, dân Ít-ra-en không ngần ngại ký kết và đoan hứa: “Tất cả những gì Đức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và tuân theo” (năm lẻ).

Tuy nhiên dân Chúa luôn phản bội. Chúa vẫn trung tín. Lòng trung tín của Chúa đã biến thành lòng khoan dung. Luôn tha thứ. Luôn kiên nhẫn đợi chờ người dân hoán cải. Đó chính là ý nghĩa dụ ngôn “Lúa đồng và cỏ dại”. Lịch sử dân Do thái cũng là lịch sử mỗi người chúng ta. Chúng ta ký kết giao ước với Chúa. Nhưng Chúa luôn trung tín. Còn chúng ta luôn phản bội. Nhưng Chúa vẫn khoan dung, kiên nhẫn đợi chờ. Như ông chủ không nhổ ngay cỏ lùng. Sợ làm hư lúa: “Đừng, sợ rằng khi gom cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa”. Người khắc nghiệt thì bắt lầm hơn bỏ sót. Còn Chúa khoan dung thì bỏ sót hơn bắt lầm. Kiên nhẫn chờ đến mùa gặt. Bấy giờ mới phân biệt rạch ròi giữa cỏ và lúa. Chưa đến mùa thì còn hi vọng con người sẽ hoán cải. Chúa sẽ chờ cho đến ngày cùng tháng tận. Khi không còn có thời gian nữa mới thôi. Lòng Chúa khoan dung biết bao.

Vì thế Chúa luôn mời gọi ta sám hối ăn năn. Ăn ăn sám hối để sống với Chúa bằng tình yêu chân thật. Không phải chỉ giữ đạo bằng hình thức bề ngoài. Coi giao ước như một bùa hộ mệnh. Nhưng tâm hồn xa cách Chúa. Đừng tưởng ở trong Giáo hội cho có danh hiệu là đủ. Nhưng cần phải có đời sống thực sự tốt đẹp. Mới xứng đáng ở trong Nhà Chúa. “Nếu các ngươi thật sự cải thiện lối sống và hành động của các ngươi, nếu các ngươi thật sự đối xử công bằng với nhau, không ức hiếp ngoại kiều hay cô nhi quả phụ, nếu các ngươi không đổ máu người vô tội nơi đây, không đi theo các thần ngoại mà chuốc hoạ vào thân, thì Ta sẽ cho các ngươi lưu lại nơi này, trong phần đất Ta đã ban cho cha ông các ngươi đến muôn đời” (năm chẵn).

Lạy Chúa, nếu Chúa chấp tội, nào ai được cứu thoát. Xin ban ơn cho con biết ăn năn sám hối. Và xin thương thân phận yếu hèn của chúng con.

 

Suy Niệm 3: Cỏ lùng và lúa

Chứng kiến những tiêu cực trong Giáo Hội xét như là một cơ cấu, nhiều người trong chúng ta dễ rơi vào cơn cám dỗ nổi loạn và tìm những giải pháp cực đoan. Chúng ta muốn rời bỏ Giáo Hội, vì chúng ta không muốn thấy những tệ đoan trong Giáo Hội. Như dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay gợi lên, chúng ta không muốn để cho cỏ lùng được mọc lên bên cạnh lúa tốt, chúng ta muốn phân cách rạch ròi người lành với kẻ dữ.

Truyện thánh Jean d’Arc vào thế kỷ 15 có thể đem lại cho chúng ta bài học thích đáng. Cảm nhận được tiếng gọi đặc biệt của Chúa, cô gái quê 13 tuổi đã đứng lên lãnh đạo quân đội Pháp chống lại cuộc xâm lăng của nước Anh. Nhưng cô bị người Anh bắt giữ và đem ra xử tử như một người lạc giáo. Các nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó cấu kết với thế quyền để tiêu diệt cô; họ tìm đủ cách để đe dọa và thị oai cô gái; họ buộc cô phải đặt tay trên Phúc Âm và thề rằng cô chỉ nói sự thật mà thôi. Một viên thẩm phán của tòa án tôn giáo lúc bấy giờ đặt câu hỏi: “Cô có nghĩ rằng cô đang ở trong tình trạng sạch tội không?”. Cô gái trả lời: “Nếu tôi không ở trong tình trạng ân sủng, thì xin Chúa cho tôi được sạch tội; còn nếu tôi đang ở trong tình trạng ân sủng, thì xin Chúa giữ tôi luôn ở trong tình trạng ấy”.

Không bắt bẻ được cô gái, các viên chức của tòa án tôn giáo gồm 1 Hồng y, 6 Giám mục, trên 30 nhà thần học, 7 bác sĩ, hàng trăm nguyên cáo cảm thấy tức tối vô cùng. Họ bảo rằng họ là Giáo Hội, còn cô chỉ là một thứ cỏ lùng. Jean d’Arc trả lời: “Ðối với tôi, ở đâu có Chúa Kitô, thì ở đó có Giáo Hội, không thể có mâu thuẫn giữa Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài”.

Tuy không chứng minh được sự lạc giáo của cô gái, tòa án tôn giáo lúc bấy giờ vẫn kết án tử hình cô và ra lệnh thiêu sống cô. Hai mươi lăm năm sau, một tòa án của Giáo Hội đã đảo lộn phán quyết của tòa án tôn giáo nói trên, và năm 1920, Jean d’Arc đã được Giáo Hội tôn phong hiển thánh và được đặt làm quan thày của Nước Pháp. Thánh nữ Jean d’Arc đã hiểu được thế nào là cỏ lùng trong cánh đồng Giáo Hội.

Giáo Hội vốn không phải là một xã hội hoàn hảo. Giáo Hội tự bản chất là thánh thiện, nhưng lại gồm những con người tội lỗi, đó là ý nghĩa của dụ ngôn mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe và suy niệm hôm nay. Chúng ta có một Giáo Hội gồm nhiều vị thánh, nhưng cũng có vô số tội nhân. Những tội nhân vẫn có thể trở thành các thánh trong giây phút, còn các vị thánh thì trở nên thánh thiện hơn; các tội nhân cần sự tha thứ của chúng ta; còn các thánh thì khơi dậy sự cảm phục và quyết tâm cải hóa của chúng ta. Người Pháp thường nói: “Ðể hiểu mọi sự, thì cần phải tha thứ mọi sự”. Chúng ta luôn được mời gọi để nhìn Giáo Hội như một đoàn người đang lữ hành, trong đoàn người này, có người đang cố gắng tiến đến gần Chúa, có kẻ lại xa rời Ngài.

Làm người Kitô hữu chính là nhập cuộc vào đoàn người lữ hành ấy với cố gắng, với thiện cảm và nhất là với cảm thông. Những kẻ cuồng tín cũng giống như một vụ cháy rừng. Lửa bốc cháy và tiêu diệt cả những mầm non: lửa cần thiết cho cuộc sống, nhưng lửa cần phải được làm chủ và sử dụng vào mục đích. Yêu mến Giáo Hội là luôn thức tỉnh để nhận ra những tiêu cực và tệ đoan trong Giáo Hội. Ðó là sự thức tỉnh của thánh Phanxicô Assisiô thời Trung cổ. Thế nhưng, con đường canh tân mà thánh nhân đã chọn không phải là nổi loạn hoặc lìa bỏ Giáo Hội, mà là canh tân chính bản thân bằng cuộc sống hy sinh, từ bỏ, và nhất là cảm thông. Ðó là cách thế tốt nhất để đương đầu với cỏ lùng chen lẫn lúa tốt trong cánh đồng Giáo Hội.

Nguyện xin Chúa hướng dẫn chúng ta trên đường của các thánh, đó là con đường của yêu thương, cảm thông và tha thứ.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Rửa Sạch Tội Lỗi (Mt 13,24-30)

Qua Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã thực hiện tất cả những gì có thể cứu chuộc con người, nhưng ơn cứu độ đó không thể phát sinh hiệu năng, nếu mỗi chúng ta không mở lòng ra để đón nhận. Chúa Giêsu đã đến và giải thoát con người, Ngài cũng ban cho con người biết bao phương thức để con người duy trì và thăng hoa tình trạng ân sủng của mình. Vậy, tại sao tội lỗi vẫn ngập tràn? Thưa, đó là tự do của con người, chúng ta không thể trách Chúa là không cứu con người khỏi tình trạng tội lỗi, nhưng hãy tự trách mình sao không muốn đứng dậy để đưa tay cho Chúa và Chúa sẽ dẫn ta thoát ra khỏi vũng bùn đen của tội lỗi.

Thế giới quanh ta có biết bao những cơ hội, phương tiện giúp chúng ta sống và thăng tiến, nhưng nếu chúng ta không muốn thì cơ hội vẫn chỉ là cơ hội như một chuyện tình cờ, một biến cố chợt đến và chợt đi, mọi sự vẫn hoàn nguyên. Cần phải có nỗ lực của bản thân thì mới thoát khỏi những gì là xấu xa, hèn kém, khi đó mọi vật, mọi sự trên thế giới quanh ta mới phát huy tính năng của nó, để giúp ta thăng tiến bản thân cũng như cuộc sống của mình và anh chị em chung quanh. Chúng ta hãy dùng sức mạnh và tình yêu của Chúa để rửa sạch tội lỗi, sự thánh thiêng sẽ lộ rõ trên khuôn mặt tràn đầy ân sủng. Như hạt giống đức tin đã được gieo vãi trong lòng con người cứ âm thầm mọc lên, nó không thể trổ hoa và kết hạt tốt nếu chúng ta không để ý chăm sóc vun trồng.

Nhìn lại tình trạng tội lỗi của con người dưới ánh sáng của Lời Chúa hôm nay, chúng ta không thể không thốt ra lời tạ ơn vì tình thương và lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa đối với con người. Ngài luôn kiên nhẫn, chờ đợi và mời gọi con người hãy trở về với Ngài để sống sung mãn trong ân sủng, cho dẫu con người cứ giả điếc làm ngơ. Thiên Chúa luôn ở với con người. Tiếng gọi thì thầm của Ngài sẽ có lúc vọng lên nơi thẳm sâu tâm hồn của mỗi người, khơi dậy và làm bừng lên ngọn lửa yêu mến Ngài đã gieo trong lòng ta. Ðó là ước mơ và thao thức của Ngài. Chớ gì đừng có một ai trong chúng ta tạo ra bất cứ một ranh giới cản trở hay khó khăn nào để chôn chặt Lời Chúa. “Hãy để cho cả hai mọc lên”, với sự tin tưởng và sức mạnh của Lời Chúa, chúng ta hãy để cho Lời Người thấm nhập và hoán cải tâm hồn mình và thế giới chúng ta đang sống, và đừng hỏi vì sao thế giới vẫn ngập tràn tội ác, nhưng hãy tự hỏi: Tôi có thể làm gì với những điều tôi đang có tại đây và ngay trong lúc này, để ơn cứu độ và tình thương của Chúa được lan rộng và lớn lên trong tâm hồn tôi cũng như anh chị em quanh tôi?

Lạy Chúa,

Xin cho chúng con luôn hân hoan ra đi gieo rắc Lời Chúa một cách quảng đại như Chúa đã nêu gương.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 5: Bao giờ mới hết sự ác.

Đức Giêsu trình bày cho dân chúng nghe một dụ ngôn khác: “Nước Trời ví như chuyện người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. Khi mọi người đang ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo thêm cỏ lùng vào giữa lúa, rồi đi mất.” (Mt. 13, 24-25)

Ông chủ và các người đầy tớ đã không cảnh giác chăng? Nhưng, ngay cả thời buổi này, ai đòi phải tính đến chuyện canh chừng cho thuở ruộng vừa mới gieo vãi chăng? Chẳng có gì để cho người ta ăn trộm cả… Khi lúa mọc lên và trổ bông thì cỏ lùng cũng xuất hiện, mọc chung, lớn lên cùng lúc với cây lúa, nhưng không làm cho lúa chết. “Thế thì cỏ lùng ở đâu ra vậy?” Cứ sự thường người ta đều muốn phải nhổ cỏ, phải diệt cỏ xấu để bảo vệ cho lúa tốt. Nhưng ông chủ lại bảo “Đừng, sợ rằng khi nhặt cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa. Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt.” Phải biết kiên nhẫn và đợi chờ…

Sự ác

Một khi điều xấu được gieo rắc rồi, thì người xấu không phải ở đó mà chờ đợi. Thực vậy, điều xấu sẽ mau chóng phổ biến. Thực vậy điều xấu sẽ chẳng giấu mặt ẩn mình, ai nấy sẽ dễ dàng nhận ra được cái xấu. Một cách nào đó, sự xấu còn dương dương tự đắc là sẽ thắng thế, nên sẽ trà trộn với cái tốt.

Còn sự thiện …

Ông chủ biết rõ rằng điều tốt ông gieo cũng sẽ lớn lên. Ông có cả một thời gian là quá trình lịch sử nhân loại để thực hiện điều này. Điều ta cần lưu ý là trong dụ ngôn, Chúa không bảo sự ác sẽ lấn lướt và thay thế cho sự thiện. Trái lại, đến ngày tận thế kẻ lành, điều tốt sẽ nắm phần chiến thắng.

Thế nhưng chẳng lễ ta sẽ phải đợi cho đến ngày tận thế, ngày chấm dứt cuộc sống này thì sự ác mới không xuất hiện, và những sự xấu xa của nhân loại mới chấm dứt chăng?

Không, thời gian này cũng chính là thời kỳ gặt lúa rồi đó. Chúng ta đang sống trong những thời điểm cuối cùng, không phải cuối cùng của trần gian, mà theo ngôn ngữ của thơ gởi tín hữu Do-thái, thì đó là thời điểm của Phục Sinh.

Nếu mỗi ngày và trải dài cuộc sống ta đều nhìn thấy sự ác, điều xấu và dễ dàng nhận ra điều tốt, điềuxấu, thì bổn phận của mỗi người chúng ta phải góp nhặt lấy cho thật nhiều điều tốt việc lành, chứ không phải là những điều xấu việc xấu. Ta đừng viện cớ mình không biết hoặc đổ lỗi cho những tập tục của xã hội hay nhún vai phân bua! tôi biết làm sao hơn? quyền chọn lựa là của ta. Ta chọn sự thiện hay sự ác, chọn làm người lành hay kẻ dữ.

J.M

 

Suy Niệm 6: LÚA VÀ CỎ LÙNG MỌC CÙNG LÚC (Mt 13, 36-43)

Xem lại CN 16 TN A

Sự bất nhân và không bao dung đã là cha đẻ sinh ra tính ích kỷ, óc bè phái nơi con người. Thật thế, con người luôn tìm dịp để trả thù nhau… Chính vì sự hẹp hòi này mà cái ác đã thắng cái thiện, sự tội đã thắng lẽ công chính! Vì thế, dù đối phương có tốt thế nào, thì trước con mắt của những kẻ muốn trả thù, họ đều là xấu xa.

Quan điểm này hoàn toàn ngược lại ý hướng và mục đích của Thiên Chúa qua hình ảnh ông chủ trong dụ ngôn cỏ lùng hôm nay.

Câu chuyện khởi đi từ việc gia nhân thắc mắc xem tại sao có cỏ lùng trong ruộng??? Tuy nhiên, ông chủ đã khẳng định rõ rằng: đó là do kẻ thù gieo trộm vào nên mới có! Sau đó, gia nhân đã không kiên trì nổi, nên xin ông chủ cho họ đi nhổ cỏ lùng kẻo nó lấn át lúa! Tuy nhiên, ông chủ đã không đồng ý và đưa ra lý do: “Đừng! Sợ rằng khi gom cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa. Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt. Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa, thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi”.

Qua dụ ngôn trên, chúng ta thấy toát lên lòng nhân từ, bao dung và kiên nhẫn của Thiên Chúa. Ngài luôn yêu thương người lành cũng như kẻ dữ, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương. Vì thế, đã có lần chính Đức Giêsu tuyên bố: “Ngài đến để cứu chuộc những người tội lỗi chứ không phải những người công chính”.

Trong cuộc sống hôm nay, nhiều khi chúng ta nóng vội và bất nhân khi chỉ nghĩ đến lỗi người khác và mong muốn loại trừ họ. Sẵn sàng làm mất thanh danh, tiếng tốt nơi anh chị em mình bằng những lời chửi bới hay dèm pha… chỉ vì họ không làm theo ý chúng ta.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy kiên nhẫn chờ đợi như ông chủ. Hãy tạo cơ hội cho anh chị em mình làm lại cuộc đời. Nếu họ không trở lại mà sám hối ăn năm thì hậu quả ắt sẽ đến với họ là bị quăng vào lửa không hề tắt… Đồng thời, cần xác tín rằng: ai cũng là kẻ có tội, vì thế, chính bản thân mỗi người hãy khiêm tốn để trở về với Chúa khi còn có thể. Nếu không, số phận của cỏ lùng trong ngày sau hết cũng là số phận của mỗi chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết yêu thương, nâng đỡ nhau trong cuộc sống, để mọi người được hưởng ơn cứu chuộc của Chúa. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 7: Dụ ngôn cỏ lùng

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Dụ ngôn cỏ lùng muốn nói đến Giáo hội ở trần gian lúc nào cũng tồn tại hai hạng người lành – dữ và hai thế lực thiện – ác lẫn lộn. Thái độ của ông chủ trong bài Tin Mừng khi biết trong ruộng lúa của mình có cỏ lùng là cứ để cho lúa và cỏ lùng cùng tồn tại cho đến mùa gặt. Dụ ngôn cho thấy Thiên Chúa luôn yêu thương và kiên nhẫn chờ đợi những người còn yếu đuối, để cho họ được cứu độ.
  2. Trong cuộc sống hôm nay, nhiều khi chúng ta nóng vội và bất nhân khi chỉ nghĩ đến lỗi của người khác và mong muốn loại trừ họ. Sẵn sàng làm mất thanh danh, tiếng tốt nơi anh chị em mình bằng những lời chửi bới hay dèm pha… chỉ vì họ không làm theo ý chúng ta.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy kiên nhẫn chờ đợi như ông chủ. Hãy tạo cơ hội cho anh chị em mình làm lại cuộc đời. Nếu họ không trở lại mà sám hối ăn năn thì hậu quả ắt sẽ đến với họ là bị quăng vào lửa không hề tắt… Đồng thời, cần xác tín rằng: ai cũng là kẻ có tội, vì thế, chính bản thân mỗi người hãy khiêm tốn để trở về với Chúa khi còn có thể. Nếu không, số phận của cỏ lùng trong ngày sau hết cũng là số phận của mỗi người chúng ta.

  1. Trong khi chờ đợi ngày cuối cùng đó, mỗi người cần có thái độ của ông chủ trong dụ ngôn. Đây cũng chính là thái độ mà Chúa Giêsu muốn dùng để ám chỉ về lòng kiên nhẫn, cảm thông của Thiên Chúa đối với loài người. Theo dụ ngôn, thì chúng ta thấy, cỏ lùng chẳng hề biến thành lúa tốt, và lúa tốt không bao giờ biến thành cỏ lùng; nhưng nơi con người thì khác, không ai bị coi là xấu mãi mãi, và cũng không ai có thể tự phụ cho mình là tốt hoàn hảo. Nơi mỗi con người chắc chắn cũng có những cỏ lùng, tức là những khuyết điểm mà chúng ta phải cố gắng chừa bỏ để trở nên tốt hơn.

Vậy thì bài học ở đây là phải biết chấp nhận thực trạng đó.

  1. Trong Hội thánh và nơi mỗi người có một sự pha trộn thánh thiện và tội lỗi, thiện và ác đó là điều không thể tránh được. Hội thánh là thánh thiện tự bản chất, nhưng Hội thánh cũng có những con người yếu đuối và tội lỗi, và chúng ta, mặc dầu đã nhận nhiều ân sủng qua phép Rửa tội cũng có khuynh hướng phạm tội.

Như thế, qua dụ ngôn này, chúng ta đừng có ảo tưởng là có thể có một Hội thánh hoàn hảo ở trên trần gian này, trong đó chỉ toàn những người thánh thiện. Trái lại, kẻ lành người dữ sống chung với nhau. Hội thánh đó tuy có biết bao người tốt lành thì vẫn tồn tại những cá nhân tội lỗi núp bóng Hội thánh. Đó là một sự thanh luyện trường kỳ làm cho Hội thánh ngày càng hoàn thiện hơn cho đến ngày được viên mãn trong Chúa Giêsu quang lâm. Và Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi cho kẻ dữ ăn năn sám hối để được tha thứ.

  1. Bài dụ ngôn lúa tốt và cỏ lùng dạy ta bài học sau đây: mùa gặt, ngày tận thế là thời gian chín mùi để có thể kết án ai là cỏ lùng và tuyên dương ai là lúa tốt thực sự. Sự vội vàng xét đoán người thiện kẻ ác có nguy cơ khiến lúa tốt lại bị coi là cả lùng, cỏ lùng bị nhầm là lúa tốt. Hơn nữa, chính Chúa mới là chủ để đưa ra lời phán quyết chung thẩm. Trước mùa gặt cánh chung ấy, Chúa dạy chúng ta sống nhân từ, nhẫn nại giữa tình trạng lúa tốt xen lẫn cỏ lùng, người tốt kẻ xấu ở chung với nhau, ngay cả trong lòng một hội được gọi là Hội thánh của Ngài. Trong lĩnh vực tự nhiên, lúa tốt  vẫn là lúa tốt, cỏ lùng mãi là cỏ lùng; thế nhưng, nơi cánh đồng tâm hồn con người thì không như vậy: người xấu có thể hoán cải trở thành bậc thánh nhân, và coi chừng người đang là tốt đây có thể biến chất mà thành kẻ tội lỗi (5 phút Lời Chúa).
  2. Giáo hội là thân thể Đức Kitô. Giáo hội hiện diện trong trần thế như dấu chỉ của lòng kiên nhẫn và khoan dung của Đức Kitô. Sự kiên nhẫn và bao dung ấy được thể hiện qua cuộc sống yêu thương, tôn trọng và tha thứ của người Kitô hữu đối với mọi người, nhất là những người không cùng niềm tin và quan điểm với mình. Qua cuộc sống như thế, người Kitô hữu làm chứng rằng Thiên Chúa là Tình yêu và yêu thương là ơn gọi đích thực của con người.
  3. Truyện: Cải tà qui chính.

Piri Thomas có viết một tác phẩm nhan đề “Hãy xuống những con đường tồi tàn này”. Tác phẩm thuật lại việc ông cải tà qui chính từ một người bị kết án tù vì nghiện ma túy và cố tình giết người, cuối cùng đã sám hối để trở thành một tín hữu Kitô gương mẫu.

Một đêm kia, Piri đang nằm trong phòng giam chuẩn bị ngủ. Đột nhiên, anh nghĩ tới tình trạng tệ hại xấu xa mà anh đã gây ra trong đời mình. Anh cảm thấy có một ước muốn mãnh liệt cần phải cầu nguyện. Nhưng anh đang nằm chung với một tù nhân khác tên là Chicô. Nên anh phải đợi cho Chicô ngủ đã, anh mới quì gối trên sàn nhà và cầu nguyện. Anh kể lại rằng: “Tôi bầy tỏ với Chúa những gì có trong tim tôi… Tôi nói với Ngài  những điều tôi muốn, những thiếu thốn của tôi, những hy vọng và thất vọng… Tôi cảm thấy dường như  có thể khóc được… đó là một điều mà bao nhiêu năm nay tôi không thể làm được”.

Sau khi Piri cầu nguyện xong, một tiếng nói đáp lại: “Amen”. Đó là tiếng của Chicô. Rồi Chicô nói nhỏ với Piri: “Tôi cũng tin Chúa”. Thế là hai người bạn tù dốc cạn quá khứ tội lỗi xấu xa và cùng chia sẻ  quyết tâm sám hối trở về. Không biết họ đã tâm sự với nhau bao lâu, nhưng trước khi đi ngủ lại, Piri đã nói: “Chúc Chicô ngủ ngon nhé! Tôi nghĩ rằng Thiên Chúa luôn luôn ở với chúng ta, chỉ có chúng ta là không ở với Ngài thôi”.

 

Suy Niệm 8: ,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Hạt giống Lời Chúa được gieo vào lòng mỗi người. Hạt giống ấy đạt kết quả ra sao là tùy thuộc vào thái độ đón nhận của chúng ta. Để sinh hoa trái dồi dào, chúng ta hãy cộng tác tích cực làm cho hạt giống nảy mầm và phát triển phong phú.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nhọc công vỡ đất và gieo hạt vào hồn con. Hạt giống là Lời Chúa và chính Chúa. Chúa giao cho con quyền coi sóc thửa ruộng hồn mình. Ngày qua ngày, con ao ước trở thành thửa ruộng tốt, một thửa ruộng không có gai góc sỏi đá và những con đường mòn dọc ngang chai cứng. Nhưng thực tế thì khác. Đã có lúc con phí phạm đánh mất ơn Chúa, đã có lần con làm ngơ, bịt tai trước lời mời gọi yêu thương. Lần này qua lần khác, tâm hồn con dần dần trở nên chai cứng, khiến hạt giống Nước Trời èo uột, khô héo.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa biết rõ điều đó. Nhưng lòng quảng đại của Chúa vẫn ban phát cách rộng rãi và lòng nhân từ Chúa vẫn kiên tâm chờ đợi con đáp lời. Con xin dâng lời cảm tạ vì Chúa vẫn một lòng thương con. Tâm hồn con càng tội lỗi, thửa ruộng con càng chai lỳ, Chúa càng ban ơn dồi dào phong phú, con tin chắc rằng không bao giờ Chúa rút lại tình yêu thương ấy.

Xin Chúa giúp con biết săn sóc tâm hồn đã được Chúa cứu chuộc và thánh hóa. Xin đừng để con bóp nghẹt ơn Chúa, bóp nghẹt tình yêu Chúa đang triển nở trong con. Xin Chúa giúp con biết chăm sóc thửa ruộng hồn mình bằng cách nhổ đi những cỏ dại tội lỗi, đốt cháy đi những rơm rác của thói hư tật xấu, để có thể sinh nhiều hoa trái như lòng Chúa ước mong. Amen.

Ghi nhớ: “Kẻ nghe lời giảng mà hiểu được, nên sinh hoa kết quả”.

 

Suy Niệm 9: ,,,

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

 

Suy Niệm 10: ,,,,,,,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống…)

Chúng ta hãy nghe chính Đức Giêsu giải nghĩa 4 loại đất, tiêu biểu cho 4 thái độ của con người trước Lời Chúa:

– Đất vệ đường: những kẻ chẳng thiết tha gì đến Lời Chúa. Lời gieo xuống đó chẳng bao lâu thì bị quỷ dữ cướp đi.

– Đất lẫn sỏi đá: những người mau mắn đón nhận Lời Chúa nhưng không quý chuộng bao nhiêu. Khi gặp chút gian khó thì bỏ cuộc.

– Đất có nhiều gai: những người cũng đón nhận lời Chúa, nhưng điều họ quan tâm hơn là những đam mê, vui thú, của cải… Các thứ sau này như gai góc um tùm dần dần làm cho Lời Chúa chết ngạt.

– Đất tốt: những người sốt sắng nghe Lời và quảng đại thi hành.

  1. Suy gẫm (… nảy mầm)

Mỗi ngày Chúa Nhật chúng ta dự Thánh Lễ, Lời Chúa đều được gieo vào lòng chúng ta.

– Có khi nghe xong chúng ta quên liền. Sau Lễ, nếu có ai hỏi ta bài Tin Mừng hôm nay nói gì, chắc ta không trả lời được. Chúng ta là vệ đường.

– Có khi chúng ta cảm thấy Lời Chúa rất hay và có ý muốn làm theo. Nhưng trở về với cuộc sống nhộn nhịp, vài ngày sau ý muốn ấy đã tắt ngúm. Chúng ta là đất lẫn sỏi đá.

– Có khi chúng ta thực tâm thi hành lời Chúa. Thế rồi chuyện này chuyện nọ trong cuộc sống xảy đến. Chúng ta quan tâm giải quyết những chuyện ấy hơn. Lời Chúa bị bóp chết. Chúng ta là đất có nhiều gai góc.

– Chỉ cần một câu Tin Mừng thôi nhưng được suy gẫm kỹ và được kiên trì thực hiện thì sẽ sinh kết quả gấp trăm.

Một ông vua nọ có thói quen mỗi ngày nghe một đoạn trong kinh Bagayad Gita. Người phụ trách việc đọc kinh này là một nhà sư đạo đức, thông thái. Cứ mỗi lần đọc xong một đoạn kinh, ông lại dùng đến kiến thức uyên bác của mình để giải thích cho vua nghe. Và ngày nào ông cũng đặt câu hỏi “Bệ hạ có hiểu những gì thần vừa dẫn giải không ?” Nhưng lần nào nhà vua cũng chỉ trả lời “Khanh nên hỏi điều đó với khanh trước đã”…

Ngày nọ, giữa lúc đọc kinh, ông bỗng được giác ngộ và nhận ra tất cả mọi sự đều là hão huyền. Thế là nhà sư quyết từ bỏ mọi sự và lên đường bắt đầu cuộc sống của một người hành khất. Trước khi ra đi, ông nói với nhà vua “Tâu bệ hạ, thế là cuối cùng hạ thần đã hiểu được: Giác ngô đích thực, hiểu biết chân lý chính là thực thi chân lý”.

 

Suy Niệm 11: ,,,,,,,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Nghe dụ ngôn cỏ lùng nầy, ai trong chúng ta cũng hiểu Chúa Giêsu muốn nói đến tình trạng của Nước Trời hay nói cụ thể hơn, đó là Giáo Hội của Chúa ở trần gian. Giáo Hội này bao gồm cả người tốt lẫn kẻ xấu.

Chúng ta hãy nghe một mẩu chuyện nhỏ sau đây:

Susan giơ tay về phía những trẻ bụi đời đang phá phách trên đường phố, nói với người bạn của mình: “Đã hai ngàn năm từ khi Chúa Giêsu đến thế gian, nhưng thế gian vẫn đầy dẫy những người xấu. Ngài chẳng thay đổi được gì”.

Người bạn của Susan nhìn qua bên trái, bên phải thấy những trẻ mặt mày lem luốc, liền nói: “Xà bông đã phát minh từ hai ngàn năm nay, vậy mà vẫn còn đầy dẫy những khuôn mặt dơ bẩn”.

Vâng! Thế giới xưa cũng như hôm nay luôn hiện hữu một thực tại chẳng mấy hoàn hảo, còn pha trộn cả tốt lẫn xấu. Đòi hỏi một thế giới hoàn toàn tốt đẹp tuyệt đối là một đòi hỏi không tưởng. Trong dụ ngôn, Chúa Giêsu nói đến một ruộng lúa có cỏ lùng. Nói thế, Ngài không cấm chúng ta nghĩ đến một số các loại cỏ dại khác hoặc là những cây lúa không trổ bông, hoặc chỉ là những bông lúa lép. Việc đó cho chúng ta thấy trong Giáo Hội của Chúa chẳng thiếu gì những Kitô hữu, chỉ có tên trong sổ rửa tội, có lẽ chưa đến mức độ đã trở thành “Cỏ lùng” nhưng họ là những “Cây vả không sinh trái”.  Những con người như thế cũng đâu khác gì cỏ lùng trong ruộng lúa. Nhưng đây mới chỉ là giai đoạn của Nước Chúa trên trần gian.

Chính vì thế mà khi kể dụ ngôn cỏ lùng và lúa, Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy tất cả rồi sẽ tới ngày kết thúc cuối cùng. Chúa dùng hình ảnh một mùa gặt để diễn ta ngày sự thật này. Trong ngày ấy, Ngài sẽ làm công việc phân định dứt khoát, sẽ không tình trạng lẫn lộn cỏ lùng với lúa tốt, người lành và kẻ dữ. Mọi sự rồi sẽ được phân định rõ ràng. Người lành sẽ được hưởng hạnh phúc ngàn thu, kẻ dữ sẽ bị quăng vào lửa đời đời.

  1. Trong khi chờ đợi ngày cuối cùng đó, mỗi người cần có thái độ như thái độ của ông chủ trong dụ ngôn. Đây cũng chính là thái độ mà Chúa Giêsu muốn dùng để ám chỉ về lòng kiên nhẫn, cảm thông của Thiên Chúa đối với loài người. Theo dụ ngôn, thì chúng ta thấy, cỏ lùng chẳng thể biến thành lúa tốt, và lúa tốt không bao giờ biến thành có lùng, nhưng nơi con người thì khác, không ai bị coi là xấu mãi mãi, và cũng không ai có thể tự phụ cho mình là tốt hoàn toàn. Nơi mỗi con người chắc chắn cũng có những cỏ lùng, tức là những khuyết điểm mà chúng ta phải cố gắng chừa bỏ để trở nên tốt hơn.

Vậy thì bài học ở đây là phải biết chấp nhận thực trạng đó.

Chúng ta cần học lấy bài học cảm thông, kiên nhẫn và bao dung của Thiên Chúa. Vinh quang, thành tựu tốt đẹp chỉ đến sau những nỗ lực cố gắng để vươn lên!

Xin được kết thúc bằng một câu chuyện.

Một tu sĩ trẻ nọ được gởi đến làm việc với một số anh em khác tại một xưởng dệt. Công việc của họ là dệt một khung vải rộng lớn, trên đó mỗi người ngày ngày dệt một phần được trao phó. Việc làm xem ra độc điệu và vô nghĩa. Ngày nọ, không còn chịu đựng nổi một công việc nhàm chán như thế, người tu sĩ trẻ thốt lên với tất cả sự giận dữ của mình:

– Trước khi tôi được sai đến đây, người ta nói với tôi về một công trình nghệ  thuật cao cả mà tôi sẽ góp phần vào. Bây giờ tôi chỉ thấy rằng, tôi phải dùng kim đâm qua xỏ lại như một cái máy, tôi không thấy đâu là nghệ thuật cả.

Nghe thế, vị tu sĩ già mới nói với thầy như sau:

– Con ơi! Làm sao con thấy được công trình nghệ thuật chúng ta đang cộng tác để thực hiện, bởi những gì con đang thấy chỉ là mặt trái của tấm thảm. Hơn nữa, việc con đang làm là một điểm nhỏ trong công trình mà thôi.

Khi tấm thảm đã hoàn thành, người ta lật tấm thảm lại. Lúc bấy giờ, vị tu sĩ trẻ mới thấy rằng mình góp phần vào một tuyệt tác. Đó là bức tranh của ba vua triều bái hài nhi Giêsu, những đường kim mà người tu sĩ trẻ ngày ngày đút qua xỏ lại, chính là hào quang sáng chói trên đầu Chúa Hài Nhi. Điều mà thầy cho là vô nghĩa nhất, giờ đây hiện lên như một kỳ công.

Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con,

xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.

Mỗi lần con thấy Chúa,

xin biến đổi ánh mắt con.

Mỗi lần con rước Chúa,

xin biến đổi môi miệng con.

Mỗi lần con nghe lời Chúa,

xin biến đổi tai con.

Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn

sau mỗi lần gặp Chúa.

Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm

cùng đi với Chúa và với tha nhân

trên những nẻo đường gập ghềnh.

Amen. (Rabboni)

print