Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 18 Thường Niên

Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 18 Thường Niên

 

THỨ HAI TUẦN 18 THƯỜNG NIÊN.

THỨ BA TUẦN 18 THƯỜNG NIÊN.

THỨ TƯ TUẦN 18 THƯỜNG NIÊN.

THỨ NĂM TUẦN 18 THƯỜNG NIÊN.

THỨ SÁU TUẦN 18 THƯỜNG NIÊN.

THỨ BẢY TUẦN 18 THƯỜNG NIÊN.

THỨ HAI TUẦN 18 THƯỜNG NIÊN

Lời Chúa: Mt 14, 13-21

Khi ấy Chúa Giêsu nghe tin Gioan Tẩy Giả đã chết, thì Người rời bỏ nơi đó, xuống thuyền đi đến nơi hoang địa vắng vẻ. Dân chúng nghe biết, thì từ các thành phố đi bộ theo Người. Ra khỏi thuyền, Người thấy dân chúng đông đảo, thì thương xót họ, và chữa những người bệnh tật trong họ.

Chiều tới, các môn đệ đến gần thưa Người rằng: “Đây là nơi hoang địa, mà giờ đã chiều rồi, xin Thầy giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn”. Nhưng Chúa Giêsu nói với các ông rằng: “Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn”. Các ông thưa lại rằng: “Ở đây chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá”. Người bảo các ông rằng: “Hãy đem lại cho Thầy”.

Khi Người đã truyền cho dân chúng ngồi trên cỏ, Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các ông này phân phát cho dân chúng. Mọi người đều ăn no. Và người ta thu lượm được mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn. Số người ăn là năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và con trẻ.

Suy Niệm 1: Bẻ ra và trao đi

Suy niệm:

Tin về cái chết của Gioan Tẩy giả là một nhắc nhở cho Đức Giêsu

về số phận tương tự của một ngôn sứ đang chờ đợi Ngài.

Đức Giêsu cùng với môn đệ rút lui khỏi đó, đi thuyền đến một chỗ vắng.

Ngài không muốn đối đầu với kẻ thù khi giờ của Ngài chưa đến.

Nhưng lạ thay chỗ vắng này lại bất ngờ biến thành chỗ đông người,

khi người ta kéo nhau đi bộ mà đến trước nơi Ngài sắp đến.

Ra khỏi thuyền, Ngài đã thấy họ ở đó rồi.

Chắc họ vui vì họ đi bộ mà nhanh hơn người chèo thuyền!

Còn Đức Giêsu thấy họ thì chạnh lòng thương,

dù kế hoạch đi lánh mặt ở chỗ vắng của Ngài bị vỡ (c. 14).

Khi môn đệ xin Thầy giải tán đám đông, để họ đi mua thức ăn cho đỡ đói,

Ngài bảo: “Họ không cần phải đi đâu cả.

Chính anh em hãy cho họ ăn.”(c. 16).

Hẳn là họ đã hết sức bối rối trước mệnh lệnh khó hiểu này.

Làm sao chuyện đó xảy ra được?

Làm sao nuôi được đám đông ngần này người ở nơi hoang vắng?

Tất cả những gì họ có trong tay chỉ là năm cái bánh và hai con cá (c. 17).

Nhưng những điều đó thì thấm vào đâu!

Họ thất vọng, chán nản, khi thấy sứ mạng thì lớn, mà khả năng lại bé nhỏ.

“Đem lại đây cho Thầy!” (c. 18).

Thầy Giê su bảo môn đệ đem đến cho mình tất cả bánh và cá họ có.

Vấn đề không phải là ít hay nhiều, nhưng là tất cả.

Ngài cần đóng góp nhỏ bé của chúng ta để làm những điều lớn lao.

Hãy đem lại cho Ngài tất cả bánh và cá của đời ta:

một chút thời giờ, một chút khả năng, một chút thiện chí.

Rồi để mặc Ngài định liệu.

Cảnh tượng thật đẹp trong mùa xuân có bãi cỏ xanh mướt.

Dân chúng ngồi trên cỏ thành từng nhóm nhỏ.

Bánh và cá được trao từ tay các môn đệ đến tay Đức Giêsu.

Từ tay Đức Giêsu dâng lên Cha Ngài trên trời với lời tạ ơn chúc tụng.

Rồi từ tay Đức Giêsu trở lại tay các môn đệ,   

từ tay các môn đệ đến tay đám đông dân chúng (c. 19),

và dân chúng hẳn đã bẻ ra chia sẻ cho nhau.

Phép lạ bánh hóa nhiều diễn ra thật mầu nhiệm.

Đức Giêsu đã không làm nên một núi bánh để các môn đệ đến lấy mà phát.

Dường như bánh đã hóa nhiều khi được bẻ ra và trao đi từ tay nọ đến tay kia.

Đức Giêsu đã phải bẻ năm cái bánh cho mười hai môn đệ.

Các môn đệ cũng phải bẻ ra để trao cho đám đông.

Nếu họ cứ giữ cho mình thì năm cái bánh sẽ mãi chỉ là năm cái bánh.

Bẻ ra và trao đi không làm người ta trở nên nghèo, nhưng trở nên dư dật.

Nếu bạn dám trao hết cho Ngài mọi sự bạn có, thì thế giới sẽ được no đủ.

Phép lạ bánh hóa nhiều mãi mãi xảy ra khi ta chia sẻ qua tay Giêsu.

Hôm nay Thầy Giêsu vẫn mời chúng ta: Các con hãy cho họ ăn.

Cầu  nguyện:

Giữa một thế giới

chạy theo tiện nghi, hưởng thụ,

xin cho con biết bằng lòng với cuộc sống đơn sơ.

Giữa một thế giới còn nhiều người đói nghèo,

xin cho con đừng thu tích của cải.

Giữa một thế giới mà sự sống bị chà đạp,

xin cho con biết quý trọng phẩm giá từng người.

Giữa một thế giới không tìm thấy hướng sống,

xin cho con biết xây lại niềm tin.

Lạy Chúa Giêsu,

xin cho con cảm được

cơn đói đang giày vò bao người,

xin cho con nghe được lời mời của Chúa:

“Các con hãy cho họ ăn đi.”

Ước gì chúng con dám trao

tất cả những gì chúng con có cho Chúa,

để Chúa trao tất cả những gì Chúa có

cho chúng con và cho cả nhân loại.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Suy Niệm 2: Chạnh lòng thương

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Thiên Chúa yêu thương săn sóc như người mẹ hiền. Không chịu nổi khi thấy con cái đau khổ thiếu thốn. Đã nghe thấy tiếng than thở của Ít-ra-en sống kiếp nô lệ lầm than. Đã ra tay giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai-cập. Khi vào sa mạc không có bánh ăn, họ kêu than trách móc. Chúa đã ban man-na nuôi họ. Ăn man-na mãi cũng chán, thiếu thịt, họ lại kêu than oán trách. Mô-sê vừa thương vừa sợ. Chạy đến kêu cầu Chúa. “Sao Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên con? …Có phải con đã sinh ra nó không mà Ngài lại bảo con: ‘Hãy bồng nó vào lòng, nhu vú nuôi bồng trẻ thơ, mà đem vào miền đất Ta đã thề hữa với cha ông chúng? Con lấy đâu ra thịt cho cả dân này ăn”. Mô-sê, tôi tớ của Chúa cũng có tấm lòng của Chúa. Yêu thương dân. Nên không chịu nổi tiếng kêu than của dân. Và Chúa chạnh lòng thương ban chim cút cho họ ăn dư thừa (năm lẻ).

Đến thời sau hết, chính Thiên Chúa đích thân đến chăm sóc dân Người. Hôm nay Chúa Giê-su bày tỏ tấm lòng yêu thương chăm sóc cho dân như người mẹ hiền. Chúa chạnh lòng thương vì thấy họ lầm than khốn khổ. Chúa dạy các tông đồ phải lo cho họ ăn. Đừng để họ đói khát đi về đường xa trời tối. Bánh của Chúa ban khiến họ không những ăn no nê. Mà còn hạnh phúc. Vì cảm nhận được tình yêu thương của Chúa. Và hơn nữa Chúa còn chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Giải thoát họ khỏi nô lệ trong cõi u mê không lối thoát. Chúa chính là tấm bánh làm no thoả mọi cơn đói khát của con người. Với quyền năng và tình thương Chúa biến những tấm bánh bé nhỏ thành lớn lao nuôi cả vạn người. Chúa biến nỗi khổ thành niềm vui. Chúa biến thất vọng thành hi vọng. Chúa biến nô lệ thành tự do. Chúa biến lầm than thành hạnh phúc.

Có những tiên tri giả đem tấm bánh giả dối đến cho dân. Tấm bánh vẽ với những lời hứa hão huyền, dễ dãi. Như Kha-nan-gia. Ông không làm theo lời Chúa. Ông đưa dân vào con đường lầm lạc. Nên chính ông phải chết trước (năm chẵn). Tấm bánh của Chúa là tấm bánh thật. Tấm bánh ban không dễ dàng. Vì chính Chúa phải từ trời xuống. Phải chịu biết bao vất vả. Phải chịu cả khổ hình và cái chết. Mới có thể ban tấm bánh hạnh phúc đích thực thoả mãn mọi cơn đói khát của ta. Mô-sê và Giê-rê-mi-a cũng là những môn đệ đích thực. Nên phải đau khổ, vất vả, yêu thương phục vụ dân Chúa.

Xin cho con biết phân biệt bánh thật và bánh vẽ. Xin cho con trở thành môn đệ đích thực của Chúa. Phục vụ bằng tình yêu và hi sinh. Để đem tấm bánh của Chúa cho nhân loại.

Suy Niệm 3: Bánh Hóa Nhiều

Truyện kể một người đàn bà nghèo về vật chất, nhưng lại giầu về lòng tin. Người chủ căn phòng, nơi bà thuê là một người đàn ông giàu có, nhưng keo kiệt và vô đạo; ông thường đem lòng tin của người đàn bà ra làm trò cười.

Một hôm, người đàn bà cầu nguyện lớn tiếng với Chúa rằng hiện trong nhà không còn lấy một hột gạo. Ðể cho người đàn bà một bài học về sự mê tín dị đoan, kẻ vô đạo liền lấy một ổ bánh mì, rón rén đặt trước cửa phòng người đàn bà, bấm chuông rồi chạy vội về phòng mình.

Người đàn bà mở cửa phòng lấy ổ bánh mì, trở lại phòng và cầu nguyện: “Lạy Chúa, con cám ơn Chúa vì con biết rằng lúc nào Chúa cũng nhậm lời con”.

Người đàn ông rất tâm đắc khi nghe một lời cầu nguyện như thế. Ông đến gõ cửa phòng người đàn bà và nói vọng vào: “Hỡi người đàn bà ngu xuẩn, bà tưởng rằng Chúa đã nhậm lời cầu xin của bà ư? Chính tôi là người đã mang ổ bánh đặt trước cửa phòng bà đó”.

Làm như thể không để ý đến lời nói của người đàn ông, người đàn bà nghèo lại tiếp tục cầu nguyện: “Lạy Chúa, chúc tụng Chúa, vì Chúa luôn trợ giúp con trong lúc túng ngặt: Chúa dùng ngay cả một tên quỷ để đáp lại lời cầu xin của con”.

Trong Tin Mừng hôm nay, khi các môn đệ xin Chúa giải tán dân chúng về các làng mạc để họ tự mua thức ăn, Ngài đã truyền lệnh cho họ: “Các con hãy liệu cho họ ăn”. Rồi với năm chiếc bánh và hai con cá do các môn đệ mang đến, Ngài đã nuôi trên 5,000 người được ăn no nê mà còn dư 12 thúng bánh vụn.

Ngày nay, các đám đông đói ăn ấy được nhân lên đến cả triệu lần, họ không chỉ đói, mà còn chết đói là khác. Ðã và đang có biết bao người làm những việc hy sinh để nuôi sống đám đông ấy, nhưng vấn đề quá lớn lao đối với những giới hạn của con người. Dĩ nhiên, con người phải làm hết sức có thể để giúp đỡ đồng loại, nhưng với sức riêng, con người không thể giải quyết được vấn đề quá lớn lao ấy, họ cần có sự trợ lực từ bên trên. Thật thế, chúng ta cần phải có những việc làm cụ thể, vì “đức tin không có việc làm là đức tin chết”. Tuy nhiên, chúng ta chỉ có thể mang lại cơm bánh cho người đói khát, khi chúng ta cũng trao ban cho họ lời cầu nguyện của chúng ta. Tự sức mình, với năm chiếc bánh và hai con cá, các môn đệ không thể nuôi sống trên 5,000 người; thế nhưng, xem chừng Chúa Giêsu không thể làm phép lạ, nếu không có năm chiếc bánh và hai con cá ấy.

Người Kitô hữu chúng ta không chỉ làm công tác xã hội. Năm chiếc bánh và hai con cá do đóng góp và san sẻ của chúng ta cần phải đi đôi với niềm tin và lời cầu nguyện. Với niềm tin và lời cầu nguyện, chúng ta hãy xác tín rằng cách nào đó, Chúa hằng nhậm lời chúng ta và chắc chắn phép lạ luôn diễn ra. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta cầu nguyện: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”.

Ước gì những cố gắng chia sẻ và trao ban của chúng ta luôn được thực thi bằng tất cả niềm tin và lời cầu nguyện. Ước gì niềm tin và lời cầu nguyện của chúng ta cũng được thể hiện bằng những nghĩa cử cụ thể của chúng ta.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Suy Niệm 4: Bánh Hóa Nhiều

Tin Mừng hôm nay nói đến việc Chúa Giêsu thực hiện phép lạ bánh hóa nhiều để nuôi sống dân chúng đang theo Ngài: “Các con hãy cho họ ăn”, đó là những lời phát xuất từ tình yêu thương của Thiên Chúa.

Thật vậy, trước thách thức phải là một cái gì đó để giúp những anh em lâm cảnh khốn khó cần được trợ giúp, các tông đồ đã tỏ ra muốn thoái thác. Họ lý luận dựa trên bình diện tự nhiên: trời đã tối và trong nơi hoang vắng này tìm đâu ra của ăn cho một số đông dân chúng như vậy, do đó cần phải giải tán dân chúng để họ tự tìm kiếm lương thực nơi các vùng lân cận.

Tuy nhiên, với Chúa Giêsu, lý luận tự nhiên này xem ra không còn được chấp nhận nữa. Chúa ra lệnh cho các tông đồ: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính các con hãy liệu cho họ ăn”. Chúa không để cho các tông đồ phải tự sức mình mà lo, Ngài chỉ cần các ông cộng tác và đóng góp những gì có thể, dù chỉ là một phần nhỏ so với nhu cầu bao la. Chỉ năm chiếc bánh với hai con cá, Chúa đã thực hiện phép lạ nuôi sống năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và trẻ em.

Ngày hôm nay, người tín hữu Kitô cũng đang đứng trước nhu cầu bao la của biết bao người đang cần được trợ giúp, và người Kitô hữu không được tránh né bổn phận liên đới với những gì có thể. Trước khi khám phá và đóng góp phần nhỏ bé của mình, chúng ta cần phải thay đổi chính tâm tư của mình và để cho tâm hồn mình tràn đầy tình yêu của Chúa, hầu có thể dấn thân sống theo Chúa một cách thiết thực hơn.

Xin Chúa cho chúng ta biết quảng đại chia sẻ với người khác, dù chỉ là một phần nhỏ. Xin cho chúng ta trở thành phương tiện hữu hiệu chuyển thông tình yêu Chúa cho những người chung quanh.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Suy Niệm 5: Được Thiên Chúa nuôi

Chiều đến các môn đệ lại gần thưa với Người: “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn.” Đức Giêsu bảo họ: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn.” Các ông đáp: “Ở đây chúng con chỉ có vỏn vẹn có năm chiếc bánh và hai con cá!” Người bảo: “Đem lại đây cho Thầy!” (Mt. 14, 15-18)

Phép lạ này hé mở cho thấy bữa tiệc ly chiều thứ năm tuần thánh.

Những phép lạ hóa bánh ra nhiều còn loan báo một sứ điệp cũng không kém quan trọng cho mỗi người chúng ta, người công giáo cũng như mọi người Kitô là “Hãy cho họ ăn”

Hãy cho họ ăn!

Đức Giêsu không nói để họ tự lo, tự túc. Người không hỏi họ có gì để mua của ăn. Người không nói phải lựa lọc ra! Ai là kẻ lắng tai nghe Chúa, ai không, ai giầu ai nghèo, ai trẻ ai già, đàn ông, đàn bà, ai thông thái, ai có đức tin, ai nô lệ ai tự do, ai ngu đần, chỉ theo Chúa vì tò mò, vì chế diễu. Đức Giêsu không đặt vấn đề phân biệt. Người truyền cho đám đông ngồi xuống trên cỏ và họ được Thiên Chúa cho ăn no nê. Nhờ kẻ đã đưa cho Người chút ít, chỉ chút xíu thôi dâng cho Người, đủ cho Người tạ ơn Chúa Cha để làm phép lạ bánh ra nhiều cho đám đông hưởng dùng dư dật.

Họ được ăn no nê.

Điều đáng ngạc nhiên bánh hóa nhiều cho đám đông, rất đông đã tụ họp lại chỉ trong một vài giờ, đã trở thành một cộng đồng lớn rất ổn định để dự bữa ăn này. Họ không còn cần gì nữa, các môn đệ đã cung cấp tất cả: tất cả! Tôi nghĩ đến những tổ chức bác ái giúp người nghèo, giúp các nơi truyền giáo. Những tổ chức đó cần chúng ta đóng góp, nhưng chẳng đủ cho tất cả! công việc tông đồ bớt đi, mất mát dần mòn vì còn thiếu quá nhiều!

Quả thật, Đức Giêsu là trung tâm, là nguồn mọi ơn phúc, Người ban Lời và bánh. Rồi đến đoàn môn đệ nhỏ bé sống quanh Người, các vị đó đã cho dân chúng tất cả mọi sự vì hoàn toàn hiến thân cho Thiên Chúa, các vị rất giống Đức Kitô, đã thông ban ơn Chúa cho tất cả. Các vị là những kẻ nối dài cánh tay của Chúa.

Được dư đầy.

Sống gần Thiên Chúa được hưởng phong phú dồi dào lòng thương xót. Chính trong Ngài tất cả những kẻ đói khát được no đầy, chớ gì sự tưởng nhớ quê trời làm thỏa mãn tràn trề lòng chúng ta.

J.M

Suy Niệm 6: KHÔN NGOAN VÀ THƯƠNG XÓT (Mt 14,l3- 21)

Xem lại CN 18 TN A, CN 18 TN B, //Lễ Mình Máu Thánh năm C  và thứ Sáu tuần 2 PS và thứ Hai tuần 18 TN.

Khi đọc chuyện các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta thấy có những cuộc truy lùng của vua chúa quan quyền rất gắt gao thời bấy giờ. Khi hay tin, các ngài thường lẩn trốn để tránh cơn nguy biến ập đến cho mình và đoàn chiên. Sự tránh né đó không phải do nhát đảm, cũng không phải sợ chết, nhưng đây là cách khôn ngoan vì ích lợi của con chiên.

Hôm nay, đoạn Tin Mừng khởi đầu bằng việc thông báo cho biết rằng: sau khi Đức Giêsu nghe tin Gioan bị bắt, Ngài đã lẩn trốn vào nơi hoang vắng để tránh sự ra tay tàn ác của vị vua này. Bởi lẽ Ngài thừa hiểu số phận của Gioan thì cũng là số phận của chính Ngài. Nhưng giờ của Đức Giêsu chưa đến, nên Ngài đã tiến vào hoang mạc…, tìm nơi thanh vắng, một mặt để thoát nạn, mặt khác để thầy trò tâm tình sau những ngày vất vả ngược xuôi vì sứ vụ.

Tuy nhiên, vì đám đông rất cảm phục những lời khôn ngoan, nên đã tìm đến để nghe Ngài giảng dạy. Họ nghe đến say mê, nghe đến nỗi quên ăn, nên khi chiều đến, ai nấy đều đói. Vì thế, Đức Giêsu đã chạnh lòng thương, nên không những nuôi dưỡng họ bằng Lời Hằng Sống, mà còn nuôi họ về mặt phần xác khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều và yêu thương chữa lành bệnh tật cho họ.

Tuy nhiên, để phép lạ được thành hiện thực, Đức Giêsu cần sự cộng tác của người môn đệ, vì thế, Ngài đã truyền lệnh cho các ông: “Hãy mang lại đây cho thầy”; và “hãy cho họ ăn”.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta:

Trước hết, khi giờ chưa đến, thì cần khôn ngoan để tránh sự nguy hiểm do kẻ thù gây nên.

Thứ hai, hãy tin tưởng vào quyền năng tuyệt đối nơi Đức Giêsu. Bởi vì khi lòng thương xót của Ngài được đụng chạm đến chúng ta, thì mọi chuyện được dư thừa như chỉ có 5 chiếc bánh và hai con cá. Nhưng khi đã được Đức Giêsu can thiệp nuôi cả 5 ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và trẻ em mà sau đó còn thu lại được 12 thúng đầy.

Thứ ba, hãy biết thương đến những người nghèo, nghèo về thể xác, nghèo về tinh thần. Luôn tìm cách chữa trị những vết thương thể xác và tâm linh cho anh chị em chúng ta. Chúa không chấp nhận việc chúng ta thương hình thức, tức là chỉ có nói, mà Ngài muốn chúng ta thương thật, tức là hành động kịp thời.

Lạy Chúa Giêsu, phép lạ hóa bánh ra nhiều đã thể hiện tình thương của Chúa dành cho nhân loại vô bờ. Xin Chúa ban cho mỗi người chúng con biết rung động trước nỗi khốn cùng của anh chị em đồng loại, để chung tay cộng góp nhằm làm cho cuộc sống của họ bớt khổ hơn. Nhưng trước hết, xin Chúa ban cho chúng con sự khôn ngoan để biết điều nên làm và điều không nên hoặc chưa nên. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 7: Hãy cho họ ăn đi

(http://tinvuixuanloc.vn)

Lúc 7 giờ chiều thứ năm 30-5-2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự thánh lễ đầu tiên kính Mình Máu Thánh Chúa tại thềm Đền thờ thánh Gioan Laterano. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha đặc biệt quảng diễn câu Chúa Giêsu nói với các môn đệ khi thấy đám đông dân chúng đến với Ngài và khi chiều về họ không có gì để ăn: “Chính các con hãy cho họ ăn”[1]. Đức Thánh Cha  nhận xét rằng: “Đứng trước nhu cầu của đám đông, giải pháp của các môn đệ là mỗi người hãy nghĩ đến mình: giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn! Bao nhiêu lần các tín hữu Kitô chúng ta cũng bị cám dỗ như thế! Chúng ta không dám đảm trách những nhu cầu của người khác, chúng ta thường để họ ra đi với câu nói đạo đức: ‘Xin Chúa giúp đỡ bạn!’. Nhưng giải pháp của Chúa Giêsu đi theo một hướng đi khác, một hướng đi làm cho các môn đệ ngạc nhiên: ‘Chính các con hãy cho họ ăn’.

Đức Thánh Cha giải thích rằng: Lời mời gọi của Chúa Giêsu gửi đến các môn đệ là ‘Chính các con hãy cho, hãy chia sẻ.’ Và họ đã chia sẻ 5 chiếc bánh và hai con cá. Nhưng chính những chiếc bánh và cá ấy, Chúa đã làm cho đám đông được ăn no nê… Điều này có nghĩa là trong Giáo Hội, và cả trong xã hội, chúng ta không được sợ hãi, nhưng hãy ‘liên đới’, chúng ta hãy biết đặt những gì chúng ta có để Chúa sử dụng, đặt những khả năng khiêm hạ của chúng ta, vì chỉ trong sự chia sẻ, trao ban, cuộc sống chúng ta mới được phong phú, và mang lại nhiều hoa trái”.[2]

Trước đây, khi suy niệm đoạn Tin Mừng này trong tác phẩm “5 chiếc bánh và 2 con cá”, Đức Hồng Y Phanxico Nguyễn Văn Thuận cũng đã diễn tả cùng một ý như Đức Thánh Cha. Đức Hồng Y nói: Các môn đệ muốn chọn con đường dễ nhất, khỏe nhất: “xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn”. Nhưng Chúa Giêsu muốn các môn đệ hành động ngay trong phút hiện tại. “Chính các con hãy cho họ ăn”. Chúng ta cũng hãy hành động ngay trong phút hiện tại với tất cả những gì mình có. Không chọn dễ dãi nhưng chọn tình yêu.

Cũng như các môn đệ, chúng ta cần quan tâm học hỏi cách xử sự của Chúa Giêsu: Ngài chạnh lòng thương yêu cứu giúp mọi người đến quên bản thân mình. Chúng ta cũng chỉ có thể học được bài học này, nếu chúng ta có trái tim của Chúa Giêsu: thương cảm sâu sắc trước tình cảnh của người anh em chị em, tức là biết quan tâm đến hoàn cảnh sống của anh chị em mình, với trái tim đầy tình yêu thương. Hãy học cách yêu thương như Chúa bằng cách đáp ứng ngay, chia sẻ ngay, không tìm cách giải quyết né tránh, cũng không chọn cách phục vụ theo kiểu dễ dãi không dính bén đến mình.

Ước gì khi cảm nghiệm Lời Chúa dạy qua Tin Mừng hôm nay, chúng ta cũng dám dấn thân, dám chia sẻ ngay khi chúng ta chỉ có một phần ít ỏi nhỏ bé.

Lạy Chúa,

Lời Chúa dạy các Tông Đồ hôm nay:

“Họ không cần phải đi đâu xa, chính anh em hãy cho họ ăn”,

Lời này đã làm tim con đau nhói.

Nhiều lúc con chẳng quan tâm gì đến người chung quanh,

Con chỉ đòi hỏi, ra lệnh mà không có tâm hồn chia sẻ,

Con nỡ tâm nhìn anh chị em con đói khát về vật chất

Thiếu vắng Lời Chúa là sức sống, là ánh sáng cho họ.

Xin giúp con mau thực hành những điều Chúa đã dạy.

Biết quảng đại yêu thương,

Dám chia sẻ ngay khi con chỉ có một phần ít ỏi.

Xin cho con thực thi lời hy vọng này:

“Ðiều mà ngươi làm cho người bé mọn nhất trong anh em là làm cho chính Ta”.

Amen.

Suy Niệm 8: Phép lạ hóa bánh ra nhiều

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Tìm hiểu Tin Mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu có mọi đức tính đáng ca tụng: khiêm nhường, công bình, can đảm, tế nhị… nhưng nổi bật nhất là lòng thương xót. Đức Giêsu đến trần gian để thực hiện chương trình cứu rỗi. Tình thương của Người được thể hiện bằng cách giảng dạy và cứu con người khỏi bệnh hoạn tật nguyền, cũng như ban bánh nuôi sống họ.

Còn chúng ta, đối với anh em chung quanh, ta có thái độ nào? Yêu thương giúp đỡ hay lãnh đạm dửng dưng? Cách đối xử của ta đối với tha nhân sẽ là bằng chứng cho thấy chúng ta có phải là Kitô hữu đích thực hay chỉ là giả hiệu.

  1. Dân chúng say mê nghe Chúa giảng, quên ăn quên uống, nhưng dù sao dạ dầy của họ cũng phải nổi loạn khi không được cung cấp thức ăn thức uống cho nó. Bóng chiều đang xuống dần mà dân còn đang ở nơi hoang vắng xa làng mạc thành thị, họ ra về, đường còn xa sợ có người đói lả dọc đường. Chúa Giêsu muốn các môn đệ cho họ ăn. Nhưng trong hoang địa này lấy đâu ra lương thực cho ngần ấy người ăn. Ở đây chỉ có thằng nhỏ có 5 chiếc bánh và 2 con cá. Bằng ấy thực phẩm thì nhằm nhò gì với một biển ngươi như vậy! Nhưng Chúa Giêsu cứ bảo họ ngồi xuống thảm cỏ để cho Người làm việc. Thánh Matthêu kể: “Người cầm lấy 5 chiếc bánh và 2 con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ, và môn đệ trao cho đám đông. Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu được 12 giỏ đầy”.
  2. Đọc Tin Mừng chúng ta thấy rất nhiều lần Chúa Giêsu “chạnh lòng thương khi gần gũi dân chúng của Người”. Mặc dầu họ không phải là bà con, bạn hữu hay những người quen biết, nhưng thấy họ thì cảm xúc đầu tiên của Người là thương, và vì thương nên Người chữa bệnh, giảng dạy và cho họ ăn. Xem như mọi người  đều là đối tượng cho tình thương của Chúa.

Tại sao Chúa lại yêu thương đến thế?

Khi muốn làm cho người ta hiểu tại sao Chúa lại yêu con người như thế, thì các nhà tư tưởng của Ai cập xưa đã viết nên một câu chuyện thật đẹp như sau: Thiên Chúa xuống tận bờ sông Nilô, lấy tay nhào bùn và đắp nên hình người. Nhưng thật không may cho Chúa là khi Người thọc tay vào đất thì đúng vào một cái hang của một con cua. Tay của Người bị cua kẹp chảy máu ra. Các thiên thần sợ quá muốn băng bó cho Chúa nhưng Người không cho mà nói: “Cứ để vậy! Cứ để cho máu của Ta hòa với máu của con người để cho con người biết  Ta yêu nó như thế nào”. Thiên Chúa yêu con người là vì Thiên Chúa tìm thấy sự sống của chính mình trong con người (Mỗi ngày một tin vui).

  1. Chúa Giêsu ra lệnh cho các Tông đồ: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính các con hãy liệu cho họ ăn”. Chúa không để cho các Tông đồ phải tự sức mình mà lo, Ngài chỉ cần các ông cộng tác và đóng góp những gì có thể, dù chỉ là một phần nhỏ so với nhu cầu bao la. Chỉ với 5 chiếc bánh và 2 con cá, Chúa đã thực hiện phép lạ nuôi sống 5000 đàn ông, không kể đàn bà và con trẻ.
  2. Thánh Augustinô viết: “Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa không cần con người, nhưng để cứu độ con người, Thiên Chúa cần con người cộng tác”.

Trong sứ điệp Lời Chúa hôm nay, Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ cộng tác với Người trong việc phục vụ tha nhân khi nói: “Chính anh em cho họ ăn”. Với quyền năng vô biên, Chúa Giêsu có thể tự mình làm phép lạ nuôi sống mọi người chứ không cần sự giúp đỡ của các môn đệ. Tuy nhiên, Chúa Giêsu vẫn mời gọi các ông cộng tác, để từ đó, Người dọn ra một bữa ăn no nê cho dân chúng.

Lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ ngày xưa: “Chính anh em hãy cho họ ăn” cũng chính là lời  Người mời gọi chúng ta  dấn thân phục vụ trong thế giới ngày nay. Tôi có gì để cho tha nhân? Thưa, đó là tất cả những gì tôi đang có: sức khỏe, tài năng, những ơn Chúa ban… Chúa muốn tôi sử dụng những hồng ân đó để phục vụ và chăm sóc mọi người.

  1. Truyện: Lời cầu xin của người đàn bà.

Truyện kể một người đàn bà nghèo về vật chất, nhưng lại giầu về lòng tin. Người chủ căn phòng, nơi bà thuê là một người đàn ông giầu có, nhưng keo kiệt và vô đạo, ông thường đem lòng tin của người đàn bà làm trò cười, đùa giỡn.

Một hôm, người đàn bà cầu nguyện lớn tiếng với Chúa rằng hiện trong nhà  không còn lấy một hột gạo. Để cho người đàn bà một bài học về sự mê tín dị đoan, kẻ vô đạo liền lấy một ổ bánh mì, rón rén đặt trước cửa người đàn bà bấm chuông rồi chạy vội về phòng mình.

Người đàn bà mở cửa phòng lấy ổ bánh mì, trở lại phòng và cầu nguyện tạ ơn: “Lạy Chúa, con cám ơn Chúa vì con biết rằng lúc nào Chúa cũng nhận lời con cầu xin”.

Người đàn ông rất tâm đắc khi nghe một lời cầu nguyện như thế. Ông bèn đến gõ cửa phòng người đàn bà và nói vọng vào: “Hỡi người đàn bà ngu xuẩn kia, bà tưởng rằng Thiên Chúa đã nhận lời cầu xin của bà ư? Chính tôi là người đã mang ổ bánh đặt trước cửa phòng bà đó”.

Làm như thể không để ý đến lời nói của ông ta, người đàn bà nghèo lại tiếp tục cầu nguyện: “Lạy Chúa, chúc tụng Chúa, vì Chúa luôn trợ giúp con trong lúc túng ngặt; Chúa dùng ngay cả một tên quỷ để đáp lại lời cầu xin của con”.

Suy Niệm 9: ,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Những công việc của con người tự nó không có giá trị siêu nhiên, nhưng khi cộng tác với Thiên Chúa, nó sẽ trở thành hành động cứu độ.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trước sự kiện Chúa làm phép lạ bánh hóa ra nhiều, con đã tự hỏi: Chúa chỉ cần phán một lời là có thể làm phép lạ, nhưng tại sao Chúa không làm thế, mà Chúa lại cần đến năm chiếc bánh và hai con cá ?

Lạy Chúa, Chúa không làm như con nghĩ. Chúa cần sự cộng tác của chúng con. Chúa cần con người góp công chung sức để mưu ích cho nhau. Sự đóng góp của các môn đệ, chẳng thấm vào đâu, nhưng từ đó Chúa đã thực hiện một bữa ăn no nê cho dân chúng.

Thánh Âu-tinh đã nói: “Để tạo dựng con người, Thiên Chúa không cần con người, nhưng để cứu độ con người, Thiên Chúa cần con người cộng tác”.

Lạy Chúa, nhìn vào thế giới hôm nay, con tin chắc rằng Chúa cũng đang chạnh lòng thương xót nhân loại đau khổ vì đói khát, vì bệnh tật, vì dốt nát, vì chiến tranh. Chúa cũng có thể làm mọi sự để cứu độ chúng con, nhưng Chúa cần đến sự cộng tác nhỏ bé của chúng con.

Xin Chúa giúp con luôn biết mở rộng trái tim trước nhu cầu của anh chị em. Xin dạy con biết mở rộng bàn tay dâng hiến cho Chúa và cho tha nhân. Dù sự đóng góp của chúng con chẳng đáng kể là gì so với nhu cầu của thế giới, nhưng con tin Chúa đang chờ đợi đón nhận và nhân lên gấp bội. Xin Chúa dạy chúng con biết nghĩ tới nhau, biết chia sẻ cho nhau, để nhân loại khỏi bị diệt vong vì ích kỷ. Amen.

Ghi nhớ: “Mọi người đều ăn no”.

Suy Niệm 10: ,,,

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

Phân tích

Chuyện xảy ra sau phép lạ hóa bánh ra nhiều:

  1. Chúa Giêsu “bắt buộc” các môn đệ phải xuống thuyền ngay, để sang bờ bên kia trước, còn Ngài thì ở lại cho dân chúng ra về. Một sự khẩn trương, vội vã, có vẻ như đang đứng trước một nguy hiểm. Tại sao ? vì sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, dân chúng đã quá hăng hái, một sự hăng hái trần tục vì thấy mình được hưởng thụ vật chất. Sự hăng hái này không hợp với sứ mạng Messia của Chúa Giêsu. Ngài không muốn cho sự hăng hái lệch lạc này tác động lên các môn đệ, và vội vã bảo các ông sang ngay nơi khác.
  2. Chúa Giêsu đi trên mặt nước: Cựu ước nhiều lần nói về việc đi trên mặt nước ( G 9,8- 38,16; Tv 77,20; Kb 3,15; Si 24,5) nhưng đều gán vào cho Thiên Chúa. Vậy với chi tiết Chúa Giêsu đi trên mặt nước, Mátthêu ngụ ý so sánh Chúa Giêsu với Thiên Chúa.
  3. Phêrô đi trên mặt nước: So sánh với 2V 2,1-55: Ngôn sứ Êlia dùng áo choàng đập xuống nước, nước rã làm hai cho ông đi qua. Về sau Êlisê dùng tấm áo choàng của Thầy Êlia của mình mà đập xuống nước, nước cũng rẽ làm hai cho Êlisê đi qua. Nghĩa là Êlisê đã nhận được thần lực của Thầy mình, nhưng có điểm khác biệt là: Êlisê nhận thần lực qua một vật dụng là tấm áo, còn Phêrô nhận thần lực của Thầy chỉ nhờ đức tin. Một trong những tư tưởng thần học của Mátthêu là người môn đệ được Thầy ban cho cùng quyền lực như Thầy. Hãy xem 9,6 – 9,8 – 10,1 – 16,19 – 18,18. Nhưng điều đáng lưu ý là các môn đệ nhận được quyền lực của Thầy nhờ đức tin.
  4. Phêrô sợ, nên bị chìm. Ông xin Chúa Giêsu cứu thì được Ngài cần tay nâng lên. Qua việc này Chúa Giêsu muốn huấn luyện cho các môn đệ (mà Phêrô là đại diện) để giúp họ tiến bước dần trên cuộc hành trình đến đức tin.

Suy gẫm

  1. Tin Mừng Gioan cho biết thêm là sau khi hóa bánh ra nhiều, dân chúng muốn tôn Chúa Giêsu lên làm vua. Chúa Giêsu không muốn các môn đệ mình lây nhiễm các quan niệm về Đấng Messia lệch lạc ấy nên buộc họ vội vàng rời khỏi nơi đó. Chúa Kitô không muốn người ta coi Chúa như một Đấng chỉ ban cơm bánh. Chúa không muốn người ta đến với Ngài chỉ để xin những ơn vật chất.
  2. Chúng ta hãy coi cách Chúa Giêsu giáo dục đức tin cho Thánh Phêrô và các tông đồ: Ban đầu Ngài để cho các tông đồ bị bão biển đe dọa (cũng như Phêrô bị chìm xuống). Khi các ông sơ, các ông nghĩ tới Chúa. Cuối cùng Ngài ra tay cứu giúp, kết quả là các ông tin vào Ngài “Thật, Thầy là con Thiên Chúa”.

Nhiều khi xem ra Chúa bỏ mặc chúng ta trong những hoàn cảng khó khăn. Nhưng đó chính là cách Chúa giáo dục đức tin cho chúng ta. Do đó đừng hoảng sợ, cũng đừng nản lòng. Hãy kêu lên Chúa như Phêrô xưa: “Lạy Thầy, xin cứu con”.

  1. Có một bà nổi tiếng là đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến, hy vọng học được bí quyết để sống bình tâm và hạnh phúc. Bà hỏi: “Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao ?” “Ồ không, tôi không phải là người có một đức tin lớn lao, mà chỉ là người có một đức tin nhỏ bé đặt vào một Thiên Chúa lớn lao”.
  2. “Sau khi giải tán đám đông, Người lên núi và cầu nguyện chiều đến Ngài vẫn ở đó một mình”. (Mt14,23).

Con thường thấy mình không có giờ cầu nguyện, không có giờ đi vào sa mạc để ở bên Chúa và trò chuyện với Chúa. Nhưng thật ra sa mạc ở sát bên con, chỉ cần một chút cố gắng của Tình yêu là con có thể tạo ra sa mạc. Mỗi ngày con có biết bao nhiêu giây phút có thể gặp Chúa mà con đã bỏ mất. Khi chờ một người bạn, chờ đèn xanh ở ngã tư, chờ điện thoại trả lời, chờ món hàng đang được gói. Khi lên cầu thang, khi đến nơi làm việc, khi bị kẹt xe, khi cúp điện bất ngờ, thay vì bực bội nóng ruột con lại cảm thấy mình sống an bình trong sự hiện diện của Chúa. Lạy Chúa, những sa mạc ngắn ngủi hằng ngày giúp con tỉnh thức để nhạy cảm với Chúa. Xin cho con yêu mến Chúa hơn, để tìm ra những sa mạc mới và vui vẻ bước vào.

  1. Chúa liền đưa tay nắm lấy ông và nói: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi” (Mt14,31).

Trong cuộc sống Kitô hữu, Đức tin là điều quan trọng. Chúng ta vẫn tin có Chúa, vẫn đi lễ, vẫn rước lễ hằng ngày, làm việc từ thiện, việc bác ái giúp đỡ người khác; nhưng đôi lúc, chúng ta đã làm những việc đó như một người máy hay theo một thói quen.

Do đó, thật là tồi tệ khi ta gặp phải rủi ro hay thất bại nào…Vì ta đã đối phó bằng cách để Chúa qua một bên, bỏ hết mọi việc từng làm. Dần đần ta không còn giữ được đức tin và lúc này tâm trạng của ta rất giống tâm trạng của Thánh Phêrô khi được Chúa cho đi trên mặt biển. Mỗi người chúng ta thử nhìn xem mình sống đạo ra sao, mình đã thực sự có đức tin chưa ? Hay chúng ta tin vì thấy bạn bè mình tin, không tin không được. Hay ta chỉ tin vì được sinh ra trong một gia đình Công giáo…

Suy Niệm 11: ,,,,,,,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Đọc trong Tin Mừng, chúng ta thấy rất nhiều lần Chúa Giêsu chạnh lòng thương khi gần gũi với dân của Người. Mặc dầu họ không phải là bà con, bạn hữu hay là những người quen biết, nhưng thấy họ thì cảm xúc đầu tiên của Người là thương, và vì thương nên Người chữa bệnh, giảng dạy và cho họ ăn. Xem như mọi người đều là đối tượng cho tình thương của Chúa.

Tại sao Chúa lại yêu thương đến thế?

Khi muốn làm cho người ta hiểu tại sao Chúa lại yêu con người như thế, thì các nhà tư tưởng của Ai Cập xưa đã viết nên một câu chuyện thần thoại thật đẹp như sau: Thiên Chúa xuống tận bờ sông Nilô, lấy tay nhào bùn và đắp nên hình người. Nhưng thật không may cho Chúa là khi Người thọc tay vào đất thì đúng vào một cái hang của một con cua. Tay của Người bị cua kẹp chảy máu ra. Các thiên thần sợ quá muốn băng bó cho Chúa nhưng Người không cho mà nói: “Cứ để vậy! Cứ để cho máu của Ta hòa với máu của con người để cho con người biết ta yêu nó như thế nào”. Thiên Chúa yêu con người là vì Thiên Chúa tìm thấy sự sống của chính mình trong con người.

Xin Chúa cho chúng ta có được một phần nào tấm lòng yêu thương bao la như Chúa, nhất là khi chúng ta là những tông đồ của Chúa.

  1. “Xin thầy giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn” (Mt 14,15).

Rõ ràng là các Tông đồ của Chúa lo sợ trước một thách thức không thể vượt qua được trên bình diện con người. 5.000 người đàn ông không kể đàn bà con trẻ đang gặp cảnh đói không có gì ăn vào lúc trời sắp tối, nghĩa là mọi sinh hoạt buôn bán giữa người với người dường như sắp bị đóng lại. Các ông lo sợ và nói theo khuynh hướng tự nhiên là muốn phủi tay chạy trốn trước thách thức khó khăn ấy, để rồi từ đó muốn đổ trách nhiệm cho kẻ khác, và cuối cùng, còn muốn cả Chúa Giêsu cũng phải làm như vậy: “Xin Thầy hãy cho họ về hoặc vào làng để mua gì ăn, vì trời đã tối và họ có thể kiếm được gì ăn qua cơn đói chăng?” (Mt 14,15).

  1. Chúa Giêsu không muốn như vậy. Điều Chúa muốn là “Các con hãy lo cho họ ăn” (Mt 14,16). Đó là mệnh lệnh của tình thương.

Rõ ràng là phải có một tình thương bao la kinh khủng mới dám nghĩ đến một việc làm như thế. Không thể thoái thác trách nhiệm trước những khó khăn phải đối đầu.

Khoảng nửa đêm, có một em bé tìm đến gõ cửa nhà mẹ Têrêsa. Mẹ bước xuống nhà và mở cửa cho em. Vừa khóc nức nở em vừa nói:

– Thưa mẹ, con tìm về với mẹ con và mẹ con nói: “Ta sẽ đánh mày”. Con tìm về với cha con và cha con đã đuổi con đi. Mẹ ơi! xin mẹ đừng đuổi con đi nữa nghe. Ít là mẹ, xin mẹ hãy thương con.

Mỗi ngày, ở nhiều nơi trên thế giới, những cảnh tượng giống như thế vẫn thường xảy ra và không phải chỉ xảy ra ở những nước nghèo đói như Ấn Độ, mà còn xảy ra ngay cả ở những nước giàu có và tiên tiến. Những đứa trẻ đang khao khát được yêu thương và được chăm sóc. Đây chính là sự nghèo đói sâu xa nhất!

Mẹ Têrêsa đã từng đón nhận hơn 40 ngàn người bị bỏ rơi như vậy ở các ngả đường thành phố Calcutta. Mẹ mang họ về các viện mồ côi, các trung tâm cấp cứu và ở đó, họ đã chết cách bình an dưới cái nhìn đầy yêu thương của Thiên Chúa và với niềm xác tín là được Chúa yêu thương, một tình thương được cụ thể hóa qua tình thương của Mẹ Têrêsa và các nữ tử Bác ái của mẹ. Mẹ và các chị chưa từng thấy ai trong số những người nghèo bị bỏ rơi ấy từ chối tình thương của Chúa. Trong những giây phút cuối đời, tất cả họ đều đã nói: “Lạy Chúa, con yêu Chúa, và con tin Chúa rất yêu thương con”.

Để kết thúc tôi xin được gửi đến anh chị em một bài thơ được treo tại  Đan viện các nữ tu dòng thánh Clara nước Brasil. Bài thơ như sau:

Chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban sự sống,

nhưng bạn có thể mang lại cho người khác ý muốn vui sống.

Chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban Đức tin,

nhưng bạn có thể làm chứng nhân cho Ngài.

Chỉ có Thiên Chúa mang lại niềm hy vọng,

nhưng bạn có thể mang lại niềm tín thác cho anh chị em mình.

Chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban tình thương,

nhưng bạn có thể dạy tha nhân biết yêu thương.

Chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban hòa bình,

nhưng bạn có thể gieo sự đoàn kết. 

Chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban niềm vui,

nhưng bạn có thể mỉm cười với mọi người.

Chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban sức mạnh,

nhưng bạn có thể nâng đỡ người nản chí thất vọng.

Chỉ có Thiên Chúa là Đường,

nhưng bạn có thể chỉ đường cho người  khác.

Chỉ có Thiên Chúa mới là ánh sáng,

nhưng bạn có thể làm ánh sáng ấy tỏa sáng trước mặt người khác. Amen.

Suy Niệm 12: ,,,,,,,,,

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Nakamura, một thiếu nữ Nhật, 18 tuổi, gia nhập đạo Công giáo được bốn năm, từ ngày vào đạo, hầu như không ngày nào bỏ tham dự thánh lễ lúc 6g30 sáng.

Ngày 6/8/1945, Mỹ thả trái bom nguyên tử đầu tiên xuống Hirôshima. Cảnh tượng tàn phá thật là khủng khiếp… Đã gần hai tuần, vị linh mục phụ trách giáo điểm truyền giáo không thấy Nakamura đi lễ nên quyết định đi thăm nàng. Ngài khổ sở len lỏi mãi, mới tới được nhà Nakamura. Hỡi ôi, nhà nàng đã sụp đổ tan tành, chỉ còn cái tường cao chừng hai thước trơ trọi đứng đó… Vị thừa sai thổn thức vòng lại phía sau nhà. Trời ơi, một cái chòi thô sơ, bốn góc là bốn cái cột, chung quanh che bằng chiếu, mành, áo quần rách, trên nóc, mấy tấm tôn kẽm xiêu vẹo. Ngài bước vào trong. Ôi lạy Chúa, một cái chõng thô sơ, ọp ẹp: Nakamura nằm trên đó, áo xống tả tơi, cháy sém, hai tay hai chân co quắp như một xác chết…

Vị linh mục khựng lại, không sao nói được một lời. Sau một lát, ngài lấy can đảm gọi tên nàng. Nakamura nhúc nhích, nhưng không sao trở mình được. Nàng bị thương nặng quá, chân tay mình mẩy, chỗ nào cũng thấy sây sát. Ở đầu vai bên phải, thịt xương cháy xám lòi ra, để một lỗ hổng, có thể đút lọt bàn tay. Vị linh mục xắn áo, lau chùi, dọn dẹp rồi giúp nàng xoay mình. Nakamura mở hai mắt nhìn vị linh mục, tràn ra mấy giọt lệ, cựa quậy tay trái như muốn giơ lên chào mà không giơ lên nổi. Nàng nói thì thầm: “Cha có đưa Mình Thánh Chúa đến cho con không ?”. Vị linh mục chưa kịp trả lời nàng, thì nước mắt đã trào ra. Sau ít phút trao đổi, vị linh mục được biết, đã 14 ngày qua, trừ ra cha nàng, ông cũng bị thương nặng, mỗi ngày đem cho nàng chút ít đồ ăn, nước uống, còn ngoài ra, chẳng ai lo lắng chăm sóc nàng. Vậy mà Nakamura không một lời kêu ca than thở, không kêu xin xót thương giúp đỡ. Nàng như quên hết mọi đau đớn, ê chề, chỉ nhỏ nhẹ hỏi: “Cha có đưa Mình Thánh Chúa đến cho con không ?”. Vị linh mục nghẹn ngào cảm kích cực độ, nước mắt cứ thi nhau trào ra…

Ngài trở lại nhà, lấy Mình Thánh Chúa cho Nakamura rước lễ, rồi ngài nán ở lại, lau chùi, dọn dẹp thêm chút nữatúp lều của nàng… Nakamura nhỏ nhẹ nói với ngài: “… Đã bốn năm nay, con chuẩn bị vào Dòng. Con muốn tận hiến đời con cho Chúa, muốn phục vụ hết mình những người nghèo khó, bệnh tật. Hiện giờ, con thế này, không biết Chúa sẽ dẫn dắt con về đâu ? Dẫu sao, ở đâu, đi về hướng nào, ra sao, Chúa là nguồn sức mạnh, là nguồn hạnh phúc, là tất cả của con…”.

Hôm sau, vị linh mục trở lại, mang theo Mình Thánh Chúa… nhưng Nakamura đã về trời với Bạn Chí Thánh Giêsu… không còn trên mặt đất khổ đau này nữa. Nakamura mới gia nhập đạo được mấy năm, hằng ngày đi lễ ban sáng và rước lễ… bị tai nạn, cửa nhà tan nát, thương tích đầy mình, đớn đau tinh thần, thể xác, mà không một lời kêu ca, ta thán. Gặp linh mục Nakamura chỉ hỏi đến Mình Thánh Chúa… Vị thừa sai xác tín: Ngoài trường “Thánh Thể” ra, không còn trường nào khác dạy được như vậy! (Theo tạp chí “Mater nostra”, Trương Vân Thục, OSB sưu tầm).

Suy niệm

Dân Chúa khao khát nước Trời, họ bỏ tất cả để được lắng nghe và như lời dạy của Đức Kitô: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33). Ngài đã cho họ thêm: Đã làm cho họ được no đủ, họ được thỏa lòng khao khát Lời công chính, Lời đó dẫn về nước Trời. Nước đó được bắt đầu nơi tâm hồn của người theo Chúa, bởi vì khi theo và nghe Đức Kitô giảng dạy, chính Ngài thương xót và chữa lành những người bệnh tật, Ngài làm cho họ no thỏa nhu cầu sự sống con người tại “chỗ hoang vắng” (Mt 14:13), chỗ Ngài làm bánh hóa nhiều gợi lại cho chúng ta hình ảnh sa mạc mà dân Do Thái đi trong bốn mươi năm và được nuôi bằng manna, bánh bởi Trời để dân Người được sống trong hành trình về đất hứa, nơi đó “mọi người sẽ được nuôi ăn và ăn no nê” (x. Đnl 6,11; 11,15; 31,20).

Trước sự khao khát Lời Hằng Sống mà dân Chúa đứng trước sự đói khát của nhu cầu thân xác, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “…các con hãy cho họ ăn”. Các ông thưa lại rằng: “Ở đây chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá”. Với sự lo toan của con người, các con không thể lo cho cả ngàn người, đó là sự phản ứng bất lực nơi con người trước những nhu cầu to lớn về lương thực cho năm ngàn người. Người bảo các ông: “Hãy đem lại cho Thầy”. Chúa truyền cho dân “ngả lưng trên cỏ” (Mt 14:19) có nghĩa là sửa soạn ăn, ngả lưng là tư thế để ăn, như là tư thế sẵn sàng để lãnh nhận hồng ân. “Cầm bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ”: Chúa làm hành động giống như trong bữa tiệc ly (x. Mt 26,26), và cũng để chỉ tới bữa tiệc sau này trên nước Trời (x. Mt 8,11-12; 22,1-10). Hành động trung tâm của nước Trời và mọi người đều ăn no. Sự dư dật này là một dấu chỉ được loan báo cho thời kỳ của Đấng Mêssia trong Kinh Thánh (x. Đnl 6,11; Tv 132,15; Is 65,10). Phép lạ bánh hóa nhiều của Chúa Giêsu gợi cho chúng ta sự việc: Tiên tri Êlisê ra lệnh cho các đầy tớ đa nghi mang hai mươi chiếc bánh nuôi cả trăm người (x. 2V 4,42-44). Các sách Tin Mừng thuật lại cho chúng ta sáu lần hóa bánh ra nhiều (Mt 14:13.21; 15,32-39; Mc 6,30-44; 8,1-9; Lc 9,10-17; Ga 6,1-15).

Như dân Chúa tìm về đất hứa, như những người cất bước tìm nước Thiên Chúa và nghe Lời giảng dạy, chúng ta đến với Chúa, được Ngài chăm sóc đỡ nâng, chữa lành mọi vết thương, cho đủ thỏa tất cả…

Ý lực sống

“Chúa mở rộng bàn tay ra, và thi ân cho chúng con được no nê” (Tv 144,16).

 

 

THỨ BA TUẦN 18 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Mt 14, 22-36

Khi dân chúng đã ăn no, lập tức Chúa Giêsu giục môn đệ trở xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi cầu nguyện một mình. Ðến chiều, Người vẫn ở đó một mình. Còn thuyền thì đã ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió.

Canh tư đêm tối, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông. Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hồn mà nói rằng: “Ma kìa” và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng. Lập tức, Chúa Giêsu nói với các ông rằng: “Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ”. Phêrô thưa lại rằng: “Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy”. Chúa phán: “Hãy đến”. Phêrô xuống khỏi thuyền bước đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa Giêsu. Khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: “Lạy Thầy, xin cứu con”. Lập tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông mà nói: “Người hèn tin, tại sao lại nghi ngờ?” Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: “Thật, Thầy là Con Thiên Chúa!”

Khi đã sang qua biển hồ, các ngài lên bộ và ghé vào Ghênêsarét. Nhận ra Ngài, dân địa phương liền loan tin đi khắp cả vùng xung quanh, và người ta đem đến cho Ngài hết mọi kẻ ốm đau. Họ nài xin Ngài cho họ rờ đến tua áo choàng của Ngài thôi, và ai đã rờ đến thì đều được chữa lành.

Suy Niệm 1: Xin cứu con

Suy niệm:

Bài Tin Mừng hôm nay là một loạt những kinh nghiệm thiêng liêng.

Có thể chúng ta ít nhiều đều đã có những kinh nghiệm này.

Thầy Giêsu là một nhà giáo nhân từ và cương quyết.

Ngài giáo dục các môn đệ bằng cách đưa họ vào những kinh nghiệm.

Kinh nghiệm bị Thầy bắt buộc phải qua bờ bên kia (c. 22),

dù họ rất muốn ở lại bờ bên này để nếm dư vị của thành công vừa rồi.

Sau phép lạ nhân bánh, người ta định tôn Thầy lên làm vua (Ga 6, 15).

Chỉ cần Thầy gật đầu là trò được chia sẻ tiếng tăm và quyền lực.

Các môn đệ đã bị ép lên thuyền, ngay lập tức, lúc chạng vạng tối.

Kinh nghiệm bị sóng đánh vì ngược gió.

Thuyền đã xa bờ mấy cây số, tiến tới không được, lùi lại cũng không xong.

Vào lúc khó khăn ấy lại không có Thầy ở trong thuyền.

Hầu như suốt đêm các môn đệ phải vất vả chèo chống với sóng gió.

Họ phải tập chiến đấu trong đêm tối khi không có Thầy ở bên.

Họ có nghĩ quyết định của Thầy là sai lầm, vội vã không ?

Kinh nghiệm hốt hoảng, sợ hãi và được trấn an.

Mãi đến lúc gần sáng, Thầy Giêsu mới đi trên biển mà đến với các môn đệ.

Ngài đến khi họ chưa thấy rõ mặt Ngài.

Ngài đến vào lúc bất ngờ và đến theo cách bất ngờ, khiến họ khiếp kinh.

Ngài đến đem bình an mà họ tưởng là ma quái đe dọa (c. 26).

Quả thật có những lúc không dễ nhận ra là Chúa đang đến với mình.

Chúa đến làm các môn đệ sợ hãi hơn cả sóng gió.

Nhưng “Cứ yên tâm, chính Thầy đây. Đừng sợ!” (c. 27).

Kinh nghiệm tự đưa mình vào một thách đố của lòng tin.

Một mặt Phêrô vẫn chưa tin trọn vẹn khi nói câu: Nếu quả là Thầy…(c. 28).

Nhưng mặt khác ông lại rất táo bạo khi dám xin ơn đi trên mặt nước.

Ông coi đó là cách thức chắc chắn nhất để biết có phải là Thầy không.

Nếu đúng là Thầy thì Thầy cũng có thể cho mình làm được như Thầy.

Chỉ cần Thầy truyền lệnh là đủ, Phêrô tin như thế.

Kinh nghiệm đi trên mặt nước và kinh nghiệm bị chìm.

Khi được Thầy cho phép, Phêrô đã dám từ thuyền bước xuống biển động.

Và ông đã đi được một quãng không rõ bao xa (c. 29).

Mặt nước cứng như đá hay người ông trở nên nhẹ bổng?

Bây giờ thì đúng là Thầy rồi, chỉ Thầy mới cho mình làm được như Thầy.

Phêrô sung sướng tiến về phía Thầy với lòng tin đang lớn lên.

Nhưng khi gặp gió thổi mạnh thì ông lại sợ, lại hoài nghi, yếu tin.

Ông mất tập trung vào sự hiện diện quyền năng của Thầy và bị chìm.

Người ta có thể bị chìm ngay khi biết Chúa ở trước mặt.

Kinh nghiệm được Thầy nắm tay mà dắt vào thuyền.

Khi Phêrô kêu cứu, Thầy Giêsu đã giữ ông khỏi bị nước nuốt chửng.

Sau đó hẳn hai Thầy trò đã cùng nhau đi trên sóng mà về thuyền.

Khi cả hai lên thuyền thì gió lặng, chẳng cần Thầy phải dẹp yên sóng gió.

Các kinh nghiệm môn đệ vừa trải qua thật kinh khủng và gần gũi với ta.

Buồn bực, sợ hãi, căng thẳng, bình an, nghi ngờ, chới với, hạnh phúc.

Đời Kitô hữu là một chuỗi những kinh nghiệm như thế.

Chúng ta tưởng Chúa bỏ rơi, Chúa vắng mặt, Chúa là ma làm ta sợ hãi.

Đơn giản Chúa là Thầy biết cách làm ta trưởng thành qua kinh nghiệm.

Cuối cùng chúng ta sẽ nhìn nhận: “Quả thật Thầy là Con Thiên Chúa” (c. 33).

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phêrô,

nhưng nhiều khi con cảm thấy

sống đức tin giữa lòng cuộc đời

chẳng khác nào đi trên mặt nước.

Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn.

Có bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu.

Cả sự nặng nề của thân xác con

cũng kéo ghì con xuống.

Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng.

Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.

Xin cứu con khi con hầu chìm.

Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.

Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con,

để con trở nên nhẹ tênh

mà bước những bước dài hướng về Chúa. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

Suy Niệm 2: Xác thịt và thần khí

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

My-ri-am đối đầu với Mô-sê. Về phương diện con người thì My-ri-am chiếm ưu thế ở 3 điểm. Về xã hội: Tập tục không cho phép người Do thái kết hôn với ngoại kiều, thế mà Mô-sê đã cưới một người xứ Cút. Về gia đình: My-ri-am là chị cả trong gia đình và Mô-sê phải vâng lời bà. Về cá nhân: My-ri-am là ân nhân cứu mạng Mô-sê và chăm sóc ông từ bé. Thế nhưng Chúa lại cho rằng My-ri-am đã đối đầu với Chúa vì dám xúc phạm đến Mô-sê là tôi tớ của Chúa. Hơn nữa, bà ghen tị vì Mô-sê được Chúa gặp trực tiếp. Đó chính là cuộc đối đầu giữa xác thịt và Thần Khí. My-ri-am đã để cho tính ghen tức xác thịt bùng nổ nên nói xấu Mô-sê. Mô-sê là người của Thần Khí vì ông tràn đầy ơn Chúa và ông cư xử theo Thần Khí, hiền lành khiêm nhường không đối đáp lại My-ri-am (năm lẻ).

Tin Mừng cũng tường thuật lại cuộc đối đầu giữa nhóm Pha-ri-sêu và Chúa Giê-su. Pha-ri-sêu cũng vận dụng tập tục tiền nhân để chống lại Chúa Giê-su. Họ cũng tự cho mình có quyền giảng dậy và cắt nghĩa lề luật để dậy dỗ Chúa và các môn đệ. Cuối cùng họ cũng bộc lộ tính xác thịt, chống lại Chúa vì ghen tức với Chúa. Chúa Giê-su cho biết ai sống theo xác thịt sẽ đi vào chỗ chết: “Cây nào mà Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời không trồng, thì sẽ bị nhổ đi. Cứ để mặc họ. Họ là những người mù dắt người mù. Mù mà lại dắt mù, cả hai sẽ lăn cù xuống hố”. Bà My-ri-am lập tức bị phong cùi, tức là đi vào đất kẻ chết.

Sống theo xác thịt sẽ chết theo xác thịt. Như Chúa nói với Giê-rê-mi-a: “Không ai biện hộ cho vụ kiện của ngươi…Mọi nhân tình của ngươi đều quên ngươi hết, chúng không kiếm tìm ngươi nữa…Ngươi kêu la vì thương tích của ngươi làm gì? Nỗi thống khổ của ngươi thật hết đường cứu chữa. Ấy chỉ vì sự gian ác của ngươi quá nhiều, và tội lỗi của ngươi quá nặng”. Nhưng khi dân ăn năn sám hối, từ bỏ con đường xác thịt để sống theo Thần Khí, Chúa lại cho phục hồi. Sống theo Thần Khí họ được tự do vì làm chủ lấy mình: “Thủ lãnh của nó sẽ từ nó xuất thân, và người thống trị nó sẽ từ giữa nó mà ra”. Họ thuộc về Chúa: “Các ngươi sẽ là dân Ta chọn, và Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi”. Biết thờ phượng, ngợi khen Chúa: “Từ các nơi ấy, sẽ vọng ra lời cảm tạ và tiếng reo mừng” (năm chẵn).

Sống theo xác thịt thì mù quáng. Sống theo Thần Khí thì sáng suốt. Sống theo xác thịt thì lăn xuống hố. Sống theo Thần khí thì thanh thoát vươn lên. Sống theo xác thịt là đi vào cõi chết. Sống theo Thần Khí đi vào đời sống. Sống theo xác thịt bị nô lệ. Sống theo Thần Khí tự do vì tự mình làm chủ lấy mình.

Suy Niệm 3: Chúa Ði Trên Biển

Thiên Chúa tỏ ra là một nhà giáo dục đại tài: Ngài luôn tôn trọng tư tưởng, dự định của con người, nhưng với thời gian và qua dòng lịch sử, Ngài thanh lọc, kiện toàn những gì không phù hợp với Nước Trời. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể làm người cũng đi theo đường lối đó, như chúng ta có thể thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.

Sau khi cho dân chúng ăn no, Chúa Giêsu buộc các môn đệ lên đò sang bờ bên kia. Giải tán dân chúng xong, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện một mình. Các môn đệ vâng lời Thầy ra đi, nhưng có lẽ các ông không được hài lòng. Các ông đã hết sức kiên nhẫn chờ đợi ngày Chúa Giêsu làm vua, cơ hội đó hôm nay đã đến, nhưng Chúa lại từ chối. Không những bỏ lỡ cơ hội, Chúa còn ra lệnh cho các ông lập tức rời bỏ hiện trường. Bất mãn, chán nản và mệt nhọc làm cho các ông ngã lòng. Chúa Giêsu biết rõ tâm trạng của các ông, không những bằng ánh mắt và bằng cả cõi lòng khi Ngài cầu nguyện trên triền núi. Ngài thấy các ông chèo chống ngược với sóng gió và ngược với cả ý muốn. Chính lúc đó, Ngài đi trên mặt biển để đến với các ông. Ngài đã làm như thế để các ông hiểu rằng Ngài có quyền năng trên các tạo vật, Ngài có chương trình của Ngài và Ngài sẽ thực hiện chương trình ấy khi giờ của Ngài đến.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đặt tất cả niềm tin vào quyền năng của Chúa. Ngài có chương trình cho mỗi người chúng ta. Ðiều quan trọng không phải là chúng ta bắt Thiên Chúa làm theo ý chúng ta, để rồi khi không được như ý nguyện, chúng ta tỏ ra buồn phiền, than trách Chúa. Trái lại, chúng ta hãy đặt hết tin tưởng vào Chúa, Ngài vẫn hiện diện để sẵn sàng cứu giúp chúng ta. Hãy phó thác vào quyền năng yêu thương của Ngài và như thế tâm hồn chúng ta sẽ được bình an.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Suy Niệm 4: Ðừng Sợ

Biến cố Chúa đi trên mặt biển cũng được tường thuật nơi Phúc Âm thánh Maccô chương 6 và nơi Phúc Âm thánh Gioan chương 6, nhưng nơi Phúc Âm thánh Mátthêu thì có thêm chủ ý hành văn của tác giả và ý định trình bày một cái nhìn. Các nhà chú giải đồng ý có ba phương diện giúp dễ hiểu đoạn Phúc Âm này hơn:

– Bình diện thứ nhất là bình diện của biến cố khi được tường thuật.

– Bình diện thứ hai là bình diện thần học về việc Chúa mạc khải Thần Khí của Người.

– Bình diện thứ ba là ý nghĩa xã hội học của biến cố.

Trước hết, về bình diện tường thuật biến cố thì câu chuyện được kể đơn sơ, dễ hiểu: “Sau biến cố bánh hóa nhiều, Chúa Giêsu truyền cho các tông đồ xuống thuyền sang bờ bên kia. Còn Người thì ở lại giải tán dân chúng, rồi lên núi cầu nguyện. Ðến khuya, Chúa đi trên mặt biển đang bị động để đến với các tông đồ”.

Nhưng nếu nhìn biến cố trong viễn tượng việc Chúa mạc khải chính mình thì biến cố mang một đặc điểm mới. Chúa Giêsu có quyền trên mọi biến cố thiên nhiên. Câu nói của Chúa: “Thầy đây, đừng sợ!” nhắc lại công thức Thiên Chúa mạc khải chính mình bằng lời quả quyết: “Ta là Ðấng Ta là”.

Ý nghĩa xã hội học được trình bày qua hình ảnh con thuyền tượng trưng cho Giáo Hội Chúa. Thuyền gặp bão, Giáo Hội Chúa gặp thử thách. Nhưng Chúa Giêsu không để cho các tông đồ một mình chống lại với bão táp, không thể để cho Giáo Hội một mình gặp thử thách: “Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Chúa muốn cho các tông đồ luôn kiên trì trong đức tin, đừng lo sợ mê man. Chúa đến với các tông đồ, Chúa đến với Giáo Hội trong cơn thử thách. Chúng ta hãy để cho Chúa đến với chúng ta và hiện diện với chúng ta mãi mãi.

Lạy Chúa, Ðấng đã kêu gọi mọi người “Ðừng sợ”.

Xin thương củng cố đức tin chúng con trong những lúc gặp gian nan thử thách.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Suy Niệm 5: Tôi Tin

Thấy Người đi trên mặt biển các ông hoảng hốt bảo nhau: “Ma đấy!”, và sợ hãi la lên. Đức Giêsu liền bảo các ông: “Cứ yên tâm chính Thầy đây đừng sợ!” Ông Phê-rô liền thưa với Người: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài.” Đức Giêsu bảo ông: “Cứ đến!” Ông Phê-rô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giêsu. Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và bắt đầu chìm, ông la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với!” (Mt. 14, 26-30)

Phêrô

Mọi chú ý đổ dồn vào một nhân vật: Phêrô. Ông là tông đồ thứ nhất. Ông nói, làm nhân danh các bạn khác. Hơn nữa, ông là người thứ nhất trong các kẻ tin. Ông tỏ vẻ rất linh hoạt và diễn xuất niềm tin xuất sắc. Ông mạnh mẽ và hiên ngang tuyên bố những lời kêu gọi và lôi cuốn con người. Đó là khát vọng sâu xa hướng về mình, ở bên mình, ở với mình. Đó là bước đường dẫn tới hố sâu vì được người ta tin cậy và yêu mến. Thế rồi, khi lòng tin cậy yếu đuối, lập tức kéo theo sự mất sức căn bản và những nguy khốn tứ bề ập tới làm mình run sợ mất lòng trông cậy. Lúc đó mình là mồi ngon cho các thế lực đe dọa, nếu mình không tìm ngay đến bàn tay của Thầy đến cứu vớt. Có lòng trông cậy, có lòng tin, nhưng quá hèn mọn, quá yếu ớt thì đừng bo bo cậy mình. Chỉ có đức tin vô điều kiện mới mong dẫn dắt các bạn một cách chân chính mà thôi. Điều xảy ra với tông đồ thứ nhất là Phêrô, luôn là gương mẫu cho tất cả những kẻ tin tưởng.

Giáo Hội

Giáo hội toàn thể luôn luôn ở trước tôn nhan Đức Giêsu. Giáo hội đã được bảo đảm thắng vượt mọi gian nan thử thách, có đủ khả năng thoát khỏi mọi nguy biến. Giáo hội biết mình được bảo đảm không bao giờ bị đắm chìm tan biến theo chiều dài của lịch sử ở điều kiện nắm vững đức tin.

Một đức tin đơn sơ

Những câu cuối cùng của đoạn Tin mừng này nhắc nhở chúng ta bài học về Phêrô bước đi trên mặt biển: một bài học về đức tin đơn sơ, không giải thích. Một đức tin biểu lộ bằng cử chỉ, bằng chỉ cần động đến gấu áo Chúa, nhưng đã diễn tả mọi rung động của con tim. “Nếu anh không trở nên trẻ nhỏ…”. Nếu đức tin không như thế, chúng ta phức tạp hóa đức tin của chúng ta, đức tin sẽ mất sức mạnh, mất sức sống! Ước chi chúng ta hãy hết lòng nói với Chúa: “Lạy Chúa, con tin”.

JM

Suy Niệm 6: HÃY VỮNG TIN VÀO CHÚA  (Mt 14, 22-36)

Xem lại CN 19 TN A, CN 6 PS C,

lễ Cung Hiến Đền Thánh Phê-rô và Phao-lô, ngày 18 tháng 11.

Trong cuộc sống, nơi xã hội hôm nay luôn có những bất trắc. Nào là chuyện “cá lớn nuốt cá bé”; hay “ma mới bắt nạt ma cũ”; hoặc “chân lý thuộc về kẻ mạnh”. Một xã hội như thế, người ta lấy thước đo để đánh giá vấn đề, sự kiện… dựa vào tiền và quyền… Vì thế, không lạ gì khi vẫn còn đó tình trạng áp bức, bất công với người lương thiện và thấp cổ bé họng!

Đứng trước thực trạng ấy, chúng ta không thể không đặt ra câu hỏi: “Thiên Chúa ở đâu?”; “Ngài có thực sự hiện hữu không?”; “Nếu có, tại sao lại có chuyện con người thay Trời hành đạo như vậy?”.

Hôm nay, bài Tin Mừng tường thuật việc các môn đệ đang trên thuyền để đi sang bờ bên kia. Trong lúc các ông trèo thuyền ra xa, thì gió lớn nổi lên, khiến các ông lo sợ. Đúng lúc đó, Đức Giêsu hiện đến mà các ông không nhận ra Ngài. Vì thế, trong cơn hốt hoảng, các ông đã la lên: “Ma đấy”. Thấy vậy, Ngài đã trấn an các ông và nói: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!”. Tuy nhiên, chưa tin và vẫn còn nghi ngờ, nên Phêrô đã thử liều một phen mang tính thách thức: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài”.

Sự kiện Đức Giêsu đi trên mặt biển để đến với các môn đệ và việc cho Phêrô đi trên mặt nước với Ngài giúp cho chúng ta hiểu rằng: Chúa vẫn luôn còn đó trong cuộc đời. Mọi khó khăn thử thách, Ngài luôn có mặt, chỉ có điều chúng ta có một đức tin đủ mạnh để vượt qua mọi khó khăn và có đủ độ nhạy bén để nhận ra Ngài hay không mà thôi!

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta bài học: nếu có niềm tin và tín thác vào Chúa trong sự khiên tốn thì sẽ được Chúa thương.

Mong sao trong mọi hoàn cảnh, chúng ta hãy nhớ đến câu nói của Đức Giêsu khi xưa: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!”.

Lạy Chúa Giêsu, cuộc đời của chúng con nhiều khi hoang mang và sợ hãi chẳng kém các môn đệ của Chúa là bao! Nhưng như các môn đệ, các ngài đã tin vào Chúa và được Chúa cứu, thì xin cũng ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con cũng được Chúa thương như các môn đệ khi xưa. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 7: Tin-nhận Chúa và bước đi bình an

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Giữa biển đời sóng gió, Chúa Giêsu vẫn hiện diện bên ta dù ta không thấy. Sự hoài nghi làm ta sợ hãi và chìm xuống biển sâu. Còn lòng tin sẽ giúp ta nhận ra Chúa và bước đi trong bình an.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, chẳng bao giờ Chúa bỏ các tông đồ một mình trong sóng gió. Chúa luôn có mặt chính lúc các ngài đang gặp thử thách. Chúa đến củng cố niềm tin các ngài: “Cứ yên tâm Thầy đây, đừng sợ”.

Lạy Chúa, hôm nay con nhớ đến Giáo Hội đang gặp những cơn sóng gió, những khủng hoảng, đang phải đương đầu với nhiều thế lực, những quyền bính, những phong trào: tất cả như những đợt sóng vùng lên đòi nhận chìm Chân Lý.

Con cũng nhớ đến những khủng hoảng của loài người trong xã hội hôm nay. Khủng hoảng của gia đình và của chính bản thân con. Chúng con đang bị vật nhào giữa biển đời đầy bất công, hận thù, đang quay cuồng trong dòng sông gian nan vất vả, và linh hồn con đang thoi thóp giữa cơn sóng gào tội lỗi.

Lạy Chúa, con vẫn tin tưởng Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng con. Xin Chúa đến nâng đỡ để chúng con đi trọn hành trình trần gian trong bình an của Chúa. Xin Chúa yên ủi và giúp chúng con vượt qua những đau khổ, nhất là những người không còn được xã hội quan tâm. Xin cho chúng con nhận ra Chúa vẫn ở bên chúng con và cho chúng con biết tin tưởng vào tình yêu Chúa luôn mãi. Niềm tin sẽ là sức mạnh và bình an luôn mãi cho con. Amen.

Ghi nhớ: “Xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy”.

Suy Niệm 8: Chúa đi trên mặt biển

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Sau khi cho dân chúng ăn no, Chúa Giêsu bảo các môn đệ xuống thuyền để sang bờ bên kia. Còn Người thì lên núi cầu nguyện. Thuyền các ông ra giữa biển, bỗng gió lớn nổi lên… Lúc gần sáng, Chúa đi trên mặt nước đến với các môn đệ. Các ông thấy Người thì hoảng sợ tưởng là ma. Người bảo: “Thầy đây, đừng sợ!” Nhưng Phêrô cũng còn hoài nghi nên thưa: “Nếu thật là Thầy, xin cho con đi trên nước mà đến với Thầy”. Chúa bảo ông đi. Nhưng đi một đỗi, ông thấy sóng gió thì sợ nên bị chìm xuống. Ông hoảng hốt xin Chúa cứu giúp. Chúa liền giơ tay nắm lấy ông và trách sao ông kém lòng tin, nếu ông tin Chúa vững vàng thì ông khỏi bị chìm trong nước. Các môn đệ thấy vậy thì tin thật Người là Con Thiên Chúa.

Qua biến cố Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến với các môn đệ trong cơn giông tố, chúng ta cần có một số suy nghĩ:

– Đối với Chúa: Việc này không có gì khó khăn, và đối với chúng ta, cũng chẳng có gì là khó hiểu, vì Chúa Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng tạo dựng vũ trụ, chính Ngài cầm quyền trên mọi định luật vật lý, nên việc Chúa đi trên sóng nước không có gì phản khoa học hay vô lý, nhưng lại minh chứng uy quyền Thiên Chúa của Ngài. Các môn đệ hôm ấy nhận thấy tỏ tường: Chúa có quyền trên sóng biển, đi trên sóng nước, truyền cho chúng yên lặng, vì thế, lòng tin của các môn đệ càng gia tăng.

– Đối với chúng ta: Lòng tin của chúng ta còn quá yếu kém, nên chúng ta cần phải cầu xin Chúa rất nhiều. Đứng trước cuộc đời đầy đau khổ, chúng ta chẳng khác nào con thuyền bập bềnh trên mặt biển đầy sóng gió. Chúa vẫn có ở đó và chờ đợi để đưa cánh tay đỡ lấy chúng ta. Đứng trước khổ đau của đồng loại, chúng ta lại được Chúa sử dụng như những chiếc phao ,để cho bao nhiêu người khác được cứu thoát.

– Đối với Giáo hội: Giáo hội được tượng trưng như con thuyền. Thuyền gặp bão, Giáo hội Chúa gặp thử thách, nhưng Chúa Giêsu không để cho các Tông đồ một mình chống lại với bão táp, không thể để cho Giáo hội một mình gặp thử thách: “Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Chúa muốn cho các Tông đồ luôn kiên trì trong đức tin, đừng lo sợ mê man. Chúa đến với các Tông đồ, Chúa đến với Giáo hội trong cơn thử thách. Chúng ta hãy để cho Chúa đến với chúng ta và hiện diện với chúng ta mãi mãi.

Chúng ta hãy coi Chúa Giêsu giáo dục đức tin cho Phêrô và các Tông đồ: ban đầu Ngài để cho các Tông đồ bị bão biển doạ (cũng như để Phêrô bị chìm xuống). Khi các ông sợ, các ông nghĩ tới Chúa. Cuối cùng Ngài ra tay cứu giúp. Kết quả là các ông tin vào Ngài: “Thật, Ngài là Con Thiên Chúa”.

Thánh Phêrô Đamianô viết: ”Giữa cuộc đời sóng gió, Chúa Giêsu vẫn ở bên ta, dù ta không thấy. Sự hoài nghi làm ta sợ hãi và chìm xuống biển sâu; còn lòng tin sẽ giúp ta nhận ra Chúa và bước đi trong bình an”.

Việc Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến với các môn đệ và Người cho Phêrô đi trên mặt nước giúp chúng ta hiểu rằng: Chúa vẫn luôn hiện diện trong cuộc sống. Trong mọi khó khăn thử thách, Người luôn ở bên ta, chỉ có điều là chúng ta có đức tin đủ mạnh và lòng yêu mến đủ lớn, để có thể mau mắn nhận ra và kêu xin Người cứu giúp hay không mà thôi.

Trong cuộc sống, nơi xã hội hôm nay luôn có những bất trắc. Nào là chuyện “cá lớn nuốt cá bé’, hay “ma cũ bắt nạt ma mới” hoặc “chân lý thuộc về kẻ mạnh”. Một xã hội như thế, người ta lấy thước đo để đánh giá vấn đề, sự kiện… dựa vào quyền và tiền… Vì thế, không lạ gì vẫn còn đó tình trạng áp bức, bất công với người lương thiện và thấp cổ bé miệng!

Đứng trước tình trạng ấy, chúng ta không thể không đặt câu hỏi: “Thiên Chúa ở đâu ?”, “Ngài có thực sự hiện hữu không ?”; “Nếu có, tại sao lại có chuyện con người thay Trời hành đạo như vậy”.

Sự kiện Đức Giêsu đi trên mặt biển để đến với các môn đệ và việc cho ông Phêrô đi trên mặt nước đến với Ngài giúp chúng ta hiểu rằng: Chúa vẫn luôn còn đó trong cuộc đời. Mọi khó khăn thử thách, Ngài luôn có mặt, chỉ có điều chúng ta có một đức tin đủ mạnh để vượt qua mọi mọi khó khăn và có đủ độ nhạy bén để nhận ra Ngài hay không mà thôi!

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta bài học: nếu có niềm tin vào Chúa trong sự khiêm tốn thì sẽ được Chúa thương (Ngọc Biển).

Truyện: Hãy bám chặt vào Ta

Có người kể: Tối qua, tôi mơ thấy mình đang cầu nguyện, bỗng một luồng sáng xuất hiện; và Chúa Giêsu hiện ra mỉm cười và nói: “Con hãy ngồi trên tấm thảm này với Ta”.

Lòng tràn đầy vui sướng, tôi làm theo ý Ngài. Tấm thảm từ từ bay bổng lên không trung đưa theo Chúa Giêsu và tôi ngồi trên đó. Tôi mỉm cười, lòng đầy vui sướng và tự nhủ: thật không còn gì hạnh phúc cho bằng được ở gần bên Chúa.

Một lúc sau, tôi quay nhìn Chúa Giêsu để tỏ bày niềm vui: nhưng tim tôi bắt đầu đập mạnh vì Ngài không còn bận tâm gì đến tôi nữa, bởi lẽ Ngài đang chăm chủ rút từng sợi chỉ của tấm thảm thả cho nó bay lơ lửng ở trên không trung. Hết sợ chỉ này đến sợi chỉ khác từ từ bay lên theo gió. Chân tay tôi bắt đầu run lên vì hoảng sợ, thế mà Chúa Giêsu vẫn thản nhiên tiếp tục rút từng sợi chỉ. Sau cùng tôi kêu lên: “Lạy Chúa, Chúa làm gì thế ? Chúa không thấy là chẳng còn mấy chốc nữa tấm thảm sẽ tan tành hay sao ?”

Chúa Giêsu mỉm cười nắm tay tôi và nói: Sao con nhát đảm và kém tin thế ? Hãy bám chặt vào Ta, con sẽ không sợ gì, dù có bị tước đoạt mọi sự, cả đến sợi chỉ cuối cùng đi nữa”.

Chúa Giêsu vừa dứt lời, thì quả thực sợi chỉ cuối cùng của tấm thảm cũng bị rút đi luôn và tôi giật mình thức giấc.

Suy Niệm 10: ,,,,,,,,,

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

Phân tích

Chuyện xảy ra sau phép lạ hóa bánh ra nhiều:

  1. Chúa Giêsu “bắt buộc” các môn đệ phải xuống thuyền ngay, để sang bờ bên kia trước, còn Ngài thì ở lại cho dân chúng ra về. Một sự khẩn trương, vội vã, có vẻ như đang đứng trước một nguy hiểm. Tại sao? vì sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, dân chúng đã quá hăng hái, một sự hăng hái trần tục vì thấy mình được hưởng thụ vật chất. Sự hăng hái này không hợp với sứ mạng Messia của Chúa Giêsu. Ngài không muốn cho sự hăng hái lệch lạc này tác động lên các môn đệ, và vội vã bảo các ông sang ngay nơi khác.
  2. Chúa Giêsu đi trên mặt nước: Cựu ước nhiều lần nói về việc đi trên mặt nước ( G 9, 8- 38, 16; Tv 77, 20; Kb 3, 15; Si 24, 5) nhưng đều gán vào cho Thiên Chúa. Vậy với chi tiết Chúa Giêsu đi trên mặt nước, Mátthêu ngụ ý so sánh Chúa Giêsu với Thiên Chúa.
  3. Phêrô đi trên mặt nước: So sánh với 2V 2, 1-55: Ngôn sứ Êlia dùng áo choàng đập xuống nước, nước rã làm hai cho ông đi qua. Về sau Êlisê dùng tấm áo choàng của Thầy Êlia của mình mà đập xuống nước, nước cũng rẽ làm hai cho Êlisê đi qua. Nghĩa là Êlisê đã nhận được thần lực của Thầy mình, nhưng có điểm khác biệt là: Êlisê nhận thần lực qua một vật dụng là tấm áo, còn Phêrô nhận thần lực của Thầy chỉ nhờ đức tin. Một trong những tư tưởng thần học của Mátthêu là người môn đệ được Thầy ban cho cùng quyền lực như Thầy. Hãy xem 9, 6 – 9, 8 – 10, 1 – 16, 19 – 18, 18. Nhưng điều đáng lưu ý là các môn đệ nhận được quyền lực của Thầy nhờ đức tin.
  4. Phêrô sợ, nên bị chìm. Ông xin Chúa Giêsu cứu thì được Ngài cần tay nâng lên. Qua việc này Chúa Giêsu muốn huấn luyện cho các môn đệ (mà Phêrô là đại diện) để giúp họ tiến bước dần trên cuộc hành trình đến đức tin.

Suy gẫm

  1. Tin Mừng Gioan cho biết thêm là sau khi hóa bánh ra nhiều, dân chúng muốn tôn Chúa Giêsu lên làm vua. Chúa Giêsu không muốn các môn đệ mình lây nhiễm các quan niệm về Đấng Messia lệch lạc ấy nên buộc họ vội vàng rời khỏi nơi đó. Chúa Kitô không muốn người ta coi Chúa như một Đấng chỉ ban cơm bánh. Chúa không muốn người ta đến với Ngài chỉ để xin những ơn vật chất.
  2. Chúng ta hãy coi cách Chúa Giêsu giáo dục đức tin cho Thánh Phệrô và các tông đồ: Ban đầu Ngài để cho các tông đồ bị bão biển đe dọa (cũng như Phêrô bị chìm xuống). Khi các ông sơ, các ông nghĩ tới Chúa. Cuối cùng Ngài ra tay cứu giúp, kết quả là các ông tin vào Ngài “Thật, Thầy là con Thiên Chúa”.

Nhiều khi xem ra Chúa bỏ mặc chúng ta trong những hoàn cảng khó khăn. Nhưng đó chính là cách Chúa giáo dục đức tin cho chúng ta. Do đó đừng hoảng sợ, cũng đừng nản lòng. Hãy kêu lên Chúa như Phêrô xưa: “Lạy Thầy, xin cứu con”.

  1. Có một bà nổi tiếng là đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến, hy vọng học được bí quyết để sống bình tâm và hạnh phúc. Bà hỏi: “Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao?” “Ồ không, tôi không phải là người có một đức tin lớn lao, mà chỉ là người có một đức tin nhỏ bé đặt vào một Thiên Chúa lớn lao.”

4.”Sau khi giải tán đám đông, Người lên núi và cầu nguyện chiều đến Ngài vẫn ở đó một mình”. (Mt14, 23).

Con thường thấy mình không có giờ cầu nguyện, không có giờ đi vào sa mạc để ở bên Chúa và trò chuyện với Chúa. Nhưng thật ra sa mạc ở sát bên con, chỉ cần một chút cố gắng của Tình yêu là con có thể tạo ra sa mạc. Mỗi ngày con có biết bao nhiêu giây phút có thể gặp Chúa mà con đã bỏ mất. Khi chờ một người bạn, chờ đèn xanh ở ngã tư, chờ điện thoại trả lời, chờ món hàng đang được gói. Khi lên cầu thang, khi đến nơi làm việc, khi bị kẹt xe, khi cúp điện bất ngờ, thay vì bực bội nóng ruột con lại cảm thấy mình sống an bình trong sự hiện diện của Chúa. Lạy Chúa, những sa mạc ngắn ngủi hằng ngày giúp con tỉnh thức để nhạy cảm với Chúa. Xin cho con yêu mến Chúa hơn, để tìm ra những sa mạc mới và vui vẻ bước vào.

  1. Chúa liền đưa tay nắm lấy ông và nói: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi” (Mt14, 31).

Trong cuộc sống Kitô hữu, Đức tin là điều quan trọng. Chúng ta vẫn tin có Chúa, vẫn đi lễ, vẫn rước lễ hằng ngày, làm việc thệc thiện, việc bác ái giúp đỡ người khác; nhưng đôi lúc, chúng ta đã làm những việc đó như một người máy hay theo một thói quen.

Do đó, thật là tồi tệ khi ta gặp phải rủi ro hay thất bại nào…Vì ta đã đối phó bằng cách để Chúa qua một bên, bỏ hết mọi việc từng làm. Dần đần ta không còn giữ được đức tin và lúc này tâm trạng của ta rất giống tâm trạng của Thánh Phêrô khi được Chúa cho đi trên mặt biển. Mỗi người chúng ta thử nhìn xem mình sống đạo ra sao, mình đã thực sự có đức tin chưa? Hay chúng ta tin vì thấy bạn bè mình tin, không tin không được. Hay ta chỉ tin vì được sinh ra trong một gia đình Công giáo.v.v..

Suy Niệm 11: ,,,,,,,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Phép lạ bánh hóa nhiều hôm qua và đặc biệt phép lạ Chúa đi trên mặt nước hôm nay phải được nhìn như là cách Chúa Giêsu huấn luyện đức tin cho các môn đệ. Thật vậy, họ vừa sững sờ vì phép lạ bánh hóa nhiều, bởi vì chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá, thế mà Chúa đã làm cho hơn năm ngàn người ăn mà còn dư 12 thúng đầy bánh vụn. Phép lạ này làm cho tâm trí họ nhớ lại phép lạ Manna trong sa mạc xưa. Nay đến phép lạ Chúa đi trên mặt nước, họ lại thấy quyền năng Chúa trên vạn vật, và có lẽ họ cũng nhớ lại quyền năng tạo dựng của Thiên Chúa vì thế họ mới tuyên xưng: “Quả thật, Ngài là Con Thiên Chúa.” (Mt 14,33).

Ông Phêrô bước xuống đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa Giêsu. Nhưng khi thấy gió nổi lên thì ông đâm sợ, và khi bắt đầu chìm xuống, ông la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với.” (Mt 14,30)

Câu chuyện này cho thấy, Chúa thông ban quyền thắng sự dữ cho Phêrô. Nhưng điều này còn tùy thuộc vào lòng tin của ông. Bao lâu còn tập trung tâm trí vào Chúa Giêsu, thì ông khống chế được bão tố của biển khơi là sự dữ, nhưng khi tâm trí rời xa Chúa, ông liền bị chìm ngay.

Bao lâu người Kitô hữu còn tập trung tâm trí vào Chúa Giêsu thì chẳng có gì phải sợ, nhưng một khi đã quay lưng lại với Chúa thì mọi sự sẽ trở nên tồi tệ ngay lập tức.

Có người kể lại giấc mơ của mình như sau: Tối hôm qua, tôi mơ thấy mình đang cầu nguyện, bỗng chốc một luồng ánh sáng xuất hiện; trong ánh sáng huy hoàng đó, tôi nhận ra Chúa Giêsu đang đứng trước mặt tôi, Ngài mỉm cười nhìn tôi và nói:

– Con hãy đến ngồi trên tấm thảm này với Ta.

Lòng tràn đầy vui sướng, tôi tiến lại gần bên Chúa và ngồi xuống trên tấm thảm bên cạnh Ngài. Tấm thảm từ từ bay bổng lên không trung đưa theo Chúa Giêsu và tôi ngồi trên đó. Tôi mỉm cười, lòng đầy vui sướng và tự nhủ: thật không còn gì hạnh phúc cho bằng được ở gần bên Chúa.

Một lúc sau, tôi quay nhìn Chúa Giêsu để bày tỏ niềm vui của tôi; thế nhưng tim tôi thắt lại và bắt đầu đập mạnh, vì tôi có cảm tưởng như Chúa không còn bận tâm gì đến tôi nữa, bởi lẽ Ngài đang chăm chú rút từng sợi chỉ của tấm thảm thả cho nó bay lơ lửng ở trên không trung theo chiều gió. Thế là chẳng mấy chốc tấm thảm chỉ còn lại phân nửa. Hết sợi chỉ này đến sợi chỉ khác từ từ bay. Chân tay tôi bắt đầu run lên vì hoảng sợ, thế nhưng Chúa Giêsu vẫn thản nhiên tiếp tục rút từng sợi chỉ như chẳng có gì xảy ra. Sau cùng tôi kêu lên:

– Lạy Chúa, Chúa đang làm gì thế? Chúa không thấy là chẳng còn mấy chốc nữa tấm thảm của chúng ta sẽ tan tành hay sao?

Chúa Giêsu mỉm cười nắm lấy tay tôi và nói:

– Sao con lại nhát đảm và kém lòng tin như thế? Con hãy bám chặt vào Ta, con sẽ không phải sợ gì nữa, mặc dù con sẽ bị tước đoạt hết mọi sự, cả đến sợi chỉ cuối cùng.

Chúa Giêsu vừa dứt lời, thì quả thực sợi chỉ cuối cùng của tấm thảm cũng bị rút đi và tôi giật mình thức giấc.

  1. Vâng, có Chúa thì không có gì phải sợ nhưng làm sao để lúc nào chúng ta cũng có thể cảm nhận được Chúa luôn ở với chúng ta?

Nhà hiền triết Uddalaka muốn dạy cho đứa con của ông là Svetalefu biết cách nhận ra Đấng Duy Nhất qua muôn vàn dáng vẻ của các sự vật. Ông thường dùng những dụ ngôn để dạy con. Một lần kia ông nói với con ông: “Hãy bỏ nắm muối này vào dĩa nước cha đặt ở đây và sáng ngày mai hãy trở lại gặp cha!”

Người con làm đúng theo lời cha anh dạy. Hôm sau, cha anh bảo:

– Con hãy lấy cho ta nắm muối hôm qua con bỏ vào trong nước.

– Thưa cha, con không thể làm được vì muối đã tan trong nước hết rồi. Người con nói.

– Vậy con hãy nếm dĩa nước đó bắt đầu từ mép bên phải qua mép bên kia xem con thấy mùi vị gì?

– Muối.

– Bây giờ, con hãy nếm phía mép kia của cái dĩa xem con thấy mùi vị gì?

Uddalaka nói.

– Muối.

– Hãy phơi cái dĩa ra ngoài nắng đi. Người cha nói.

Người con làm y như thế và nhận thấy rằng, sau khi nước bốc hơi, muối lại xuất hiện. Lúc đó Uddalaka bèn nói:

– Con ạ, con không thể nào nhận ra Thiên Chúa ở đây, nhưng thật ra Người luôn có đó.

Thiên Chúa không hiện diện như một ảo ảnh hay một bóng ma. Ngài luôn sẵn sàng đưa cánh tay ra để nâng đỡ mỗi khi con người nao núng vấp ngã. Thánh Phêrô đã thực sự cảm nghiệm được bàn tay cứu độ của Chúa, khi ngài sắp chìm xuống vực sâu. Chính vì thế mà Chúa muốn chúng ta phải luôn tin tưởng vào Chúa.

Lạy Chúa, thật sự con là kẻ yếu lòng tin. Xin Ngài hãy đến với con, giúp cho con biết bám chặt vào Chúa mỗi khi con gặp thử thách. (Hosanna).

THỨ TƯ TUẦN 18 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Mt 15, 21-28

Khi ấy, ra khỏi đó, Chúa Giêsu lui về miền Tyrô và Siđon, thì liền có một bà quê ở Canaan từ xứ ấy đến mà kêu cùng Người rằng: “Lạy Ngài là con Vua Đavít, xin thương xót tôi: con gái tôi bị quỷ ám khốn cực lắm”.

Nhưng Người không đáp lại một lời nào. Các môn đệ đến gần Người mà rằng: “Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi”. Người trả lời: “Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel”.

Nhưng bà kia đến lạy Người mà nói: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi”. Người đáp: “Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó”. Bà ấy đáp lại: “Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống”.

Bấy giờ, Chúa Giêsu trả lời cùng bà ấy rằng: “Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy”. Và ngay lúc đó, con gái bà đã được lành.

SUY NIỆM 1: Lòng tin của bà lớn thật

Suy niệm:

Bài Tin Mừng hôm nay kể lại chuyện Đức Giêsu chữa bệnh từ xa,

tại Tia và Xiđon, vùng đất của dân ngoại.

Nhưng chuyện chữa bệnh không quan trọng lắm.

Chuyện quan trọng là lòng tin của người phụ nữ Canaan.

Hẳn bà biết ít nhiều về Do Thái giáo, khi gọi Đức Giêsu là Con Vua Đavít.

Con Vua Đavít là tước hiệu người Do Thái dùng để chỉ Đấng Mêsia.

Bà tin Đức Giêsu có thể chữa lành con gái của bà.

Người phụ nữ trực tiếp gặp Đức Giêsu và ngỏ lời nài xin:

“Xin thương xót tôi… con gái tôi bị quỷ hành hạ dữ lắm.”

Người mẹ đau vì con của mình đau.

Bà kêu xin Đức Giêsu thương mình, bằng cách chữa lành cho cô con gái.

Nhưng bà chỉ gặp sự thinh lặng như thể Người không nghe thấy.

Dầu vậy bà vẫn không ngừng đi sau và kêu to.

Tiếng kêu dai dẳng của bà đuổi theo các môn đệ khiến họ bực bội.

Khi không chịu nổi được nữa, họ mới chạy đến với Thầy Giêsu.

“Xin Thầy cho bà ấy đi đi, vì bà ấy cứ kêu sau lưng chúng ta mãi.”

Có vẻ các môn đệ muốn Thầy gặp bà và cho điều bà cần.

Cho đến nay vẫn chưa có cuộc đối thoại giữa bà và Đức Giêsu.

Người phụ nữ vẫn là người độc thoại.

Nhưng Đức Giêsu vẫn chưa muốn nói chuyện với bà.

Người chỉ nói với các môn đệ và xác định sứ vụ của mình:

“Thầy chỉ được sai đến với những chiên lạc nhà Israel thôi.”

Đây là lời từ chối đầu tiên, rõ ràng và dứt khoát.

Nó như đặt một dấu chấm hết cho mọi hy vọng của người mẹ.

Đức Giêsu như muốn nói: Đừng kêu la vô ích.

Chị không phải là chiên của nhà Israel.

Dân ngoại lúc này không phải là sứ vụ của tôi,

vì Cha tôi chưa sai tôi đến.

Lòng tin của người phụ nữ bị thử thách đến tột độ.

Chắc bà bị cám dỗ bỏ đi vì sự thinh lặng lạnh lùng,

và sự từ chối cương quyết của Đức Giêsu.

Nhưng trái tim của một người mẹ không cho phép bà làm thế.

Bà trở nên táo bạo hơn và dám vượt lên trước để gặp Đức Giêsu.

Trong thái độ cung kính bái lạy, bà tiếp tục nài xin:

“Lạy Ngài, xin giúp tôi” (c. 25);

khác với lúc nãy: “Lạy Ngài, xin thương xót tôi” (c. 22).

Cả hai lời nài xin đều nhắm đến người con, dù có vẻ bà chỉ xin cho bà.

Xin giúp tôi bằng cách giúp con tôi khỏi móng vuốt quỷ dữ.

Hạnh phúc của người mẹ gắn liền với hạnh phúc của con,

vì tình yêu nối kết cả hai nên một.

Tuy vậy lời nài xin này của trái tim người mẹ

dường như vẫn chưa đụng được vào trái tim Thầy Giêsu.

Người đưa ra lời từ chối thứ hai

quyết liệt hơn và có thể gây tổn thương nghiêm trọng:

“Không nên lấy bánh dành cho con mà ném cho chó.”

Con ở đây là dân Israel, là người trong nhà, có quyền hành.

Dân ngoại đôi khi được ví với chó nuôi trong nhà.

Hai bên không ở trên cùng một mặt phẳng.

Câu nói này của Đức Giêsu phản ánh cái nhìn của người Do Thái.

Họ tự hào về tính ưu việt của mình

trong tư cách là Dân riêng của Chúa.

Nói chung họ cho rằng chỉ họ mới xứng đáng hưởng ơn cứu độ.

Người phụ nữ không phản đối cái nhìn của Đức Giêsu

Bà không cảm thấy mình bị xúc phạm và giận dữ bỏ đi.

Trái lại, bà đón nhận cái nhìn ấy và tìm thấy một kẽ hở cho ơn Chúa:

“Thưa Ngài đúng thế.

Nhưng chó con cũng được ăn các mảnh vụn rơi xuống từ bàn của chủ.”

Bà chấp nhận mình chỉ là chó con nuôi trong nhà,

không phải là ông chủ đang ngồi tại bàn ăn.

Bà tin rằng dù mình không đủ tư cách

để ngồi dự bàn tiệc cánh chung như những người Do Thái,

bà vẫn có thể được hưởng chút vụn bánh từ bàn ăn rớt xuống.

Bà vẫn giữ niềm hy vọng ngay khi bị từ chối thẳng thừng.

Chính lời từ chối của Đức Giêsu lại mở ra niềm hy vọng.

Đức Giêsu bị ấn tượng bởi lòng tin của bà.

Người kêu lên: “Này bà, lòng tin của bà lớn thật.”

Đức Giêsu từng ngỡ ngàng trước lòng tin của viên bách quản (Mt 8,10-11).

Giờ đây Người đối diện với lòng tin của một người mẹ thương con.

Chính tình thương thêm sức mạnh cho lòng tin,

khiến lòng tin trở nên kiên trì, bất chấp thinh lặng và từ chối.

Lòng tin không mất hy vọng ngay khi có vẻ chẳng còn gì để hy vọng.

Lòng tin mạnh mẽ và khiêm hạ của người mẹ đã chinh phục Đức Giêsu,

và cuối cùng đã chạm được vào trái tim của Người.

Đức Giêsu đã để mình bị cuốn đi, ngỡ ngàng và ngây ngất…

Bây giờ Người mới thực sự nói chuyện với bà: “Này bà…”

Người sẽ làm điều trước đây Người không định làm.

Người sẽ đáp lại lòng tin của bà, lòng ao ước của bà

chỉ bằng một lời nói từ xa cho một cô bé chưa hề gặp mặt:

“Hãy xảy ra cho bà như bà muốn”.

Cô bé đã được chữa lành kể từ lúc đó.

Mẹ cô đã được thương xót và trợ giúp.

Đức Giêsu không cứng nhắc và bó hẹp trong sứ vụ Cha giao.

Người vẫn nghe tiếng kêu của con người và chấp nhận những ngoại lệ.

Ngoại lệ cũng nằm trong Ý Cha.

Ý Cha vẫn mở ra mới mẻ từng ngày đòi ta phải tìm kiếm liên tục.

Ngoại lệ hôm nay sẽ mở đường cho sứ vụ ngày mai:

“Các con hãy đi, hãy làm cho mọi dân tộc thành môn đệ,”

để “nhiều người từ Đông sang Tây sẽ đến và dự tiệc trong Nước Trời.”

Xã hội hôm nay không thiếu những bà mẹ khổ vì con mình bị ám.

Ám vì đủ thứ nghiện ngập do cuộc sống đem lại.

Các bà mẹ thấy mình bất lực, chỉ biết hy vọng vào Chúa.

Nhiều khi có cảm tưởng Chúa không nghe và lạnh lùng trước nỗi đau.

Hãy có lòng tin lớn của người phụ nữ Dân ngoại,

tiếp tục tin, tiếp tục yêu, tiếp tục hy vọng

và biết mình có thể chạm được vào trái tim của Thiên Chúa.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa,

xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,

để con làm bật rễ khỏi lòng con

những ích kỷ và khép kín.

Xin cho con đức tin can đảm

để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,

chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.

Xin cho con đức tin sáng suốt

để con thấy được thế giới

mà mắt phàm không thấy,

thấy được Đấng Vô hình,

nhưng rất gần gũi thân thương,

thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ.

Xin cho con đức tin liều lĩnh,

dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,

dám tiến bước trong bóng đêm

chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,

dám lội ngược dòng với thế gian

và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.

Xin cho con đức tin vui tươi,

hạnh phúc vì biết những gì

đang chờ mình ở cuối đường,

sung sướng vì biết mình được yêu

ngay giữa những sa mù của cuộc sống.

Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp

qua những cọ xát đau thuong của phận người,

để dù bao thăng trầm dâu bể,

con cũng không để tàn lụi niềm tin

vào Thiên Chúa và vào con người.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

SUY NIỆM 2: Thiên Chúa xót thương

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Các bài Sách Thánh hôm nay tương phản nhau mãnh liệt: niềm tin của dân ngoại và sự bất tín của Ít-ra-en. Ít-ra-en đã chứng kiến biết bao việc kỳ diệu Chúa làm nhưng vẫn thiếu niềm tin. Hôm nay họ sợ người khổng lồ nên chống đối Mô-sê, chống lại ý Chúa. Không chịu vào Đất Hứa theo hướng nam qua vùng Ca-đê mà chọn đi vòng qua phía đông theo sông Gióc-đan. Họ thiếu niềm tin vào Chúa. Xét về quân đội thời ấy, còn ai mạnh hơn Ai cập. Thế mà Chúa đã tiêu diệt tất cả trong nháy mắt. So với quân đội Pha-ra-ô thì những người khổng lồ này có là gì. Nếu tin Chúa họ đâu phải sợ hãi đến hoảng loạn và chống lại ý Chúa như vậy (năm lẻ).

Tuy Ít-ra-en bất tín. Nhưng Chúa vẫn trung tín. Sau khi trừng phạt rồi lại xót thương. Tiếp tục yêu thương và cứu chữa họ: “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương. Ta sẽ lại xây ngươi lên, và ngươi sẽ được xây lại” (năm chẵn).

Lòng thương xót của Chúa bao la. Nên sau cùng đã trải rộng ra khỏi Ít-ra-en, đến với mọi dân mọi nước. Hôm nay người phụ nữ Ca-na-an đã được hưởng lòng thương xót của Chúa. Đó là dấu hiệu Chúa lập ra một dân mới. Bà chưa hề biết Chúa, mới chỉ nghe nói, thế mà đã tin tưởng hết sức vào Chúa. Chúa đặt ra trước mặt bà 3 chướng ngại lớn và bà đã vượt qua. Một sự im lặng. Chúa không đáp lại lời bà xin. Nhưng bà vẫn tha thiết, kiên trì và dai dẳng cầu xin. Một lời từ chối: “Thầy chỉ được sai đến với chiên lạc nhà Ít-ra-en thôi”. Ranh giới đã được phân định. Thế mà bà vẫn nhất quyết nài xin. Một lời nhục mạ: “Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó”. Thật là tàn nhẫn. Nhưng bà này đã chấp nhận: “Nhưng chó cũng có thể được những mảnh vụn bánh từ bàn chủ rơi xuống”. Và Chúa phải khen ngợi lòng tin của bà. Bà không còn phải là chó con nữa. Bà trở nên con cái Chúa. Được đồng bàn với Chúa. Không còn phải chờ bánh vụn. Nhưng được hưởng bánh tự do trên bàn của Chúa.

Tạ ơn Chúa vì Lòng Thương Xót của Chúa bao la trải rộng khắp mười phương. Xin cho con được vững tin vào Lòng Thương Xót của Chúa.

SUY NIỆM 3: Sống Niềm Tin

Mahatma Gandhi, người có công giành độc lập cho Ấn Ðộ bằng con đường bất bạo động, đã có lần tuyên bố: “Tôi yêu mến Chúa Kitô, nhưng tôi không phục những người Kitô hữu”. Câu nói của con người đã từng lấy giáo lý của Chúa Kitô làm nền tảng cho chủ trương bất bạo động đáng làm cho chúng ta suy nghĩ.

Giáo lý của Chúa Kitô thì cao đẹp, nhưng nhiều Kitô hữu làm cho bao nhiêu người xa lánh Giáo Hội, chỉ vì cuộc sống của họ đi ngược lại với những gì họ tuyên xưng. Người ta thường nói: “Bà con xa không bằng láng giềng gần”. Ðôi khi chúng ta cảm thấy gần gũi với những người láng giềng hơn là với những người thân thuộc. Trong liên hệ với Chúa Giêsu cũng thế, có biết bao người chưa từng được nghe nói đến Chúa Giêsu, có biết bao người không mang danh hiệu Kitô, nhưng lại gần gũi với Chúa Kitô và sống tinh thần Kitô hơn chính những người Kitô hữu.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cao lòng tin của người đàn bà xứ Canaan, tức là một người ngoại giáo. Một trong những điều hẳn sẽ làm chúng ta ngỡ ngàng, đó là trên Thiên đàng, chúng ta sẽ gặp gỡ những người chúng ta chưa từng quen biết, ngay cả những người chưa một lần mang danh hiệu Kitô hay đặt chân đến nhà thờ.

Thời Chúa Giêsu, có biết bao người ngoại giáo có lòng tin sâu sắc hơn cả những người Do thái. Trước hết, tiên tri Isaia đã từng khiển trách lòng giả dối của người Do thái: “Dân này thờ Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng họ thì xa Ta”. Thời Chúa Giêsu, có biết bao người bị loại ra khỏi xã hội, bị đặt bên lề Ðền thờ, và có lẽ cũng không hề thuộc toàn bộ lề luật của Môsê, nhưng lại có lòng sám hối và tin tưởng sâu xa hơn. Nói với những người chỉ giữ đạo một cách hình thức, Chúa Giêsu đã cảnh cáo: “Không phải những ai nói: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời; nhưng là những kẻ thực thi ý Chúa”.

Người đàn bà Canaan có lẽ không hề biết đến lề luật Môsê, nhưng đã sống niềm tin của mình một cách mãnh liệt. Lòng tin đó được thể hiện qua việc phó thác hoàn toàn vào quyền năng của Chúa Giêsu. Trong tình thế hầu như tuyệt vọng, bà đã chạy đến với Chúa Giêsu; sự van nài của bà cho thấy sự kiên nhẫn và lòng tin sắt đá của bà. Sự khác biệt cơ bản giữa một người có niềm tin và một người không có niềm tin, không hệ tại ở danh hiệu Kitô hay những thực hành đạo đức, mà chính là lòng tin. Tin vào sự hiện diện quyền năng của Thiên Chúa trong cuộc sống, tin vào tình yêu vô biên của Ngài, tin vào ý nghĩa của cuộc sống, tin vào tình người, đó là sắc thái chủ yếu của người có niềm tin: chính trong niềm tin đó, con người gặp gỡ Chúa Giêsu.

Trong một hoàn cảnh mà cái nhìn của con người có thể cho là tuyệt vọng, người Kitô hữu hơn bao giờ hết được mời gọi để nêu cao niềm tin của mình. Ðây là thời điểm để họ chứng tỏ bản sắc đích thực của mình. Trong cuộc sống chỉ có nghi kỵ và hận thù, họ được mời gọi để đốt lên ngọn đuốc của yêu thương. Trong một xã hội bị gậm nhấm bởi chán nản tuyệt vọng, họ được mời gọi để mang lại niềm hy vọng. Chỉ khi nào giữ đúng vai trò đó, người Kitô hữu mới thực sự xứng đáng với danh hiệu của mình.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 4: Tâm Hồn Khiêm Tốn (Mt 15,21-28)

Biến cố chúng ta vừa đọc lại trên đây cho thấy Chúa Giêsu đã vượt qua một biên giới, và đến gần vùng đất của dân ngoại. Và tại đây Ngài đã gặp một người đàn bà được hưởng lấy lợi ích từ tác vụ của Chúa Giêsu, tự lãnh nhận những hồng ân Thiên Chúa như những người con Do Thái đồng hương. Vừa bước vào vùng đất mới, Chúa Giêsu nghe được lời kêu van của một người đàn bà đang gặp thử thách: “Lạy Ngài, con vua Ðavít, xin dủ lòng thương tôi. Ðức con gái tôi bị quỉ ám khổ sở lắm”. Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại một lời. Trước lời kêu xin tha thiết như vậy, tại sao Chúa không đáp lại? Chúa là Ðấng nhân từ, đầy cảm thông trước cảnh cùng khổ của những ai đến với Chúa và đã dạy các tông đồ: “Hãy cầu nguyện thì sẽ được. Hãy gõ cửa thì sẽ mở cho”. Thế mà tại sao Chúa lại làm thinh, không trả lời cho người đàn bà đang thành tâm kêu xin? Hẳn có lý do.

Các tông đồ không hiểu được thái độ của Chúa và cũng không muốn bị quấy rầy nên đã nói với Chúa như sau: “Xin Thầy bảo bà ấy đi đi, kẻo bà ấy cứ theo chúng ta mà kêu mãi”. Các tông đồ hiểu lầm thái độ im lặng của Chúa như một sự từ chối và các ngài cũng muốn phủi tay: “Xin Chúa đuổi bà ấy đi cho, đừng để bà ấy quấy rầy nữa”. Chúa Giêsu không chỉ im lặng mà Ngài còn lên tiếng nói lời chối từ như sau: “Ta chỉ được sai đến để cứu những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi”.

Chúng ta nên học hỏi thái độ khiêm tốn và kiên trì của người đàn bà: “Lạy Thầy, xin cứu giúp tôi”. Bà không bực tức, không nổi giận, không trách móc Chúa tại sao thế này, tại sao thế nọ. Chúa càng im lặng thì bà càng khiêm tốn hơn nữa. Không những bà chỉ nói mà còn van xin bằng cả con người của mình. Bà sụp lạy Chúa Giêsu và nói: “Xin Ngài thương xót con”. Sự im lặng của Chúa là một thử thách, thử thách trong đức tin, thử thách trong việc cầu nguyện Chúa Giêsu thử thách nhiều hơn nữa: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà đem ném cho chó”. Ðây là thử thách ở mức độ cuối cùng, ai có thể vượt qua được. Người đàn bà xa lạ và thuộc dân ngoại khiêm tốn thưa cùng Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, đúng thế, nhưng mà những con chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ trên bàn chủa rơi xuống”. Có thể nói tâm hồn khiêm tốn đã giúp người đàn bà vượt qua được thử thách và trưởng thành trong đức tin. Chúa Giêsu trấn an bà như sau: “Này bà, lòng tin của bà thật mạnh. Bà muốn sao thì sẽ được như vậy”. Người đàn bà chỉ xin Chúa cho lợi lộc thông thường cho con bà khỏi bị quỉ ám và bà được nhận lời.

Chúng ta có thể tượng tưởng người đàn bà sẽ vui mừng biết bao hơn nữa khi lãnh nhận được ơn Chúa. Cuối đoạn đường gian nan nhìn lại, chúng ta sẽ thấy rõ những giây phút Chúa xem ra im lặng là những giây phút quí trọng vô cùng vì những im lặng và từ chối này của Chúa giúp đức tin của chúng ta được trưởng thành. Khi đi qua đoạn đường gian nan, chúng ta có thể hiểu được chương trình của Chúa dành cho cuộc đời mình. Thử hỏi, chúng ta còn đủ nghị lực để đi qua đoạn đường nhiều gian nan thử thách hay không.

Lạy Chúa, Xin thương ban cho tất cả những ai chọn theo Chúa có được tâm hồn khiêm tốn để lãnh nhận những mầu nhiệm ân sủng của cuộc đời.

Lạy Chúa, Xin thương nâng đỡ chúng con và củng cố đức tin cho chúng con.

SUY NIỆM 5: Một Con Chó Biết Ơn.

Bà ấy liền bái lạy và thưa với Người rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” Người đáp: “Không lên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.” Bà ấy nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” Bấy giờ Đức Giêsu đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Từ giờ đó con gái bà được khỏi. (Mt. 15, 25-28)

Những câu: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì sẽ được vậy.” cho người ta thấy Đức Giêsu rất cảm thương, tốt lành và kính chuộng những kẻ hèn mọn và nghèo khổ.

Thánh Mát-thêu cho chúng ta thấy một Đức Giêsu có óc bè phái: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi.” Có óc khinh bỉ: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.”

Nhưng kìa: Đức Giêsu hoàn toàn không phải thế, Thánh sử muốn dạy chúng ta biết lắng nghe và hiểu rõ bài học này.

Có nhiều người lương dân biết xưng tụng, kêu van danh Đức Kitô, trong khi những Kitô hữu nghe danh người xưa kia mà nay lại không biết kêu cầu Người. Hay ngay cả khi họ nghĩ đến Người, hiểu biết Người bây giờ, họ vẫn điếc chẳng nghe Tin Mừng của Người, mù không thấy những phép lạ của Người, sự phục sinh của Người, câm không nói về Người.

Chó con trong nhà.

Chó con được ăn những đồ thừa, không những nó bằng lòng mà còn tỏ niềm vui mừng và biết ơn nữa. Trẻ con trong nhà thì sao? Không phải lúc nào chúng cũng biết ơn, cảm ơn dù chúng được chăm lo rất nhiều, chúng không thấy vì được quá nhiều đặc ân, quá thường xuyên.

Bà lương dân này chẳng được dạy dỗ, chẳng được ân huệ gì, bà lại có niềm tin thật mạnh đó là điều thiết yếu Đức Giêsu muốn Người không nói bà phải tỏ ra ngoan ngoãn phục tùng, Người không tra hỏi về đời tư của bà. Như bất cứ một kẻ nào đó đến với Người, cầu khẩn Người, với cảnh cùng khổ của mình, với lòng tin cậy được nhận lời.

Chúng ta hãy thành khẩn.

Còn chúng ta ngày nay thì sao?

Không còn đề cập đến vấn đề đức tin nữa, nó làm chúng ta mù quáng bằng đủ mọi thứ bào chữa để che đậy lòng thiếu đức tin của chúng ta.

Nếu người lương dân biết tin vào Đức Kitô thì càng có lý mạnh mẽ đòi chúng ta càng xây dựng niềm tin vào Đức Kitô biết bao! và phải làm cho Người trở lên sống động nơi chúng ta và nơi mọi người đến chừng nào! vì chúng ta hiểu biết Người hơn lương dân gấp bội.

SUY NIỆM 6: NHỜ NIỀM TIN CỦA MẸ MÀ CON ĐƯỢC CỨU SỐNG

Xem lại CN 20 TN A.

Trong câu chuyện kể về phép lạ của Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận, người ta kể về gương sáng đức tin của một bà mẹ. Chuyện kể rằng: nhờ mối liên hệ thân tình với Đức Hồng Y, lòng quý trọng và niềm tin tuyệt đối vào ngài, vì thế, bà thường xuyên cầu khấn với ngài khi con bà đang trong tình trạng hôn mê sâu nhiều tháng và chỉ còn chờ chết ngay tại đất nước Hoa Kỳ văn minh tiến bộ vào hạng nhất nhì thế giới!

Quả thật, cậu chủng sinh con bà đã thoát khỏi tử thần khi được chính Đức Hồng Y cầu thay nguyện giúp nhờ vào lòng tin của bà mẹ.

Hôm nay, Tin Mừng cũng trình thuật phép lạ Đức Giêsu đã làm khi cho một bé gái thoát khỏi quỷ ám nhờ vào lòng tin của mẹ em.

Thật vậy, lời cầu xin“Lạy Ngài là con vua Đavít, xin rủ lòng thương tôi” của người phụ nữ xứ Canaan đã đụng chạm đến lòng trắc ẩn của Đức Giêsu, nên bà đã được Ngài xót thương. Nhưng Đức Giêsu còn muốn kiểm chứng đức tin của bà xem có phát xuất từ con tim yêu mến hay chỉ là thực dụng???

Tuy nhiên, càng đi sâu vào câu chuyện, chúng ta lại càng thấy niềm tin ấy được tỏa sáng. Tại sao vậy? Thưa, bởi vì qua sự thinh lặng của Đức Giêsu và nhất là lời khước từ của Ngài khi nói: “Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho lũ chó con”. Đồng thời, bà còn gặp khó khăn khi những người Dothái cũng như của chính các môn đệ ngăn cản không cho bà đến gần Đức Giêsu, thế nhưng, niềm hy vọng vào tình thương của Chúa đã làm cho bà đặt hết niềm tin tưởng nơi Ngài. Vì thế, bà đã thốt lên: “Nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Đứng trước niềm tin đặc biệt đó, Đức Giêsu đã phải chạnh lòng thương đến con bà khi nói: “Lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì sẽ được vậy”.

Trong cuộc sống hiện nay của chúng ta nhiều khi đức tin mang tính nhất thời, tức là chỉ tin khi thuận tiện. Mặt khác, niềm tin của mỗi người có lúc mang tính nửa vời, tức là tin Chúa 50%; 50% còn lại thì dành cho những thần khác…

Tuy nhiên, niềm tin thì hời hợt như vậy, nhưng khi có người khác thể hiện niềm tin vào Chúa thì chúng ta lại tìm cách ngăn cản hay cho là phù phiếm… như các môn đệ và người Dothái khi xưa. Phải chăng họ không muốn vào Nước Trời, nhưng những người muốn vào thì chính họ lại ngăn cản không cho vào.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết đặt niềm tin tuyệt đối nơi Chúa. Đồng thời ý thức rằng: niềm tin trưởng thành là một niềm tin trải qua thử thách và có kinh nghiệm thực sự về Chúa. Cuối cùng, hãy biết noi gương Chúa để thi ân giáng phúc cho những người hoạn nạn, kể cả họ là kẻ thù của ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho mỗi chúng con biết yêu mến Chúa và luôn đặt niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa. Xin cũng cho chúng con có lòng nhân hậu với hết mọi người. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 5: Niềm tin mãnh liệt

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Niềm tin mãnh liệt và khẩn khoản của người đàn bà dân ngoại đã làm Chúa Giêsu không nỡ từ chối ban phép lạ cho bà.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, con thấy có hai lần Chúa đã từ chối không ban phép lạ, nhưng vì niềm tin và lời khẩn khoản của người xin, Chúa đã thực hiện phép lạ: đó là lời cầu xin của Đức Maria tại đám cưới Ca-na, và câu chuyện người đàn bà xứ Ca-na-an hôm nay.

Niềm tin mạnh mẽ và kiên trì đã khiến Chúa không nỡ từ chối ban ơn. Xét cho cùng, chúng con thực không xứng đáng để Chúa ban ơn cho. Con không có quyền đòi Chúa làm phép lạ. Điều con có thể làm được và phải làm, đó là tin tưởng vào Chúa, xác tín vào tình thương đầy quyền năng của Chúa và đặt trọn hy vọng vào Chúa.

Khi con cầu xin Chúa, con thường muốn Chúa thực hiện theo ý muốn của con, vào thời điểm mà con muốn, mà con không hiểu rằng điều quan trọng là tin tưởng và phó thác vào Chúa, phó dâng để Chúa thực hiện điều tốt nhất cho con theo ý định của Chúa.

Lạy Chúa, xin cho con biết kiên trì tín thác vào Chúa, cho con biết bày tỏ tấm lòng của con trong nhẫn nại. Chúa biết điều con cần, nhưng Chúa cũng muốn con tin tưởng, cậy trông vào Chúa. Đôi lúc vì cuộc đời quá đau khổ và phức tạp, con không còn dám tin vào Chúa nữa. Và vì nghi ngờ nên con không dám cầu xin nữa. Xin Chúa giúp con vững tin ngay cả trong những lúc khó tin và không còn gì để hy vọng. Amen.

Ghi nhớ: “Này bà, bà có lòng mạnh tin”.

Suy Niệm 6: Niềm tin mạnh mẽ và lòng khiêm tốn

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Một em bé vâng lời mẹ xách giỏ ra tiệm tạp hóa. Em cẩn thận đọc cho người bán hàng tên của từng món đồ mà mẹ em đã ghi trên mảnh giấy. Người bán hàng nhìn em và để ý theo dõi từng cử chỉ cẩn thận của em một cách thích thú.

Sau khi đã xếp gọn các món vào giỏ cho em, người bán hàng dẫn em đến trước cái hộp đầy kẹo. Vừa mở nắp hộp người bán hàng vừa bảo em thò tay vào lấy kẹo. Em bé vui mừng rút ra một viên kẹo. Người bán hàng bèn khích lệ em và nói: “Cháu hãy bốc cho đầy lòng bàn tay của cháu đi”. Em bé mỉm cười đáp: “Vậy ông hãy bốc kẹo giùm con”. Người bán hàng ngạc nhiên hỏi: “Tại sao vậy ?” Em bé dí dỏm trả lời: “Tại vì bàn tay của ông lớn hơn bàn tay của con rất nhiều”.

Em bé nhìn nhận cái bé nhỏ của mình trước sự lớn lao của người khác, nên đã được ban cho dư đầy. Người đàn bà ngoại giáo xứ Canaan khiêm tốn nhận mình là dân ngoại, so sánh với dân Chúa Israel ? Bà coi mình nhỏ bé như “chó con” chỉ đáng được ăn “những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”, chính vì bé nhỏ trước mặt Thiên Chúa, cho nên bà được Chúa rộng ban theo lòng thương xót của Ngài, còn hơn cả lòng bà mong ước.

Suy niệm

Người đàn bà ngoại giáo khẩn cầu xin Chúa chữa lành cho con bà bị quỷ ám. Lời cầu của người đàn bà đầy niềm tin, nhẫn nại và khiêm tốn. Bà nhận biết Chúa Giêsu là Đấng Mêssia – Cứu Thế (dòng dõi Đavít) (x. Mt 15:22) trong lúc đó những người Do Thái không chấp nhận tư cách Mêssia của Ngài. Chính đức tin mạnh mẽ với lòng khiêm tốn chân thành của bà đã làm Chúa Giêsu xúc động, Ngài đã thi ân trên lời cầu xin.

Sự viên mãn đời đời của chúng ta là do đức tin. Chính thánh Phaolô đã xác định: “Người công chính nhờ đức tin sẽ được sống” (Rm 1,17; Gl 3,11), đức tin không phải do chúng ta đạt tiêu chuẩn mà có, nhưng là một ơn riêng nhưng không của Thiên Chúa ban cho. Đức tin có nghĩa là tin một cách đơn sơ, cởi mở, vô điều kiện vào Thiên Chúa toàn năng, Đấng tạo dựng và ban sự sống như người phụ nữ đã tín thác tuyệt đối bằng lời cầu xin: “Xin rủ lòng thương tôi!…” (Mt 15:22), cả khi bị thử thách, niềm tin vẫn không lay chuyển như người nữ Canaan xác tín: “Lạy Ngài xin cứu giúp tôi!” (Mt 15:25). Lòng kiên nhẫn của bà được sinh ra từ đức tin, như thánh Giacôbê xác quyết: “Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn” (Gc 1,3). Các môn đệ muốn đuổi bà đi vì sợ bà quấy rầy Thầy. Nhưng các ông không làm lay chuyển đức tin của bà nơi sức mạnh cứu độ của Chúa Giêsu, sức mạnh có thể chữa lành con bà. Cho nên, thay vì thối chí rút lui với tâm hồn cam chịu số phận, bà tiến đến quỳ trước Ngài và van xin một cách khiêm tốn, chân thành và đơn sơ. Hình ảnh của bà đã nói lên một chân lý: Đức tin được dọn đường bằng khiêm nhượng.

Người phụ nữ mang tâm tình như trẻ nhỏ tin và chạy đến với cha mình, bà xác tín vào tình yêu và quyền năng của Chúa, Ngài là Đấng không bao giờ rút lại tình yêu đối với người đặt niềm tin tưởng phó thác vào Ngài. Hình ảnh đức tin nơi bà có nghĩa là tin như trẻ nhỏ, tin vào sự chiến thắng của Thiên Chúa trên tất cả. Niềm tin đó được Thánh vịnh quả quyết tin Chúa như con tin vào cha: “Như trẻ thơ đặt hết niềm tin nơi Chúa” (Tv 131). Cho nên, Đức Kitô đã quả quyết nơi người mang đức tin trẻ nhỏ trở nên vĩ đại: “Ai hạ mình xuống như những trẻ nhỏ sẽ là người lớn trong nước Trời” (Mt 18:4).

Nếu như ban đầu, là một hành động thử thách, Đức Giêsu đã làm ngơ trước lời khẩn cầu trong niềm tin của bà, nhưng Ngài không thể im lặng trước lòng tin mang tâm tình chân thành, khiêm tốn của một người mẹ dám làm tất cả cho con mình được sống, Chúa Giêsu trả lời, “Này bà, đức tin của bà mạnh. Bà được như bà tin”… “Lập tức, con gái bà được lành” (Mt 15:28). Bà hạnh phúc vì Thiên Chúa thi ân: Con yêu của bà được chữa lành, niềm tin của bà đã nở hoa.

Xin Đức Kitô – Đấng đã nhìn thấu lòng tin của người phụ nữ Canaan, cũng hãy dạy con vì con luôn có nhu cầu tin chân thành và khiêm tốn như người phụ nữ Canaan, tin là không đòi hỏi, là tín thác, chờ đợi tất cả từ tay Chúa và đón lấy tất cả như hồng ân nhưng không. Niềm tin phát sinh kiên nhẫn và với lòng khiêm cung trước Thiên Chúa qua mọi hoàn cảnh trong cuộc đời, chúng con sẽ được Thiên Chúa ở cùng và thi ân…

Ý lực sống:

“Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa,

 và có Đức Chúa làm chỗ nương thân” (Gr 17,7).

Suy Niệm 7: Sức mạnh của niềm tin (Mt 15,21-28)

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Đức tin có sức mạnh vô song, có khả năng đảo ngược tình cảnh hay đời người, giúp chúng ta vượt qua được gian khổ và làm được những việc quá sức tự nhiên của mình. Người phụ nữ Canaan nhờ lòng tin mạnh mẽ đã nhận được điều bà muốn xin. Tuy nhiên con gái của bà bị quỷ ám khốn cực và các thầy thuốc đều bó tay vô phương chữa trị, tức là tình cảnh của bà đã tuyệt vọng về mặt tự nhiên, nhưng vì đức tin mạnh mẽ của bà, Chúa Giêsu đã chữa cho con bà được khỏi ngay lúc đó.

Ta thường hát bài “Lòng mẹ” của nhạc sĩ Y Vân: “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào. Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào”. Người đàn bà Canaan này rất mực thương con nên đã đến xin Chúa Giêsu chữa cho con bà bị quỷ ám. Nhưng ngoài tình mẹ thương con cao độ, còn có một điểm khác đáng chú ý, đó là sự phát triển lòng tin nơi bà mẹ. Trước tiên bà gọi Chúa Giêsu là Con Vua Đavít, một tước hiệu mang tính cách trần thế, nghĩa là bà chỉ nhìn Chúa Giêsu như một con người. Tiếp đến, khi nghe Chúa Giêsu nói Ngài chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel, bà đã chấp nhận Ngài là một vị tiên tri, và hơn thế nữa, bà gọi Ngài là “Lạy Ngài”, một tước hiệu mang tính cách thiêng liêng, tương tự như danh hiệu “Lạy Chúa”, và như thế chứng tỏ rằng cuối cùng bà đã chấp nhận Thần tính nơi Chúa Giêsu.

Người đàn bà Canaan có lẽ không hề biết đến lề luật Maisen, nhưng đã sống niềm tin của mình một cách mãnh liệt. Lòng tin đó được thể hiện qua việc phó thác hoàn toàn vào quyền năng của Chúa Giêsu. Trong tình thế hầu như tuyệt vọng, bà đã chạy đến với Chúa Giêsu; sự van nài của bà cho thấy sự kiên nhẫn và lòng tin sắt đá của bà. Sự khác biệt cơ bản giữa một người có niềm tin và một người không có niềm tin, không hệ tại ở danh hiệu Kitô hay những thực hành đạo đức, mà chính là lòng tin. Tin vào sự hiện diện quyền năng của Thiên Chúa trong cuộc sống, tin vào tình yêu vô biên của Ngài, tin vào ý nghĩa của cuộc sống, tin vào tình người, đó là sắc thái chủ yếu của người có niềm tin: chính trong niềm tin đó con người gặp gỡ Chúa Giêsu (Mỗi ngày một tin vui).

Có thể nói người phụ nữ Canaan đã thắng được Chúa Giêsu nhờ lòng tin và sự khiêm tốn. Thật thế trước lời đáp trả cứng cỏi của Chúa: “Ta chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel…”, “Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó”, nhưng người phụ nữ Canaan không buông xuôi ngã lòng, bà khiêm tốn đáp: “Đúng thế, nhưng chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Thiên Chúa phải đầu hàng trước niềm tin và sự khiêm tốn của con người.

Nhà văn Pháp Marcel Proust nhận xét: một cuộc thám hiểm thật sự không phải ở chỗ tìm gặp được những vùng đất mới, cho bằng có được đôi mắt mới. Đôi mắt ấy giúp họ khám phá thế giới quen thuộc, nhưng chứa chất nhiều bí ẩn, tuyệt diệu hữu ích cho cuộc sống.

Người đàn bà xứ Canaan trong trình thuật Tin mừng hôm nay, quả thật có đôi mắt mới. Bà không nhìn Chúa Giêsu như những người Nazareth, đồng hương của Chúa, để khinh bỉ Ngài. Bà cũng không nhìn Chúa Giêsu như những đồng hương xứ Canaan của bà, để xa tránh Chúa. Trái lại, bà nhận ra trong con người Giêsu ấy quyền năng, mà không ai trong xã hội có thể có để cứu giúp bà trong cơn khốn đốn. Ở nơi Ngài, bà trực giác nhận ra một lòng thương xót thường trực, khích lệ bà tìm đến. Như người thấy được kho báu trong ruộng, bà bỏ hết những mặc cảm, đến với Chúa Giêsu và đặt tất cả niềm tin vào Ngài. Với bà, Giêsu là Đấng làm cho con tim của bà và con bà “vui trở lại” (5 phút Lời Chúa).

Thánh nữ Monica đã kiên trì cầu nguyện trong suốt 27 năm ròng để con trai của bà được ơn hoán cải trở về với đức tin Công giáo. Cuối cùng, Thiên Chúa đã nhận lời bà cầu xin. Người không chỉ đưa cậu con trai Augustinô trở về, mà còn làm cho cậu trở thành một vị đại thánh trong Giáo hội.

Niềm tin mãnh liệt và thái độ khẩn khoản nài xin của người phụ nữ đã làm Chúa Giêsu cảm động, và Người không nỡ từ chối cứu giúp. Nhờ vậy, cô con gái của bà được chữa lành. Sự kiên trì cầu xin của người đàn bà xứ Canaan làm gương sáng cho người Kitô hữu chúng ta.

Thật vậy, trong cuộc sống ngày nay, đức tin gặp rất nhiều thử thách. Tuy nhiên, có trải qua thử thách, chúng ta mới chứng tỏ được lòng tin mạnh mẽ của mình. Vì vậy, chúng ta được mời gọi luôn tin tưởng, cậy trông vào Chúa trong mọi hoàn cảnh cuộc đời.

Truyện: Niềm tin nửa vời

Một người vô thần rất mê leo núi. Ngày kia trượt chân té ngã lăn từ đỉnh núi xuống. Nhưng may thay ông nắm được một cành cây nằm chơ vơ giữa đỉnh cao và vực thẳm. Giữa lúc chỉ còn biết chờ chết, một ý nghĩ chợt đến với ông: Tại sao không gọi Chúa đến cứu giúp. Thế là lấy hết sức lực, người vô thần la lớn: “Lạy Chúa”. Tuy nhiên, bốn bể chỉ có yên lặng và ông chỉ nghe được tiếng dội của lời kêu van. Một lần nữa, người vô thần lại kêu xin tha thiết hơn: “Lạy Chúa, nếu quả thật Chúa hiện hữu thì xin hãy cứu con. Con sẽ tin Chúa và dạy cho người khác cũng tin Chúa”. Sau một hồi thinh lặng, bỗng người vô thần nghe một tiếng vang dậy cả vực thẳm và núi cao: “Gặp hoạn nạn thì ai cũng cầu xin như thế”. “Không, lạy Chúa, nghìn lần không. Con không giống như những người khác. Chúa không thấy sao, con đã bắt đầu tin từ khi nghe tiếng Chúa phán. Nào bây giờ xin Chúa hãy cứu con đi, và con sẽ cao rao danh Chúa cho đến tận cùng trái đất”. Tiếng ấy trả lời: “Được lắm, Ta sẽ cứu ngươi. Vậy nếu ngươi tin thì hãy buông tay ra”. Người vô thần thất vọng thốt lên: “Buông tay ra ư, bộ Chúa tưởng tôi điên sao ?”.

Suy Niệm 10: ,,,,,,,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Hạt giống…

Chúa Giêsu  đáp lại lời xin của một phụ nữ Canaan. Có một số điểm đáng ta lưu ý:

  1. Về thân phận của bà này: Bà là một người bị xã hội do thái khai trừ vì bà vừa là phụ nữ vừa là người ngoại.
  2. Về sự thử thách mà bà gặp phải: thân phận bị khai trừ, Chúa Giêsu lại làm ngơ trước lời bà xin, lại còn nói nặng ví bà là chó. Nhưng bà đã kiên trì vượt qua mọi thử thách ấy.
  3. Kết quả: Chúa Giêsu khen bà “có lòng tin mạnh”, và còn nói “bà muốn sao thì được vậy”.

B…. nẩy mầm.

  1. Có thể khẳng định rằng không ai không gặp thử thách về đức tin. Chính Chúa Giêsu muốn thế. Người phụ nữ này bị thử thách đức tin rất nặng. Vậy khi đức tin ta bị thử thách, ta đừng nản lòng, vì đó là chuyện phải có thôi, chẳng sớm thì muộn.
  2. “Xin Thầy thương (mà ban ơn) để cho bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi”:

– Ý nghĩa thái độ của các môn đệ: làm ơn không phải vì thương mà vì để khỏi bị quấy rầy nữa. Phần Chúa Giêsu thì chẳng những muốn ban thứ ơn mà bà xin, mà còn muốn ban thêm một ơn quý trọng hơn nữa là chính đức tin.

– Khi tôi xin Chúa ơn gì mà Chúa chậm ban, tôi hãy tự nghĩ: tôi muốn Chúa ban ơn cho nhanh để Chúa khỏi bị quấy rầy nữa, hay thà chậm một chút nhưng được thứ ơn quý hơn ơn mà tôi xin.

  1. “Muốn sao thì được vậy”: quả là một ơn ban vô cùng to lớn. Ai mà không mong mình muốn sao được vậy. Chúa Giêsu sẵn lòng ban cho ta ơn này miễn là chúng ta có đức tin mạnh.
  2. “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (Mt 15,26)

Đọc xong đoạn Phúc Âm, một bạn trong nhóm nói: “Có những lúc mình cảm thấy Chúa thử thách mình quá đáng!” Tôi cũng đã có lúc như vậy. Những lúc ấy tôi đã nổi giận, đã nghĩ: chẳng cần Chúa nữa. Và mỗi lúc tôi càng cảm thấy thất vọng. Phải, tôi đã không có được sự tin tưởng, phó thác của người đàn bà dân ngoại.

Lạy Chúa, Chúa thử thách để lòng tin của con mạnh mẽ. Với lòng tin mạnh mẽ, con mới có thể làm được mọi điều thiện hảo. (Hosanna)

  1. ‘Vâng lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống”: người phụ nữ này chẳng những có đức tin mà còn có lòng khiêm tốn. Khi xin thì phải có sự khiêm tốn kèm theo. Xin người ta và xin những thứ vật chất mà còn phải khiêm tốn, huống chi xin Chúa và xin những ơn siêu nhiên.
  2. Bấy giờ Chúa Giêsu đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì được như vậy”. Từ giờ đó, con gái bà được khỏi. (Mt 15,28)

Một lần nọ, tôi cùng nhóm bạn trò chuyện. Chúng tôi nói về sự sống và cái chết. Câu chuyện mỗi lúc một căng thẳng, mọi người tranh cãi kịch liệt. Khi tôi nói: “Con người chết đi mai mốt tới ngày tận thế sẽ sống lại”, thì một số bạn bật cười và cười một cách diễu cợt. Tôi muốn biện bạch cho lời nói của mình nhưng không thể vì họ còn mãi cười. Có điều làm tôi rất buồn là thấy có cả những người đồng niềm tin với tôi cũng cười. Tôi không hiểu vì sao họ cười, có lẽ vì bè bạn cười chăng, vì sợ quê lây với tôi hay vì tự bản thân họ cho đó là phi lý… Niềm tin của chúng ta như thế có đúng chưa ? Người đàn bà dân ngoại còn hơn tôi và bạn, một mình bà chạy đến với Chúa Giêsu mà tuyên xưng niềm tin của mình cho dù xung quanh là những người xa lạ, chưa quen hoặc chưa tin vào Chúa. Hình ảnh về người đàn bà dân ngoại và hình ảnh về những người bạn ấy giúp tôi suy nghĩ lại niềm tin của chính mình. Tôi đang tin vào ai hay tin vào cái gì ? (Hosanna)

Lạy Chúa, xin củng cố niềm tin của con, xin thêm sức để con biết sống niềm tin ấy ở giữa anh em. (Hosanna)

Suy Niệm 11: ,,,,,,,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Có thể khẳng định rằng, trong đời không ai mà không gặp thử thách. Qua việc Chúa thử thách người đàn bà trong bài Tin Mừng hôm nay, dường như Chúa muốn nói với mọi người rằng, thử thách, nhất là sự thử thách về đức tin là cơ hội, là dịp để cho con người được trưởng thành hơn.

Đây là những tư tưởng được ghi từ Internet:

– Một con tằm phải trải qua đau đớn để tự chui ra khỏi cái kén và trở thành con bướm biết bay.

– Một hạt giống nằm sâu trong lòng đất nảy mầm phải tự vươn thẳng lên xuyên qua tầng đất dày để thành cây cứng cáp.

– Con tằm nào được người ta cắt vỏ kén chui ra sẽ mãi bò quẩn quanh cái kén mà không bao giờ thành loài bướm biết bay.

– Hạt giống nằm trên mặt đất dễ dàng nảy mầm nhưng sẽ bị bật gốc khi gặp cơn giông tố.

– Bạn đã từng nghe nói đến vỉa đá ngầm nổi tiếng kéo dài 1.800 dặm từ New Guinea đến Úc mà khách du lịch một khi đã đến nơi đây, không thể không ghé thăm. Tại đây, một người khách đã hỏi người hướng dẫn viên du lịch một câu hỏi khá thú vị:

– Tôi quan sát thấy cũng vỉa đá này, ở ngoài đại dương nó thật rực rỡ và sống động trong khi trong hồ nước nó lại xám xịt và thiếu sức sống. Tại sao lại như thế?

Người hướng dẫn viên giải thích rằng: “Những vỉa đá dưới hồ tuy chìm trong nước nhưng vì không phải đấu tranh sinh tồn nên chúng chẳng thể hoàn thiện được. Trong khi đó, những vỉa đá phía đại dương lại không ngừng đối diện với biết bao nhiêu là sức mạnh khắc nghiệt của thiên nhiên như sóng gió, bão tố… để tồn tại. Và khi chịu đựng những thử thách như thế, nó mới có cơ hội để thay đổi và thích nghi. Nó vẫn phát triển thật mạnh mẽ và liên tục tái sinh”.

– Có nghịch cảnh, có thử thách thì mới biết rằng, bạn đang sống. Thử thách giúp bạn mạnh mẽ và kiên trì hơn. Nếu gặp khó khăn, bạn không nên quá lo lắng hay sợ hãi. Đừng chùn bước và hãy tự nói với mình rằng: “Nhờ vậy mà ta trưởng thành…”.

– Con người không thể chọn cho mình nơi sinh ra, nhưng có thể tự chọn cho mình một cách sống. Thất bại, bất hạnh có thể là điều tuyệt vọng với người này nhưng có thể là may mắn với người khác – tùy vào cách chúng ta đón nhận, bằng cách dũng cảm vượt qua hay tự thương thân trách phận mà gục ngã.

  1. Chúng ta hãy nghe Lời Chúa nói với bà: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì được như vậy”. Từ giờ đó, người con gái bà được khỏi. (Mt 15,28).

Nếu có ai đó nghiên cứu về lịch sử thơ văn thì người đó không thể không biết đến tên tuổi của Lý Bạch. Lý Bạch là một trong những thiên tài lừng lẫy nhất của thế giới. Thơ ông bát ngát những ước mơ đẹp, thấm thía tình thương yêu con người. Làm sao mà ông được như vậy?

Tương truyền, từ thuở nhỏ, Lý Bạch đã yêu say đắm thiên nhiên, ao hồ, sông núi nhất là những con người trong vùng. Chú bé thường mải mê đi tìm những hoa cỏ đẹp, có khi quên cả buổi học, chán cả lớp học.

Một hôm, chú men theo dòng suối đến chân núi, thấy một người đàn bà tóc bạc ngồi mê mải với một phiến đá và một mảnh sắt nhỏ. Chú đến gần xem và tò mò hỏi:

– Bà ơi, bà mài sắt làm gì thế bà?

Bà nhìn chú bé đáng yêu, đáp:

– Bà mài sắt để làm kim khâu cháu ạ!

Mặt bà sao phúc hậu thế. Giọng bà sao hiền từ thế. Rồi bà bảo bé Lý Bạch ngồi bên bà. Chú nhìn đăm đăm hai bàn tay đưa đi đưa lại miếng sắt hàng trăm ngàn lần trên phiến đá mài, chú khẽ hỏi:

– Miếng sắt to thế này mà làm kim được hở bà?

Bà bảo:

– Mài mãi, sắt cũng mòn đi, bé lại, rồi thành cái kim.

Chú lại hỏi:

– Thế bao giờ mới xong hở bà?

Bà đáp, giọng ôn tồn, nhỏ nhẹ:

– Bà cứ mài, mài mãi, hôm nay, mai, một tháng, hai tháng, năm nay, sang năm, thế nào cũng xong – bà nói tiếp, dằn giọng hơn – phải xong.

Chào bà cụ, chú bé đứng dậy ra về. Suốt dọc đường, chú suy nghĩ về lời bà: có công mài sắt, có ngày nên kim. Cái phút bà ngẩng nhìn chú với ánh mắt sáng mà nói: “Thế nào cũng xong, phải xong”, cái phút ấy làm bừng lên một luồng sáng thật sáng nơi lòng chú bé và suốt đời vẫn còn rung động mãi trong tâm hồn, trái tim của Lý Bạch. Từ ngày ấy, Lý Bạch chú ý hơn đến sách vở, lớp học, rồi quen dần, ham mê đọc thật nhiều sách, ghi chép cẩn thận. Với tâm hồn dễ xúc động, với kiến thức rộng bao la, Lý Bạch để lại cho đời sau những áng thơ tuyệt mỹ.

Xin được kết thúc bằng lời chúc của Thánh Giacôbê: “Phúc thay người biết kiên trì chịu đựng cơn thử thách, vì một khi đã được tôi luyện, họ sẽ lãnh phần thưởng là sự sống Chúa đã hứa ban cho những ai yêu mến Người.” (Gc 1,12)

THỨ NĂM TUẦN 18 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Mt 16, 13-23

Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Cêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: “Người ta bảo Con Người là ai?” Các ông thưa: “Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó”. Chúa Giêsu nói với các ông: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?” Simon Phêrô thưa rằng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Chúa Giêsu trả lời rằng: “Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá Nước trời. Sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở”. Bấy giờ Người truyền cho các môn đệ đừng nói với ai rằng Người là Đức Kitô.

Kể từ đó, Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các môn đệ thấy: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, phải bị giết, và ngày thứ ba thì sống lại. Phêrô kéo Người lại mà can gián Người rằng: “Lạy Thầy, xin Chúa giúp Thầy khỏi điều đó. Thầy chẳng phải như vậy đâu”. Nhưng Người quay lại bảo Phêrô rằng: “Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy: con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người”.

SUY NIỆM 1: Anh là tảng đá

Suy niệm:

Chúng ta đã quen cầu nguyện cho Đức giáo hoàng với bài hát:

“Này con là đá, trên viên đá này Ta xây Giáo hội…”

Theo Tin Mừng Gioan, ngay từ lần đầu gặp gỡ (Ga 1, 42),

Đức Giêsu đã đặt cho anh Simon một tên mới: Kêpha, nghĩa là Đá.

Trong bài Tin Mừng bằng tiếng Hy Lạp, Đức Giêsu nói với Simon:

“Anh là Petros (Phêrô), và trên petra (đá) này, Thầy sẽ xây Giáo Hội Thầy.”

Rất có thể Ngài đã nói với Simon bằng tiếng Do Thái thời của Ngài như sau:

“Anh là Kêpha, và trên kêpha này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy.”

Người Do Thái hầu như không có thói quen đặt tên con là Đá, Kêpha.

Khi đặt cho Simon cái tên lạ, Đức Giêsu đã muốn trao sứ mạng cho anh.

Anh sẽ là nền cho ngôi nhà mới của Thầy, do tay Thầy xây dựng (c. 18).

Ngôi nhà ấy chính là Giáo hội, là cộng đoàn giao ước mới do Thầy lập nên.

Chúng ta rất ngạc nhiên vì Đức Giêsu muốn đặt nền trên Kêpha (Phêrô),

một con người bình thường, một ngư phủ ít học.

Làm sao Giáo hội có thể xây nền trên một con người yếu đuối như thế?

Kêpha vững như bàn thạch không nhờ sức riêng, nhưng nhờ ơn Chúa.

Quyền lực của Tử thần, của Ác thần không thắng được cộng đoàn này.

Bất chấp những tấn công trong ngoài từ hai mươi thế kỷ qua,

Giáo hội vẫn đứng vững trên nền đá Phêrô, anh ngư phủ vùng Galilê,

đơn giản vì Chúa phục sinh vẫn luôn ở với Giáo hội (Mt 28, 20),

và vẫn tiếp tục xây dựng Giáo hội của Ngài trong sự thăng trầm của lịch sử.

Nhưng Phêrô cũng có những yếu đuối của mình.

Khi Thầy Giêsu loan báo về con đường khổ nạn và cái chết sắp đến,

Phêrô không thể chấp nhận được con đường hẹp này.

Dù đã được Cha mặc khải để biết Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa,

nhưng Phêrô lại chưa thể hình dung được một đấng Kitô thất bại ê chề.

“Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy” (c. 22).

Nếu Thầy là Con Thiên Chúa, thì Cha chẳng để Thầy phải chịu như vậy.

Trong phút chốc, từ Đá Tảng vững chắc (kêpha, petra)

Phêrô trở thành viên đá làm cho Thầy vấp phạm (scandalon),

trở thành cơn cám dỗ lớn cho Thầy đến từ Satan (c. 23).

Đức Giêsu đã phản ứng mạnh mẽ đối với anh môn đệ mà Ngài tin tưởng.

“Lui đi sau Thầy!”: Ngài nói giống như lần bị cám dỗ bởi Satan (Mt 4, 10).

Ngài muốn Phêrô trở lại vị trí đi sau của người môn đệ.

Cần có thời gian Phêrô mới hiểu được con đường Thầy đã đi.

và tự nguyện đón lấy cái chết thập giá mà chính Thầy đã chịu.

Cám dỗ tránh con đường hẹp của khổ đau, nhục nhã, thất bại, khó nghèo

là cám dỗ muôn thuở mà Thầy Giêsu và anh Phêrô đã trải qua,

cũng là cám dỗ muôn thuở của Giáo hội mọi thời.

Làm thế nào để chúng ta nghĩ như Thiên Chúa, chứ không như thế gian,

chọn sự ngu dại của Thập Giá hơn là sự khôn ngoan người đời (x. 1 Cr 1, 25)?

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

Xin nhìn đến Hội Thánh của Chúa trên khắp hoàn cầu,

Hội Thánh Chúa đã lập bằng rất nhiều tình yêu.

Xin nhìn đến những nơi thiếu nhà thờ, cần chủ chăn,

những đồng lúa chín vàng chờ người gặt.

Xin nhìn đến những thánh đường vắng bóng giáo dân,

những chủng viện và tập viện phải đóng cửa vì thiếu ơn gọi.

Xin thương những kitô hữu đang bị bách hại ở nhiều nơi,

và bao người trẻ mất đức tin, mất niềm hy vọng vào Chúa.

Lạy Chúa Giêsu,

Hội Thánh sau hai ngàn năm đã lớn mạnh hơn nhiều,

nhưng vẫn bị đe dọa bởi bao sóng gió bên ngoài và bên trong.

Xin cho Hội Thánh biết không ngừng canh tân nhờ Thánh Thần,

để có thể đồng hành và đối thoại với con người hôm nay.

Xin cho các kitô hữu sống thánh thiện như Cha trên trời.

để những khiếm khuyết của chúng con khỏi làm cớ cho nhiều người bỏ Chúa.

Cuối cùng, xin Chúa cho Hội Thánh chúng con những vị thánh mới,

tươi tắn, khiêm hạ và nhân từ như Chúa,

để cuộc sống ngát hương của họ khiến Hội Thánh đáng tin hơn,

và chinh phục được những tâm hồn chưa biết Chúa.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

SUY NIỆM 2: Khắc ghi trong tâm hồn

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Dân Do thái là dân cứng đầu cứng cổ. Dù đã chứng kiến biết bao việc lạ Chúa làm và thấy Mô-sê thực hiện biết bao điềm thiêng dấu lạ, nhưng cứ mỗi lần gặp thửu thách họ lại bộc lộ niềm tin yếu kém. Họ than van kêu trách. Họ đòi hỏi thoả mãn nhu cầu tức khắc. Họ sống theo xác thịt. Họ chưa có Thần Khí. Họ gây áp lực khiến Mô-sê cũng mất tinh thần mà chao đảo niềm tin. Lề Luật mới được ghi khắc vào bia đá. Chưa ghi trong tâm hồn. Nên lòng họ còn chai đá (năm lẻ).

Chúa mong muốn con người tiến sâu và xa hơn trong tình yêu Chúa. Chúa mong muốn họ sống theo Thần Khí chứ không theo xác thịt. Chúa muốn ghi khắc Lề luật vào trái tim chứ khôgn vào bia đá. Để họ tự mình nhận biết Chúa không cần phải có ai dạy dỗ. Chúa quyết định khơi lên trong trái tim họ lòng tin yêu đích thực. Đó là giao ước mới: “Đây là giao ước mới ta sẽ ký với nhà Ít-ra-en sau những ngày đó. Ta sẽ đặt Lề Luật của Ta trong đáy lòng chúng, và sẽ ghi trong tâm hồn chúng. Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta” (năm chẵn).

Khi Chúa Giê-su đến đã hứa ban Thần Khí. Để con người được Thiên Chúa hướng dẫn. Để con người sống trong thân tình với Thiên Chúa. Có xác tín riêng. Không phải sống hời hợt bên ngoài, dựa dẫm theo đám đông. Chính vì thế Chúa hỏi từng môn đệ: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai”. Không thể chạy theo dư luận. Phải có xác tín riêng. Và chính Chúa Cha đã soi sáng cho thánh Phê-rô để ông đại diện các tông đồ tuyên xưng: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”.

Tuy nhiên để được Thần KHí soi sáng hướng dẫn, con người cần từ bỏ mọi suy nghĩ và hành xử theo xác thịt. Phê-rô chưa thoát khỏi xác thịt. Trong một phút để xác thịt chi phối ông đã sai lầm. Cũng như Mô-sê, Phê-rô còn một chút yếu đuối. Mô-sê cũng suốt đời kiên vững, nhưng vẫn còn một phút giây chao đảo. Chỉ có Chúa Giê-su tràn đầy Thần KHí. Tình yêu mến Chúa Cha tràn ngập trong tâm hồn. Nên Chúa Giê-su không phút giây nào không tuân hành thánh ý Chúa Chá. Vì thế Chúa trở nên người Con Yêu Dấu hằng đẹp lòng Chúa Cha. Đó là khuôn mẫu của chúng ta.

Hãy noi gương Chúa Giê-su luôn để Thần Khí hướng dẫn mọi suy nghĩ, lời nói, việc làm. Ta sẽ biết chu toàn thánh ý Theien Chúa. Sẽ trở nên con người mới. Của giao ước mới. Hoàn toàn thuộc về Chúa. Là dân của Chúa. Là con của Chúa.

SUY NIỆM 3: Vác Thập Giá Theo Chúa Giêsu

Có lẽ chúng ta quá quen thuộc với hình ảnh của Thập giá. Nơi nào có người Kitô hữu thì nơi đó có Thập giá. Vào thời Chúa Giêsu, Thập giá là một cực hình làm cho con người khiếp sợ, tủi hổ. Hằng ngày, người Do thái chứng kiến cảnh các tội nhân vác những khúc gỗ lớn tuần hành qua các khu phố trước khi đến Núi Sọ; những khúc gỗ sần sùi ấy sẽ được sử dụng để treo chính các tội nhân.

Chúa Giêsu đã loan báo về cái chết của Ngài, đồng thời mời gọi các môn đệ Ngài cũng hãy vác Thập giá của mình để tiến bước theo Ngài. Theo Chúa Giêsu, đó là lời mời gọi cốt yếu của Kitô giáo. Vì sự nghiệp, vì lý tưởng, người ta có thể hy sinh mạng sống của mình. Một người vô tín ngưỡng có thể vì lý tưởng dám hy sinh tất cả cuộc đời của mình; thế nhưng điểm chính yếu của Tin Mừng lại là một con người, đó là Chúa Giêsu Kitô. Ðời sống Kitô giáo chỉ có thể là đời sống, nếu nó được tiếp tục nuôi dưỡng bởi con người Chúa Kitô như là nguồn mạch của sự sống.

Chúng ta ghi dấu Thánh giá trên người chúng ta, chúng ta mang Thánh giá trong người chúng ta, đó không là dấu hiệu của sự chết, nhưng là biểu dương của một sức sống của Ðấng đã chết, đã phục sinh và đang tác động trong chúng ta. Nói như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”. Chúa Kitô sống trong chúng ta để tiếp tục và hoàn tất công trình cứu rỗi của Ngài. Chúa Kitô đã vác Thập giá và đã chết một lần, cuộc Tử nạn ấy cần phải đươc tiếp tục qua các Kitô hữu. Cũng chính thánh Phaolô đã nói: “Tôi cần phải bổ khuyết những gì còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Chúa Kitô”.

Thập giá đang được vẽ lại dưới muôn nghìn hình thức. Chúa Kitô đang tiếp tục vác Thập giá với những người đang bị giam giữ một cách bất công, những người bị tước đoạt quyền sống, những người bị tra tấn và hành hạ. Chúa Kitô đang tiếp tục cuộc tử nạn của Ngài qua con người chúng ta. Người Kitô hữu chịu gian khó thử thách vì ý thức rằng Chúa Kitô đang sống trong chúng ta.

Xin cho Lời Chúa và sức sống của Chúa nâng đỡ chúng ta, để giữa những đau khổ, thử thách của cuộc sống hiện tại, chúng ta luôn kiên vững và an vui.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 4: Trưởng Thành Trong Ðức Tin

Chúng ta hãy chú ý đến thái độ sống của hai nhân vật nổi bật trong đoạn Phúc Âm hôm nay là Chúa Giêsu và tông đồ Phêrô. Trước khi mạc khải rõ ràng hơn về vận mệnh phải chịu đau khổ của mình, Chúa Giêsu khơi dậy lòng tin của các môn đệ đã từng sống với Ngài, nghe lời Ngài giảng dạy, thấy những việc lạ Ngài làm qua câu hỏi: “Dân chúng nghĩ Con Người là ai? Và các con, thì các con nghĩ như thế nào?”. Sau lời tuyên xưng của Phêrô: “Thầy là Chúa Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Chúa Giêsu nói về quyền đứng đầu của Phêrô, về sự đau khổ Chúa sẽ phải chịu tại Giêrusalem để các môn đệ đừng có những hy vọng không đâu. Sai lầm! Cần khám phá ra thực thể của Chúa để theo Chúa cách trọn vẹn. Mạc khải của Chúa không hòa hợp được với quan niệm còn trần tục, chưa được thanh tẩy của Phêrô. Vì thế, ông đã căn ngăn Chúa: “Thưa Thầy, làm sao như vậy được. Xin cho chuyện khổ này đừng xảy ra cho Thầy”. Và Phêrô đã bị khiển trách: “Satan, hãy lui ra khỏi mắt Ta”. Trước đó không lâu, Phêrô được khen, nhưng liền sau đó là bị khiển trách vì ông chưa được thanh luyện. Dĩ nhiên, vào thời điểm này, tông đồ Phêrô và những tông đồ khác còn cần ơn Chúa Thánh Thần soi sáng để tin trọn vẹn vào một Vị Thiên Chúa chấp nhận khổ đau, chịu chết cách nhục nhã rồi sẽ sống lại. Phêrô và các môn đệ còn cần ơn Chúa Thánh Thần để được ơn Chúa dẫn đến sự thật trọn vẹn và làm chứng cho Chúa.

Lạy Chúa,

Xin thương giúp con được trưởng thành trong đức tin. Xin cho con được biết đúng và chấp nhận Chúa cách trọn vẹn. Xin cho con được theo Chúa đến cùng.

SUY NIỆM 5: Phêrô Của Đức Giêsu

Đức Giêsu lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Simon Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” Đức Giêsu nói với ông: “Này anh Simon con ông Gio-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên Tảng Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy trao cho anh chìa khóa Nước Trời: Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, thì trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì thì trên trời cũng tháo cởi như vậy.” (Mt. 16, 15-19)

Sự tuyên xưng đức tin của Phê-rô, Đức Giêsu chọn Phê-rô đứng đầu Giáo Hội Người, sự trao đổi giữa Phê-rô và Đức Giêsu, điều đó rất rõ, người ta viết nhiều về điều đó! điều đáng chú ý nữa là bạn thâm sâu và trưởng thành cũng như lòng tin cậy giữa Phê-rô và Đức Kitô luôn bền vững.

Phê-rô.

Phê-rô được Đức Giêsu chọn đứng đầu. Người ta thấy luôn luôn gần gũi Đức Giêsu như một nhân vật giữ gìn chìa khóa. Đức Giêsu luôn quan tâm đến giây phút cuối cùng, Phê-rô có nhiều lầm lỗi, tuyên bố quá đáng, phản kháng mạnh mẽ, những vui vẻ chất phát hào phóng và có thiện cảm kỳ lạ. Ông yêu mến Đức Giêsu! Cảm phục Người không chút dè dặt. Đức Giêsu yêu mến ông vì sức mạnh mẽ tự nhiên này, Người hoàn toàn tín nhiệm ông. Chính ông là nền tảng Đức Giêsu xây đá Hội Thánh, chính ông được Đức Giêsu trao chìa khóa Nước Trời, khi Đức Kitô nói với các môn đệ, Phê-rô đã tự mình làm xướng ngôn viên, ông đã phát biểu: “Thầy là Con Thiên Chúa Hằng Sống” chính ông hiểu ra ông sẽ là người đầu tiên bước theo gót của Thầy.

Không có những ủy mị hào phóng.

Thật ngồ ngộ, vui vui, và thật cảm động! khi Đức Kitô loan báo về việc khổ nạn và cái chết của Người, Phê-rô phản đối Người! Chớ dại, sao lại đi nộp mình vào tay quân thù!

Đức Giêsu và Phê-rô được các môn đệ và đám đông vây quanh. Hai người không bước đồng hành với nhau, nhưng tháp tùng nhau, hai người sát cánh nhau đến cùng!

Đức Giêsu đến lượt Người phải quay lại khiển trách Phê-rô. Người quở mắng thẳng thừng bạn đồng hành thứ nhất của mình, bạn tri ân, bạn đáng tin cậy nhất của mình.

Một tình bạn không chịu cho người khác hòa giải, cũng không ủy mị hào nhoáng. Nếu người ta muốn biết quy tắc của tình bạn, chúng ta chỉ mở Tin Mừng ra và đồng hành với Đức Giêsu và Thánh Phê-rô đã sống làm bạn với nhau là quá đủ.

J.M

SUY NIỆM 6: CẦN TUYÊN XƯNG ĐỂ ĐÓN NHẬN SỨ VỤ (Mt 16, 13-23)

Xem lại CN 21 TN A,

lễ kính Toà Thánh Phê-rô 22/2, lễ thánh Phê-rô và Phao-lô 29/6

“Người ta bảo Con Người là ai?”.

Tại sao Đức Giêsu lại hỏi các môn đệ như vậy? Câu hỏi này của Đức Giêsu có ý gì?

Thưa vì những lý do sau:

Thứ nhất, Ngài và các môn đệ đang ở vùng Cêsarêa Philipphê, đây là vùng đất của dân ngoại. Địa danh này còn được biết đến là một trung tâm thờ thần Baan. Nơi đây cũng có thể là nơi “chôn nhau cắt rốn” của thần Hylạp có tên là Panias – thần thiên nhiên.

Dân chúng ở đây, trong tâm thức của họ, Đức Giêsu chỉ là một nhân vật vĩ đại và thuần túy, hay chỉ là người tiếp nối quá khứ truyền thống các tiên tri mà thôi. Sẵn có lối suy nghĩ như vậy, nên họ không hiểu rõ sứ vụ Thiên Sai của Đức Giêsu. Vì thế không lạ gì khi được hỏi về dư luận trong dân chúng về mình, các môn đệ đã thông tri cho Đức Giêsu biết: “Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó”. Khi nghe thấy như thế, Đức Giêsu không thỏa mãn với câu trả lời đó, nên đã hỏi trực tiếp các môn đệ: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?”. Phêrô đã thay mặt anh em lên tiếng:  “Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.

Khi Phêrô tuyên xưng điều đó, có lẽ ông cũng không hiểu hết, bởi vì mầu nhiệm này quá sức của ông và các môn đệ khác.

Quả thật, “Đấng Kitô” mà Đức Giêsu muốn các môn sinh của mình hiểu ở đây không chỉ đơn thuần theo nghĩa là Đấng được Thiên Chúa sinh ra, mà còn là người hành động như Thiên Chúa, ngang bằng với Thiên Chúa. Còn “Con Thiên Chúa hằng sống ”, tức Ngài là Đấng tự hữu và tự tồn tại, vì thế “Ngài ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế”.

Thứ hai, đây là dịp để Đức Giêsu trắc nghiệm niềm tin của các môn đệ vào mình, bởi lẽ không thể trao phó một trách nhiệm quan trọng mang tính trường tồn cho một kẻ kém tin và không hiểu biết gì về Người Trao.

Vì vậy, khi Phêrô tuyên xưng niềm tin, ngay lập tức, Ngài đã đổi tên của ông là Simon thành Phêrô và giải thích là “Đá Tảng”, đồng thời, Ngài cũng đặt gánh nặng lên vai Simon Phêrô: “Trên tảng đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” và “Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy”.

Khi nói Phêrô là “Đá Tảng”, Đức Giêsu cho biết, đây là một thực tại chắc chắn, không lay chuyển, không thay đổi.

Thứ ba, khi đặt Phêrô làm “Đá Tảng” để xây dựng Giáo Hội, Đức Giêsu muốn chúng ta tin rằng:

Giáo Hội được Ngài thiết lập trên “Đá Tảng” là Phêrô, và chúng ta là người được ở trong tòa nhà đó, hẳn chúng ta phải xác tín rằng: “quyền lực tử thần sẽ không phá nổi”.

Thật vậy, trải qua biết bao thế kỷ, Giáo Hội luôn đứng vững trước sự công phá của ma quỷ, không những thế, Giáo Hội còn giải thoát con người khỏi ách của tội lỗi… và sự chết.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay muốn mời gọi chúng ta hãy vững tin vào Đức Kitô, vì “Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống”. Tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa nơi Bí tích Hòa Giải. Vâng phục, yêu mến đấng thay mặt Chúa, kế vị Thánh Phêrô là Đức Giáo Hoàng. Đồng thời luôn biết thể hiện tinh thần hiệp thông để xây dựng Giáo Hội của Chúa trên trần gian này, hầu cho nhiều người nhận biết “Ðức Kitô, là Con Thiên Chúa hằng sống”. Amen.

Ngọc Biển SSP

SUY NIỆM 7: Chúa Giêsu là ai?

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Sau một thời gian giảng dạy và làm nhiều phép lạ, Đức Giêsu muốn biết người ta nghĩ sao về mình và Ngài cũng muốn hỏi các Tông đồ nghĩ sao về Ngài.

Dân chúng biết mù mờ về Đức Giêsu bởi họ không chú ý đến giáo huấn của Ngài. Lúc này đã gần đến giờ của Đức Giêsu, giờ Ngài sắp bước vào cuộc Thương khó – đỉnh cao của chương trình cứu chuộc nhân loại. Ngài muốn các môn đệ xác tín lập trường của mình, để các ông can đảm theo Ngài. Chúng ta cũng không thể biết Đức Giêsu là ai, nếu chúng ta không quan tâm học hỏi và khám phá. Không biết Đức Giêsu là một thiệt thòi lớn lao. Vì chỉ khi biết Đức Giêsu, chúng ta mới đạt được nguồn bình an và hạnh phúc vĩnh cửu.

  1. Có nhiều câu trả lời về Chúa Giêsu: người thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó. Mọi câu trả lời đều nói lên phần nào sứ mệnh của Chúa, nhưng chưa đúng hẳn, tức là dân chúng chỉ coi Chúa Giêsu là một tiên tri, tức là một người được Thiên Chúa sai đến để dọn đường cho Đấng Thiên Sai, chứ chưa phải là Đấng Thiên Sai. Vì thế, chỉ với câu trả lời của ông Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Chúa Giêsu mới hoàn toàn bằng lòng, tức là ông Phêrô tuyên xưng Chúa là Đấng Thiên Sai. Quả thực, tin nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa hằng sống là diễn tả được cả sứ mạng lẫn con người của Ngài.
  2. Lời đáp trả của Phêrô quả là một lời tuyên xưng: “Ngài là Đức Kitô” tức là Đấng Thiên Chúa sai đến để giải phóng dân tộc. Tuy nhiên chúng ta thấy, trong cái nhìn của Phêrô và phù hợp với giấc mơ chung của các ông, thì Đức Kitô mà các ông mong đợi là Đấng sẽ đánh đuổi ngoại xâm và biến đất nước thành một vương quốc cường thịnh.

Chính vì thế, khi Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn Ngài phải trải qua, Phêrô đã can gián Ngài. Tuyên xưng một Đức Kitô Cứu Thế mà không chấp nhận con đường thập giá, Chúa Giêsu gọi đó là thái độ của Satan. Ba cám dỗ của Satan đối với Chúa Giêsu đều qui về một mối là khước từ con đường Thập giá. Do đó, khi Phêrô can gián Ngài từ bỏ ý định cứu rỗi bằng con đường Thập giá, Ngài đã gọi Phêrô là Satan. 

  1. Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống và được Ngài khen là người có phúc. Tuy nhiên, ông không thể chấp nhận Đấng Kitô phải chịu đau khổ và chịu chết như thế được. Cũng như bao người Do thái khác, Phêrô mong đợi một Đấng Kitô như là một vị vua trần thế nắm quyền lực chính trị, giải phóng Israel khỏi ánh thống trị Rôma, làm bá chủ thế giới. Nhưng đường lối của Chúa thì khác, con đường hiến thân phục vụ: “Con người đến không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người” (Mc 10,45) (5 phút Lời Chúa).
  2. Phêrô và các môn đệ chỉ hiểu được sứ mệnh của Chúa Giêsu khi Ngài từ trong kẻ chết sống lại. Đấng Kitô là một danh hiệu gắn liền với Thập giá. Mang danh hiệu Kitô, tuyên xưng Đức Kitô cũng có nghĩa là chấp nhận đi theo con đường của Ngài. Phêrô và các môn đệ đã sống đến tận cùng lời tuyên xưng của các ông. Tất cả đều lặp lại cái chết khổ hình của Đức Kitô.

Chúng ta ghi dấu Thánh giá trên người chúng ta, chúng ta mang thánh giá trong người chúng ta, đó không là dấu hiệu của sự chết, nhưng là biểu dương của một sức sống của Đấng đã chết, đã phục sinh và đang tác động trong chúng ta. Nói như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”. Chúa Kitô sống trong chúng ta để tiếp tục và hoàn tất chương trình cứu rỗi loài người. Chúa Kitô đã vác Thập giá và đã chết một lần, cuộc Tử nạn ấy cần phải được tiếp tục qua các Kitô hữu. Cũng chính thánh Phaolô đã nói: “Tôi cần phải bổ khuyết những gì còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Chúa Kitô (Mỗi ngày một tin vui).

  1. Truyện: Ý nghĩa của một bức tượng.

Nhà điêu khắc Dannecker người Đức, đã để nhiều công khó trong công tác tạc một bức tượng của Chúa Giêsu bằng cẩm thạch. Trong hai năm đầu, bức tượng đã xong, nhà điêu khắc mời một em bé vào phòng vẽ của mình và hỏi em bé rằng:

– Ai đó?

Em bé tức khắc trả lời:

– Một vĩ nhân.

Nhà điêu khắc buồn và nghĩ rằng, công khó của mình trong hai năm kể như đã hỏng. Ông tiếp tục tạc lại trong sáu năm nữa và mời một em bé khác vào phòng vẽ và hỏi:

– Em biết bức tượng này là ai không?

Sau khi nhìn bức tượng một lúc, yên lặng và nước mắt tràn ra đôi mi, em khẽ nói:

– Hỡi những con trẻ đau khổ, hãy đến cùng ta!

Nhà điêu khắc thỏa mãn, thành công về tác phẩm của mình. Nhà điêu khắc Dannecker sau đó đã tuyên bố:

– Tôi đã thấy Chúa Cứu Thế Giêsu và hình ảnh của Ngài đã thể hiện trong khi tôi tạc bức tượng Ngài bằng cẩm thạch này.

Sau đó ít lâu, hoàng đế Napoléon Bonaparte yêu cầu nhà điêu khắc tạc cho hoàng đế bức tượng nữ thần Vệ Nữ để trưng bầy trong việc bảo tàng Louvre, Paris. Hoàng đế hứa sẽ trả cho ông một món tiền rất lớn, nhưng Dannecker từ chối. Ông nói rằng: “Một người đã thấy Đấng Kitô và đã tạc vẽ mặt của Ngài rồi thì không thể dùng nghệ thuật của mình vào những việc ở đời này được nữa, bởi vì làm như thế là tục hóa nghệ thuật của mình mất rồi”.

Suy Niệm 8: ,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Cuộc đời người Kitô hữu là đi tìm cho bằng được câu trả lời Chúa Giêsu là ai. Cũng như Thánh Phêrô đã thay mặt Hội thánh trả lời chính xác và đầy đủ, mỗi người cũng cần tìm ra câu trả lời của chính mình.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, hôm nay con dừng lại cùng với các môn đệ để lắng nghe Chúa hỏi: “Người ta bảo Thầy là ai”. Và Chúa hỏi thêm: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?”.

Lạy Chúa, con dễ dàng nói lên câu trả lời của người khác về Chúa, còn câu trả lời của con thì không nói được. Cũng như các môn đệ, khi Chúa hỏi người ta nói Thầy là ai, thì các ông cùng trả lời; nhưng đến lúc Chúa hỏi chính các ông, thì chỉ có một mình Thánh Phêrô trả lời mà thôi.

Đã bao nhiêu năm con đi theo Chúa, bao nhiêu năm con sống với Chúa, nhưng con vẫn chưa hiểu Chúa là bao. Con vẫn cảm thấy bối rối khi nghe câu hỏi của Chúa. Con nghe thánh Phêrô tuyên xưng Chúa là Đức Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống; con biết rằng Chúa là tình yêu. Con thuộc lòng các câu giáo lý. Nhưng con chưa thực sự cảm nhận được tình yêu Chúa trong đời mình. Con chưa nhận ra được sự hiện diện sống động của Chúa trong cuộc sống con hôm nay. Con chưa tự mình nói lên được một lời tuyên xưng đức tin phát xuất từ đáy lòng.

Xin cho con biết dừng lại hồi tâm suy niệm, để nhận được tình yêu Chúa và sự hiện diện của Chúa trong đời con. Xin đừng để con chỉ hiểu biết Chúa theo sách vở mà không một lần sống với Chúa trong đời. Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Thiên Chúa của con, là gia nghiệp của con, xin cho con bước theo Chúa đến tận cùng. Amen.

Ghi nhớ: “Con là Ðá, Thầy sẽ ban cho con chìa khoá nước trời”.

Suy Niệm 9: ,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Chúa Giêsu biết giờ cuối cùng của Ngài sắp đến gần, nên Chúa dành nhiều thời giờ sống riêng với các môn đệ. Ngài có nhiều điều cần phải nói với họ, dù có những điều họ không thể lãnh hội, và không thể hiểu thấu. Chúa rút về địa phận thành Césarê Philipphê. Thành này cách biển Galilê chừng 40 km về phía đông bắc, nằm ngoài lãnh địa của Hêrôđê Antipas, người đang cai trị vùng Galilê, và thuộc địa phận của vương hầu Philipphê. Dân cư ở đây phần lớn không phải là người Do Thái, ở đó Chúa Giêsu sẽ được yên tĩnh hơn để dạy dỗ mười hai môn đệ của Ngài cho tốt hơn.

Lần này, Chúa Giêsu phải đối diện với một đòi hỏi cấp bách. Thì giờ của Ngài không còn bao nhiêu. Số ngày của Ngài trên đất chỉ còn đếm từng ngày. Vấn đề là: đã có ai hiểu được Ngài không? Đã có ai nhận ra Ngài là ai và đã làm gì không? Và rồi sau này thì ai sẽ tiếp tục công việc của Ngài, hoạt động cho Nước Ngài khi Ngài rời bỏ trần thế này? Hiển nhiên, đây là một vấn đề hết sức trọng đại có liên quan đến sự sống còn của đức tin vào Chúa Kitô. Nếu không có ai nắm được chân lý, không có ai tiếp thu được những lời Ngài dạy thì bao nhiêu công lao của Ngài sẽ tan thành mây khói. Vì vậy, Chúa Giêsu quyết định trắc nghiệm các môn đệ yêu quí của Ngài. Ngài hỏi những người theo Ngài: “Người ta nói Con Người là ai ?” (Mt 16,13).

  1. Sau khi đã nghe qua những lời nhận định của quần chúng, Chúa đã đặt một câu hỏi hết sức quan trọng với các tông đồ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (Mt 16,15).Sau câu hỏi ấy, chắc các tông đồ chưa dám trả lời ngay. Tâm trí các ông còn băn khoăn và e ngại không biết phải nói thế nào. Rất may ngay sau đó, Phêrô đã đưa ra điều khám phá và lời xưng nhận bất hủ của ông.

Nghe xong lời tuyên xưng đó chắc chắn Chúa Giêsu đã hài lòng vì Ngài biết rằng, công tác của Ngài ít nhất cũng được bảo đảm vì đã có người hiểu Ngài: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. (Mt 16,16)

Sau khi nghe Phêrô tuyên xưng như thế, dường như Chúa đã bằng lòng nhưng thật lòng Ngài vẫn chưa được yêm tâm cho lắm. Có lần Napoléon đã nói về Chúa Giêsu như thế này: “Tôi biết con người, nhưng Chúa Giêsu còn hơn một con người”. Vậy thì làm sao lời tuyên xưng của Phêrô nói hết được nội dung Chúa mong chờ. Bằng chứng là ngay sau đó, ông đã làm cho Chúa phải trách ông nặng lời khi ông công khai can ngăn Chúa.

Như vậy, chúng ta thấy sự khám phá ra con người của Chúa Giêsu không phải là một khám phá dễ dàng. Phải có ơn Chúa soi sáng mới được. Khi Philatô hỏi Chúa Giêsu, Ngài có phải là Vua dân Do Thái không, thì Ngài trả lời: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay nhũng người khác đã nói với ngài về tôi?” (Ga 18,34).

Như vậy, một người có thể biết hết mọi điều Chúa Giêsu nói, có thể biết hết mọi điều về giáo lý Chúa Giêsu dạy. Họ cũng có thể tóm lược đầy đủ những giáo huấn về Chúa Giêsu mà nhiều nhà tư tưởng, thần học đã viết về Chúa, nhưng chưa chắc họ đã là một Kitô hữu đúng nghĩa. Kitô giáo không nằm trong sự hiểu biết về Chúa Giêsu mà ở chỗ cảm nghiệm được Ngài. Ngài đòi hỏi mọi người phải có nhận biết riêng của mình, ngài không chỉ hỏi Phêrô mà còn hỏi mỗi người: “Còn ngươi, ngươi cho ta là ai?”

Nhà điêu khắc Dannecker người Đức, đã để nhiều công khó trong công tác tạc một bức tượng của Chúa Giêsu bằng cẩm thạch. Trong hai năm đầu, bức tượng đã xong, nhà điêu khắc mời một em bé vào phòng vẽ của mình và hỏi em bé rằng:

– Ai đó?

Em bé tức khắc trả lời:

– Một vĩ nhân.

Nhà điêu khắc buồn và nghĩ rằng, công khó của mình trong hai năm kể như đã hỏng. Ông tiếp tục tạc lại trong sáu năm nữa và mời một em bé khác vào phòng vẽ và hỏi:

– Em biết bức tượng này là ai không?

Sau khi nhìn bức tượng một lúc, yên lặng và nước mắt trào ra đôi mi, em khẽ nói:

– Hỡi những con trẻ đau khổ hãy đến cùng ta!

Nhà điêu khắc thỏa mãn, thành công về tác phẩm của mình. Nhà điêu khắc Dannecker sau đó đã tuyên bố:

– Tôi dã thấy Chúa Cứu Thế Giêsu và hình ảnh của Ngài đã thể hiện trong khi tôi tạc bức tượng Ngài bằng cẩm thạch này.

Sau đó ít lâu, hoàng đế Napoléon Bonaparte yêu cầu nhà điêu khắc tạc cho hoàng đế một bức tượng nữ thần Vệ Nữ để trưng bày trong viện bảo tàng viện Louvre, Paris. Hoàng đế hứa sẽ trả cho ông một món tiền rất lớn, nhưng Dannecker từ chối. Ông nói rằng: “Một người đã thấy Đấng Kitô và đã tạc vẻ mặt của Ngài rồi thì không thể dùng nghệ thuật của mình vào những việc ở đời này được nữa, bởi vì làm như thế là tục hoá nghệ thuật của mình mất rồi.”

Suy Niệm 10: ,,,,,,,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

* Đặt trong sơ đồ chung của Mt :

Phân đoạn trước (13,53—16,12) là hành trình đức tin của nhóm người đi theo Chúa Giêsu làm thành một “Giáo Hội phôi thai”. Trong phân đoạn này (16,13—17,27 – Từ hôm nay đến Thứ Hai tuần 19), Thánh Matthêu cho ta thấy mức độ đức tin mà nhóm người này – qua đại biểu là Phêrô – đạt được : vừa nhận biết Chúa Giêsu là “Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” nhưng đồng thời vẫn chưa hiểu rõ kiểu “Kitô” mà Chúa Giêsu muốn là như thế nào, do đó Phêrô đã lên tiếng cản ngăn khi Chúa Giêsu báo tin Ngài sẽ chịu nạn chịu chết. Vì vậy, Chúa Giêsu một lần nữa nhắc lại sự cần thiết phải từ bỏ.

  1. Hạt giống…

Đoạn này cho thấy 3 mức độ hiểu biết về Chúa Giêsu :

  1. Mức độ của dân chúng : nếu chỉ thấy những việc Chúa Giêsu làm và nghe những lời Ngài dạy mà không suy nghĩ thêm thì người ta chỉ biết Ngài là một ngôn sứ thôi.
  2. Mức độ của Phêrô : được ơn Chúa soi sáng, Phêrô hiểu Chúa Giêsu là Đức Kitô Con Thiên Chúa. Nhưng nếu ơn soi sáng của Thiên Chúa không có sự hợp tác là sự “đi theo” của con người thì dù có hiểu biết Chúa Giêsu, con người vẫn có thể phản đối và cản bước Thiên Chúa.
  3. Mức độ Chúa Giêsu đòi hỏi nơi người môn đệ : hiểu biết Chúa Giêsu cộng thêm sự từ bỏ và vác thập giá đi theo Ngài.

B…. nẩy mầm.

  1. Tôi hiểu biết Chúa Giêsu tới mức độ nào :

– Coi Ngài là một ngôn sứ. Do đó tôi chỉ liên hệ với Ngài để xin ơn ?

– Coi Ngài là Đức Kitô Con Thiên Chúa, là lẽ sống đời tôi, nhưng lại sợ khó, ngại khổ ?

– Sẵn sàng bỏ tất cả và vác thập giá đi theo Ngài ?

  1. “Con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” : cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng và cho Giáo Hội.
  2. Chúng ta có nhiều cách để khước từ thập giá : khi không tiếp nhận cuộc sống như một ơn ban, khi chỉ bị quay nhìn về các biến cố và con người, khi bán đứng lương tâm vì chút lợi lộc vật chất, khi đóng kín niềm tin trong các buổi phụng vụ mà quên rằng sống đạo là sống niềm tin kitô trong từng phút giây cuộc sống. (“Mỗi ngày một tin vui”)
  3. Ngày kia, hoàng đế của một vương quốc lớn đã mời gọi các nghệ sĩ từ nhiều nước đến dự cuộc thi “mô tả chân dung hoàng đế”. Các nghệ sĩ Ấn Độ đến với đầy đủ dụng cụ và các thứ đá hoa kim cương quí nhất. Các nghệ sĩ Ai cập thì mang đến đủ thứ đồ nghề và một khối cẩm thạch hảo hạng. Sau cùng người ta rất nhạc nhiên khi thấy phái đoàn Hy Lạp chỉ mang vỏn vẹn một gói thuốc đánh bóng.

Mỗi phái đoàn dự thi trong một căn phòng đặc biệt của cung điện. Khi thời gian đã hết, Đức vua cho trưng bày các tác phẩm tranh giải. Ông hết sức khen các bức chân dung của chính mình do các nghệ sĩ Ấn Độ và Ai cập tạc nên. Sau cùng đến phòng trưng bày của người Hy Lạp, hoàng đế chỉ thấy duy nhất một bức tường đã được đánh bóng đến độ khi hoàng đế nhìn vào ông thấy khuôn mặt của mình hiện ra từng nét. Và phái đoàn Hy Lạp đã đoạt giải nhất trong cuộc thi đó.

Sứ mệnh căn bản của mỗi kitô hữu là hoạ lại dung nhan của Đức Kitô nơi cuộc sống và tâm hồn của mình. Để đạt được điều đó, chúng ta phải đục đẽo, phải loại bỏ tất cả những gì là gồ ghề, thô nháp, những thói hư tật xấu và phải cầu xin để có một đức tin vững mạnh.

Lạy Chúa, xin cho con biết kiên nhẫn đục đẽo tâm hồn và cuộc sống con để dung nhan Ngài giãi sáng qua mọi hành vi của đời sống con. (Hosanna)

  1. Ông Simon Phêrô thưa : “Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16)

Hằng ngày tôi phải đối mặt với biết bao vấn đề, biết bao chuyện mà Thiên Chúa đòi tôi phải làm chứng cho Ngài. Trước bao vấn đề cần sự can thiệp của tôi : kỷ luật trong lớp học, dàn hoà một cuộc cãi nhau hay một xích mích, giúp đỡ kẻ nghèo… Tôi chỉ biết suy nghĩ cách giải quyết này đến cách giải quyết khác. Tất cả chỉ là những lý tưởng. vì chúng chỉ lẩn quẩn trong đầu tôi mà không thể đi tới hành động.

 Ông Phêrô đã tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống, nhưng khi chối Chúa 3 lần, ông đã không dám dấn thân đến cùng cho niềm tin. Và đức tin không có việc làm là đức tin chết !

Lạy Chúa, xin ban Thần Khí của Người, để con mạnh dạn tuyên xưng Chúa bằng chính hành động của con. (Hosanna)

THỨ SÁU TUẦN 18 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Mt 16, 24-28

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ được sự sống. Nếu ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình, thì được ích gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình?

“Bởi vì Con Người sẽ đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ trả công cho mỗi người tuỳ theo việc họ làm. Thật, Thầy bảo các con: trong những kẻ đang đứng đây, có người sẽ không nếm sự chết trước khi xem thấy Con Người đến trong Nước Người”.

SUY NIỆM 1: Từ bỏ chính mình

Suy niệm:

Con đường của người môn đệ Thầy Giêsu là con đường không êm ả.

Ngay sau khi Thầy Giêsu loan báo lần đầu về số phận sắp đến của mình,

Ngài đã nói đến số phận của các môn đệ (cc. 24-28).

Họ được mời chia sẻ cùng một thân phận với Thầy và như Thầy.

Thầy trò sẽ phải đi qua con đường hẹp, con đường của khổ đau và cái chết.

Nhưng cuối cùng con đường ấy dẫn đến phục sinh (Mt 16, 21).

Phục sinh, sự sống, niềm vui, sẽ chiến thắng.

Chiến thắng ấy chỉ mua được bằng khổ đau và cái chết tự nguyện.

Như thế điều kiện để giữ được sự sống đời sau là dám mất sự sống đời này.

Đây thật là một liều lĩnh của đức tin,

vì nếu không thực sự tin vào đời sau, thì chẳng ai muốn thả mồi bắt bóng.

Cuộc đời này có nhiều điều chân thiện mỹ, có nhiều giá trị đáng trân trọng.

Nhưng lắm khi cũng phải hy sinh chúng cho những giá trị lớn hơn,

cho Đấng là Chân Thiện Mỹ viết hoa, là Giá Trị của mọi giá trị.

Cái tôi của tôi là một giá trị lớn, là quà tặng độc đáo Chúa ban cho tôi.

Chẳng có hai cái tôi giống nhau dưới mắt Chúa.

Cùng với cái tôi, Chúa ban cho tôi tự do, lý trí, trái tim, thân xác…

Chúa còn ban cho tôi vũ trụ vật chất với bao tài nguyên để tôi sống nhờ,

và cả một thế giới với bao cái tôi khác, để tôi sống với như anh em.

Cái tôi là món quà quý nhất Chúa ban cho tôi.

Cái tôi cũng là món quà quý nhất tôi có thể dâng lại cho Chúa.

Nhiều tôn giáo nói đến từ bỏ cái tôi, phá chấp ngã.

Đức Giêsu cũng mời bất cứ ai muốn bước theo Ngài phải từ bỏ chính mình,

không phải vì cái tôi của mình là xấu xa, đáng ghét,

nhưng chỉ vì nó chỉ là thụ tạo trước mặt Đấng Tạo Hóa đã dựng nên nó.

Từ bỏ chính mình là đặt mình ở dưới Thiên Chúa, không coi mình là trung tâm,

và để cái tôi của mình trọn vẹn tùy thuộc vào ý muốn của Ngài.

Thầy Giêsu đã sống từ bỏ mình như vậy trong suốt cuộc đời trần thế.

Ngài luôn sống như một người con thảo, một người được Cha sai.

Lạ thay, chính lúc từ bỏ mình, múc cạn chính mình, hủy mình ra không,

thì Ngài lại được phục hồi chính mình và được siêu tôn trên mọi sự (Pl 2, 9).

Trong Kitô giáo, cái tôi được thanh luyện, nhưng không bị loại bỏ.

Cái tôi ấy cũng không bị Thiên Chúa nuốt chửng hay hòa tan.

“Ai mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy” (c. 25).

 Như thế từ bỏ mình là cách duy nhất để giữ mình cho toàn vẹn.

Chẳng thể nào yêu mến và phục vụ lại không gắn liền với việc từ bỏ mình.

Có khi từ bỏ một định kiến hay tự ái, một quyền lợi hay ảnh hưởng riêng,

cũng khó như một hy sinh mạng sống.

Vác thập giá của mình là vác gánh nặng của bổn phận mỗi ngày,

vác yếu đuối của người anh em mỗi ngày, vác cuộc đời mình mỗi ngày.

Thầy Giêsu đòi chúng ta vác thập giá của mình mà theo Thầy cho đến chết.

Vì Thầy là Con Thiên Chúa, vì Thầy đã lấy lại được sự sống,

nên chúng ta tin tưởng vác thập giá bước đi sau Thầy.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

trước khi con tìm Chúa, Chúa đã đi tìm con.

Trước khi con thấy Chúa, Chúa đã nhìn thấy con.

Trước khi con theo Chúa, Chúa đã đi theo con.

Trước khi con yêu Chúa, Chúa đã mến yêu con.

Trước khi con thuộc về Chúa, Chúa đã thuộc về con.

Trước khi con phụng sự Chúa, Chúa đã phục vụ con.

Trước khi con từ bỏ mình vì Chúa, Chúa đã nộp mình vì con.

Trước khi con sống và chết cho Chúa, Chúa đã sống và chết cho con.

Trước khi con đặt Chúa lên trên hết,

Chúa đã coi con là hạnh phúc tuyệt vời của Chúa.

Lạy Chúa Giêsu là Thầy của con,

Chúa luôn đi trước con.

Chúa làm trước khi Chúa dạy.

Con hiểu rằng mọi điều Chúa đòi hỏi nơi con

đều chỉ vì lợi ích vĩnh cửu của con mà thôi.

Xin cho con đón nhận những cắt tỉa của Chúa

với lòng biết ơn và rất nhiều tình yêu. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

SUY NIỆM 2: Được và mất

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Ai cũng muốn được. Không ai chịu mất. Nhưng thế nào là được và thế nào là mất thì không phải ai cũng hiểu. Nhất là vì con người có hai đời sống. Đời này và đời sau. Trong hai đời sống hai cách được và mất khác nhau. Được ở trần gian là thực tế trước mắt nên nhiều người tìm kiếm. Được ở Nước Trời xa vời nên nhiều người không thấy. Tuy nhiên được ở trần gian mau qua như trần gian. Được trên Nước Trời là vĩnh viễn. Được ở trần gian không bao giờ thoả mãn. Được trên Nước Trời là hạnh phúc trọn vẹn. Khác biệt lớn lao và khó khăn nhất là cách chiếm đoạt rất khác nhau. Được ở trần gian do vun quén cho bản thân. Được trên Nước Trời lại thủ đắc bằng từ bỏ hết những gì ở trần gian, kể cả bản thân và mạng sống mình. Như lời Chúa phán: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Cái được ở trên Nước Trời là sự sống vĩnh cửu, dù cả trần gian cũng không so sánh được. “Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình”? chính Chúa mới là Chúa Tể trời đất, có quyền xét xử định đoạt số phận chúng ta. Trần gian chỉ chiếm được đời này. Phải bó tay trước đời sau. Thiên Chúa làm chủ cả đời này lẫn đời sau. Ai bỏ Chúa theo trần gian chỉ được một chút đời này. Ai bỏ trần gian mà theo Chúa chỉ bị thiệt thòi một chút đời này. Nhưng sẽ được đời sau vô cùng phong phú sung mãn không gì sánh được. Thiên Chúa làm chủ. Điều đó được chứng tỏ qua dòng lịch sử.

Thời Mô-sê Thiên Chúa đã cứu người Ít-ra-en khỏi ách nô lệ Ai cập. Ít-ra-en đang nô lệ bỗng thành tự do. Đang tản mát bỗng thành một dân tộc. Đang bơ vơ bỗng được đất chảy sữa và mật. Đang yếu ớt bỗng chiến thắng quân đội Ai cập hùng mạnh nhất thế giới thời ấy. Đó chính là vì Chúa là Thiên Chúa của họ (năm lẻ).

Ít-ra-en phản bội nên bị Chúa phạt. Phải làm nô lệ cho Ni-ni-vê. Nhưng rồi đến ngày Chúa phục hồi dân Chúa. “Phải, đức Chúa khiến cho Gia-cóp và Ít-ra-en lấy lại sức kiêu hùng”. Ngài cho Ni-ni-vê hùng mạnh một thời gian. Rồi trừng phạt vì họ không tuân hành thánh ý. “Bấy giờ, hễ ai nhìn thấy ngươi cũng đều phải tránh xa và nói: “Ni-ni-vê đã bị phá tan hoang!” Ai còn cảm thương nó? Ta tìm đâu cho ngươi những người an ủi”? (năm chẵn).

Hôm nay Chúa mời gọi tôi. Hãy khôn ngoan đừng khờ dại. Hãy biết chọn Thiên Chúa chứ đừng chọn thế gian. Hãy biết bỏ đời này để được đời sau. Được chính Chúa. Là hạnh phúc muôn đời.

SUY NIỆM 3: Giá Trị Của Khổ Ðau

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ về những điều kiện để được làm môn đệ Ngài: từ bỏ mình, vác Thập giá, và đi theo Chúa Giêsu. Cả ba kiểu nói đều đồng nghĩa với nhau, và đều nói lên cái cốt yếu của đời sống Kitô hữu, đó là đón nhận đau khổ như chính Chúa Giêsu đã đón nhận cuộc khổ nạn và cái chết dành cho Ngài.

Chúa Giêsu đã đưa ra những điều kiện trên đây liền sau khi Ngài loan báo về cuộc tử nạn của Ngài: Ngài sẽ bị đau khổ và bị treo trên Thập giá. Thập giá vốn là cái giá mà Chúa Giêsu phải trả vì cuộc sống và giáo lý của Ngài. Như vậy tất cả những ai muốn làm môn đệ Ngài đều phải trải qua con đường Thập giá ấy. Thật ra, đau khổ vốn là phần số chung của mọi người: đã mang tiếng khóc vào đời là mang lấy cả thân phận khổ đau, có khác chăng là thái độ của con người trước đau khổ mà thôi.

Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta một thái độ mẫu mực. Ngài không bao giờ lý giải về nguồn gốc của khổ đau, nhưng Ngài đón lấy khổ đau và biến nó thành cội nguồn của yêu thương. Thập giá vốn là tận cùng sự bỉ ổi của con người, nhưng đã được Chúa Giêsu biến thành biểu tượng của tình yêu. Chúa Giêsu chịu treo trên Thập giá, không phải để đề cao đau khổ, mà chính là để biểu lộ tình yêu của Ngài. Như vậy, chính trong mầu nhiệm Thập giá, chúng ta đón nhận khổ đau; chính trong mầu nhiệm Thập giá Chúa Giêsu mà thái độ đón nhận đau khổ của chúng ta mang lấy ý nghĩa.

Bức tượng Mẹ Maria bồng xác Chúa Giêsu trên tay, do danh họa Michel-Angelo thực hiện và hiện được đặt tại Ðền thờ thánh Phêrô ở Rôma, là một trong những kiệt tác về sự đau khổ. Mẹ Maria ôm xác Chúa Giêsu trong vòng tay Mẹ, không gì buồn thảm bằng; thế nhưng đó cũng là một trong những kiệt tác về yêu thương. Tất cả đều tùy thuộc thái độ của con người trước khổ đau. Con người có thể trốn chạy khổ đau, con người có thể suốt một đời phàn nàn về khổ đau. Nhưng con người cũng có thể biến khổ đau thành một hành động yêu thương; đó là thái độ của Chúa Giêsu và cũng phải là thái độ của tất cả những ai muốn làm môn đệ Ngài.

Nơi nào có Thập giá, nơi đó có Thiên Chúa. Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn tỉnh thức để nhận ra sự hiện diện yêu thương của Ngài ngay trong khổ đau, để giữa những giờ phút tăm tối và thử thách, chúng ta vẫn còn thấy được ý nghĩa của cuộc sống.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 4: Cần Phải Yêu Tôi

Rồi Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? hoặc người ta lấy gì mà đổi mạng sống mình? (Mt. 16, 24-26)

Đây là vấn đề lớn được Đức Kitô nói với mỗi người chúng ta! Bạn có yêu tôi không? Bạn có yêu tôi hơn những người kia không? tình yêu của bạn đối với tôi tới mức nào? bạn yêu tôi thì hiến trọn vẹn tình yêu của bạn, ai yêu như thế thì không còn là mình nữa, nhưng hoàn toàn là người mình yêu!

Yêu…

Bạn thấy không: Đức Kitô yêu chúng ta trọn vẹn. Người hiến thân trọn vẹn cho chúng ta và hỏi chúng ta có yêu Người trọn vẹn không? chúng ta hãy hiến dâng mình để sống được cảm nghiệm được tình yêu biết yêu mến độc nhất ấy! Hãy hỏi mình xem đã yêu bao nhiêu. Có giống Người không? có yêu đến cực điểm của con người mình không? có như Người yêu chúng ta đến giọt máu cuối cùng không?

Không phải chúng ta đã làm Đức Kitô chết, nhưng chính Người đã tự hiến mạng sống Người cho mỗi người chúng ta. Và Người có quyền hỏi chúng ta bằng câu cốt yếu độc nhất này: bạn có yêu tôi không?

Dù ở hoàn cảnh nào, nghề nghiệp nào, Đức Giêsu đều hỏi: bạn có yêu tôi không?

Không có thể so sánh với người khác. Đây là câu hỏi cho chính bản thân mình, mỗi cá nhân hãy tự hỏi và tự trả lời một cách tự do, một câu trả lời hợp với khả năng yêu mến của mình.

Ngày nay.

Phải nói rằng Thiên Chúa gần chúng ta một cách kỳ lạ, hằng ngày trong đời sống chúng ta, kích thích từng tiếng nói của chúng ta để lời Ngài 2000 năm được hiện tại hóa vào nếp sống con người chúng ta ngày nay.

Tình yêu không biên giới, không già, khắc phục mọi xa cách không gian và thời gian!

“Thiên Chúa của tôi nói với tôi,

Con ơi! cần phải yêu Cha…” (Verlaine)

J.M

SUY NIỆM 5: TỪ BỎ MÌNH ĐỂ ĐI THEO CHÚA (Mt 16, 24-28)

Xem lại CN 22 TN A.

Ngày nay, khi đi phỏng vấn để xin việc, người ta thường đòi hỏi những điều kiện về sức khỏe và chuyên môn, đồng thời tùy một số công việc đặc thù, cần phải có sự thỏa thuận cụ thể hơn. Cũng vậy, khi được gọi để trở thành môn đệ, Đức Giêsu cũng đòi hỏi người môn sinh phải hội đủ những điều kiện cần thiết để chu toàn bổn phận của người thừa sai, hầu những ai được gọi và chọn thì đều cảm thấy hạnh phúc khi thi hành sứ vụ của người sai đi.

Hôm nay, bài Tin Mừng kể lại việc Đức Giêsu đòi hỏi những người Ngài muốn gọi và chọn để ra đi thi hành sứ vụ cần phải “từ bỏ mình và vác thập giá theo Ngài”.

Thoạt nghe, chúng ta cảm thấy buồn cười và có sự mâu thuẫn! Tuy nhiên, nhìn dưới khía cạnh của Kinh Thánh, thì sự đòi hỏi này của Đức Giêsu mang tính tự do cho người đón nhận chứ không phải vì ép buộc. Tức là tự nguyện từ bỏ một cuộc sống dễ dãi, an nhàn, hay ăn trên ngồi trước, để lựa chọn một cuộc sống thiếu thốn, khổ hạnh vì ích lợi và niềm vui của kẻ khác.

Từ bỏ chính mình, vác thập giá mà theo, tức là chấp nhận đi trên con đường mà chính Đức Giêsu đã đi. Con đường đó là một con đường hẹp. Con đường của hy sinh, thiệt thòi. Con đường của tự hủy. Con đường khiêm tốn và là con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha hoàn toàn.

Thật vậy, từ bỏ chính mình quả là điều khó nhất, bởi vì: “Bỏ tất cả mà chưa bỏ mình thì con chưa bỏ gì cả, vì chính mình con sẽ dần dần quơ góp lại những gì con bỏ trước” (Đường Hy Vọng, số 3). Nhưng nhiều người lại có suy nghĩ là: bỏ tất cả, nhưng từ bỏ mình thì nhất quyết không, bởi vì họ từ bỏ cái tôi thì phải chăng họ không còn là họ nữa!

Tuy nhiên trong hoàn cảnh này, Đức Giêsu muốn các môn đệ ra khỏi sự ích kỷ, tự phụ, kiêu ngạo, để ý Chúa rợp bóng trên cái tôi của mình, và chính từ đó, tôi được trở thành tôi đúng nghĩa trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết an vui khi chọn Chúa làm gia nghiệp. Xin cũng cho chúng con được từ bỏ mọi sự, vác thập giá để theo Chúa trên con đường cứu độ mà Chúa muốn chúng con thi hành. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 6: Theo Chúa

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Để cứu chuộc nhân loại, Chúa Giêsu đã bằng lòng đón nhận khổ đau và chịu chết trên thập giá, nên Chúa đã được phục sinh vinh quang. Chúa mời gọi ta là môn đệ Ngài, hãy bước theo Ngài.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con cảm tạ Chúa đã yêu thương con và đã để lại cho con một mẫu gương yêu thương tuyệt vời. Cuộc đời của Chúa chiếu tỏa rạng ngời tình yêu cứu độ. Chúa đã yêu thương và yêu đến cùng, dù phải chịu bao gian nan, bao chống đối, bao khổ đau và cả cái chết trên thập giá.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã bằng lòng đón nhận tất cả vì yêu, vì Chúa mời gọi con chấp nhận cùng mang lấy thân phận tôi tớ với Chúa trong cuộc sống và trong cái chết.

Xin cho con hiểu và xác tín rằng phải qua thập giá mới được vinh quang phục sinh. Xin cho con can trường quảng đại trước gian nan khổ đau vất vả, để đem lại hạnh phúc, niềm vui và ơn cứu độ cho mình và anh em. Con sẽ chấp nhận khổ đau không chỉ vì khổ đau, nhưng vì muốn biểu lộ tình yêu cứu thế. Xin giúp con quảng đại hy sinh để cộng tác với Chúa làm cho Nước Trời lớn lên trong con, trong gia đình, trong xóm ngõ, trong giáo xứ, và góp phần làm cho bộ mặt trần thế nên trời mới đất mới.

Lạy Chúa, xin cho con ghi nhớ Lời Chúa: “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất mạng sống thì nào có lợi gì ?”. Con vẫn thường đi tìm những cái lợi mau qua trước mắt mà coi nhẹ sự sống linh hồn và chẳng quan tâm đến số phận đời đời. Xin Chúa giúp con hằng ngày biết hy sinh, từ bỏ chính mình để theo Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình”.

Suy Niệm 7: Mời gọi của Chúa

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Khi nhắc đến ông Leonardo da Vinci, chúng ta thường nghĩ đến những phát minh khoa học và những bức họa nổi tiếng của ông. Chúng ta không biết rằng để giải trí ông Leonardo de Vinci còn sưu tầm những chuyện cổ tích, hoặc đặt ra những câu chuyện vui sau đây về một cuộc đối thoại tưởng tượng giữa một tờ giấy trắng và cái bút:

Tờ giấy trắng từ lâu nằm ù lì trên bàn giấy cùng với những đồng bạn khác, nhưng bỗng nó được chọn đem ra nằm giữa bàn và chịu cảnh cây viết mực đen ngòm vẽ lên nó không biết bao nhiêu là dấu hiệu mà nó không hiểu gì cả. Nó phàn nàn với cái bút như sau:

– Tại sao anh lại làm thế ? Anh vẽ trên mình tôi những dấu đen làm mất đi sự trong trắng ban đầu. Anh làm nhục tôi như thế này sao ? Anh làm hư cả cuộc đời tôi rồi.

Nhưng cái bút trả lời:

– Không đâu anh giấy ạ, anh hiểu lầm tôi rồi. Tôi không bôi đen anh đâu, tôi vẽ lên anh những dấu hiệu, những dòng chữ kể từ nay anh không còn là tờ giấy vô dụng nữa, nhưng có mang trên mình những sứ điệp. Anh trở thành kẻ cộng tác với con người. Lưu giữ những tư tưởng cao siêu. Và vì thế được con người nâng niu, bảo vệ. Anh sẽ được sống mãi để trợ giúp cho con người.

Tờ giấy chưa kịp trả lời cái bút thì nó bỗng nhìn thấy một bàn tay người quơ lấy những tờ giấy khác, trước kia trắng tinh nay đã đổi màu, đầy bụi mà quăng vào ngọn lửa bên cạnh. Tờ giấy bị vẽ trên mình những lằn mực đen kia mới hiểu được hành động của cái bút và lấy làm sung sướng, vì được trở thành như người cộng tác lưu giữ trong kho tàng trí khôn con người (R.Veritas, Mạch nước trường sinh, tr 52).

Suy niệm

Lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ, đồng thời cũng nói với mọi người chúng ta, người tin theo Ngài như môn sinh: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Mối tình thâm sâu của người môn sinh Chúa Giêsu được biểu tượng bằng hình ảnh thập giá, chính thập giá liên kết vận mệnh của môn đệ với vận mệnh của chính Thầy: Thầy sao trò vậy, như Chúa Giêsu đã từng quả quyết: “Môn sinh không hơn Thầy”, Thầy vác thập giá, trò cũng mang thập tự. Như lời Chúa mời gọi các môn đệ, chúng ta cũng được mời gọi đi theo bước chân Ngài: Bước đầu là từ bỏ và vô hiệu hóa những ràng buộc chính mình với thế gian, để được tự do thanh thoát dưới ân sủng của Thánh Linh và tình yêu, bước tiếp những bước đi mới, những bước đi huyền nhiệm thập giá để có thể tiếp nhận khổ đau và cái chết theo kế hoạch và tình yêu của Chúa Cha, như Thầy đã bước đi trong hành trình thập giá tiến về đồi Canvê. Trong thập giá, khám phá ra sự phục sinh vinh quang, mà Thầy Giêsu đã khai mở bằng sự phục sinh của chính Ngài khi bước qua thập tự.

Hình ảnh đó được ẩn dụ dưới hình ảnh chim cú đã phát triển được đôi mắt sáng nhờ “bị” đẩy vào bóng đen. Chính trong bóng tối, chim cú được khai mở khả năng thấy sáng của mình và bóng đêm không thể khuất phục được sức sống của chim cú ngay trong đêm. Hình ảnh chim cú sáng mắt trong đêm tối là biểu tượng của sự khám phá ra nét công hiệu của những “mũi tên ngược” trong cuộc sống của kiếp nhân sinh, cách đặc biệt của đời sống niềm tin đó là những thập giá mà chúng ta mang qua những thử thách, với những chén đắng mà chúng ta uống xuyên qua những nghịch cảnh xảy đến trong cuộc sống. Thập giá và chén đắng này làm bừng sáng con mắt đức tin và khai mở con mắt tình yêu nơi người sống trong huyền nhiệm thập giá. Chính họ có một nhãn quan mới nhìn vào cuộc sống với biết bao nhiêu biến động có thể mang dáng dấp của bóng tối.

Trong thập giá tình yêu trở nên hy lễ sống động: Hy lễ tình yêu mà Chúa Giêsu dâng tiến lên Chúa Cha để đền tội cho nhân loại. Hy tế đó luôn kéo dài trong lịch sử và mời gọi mọi người chúng ta bằng sự đóng góp của bản thân tham dự vào hy tế qua cuộc sống được thánh hóa dưới thập giá, như tâm tình thánh Phaolô khuyên tín hữu thành Rôma “hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 12,1).

Hãy cùng lên Giêrusalem để vác thập giá theo Chúa là lời mời gọi từ bỏ những thực tại hào nhoáng phù du lôi kéo con người đi vào thế gian với vỏ bọc an toàn tạm bợ “được cả thế giới”, nhưng lại đánh mất chính mình, mất tư cách bạn hữu, mất tư cách môn sinh. Từ bỏ tất cả để vác thập giá tiến lên Giêrusalem, để tôi và bạn được như thánh Phaolô: “Ðối với tôi, sống là Ðức Kitô” (Pl 1,21) và “biết Đức Kitô là một mối lợi” (Pl 3,8). Khám phá ra thập giá trong đời mà mỗi chúng ta mang và tiến đến đồi Canvê với một tinh thần “vượt qua” mang tình yêu Thiên Chúa.

Nơi thập giá, Ngài mời gọi tôi và bạn cùng xốc vác cuộc đời, trong đó có cái tôi của tài năng, thánh thiện, nhưng cũng có sự khiếm khuyết, bất toàn, đau khổ, thử thách… Ngài không ngừng cứu thoát chúng ta, và chúng ta vác thập giá là cùng Ngài chiến đấu như lời mời gọi của thánh Phaolô: “Anh em hãy cùng tôi chiến đấu…” (Rm 15,30).

Từ bỏ mình vác thập giá và nhờ đó mà thập giá của tôi và bạn trở nên hy lễ tình yêu, để xứng đáng tham dự vào hiến tế sống động của Chúa Kitô trên thập giá.

Ý lực sống:

“Vinh dự của tôi là thập giá” (Gl 6,14).

Suy Niệm 8: Điều kiện phải có để theo Chúa (Mt 16,24-28)

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Sau khi quở trách Phêrô vì đã ngăn cản Ngài đi con đường Thập giá, Chúa Giêsu nói thêm rằng con đường ấy là con đường mà bất cứ ai muốn làm môn đệ Ngài đều phải đi theo: “Nếu ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình đi và vác thập giá mình mà theo”.

Lời tuyên bố trên là một điều kiện Chúa đề ra và đòi ý chí tự do của mỗi người. Chúa không cưỡng bách ai, Chúa không ép buộc ai phải theo Chúa. Đây là quyền tự do của con người để có thể tự do lựa chọn hay từ chối, nhưng mỗi người phải chịu trách nhiệm về sự tự do lựa chọn của mình.

Đối với người Do thái thời ấy hằng ngày chứng kiến những tội nhân vác khổ giá ra nơi hành hình, thì chắc hẳn hình ảnh mà Đức Giêsu dùng trong Tin mừng hôm nay đã quá rõ ràng. Cuộc sống của những người theo Đức Kitô cũng như của chính Ngài là cuộc sống của từ bỏ, hy sinh, chấp nhận đau khổ. Chúa Giêsu không bảo chúng ta đi tìm thập giá, nhưng là hãy vác lấy thập giá mình.

Một cách nào đó, không ai có thể thoát khỏi thập giá trong cuộc sống. Tại sao con người phải đau khổ ? Tại sao con người phải vác thập giá ? Chúa Giêsu không đưa ra một giải đáp nào. Ngài vác lấy Thập giá. Ngài sống như một con người đau khổ, và Ngài nói với chúng ta: Thập giá là con đường giải thoát, con đường dẫn tới sự sống… (Mỗi ngày một tin vui).

“Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Qua câu nói này, Chúa muốn dạy các môn đệ cũng như mọi người thấy rõ những gì họ tin và bằng lòng trả giá. Chúa muốn những ai tin Chúa, phải quyết tâm đi vào con đường mà Chúa đã đi. Đó là con đường từ bỏ mình và vác thập giá. Từ bỏ mình là từ bỏ con người vị kỷ, nhỏ nhen, hẹp hòi, ti tiện, sai trái, từ bỏ tất cả những gì mình muốn nhưng Chúa không muốn để hoàn toàn trống rỗng mà chứa đựng một mình Chúa thôi. Còn vác thập giá mình là chấp nhận và chịu đựng những đau khổ tinh thần và thể xác của cuộc đời.

Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta một thái độ mẫu mực. Ngài không bao giờ lý giải về nguồn gốc của đau khổ, nhưng Ngài đón lấy khổ đau và biến nó thành cội nguồn của yêu thương. Thập giá vốn là tận cùng sự bỉ ổi của con người, nhưng đã được Chúa Giêsu biến thành biểu tượng của tình yêu. Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá, không phải để đề cao đau khổ, mà chính là để biểu lộ tình yêu của Ngài. Như vậy, chính trong mầu nhiệm Thập giá, chúng ta đón nhận đau khổ, chính trong mầu nhiệm Thập giá Chúa Giêsu mà thái độ đón nhận đau khổ của chúng ta mang lấy ý nghĩa.

“Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất…”.

Muốn hiểu câu nói này, chúng ta phải biết thánh Mátthêu viết sách này vào khoảng năm 80-90 SC, nghĩa là ông viết vào những ngày cay nghiệt nhất. Những lời này có ý nói rằng: “Đã đến lúc con người có thể cứu mạng sống mình bằng cách chối bỏ niềm tin, nhưng như thế thì chẳng những không cứu được mạng sống mình theo đúng nghĩa thật sự mà là đánh mất nó”. Người giữ lòng trung tín có thể chết, nhưng chết để mà sống. Còn người bỏ đức tin mình để được an thân thì có thể sống để mà chết. Trong thời đại chúng ta, không có những cuộc cấm đạo khắt khe như thế, nhưng của cải vật chất, chức quyền, danh vọng… có thể làm cho chúng ta chết mà mất linh hồn.

Thánh Matthêu đã dùng từ “Sự sống” để nói lên hai thực tại khác nhau: sự sống trần gian và sự sống đời đời. Sứ điệp của Chúa xem ra ngược đời và chói tai, nhưng nếu không chế ngự tính ích kỷ và không dẹp bỏ những tham vọng của mình, chúng ta sẽ làm hư đi cuộc sống hiện tại lẫn cuộc sống tương lai. Nếu không dám liều, không thích nghi chương trình sống theo các bậc thang giá trị của Chúa, chúng ta sẽ đứng ngoài lề Tin mừng và tình yêu của Chúa.

Khi kêu gọi con người từ bỏ mình để đi theo Ngài, Chúa Giêsu cũng không mời gọi con người khinh chê hay ghét bỏ sự sống đến mức huỷ diệt sự sống, nhưng là đừng để mình làm nô lệ cho lợi lộc vật chất, trái lại đặt Chúa và tìm kiếm Nước Chúa trên hết mọi sự.

Truyện: Thánh giá vừa sức mình

Thánh giá ta đang mang là thánh giá vừa sức ta. Câu chuyện ngụ ngôn dưới đây chứng minh điều đó: có một người luôn than van những nỗi khổ cực của mình. Một ngày kia, thiên thần hiện đến phán bảo:

– Con hãy theo ta ra nghĩa địa, nơi đó người ta để lại thánh giá của mình. Con hãy mang thánh giá của con ra để đó và lựa chọn thánh giá vừa sức con.

Ông ta mang thánh giá của mình ra quăng nơi nghĩa địa, ông bắt đầu chọn cái khác nhẹ hơn, ông tìm kiếm mãi mà không được: có cây quá dài, cây quá ngắn, có cây thì nhẹ nhưng sù sì, khó vác, có cây thì trơn tru nhưng nặng quá, và sau cùng ông nói với thiên thần:

– Thưa thiên thần, cây nào cũng khó vác, chỉ có cây con định vứt đi là vừa với con thôi.

– Phải, Chúa đã trao cho con một cây thánh giá vừa sức, con hãy vui lòng vác đi, đừng than van gì nữa.

Suy Niệm 10: ,,,,,,,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Hạt giống…

Sau khi quở trách Phêrô vì đã ngăn cản Ngài đi con đường thập giá, Chúa Giêsu nói thêm rằng con đường ấy là con đường mà bất cứ ai muốn làm môn đệ Ngài đều phải đi theo : “Nếu ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình đi và vác thập giá mình mà theo”

Khi giải thích ý nghĩa con đường thập giá ấy, Chúa Giêsu đưa ra một nghịch lý : “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đành mất mạng sống mình vì Ta thì sẽ được sống”.

B…. nẩy mầm.

  1. “Nếu ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình đi và vác thập giá mình mà theo” : Chúa không ép tôi theo Ngài, Chúa không buộc tôi bỏ mình và vác thập giá. Ngài chỉ mời tôi thôi và cho tôi tự do. Nếu tôi muốn theo thì hãy bỏ mình và vác thập giá, nếu không thì thôi.

Nhưng vì thương tôi, nên Ngài cho biết những sự lợi hại : “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đành mất mạng sống mình vì Ta thì sẽ được sống”, và “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình thì được ích gì ?”

  1. Chúa không bảo chúng ta đi tìm thập giá, nhưng là hãy vác lấy thập giá mình. Một cách nào đó, không ai có thể thoát khỏi thập giá trong cuộc sống (…) Đau khổ không là một đày đoạ mà con người phải gánh chịu, mà là một phương thế nên thánh. Mỗi người một thập giá, mỗi ngày một thập giá. Ai trong chúng ta cũng đang chịu một đau khổ nào đó. Ước gì khổ đau thanh luyện chúng ta để mỗi lúc được kết hiệp với Chúa mật thiết hơn (“Mỗi ngày một tin vui”)
  2. Nơi nào có thập giá, nơi đó có Thiên Chúa.
  3. Hai cách đi theo Chúa :

Chính Thánh Don Bosco đã tưởng tượng chuyện sau đây : Một hôm Chúa Giêsu bảo Phêrô và Gioan theo Ngài lên núi. Ngài dặn mỗi ông mang theo một hòn đá. Phêrô suy nghĩ một lúc rồi nhặt một hòn đá nhỏ bỏ vào túi ; còn Gioan, do lòng quảng đại, vác cả một tảng đá to. Dĩ nhiên, đường dài, vác nặng, Gioan thở hổn hển và lên đến nơi sau cùng. Phêrô bước thảnh thơi và còn nói với Gioan : “Sao anh nhọc công vác tảng đá to như thế !”. Tới nơi, Chúa Giêsu bảo hai môn đệ ngồi xuống. Ngài đọc lời chúc tụng và biến hai viên đá thành bánh. Dĩ nhiên, Phêrô chỉ được một chiếc bánh nhỏ xíu không đủ cho cơn đói cồn cào của ông.

Lần khác, Chúa lại bảo hai ông theo Ngài lên núi và cũng mang theo đá. Rút kinh nghiệm lần trước, Phêrô mang một tảng đá thật to. Đến nơi, ông ngồi chờ phép lạ. Nhưng Chúa Giêsu chỉ nói “Nào, mỗi người hãy ngồi lên tảng đá mà mình mang theo. Không phải lúc nào Thầy cũng biến đá thành bánh đâu”. Rồi Ngài nói riêng với Phêrô : “Lòng quảng đại thật không phải là lòng quảng đại tính toán”.

Lạy Chúa, xin dạy con biết sống quảng đại, biết cho đi mà không tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích, và không chờ một phần thưởng nào khác hơn là biết mình đã làm theo ý Chúa. (Chờ đợi Chúa)

  1. “Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất ; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được mạng sống ấy.” (Mt 16,25)

Thượng úy Tô Đức Thắng, người mới được đài truyền hình Vtv1 ca ngợi về lòng can đảm, hy sinh quên mình vì những người hàng xóm. Vừa thấy tên cướp có súng vượt rào vào nhà bà hàng xóm, anh đuổi theo không chút sợ hãi, đồng thời báo cho những công an khác. Anh đã bị thương vì trúng đạn. Anh đã quên đi sự an bình của mình để lo an bình cho người khác. Ngay lúc ấy, anh đã thể hiện trọn vẹn con người và phẩm chất của mình. Phẩm chất ấy, ai cũng phải trân trọng.

Chính lúc hủy mình ra không, Chúa Giêsu cho thấy Ngài là thế đó, là Thiên Chúa Tình Yêu. Ngài đã huỷ mình vì Tình yêu, tình yêu với Cha và tình yêu với con người.

Lạy Chúa, xin dạy con hiểu được : Chính lúc quên mình là lúc con gặp lại được bản thân, vì khi cho đi là lúc con nhận lãnh. (Hosanna)

THỨ BẢY TUẦN 18 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Mt 17, 14-19

Khi ấy, có một người đến gần, quỳ gối trước mặt Chúa Giêsu mà nói rằng: “Lạy Ngài, xin thương xót con trai tôi vì nó mắc chứng kinh phong và rất trầm trọng: nó thường ngã vào lửa và lắm lúc nó ngã xuống nước. Tôi đã đem nó đến cùng môn đệ Ngài, nhưng các ông không thể chữa nó được”. Chúa Giêsu đáp: “Ôi thế hệ cứng lòng tin và hư hỏng! Ta phải ở với các ngươi đến bao giờ? Ta còn phải chịu đựng các ngươi đến bao giờ nữa? Hãy đem nó lại đây cho Ta”. Chúa Giêsu quát mắng quỷ và quỷ liền ra khỏi đứa bé. Và nó được lành ngay trong lúc ấy.

Bấy giờ các môn đệ đến hỏi riêng Chúa Giêsu rằng: “Tại sao chúng con không thể trừ quỷ ấy được?” Chúa Giêsu bảo các ông rằng: “Vì các con yếu lòng tin! Thầy bảo thật các con: Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì các con có khiến núi này rằng: ‘Hãy rời khỏi đây mà sang nơi kia’, thì nó liền đi sang, và chẳng có gì các con không làm được”.

SUY NIỆM 1: Tại anh em kém tin

Suy niệm:

Thầy Giêsu và ba môn đệ xuống từ trên núi, nơi Thầy mới hiển dung.

Bốn Thầy trò gặp ngay một đám đông.

Một người cha chạy đến, quỳ xuống trước mặt Đức Giêsu.

Ông xin Ngài thương xót đứa con trai của ông bị kinh phong nặng lắm.

Những mô tả của ông về bệnh tình của con đúng là triệu chứng kinh phong.

Cậu bé không làm chủ được mình, dễ ngã vào nước, vào lửa.

Tính mạng cậu lúc nào cũng bị đe dọa (c. 15).

Điều đáng lưu ý ở đây là chín môn đệ khác đã bó tay.

“Tôi đã đem cháu đến cho các môn đệ Ngài,

nhưng các ông không chữa được” (c. 16).

Chính những người đã được Thầy trao quyền để chữa bệnh và trừ quỷ

lại không thể giải quyết được trường hợp này.

Phải chăng vì không có sự hiện diện của Thầy, hay vì đám đông cứng lòng,

hay vì cơn bệnh quá nặng khiến các môn đệ không đủ tự tin và mạnh mẽ?

Dù sao Thầy Giêsu cũng phải ra tay, để làm điều cần làm.

Với thái độ hơi mất kiên nhẫn, Ngài đã trách móc đám đông (c. 17).

Ngài gọi họ là một thế hệ không tin và gian tà.

Đức Giêsu thấy mình vẫn còn phải ở lại với họ và chịu đựng họ (c. 17)

“Đem cháu lại đây cho tôi”

Đức Giêsu quát mắng quỷ, quỷ liền xuất, và cậu bé được khỏi lập tức.

Các môn đệ hẳn bối rối và xấu hổ vì không đuổi được quỷ.

Chắc họ cũng ngạc nhiên vì thấy mình thất bại trong trường hợp này,

tuy họ đã thành công trong nhiều trường hợp khác (x. Lc 10, 17).

Họ chờ lúc riêng tư giữa Thầy trò để hỏi lý do tại sao (c. 19).

Câu trả lời của Thầy Giêsu ở đây là khá rõ ràng.

“Tại anh em kém tin!” (c. 20).

Kém tin là một từ đặc biệt chỉ có trong Tin Mừng Mátthêu.

Từ này được dùng nhiều lần (6, 30; 8, 26; 14, 31; 16, 8).

Người kém tin là người có lòng tin nhỏ bé (oligopistia),

chứ không phải là hoàn toàn không tin chút nào (apistia).

Nhưng lòng tin nhỏ bé này thật sự cũng chẳng đem lại hiệu quả gì.

Nó chưa đáng được gọi là tin theo đúng nghĩa.

Một lòng tin đúng nghĩa thì dù nhỏ bé như một hạt cải

cũng có thể chuyển núi dời non (c. 20b; 1 Cr 13, 2).

Chỉ với lòng tin nhỏ như vậy, sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được.

Dĩ nhiên, câu này không có nghĩa là họ làm được mọi sự.

Các môn đệ chỉ làm được những gì liên quan đến việc loan báo Nước Trời,

như chữa mọi bệnh hoạn tật nguyền và trừ quỷ (Mt 10).

Họ chỉ làm được phép lạ khi người bệnh có lòng tin,

và khi việc họ làm nằm trong ý định của Thiên Chúa.

Những thừa tác viên của Giáo Hội nhiều khi thấy mình bất lực trước sự dữ.

Chúng ta cần xin Chúa thêm cho ta đức tin để có thể chuyển được

những đồi núi nơi lòng con người hôm nay.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa,

xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,

để con làm bật rễ khỏi lòng con

những ích kỷ và khép kín.

Xin cho con đức tin can đảm

để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,

chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.

Xin cho con đức tin sáng suốt

để con thấy được thế giới

mà mắt phàm không thấy,

thấy được Đấng Vô hình,

nhưng rất gần gũi thân thương,

thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ.

Xin cho con đức tin liều lĩnh,

dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,

dám tiến bước trong bóng đêm

chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,

dám lội ngược dòng với thế gian

và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.

Xin cho con đức tin vui tươi,

hạnh phúc vì biết những gì

đang chờ mình ở cuối đường,

sung sướng vì biết mình được yêu

ngay giữa những sa mù của cuộc sống.

Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp

qua những cọ xát đau thưong của phận người,

để dù bao thăng trầm dâu bể,

con cũng không để tàn lụi niềm tin

vào Thiên Chúa và vào con người.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

SUY NIỆM 2; Sống đức tin

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Thế giới nhiễu nhương. Ma quỉ và bạo chúa thống trị thế giới. Sự ác và sự dữ đè bẹp con người. Nếu không có đức tin con người không thể sống nổi.

Thời Mô-sê dân Ít-ra-en chỉ là một nhóm người nô lệ. Không tổ chức. Không lực lượng. Nhưng họ có đức tin. Họ tin vào Chúa. Họ đi theo Mô-sê. Và Chúa đã làm những việc vượt quá sức tưởng tượng của họ. “Anh em được những thành lớn và đẹp mà anh em đã không xây, những nhà đầy mọi thứ của cải mà anh em đã không tích trữ, những bể nước có sẵn mà anh em đã không đào, những vườn nho và vườn ô-liu mà anh em đã không trồng”. Vì thế Mô-sê khuyên nhủ họ “đừng quên Đức Chúa, Đấng đã đưa anh em ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ…anh em phải kính sợ…phải phụng thờ…và nhân danh Người mà thề” (năm lẻ).

Thời Kha-ba-cúc, mặc dù Ít-ra-en bị Can-đê đặt ách thống trị tàn ác, chỉ vì Ít-ra-en tội lỗi phản bội Chúa. Nhưng Chúa khuyên nhủ dân hãy cứ tin tưởng và chờ đợi. Vì ngày Chúa giải thoát dân rồi sẽ đến: “Nó đang tiến nhanh tới chỗ hoàn thành, chứ không làm cho ai thất vọng. Nếu nó chậm tới, thì cứ đợi chờ, vì thế nào nó cũng đến, chứ không trì hoãn đâu”. Trong khi chờ đợi phải giữ vững đức tin. Vì “ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính thì sẽ được sống, nhờ lòng thành tín của mình” (năm chẵn).

Thời Chúa Giê-su ma quỉ hoành hành ác liệt. Khống chế con người. Các tông đồ cũng đành chịu thua. Nhưng khi Chúa đến, Chúa dùng quyền năng chế ngự và bắt ma quỉ phải vâng phục. Giải phóng con người khỏi ách nô lệ ma quỉ. “Đức Giê-su quát mắng tên quỷ, quỷ liền xuất, và đứa bé được khỏi ngay từ giờ đó”. Chúa cho biết ma quỷ hoành hành vì con người thiếu niềm tin. Chúa than phiền vì thế hệ thiếu niềm tin: “Ôi thế hệ cứng lòng không chịu tin và gian tà! Tôi còn phải ở với các người cho đến bao giờ, còn phải chịu đựng các người cho đến bao giờ nữa”? Ngài cho các tông đồ biết mọi việc trên thế giới có thể giải quyết dễ dàng với người có lòng tin: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: ‘Rời khỏi đây, qua bên kia! Nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được”.

Thời đại chúng ta bị biết bao ngọn núi ngăn trở khiến ta nản lòng. Tưởng không có gì có thể xê dịch được những ngọn núi ngăn chặn đời sống. Nhưng ta hãy an tâm. Nếu có đức tin một chút thôi, ta có thể giải quyết vấn đề cộng đoàn thật dễ dàng. Và thế giới ổn định. Vì khi có đức tin ta sống nhờ Chúa. Ta làm việc bằng sức mạnh của Chúa. Và mọi việc sẽ tốt đẹp.

SUY NIỆM 3: Ðức Tin Rất Cần Thiết

Thánh Augustinô nói: “Thiên Chúa dựng nên con người không cần con người, nhưng để cứu chuộc con người, thì Ngài cần đến sự cộng tác của con người”. Sở dĩ như vậy là vì Thiên Chúa dựng nên con người có tự do, và tự do bao hàm sự lựa chọn tin nhận hoặc khước từ Thiên Chúa. Ðức tin cần thiết cho con người, không những để được cứu rỗi, mà còn để biết vui tươi đón nhận những biến cố trong đời sống theo thánh ý Chúa.

Tin Mừng hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu chữa một đứa bé bị kinh phong. Có thể nói, không có gì đặc biệt, nếu phép lạ được thực hiện do Chúa Giêsu, bởi vì Ngài là Thiên Chúa toàn năng làm được mọi sự. Nhưng điều quan trọng là phép lạ có thể xẩy ra là do đức tin của con người. Thật thế, trong bất cứ phép lạ nào, Chúa Giêsu cũng đòi hỏi con người phải tin, hoặc chính đương sự hoặc cha mẹ hay người bảo trợ. Là Ðấng Cứu Thế, Chúa Giêsu yêu thương và muốn cứu chữa con người khỏi mọi tật bệnh; nhưng mỗi khi thực hiện phép lạ để cứu chữa một người nào, Ngài cũng đòi phải có đức tin. Nếu việc cứu chữa riêng lẻ đó chỉ là hình ảnh lu mờ của việc cứu chữa tối hậu mà Chúa còn đòi hỏi đức tin, thì để được cứu rỗi trong thời cứu độ viên mãn, đức tin còn cần thiết biết chừng nào.

Kết thúc bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì chẳng có gì các con không làm được. Ðức tin làm cho chúng ta từ con người tội lỗi trở thành con cái Thiên Chúa; đức tin giúp cho những việc tầm thường trong đời sống trở thành có giá trị vĩnh cửu; đức tin cho chúng ta có cái nhìn lạc quan tin tưởng vào mọi biến cố cuộc sống; đức tin giúp con người làm được những điều mà người không có đức tin không hiểu nổi: các thánh tử đạo can đảm chấp nhận cái chết đau thương, các thánh hiển tu đã từ bỏ tất cả để hoàn toàn sống theo Chúa.

Nguyện xin Chúa củng cố đức tin của chúng ta để nhận ra bàn tay Chúa luôn dẫn dắt chúng ta và luôn sống trong bình an dưới sự chăm sóc của Ðấng Toàn Năng.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 4: Lòng tin thật

Bây giờ các môn đệ đến gần hỏi riêng Đức Giêsu rằng: “Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy?” Người nói với các ông: “Tại sao anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: “Rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được. [Giống quỷ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện]. (Mt. 17, 19-21)

Nếu người ta nhìn bề ngoài theo nghĩa đen, thì có lòng tin vào Đức Kitô đã đủ làm những điều phi thường: Chữa khỏi các bệnh tật.

Chớ gì có niềm tin vô điều kiện vào Thiên Chúa và Đức Kitô, tôi hoàn toàn đồng ý! Lời dạy của Đức Kitô được chép lại rõ ràng, cần phải đọc lại các sách Tin Mừng, đặc biệt của thánh Gio-an, để xác tín điều đó. Lòng tin là điều kiện cần cho lời cầu nguyện biết bao, nhất là lời cầu nguyện cầu xin.

Nhưng chưa đủ.

Nhưng cần thiết lời cầu nguyện phải hợp với kế hoạch của Thiên Chúa, Đức Giêsu, lúc sống ở trần thế, đã không chữa mọi bệnh tật cho dân Ít-ra-en, các tông đồ cũng thế. Vì nếu đánh giá lòng tin bằng được khỏi bệnh thì lòng tin đó chỉ như một thứ tiền trả cho việc chữa bệnh. Lòng tin như thế có đủ không? Đó không phải là thứ lòng tin sống động, không phải là thứ lòng tin của thứ phần tử trong Giáo Hội, của thân thể Đức Kitô. Lòng tin như thế là của những người không tín ngưỡng.

Tôi nghĩ những đoạn Tin Mừng này có thể sẽ bị hiểu lầm và sẽ gây ra những quá đáng đạo đức.

Vâng: Một lòng tin sâu sắc.

Lòng tin trong sáng và nhiệt thành ăn rễ sâu vào tâm hồn siêng năng hơn là hành động nhất thời. Nếu người ta không thường xuyên sống với tâm tình yêu mến và phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, thì làm sao tránh khỏi không nghi ngờ. Chỉ khi nào có một chút niềm tin hoàn hảo mới mong phát sinh ra những công cuộc kỳ diệu hữu hình và vô hình.

Có những Đấng Thánh có lòng tin, một lòng tin sâu xa, sống động! đã xẩy ra và còn xẩy ra nơi các Đấng một đức tin trọn vẹn để thực hiện ơn gọi đặc biệt trong Hội Thánh.

J.M

SUY NIỆM 5: KIÊU NGẠO SẼ THẤT BẠI (Mt 17, 14-20)

Xem thêm thứ Hai tuần 7 TN.

Một sự cám dỗ lớn lao nhất thường đến với con người, đó là cơn cám dỗ về sự kiêu ngạo.

Thật vậy, sự kiêu ngạo nó thường trực trong con người, và mức độ nguy hiểm của chúng là rất cao. Có thể ví rằng: sự kiêu ngạo luôn nhăm nhe bừng phát, chúng giống như bình xăng còn ma quỷ như bó đuốc. Nếu không cẩn thận và đề phòng bằng sự khiêm nhường, ắt không sớm thì muộn, chúng cũng làm cho bình xăng bốc cháy!

Đọc lại lịch sử cứu độ, chúng ta thấy, từ xa xưa, người ta vẫn bị mắc vào cám dỗ này.

Khởi đi từ Nguyên Tổ loài người là Ađam và Evà; rồi câu chuyện tháp Babel, đến hành động của Môsê, Aharon, Đavít, và ngay cả đến các môn đệ, tất cả đều bị ngã gục trước sự cám dỗ của ma quỷ dưới lưỡi hái của sự kiêu ngạo.

Thật vậy, cậy vào sức riêng của mình là chuyện bình thường. Tuy nhiên, vì tự tin đến độ không cần đến Thiên Chúa thì lại là kẻ bất thường, vì thế, thất bại là lẽ đương nhiên.

Hôm nay, bài Tin Mừng cho thấy việc các môn đệ thất bại trong việc trừ quỷ. Nguyên do chính là do các ông tự mãn và cậy vào khả năng riêng của mình chứ không phải là niềm tin vào Thiên Chúa.

Tin Mừng thuật lại, sau khi Đức Giêsu đưa ba môn đệ lên núi Tabor, số môn đệ còn lại ở dưới núi, vì thế người ta mang đến cho các ông một đứa trẻ bị quỷ ám mắc kinh phong. Các ông đã trừ mà không được. Nên thấy Đức Giêsu xuống, dân chúng đã xúm lại và xin Ngài chữa lành. Sau khi Ngài chữa cho bé gái khỏi quỷ ám. Các môn đệ tiến lại gần và hỏi: “Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy?”. Đức Giêsu mặc khải cho họ biết: “Tại anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: ‘rời khỏi đây, qua bên kia!’ nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được”.

Sau khi các ông nhận ra sự thất bại của mình và hiểu rõ về sức mạnh của niềm tin, Đức Giêsu muốn dạy các ông sự khiêm nhường và gắn bó với Thiên Chúa cách trọn ven thì mới có thể thi hành được sứ vụ.

Trong cuộc sống đức tin của chúng ta, có lẽ không cần phải xin Chúa cho được chuyển núi dời non theo nghĩa đen. Nhưng điều mà chúng ta cần chuyển dời chính là ngọn núi của kiêu căng, tự ái, ghen ghét. Có thế, chúng ta mới để cho đức tin mà Thiên Chúa ban cho chúng ta được lớn mạnh.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con. Xin cho chúng con biết gắn bó với Chúa để được Chúa yêu thương. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 6: Sức mạnh của lòng tin

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Sức mạnh của đời sống người Kitô hữu tùy thuộc vào mức độ của lòng tin. Lòng tin yếu, người Kitô hữu sẽ bất lực; còn lòng tin mạnh, người Kitô hữu sẽ vượt qua mọi thử thách.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, sau khi chứng kiến Chúa trừ quỷ kinh phong, các tông đồ đã hỏi Chúa: “Tại sao chúng con không trừ được quỷ ấy ?”. Bản thân con cũng nhiều lần tự hỏi: “Tại sao mình cứ sống tầm thường mãi ?”. Câu trả lời của Chúa thật rõ ràng: “Vì các ngươi yếu lòng tin”.

Vì yếu lòng tin mà con chưa cảm nhận được hết ánh nhìn yêu thương của Chúa, cái nhìn trìu mến, mời gọi, khích lệ. Và vì thế con chưa một lần mạnh dạn thưa với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì ?”. Con thường tránh né ánh nhìn của Chúa, vội cúi đầu quay đi. Vì yếu lòng tin mà con làm ngơ trước tiếng gọi của người anh em đang cần giúp đỡ. Vì yếu lòng tin mà con dè dặt tính toán mỗi khi cần hy sinh, con ngại ngùng đứng dưới chân dốc cuộc đời, thu hẹp khát vọng của mình lại. Đời con vẫn cứ tầm thường vì tự thâm tâm con đã cam nhận sống tầm thường. Con tự vạch ra xung quanh mình những chuẩn mực an toàn, không được lỗi luật và cũng chớ phiêu lưu. Con chôn nén bạc Chúa trao xuống lòng đất và chịu đựng quãng đời vô vị trôi qua. Lạy Chúa, con yếu tin quá.

Giờ đây con muốn tìm lại ánh mắt của Chúa, muốn lắng nghe tiếng Chúa thôi thúc trong tâm tư con. Xin Chúa củng cố đức tin yếu ớt của con. Chúa muốn con vươn cao và sẵn sàng ban ơn để con có thể vươn lên. Với lòng tin mạnh mẽ mà Chúa ban cho con, con sẽ cố gắng sống thánh và sẵn sàng chấp nhận mọi thách đố của cuộc sống. Với lòng tin mạnh mẽ, con sẽ dấn thân trọn vẹn để sống cho Chúa và cho anh chị em. Và với lòng tin mạnh mẽ, con sẽ có đủ sức mạnh để chiếm được Nước Trời. Amen.

Ghi nhớ: “Nếu các con có lòng tin, thì chẳng có gì các con không làm được”.

Suy Niệm 7: Lòng tin lớn bằng hạt cải

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Thời Thập Tự Quân (Croisade), một kỵ sĩ bị quân nghịch đạo tấn công sắp chết. Trong cơn nguy hiểm đó, ông nhìn lên trời và khấn: “Lạy Chúa, nếu con đánh trận còn sống, con sẽ thắp một cây sáp nơi mồ Chúa và đem cây sáp luôn cháy sáng về tận nhà”.

Ông được thoát nạn. Giữ lời hứa, ông thắp một cây sáp nơi mồ Chúa và tìm cách mang nó về tận nhà.

Trên đường về, ông luôn che cho cây nến khỏi tắt vì gió mạnh. Sắp hết cây nến này, ông thắp cây nến khác. Cứ thế, ông đem cây nến đó về tận nhà như lời đã hứa với Chúa.

Thật là một gương anh dũng!

Cây đèn đức tin của chúng ta cũng vậy, trên con đường về quê Trời, phải luôn được chúng ta thắp sáng.

Suy niệm

Hạt cải là hạt nhỏ nhất trong các hạt giống, nhưng khi lớn lên nó trở nên lớn nhất các loại rau cỏ. Hạt giống đức tin nếu chỉ bằng hạt cải, khi lớn lên sẽ làm được những việc phi thường như lời Chúa Giêsu cắt nghĩa trong Tin Mừng thánh Matthêu: “Nếu các con có đức tin bằng hạt cải, nhưng khi được nuôi dưỡng và lớn lên thành cây lớn nhất trong các loại rau mà chim trời có thể ẩn náu” (Mt 13,32).

Hãy nuôi dưỡng đức tin, dù nhỏ bé như hạt cải nhưng khi lớn lên sẽ làm được việc dời non lấp biển như Tin Mừng đã thuật lại các việc vĩ đại thành sự nhờ đức tin: Khi người đàn bà bị băng huyết đến sờ vào gấu áo Chúa với niềm tin bà được Chúa chữa lành, Chúa nói: “Này bà, cứ an tâm, đức tin của bà đã cứu chữa bà” (Mt 9,22). Ông trưởng hội đường có đứa con gái ốm nặng sắp chết, ông tin vào Chúa nhưng sau đó hơi chút hồ nghi vì gia nhân bảo con ông đã chết, Chúa nói: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,36), ông vững tin, và Người đã làm cho em bé gái sống lại. Khi những người mang đứa con trai bị bệnh kinh phong tới Chúa Giêsu và tin vào Ngài (Mc 9,23), Chúa Giêsu cầm tay đứa bé, chữa lành. Tin rằng thầy Giêsu có thể chữa lành cho người anh em bất toại, nhưng không thể mang bệnh nhân vào trong nhà qua cửa được vì quá đông người, người ta phải dỡ mái nhà rồi thả bệnh nhân xuống trước mặt Chúa Giêsu và Ngài chữa lành cho anh (Lc 5:20). Người đàn bà thành Canaan xin Chúa chữa con bà khỏi bị quỷ ám (Mt 15:21-28), chính đức tin sống động, mãnh liệt này đã làm cho Chúa phải thốt lên: “Này bà, đức tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì được vậy” (Mt 15:28). Viên sĩ quan xin Chúa chữa người đầy tớ của ông khi tuyên xưng niềm tin mạnh mẽ vào Ngài (Mt 8,5-13). Đức tin của Martha đặt nơi Thầy là nguồn sự sống, Ngài đã thực hiện một phép lạ lớn lao: Cho Ladarô sống lại (x. Ga 11,7-44).

Nhưng đức tin lúc gặp phong ba bão tố nơi người tôi tớ, chính lúc đó cảm nghiệm được sự vô dụng của mình nên cần tin và bám víu vào Chúa, như Phêrô với lòng đơn thành xin Chúa cho được đi trên mặt biển đến với Chúa. Nhưng khi gặp phong ba ông hoài nghi, thiếu tin tưởng nên chìm xuống nước ông kêu cứu và Chúa ra tay nâng đỡ ông (x. Mt 14:22-33).

Tin Mừng cho chúng ta thấy sức mạnh của niềm tin. Thật thế, đức tin bằng hạt cải có thể dời non lấp biển…

Ý lực sống:

“Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11,1).

Suy Niệm 8: Chúa chữa đứa trẻ bị kinh phong (Mt 17,14-19)

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Lúc Chúa Giêsu và 3 môn đệ thân cận ở trên núi (biến hình) thì ở dưới núi, người ta đem đến cho các môn đệ một đứa trẻ bị quỷ ám mắc kinh phong, nhưng các ông không chữa được. Còn Chúa Giêsu đã quát mắng quỷ, nó đã xuất khỏi đứa trẻ ngay. Các ông phải một phen mất mặt. Các ông đã đến gần hỏi lý do tại sao các ông đã thất bại. Chúa cho biết lý do thất bại của các ông là thiếu lòng tin. Nếu các ông có lòng tin thì làm gì cũng được.

Tin mừng thuật lại, sau khi Chúa Giêsu đưa ba môn đệ lên núi Tabor, số môn đệ còn lại ở dưới núi, vì thế người ta mang đến cho các ông một đứa trẻ bị quỷ ám mắc kinh phong. Các ông đã trừ mà không được. Nên thấy Chúa Giêsu xuống, dân chúng đã xúm lại và xin Ngài chữa lành. Sau khi Ngài chữa cho bé gái khỏi quỷ ám, các môn đệ tiến lại gần và hỏi: “Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy ?” Chúa Giêsu mạc khải cho họ biết: “Tại anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: ‘rời khỏi đây, qua bên kia’ nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được”.

Sau khi các ông nhận ra sự thất bại của mình và hiểu rõ về sức mạnh của niềm tin, Chúa Giêsu muốn dạy các ông sự khiêm nhường và gắn bó với Thiên Chúa cách trọn vẹn thì mới có thể thi hành được sứ vụ.

Việc Chúa Giêsu chữa một đứa bé bị kinh phong, có thể nói, không có gì đặc biệt, nếu phép lạ được thực hiện do Chúa Giêsu, bởi vì Ngài là Thiên Chúa toàn năng làm được mọi sự. Nhưng điều quan trọng là phép lạ có thể xảy ra là do đức tin của con người. Thật thế, trong bất cứ phép lạ nào, Chúa Giêsu cũng đòi hỏi con người phải tin, hoặc chính đương sự hoặc cha mẹ hay người bảo trợ. Là Đấng Cứu Thế, Chúa Giêsu yêu thương và muốn chữa con người khỏi mọi bệnh tật, nhưng mỗi khi thực hiện phép lạ để cứu chữa một người nào, Ngài cũng đòi phải có đức tin. Nếu việc cứu chữa riêng lẻ đó chỉ là hình ảnh lu mờ của việc cứu chữa tối hậu mà Chúa còn đòi hỏi đức tin, thì để được cứu rỗi trong thời cứu độ viên mãn, đức tin còn cần thiết biết chừng nào (Mỗi ngày một tin vui).

Mục sư Martin Luther nói: “Đức tin cho phép chúng ta nắm giữ trong tay những điều chúng ta không thấy được”.

Đức tin biến đổi chúng ta từ người tội lỗi trở thành con cái Thiên Chúa. Đức tin làm cho những việc tầm thường trở thành những việc có giá trị phi thường. Đức tin cho chúng ta có cái nhìn lạc quan, tin tưởng vào những điều dường như không thể lý giải. Đức tin cũng chính là điều kiện cần thiết, để Chúa Giêsu làm phép lạ cứu chữa người bệnh. Việc Chúa Giêsu chữa bệnh kinh phong cho em bé trong Tin mừng hôm nay là một ví dụ điển hình về sức mạnh của lòng tin. Thật vậy, chính nhờ lòng tin vững vàng của người cha mà em bé được chữa lành.

Con người dễ mắc phải cám dỗ cậy vào sức riêng và do đó dễ gặp thất bại trong đời sống. Chính các môn đệ cũng không tránh khỏi cám dỗ đó. Thật vậy, sau khi chứng kiến cuộc biến hình của Ngài, Chúa Giêsu muốn các ông xuống núi, trở về với những vấn đề của cuộc sống. Ngài muốn các ông nhận thức giới hạn của mình khi để các ông thất bại trong việc trừ quỉ câm. Trước đây nhờ quyền năng Chúa các ông đã xua trừ được nhiều quỷ. Có lẽ các ông bắt đầu quên điều đó, quên rằng mình chỉ là dụng cụ của Thiên Chúa. Bởi đó, sau khi các ông nhận thức rõ sự bất lực của mình, Chúa đã giải thích cho các ông biết rằng để thành công, các ông cần có đức tin dù chỉ là đức tin nhỏ bé, cần gắn bó với Chúa, và theo nhiều bản Tin mừng bổ túc, cần phải cầu nguyện và ăn chay (R.Veritas).

Như hạt cải trổ thành cây lớn, đức tin đích thực dù ở khởi điểm còn ở mức độ nhỏ, nhưng rồi sẽ phát triển thêm thành cây lớn. Hơn nữa, chúng ta cũng nên lưu ý điều này là sự phát triển không tự động cách máy móc, cần có sự cộng tác của đương sự với ơn Chúa, để phát triển đức tin thêm nữa cho đến mức độ trưởng thành và sự cộng tác này được củng cố bằng lời cầu nguyện và việc ăn chay. Đây có thể là bài học Chúa Giêsu nhắc khéo cho các môn đệ khi Ngài phán: “Giống quỷ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay, cầu nguyện”.

Truyện: Cần có niềm tin Một tướng quân quyết định tấn công cho dù binh lính của ông chỉ bằng một phần mười quân địch. Ông quả quyết rằng sẽ thắng, nhưng lính của ông rất nghi ngờ.

Vì thế, trên đường đi tới trận chiến, ông dừng lại ở một nhà thờ và cầu nguyện. Khi trở ra, ông nói với họ:

– Tôi sẽ tung một đồng tiền lên. Nếu nó ngửa, chúng ta sẽ thắng. Nếu nó sấp, chúng ta sẽ thua. Vận mệnh bây giờ sẽ được tiết lộ.

Ông tung đồng tiền lên. Nó ngửa. Những người lính rất hăm hở vào trận đấu và tin tưởng rằng họ sẽ thắng cách dễ dàng. Hôm sau, một sĩ quan có niềm tin mạnh nói với tướng quân rằng:

– Kết quả cho thấy rằng không ai có thể thay đổi cánh tay vận mệnh.

Tướng quân trả lời:

– Rất đúng – và ông cho hay rằng đồng tiền có hai mặt ngửa!

Suy Niệm 10: ,,,,,,,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Hạt giống…

Lúc Chúa Giêsu và 3 môn đệ thân cận đang ở trên núi (biến hình) thì ở dưới núi, người ta đem đến cho các môn đệ một đứa trẻ bị quý ám mắc kinh phong. Nhưng các ông không chữa được. Khi Chúa Giêsu trở lại, Ngài nói lý do thất bại là thiếu lòng tin.

B…. nẩy mầm.

  1. “Ôi thế hệ kém lòng tin và hư hỏng. Ta còn phải ở với các ngươi đến bao giờ ? Ta còn phải chịu đựng các ngươi đến bao giờ nữa ?” : Chúa Giêsu đang than phiền về ai thế ? Về những người do thái, về cha của đứa trẻ, và về cả các môn đệ Ngài.

Các môn đệ đã ở với Chúa bao nhiêu năm mà vẫn kém lòng tin và hư hỏng. Tôi cũng thế. Chúa phải buồn vì ở với tôi, Chúa phải than vì chịu đựng tôi.

Xin tha cho con và xin thêm đức tin cho con.

  1. Thất bại là do yếu lòng tin.
  2. Chúa Giêsu nói đức tin có sức mạnh chuyển núi rời non. Tôi không cần chuyển dời núi Thái Sơn hay Trường sơn, mà cần chuyển dời những ngọn núi kiêu căng, tự ái, ích kỷ, dục vọng. Bấy lâu này dù tôi đã cố gắng nhiều nhưng chẳng làm chúng nhúc nhích tí gì cả. Hôm nay tôi thử dùng sức mạnh đức tin vào ơn Chúa để chuyển động chúng xem sao. Tôi hãy nhớ lời tâm sự của Thánh Phaolô : “Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng là sức mạnh của tôi”, vì “Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh”.
  3. Con người dễ mắc phải cám dỗ cậy vào sức riêng mình và do đó dễ gặp thất bại trong cuộc sống. Chính các môn đệ cũng không tránh khỏi cám dỗ đó. Ngài muốn các ông nhận thức giới hạn của mình khi để các ông thất bại trong việc trừ quỷ câm. Trước đây, nhờ quyền năng Chúa, các ông đã xua trừ được nhiều quỷ. Có lẽ các ông bắt đầu quên điều đó, quên rằng mình chỉ là dụng cụ của Thiên Chúa. Bởi đó, sau khi để các ông nhận thức rõ sự bất lực của mình, Chúa đã giải thích cho các ông biết rằng để thành công, các ông cần có đức tin dù chỉ là đức tin nhỏ bé, cần gắn bó với Chúa, cần phải cầu nguyện và ăn chay (“Mỗi ngày một tin vui”)

Suy Niệm 11: ,,,,,,,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Chủ đề của bài Tin Mừng hôm nay là sức mạnh của lòng tin: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi… sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được.

  1. Ở đây chúng ta không thể không xúc động trước đức tin của người cha cậu bé.

Dầu các môn đệ đã được Chúa ban quyền trừ quỉ, nhưng trong trường hợp này họ phải công nhận mình bất lực. Nhưng dù các môn đệ thất bại, người cha vẫn không chút nghi ngờ quyền phép của chính Chúa Giêsu. Đứng trước sự việc mới xảy ra, dường như ông ta đã tự nhủ: “Nếu tôi gặp được chính Chúa Giêsu thì mọi khó khăn của tôi sẽ được giải quyết, nhu cầu của tôi sẽ được thỏa mãn”.

Ở đây có một cái gì rất chua chát, có một cái gì đó rất phổ biến và thức thời. Có nhiều người cảm thấy Giáo hội, những người theo Chúa Giêsu, trong thời mình, thế hệ mình đang sống đã thất bại, đã bất lực không thể đối phó nổi với những thói hư tật xấu của con người. Nhưng trong tâm tưởng họ nghĩ được rằng: “Nếu ta có thể vượt qua được người theo Chúa hôm nay; nếu ta có thể tiến tới phía sau bộ mặt của Giáo hội, bỏ qua sự thất bại của Hội thánh, mà gặp được chính Chúa Giêsu thôi, thì ta sẽ nhận được những điều chúng ta cần”. Đây là điều vừa lên án chúng ta vừa khích lệ chúng ta, nhiều người dù đã mất lòng tin nơi Giáo hội, vẫn không bao giờ bỏ mất niềm tin nơi Chúa Giêsu.

Có một người hỏi một học giả Á Đông nổi tiếng là người xác tín vào Thiên Chúa rằng:

– Tại sao ông là người học cao hiểu rộng, đã biết đến nơi đến chốn về các tôn giáo, về các triết lý cao siêu của Á Đông mà ông lại đón nhận Tin Mừng như vậy ?

Vị học giả trả lời:

– Tôi vốn dĩ giống như một người chìm tàu giữa đại dương, sóng cả dập vùi, sức người có hạn. Các vị lãnh đạo tôn giáo khác đã dạy tôi rằng: Con phải bơi lội theo phương pháp này, tập dưỡng sức theo phương pháp nọ. Nhưng các lý thuyết ấy không cứu vớt tôi ra khỏi biển sâu. Chỉ có Chúa Giêsu, Ngài đã nhảy xuống biển và liều chết để cứu vớt tôi, vì vậy tôi tin vào Ngài.

  1. Và cũng ở đây, chúng ta thấy đức tin hết sức cần thiết.

Đây là những lời của mẹ Têrêsa:

“Thế giới thiếu vắng đức tin vì có quá nhiều ích kỷ, quá nhiều cái tôi. Để sống đức tin chân thật, lòng người phải quảng đại cho đi.

“Thành quả của lời cầu nguyện là đức tin. Thành quả của đức tin là tình yêu. Thành quả của tình yêu là phục vụ. Thành quả của phục vụ là hòa bình”.

“Theo huyết thống, tôi là người Anbani. Theo quốc tịch, tôi là người Ấn Độ. Theo đức tin, tôi là một nữ tu công giáo. Theo ơn gọi, tôi thuộc về thế gian này. Và theo con tim, tôi hoàn toàn thuộc về những người bất hạnh, đau khổ”.

Ngày xưa, những vua nước Ba Tư có thói quen để trong gối 5 vạn đồng tiền vàng cho dễ ngủ. Hoàng đế Caligual nuôi nhiều thú dữ ngoài cửa đền để ngăn không cho ai vào khi ngài ngon giấc. Bertom để một cái vòng trên đầu trong khi ngủ, để đề phòng nhỡ trần nhà có rơi xuống thì không bị vỡ đầu. Nhưng những cái đó thực ra có ích lợi gì ?… Cái gối tốt nhất và êm nhất là lương tâm yên tĩnh.

Piere de Verónne đã phải chịu đau đớn vì Đức Tin. Người bị đâm nhiều nhát. Sau những nhát đâm đầu tiên. Người can đảm kêu to: “Tôi tin!”. Khi ngã xuống, không thể nói được nữa, Người lấy ngón tay nhúng vào máu viết lên mặt đất: “Tôi tin!”.

Nếu có đức tin thì không có việc gì phải sợ. Khi Chúa Giêsu nói về việc chuyển núi dời non thì Ngài dùng một thành ngữ quen thuộc đối với người Do Thái. Chuyển núi dời non là những từ ngữ thường người Do Thái dùng để chỉ sự thanh toán những khó khăn. Chúa Giêsu không hề dùng nó theo nghĩa đen, hữu hình. Ngài muốn nói rằng: “Nếu ngươi có đủ đức tin, tất cả mọi khó khăn sẽ được giải quyết, luôn cả những công tác khó khăn nhất cũng có thể thực hiện được”.

Một tướng quân quyết định tấn công cho dù binh lính của ông chỉ bằng một phần mười quân địch. Ông quả quyết rằng sẽ thắng, nhưng lính của ông rất nghi ngờ.

Vì thế, trên đường đi tới trận chiến, ông dừng lại ở một nhà thờ và cầu nguyện. Khi trở ra, ông nói:

– Tôi sẽ tung một đồng tiền lên. Nếu nó ngửa, chúng ta sẽ thắng. Nếu nó sấp, chúng ta sẽ thua. Vận mệnh bây giờ sẽ được tiết lộ.

Ông tung đồng tiền lên. Nó ngửa. Những người lính rất hăm hở vào trận đấu và tin rằng họ sẽ thắng cách dễ dàng. Hôm sau, một sĩ quan có niềm tin mạnh nói với tướng quân rằng:

Kết quả cho ta thấy rằng không ai có thể thay đổi cánh tay vận mệnh.

Tướng quân trả lời:

– Rất đúng, và ông cho anh hay rằng đồng tiền có hai mặt ngửa.

print