Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 2 Thường Niên

Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 2 Thường Niên

Thứ Hai Tuần 2 Thường Niên.

Thứ Ba Tuần 2 Thường Niên.

Thứ Tư Tuần 2 Thường Niên.

Thứ Năm Tuần 2 Thường Niên.

Thứ Sáu Tuần 2 Thường Niên.

Thứ Bảy Tuần 2 Thường Niên.

THỨ HAI TUẦN 2 THƯỜNG NIÊN

LỜI CHÚA: Mc 2, 18-22

Khi ấy, môn đồ của Gioan và các người biệt phái ăn chay, họ đến nói với Chúa Giêsu rằng: “Tại sao môn đồ của Gioan và các người biệt phái ăn chay, còn môn đồ Ngài lại không ăn chay?”

Chúa Giêsu nói với họ: “Các khách dự tiệc cưới có thể ăn chay khi tân lang còn ở với họ không? Bao lâu tân lang còn ở với họ, thì họ không thể ăn chay được. Nhưng sẽ đến ngày tân lang bị đem đi, bấy giờ họ sẽ ăn chay.

Không ai lấy vải mới mà vá áo cũ, chẳng vậy, miếng vải vá sẽ rút lại mà kéo áo cũ, và chỗ rách lại tệ hơn. Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, chẳng vậy, rượu sẽ làm vỡ bầu da, và rượu đổ, bầu da hư. Nhưng rượu mới phải để trong bầu da mới”.

Suy Niệm 1: Chàng rể còn ở với

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Một trong những nét khác biệt giữa Gioan Tẩy Giả với Đức Giêsu

là sự khắc khổ nhiệm nhặt.

Gioan được coi là người “không ăn bánh, không uống rượu” (Lc 7, 33).

còn Đức Giêsu bị mang tiếng là “tay ăn nhậu” với quân thu thuế (Lc 7, 34).

Chúng ta đã từng thấy ngài ăn tại nhà ông Lêvi hay ông Dakêu.

Các người Pharisêu cũng là những người thích ăn chay nhiều lần trong tuần,

dù ngày ăn chay chính thức hàng năm của đạo Do-thái chỉ là ngày lễ Xá tội.

Như thế có sự khác biệt khá rõ giữa môn đệ của Đức Giêsu

với môn đệ của Gioan Tẩy Giả và môn đệ của người Pharisêu.

Một bên có vẻ thoáng và thoải mái, một bên thì khắc khổ nhiệm nhặt.

“Tại sao môn đệ của ông lại không ăn chay?”

Có người đã dám hỏi thẳng Đức Giêsu như thế.

Ngài đã trả lời bằng một cách dùng một hình ảnh dễ hiểu và đầy ý nghĩa.

Vào thời Đức Giêsu, tại Paléttin, cũng như tại nhiều vùng quê ngày nay,

đám cưới là một biến cố mừng vui có tính làng xã.

Chẳng thể nào hiểu được chuyện một người đi ăn cưới

với khuôn mặt buồn của kẻ đang ăn chay.

“Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay,

khi chàng rể còn ở với họ”

Đức Giêsu tự ví mình với chàng rể, còn môn đệ là khách dự tiệc cưới.

Bầu khí trong nhóm môn đệ của ngài là bầu khí vui tươi của một lễ thành hôn

bởi lẽ thời đại thiên sai đã đến rồi.

Đức Giêsu, Đấng Mêsia dân Ítraen mong đợi từ lâu, nay có mặt.

Ngài là chàng rể kết duyên với cô dâu là dân tộc Ítraen của ngài.

Đức Giêsu đã làm trọn điều các ngôn sứ nói trong Cựu Ước

về việc Thiên Chúa lập hôn ước với dân của Người (Hs 2, 21-22; Is 62, 4-5).

“Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi khỏi họ, bấy giờ họ mới ăn chay.”

Sau khi Đức Giêsu chịu cái chết dữ dằn, được phục sinh và lên trời,

Giáo hội bước vào một giai đoạn mới, giai đoạn chờ đợi ngài quang lâm.

Trong giai đoạn này, khi Chúa Giêsu vừa vắng mặt, vừa hiện diện,

Các Kitô hữu ăn chay, vác thánh giá theo Chúa Giêsu,

dù họ vẫn luôn sống trong niềm vui, bởi tin vào Đấng đã phục sinh vinh hiển.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

các sách Tin Mừng chẳng khi nào nói Chúa cười,

nhưng chúng con tin Chúa vẫn cười

khi thấy các trẻ em quấn quýt bên Chúa.

Chúa vẫn cười khi hồn nhiên ăn uống với các tội nhân.

Chúa đã cố giấu nụ cười trước hai môn đệ Emmau

khi Chúa giả vờ muốn đi xa hơn nữa.

Nụ cười của Chúa đi đôi với Tin Mừng Chúa giảng.

Nụ cười ấy hòa với niềm vui

của người được lành bệnh.

Lạy Chúa Giêsu,

có những niềm vui

Chúa muốn trao cho chúng con hôm nay,

có sự bình an sâu lắng Chúa muốn để lại.

Xin dạy chúng con biết tươi cười,

cả khi cuộc đời chẳng mỉm cười với chúng con.

Xin cho chúng con biết mến yêu cuộc sống,

dù không phải tất cả đều màu hồng.

Chúng con luôn có lý do để lo âu và chán nản,

nhưng xin đừng để nụ cười tắt trên môi chúng con.

Ước gì chúng con cảm thấy hạnh phúc,

vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương

và được sai đi thông truyền tình thương ấy. Amen.

Suy Niệm 2: Đạo

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Đạo là con đường. Con đường nối kết con người với Thiên Chúa. Như vậy đạo là mối liên hệ, tương quan. Đạt đến Thiên Chúa. Kết hợp thân mật với Người. Đó là đạt đạo.

Ăn chay là một phương tiện giúp ta chế ngự xác thịt, siêu thoát trần gian. Để kết hợp với Thiên Chúa. Tuy nhiên đã có nhầm lẫn. Có người coi ăn chay là giữ đạo. Thậm chí còn coi đó là quan trọng không thể thiếu. Tệ hơn người Pha-ri-sêu coi ăn chay là lập công. Là đương nhiên công chính. Không cần đến Thiên Chúa.

Hôm nay Chúa Giê-su cho ta hiểu biết đạo thật là gì. Ở với Chúa là đạt đạo. Không cần ăn chay. Chỉ khi mất Chúa mới phải ăn chay. Điều quan trọng là được Chúa. Chứ không phải công phúc.

Sa-un đã dùng lý do chiếm đoạt chiến lợi phẩm dâng cho Chúa để biện minh cho sự bất tuân. Nhưng Sa-mu-en đã vạch rõ sai lầm của Sa-un: “Đức Chúa có ưa thích các lễ toàn thiêu và hy lễ như ưa thích người ta vâng lời Đức Chúa không? Này, vâng phục thì tốt hơn là dâng hy lễ, lắng nghe thì tốt hơn là dâng mỡ cừu”. Chúa không cần của lễ. Chúa chỉ muốn tấm lòng. Chỉ muốn tình yêu. Chỉ muốn sự kết hợp. Đó cũng là hạnh phúc của loài người (năm chẵn).

 Chính Chúa Giê-su làm gương cho ta. Chúa đã được Chúa Cha tấn phong làm Thượng Tế khi nói: “Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-sê-đê”. Chúa Giê-su trở nên thập toàn. Vì Người dâng của lễ đẹp lòng Chúa Cha. Đó là dâng chính mình trong sự vâng phục: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dẫu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (năm lẻ).

Với sự vâng phục hoàn toàn. Vâng phục đến hiến dâng chính mạng sống. Chúa Giê-su mở cho ta con đường sống đạo đích thực. Kết hợp hoàn toàn với Thiên Chúa. Từ bỏ mình hoàn toàn. Để hoàn toàn làm theo ý Chúa. Đó là đạo. Đạo mang đến cho ta hạnh phúc đích thực. Khi dẫn đường ta đến kết hợp hoàn toàn với Thiên Chúa.

 

Suy Niệm 3: Cốt lõi của đạo

Trong những thập niên gần đây, mặc dầu càng lúc Hiến pháp các quốc gia càng đi sâu vào sự tách biệt giữa tôn giáo và nhà nước; thế nhưng, sự liên kết giữa tôn giáo và chính trị lại càng đậm nét hơn. Cuộc chiến giữa Tư bản và Cộng sản đã hầu như chấm dứt, nhưng chiến tranh tôn giáo xem chừng vẫn dai dẳng, không những giữa những người khác tôn giáo với nhau, mà ngay cả trong cùng một tôn giáo. Nhìn vào thảm cảnh ấy, ai cũng thắc mắc tự hỏi: Tôn giáo nào mà không dạy ăn ngay ở lành, tôn giáo nào mà không dạy sự khoan dung tha thứ, thế thì tại sao những người có tôn giáo lại nhân danh tôn giáo của mình để gây chiến với người khác hay với chính những người đồng đạo của mình?

Câu trả lời thật đơn giản: sở dĩ người có tôn giáo có thái độ quá khích và bất khoan nhượng, là vì họ chưa sống đúng cái cốt lõi của đạo. Xét cho cùng, cái cốt lõi của tôn giáo nào cũng là tình thương.

Chúa Giêsu cũng muốn chứng tỏ cho chúng ta thấy thế nào là sống đạo. Chúng ta hãy chiêm ngắm thái độ và lời dạy của Ngài trong Tin Mừng hôm nay. Vừa bắt đầu sứ mệnh rao giảng của Ngài, cũng như các kinh sư của thời đại Ngài, Chúa Giêsu cũng qui tụ một số môn đệ; và cũng như các môn đệ của các kinh sư khác, môn đệ của Ngài cũng theo một lối sống nào đó. Thế nhưng, điều khiến cho nhiều người ngạc nhiên và đặt vấn đề, đó là Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài không tuân giữ một số ngày chay tịnh như môn đệ của Gioan hay của những người Biệt phái. Không tuân giữ những ngày chay tịnh đã đành, sau này xem ra Chúa Giêsu càng thách thức hơn nữa, khi Ngài không tuân giữ cả ngày hưu lễ hay một số tập tục khác, như rửa tay trước khi ăn.

Suốt cuộc sống của Ngài, Chúa Giêsu đã tỏ ra rất độc lập đối với Do thái giáo. Ðây quả là cách sống đạo hoàn toàn mới mẻ mà Chúa Giêsu muốn đề ra cho con người. Ðối với Ngài, linh hồn và cốt lõi của đạo chính là tình thương; tình thương ấy đã thúc đẩy Ngài đi đến tận cùng bằng cái chết trên Thập giá, và cái chết của Ngài mãi mãi là lời tố cáo về thái độ bất khoan nhượng trong niềm tin tôn giáo của con người. Vụ án của Ngài được thi hành như một vụ án chính trị; mãi mãi tên tuổi của viên toàn quyền La mã là Philatô gắn liền với cái chết của Ngài. Tuy nhiên, vụ án của Chúa Giêsu vẫn là một vụ án tôn giáo: Ngài chết vì sự cuồng tín và thái độ bất khoan nhượng của các thủ lãnh Do thái giáo.

Chiêm ngắm thái độ của Chúa Giêsu trong suốt cuộc đời trần thế của Ngài và lắng nghe giáo huấn của Ngài, chúng ta sẽ thấy rằng cái cốt lõi của đạo chính là tình thương. Trong cuộc sống đạo, nhiều lúc chúng ta thắc mắc phải ăn chay thế nào cho đúng cách? Ngày Chúa nhật có được làm việc xác không? Bỏ lễ Chúa nhật có tội hay không? Thật ra còn có nhiều câu hỏi nền tảng hơn mà thiết tưởng chúng ta không thể không đặt ra để tự vấn lương tâm mỗi ngày: tôi có sống công bình, bác ái chưa? Tôi có yêu thương người anh em bên cạnh tôi chưa? Nhắm mắt làm ngơ trước nỗi khổ của người xung quanh tôi có phải là một tội không?

Nguyện xin Chúa cho chúng ta ngày càng thấu hiểu và xác tín rằng sống đạo là sống yêu thương, rằng cốt lõi của Kitô giáo chính là tình thương.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Suy Niệm 4: Thời gian nghỉ lễ

“Tại sao các môn đệ ông Gio-an và các môn đệ người Pha-ri-sêu ăn chay, mà môn đệ ông không ăn chay?” Đức Giêsu trả lời: “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ? Bao lâu chàng rể còn ở với họ, họ không thể ăn chay được.” (Mc. 2, 18b-19)

Trích đoạn Phúc âm này ghép hai mẩu chuyện có vẻ như không ăn ý với nhau: cuộc tranh biện về sự ăn chay và lời kêu gọi canh tân nội tâm. Nhưng thực ra lại có sự hòa hợp rất chặt chẽ. Thời đại cứu độ của Chúa Giêsu mang lại niềm vui. Thời đại này hoàn toàn mới, không thể đi đôi với trật tự cũ thuộc quá khứ. Những thực hành cũ kỹ của Đạo Do thái phải nhường bước cho Tin Mừng đi lên. Chúng ta sẽ đọc hai mẩu chuyện này từ góc độ của việc mừng ngày lễ.

Mừng lễ chính là nhìn lại quá khứ

Trong tác phẩm nổi tiếng của mình, La Fête des Fous, thần học gia Harvey Cox đã phân tích mối liên hệ của con người với cuộc lễ. Trong cuộc lễ, ông nói, con người tổng hợp quá khứ và loan báo tương lai của mình. Trong một tiệc cưới, người ta làm gì, nếu không phải là gom góp lại cái quá khứ yêu đương của cặp trai gái và rọi chiếu nó vào trong tương lai? Chính bởi vì người ta đã yêu thương nhau và muốn yêu nhau nữa, nên mới dừng lại trong lúc này để nói lên câu “Ta yêu nhau”

Tác giả nói thêm: Cái quá khứ mà người ta tìm lại được trong cuộc lễ đó, đã đưọc gạn lọc, biến đổi và làm cho nên đẹp. Còn lại chỉ là những giờ phút hạnh phúc và dẽ dàng. Chính từ đó mà buôỉ lễ tiệc mới có được vẻ vui chơi nhộn nhịp để người ta ăn uống vui đùa và ca hát.

Cũng là để cho người ta sẵn sàng thăng tiến

Chiều hướng thư hai của buổi lễ là dự phóng cho một tương lai mang nhiều hy vọng. Trong mọi cuộc lễ đều có một ý hưóng làm mới lại. Trong hôn lễ, đôi uyên ương muốn làm mới lại tình yêu thuở ban đầu của họ, muốn lấy lại nghị lực. Cuộc lễ như cung cấp cho người ta một thứ rượu mới.

Rượu mới cần phải đựng trong những bầu da mới mà Chúa Giêsu nói đến trong phần hai của trích đoạn Phúc âm này, mời gọi ta phải trở nên những con người mới để sẵn sàng đi vào tương lai.

Còn những bầu da cũ ám chỉ những con người mà đối với họ ngày lễ lại rất ảm đạm, chỉ khơi lại trong lòng họ những nỗi buồn nhỏ lệ. Họ không thể thấy hạnh phúc mà không đau lòng. Họ không chịu đựng được thứ rượu mới, thứ rượu mang niềm hy vọng cho những ngày mai tốt đẹp. Đúng ra những con người này đã đánh mất ý thức về tương lai.

Tóm lại, điều Chúa đòi hỏi chúng ta hôm nay là chúng ta có còn khả năng mừng lễ không? Chúng ta có thể tìm ôn lại dĩ vãng, cái cũ để rút ra cái mới hầu thăng tiến con người ta không? Nếu có, là chúng ta đã đang đi trên con đường dẫn ta vào dự tiệc Nước Trời rồi đó.

Suy Niệm 5: Bên trong thì giá trị hơn bên ngoài

Đã rất nhiều lần người Pharisêu dùng biện pháp “nhất tiễn diệt song điêu” để gài bẫy Đức Giêsu. Hôm nay, cũng chiêu thức ấy, họ tìm cách đưa cả thầy lẫn trò vào chòng khi cất tiếng hỏi Đức Giêsu: “Tại sao môn đệ của ông Gioan và người Pharisêu ăn chay, trong khi đó muôn đệ của ông lại không ăn chay?”.

Họ hỏi Đức Giêsu về lý do tại sao các môn đệ của Ngài không ăn chay, nhưng thực ra họ đang tìm cách trách móc Đức Giêsu! Nếu Đức Giêsu trả lời các môn đệ không cần ăn chay, thì vô hình chung Ngài chống luật Môsê; còn nếu Đức Giêsu thuận theo và yêu cầu các môn đệ ăn chay theo ý của những người Pharisêu, thì quả thực, Ngài đang phủ nhận sự hiện diện của mình, bởi tất cả mọi điều mà dân Israel mong đợi, thì nay Ngài đến, Ngài đang là hiện thân của niềm hy vọng đó. Vậy ăn chay là để mong đợi, nay điều mong đợi đó đã đến, thì không có lý do gì phải ăn chay nữa!

Biết được ý đồ thâm độc của họ, nên Đức Giêsu đã lấy một ví dụ qua hình ảnh vải mới vá vào áo cũ và rượu mới đổ bầu da cũ để thấy được điều nghịch lý nơi câu hỏi của nhóm người Pharisêu. Đây cũng chính là câu trả lời gián tiếp đầy khôn khéo, khiến họ không thể bắt bẻ được Ngài điều gì!

Trong cuộc sống thực tế, có khi chúng ta cũng chẳng khác gì những người Pharisêu khi xưa!

Nhiều khi đọc kinh rất nhiều, nhưng bảo tha thứ cho người làm phiền chúng ta thì không bao giờ! Hay đi lễ thường xuyên, nhưng có khi anh chị em cần đến sự giúp đỡ thì lại là điều xa vời với ta!

Hoặc cũng có những người tham gia hội đoàn này hội đoàn kia chỉ để chỉ trích và bới bèo ra bọ mà không hề thay đổi lối sống cho tốt hơn!

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi chúng ta hãy chú tâm đến nội dung bên trong hơn là những chuyện bề ngoài. Đừng vì những điều phụ thuộc mà đánh mất đi giá trị của nội dung.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho con biết chú trọng đến lối sống đạo hơn là hình thức. Một trái tim biết yêu thương thực sự thay cho hình thức giả tạo trên đầu môi chóp lưỡi. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 6: Phụng sự Chúa trong niềm vui

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài thường bị tấn công. Giáo Hội của Chúa ngày nay cũng như ngày xưa mãi mãi luôn bị tấn công.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trong cuộc đời theo Chúa, ở với Chúa, con cũng gặp những khó khăn, chống đối không kém các môn đệ Chúa xưa kia.

Nếu xưa kia người ta đã hỏi Chúa tại sao các môn đệ ông Gioan và các môn đệ người Pha-ri-siêu ăn chay còn các môn đệ của Chúa lại không, thì ngày nay, con cũng thường bị hỏi tại sao và tại sao…

Được sống với Chúa, con luôn cảm nghiệm một niềm vui đặc biệt và khó tả. Được trở nên thân tình với Chúa, con luôn mang trong mình một niềm vui của cô dâu có chàng rể ở cùng. Chúa muốn con sống chu toàn bổn phận hằng ngày theo Ý Chúa, và chu toàn trong hoan lạc, không phàn nàn, không kêu ca. Chúa muốn con phụng sự Chúa trong niềm vui, ngay cả trong những lúc hy sinh vác thánh giá.

Chúa đã đem lại cho thế gian một lối sống mới hợp theo chương trình cứu độ. Chúa không đưa tinh thần vá víu cho hợp với cái cũ. Chúa đang kêu gọi con đem tinh thần vui tươi của Nước Trời vào trong hoàn cảnh sống hằng ngày.

Vâng, lạy Chúa, này con đây, xin Chúa chấp nhận, và trong sự yếu đuối của con, xin Chúa nâng đỡ chở che. Vì nếu không có Chúa nâng đỡ chở che, con sẽ không chịu nổi những sự chống đối của người đời. Xin cho con hằng có niềm vui khôn tả của người môn đệ chân chính của Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Tân lang còn ở với họ”.

Suy Niệm 7: Chúa Giêsu là tân lang

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Tuần báo Newsweek số ra ngày 10/08/1993 đã ghi lại một sáng kiến mới lạ ở Nhật, đó là “sư máy”. Vị sư máy này, mới nhìn qua, không khác gì vị tu hành thực thụ: Đầu cúi xuống, mắt khép lại, môi và các cơ bắp trên gương mặt cử động theo nhịp cầu kinh ghi sẵn, một tay cầm chuỗi giơ lên, một tay thì gõ mõ và có thể thuộc toàn bộ kinh kệ của mười giáo phái Phật giáo khác nhau tại Nhật. Sáng kiến này đưa ra nhằm đáp ứng cho ơn gọi sư sãi ngày càng khan hiếm trong các Giáo hội Phật giáo tại Nhật.

Tuy nhiên, như tác giả bài báo ghi nhận: Những cái máy làm được mọi sự, duy chỉ một điều chúng không thể làm được, đó là chúng không biết yêu thương (Theo Mỗi ngày một tin vui).

Suy niệm

Đám cưới ở Do Thái là một dịp yến tiệc linh đình kéo dài cả tuần, cửa nhà đôi tân hôn mở rộng để tiếp khách. Mọi người không phân biệt giàu sang đều được mời tham dự yến tiệc vui mừng… Trong khi đó việc giữ chay theo truyền thống Do Thái giáo, liên kết chặt chẽ với việc chờ đợi Ðấng Cứu Thế. Ăn chay có nghĩa là nói lên niềm trông đợi Ðấng Cứu Thế… Khi chuẩn bị đón Chúa Cứu Thế mọi người chay tịnh chuẩn bị đón Ngài như cách sống và lời rao giảng của Gioan Tẩy giả đón Chúa Cứu Thế. Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, Ngài đến như tân lang trong tiệc cưới – tiệc cứu độ tình yêu đem niềm vui đời đời cho chúng ta.

Khi tự xưng mình là tân lang, nghĩa là các môn đệ của Ngài là bè bạn đang dự tiệc cưới với tân lang là Chúa Kitô đang hiện diện, có nghĩa là Đấng Thiên Sai đã đến rồi, nên các phù rể không ăn chay để chờ đợi nhưng đang sống trong niềm vui. Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy rằng Ngài chính là Ðấng Cứu Thế – Tân lang, do đó các môn đệ không cần giữ chay, bởi vì họ không cần phải trông đợi nữa. Vì thời của Ðấng Cứu Thế – Tân lang là thời của hân hoan, của niềm vui, không phải là thời của khóc lóc, tang chế, ủ dột…

Khi các môn đệ Chúa Giêsu bị chê trách là không ăn chay như các môn đệ của Gioan và biệt phái, Ngài đã bênh vực các môn đệ, những người đang sống trong thời đại Cứu Thế: Ðức Giêsu chính là tân lang mang Tin Mừng, niềm vui Ơn Cứu Ðộ. Nên phải biết sống vui tươi, tin tưởng. Ủ rũ sầu khổ là không hợp thời và không đúng lúc. Hơn nữa, người biệt phái và các môn đệ của Gioan ăn chay là để lôi kéo sự thán phục của thiên hạ. Vì thế, không đúng với ý nghĩa của việc ăn chay, nên Đức Giêsu nhiều lần đã khiển trách họ (x. Mt 6,16; Lc 18,12).

Với Đức Kitô, dân Ngài trong Giáo hội như đang dự Tiệc Cưới Nước Trời, sống hoàn toàn trong tinh thần mới: tinh thần của Chúa Cứu Thế – Đức Tân Lang Tân ước là tất cả Tin Mừng mà Ngài rao giảng như thứ rượu mới duy nhất không thể thay thế hoặc pha trộn và chứa trong bầu da cũ…

Ý lực sống: ”Anh em hãy vui mừng luôn trong Chúa. Tôi nhắc lại: Hãy vui lên” (Pl 4,4).

Suy Niệm 8: Tranh luận về chay tịnh

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Các môn đệ của Đức Giêsu bị chê trách là không ăn chay như các môn đệ của Gioan và người biệt phái. Đức Giêsu đã bênh vực các ông và cho người ta thấy rằng việc thiện cũng phải biết làm đúng lúc, đúng nơi. Vì thế, đừng vội phê bình người khác khi chưa nắm vững hoàn cảnh sự kiện. Điều quan trọng là Đức Giêsu chính là Tin Mừng, Ngài đã đến đem niềm vui ơn cứu độ nên chúng ta phải biết sống vui tươi, tin tưởng, ủ rũ âu sầu là không hợp thời, không đúng lúc nữa.
  2. Người Do thái rất coi trọng việc ăn chay. Mục đích của ăn chay là chuẩn bị gặp Chúa, hoặc gặp Đấng Messia sắp đến. Vào đầu thế kỷ I, người ta nghĩ rằng Đấng Messia sắp đến, cho nên càng ăn chay nhiệm nhặt hơn, nhất là nhóm biệt phái và nhóm  môn đệ Gioan Tẩy Giả.

Theo Do thái giáo thời Đức Giêsu, việc ăn chay liên kết với việc mong Đấng Thiên Sai. Người ta bất mãn với thời thế và nóng lòng chờ đợi thời kỳ thiên sai. Nhưng các môn đệ của Gioan và các người biệt phái chỉ biết giữ chay mà không để ý đến ý nghĩa của việc ăn chay. Nên khi thấy các môn đệ Chúa không ăn chay thì trách Chúa.

  1. Phần Đức Giêsu thì tự biết mình là Messia đến khai mở một kỷ nguyên vui mừng. Ngài so sánh thời gian Ngài sống ở trần gian là một tiệc cưới và bản thân Ngài là chàng rể. Bởi đó Ngài ăn uống tự nhiên bình thường và để cho các môn đệ Ngài cũng ăn uống như thế.

Vì thế, khi người ta tra vấn Ngài: ”Tại sao các môn đệ ông không ăn chay”? Ngài trả lời: ”Chẳng lẽ khách dự tiệc lại có thể ăn chay trong khi chàng rể còn ở với họ”? Ngài lại cho biết trước rằng tình hình sẽ thay đổi khi Ngài chịu nạn và chịu chết. Khi đó các môn đệ Ngài sẽ ăn chay để chuẩn bị  đón ngày Ngài quang lâm (x. Cv 13,1-3).

Như vậy, vấn đề quan trọng không phải là ăn chay hay không ăn chay, mà là ý thức ý nghĩa của việc ăn chay. Sống trong giai đoạn nào thì phải theo tinh thần của giai đoạn ấy. Nói cách cụ thể hơn, giai đoạn đang sống với Chúa Giêsu là thời kỳ mới cho nên phải sống theo tinh thần mới, tức là tinh thần vui mừng: ”Rượu mới thì bình cũng phải mới”.

  1. “Bao lâu chàng rể còn ở với họ, họ không thể ăn chay được” (Mc 2,19).

Các môn đệ đã đến và ở lại với Chúa Giêsu, tâm hồn và cuộc đời các ông tràn ngập niềm vui. Bao lần ta đã hát bài “Chúa chính là mùa xuân con mong chờ”, nhưng sống với Chúa đối với ta có thực sự là niềm vui không?

Cuộc đời của người Kitô hữu có những giai đoạn ăn chay sám hối, nhưng chủ yếu là vui mừng như đang dự tiệc cưới và được ở gần chàng rể. Thực vậy, được biết Chúa là một niềm vui, được theo Ngài là một niềm vui, được làm việc Ngài giao là một niềm vui. Ngay cả được vác thập giá Ngài trao cũng là một niềm vui, và khi ăn năn sám hối cũng vẫn vui vì biết mình sẽ được tha thứ.

Ta hãy nhớ lại hạnh các thánh: các ngài không bao giờ tuyệt vọng, không bao giờ cằn nhằn, không bao giờ đòi vất bỏ Thánh giá Chúa trao… trong lòng các ngài luôn có một niềm vui mà không ai, không  gì  và không hoàn cảnh nào dập tắt được.

  1. Ta vui cười trong ĐAU KHỔ vì đau khổ không phải luôn là hình phạt, nhưng có khi là nguyên do của một vui mừng. Theo lời Chúa Giêsu: hạt giống rơi xuống đất có mục nát ra mới sinh hoa kết quả. Người mẹ lúc sinh con phải buồn phiền, nhưng sẽ khoan khoái khi biết mình đã thêm cho đời một mụn con.

Ta  mỉm cười khi THẤT BẠI hay phải thất nghiệp vì có khi ta thất bại vì ta chán nản.

Ta sẽ tìm giải quyết trong vui tươi như thi sĩ Alfred de Musset đã diễn tả:

Tôi đi qua cánh đồng

Một con chim hát trên tổ

Dưới chân nó, bầy chim con chết lăn lóc,

Thế mà chim mẹ vẫn hát trong cảnh bình minh.

Hỡi hồn ta, mày đừng khóc nữa,

Vì cho đi mày mất hết mọi sự

Thiên Chúa, Đấng ngự trên trời thanh thẳm

Vẫn là nguồn hy vọng ở trần gian cho mày.

  1. Truyện: Lời khuyên của mẹ.

Khi thấy con có nét mặt buồn sầu, một hôm mẹ bảo đứa nhỏ:

– Con hãy vào rừng khóc thảm thiết xem rừng bảo con sao.

Đứa bé vào rừng khóc hu hu, khóc lóc thảm thiết lắm. Vừa khóc, vừa nghe thì thấy cả khu rừng đều khóc lóc thảm thiết như đứa bé. Đứa bé đã về học với mẹ như vậy.

Hôm sau mẹ lại bảo nó:

– Con hãy vào rừng và cười thật lớn, xem khu rừng sẽ đối với con thế nào.

Đứa bé cũng làm như vậy và hôm nay thấy cả khu rừng cùng cười vang.

Do vậy, mẹ bảo nó:

– Vui buồn không phải do ngoại cảnh mà do lòng mình mà có.

Suy Niệm 9: Rượu mới thì bầu rượu cũng phải mới

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Hạt giống…

Văn mạch Từ 2,1 đến 3,6, thánh Marcô ghi lại 5 cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với một số nhóm không thích Ngài. Đây là những dịp rất tốt để ta thấy rõ quan điểm của Chúa Giêsu, thấy nét độc đáo trong giáo huấn của Ngài so với giáo lý cổ truyền của người do thái. Đoạn này ghi cuộc tranh luận thứ ba.

Vấn đề được tranh luận là ăn chay.

– Người do thái rất coi trọng việc ăn chay (x. Mt 6,1-8). Mục đích của ăn chay là chuẩn bị gặp Chúa (x. Xh 34,28) hoặc gặp Đấng Messia sắp đến.

– Vào đầu thế kỷ I, người ta nghĩ rằng Đấng Messia sắp đến, cho nên càng ăn chay nhiệm nhặt hơn, nhất là nhóm biệt phái và nhóm môn đệ Gioan Tầy giả.

– Phần Chúa Giêsu thì tự biết chính mình là Messia đến khai mở một kỷ nguyên vui mừng. Ngài so sánh thời gian Ngài đang sống ở trần gian là một tiệc cưới và bản thân Ngài là chàng rễ. Bởi đó Ngài ăn uống tự nhiên bình thường và để cho các môn đệ Ngài cũng ăn uống như thế.

– Vì thế khi người ta tra vấn Ngài “Tại sao các môn đệ ông không ăn chay?”, Ngài trả lời “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay trong khi chàng rể còn ở với họ?”. Ngài lại cho biết trước rằng tình hình sẽ thay đổi khi Ngài chịu nạn và chịu chết. Khi đó các môn đệ Ngài sẽ ăn chay để chuẩn bị đón ngày Ngài quang lâm (x. Cv 13,1-3).

Như vậy, vấn đề quan trọng không phải là ăn chay hay không ăn chay, mà là ý thức ý nghĩa của việc ăn chay. Sống trong giai đoạn nào thì phải theo tinh thần của giai đoạn đó. Nói cách cụ thể hơn, giai đoạn đang sống với Chúa Giêsu là thời kỳ mới cho nên phải sống theo tinh thần mới, tức là tinh thần vui mừng “Rượu mới thì bầu rượu cũng phải mới”.

B…. nẩy mầm.

  1. Cuộc đời của người kitô hữu tuy có những giai đoạn ăn chay sám hối, nhưng chủ yếu là vui mừng như đang dự tiệc cưới và được ở gần chàng rể. Thực vậy, được biết Chúa là một niềm vui, được theo Ngài là một niềm vui, được làm việc Ngài giao là một niềm vui. Ngay cả được vác thập giá Ngài trao cũng là một niềm vui, và khi ăn năn sám hối cũng vẫn vui vì biết mình sẽ được tha thứ. “Un saint triste est un triste saint” (một vị thánh buồn là một vị thánh “đáng chán”). Ta hãy nhớ lại hạnh các thánh các ngài không bao giờ tuyệt vọng, không bao giờ cằn nhằn, không bao giờ đòi vất bỏ Thánh giá Chúa trao…; trong lòng các ngài luôn có một niềm vui mà không ai, không gì và không hoàn cảnh nào dập tắt được…
  2. Vào Tuần Thánh 1980, Đài phát thanh Vienne nước Áo truyền đi một bài phỏng vấn vô cùng cảm động. Người được phỏng vấn là một nữ sinh viên đang nằm chờ cái chết đến từng ngày tại một bệnh viện ở thủ đô Áo quốc. Cô phát biểu “Sau khi bác sĩ chẩn đoán và cho biết tôi mắc chứng sưng bạch huyết, tôi có cảm tưởng như trời sập xuống trên tôi. Tuy nhiên tôi cũng cảm thấy như Chúa muốn gởi đến cho tôi một cơ may mới. Từ hai ba năm nay tôi đã bắt đầu có một cái nhìn mới. Tôi nhận ra trong đau khổ của riêng tôi cũng như của những người chung quanh phản ảnh chính nỗi đau khổ của Chúa Giêsu chịu đóng đinh và bị bỏ rơi trên thập giá. Tôi đã tìm cách yêu thích nỗi đau khổ ấy”.

 Chính vì muốn chấp nhận đau khổ mà cô gái đã ghi danh vào trường Y khoa. Nằm trên giường bệnh, biết mình không còn sống bao lâu nữa, vậy mà cô vẫn cầm trên tay một cuốn sách và cây viết. Cô giải thích “Không ai có thể nói cho tôi biết chắc 100 phần trăm là tôi sẽ không học xong hoặc tôi sẽ không bao giờ trở thành bác sĩ. Tuy nhiên vẫn luôn luôn có những phép lạ. Và riêng tôi, tôi xác tín rằng tôi phải thực thi ý Chúa nếu tôi muốn tiến tới. Đó là cách thế tôi chuẩn bị đón nhận cái chết, chuẩn bị đi vào thiên đàng. Tôi để Chúa làm việc hầu cho tất cả mọi việc trở thành tình yêu. Tất cả mọi sự, từ việc học hành của tôi cho đến những việc nhỏ mọn tôi làm cho người khác. Bởi vì tôi không làm được những việc quan trọng nữa.”

 Không khỏi ngạc nhiên trước những lời phát biểu trên đây, người phóng viên liền hỏi “Tôi đọc thấy trên gương mặt của cô niềm vui và hy vọng. Thế nhưng cô còn chờ đợi gì nơi cuộc sống này?”

 Cô gái mỉm cười nói “Tôi chờ đợi mọi sự từ cuộc sống. Nhưng trên hết mọi sự là tình yêu của Chúa. Chính Ngài đã cho tôi nếm thử thiên đàng. Chỉ có như thế tôi mới đương đầu được với những đau khổ đang đè nặng trên tôi”. (Trích “Món quà giáng sinh”)

  1. “Chúa Giêsu mượn hình ảnh chiếc áo, bầu rượu để nói lên thái độ dứt khoát của những ai muốn làm môn đệ Ngài… Không thể vừa theo Ngài vừa tiếp tục nhìn lại phía sau; không thể làm môn đệ Ngài mà vẫn sống tinh thần ngược lại với tinh thần Tin Mừng. “Hoặc tôi là môn đệ Đức Kitô, hoặc tôi không là gì hết” (Chúc thư của Dunan) (Trích “Mỗi ngày một tin vui”)
  2. “Chúa Giêsu trả lời chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay khi chàng rể còn ở với họ? Bao lâu chàng rể còn ở với họ, họ không thể ăn chay được” (Mc 2,19)

Các môn đệ đã đến và ở lại với Chúa Giêsu, tâm hồn và cuộc đời các ông tràn ngập niềm vui.

Bao lần tôi đã hát “Chúa chính là mùa xuân con mong chờ”, nhưng sống với Chúa đối với tôi có thực sự là niềm vui không?

Tôi thường nghĩ đến những lề luật phải tuân giữ, những nghĩa vụ tôn giáo phải làm như dự lễ Chúa nhựt, xưng tội… hơn là nghĩ đến sự hiện diện yêu thương của Chúa trong đời tôi. Tôi đã đánh mất đi niềm vui của ngày được Rước lễ lần đầu, được thêm sức, niềm tự hào của ngày tuyên xưng đức tin.

Lạy Chúa, xin cho con biết đến với Chúa và ở lại với Ngài, biết đưa tay ra đón nhận hạnh phúc Chúa ban cho con. (Epphata)

Suy Niệm 10: Ăn chay cầu nguyện cho đúng tinh thần

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Vâng! Đọc lại Kinh Thánh, chúng ta thấy ăn chay có một tầm quan trọng đối với người xưa. Ăn chay sám hối có thể làm xiêu lòng Thiên Chúa. Trường hợp của vua Đavid là một ví dụ: Sau khi phạm tội, nhờ ông biết hối lỗi, ăn chay sám hối mà Chúa đã tha cho ông; nhờ ăn chay đền tội mà Ninivê được Chúa tha thứ.

Trong Kinh Thánh Do Thái, chúng ta thấy người xứ Palestine ngày xưa ăn chay bằng cách nhịn ăn từ sáng cho đến chiều (Ge 3,7-8; 1Sm 14,24 ).

Trong cộng đồng Hồi Giáo, ngày nay người ta vẫn giữ chay bằng cách nhịn ăn, nhịn uống suốt từ rạng đông cho đến khi mặt trời lặn, cứ như thế trong suốt tháng Ramadan.

Còn người Phật Giáo thì ăn chay vào các ngày mùng một và rằm, bằng cách vẫn ăn no như thường, nhưng tuyệt đối không ăn thịt bất cứ con vật nào, chỉ ăn rau cỏ trái cây.

Với người Công giáo, trước thập niên 50, chúng ta vẫn còn giữ chay bằng cách không ăn gì từ nửa đêm hôm trước cho tới khi rước lễ. Hiện nay, chúng ta chỉ còn buộc ăn chay cùng với việc kiêng thịt mỗi năm có 2 lần theo quy định chung: thứ tư Lễ Tro và thứ sáu Tuần Thánh. Còn các ngày Thứ Sáu luật vẫn buộc kiêng thịt, nhưng nếu có nhu cầu chính đáng thì không buộc nhưng phải làm một việc đạo đức nào đó để thay thế. Như vậy, mỗi tôn giáo đều có một cách thức để ăn chay riêng.

Ngày nay, các nhà khoa học cũng kêu gọi ăn chay! Thật thế, mỗi khi bác sĩ muốn xét nghiệm máu để kiểm tra sức khỏe, họ buộc bệnh nhân phải nhịn ăn kiêng uống ít nhất là 4 giờ đồng hồ trước khi lấy một ít máu đem thử. Và người bệnh thì chấp nhận ngay, không một chút cật vấn phàn nàn.

 “Ăn chay nhà đạo” của chúng ta cũng thế, cũng có mục đích chữa trị và chăm lo sức khỏe phần hồn của mỗi Kitô hữu, nhưng nhất là để kéo chúng ta ra khỏi bản thân chúng ta, mà sẵn sàng chia sẻ cuộc sống của mình với người khác.

  1. Nhưng vấn đề ở đây là ăn chay lúc nào, với tinh thần nào? Rượu mới phải đổ vào bầu da mới.Trong bữa tiệc cưới, chẳng ai lại bắt người dự tiệc ăn chay.

Kinh sĩ Feuillet, nhà giảng thuyết thời vua Louis XIV nổi tiếng là người khá cộc cằn và không để ý lắm đến sự tế nhị.

Ngày kia, ngài nhìn hoàng thân, anh của vua ăn lót dạ. Vị hoàng thân này cảm thấy chột dạ, mới hỏi ngài:

– Thưa Cha, ăn một miếng bánh qui bơ (biscuit) có phá chay không?

 – Ngài cứ ăn hết một con bò, nếu ngài muốn, và hãy là một Kitô hữu tốt

Một hôm có 4 anh em đến thăm cha Pambô, họ khen nhau, ca tụng nhân đức của nhau:

– Thưa cha, anh này ăn chay dữ lắm, anh kia không dính bén của cải, người này có lòng bác ái, săn sóc giúp đỡ mọi người; còn người thứ 4 này trong 22 năm trời, lúc nào cũng sốt sắng vâng lời.

Cha Pambô bảo:

– Cha thực tình nói với các con: nhân đức của người thứ 4 trọn lành hơn, quí báu hơn, vì chúng con đều đã làm những việc đáng khen và nhân đức, nhưng vẫn còn đôi chút ý riêng trong đó; còn anh thứ tư đã hoàn toàn sống cho Chúa, không sống gì cho mình nữa, cũng vì thế mà sự nghịệp của anh lớn lao hơn.

Khi nằm trên giường chết, thánh Phanxicô nói câu này: sau khi người ta đã qua đời được 15 phút, tính theo ý riêng mới mất.

Ta nghiệm xét thì cũng thấy rằng: trong một gia đình, cũng như trong một xứ, địa phận, một nước; nếu có sự gì đáng tiếc xảy ra, phần nhiều là do thiếu vâng lời, tùng phục.

Đang hoạt động truyền giáo rất kết quả ở Á châu, từng tỉnh, từng nước trở lại và tương lai rất hứa hẹn; nhưng thánh Phanxicô đã nói câu này: nếu thánh Ignatiô, bề trên cha dạy phải bỏ tất cả để trở về Âu châu, thì cha sẽ xuống tàu về ngay.

Hai người biệt phái và thu thuế lên Đền thờ cầu nguyện. Người biệt phái “khoe” với Chúa là ông ăn chay mỗi tuần tới hai lần. Còn người thu thuế chỉ cúi đầu xuống thành khẩn xin Chúa tha thứ. Chúa khen ai thì hẳn mỗi người chúng ta đều nhớ.

Như vậy, ăn chay đâu phải chỉ là mặc áo nhặm, đánh tội, đeo xiềng xích, ăn cơm với tro, nằm đất, nhịn ăn nhịn uống mà còn phải là biết dấn thân chia sẻ với người nghèo, biết sống tha thứ nhịn nhục, sống khoan dung với những người không làm vừa ý mình, sống can đảm, sống xứng đáng với ơn gọi của một người theo Chúa dù có phải trải qua những thử thách hay gian nan khốn khó.

Hơn nữa sống tha thứ, sống từ bỏ ý riêng, sống khoan dung, cách sống như trên nhiều khi còn khó hơn là nhịn ăn một vài bữa; thông cảm và chia sẻ với người nghèo, người yếu đuối nhiều khi còn khó hơn cả đánh tội. Chúa Giêsu cũng như Hội Thánh mời gọi chúng ta đi vào con đường ăn chay đó.

Lạy Chúa, xin tha thứ tội lỗi cho chúng con. Amen.

Sống chay tịnh  

Ghi nhớ:

“Đức Giê-su trả lời: Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ? Bao lâu chàng rể còn ở với họ, họ không thể ăn chay được.”(Mc 2, 19) .

 Suy niệm:

Một gia đình nọ có thói quen tốt lành là luôn giữ chay vào mọi ngày thứ sáu trong tuần, nhưng hôm nay họ không giữ chay được bởi lẽ gia đình họ có khách, mà những vị khách đó lại là bố mẹ của gia chủ ở dưới quê lâu rồi mới lên thăm con. Vì thế chủ nhà đã đi chợ mua những món ăn mà bố mẹ thích để đãi tiệc các ngài. Bữa tiệc rất vui vẻ và hai vị khách hài lòng vì thịnh tình mà con cái đã dành cho mình được thể hiện qua các món ăn!

 Tôn giáo nào cũng khuyến khích tín đồ mình nên ăn chay, ăn chay có nghĩa là giữ miệng ăn ít hoặc không ăn gì hết trong ngày hay kiêng không ăn thịt động vật có máu. Đạo Hồi họ có nguyên cả một tháng phải giữ chay gọi là tháng Ramadan, trong những ngày này họ phải nhịn ăn và uống cả một ngày dài, và họ chỉ được ăn hai bữa vào lúc ban đêm. Một bữa gọi là Suhoor ăn vào trước khi mặt trời mọc và một bữa còn lại gọi là Iftar ăn vào lúc hoàng hôn.

Trong Đạo Do Thái ngày xưa người ta quan trọng hoá việc giữ chay và xem việc làm đó như một thứ thước đo để đánh giá tấm lòng đạo đức của mỗi người, vì thế họ luôn đề cao và phô trương việc ăn chay, thái độ đó được bộc lộ qua lời cầu nguyện của người Pha-ri-sêu: “Lạy Chúa, con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc 18, 12), nhưng Đức Giê-su đến Ngài muốn thay đổi não trạng vụ hình thức của những người lãnh đạo tôn giáo thời ấy cũng như dân chúng. Đức Giê-su nhấn mạnh đến tấm lòng của con ngươi hơn là sự trình diễn hình thức: “Khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng làm ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay. Con anh em khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải dầu thơm, để không ai biết là anh em ăn chay ngoại trừ Cha của anh em Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh em” (Mt 6, 16-18).

Đoạn Tin Mừng hôm nay tường thuật lại sự việc các môn đệ của ông Gio-an và những Pha-ri-sêu đến chất vấn Đức Giê-su rằng: “Tại sao các môn đệ ông Gio-an và các người Pha-ri-sêu ăn chay, mà môn đệ của ông lại không ăn chay?” Đức Giê-su trả lời: “Chẳng lẽ khác dự tiệc cưới lại có thể ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ? Bao lâu chàng rể còn ở với họ , họ không thể ăn chay được”.

Khi Đức Giê-su còn đang hiện diện giữa các môn đệ, thì Ngài như một chàng rể từ trời xuống thế gian để đem yêu thương, đem Tin Mừng cứu độ, như thế mọi người phải hân hoan vui mừng, đó là điều chính đáng, hợp thời, Rồi sẽ có ngày chàng rể, tức là Đức Giê-su bị đem đi thì lúc đó việc giữ chay mới cần thiết và có ý nghĩa.

Ngay nay đối với chúng ta việc giữ chay có hai ý nghĩa chính. Thứ nhất bày tỏ lòng vâng lời Giáo Hội và kính mến Thiên Chúa. Thứ hai là hy sinh hãm mình, sống khó nghèo, bác ái; nhằm tu tập các nhân đức, hầu sống xứng đáng làm con Chúa.

Giữ chay không chỉ đơn thuần trong việc kiêng ăn, bớt uống mà nó còn được thể hiện qua việc tiết chế lời ăn tiếng nói. Thí dụ như: lòng đang bực tức điều gì đó, hay người nào đó, lúc này theo tính tự nhiên ta chỉ muôn chửi bới cho hả cơn giận, nhưng để sống tinh thần chay tịnh, chúng ta giữ im lặng hoặc có nói thì cũng là nói những điều tốt đẹp mà thôi, hay thay vì chi tiêu thoải mái theo sở thích thì nên tiết kiệm lại dùng số tiện đó dành cho người nghèo khó…

Nếu giữ chay thường xuyên mà tâm hồn còn tham lam, còn sãn sàng ăn thua đủ với anh em, hay còn giận hờn, còn khinh chê, nói hành nói xấu anh em mọi thì thiết nghĩ  việc giữ chay sẽ chẳng mang lại lợi ích gì!

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Cha, Ngài đã cho Con Một đến thế gian đem niềm vui, đem Tin Mừng cho chúng con. Xin cho chúng con cũng biết đem niềm vui và Tin Mừng đến cho mọi người bằng việc dùng những ngôn từ chân thành và yêu thương, xin cho chúng con luôn biết khiêm tốn và âm thầm làm việc thiện, tránh thói háo danh và ta đây để Lời Chúa được thi hành cách triệt để nơi chúng con. Chúng con cầu xin nhờ Danh Chúa Giê-su Ky tô, Chúa chúng con. Amen.

Sống Lời Chúa:

Cố gắng giữ chay ngày thứ sáu và luôn hãm mình, hy sinh để làm việc tông đồ bác ái.

Đaminh. Trần Văn Chính.

Chay tịnh tâm hồn

“Chàng rể còn ở với họ.”

Ăn chay, cầu nguyện và bố thí là ba sinh hoạt chính trong đời sống đạo đức của Do-thái giáo. Họ có một cuộc “đại chay” bắt buộc nhân ngày lễ xá tội, đồng thời họ cũng có những cuộc chay tịnh khác mang tính cách tập thể, chẳng hạn vào các ngày đất nước gặp hoạn nạn. Ngoài ra, những người đạo đức còn ăn chay vì lòng sốt sắng, như các môn đệ của Gioan Tẩy Giả và những người Pha-ri-sêu, họ thường ăn chay mỗi tuần hai lần. Nhìn chung, ăn chay đối với Do-thái giáo bao gồm ba ý nghĩa chính:

Để tỏ lòng sám hối và xin ơn.

Đợi chờ Đấng Cứu Thế đến giải phóng dân khỏi ách đô hộ ngoại bang.

Lòng đạo đức.

Từ đây chúng ta có thể hiểu về bài Tin Mừng hôm nay. Khi đi theo trình tự thời gian, bối cảnh lúc đó không phải là dịp xá tội để người ta giữ chay theo mùa; đây cũng không phải sự thắc mắc về Đấng Cứu Độ đã đến hay chưa, vì chính ông Gioan Tẩy Giả (và cả các môn đệ của ông) đã tin Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. Những người thắc mắc về việc ăn chay là họ ăn chay bởi sự nhiệt thành đạo đức. Bởi vì, ngay trong câu hỏi của họ: “Tại sao các môn đệ ông Gioan và các môn đệ người Pha-ri-sêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?” Thế nhưng, câu hỏi này không nhằm ngụ ý trách móc, mà nhằm ngụ ý khoe khoang: “Môn đệ ông không giống chúng tôi gì hết, chúng tôi ăn chay tuần 2 lần, chúng tôi sống khắc khổ lắm, quần áo chúng tôi xốc xếch, đầu tóc chúng tôi rối nùi…” Ngụ ý sâu xa của họ là “chúng tôi đạo đức thánh thiện lắm đấy!”

Chúa Giêsu đã cho họ biết tại sao môn đệ của Ngài không ăn chay. Trong câu trả lời của mình: “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ?”, Chúa Giêsu đã ví các mộn đệ của Ngài như bạn thân của cô dâu và chú rể được mời đến chia sẻ niềm vui với họ. Vì vậy họ không thể và càng không được phép ăn chay vì đang chung vui với cô dâu chú rể. Chúa Giêsu là chú rể, và khi Chúa còn hiện diện với các môn đệ, thì đó đang là thời gian của sự vui mừng.

Bên cạnh đó, Ngài còn lấy ví dụ về “miếng vải mới không thể vá vào áo cũ”, nghĩa là Ngài lên án việc người Do-thái muốn dùng cái đạo đức của mình để áp đặt cho người khác, họ muốn dùng cái bình luật cũ để đổ rượu giao ước mới vào. Đó là những người hay xét đoán người khác, bắt người khác làm theo ý của mình, bắt người khác phải giống như họ, tạo ra một khuôn mẫu để bắt người khác phải chiều theo ý mình.

Với lối nói so sánh bằng hình ảnh, Chúa Giêsu muốn mời gọi chúng ta cần có một tư tưởng mới, một cái nhìn cởi mở thì mới hiểu được những việc Chúa làm, hiểu được những giá trị của Tin Mừng. Có thể nói đây là một cuộc cải cách lề luật giúp người ta không bị héo mòn trong mớ luật nặng nề để vươn lên tầm cao mới của tình yêu mến. Nếu chỉ giữ lề luật mà trong lòng còn chất chứa sự hận thù ghen ghét, đối xử bất công với người khác thì việc ăn chay cũng chỉ là thái độ giả hình.

Trong cuộc sống, không phải cái gì cũ cũng là xấu, trái lại kỷ niệm xưa thì đáng trân trọng, bạn cũ thì thân tình, đồ cổ thì quý. Trái lại cũng có trang vở mới tinh khôi, thanh khiết, có con đường mới thẳng tắp, chiếc cầu mới nối liền nhịp sống hai bên bờ sông… Đó là cái mới đáng trân trọng được xây nền tảng cái cũ, được chắt lọc từ tinh túy của cái cũ. Chúa Giêsu đã đến không phải để phá bỏ cái cũ nhưng kiện toàn và khoác lên đó một tinh thần mới, tinh thần khiêm tốn phục vụ và yêu thương trọn vẹn.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa dạy chúng con phải biết hãm mình để chiến đấu chống lại chước ma quỷ cám dỗ, xin cho chúng con luôn ý thức rằng việc ăn chay hãm mình trở thành phương thế đền tội và có công phúc trước mặt Chúa không hệ tại ở số lượng hay được ghi nhận từ người đời, mà là xuất phát từ tấm lòng chân thành cùng với tâm tình riêng tư giữa chúng con với Chúa. Amen.

Joston

Niềm vui khi Chúa ở cùng

Trong Tin Mừng hôm nay, thánh sử Máccô cho chúng ta biết rằng, các môn đệ của ông Gioan và những môn đệ người Pharisêu đang ăn chay theo như luật của cha ông để lại, nhưng các môn đệ của Chúa Giêsu lại không ăn chay. Điều đó làm cho nhiều người thấy kì lạ nên đã đến thưa với Ngài rằng: “Tại sao các môn đệ ông Gioan và các môn đệ người Pharisêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?”

Ắt hẳn, tất cả những người Do Thái thời đó không xa lạ gì với việc ăn chay, cũng như chúng ta ngày nay đều không xa lạ về việc sám hối và giữ chay trong Mùa Chay.

Mục đích của việc sám hối và ăn chay là giúp con người gần gũi hơn với Thiên Chúa và qua đó, con người có cơ hội bày tỏ tình yêu thương của mình đối với Ngài.

Vì thế, để trả lời cho những người đang vướng mắc, cũng như để cho họ dễ hiểu hơn, Chúa Giêsu đã không trả lời trực tiếp, nhưng Ngài đã ví mình như chàng rể trong ngày vui tiệc cưới và mọi khách dự tiệc không thể không vui khi còn có sự hiện diện của chàng rể trong ngày cưới: “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ?” Và Ngài còn khẳng định thêm rằng: “Bao lâu chàng rể còn ở với họ, họ không thể ăn chay được. Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi khỏi họ, bấy giờ họ mới ăn chay trong ngày đó.”

Chắc chắn rồi, khi có sự hiện diện của chàng rể, khách mời không thể không vui với chàng rể. Khi chàng rể đang ở với họ, thì họ không phải tuân theo một quy tắc bó buộc nào mà chối bỏ sự mừng vui nơi bữa tiệc được.

Đọc Tin Mừng, chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp Chúa Giêsu là một người yêu đời và biết cách tận hưởng cuộc sống. Trong các dụ ngôn Ngài dạy về Nước Trời, Ngài thường ví Nước Trời như những bữa tiệc cưới, nơi đó có đầy niềm vui và bình an, hơn là những quy tắc hay luật lệ.

Thật tiếc là chúng ta thường giống như những người Pharisêu, hay có xu hướng đơn giản hóa niềm tin của mình thành một loạt các quy tắc và phong tục xã giao. Vì thế, chúng ta khó nhận ra Một Thiên Chúa rất gần gũi và yêu đời được thể hiện rõ nơi Đức Giêsu.

Chúng ta hãy nhận ra điều này, khi đối diện với Thiên Chúa đầy tình thương. Chúa Giêsu đo lường sức mạnh đức tin và lòng mến của chúng ta, chứ không phải là việc chúng ta cứ tuân theo luật lệ theo mặt chữ mà thiếu đi tinh thần của luật, tức là đức Ái. Amen.

Bình Minh

Ăn chay

Ăn chay thông thường là ăn lạt. Kiêng các đồ ăn từ động vật. Chỉ ăn thực vật.

Theo chay tịnh với ý nghĩa sâu xa thì giữ Chay để tu tâm dưỡng tính của con người. Giảm bớt lòng tham, giảm bớt bản ngã; giảm bớt mê ăn uống những món ngon vật lạ, giảm bớt thoả mãn, sống khiêm nhường, tu dưỡng yêu thương, hoàn thiện chính mình.

Mục đích của việc ăn chay là làm cho bản thân kiên định trung thành với lý tưởng theo Chúa, sẵn sàng chấp nhận mọi khổ đau vác thánh giá của mình và dẹp bỏ tính kiêu căng của bản thân.

Hôm nay các môn đệ của ông Gioan lại tranh luận với Chúa Giêsu về việc ăn chay. Tại sao như vậy? Chúng ta tìm hiểu sơ qua việc ăn chay thời bấy giờ để có thể hiểu ý Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay.

Theo sách Lv 16, 19-31 thì luật cũ chỉ buộc ăn chay mỗi năm một lần vào ngày đền tội. Đến thời Chúa Giêsu, ngoài việc giữ chay mỗi năm một lần, thì những người đạo đức hay nhóm Pharisêu họ còn giữ chay riêng một tuần hai lần.

Như vậy, các môn đệ của ông Gioan tranh luận về việc giữ chay riêng chứ không phải chay theo luật buộc. Chúa Giêsu cũng công nhận việc ăn chay là một việc làm tốt đẹp. Trước khi đi rao giảng Chúa Giêsu cũng đã ăn chay suốt 40 đêm ngày và chịu cám dỗ của ma quỷ.

Tuy nhiên, Chúa Giêsu muốn nói đến mục đích của người Do Thái xưa ăn chay là để chờ đón Đấng Mêsia. Đấng Thiên Sai là Đức Giêsu. Việc họ ăn chay là tốt, nhưng Chúa muốn họ nhận ra còn một điều tốt hơn: Đó là nhận biết Chúa Giêsu Nazazet, chính là Đấng Mêsia đang đến trong trần gian.

Chúa Giêsu đưa ra một hình ảnh rất đời thường đó là tiệc cưới và chú rể để nói về Nước Trời và bản thân Người. Trong tiệc cưới, chú rể và cô dâu luôn là vai chính, mọi niềm vui, vinh dự và những lời chúc tụng đều hướng về chú rể và cô dâu. Tiệc cưới mà Chúa nói đến là Tiệc trên Nước Trời, chàng rể chính là Chúa Giêsu, các Tông đồ còn đang ở bên Chúa Giêsu thì không cần phải ăn chay riêng, các ông đang tận hưởng niềm vui bên Chúa. Các Tông đồ đã nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Mêsia. Đến một ngày chàng rể là Chúa Giêsu sẽ chịu chết và về trời, thì lúc đó các Tông đồ sẽ phải ăn chay. Chúa cũng muốn nói về cái chết của Người đến bất thình lình.

Khi Chúa Giêsu về trời, các Tông đồ còn lại nơi trần thế, lúc này các ông cần phải ăn chay để tâm hồn luôn hướng về Chúa trên trời, phải luôn cố gắng thanh tẩy và canh tân chính bản thân để trở nên xứng đáng hơn. “Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi rồi, bấy giờ họ mới ăn chay”. Trên con đường lữ thứ trần gian tiến về tiệc cưới trên trời còn rất xa, rất nhiều trông gai thử thách, rất nhiều cám dỗ đam mê, nên chúng ta cần phải ăn chay nhiều hơn nữa để ơn Chúa luôn ở cùng chúng ta. Chính Chúa Giêsu cũng nhờ vào việc ăn chay 40 ngày đêm để vượt thắng 3 cơn cám dỗ. Như vậy, không phải chúng ta ăn chay theo luật buộc mà thôi, mà còn phải ăn chay từng ngày trong cuộc đời. Cho đến một ngày chúng ta cùng chết với Người và cùng sống lại với Người.

Việc ăn chay của những môn đệ của ông Gioan và người biệt phái khác với các tông đồ của Chúa Giêsu, là do sự nhận biết của họ về Chúa Giêsu giống như người thường, từ đó họ thấy sự khác biệt. Chúa Giêsu đã giải thích cho họ biết về Chúa như một Người trọng tâm của niềm vui sự sống trong Nước Trời được diễn tả như một tiệc cưới trần gian. Nếu họ nhận biết Chúa Giêsu là chàng rể trong Nước Trời, họ sẽ nhận ra những điều Chúa Giêsu đang làm là canh tân lại bộ mặt trái đất và những luật lệ của họ. Và như vậy việc ăn chay của họ sẽ trở nên một như việc không ăn chay của các tông đồ.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết noi gương Mẹ Maria chay tịnh từng ngày, để tận hiến cho Thiên Chúa tư tưởng, lời nói và việc làm của con, chay tịnh cả linh hồn cả thân xác, để con hằng ngày theo Mẹ nói lời Xin Vâng trong cuộc hành trình vác thập giá đời con.

Xin cho con luôn biết hợp nhất sự khác biệt của con với mọi người theo thánh ý của Chúa, và xin cho mọi người trong thế giới hôm biến động hôm nay được hiệp nhất trong cùng một Tình Yêu Thiên Chúa. Amen./.

Hư Vô

Không có Ki-tô hữu buồn

“Tân lang còn ở với họ” (Mc 2, 19).

Có rất nhiều người cho rằng Đạo Công Giáo tôn thờ một con người đã chết trên Thập Giá, là đạo của tang thương mất mát, đạo của sự chết chóc ly biệt, đạo của thất bại ê chề…

Họ không biết rằng, chính thập giá bi thương kia là ơn cứu rỗi nhân loại, chính cái chết trên thập giá kia mở ra cho tất cả con người ơn khoan dung tha thứ, và ơn được sống đời đời. Mỗi ngày, ai cũng muốn chọn một niềm vui. Nhưng Ki-tô hữu chọn một đau khổ làm niềm vui. Bởi trong tâm hồn của Ki-tô hữu, người tin và sống với Chúa Ki-tô, thì không có niềm vui nào mà không đánh đổi bằng đau khổ, không có vinh quang nào mà không qua thập giá.

Tân lang còn ở với họ. Chúa Giê- su còn đang sống trong chúng ta. Không có chuyện yếm thế, bi quan, thất vọng. Trong Người, chỉ có bình an và hạnh phúc. Bởi vì, được nhận biết Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa là niềm vui khôn cùng, là hạnh phúc vô đối. Và không có bút nào tả nổi, không có phép sánh ví nào cho cân xứng với niềm vui và hạnh phúc khi được sống trong Người, sống bằng chính sức sống thần linh của Người.

Chính Người là quà tặng Tin Mừng của Thiên Chúa gửi đến cho toàn nhân loại. Cũng chính Người tái thiết con đường từ trời xuống đất và từ đất lên trời bằng nguồn đạo yêu thương, khoan dung, tha thứ, hiến thân cho đời. Bởi thế, tất cả những người đã tin nhận và sống sức sống của Chúa Giê-su phải là người luôn sống trong niềm vui, trong niềm hy vọng, trong bình an thật, hạnh phúc thật. Và cũng bởi thế, ai đã nói mình tin vào Chúa Giê-su mà còn sống trong âu sầu, buồn bã, chán nản, thất vọng…ấy là dấu cho biết chưa thực tin vào Người. Chúa muốn chúng ta luôn sống vui, vì có Chúa.

Lạy Chúa, Chúa chính là mùa xuân vĩnh hằng , xin cho chúng con luôn vui mừng sống trong Chúa, vì “ Tâm hồn nào có Chúa, đó chính là mùa xuân”, để chúng con luôn hân hoan làm chứng cho Tin Mừng Yêu Thương của Chúa. Amen.

Nhóm người bước theo Đức Giêsu

Trình thuật này gồm hai phần liên kết với nhau : tranh luận về việc ăn chay (cc. 18-20), và hai dụ ngôn nhỏ (cc. 21-22).

Về việc ăn chay :

–         Thời Đức Giêsu, ăn chay là một thực hành tôn giáo rất phổ biến. Ăn chay từ lâu mang ý nghĩa chuẩn bị gặp gỡ Thiên Chúa : như ông Môsê trên núi Sinai trong Xh 34,28.

–         Môn đệ ông Gioan Tẩy giả và người Pharisêu ăn chay nhằm mục đích chuẩn bị đón nhận ơn cứu độ trong ngày Chúa đến. Họ ăn chay để tỏ lòng hối cải.

Đức Giêsu biện minh cho các môn đệ của Ngài không ăn chay là “chàng rể còn ở với họ” (c. 19). Như vậy, Đức Giêsu tự cho mình là chàng rể.

–         Trong Cựu ước, giao ước Thiên Chúa lập với dân Người được ví như lễ cưới và Thiên Chúa là chàng rể của dân Israel (x. Hs 2 ; Is 54, 4-6 ; Gr 2,2 ;……)

–         Đức Giêsu là chàng rể trong bữa tiệc như Is 25, 6-9 đã loan báo. Ngài là Đấng Mêsia đang có mặt giữa khách dự tiệc cưới. Vì thế, các môn đệ của Ngài không ăn chay, nhưng sẽ tới ngày chàng rể (Đức Giêsu) bị đem đi, tức là bị giết, các môn đệ mới ăn chay. Và các ông ăn chay là để chờ đợi ngày chàng rể trở lại (x. Cv 14,1-3).

–         Nhân cơ hội này, Đức Giêsu kể hai dụ ngôn nhỏ để nói về thời đại mới của Ngài : “rượu mới, bình mới”. Như thế, Đức Giêsu không chấp nhận “vải mới, áo cũ”.  Đức Giêsu cho môn đệ Gioan và người Pharisêu biết, không những vấn đề ăn chay mà tất cả những lời Ngài giảng dạy là đạo lý mới, nó thuộc về thời Tân ước. Nhưng muốn đón nhận đạo lý đó, cần phải có tinh thần mới.

Đức Giêsu muốn nói với chúng ta: “mới” và “cũ” đối chọi hoàn toàn với nhau. Đọc kỹ ta sẽ nhận ra được sức mạnh của “mới”. “Mới” có sức trẻ, năng động và có thể vượt qua “cũ” cách dễ dàng. “Mới” không thể hợp được với “cũ”. Trong ý nghĩa Thần Học, ta nói về hình ảnh năng động của vương triều Thiên Chúa, và hình ảnh của Giáo Hội, cộng đoàn mới của Thiên Chúa. Ta sẽ phải vượt ra khỏi “cuốn sách suy tư cũ rích”, vượt khỏi cách sống cũ kỹ, để với cái nhìn mới, suy tư về vương quốc của Thiên Chúa, về Giáo Hội của Ngài; và với con tim mới, xây dựng một đời sống mới trong vương quốc, trong Giáo Hội này. Vâng, nhóm người bước theo Đức Giêsu đâu có thể là nhóm học trò của Pharisêu được.

Lời Chúa hôm nay chất vấn tôi :

 Tôi đang sống trong tình yêu của Chúa và được Chúa ở với qua Thánh Thể tôi đón nhận hằng ngày, vậy cuộc sống của tôi có thực sự luôn là một niềm vui và làm cho niềm vui đó lan toả không?

Tôi có luôn nghĩ đến sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa trong cuộc sống của tôi để tôi sống và làm việc với lòng mến, hay là tôi luôn nghĩ đến những lề luật phải giữ, những nghĩa vụ phải làm như tham dự Thánh Lễ, chầu Thánh Thể, đọc kinh, viếng Chúa, xét mình…. một cách nặng nề không?

Tôi có luôn nhìn vào thực tế để sống theo sự thật, hay là sống theo thành kiến và những nguyên tắc cứng nhắc để rồi xét đoán, chỉ trích anh em tôi khi lối sống của họ xem ra khác tôi hoặc không như ý tôi không?

Lạy Chúa, xin cho con ý thức sự hiện diện của Chúa, để con vui sống trong Chúa và vì Chúa. Xin Chúa cảm hoá con, để mỗi lời con nói, mỗi việc con làm đem lại niềm vui và sự hài lòng cho Ngài và cho mọi người. Amen.

Sống tinh thần mới

  1. Ghi nhớ:

Đức Giêsu trả lời: “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ? Bao lâu chàng rể còn ở với họ, họ không thể ăn chay được. Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi, bấy giờ họ mới ăn chay trong ngày đó. Chẳng ai lấy vải mới mà vá áo cũ, vì như vậy, miếng mới đã vá vào sẽ kéo vải cũ, khiến chỗ rách lại càng rách thêm. Cũng như không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy rượu sẽ làm nứt bầu, thế là rượu cũng mất mà bầu cũng hư. Nhưng rượu mới thì phải bầu mới.” (Mc 2,19-22).                 

  1. Suy niệm:

Đối với người phương đông, hôn lễ là một thời gian đặc biệt chan chứa niềm vui. Những người khách dự tiệc cưới, là những người đem niềm vui cho đôi tân hôn.  Hôn lễ mà thánh Mác-cô nhắc đến chính là thời cứu độ mang lại niềm vui cho con người, trong thời đó Thiên Chúa hứa ban hạnh phúc cho chúng ta và khai mạc thời mới đó, tỏa ra niềm vui ơn cứu độ cho mọi người. Thời giữa cái chết của Chúa Giêsu và tận thế được coi là thời tang chế, thời ăn chay. Với hai dụ ngôn cho thấy: thời mới, thời cánh chung, có những định luật mới. Đức Giêsu đem vào thế giới một sự thay đổi mới trong con người.

Tin Mừng không thể đi đôi với những gì thuộc về quá khứ, vải cũ, bầu rượu cũ chỉ là những thực hành cũ kỹ của người Do thái. Do đó với thông điệp của Chúa Giêsu, người rao giảng Tin Mừng phải là cuộc tiến hóa, hay một sự khai triển những khởi điểm mới. Bài Tin Mừng hôm nay trình bày đối lập giữa cũ và mới, cho thấy hình ảnh chú rể hân hoan trong ngày cưới, ngay cả mọi người dòng họ, bạn bè, thân quen cũng vui mừng vì “chẳng có khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay”. Và câu trả lời của Chúa Giêsu về việc chay tịnh là không làm mất đi niềm vui nhưng lại là sống một tinh thần mới không bị gò bó lề luật. Qua hình ảnh chú rể là Chúa Giêsu, bữa tiệc cưới là ơn cứu độ, qua đó con người biết sống Tin Mừng trong tinh thần mới.

Đồng thời Chúa Giêsu ngài đã dùng hình ảnh  hai dụ ngôn: “Chẳng ai lấy vải mới mà vá áo cũ” hay “Cũng như không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ” với ngụ ý Tin Mừng cứu độ của Thiên Chúa đem đến, hầu mong mọi người đón nhận trong hân hoan vui mừng, trong một tinh thần canh tân đổi mới trong tâm hồn để biết từ bỏ lánh xa tội lỗi đang vấp phạm. Sống Tin Mừng của Chúa, mỗi người phải đón nhận trong sự thành tâm sám hối, một tinh thần biết thay đổi tận từ gốc rễ của những lầm lỗi quyết tâm trở về bằng sự yêu thương, sống chan hòa trong tình huynh đệ, sự khiêm tốn, sám hối thật sự trong tinh thần Tin Mừng của Thiên Chúa.

  1. Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu! Xin giúp chúng con biết nhận ra Tin Mừng của Chúa, để biết biến đổi đời mình thành chiếc áo mới, hay bầu da mới, từ bỏ những cũ kỹ của chính mình, để trở thành môn đệ biết loan báo Tin Mừng đến mọi người chung quanh. Amen.

M.Liên

Sống khổ chế

  1. Ghi nhớ:

Bấy giờ các môn đệ ông Gio-an và các người Pha-ri-siêu đang ăn chay, có người đến hỏi Chúa Giêsu: “Tại sao các môn đệ ông Gio-an và các môn đệ người Pha-ri-siêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?” (Mc 2,18)

  1. Suy niệm:

Ăn chay đúng là khổ chế có mục đích, người Do Thái ăn chay để ăn năn hay xin ơn tha thứ, hoặc xin một ơn theo ý nguyện mình, như thế ăn chay theo họ có thể đúng theo vẻ bên ngoài, nhưng Chúa đã cảnh báo cho mọi người như sau: “ Còn khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay. Thày bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi” (Mt 6,16).  Mục đích ăn chay của Thiên Chúa là Ngài không hủy bỏ nhưng là để kiện toàn.

Nói chung khi chúng ta làm bất cứ việc gì đều có mục đích, chứ không theo ngẫu hứng, đua đòi theo mọi người, người ta làm gì ta cũng họ làm như vậy. Thế nên họ mới hỏi Chúa Giêsu “ Tại sao các môn đệ ông Gio-an và các môn đệ người Pha-ri-siêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay”. Thiên Chúa luôn mời gọi chúng ta sống hài hòa giữa việc ăn chay và cách sống của họ với tha nhân nhất là những người nghèo khó hay gặp hoạn nạn khổ đau không nơi nương tựa hoặc cảnh màn trời chiếu đất.

Ngày nay người ta ăn chay là sống khổ chế bằng cách tiết kiệm tiền bạc để dành cho giúp đỡ cho người nghèo. Công việc bác ái đó được xây dựng từ rất nhiều người xung quanh ta, như  một cơ sở nhân ái ở Đồng nai (do chính một Gia đình Kitô hữu đã sống khó nghèo để dùng tiền nuôi các người tâm thần hay người vô gia cư) hay nhà Bác Ái Vĩnh Lộc đã nuôi các cụ già neo đơn bằng chính những sự đóng góp các đoàn viên Đa Minh và mọi người.

Như thế Thiên Chúa mang việc ăn chay thành ý nghĩa mới đồng thời ta được mời gọi ra đi trong sự biết ơn Đấng ban ơn huệ cho ta.

 “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ

Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” ( Tv 136)

Qua bài Tin Mừng hôm nay, mỗi người ta hãy tự vấn lại mình, tôi có sống bác ái, công bình chưa? Hay ta có thật sự yêu thương những người anh em của mình không? Hay ta còn nhắm mắt làm ngơ trước những khổ đau của mọi người đang cần bàn tay nâng đỡ của ta.

  1. Sống lời Chúa:

Hãy lắng nghe sự hướng dẫn của Cha Thánh Thần giúp ta nhận ra mọi sai lầm trong cuộc sống. Để Ngài đồng hành hướng dẫn ta trong cách sống, qua lời cầu nguyện thống hối của chúng ta.

  1. Cầu nguyện: Lạy Chúa ! Nguyện xin Chúa cho con luôn biết thấu hiểu và xác tín rằng cách sống đạo là cốt lõi của người Kitô hữu chính là mến Chúa và yêu người. Amen.

M.Liên

So sánh

“Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ?” (Mc 2,19b).

Suy niệm: Việc các môn đệ của Gio-an Tẩy giả và của phái Pha-ri-sêu ăn chay, trong khi môn đệ của Thầy Giê-su lại không khiến có người thấy “chướng mắt”. Phải chăng những người này đã khéo “lựa lời” hỏi tại sao trò không giữ luật Mô-sê để gián tiếp “sửa lưng” Thầy đã dung túng cho trò vi phạm? Đã thế, người hỏi còn ngầm so sánh cho rằng môn đệ của Gio-an Tẩy giả cũng như của người Pha-ri-sêu mới đích thực trung thành với luật cha ông! Một câu hỏi với nhiều hàm ý! Chúa Giê-su minh hoạ câu trả lời của Ngài bằng nhiều ví dụ: vải mới mà vá vào áo cũ, rượu mới mà đổ vào bầu da cũ là không phù hợp. Cũng thế, xét bề ngoài, ăn chay là giống nhau, nhưng ăn chay vì ai, vì cái gì thì rất khác biệt. Môn đệ của Thầy Giê-su ăn chay hay không là vì “chàng rể”, là vì chính Ngài, là Đấng Ki-tô.

Mời Bạn: Một việc làm có giá trị trước mặt Chúa hay không là tuỳ ở ý hướng, ở tấm lòng của chúng ta đối với Ngài. Nếu chỉ chăm chăm lo giữ chay mà không có lòng nhân ái thì chay tịnh cũng vô ích, ăn chay mà không cầu nguyện thì cũng không đủ… Nếu chỉ tính đếm đọc bao nhiêu kinh, dự bao nhiêu lễ mà không có lòng yêu mến thì cũng chỉ như “tiếng phèng la inh ỏi” mà thôi (x. 1Cr 13,1).

Sống Lời Chúa: Ăn chay trong khiêm tốn, trong phục vụ và trong yêu thương.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa cho con một đôi mắt để quan sát, một trí óc để phán đoán. Xin cho con phán đoán sự việc bằng một trái tim biết yêu thương để con trở thành người môn đệ luôn khát khao phục vụ người nghèo như Chúa. Amen.

THỨ BA TUẦN 2 THƯỜNG NIÊN

LỜI CHÚA: Mc 2, 23-28

Vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu đi qua đồng lúa, môn đệ Người vừa đi vừa bứt lúa. Tức thì những người biệt phái thưa Người rằng: “Kìa Thầy xem. Tại sao ngày Sabbat người ta làm điều không được phép như vậy?”

Người trả lời rằng: “Các ông chưa bao giờ đọc thấy điều mà Ðavít đã làm khi ngài và các cận vệ phải túng cực và bị đói ư? Người đã vào nhà Chúa thời thượng tế Abiata thế nào, và đã ăn bánh dâng trên bàn thờ mà chỉ mình thượng tế được ăn, và đã cho cả các cận vệ cùng ăn thế nào?”

Và Người bảo họ rằng: “Ngày Sabbat làm ra vì loài người, chứ không phải loài người vì ngày Sabbat; cho nên Con Người cũng làm chủ cả ngày Sabbat”.

Suy Niệm 1: Con Người làm chủ ngày sabát

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Các kitô hữu gốc Do Thái của Giáo Hội sơ khai

thường bị chê trách vì đã lơ là trễ nải trong việc giữ ngày sabát.

Giữ ngày sabát là điều hết sức quan trọng đối với người theo Do Thái giáo

Ai vi phạm ngày này có thể bị xử tử (Xh 31, 14), bị ném đá (Ds 15, 32-36).

Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu hẳn đã soi sáng cho vấn đề này.

Câu chuyện xảy ra vào một ngày sabát.

Khi thầy trò băng qua đồng lúa, các môn đệ đã bứt các bông lúa.

Và hẳn họ đã vò lúa trong tay trước khi có thể ăn hạt bên trong.

Theo sách Đệ nhị luật (23, 26) thì hành động này được phép làm:

“Khi vào đồng lúa của người đồng loại, anh em có thể lấy tay bứt bông lúa.”

Nhưng theo các kinh sư, điều này bị cấm làm trong ngày sabát,

lý do là vì bứt lúa và vò trong tay cũng giống với hành vi gặt và xay lúa,

mà gặt và xay lúa là một trong ba mươi chín việc không được phép làm ngày sabát.

Từ đó người Pharisêu kết luận việc các môn đệ bứt lúa là phạm đến luật Môsê.

Ngày nay chúng ta có thể buồn cười về chuyện này,

nhưng nó nói lên việc các kinh sư vì sợ người ta phạm luật

nên sau này đã thêm thắt những quy định tỉ mỉ chi li.

Đức Giêsu đã trả lời người Pharisêu bằng đức cách trưng dẫn chuyện vua Đavít.

Trong truyền thống Do Thái, vua này thường được coi là đạo đức mẫu mực.

Đavít đã làm điều không được phép làm, đó là ăn bánh tiến (x. 1 Sm 21, 1-6).

Bánh này gồm mười hai ổ lớn được đặt trước nhà tạm (x. Lv 24, 5-9).

Vào mỗi ngày sabát, bánh mới được thay, bánh cũ chỉ dành cho các tư tế.

Khi kể câu chuyện về vua Đavít, Đức Giêsu muốn cho thấy rằng

nếu Đavít và các thuộc hạ có thể được miễn giữ luật liên quan đến bánh thánh

thì Đức Giêsu và các môn đệ trong trường hợp nào đó

cũng có thể được miễn giữ ngày sabát thánh (x. 1 Mac 2, 34-38).

Theo Đức Giêsu, ngày sabát được tạo cho loài người, chứ không phải ngược lại.

Người Pharisêu có lẽ đã quên đi mục đích của việc giữ luật ngày sabát.

Thiên Chúa lập nên ngày sabát để loài người có thời gian nghỉ ngơi

hầu nhớ đến công trình tạo dựng và giải phóng của Ngài (Đnl 5, 14-15).

Ngày sabát đúng là ngày của Chúa, dành cho Chúa,

nhưng nó cũng là ngày cho loài người sau sáu ngày làm việc vất vả.

Ngày nay chúng ta không còn giữ ngày sabát nữa,

nhưng giữ ngày Chúa Nhật, ngày của Chúa.

Cám ơn vị nào đã lần đầu tiên dùng từ này để chỉ ngày đầu tiên của tuần.

Trong thế giới quá cạnh tranh hiện nay, chúng ta cần được nhắc nhở

về chuyện nghỉ ngơi để sống cho mình, cho nhau, cho Chúa.

Ngày Chúa Nhật là thời gian tuyệt vời đề sống cả ba chiều kích ấy.

Cầu nguyện:

Ngày lại ngày, lạy Thiên Chúa,

tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan,

hai tay cung kính, lạy Thiên Chúa muôn loài,

tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.

Dưới bầu trời bao la,

trong cô đơn và thầm lặng,

với tấm lòng thanh tịnh,

tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.

Trong thế giới ồn ào vì nhọc nhằn,

huyên náo vì đấu tranh,

giữa đám đông hối hả lăng xăng,

tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.

Và khi đã hoàn tất việc đời,

lạy Thiên Chúa muôn loài,

một mình, lặng lẽ,

tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan. Amen.

(R. Tagore – Ðỗ Khánh Hoan dịch)

Suy Niệm 2: Thiên Chúa của niềm hy vọng

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Đời sống con người nhiều khi bế tắc. Thân phận yếu kém. Hoàn cảnh khắc nghiệt. Lãnh đạo thiển cận, hẹp hòi và chuyên quyền. Nhưng thánh Phao-lô khuyên ta nên kiên trì giữ vừng niềm tin, vì Thiên Chúa chính là hi vọng.

Thiên Chúa là hi vọng vì Người trung tín. Lời thề hứa của Thiên Chúa là bất di bất dịch. Vì nếu mọi người phải mượn danh Chúa mà thề vì danh Chúa chí thánh là nền tảng vững chắc. Đằng này chính Thiên Chúa thề hứa thì không thể sai chạy. Điều đó chứng tỏ qua cuộc tuyển chọn Áp-ra-ham (năm lẻ) và Đa-vít (năm chẵn). Và càng chứng tỏ hơn nữa qua việc thực hiện lời thề hứa với các ngài. Giữ lời hứa cho Áp-ra-ham một giòng dõi đông đúc ông đã cao tuổi mà vẫn chưa có con. Giữ lời hứa trung tín với nhà Đa-vít nên đã cho Ngôi Lời sinh trong dòng họ này.

Thiên Chúa là hi vọng vì Người luôn quan tâm và khai thông những bế tắc. Con người sai lầm. Lịch sử bất ổn. Hoàn cảnh khó khăn. Nhưng Thiên Chúa luôn biết cách đổi mới. Khi con người lỗi phạm, Thiên Chúa đã tuyển chọn Áp-ra-ham lập nên một giòng dõi mới. Khi Sa-un đi chệch đường, Thiên Chúa tuyển chọn Đa-vít lập triều đại mới. Và khi Cựu Ước chấm dứt Thiên Chúa sai Con Một xuống lập giao ước mới. Khai mạc triều đại mới. Thiên Chúa luôn mở ra những chân trời mới. Khai thông bế tắc. Đem lại hi vọng lớn lao.

Thiên Chúa là hi vọng vì Người làm chủ vũ trụ. Người có toàn quyền trên muôn vật muôn loài. Làm chủ vũ trụ. Làm chủ vận mạng con người. Làm chủ lề luật. Người tự do và làm cho ta tự do. Người giải thoát ta khỏi mọi ràng buộc. Không bị ràng buộc vào diện mạo bên ngoài. Không phải tuân theo thứ tự trước sau. Người chọn Đa-vít là con út và là người có vóc dáng nhỏ bé. Người chọn Áp-ra-ham là người cao niên mà chưa có con. Lề luật vốn để phục vụ con người. Khi lề luật trở nên gánh nặng, nên gông cùm trói buộc, Người đã giải thoát con người. Vì Người làm chủ lề luật. Chính vì thế Người đem lại niềm hi vọng cho con người.

Khi chưa thấy lời hứa thực hiện ta cũng vẫn tín thác vì Chúa luôn trung tín. Khi ta gặp bế tắc tưởng chừng không lối thoát ta vẫn an tâm vì Chúa luôn quan tâm sẽ khai thông mọi bế tắc. Khi ta bị vây kín trong vòng giam hãm của lề luật ta vẫn tự do vì Chúa làm chủ lề luật sẽ giải thoát ta.

 

Suy Niệm 3: Linh hồn của Lề Luật

Nói về luật pháp của con người, triết gia Schopenhauer đã ví von như sau: “Luật pháp cũng giống như một mạng nhện, những con ong gấu thì vượt qua một cách dễ dàng, những thứ ruồi nhặng thì kẹt lại”. Ðây là một sự thật đau lòng mà chúng ta chứng kiến mỗi ngày trên khắp thế giới: những con ong gấu, tức những người làm ra luật, những kẻ có quyền thế trong tay, thường chiu qua những kẽ hở của luật pháp một cách dễ dàng; thế lực của đồng tiền, vây cánh, ô dù, giúp họ luôn đứng trên luật pháp mà chính họ lập ra.

Vào thời Chúa Giêsu không có chuyện ô dù, nhưng có một hạng người tự cho mình có quyền lập ra luật, bắt người khác giữ luật, còn mình thì không muốn lay thử một ngón tay. Tin Mừng hôm nay là khởi đầu của một cuộc đối đầu triền miên giữa Chúa và hạng người này, tức là nhóm Biệt phái về vấn đề luật pháp. Chúa Giêsu không phải là một người vô kỷ luật. Ngài sinh ra khi cha mẹ Ngài tuân theo lệnh kiểm tra dân số do Hoàng đế La mã ban hành; sau này Ngài vẫn đóng thuế như bất cứ một công dân của Ðế quốc nào. Trong lãnh vực tôn giáo Ngài tuân giữ lề luật của Môsê. Ngài cũng chịu cắt bì, được hiến dâng trong Ðền thờ vì là con trai đầu lòng, hằng năm lên Yêrusalem để mừng lễ, mỗi ngày hưu lễ Ngài cũng đến Hội đường.

Tuy nhiên, như Chúa Giêsu đã có lần tuyên bố Ngài đến là để kiện toàn lề luật, và kiện toàn lề luật là gì nếu không phải là mặc cho nó linh hồn là tình yêu; không có tình yêu thì lề luật chỉ là những thây chết, nhưng nói đến tình yêu là nói đến con người. Như vậy luật lệ là vì con người, là để giúp con người sống chứ không phải để đàn áp và giết chết con người; luật lệ chỉ có ý nghĩa và giá trị khi nó là một biểu lộ của tôn trọng và yêu thương đối với con người; trái lại, tất cả những luật lệ nào đi ngược lại với sự sống và tình yêu, đều là những luật lệ bất công. Trong Thông điệp “Tin Mừng Sự Sống” ban hành năm 1995, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã kêu gọi các tín hữu mạnh mẽ và can đảm chống lại những thứ luật lệ xúc phạm đến chính sự sống của con người, như luật cho phép phá thai, luật cho phép kết liễu cuộc sống của bệnh nhân.

Là một xã hội, Giáo Hội cũng ban hành luật lệ. Tất cả lề luật của Giáo Hội được tóm gọn trong một giới luật duy nhất và nền tảng, đó là yêu thương. Ăn chay, giữ ngày Chúa nhật hoặc bao nhiêu khoản luật khác liên quan đến đời sống hôn nhân, tất cả đều qui về một luật duy nhất là để giúp các tín hữu sống tôn trọng và yêu thương con người. Như thế, người Kitô hữu chỉ có một giới răn để tuân giữ, đó là giới răn yêu thương, và họ cũng chỉ có một tinh thần duy nhất để tuân giữ lề luật, đó là tình yêu thương.

Nguyện xin Chúa hướng dẫn để chúng ta luôn sống đạo theo tinh thần yêu thương ấy.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Suy Niệm 4: Thiên Chúa phục vụ con người

Vào ngày sa bát Đức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa. Các môn đệ Người bắt đầu bứt lúa trong khi đi đường. Nhưng người Pha-ri-sêu liền nói với Đức Giêsu: “Ông coi ngày sa bát mà họ làm gì kia? Điều ấy đâu được phép!”

Đức Giêsu nói: “Ngày sa bát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày sa bát. Bởi đó con người làm chủ luôn ngày sa bát. (Mc. 2, 23-24. 27-28)

Điều khiến ta ngạc nhiên nhất khi đọc trích đoạn Phúc âm này không phải là việc Chúa Giêsu đặt mình ở trên luật về ngày sa-bát hay là muốn cho truyền thống mang một sắc thái khác, mà đúng hơn là việc Người tỏ cho ta biết rằng ngày sa-bát được làm ra vì con người.

Ngày sa-bát, ngày của Thiên Chúa

Khi viết tường thuật về việc Chúa tạo dựng trời đất muôn vật, các tác giả theo truyền thống tư tế đã xếp đặt cho công việc tạo dựng này được hoàn tất trong sáu ngày, còn ngày thứ bảy Chúa nghỉ ngơi: đó là ngàyThiên Chúa dành cho chính mình. Vì thế, “ngày-của-chúa” đó, dân chúng phải sống và làm việc vì Chúa, cho Chúa, và ngày đó vì thế đã trở thành ngày dành cho việc phụng thờ.Cho nên các linh mục là những người phải lo viêc Đền thờ, có giảng giải và nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc giữ ngày chúa nhật như kiêng việc xác, đi lễ đọc kinh, làm việc đạo đức và từ thiện….thì cũng là điều dễ hiểu và bình thường thôi.

Vậy mà Chúa Giêsu lại nói: “Cái ngày mà anh em coi như thuộc về Thiên Chúa, ngày ấy lại được làm ra vì anh em”. Có nghía là cả Ba Ngôi Thiên Chúa đã hướng cuộc sống, sự hiện hữu của mình vì con người.

Một Thiên Chúa phục vụ

Thiên Chúa phục vụ con người, đây không phải là một mạc khải mới mẻ. Tất cả lịch sử của dân được tuyển chọn đều kể lại cho ta hay Đức Giavê đã sẵn sàng phục vụ như thế nào: đem họ ra khỏi Ai cập, đưa họ từ chốn lưu đầy trở về, lập vương quốc cho Đavít… Cả khi họ hối lỗi trở về, thì Chúa vẫn sẵn sàng thứ tha. Vừa thoáng có dấu hiệu của sự hối cải, trở về là Chúa hoan hỉ, và quên đi ngay những đe dọa trừng phạt.

Và đấy chính là điều Chúa muốn khẳng dịnh lại khi nói rằng ngày sa-bát được làm ra vì con người. Tất cả những gì liên quan tới Chúa, thì Người đã ràng buộc nó vào vận mệnh của chúng ta. Thiên Chúa đã hạ mình phục vụ ta, để ta cũng theo gương Người mà phục người khác như vậy.

Mạc khải này đưa chúng ta đến câu hỏi sau đây: Ta có đi đúng đường khi giữ cũng như bảo người khác giữ ngày của Chúa? Phải chăng ta chỉ nhắc lại suông bằng lời mà không thực hành bằng việc, mạc khải Chúa đã tỏ cho ta là Thiên Chúa phục vụ con người? Phục vụ tha nhân, há chẳng phải là nét cao cả, là điểm nổi bật trong đời sống Kitô hữu, và là con dường hay nhất giúp ta đến và sống với tha nhân sao?

Thiên Chúa phục vụ! Thiên-Chúa-vì-con-người!

Ai đón nhận Tin Mừng này sẽ không còn phải sợ mình không thuộc về Chúa vậy.

Suy Niệm 5: Trả lại cho luật ý nghĩa của nó!

Luật ngày Sabát chính là luật quan trọng của người Do thái. Tuy nhiên, vì luật này, mà đã biết bao nhiêu lần giữa Đức Giêsu và người Pharisêu xảy ra tranh cãi, bởi lẽ với Đức Giêsu thì coi luật vì con người, còn với kẻ chống đối Ngài thì cho rằng con người nên công chính vì luật.

Thật vậy, Đức Giêsu không phải là người đến để bãi bỏ lề luật, Ngài đến để kiện toàn. Tuy nhiên, Ngài nhìn và coi luật là thứ yếu, nó chỉ nắm vai trò phục vụ con người, vì vậy, nó không phải là tất cả và mang tính sống còn! Nếu luật đưa ra mà không làm cho con người có giá trị nhân linh trước mặt Chúa và sống tốt với nhau hơn hay không đem lại bình an, hạnh phúc cho người thi hành thì luật đó phải được thay thế.

Việc trung thành giữ luật ngày Sabát mà khiến lòng con người ra trai cứng, dửng dưng trước sự đói khát, khổ sở, hay ốm đau, chết chóc thì hoàn toàn không phù hợp với tinh thần cũng như mục đích nguyên thủy của luật. Không thể hoàn toàn dựa trên luật để đánh giá đồng đều lòng đạo đức của mọi người. Cần phải áp dụng theo từng người, trong những hoàn cảnh nhất định. Vì thế: “Ngày Sabát được tạo ra vì con người, chứ không phải con người cho ngày Sabat” (Mc 2, 27).

Ngày nay, qua lối thực hành đạo của chúng ta, vẫn còn đó những người luôn coi việc giữ luật cách nghiêm ngặt, cứng ngắc là điều nên làm và họ luôn coi đây là chuẩn mực để được coi là đạo đức! Tuy nhiên, khi trở về với những lời giáo huấn và tinh thần của Đức Giêsu, nhất là những việc Ngài làm, thì hẳn chúng ta phải xem lại!

Liệu rằng khi chúng ta làm việc thiện rồi để khoe khoang; hay là nhân danh đạo đức để xử sự bất nhân với anh chị em mình; hoặc tự cho mình là người giữ luật cách trung thành, nhưng lại coi thường, khinh bỉ hay luôn cho mình là người mẫu lý tưởng bắt mọi người phải quy phục thì liệu có phù hợp với giáo huấn của Chúa và cốt lõi của Luật không??? Hay chúng ta đang bị chất tố Pharisêu chỉ đạo lối nhìn và quan điểm để rồi mình trở thành bản sao của nhóm người giả hình thời hiện đại?

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho mỗi người chúng con biết giữ luật vì lòng mến; đồng thời luôn biết yêu thương anh chị em mình bằng một tình yêu chân thành, thiết thực dựa trên đức ái. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 6: Ý nghĩa tích cực của lề luật

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu dạy ta hiểu ý nghĩa tích cực của lề luật. Lề luật được làm ra để giúp con người thăng tiến. Hiểu được vậy, ta sẽ không giữ luật cách nô lệ, hình thức.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, người ta sợ mang gông cùm và ghét kẻ nào cướp mất tự do của mình. Rất nhiều lúc con chán ngán hoặc khiếp sợ đạo Chúa vì có quá nhiều lề luật phải giữ. Rất nhiều lúc con nhìn Chúa như một cảnh sát, như một kẻ đè bẹp làm con mất tự do. Rất nhiều lúc con coi thường luật Chúa hoặc đành phải giữ cho xong. Như người Biệt phái, con chỉ nhìn thấy những điều không được phép, những điều cấm đoán, mà chẳng hiểu tại sao.

Lạy Chúa, hôm nay con hiểu được Chúa thương con. Chúa ban lề luật là vì thương con. Lề luật của Chúa không phải như một gánh nặng áp đặt trên con như chiếc gông cùm đè bẹp, nhưng là quà tặng giúp con bay cao, thăng tiến và bảo vệ sự tự do mà Chúa đã ban. Lề luật được làm ra để nâng đỡ con mà con cứ nghĩ Chúa kìm kẹp con. Chính vì con chẳng hiểu nên con đã giữ luật một cách nô lệ, câu nệ hình thức, con cảm thấy nặng nề gò bó.

Con vui mừng dâng lời tạ ơn Chúa vì Chúa giải thoát con khỏi tinh thần nô lệ. Xin Chúa giúp con sống trong tự do của một người con. Xin Chúa dạy con hiểu được ý nghĩa của từng lề luật xuyên qua những điều được phép hay bị cấm. Xin Chúa cho con thấy được rằng tình yêu là điều quan trọng nhất trong mọi lề luật. Và tình yêu sẽ giải thoát con. Amen.

Ghi nhớ: “Ngày Sabbat làm ra vì loài người, chứ không phải loài người vì ngày Sabbat”.

Suy Niệm 7: Cốt lõi của Lề Luật chính là tình yêu

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Một cha xứ mới được bổ nhiệm đến một nhà thờ ở tiểu bang Kentucky, không mấy xa trường đua Churchill Downs nổi tiếng. Vào ngày Chúa nhật đầu tiên, cha xứ mới đã giảng về cái xấu của cờ bạc, đánh cá độ và những tai họa do cờ bạc gây nên cho một số gia đình. Sau thánh lễ, ông chủ tịch hội đồng Gx liền đến bên cha tân chánh xứ và bảo rằng, những người dâng cúng cho nhà thờ đa số là những người đua cá ngựa và cờ bạc…

Vào Chúa nhật thứ hai kế tiếp, cha xứ giảng về nạn hút thuốc và những tai họa do hút thuốc gây nên, như bị ung thư phổi và chết sớm… Cũng như lần trước, ông chủ tịch lại kéo cha xứ riêng ra và bảo rằng đa số những người dâng cúng rộng rãi cho nhà thờ là những người trồng cây thuốc lá và tiểu bang Kentucky là nổi tiếng nghề này.

Vào Chúa nhật thứ ba kế tiếp, cha xứ giảng về nạn uống rượu bia và tai họa do rượu bia gây nên cho các gia đình, như gây tai nạn xe cộ và đập phá nhà cửa. Cũng như lần trước, ông chủ tịch lại kéo cha xứ lại và bảo rằng, đa số những người dâng cúng rộng rãi cho nhà thờ là những nhà nấu rượu và tiểu bang Kentucky nổi tiếng về công việc này.

Cha xứ thất vọng mới hỏi lại ông chủ tịch rằng: “Vậy tôi có thể giảng về vấn đề gì?”. Ông chủ tịch liền trả lời: “Hãy giảng chống lại các nhà chính trị lừa đảo, mà trong Gx chúng ta không có những hạng người này”.

Giữ đạo hình thức, theo cách suy diễn của cá nhân bỏ lề luật Chúa để giữ những điều con người tự coi là đúng… Chúa Giêsu đã nói với những người biệt phái về cách sống đạo hình thức ấy như sau: “Các ông gạt bỏ giới răn của Thiên Chúa qua một bên, mà duy trì truyền thống của người phàm” (Mc 7,8).

Suy niệm

Ngày Sabát là ngày của Chúa, dành cho Chúa, để nhớ đến công trình tạo dựng và giải phóng của Ngài. Nhưng cũng là ngày nghỉ ngơi của con người sau sáu ngày làm việc vất vả (Đnl 5,14 -15).

Đối với người Do Thái, việc giữ ngày Sabát cách tỉ mỉ chu đáo là nói lên tầm quan trọng của đời sống trong Giao Ước với Thiên Chúa… Theo quan điểm của người pharisiêu thì luật giữ ngày Sabát là Luật Môisê, cũng là Luật của Thiên Chúa. Và người công chính phải tuân giữ Lề Luật một cách chi tiết. Do đó, khi thấy Đức Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabát, họ bàn thảo với nhau: “Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày Sabát” (Ga 9,16). Họ quan niệm: Nếu Đức Giêsu là người của Thiên Chúa thì tất nhiên Ngài phải giữ Luật Môisê. Quan điểm của họ quả hết sức hợp lý vì được xây dựng trên rất nhiều đoạn Kinh Thánh khuyên người ta phải giữ Luật (x. Đnl 27,26; 30,10; Gs 22,5; 23,6; 1V 2,3…).

Đức Giêsu đến để kiện toàn Lề Luật (x. Mt 5,17). Ngài công bố Lề Luật mới xây dựng trên tình yêu. Con người phải nên thánh thiện như Cha trên trời (x. Mt 5,48) – Thiên Chúa là tình yêu, ai sống trong tình yêu thì thuộc về Thiên Chúa (x. 1Ga 4,16) và nên thánh thiện. Trong bài diễn văn chung luận về ngày sau hết, Chúa Giêsu sẽ không dùng Lề Luật để phán xét con người mà chỉ hỏi con người có yêu thương tha nhân hay không mà thôi. Cho nên, giữ Luật của Thiên Chúa với những đòi hỏi của tình yêu hay đức ái, giữ luật vì Luật và Luật với bác ái phải ưu tiên tuân theo luật của đức ái. Đức Giêsu đưa ra trường hợp rất cụ thể khi chữa bệnh cho một người phụ nữ bị quỷ ám: “Còn bà này, là con cháu ông Abraham, bị Satan trói buộc đã mười tám năm nay, thì chẳng lẽ lại không được cởi xiềng xích đó trong ngày Sabát sao?” (x. Lc 13,10-17). Vì thế, vào ngày Sabát, tình yêu hay đức ái tỏ hiện khi Ngài chữa bệnh cho người phụ nữ bị bệnh 18 năm. Ngoài ra, Đức Giêsu chữa người bị bại tay (x. Mt 12,9-14; Mc 3,1-6; Lc 6,6-11); chữa người mắc bệnh phù thũng (Lc 14,1-6); chữa một người đau ốm ở hồ nước tại Bếtdatha (Ga 5,1-18); chữa một người mù từ thuở mới sinh (Ga 9,1-41), tất cả đều được làm vào ngày Sabát…

Dựa trên luật đức ái mà Chúa Giêsu giảng dạy, sau này thánh Phaolô đã quả quyết: “Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13,8); “Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Kitô” (Gl 6,2). Thánh Giacôbê thì cho đức bác ái là luật cao nhất của Kinh Thánh: “Luật Kinh Thánh đưa lên hàng đầu: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gc 2,8).

Cốt lõi của Lề Luật chính là tình yêu. Chúng ta được gọi nhìn lại cách sống đạo: Tuân giữ Lề Luật với tinh thần của Lề Luật – yêu thương, sống yêu thương là chu toàn Lề Luật.

Ý lực sống: “Không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,3).

Suy Niệm 8: Tranh luận về ngày hưu lễ

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Chúa Giêsu đi ngang đồng lúa với các môn đệ. Các ông đói nên bứt lúa ăn. Nhóm biệt phái thấy vậy thì trách các ông làm việc cấm trong ngày hưu lễ. Chúa hỏi họ: Các ông có biết vua Đavít và bạn hữu vua làm gì khi đói không? Vua đã vào đền thờ lấy bánh ăn, thứ bánh mà không ai được ăn chỉ trừ các tư tế. Ngày hưu lễ được lập ra vì loài người, chớ không phải loài người được dựng nên vì ngày hưu lễ. Và chính tôi là chủ của ngày hưu lễ. Tôi có quyền trên ngày hưu lễ.
  2. Để hiểu luật nghỉ làm việc trong ngày hưu lễ (Sabat) được ghi trong Xh 20,8-11), Linh mục Carolô đã giải thích như sau: Nhóm biệt phái chỉ để ý đến mặt chữ, cho nên họ suy nghĩ nông cạn rằng nghỉ là nghỉ. Thậm chí họ còn đưa thêm đến 39 việc không được làm trong ngày sabat, trong đó có việc mót lúa và bứt vài bông lúa. Bởi đó họ phản đối Chúa Giêsu về việc làm của các môn đệ Ngài.

Còn Chúa Giêsu thì để ý đến tinh thần của khoản luật ấy, tức là nhằm phục vụ con người. Ngày xưa khi còn ở bên Ai cập, dân Do thái phải làm nô lệ cực nhọc. Bởi đó khi họ ra khỏi Ai cập, Maisen đã ra luật nghỉ ngày Sabat, trước hết là nhằm phục vụ cho chính những người Do thái: họ phải được một ngày nghỉ ngơi; kế đến là vì quan tâm tới những người tôi tớ và nô lệ: trong ngày đó những người chủ Do thái phải để cho các tôi tớ và nô lệ được nghỉ ngơi, đừng tái phạm điều mà người Ai cập trước kia đã phạm đối với họ.

Theo tinh thần ấy,Chúa Giêsu dám tuyên bố 2 câu “nảy lửa”: a/ Ngày Sabbat được lập ra vì con người chứ không phải con người được tạo nên vì ngày sabbat; b/ Con người (tức là Chúa Giêsu) là chủ của ngày sabbat.

  1. Khi muốn hình thành dân Israel, Chúa đã ban cho họ một bộ luật gồm 10 điều răn, nhưng rồi với thời gian, cùng với sự tiép xúc với các nên văn hóa chung quanh, người Do thái đã từ từ hình thành một bộ luật rất chi tiết. Bộ sách Luật ấy người Do thái gọi là Torah. Sách gồm 5 quyển, dầy 250 trang, chứa 613 khoản luật, chia ra 365 khoản cấm và 248 khoản buộc.

Ngoài bộ luật chính ra, còn rất nhiều khoản khác được thêm vào. Đây không phải là luật mà là những tập tục được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Các tập tục này được truyền lại cho những thế hệ mai sau. Và sau cùng thì người chép lại và đóng lại thành tập gọi là Talmud. Talmud là bộ sách giải thích Luật của Do thái giáo. Bộ sách này được chia thành 2 loại: một là Mishna và hai là Gemara. Bộ sách này có tới 523 quyển (Wim Barclay).

  1. Nguyên nhân cuộc xung đột này chỉ là việc các môn đệ ngắt mấy bông lúa khi đi qua cánh đồng lúa. Một sự việc tầm thường không đáng kể. Luật chỉ cấm gặt và trục lúa thôi, nhưng ở đây các người biệt phái coi đó như việc gặt hái, là một trong những việc cấm trong ngày sabat. Sở dĩ người biệt phái xét nét khắt khe như vậy là cái tính ghen tương nghi ngờ, cái thói hay vạch lá tìm sâu, bới lông tìm vết của người biệt phái, đã gây nên cớ xung đột giữa họ với Chúa Giêsu về việc kiêng việc xác ngày sabat. Tính ghen tương hay soi mói và nghi ngờ thường xẩy ra những xung đột, cãi vã, và chia rẽ nhau trong đời sống cộng đoàn và xã hội.

Chúa Giêsu lưu ý chúng ta phải hiểu biết ý nghĩa và mục đích của lề luật. Tất cả mọi khoản luật của Giáo hội cũng như trong cộng đoàn đều nhằm giúp ta thêm mến Chúa yêu người. Giữ những luật đó mà lòng không mến Chúa và yêu người thì vô ích. Dựa vào những khoản luật đó để làm khổ người khác là phản lại luật.

Maurice Zundel trong quyển “Sự hiện diện khiêm hạ” có viết: ”Việc gặp gỡ Thiên Chúa chỉ có thể thực hiện nếu có tình thân với con người, tình thân ấy sẽ biến thành tình trong suốt. Hình thức mục vụ duy nhất có giá trị là biết cảm xúc trước giá trị con người. Chỉ kẻ biết tôn trọng con người mới làm chứng được cho Thiên Chúa”.

  1. Truyện: Luật là để yêu thương.

Một người thợ xây đang ở trên giàn ráo cao thì bị xẩy chân rớt xuống, chẳng may trúng phải một người đang đi bộ ngang qua phía dưới. Điều oái oăm là anh thợ chỉ bị xây xát qua loa, còn người khách bộ hành thì bị chấn thương nặng, hôn mê rồi chết khi người ta đưa vào bệnh viện.

Chiếu theo luật “Mắt đền mắt, răng đền răng” của miền này, gia đình nạn nhân đưa nội vụ ra tòa đòi anh thợ xây phải đền mạng. Vị quan tòa từ lâu đã thấy cái vô lý trong bộ luật địa phương, nhưng truyền thống và hủ tục xưa rất khó thay đổi. Cuối cùng, để cứu người thợ xây oan ức, ông tuyên bố:

– Việc gia đình nạn nhân đòi mạng người thợ xây theo truyền thống là chính đáng, nhưng tôi thấy phải nói rõ. Nếu anh ta đã giết người nhà của các ông bằng cách nào, thì các ông cũng phải  giết anh ta bằng cách đó, nghĩa là một người trong gia đình các ông phải trèo lên giàn ráo, nhảy xuống đúng vào đầu anh thợ xây lúc anh đang đi ở phía dưới.

Nghe tòa phân xử, bên gia đình kiện cáo bèn vội vàng xin bãi nại. Anh thợ xây được tha bổng. Sau đó, nhận thức được sự tàn nhẫn phi lý và mù quáng của bộ luật địa phương mình, dân chúng trong vùng quyết định loại bỏ hẳn tính cách “mắt đền mắt, răng đền răng” trong quan hệ xử thế giữa con người với nhau.

Suy Niệm 9: Tranh luận về luật nghỉ làm việc trong ngày Sabbat

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Phân tích (Hạt giống…)

Đây là cuộc tranh luận thứ tư. Vấn đề được tranh luận là luật nghỉ làm việc trong ngày Sabbat, được ghi trong Xh 20,8-11.

– Nhóm biệt phái chỉ để ý đến mặt chữ, cho nên họ suy nghĩ nông cạn rằng nghỉ là nghỉ. Thậm chí họ còn đưa thêm đến 39 việc không được làm trong ngày sabbat, trong đó có việc mót lúa và bứt vài bông lúa. Bởi đó họ phản đối Chúa Giêsu về việc làm của các môn đệ Ngài.

– Còn Chúa Giêsu thì để ý đến tinh thần của khoản luật ấy, tức là nhằm phục vụ con người. Ngày xưa khi còn ở bên Ai cập, dân do thái phải làm nô lệ cực nhọc. Bởi đó khi họ ra khỏi Ai cập, Môsê đã ra luật nghỉ ngày sabbat, trước hết là nhằm phục vụ cho chính những người do thái: họ phải được một ngày nghỉ ngơi; kế đó là vì quan tâm tới những người tôi tớ và nô lệ: trong ngày đó những người chủ do thái phải để cho các tôi tớ và nô lệ được nghỉ ngơi, đừng tái phạm điều mà người ai cập trước kia đã phạm đối với họ.

– Theo tinh thần ấy, Chúa Giêsu dám tuyên bố 2 câu “nẩy lửa”:

a/ Ngày sabbat được lập ra vì con người chứ không phải con người được tạo nên vì ngày sabbat;

b/ Con Người (tức là Chúa Giêsu) là chủ của ngày sabbat.

  1. Suy niệm (…nẩy mầm)
  2. Một lần nữa Chúa Giêsu lưu ý chúng ta phải hiểu biết ý nghĩa và mục đích của lề luật. Tất cả mọi khoản luật của Giáo Hội, của Dòng tu, của Chủng viện đều nhằm giúp ta thêm mến Chúa và yêu người. Giữ những luật đó mà lòng không mến Chúa và yêu người thì vô ích. Dựa vào những khoản luật đó để làm khổ người khác là phản lại luật.
  3. Noi gương Chúa Giêsu, có lẽ câu hỏi ta nên tự đặt ra để biện phân không phải là “làm hay không làm”, mà phải là “làm điều lành hay điều dữ”.
  4. “Con Người là chủ của ngày sabbat”. Câu này suy rộng ra là “Chúa Giêsu là chủ của mọi lề luật”. Khi tôi đang cố gắng giữ một khoản luật, tôi có nghĩ rằng tôi đang gặp Chúa Giêsu trong khoản luật đó không?
  5. Torah là bộ sách luật của Do thái giáo. Nó gồm 5 quyển, dầy 250 trang, chứa 613 khoản luật chia ra 365 khoản cấm (tương đương số ngày trong một năm) và 248 khoản buộc (tương đương số lượng các khúc xương trong cơ thể con người).

Talmud là bộ sách giải thích Luật của Do thái giáo, chia thành 2 loại là Mishna và Gemara. Bộ sách này có tới 523 quyển (Wim Barclay).

  1. “Việc gặp gỡ Thiên Chúa chỉ có thể thực hiện nếu có tình thân với con người, tình thân ấy sẽ biến thành tính trong suốt. Hình thức mục vụ duy nhất có giá trị là biết cảm xúc trước giá trị con người. Chỉ kẻ biết tôn trọng con người mới làm chứng được cho Thiên Chúa” (Maurice Zundel, trong quyển “Sự hiện diện khiêm hạ”)
  2. Trong thế chiến vừa qua, một sĩ quan Anh thấy một sĩ quan Đức bị trọng thương, đang quằn quại bên hàng rào kẽm gai. Bom đạn ầm ầm, khói lửa ngút trời, nên không thể đưa người thương binh vào chỗ an toàn. Cuối cùng, người sĩ quan Anh tự nhủ: “Mình không đành lòng nhìn một người đau đớn khốn khổ như vậy! “Thế là anh phóng ra giữa lửa đạn, vác người thương binh trên vai và đưa sang phần đất mà quân Đức chiếm đóng. Khi trận chiến tạm dừng, một sĩ quan Đức bước ra khỏi chiến hào, tháo chiếc thánh giá bạc đeo trước ngực và gắn cho người sĩ quan Anh. (Góp nhặt).

Nên để ý: a/ Khi đó người Đức và người Anh đang là kẻ thù của nhau; b/ Người sĩ quan Anh đã cứu người sĩ quan Đức, đáp lại một sĩ quan Đức khác đã gắn cho người sĩ quan Anh một tấm huân chương rất đặc biệt, đó là chiếc Thánh giá.

  1. “Ngày Sabát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày sabát” (Mc 2,27)

“Ngày mai là lễ Các Thánh đấy. Con Lễ đã xưng tội rồi, còn thằng Nhân thằng Nghĩa đã xưng tội và lễ lạy gì chưa?” Lời mẹ nói khi tôi đang chuẩn bị đi học.

Không hiểu vì sao lại nhiều lễ thế nhỉ? mà lại là lễ trọng nữa chứ! Còn cả một bài luận chưa làm. Chiều mai lại sinh nhật của bạn nữa!…

Nhiều lúc tôi cảm thấy ngao ngán vì đạo Chúa có quá nhiều lề luật phải giữ. Nhiều lúc tôi nhìn Thiên Chúa như một cảnh sát, như một kẻ đè bẹp tôi mất tự do.

Hôm nay tôi đã hiểu rằng vì Chúa thương tôi nên Ngài mới ban lề luật. Và lề luật là quà tặng Chúa ban để giúp tôi bay cao, thăng tiến và bảo vệ tự do của chính mình.

Cầu nguyện: Cảm tạ Chúa đã tặng ban cho con lề luật, để con học làm người tự do đích thực. (Epphata)

Suy Niệm 10: Luật điều răn mới là yêu thương

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Cuộc sống con người ở trên đời, muốn tốt đẹp thì phải có luật pháp.

Chuyện cổ Đông Phương kể rằng: ngày xưa, có vị đạo sĩ dâng cho vua một chiếc nhẫn kỳ diệu và vô giá. Nó vô giá vì được làm bằng thứ kim loại quí hiếm và gắn nhiều kim cương lóng lánh. Nó kỳ diệu ở chỗ: Nếu người đeo nó làm điều lành, thì nó vừa vặn và chiếu sáng. Nhưng nếu người đó làm điều ác, thì nó sẽ biến thành một cái máy xiết rất mạnh, và ngón tay sẽ vô cùng đau đớn.

Tự nó, luật pháp khi phục vụ ích chung thì tốt đẹp. Nhưng trong thực tế luật đã bị lạm dụng vì nhiều mục đích, nhiều khi rất tầm thường.

Chính vì thế mà chúng ta thấy có một sự khác biệt rất lớn giữa cái nhìn của Chúa Giêsu và cái nhìn của những người luật sĩ và Pharisêu về vấn đề này. Cái nhìn của Chúa Giêsu thì khoan dung quảng đại, còn cái nhìn của những người luật sĩ và Pharisêu thì hẹp hòi và nhiều lúc nhỏ nhen đến ti tiện.

Xã hội nào mà chẳng phải có luật pháp.

Khi muốn thành lập dân Israel dưới chân núi Sinai, lúc đầu Chúa đã ban cho họ một bộ luật gồm 10 điều răn được khắc trên hai bia đá và rồi với thời gian, cùng với sự tiếp xúc với các nền văn hóa chung quanh, người Do Thái đã từ từ hình thành một bộ luật rất chi tiết, chi phối cả cuộc sống và mọi hành động của người dân. Bộ sách luật ấy người Do Thái gọi là Torah. Sách gồm 5 quyển, dầy 250 trang, chứa 613 khoản luật chia ra 365 khoản cấm (tương đương số ngày trong một năm) và 248 khoản buộc (tương đương số lượng các khúc xương trong cơ thể con người).

 Ngoài bộ luật chính ra, còn rất nhiều khoản khác được thêm vào. Đây không phải là luật mà là những tập tục được lưu truyền từ đời này sang đời kia. Các tập tục này được truyền lại cho những thế hệ mai sau. Và sau cùng thì người ta đã chép lại và đóng lại thành tập gọi là Talmud. Talmud là bộ sách giải thích Luật của Do Thái giáo. Bộ sách này được chia thành 2 loại; Một là Mishna và hai là Gemara. Bộ sách này có tới 523 quyển (Wim Barclay).

Việc các môn đệ của Chúa bị người ta bắt bẻ trong bài Tin Mừng hôm nay dựa theo những qui định trong tập Talmud này. Luật qui định rằng, nếu nhằm vào ngày thường thì có làm việc đó cũng không sao. (Đnl 23,24). Thậm chí khách đi đường còn có thể tự do bứt lúa mì, miễn là đừng đem lưỡi hái vào đồng ruộng của người ta mà gặt. Phiền một nỗi là các môn đệ của Chúa lại làm việc này trong ngày Sabat, là ngày vốn được bảo vệ bằng bao nhiêu qui tắc luật lệ nhỏ nhặt. Mọi công việc đều bị cấm đoán.

  1. Chúa đã phản ứng lại như thế nào?

Rõ ràng là Chúa không thể chịu được cách cắt nghĩa luật như thế. Điều luật mà Chúa nhấn mạnh, đó là điều răn mới, đó là tình yêu thương. Khi tuyên bố mình là chủ ngày sabbat, Chúa muốn xác định với mọi người rằng “Hình thức mục vụ duy nhất có giá trị trước mặt Chúa là biết cảm thông với con người. Chỉ những ai biết tôn trọng con người, người đó mới là người tôn trọng Luật của Thiên Chúa”.

Susan là một em bé gái rất đáng yêu. Nhưng thật không may, vừa mới tập tễnh bước chân vào cấp một thì bác sĩ đã phát hiện ra một khối u quái ác trong đầu của em. Em cần phải nhập viện để chữa trị bằng phương pháp xạ trị trong vòng ba tháng. Sau khi xuất viện, em bé vốn dĩ đã ốm yếu, bây giờ trông còn thảm hại hơn. Trước đây, em có một mái tóc vàng rất đẹp, giờ thì đã bị rụng sạch. Dầu vậy, với sự động viên của mọi người, em đã cố gắng vươn lên. Em đã trở lại trường để học phụ đạo, bù cho những bài đã mất. Mỗi ngày em đều đến trường với bộ não vừa bị phẫu thuật. Em phải đội một chiếc mũ để che cái đầu trọc của mình. Đối với một em bé sáu tuổi mà phải chịu như vậy thì thật tội nghiệp.

Cô giáo hiểu rất rõ nỗi đau của em. Trước khi Susan chính thức quay trở lại trường, cô giáo nhiệt tình và trịnh trọng tuyên bố với toàn thể các em học sinh của mình rằng: “Kể từ học kỳ sau, chúng ta sẽ học nhận biết về các loại mũ. Cho nên các em học sinh đều phải đội chiếc mũ yêu thích của mình đến trường, càng mới lạ càng tốt”.

Sau ba tháng vắng mặt, đây là lần đầu tiên Susan quay trở lại nơi quen thuộc này. Em đứng trước cửa lớp, từ từ đi vào, trong lòng đầy lo lắng, lưỡng lự vì chiếc mũ mình đang đội.

Thế nhưng, điều khiến em không thể ngờ được là trong lớp tất cả các bạn đều đội mũ, đủ kiểu đủ loại, đầy màu sắc. Susan cảm thấy mình và các bạn khác đều như nhau. Lòng em thấy nhẹ nhõm. Một nụ cười rất xinh đẹp đã nở trên môi em.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết sống với mọi người với tình yêu thương. Amen.

Tuân giữ luật Chúa

Ghi nhớ

Người nói tiếp: “Ngày sa-bát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày sa-bát. Bởi đó, con người là chủ luôn cả ngày sa-bát”. (Mc 2, 27)

Suy niệm

Trong thế giới ngày nay, người ta đề cao tự do, người ta thường hay biểu tình đòi nhà nước phải lập ra luật này luật kia. Những điều luật mà họ đòi hỏi Quốc Hội phải thông qua đó chỉ nhằm một mục đích duy nhất là làm cho người dân được sống thoải mái dễ chịu hơn mà thôi. Thế nhưng chẳng thấy có mấy ai biểu tình đòi xoá bỏ đi cái luật được phá thai! Vì vậy cho nên, hàng ngày đã có không biết bao nhiêu thai nhi bị phá bỏ, bị giết chết. Qua sự im lặng này, người dân đã vô tình ủng hộ nhà nước trong việc hợp thức hoá hành động “giết người”! Mà giết người tự bản chất là xấu xa, là kinh tởm, là đáng lên án!

Bài Tin Mừng hôm này thánh sử Mác-cô tường thuật “sự cố” những người Pha-ri-sêu bắt lỗi Đức Giê-su về việc để cho các môn đệ bứt bông lúa mà ăn trong ngày lễ nghỉ. Việc bứt bông lúa mà ăn đây được người Pha-ri-sêu coi là đã làm việc, vi phạm vào các việc không được phép làm trong ngày sa-bát. Nhân dịp này Đức Giê-su giảng giải để xua tan đi cái não trạng giữ luật một cách máy móc, một cách cứng ngắc của các người Pha-ri-sêu. Đức Giê-su nâng tầm nhìn của họ nên để họ giữ luật bằng cái tâm của mình: Để nhờ  giữ lề luật mà mọi người thăng tiến lên trong việc thờ phượng Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Đó cũng là mục đích cốt lõi của việc tuân giữ  lề luật. Những người Biệt Phái và Pha-ri-sêu có tâm địa xấu, có óc hẹp hòi và nhất là có tính đố kỵ, ghen tương, họ rình rập để nếu có một ai đó, mà cụ thể ở đây là Đức Giê-su vi phạm là họ có cớ bắt chẹt, lên án và tố cáo Ngài, như có lần Đức Giê-su chữa lành cho một người bị bại tay vào ngày sa-bát, họ liền nhân danh lề luật để phản ứng chống lại và tố cáo việc làm này, cho dù đó là việc làm nhân đạo!

Đức Giê-su đã nói:“Tôi đế không phải để bãi bỏ lề luật mà là để kiện toàn lề luật”. Thật vậy Chúa Giê-su đến trong thế gian,  Người đã nên như một công dân tiêu biểu của xã hội. Người sinh ra trong hoàn cảnh phải về nguyên quán để khai báo“hộ khẩu”. Người chịu cắt bì theo lề luật như bao trẻ em khác. Người cũng nộp thuế như mọi người công dân v.v…Đức Giê-su là thế  nhưng dưới mắt bọn Pha-ri-sêu thì họ lại coi Ngài như một người chống lại lề luật, mà cụ thể như đoạn Phúc Âm hôm nay họ hạch sách Chúa vì coi Ngài như đang ủng hộ việc làm “bứt bông lúa” mà họ coi như là làm việc xác vào ngày sa-bát của các môn đệ.

Bài học rút ra từ đoạn Tin Mừng hôm nay là chúng ta mỗi ky-tô hữu hãy cố gắng tuân giữ mọi lề luật của Giáo Hội cũng như xã hội, để từ việc tuân giữ đó sẽ giúp chúng ta mỗi ngày càng trở nên hoàn thiện mình hơn: “Ngày sa-bát được tạo nên cho con người” đồng nghĩa trong hành vi giữ luật là việc thờ phụng Chúa và phục vụ tha nhân mỗi ngày được tốt đẹp hơn. Nhưng muốn giữ luật cho tốt, trước hết phải có cái tâm cũng như  có thái độ yêu mến lề luật, để rồi việc tuân giữ lề luật không còn là gánh nặng mà nó lại trở nên “ êm ái và nhẹ nhàng”, như Lời Đức Giê-su đã nói: “Ách của tôi thì êm ái và gánh của tôi thì nhẹ nhàng”. Khi chúng ta đã yêu mến một ai rồi thì việc làm cho người ấy vui, cho người ấy hài lòng sẽ làm cho chính chúng ta cảm thấy thư thái trong tâm hồn!

Cầu nguyện

Lạy Chúa, xin giúp cho mỗi người chúng con luôn biết làm mọi việc để tuân giữ lề luật với tất cả lòng yêu mến Chúa và yêu thương tha nhân, để việc giữ lề luật Chúa không phải là một gánh nặng mà lại trở nên nhẹ nhàng và êm ái. Chúng con cầu xin nhờ Danh Đức Giê-su Ky-tô Chúa chúng con. Amen.

Sống Lời Chúa

Đi tham dự thánh lễ ngày Chúa Nhật và dành ra ngày này để thăm hỏi anh em, bạn bè.

 Đaminh Trần Văn Chính.

 

Con Người làm chủ luôn cả ngày Sabat

Tin Mừng hôm nay cho ta thấy một cuộc xung đột giữa Chúa Giêsu và những người Pharisêu, trong việc các môn đệ Chúa rứt mấy bông lúa ăn trên đường đi.

Là Chúa cứu thế đến trần gian, họ đã không nhận ra, Người luôn bị nhóm người này nhòm ngó, bới lông tìm vết. Hôm nay họ chê bai Chúa và các môn đệ về việc giữ luật ngày lễ nghỉ Sabat. Thực ra luật giữ ngày Sabat thời ấy chỉ cấm đi gặt lúa, đập lúa. Nhưng vì ghen ghét nên khi thấy các môn đệ Chúa chỉ rứt mấy bông lúa nhai cho khỏi buồn miệng, hoặc cũng có thể vì đói nữa, mà họ đã chỉ trích. Người Pharisêu, họ giữ luật rất câu nệ, tỉ mỉ mà sai lầm nữa. Họ chê trách: “Ông coi ngày Sabat mà họ làm điều gì kìa?”. Chúa đã bực mình mà dùng câu chuyện vua Đavit trong Sách Thánh cựu ước trước đó cả ngàn năm để trả lời, cũng là để dạy họ nhiều điều. (1Sm 22).

Vua Đavit khi trốn chạy cuộc truy lùng sát hại của vua Saun, ông và bệ hạ ông đã chạy vào một đền thờ. Trong cơn đói khát, ông đã lấy bánh thánh cho ông và tùy tùng ăn để được sống. Thứ bánh mà chỉ các thầy tư tế mới được phép ăn. Luật Thiên Chúa là luật yêu thương, luật cho con người được sống. Đavit là hình ảnh Thiên Chúa yêu thương. Với con mắt người đời, Đavit như đã lỗi luật vì dám ăn bánh thánh không phải dành cho mình, nhưng ăn vì để cứu sống ông và tùy tùng thì lại là việc được phép. Các thánh cũng dạy ta: “Trong cơn cùng quẫn, người ta có quyền lấy của người khác bất kể thứ gì để giữ cho mạng sống họ”. Đọc chuyện ấy ta lại cũng thấy lòng nhân đạo của Đavit  khi tha chết cho vua Saun, kẻ đang tìm giết ông khi Saun trên đường truy sát Đavit mà vào hang núi đi việc cần.

Ngày nay trên các đường giao thông người ta đều ghi: “Mạng sống con người là trên hết” cho mọi người chú ý giao thông an toàn tính mạng. Còn Chúa Giêsu và Giáo hội Chúa đã dạy con người điều ấy từ mấy nghìn năm nay rồi.

Ngày nay khác với thời phong kiến ngày xưa, khi ban bố một bộ luật hay sửa đổi bộ luật gì phải đưa ra dân học hỏi, bàn bạc kỹ càng rồi mới dám thi hành. Còn Chúa Giêsu Người cũng đã dạy cho các ông Pharisêu đã hai nghìn năm nay: “Luật ngày Sabat được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày Sabat”.

Cuối cùng Chúa đã khẳng định: “Con Người, chính Chúa là chủ của ngày Sabat”. Thật vậy mọi luật lệ thiện hảo, mọi quyền bính đều xuất phát từ Thiên Chúa, được gói gọn trong bộ Sách Thánh mà nhiều quốc gia phải lấy đó làm nền tảng cho luật pháp của mình. Đó cũng là bản tuyên ngôn nhân quyền sớm nhất của toàn thể nhân loại.

Lạy Chúa! Luật pháp Chúa thiện hảo, bồi bổ tâm can, là ách êm ái, là gánh nhẹ nhàng. Xin cho con luôn yêu mến, thực thi lề luật Chúa đêm ngày, để nhờ lề luật dẫn đưa con về chốn hạnh phúc đời đời. Amen.

 Giuse Ngọc Năng

 

Giữ luật vì lòng kính thờ Chúa và yêu thương anh em

Bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu nhắc đến tinh thần giữ luật của ngày sabát. Một điều luật mà người Do Thái coi là quan trọng nhất trong mười điều răn mà Thiên Chúa đã ban cho dân Ítraen qua trung gian ông Môsê trên núi Sinai. Luật giữ ngày sabát mang một tầm quan trọng đặc biệt, những người pharisêu tuân giữ điều luật này hết sức tỉ mỉ. Họ luôn đi theo để rình mò, dò xét, bắt bẻ tìm cớ kết án Đức Giêsu. Lần này chỉ vì mấy bông lúa mà lý do là quá đói bụng :“ Ông coi ngày sabát mà họ làm gì kia ? Điều ấy đâu được phép”.

Hãy yêu bằng chính con tim

Ở ngay thực tại, chớ tìm viễn vông

Hãy yêu bằng cả tấm lòng

Đừng nên rào đón lòng vòng quẩn quanh

*

Hãy yêu bằng cả lòng thành

Chớ đừng gian dối, tan tành đấy thôi!

Hãy yêu không phải “vì tôi”

Mà luôn hướng đến: “cho đời”, “cho ai”?

Nhân cơ hội này, Đức Giêsu dẫn chứng câu chuyện của Đavít trong khi chạy trốn Vua Saun để bảo toàn tính mạng. Vua và các thuộc hạ đã ăn bánh tiến trong nhà Thiên Chúa, thứ bánh chỉ dành cho các tứ tế, đây là việc không được kể là mắc tội.

Hãy yêu tha thiết miệt mài

Tâm tim hòa hợp, chẳng phai chẳng mờ

Hãy yêu! đừng nói “hẹn chờ”

“Kẻo tim hóa đá” ai ngờ được đâu

*

Hãy yêu nghĩa nặng tình sâu

Nếu mà “nông cạn” phải đâu là người

Hãy yêu phấn khởi vui cười

Tình thêm cao đẹp, sáng tươi tuyệt vời

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta: lề luật mà Thiên Chúa trao ban cho con người được ký kết bằng một Giao Ước của tình yêu thương. Qua đó việc giữ luật phải thể hiện sự tôn trọng và sống tình bác ái giữa con người với nhau. Điều chính yếu trong việc giữ luật để mang lại niềm vui, sự bình an, đó mới là nguồn hạnh phúc đích thực dành cho con người.

Hãy yêu bằng cả cuộc đời

Thiết tha, chung thủy, chẳng dời đổi thay

Vươn lên, lớn mạnh từng ngày

Càng yêu càng thắm, tràn đầy niềm tin

*

Chắp tay nguyện ước cầu xin

Cùng nhau kết hợp giữ gìn tình ta

Hãy yêu chân chất thật thà

Để cho Tâm – Trí mãi là của nhau

 Lạy Chúa! Chúng con biết rằng: sống ở trên đời này, chỉ có tình yêu thương nhau mới là điều tốt đẹp nhất, thân thương quý mến nhất và hạnh phúc nhất. Xin Chúa giúp chúng con luôn lấy tình yêu thương để cư xử với nhau sao cho đẹp lòng Chúa và hài hòa với mọi người. Amen.

 HOÀI THANH

 

Luật vị nhân sinh

Giữ ngày sa-bát là điều hết sức quan trọng đối với người theo đạo Do Thái.

Bất cứ ai vi phạm ngày này đều có thể bị xử tử, bị ném đá.

Tin Mừng hôm nay thuật lại câu chuyện:

Thầy trò Chúa Giê-su vào một ngày sa-bát, khi đang băng qua đồng lúa, các môn đệ đã bứt các bông lúa ăn đỡ đói. Nhưng theo các kinh sư, điều này bị cấm làm trong ngày sa-bát. Từ đó người Pha-ri-sêu kết luận việc các môn đệ bứt lúa là phạm đến luật Mô-sê.

Chúa Giê-su đã trả lời người Pha-ri-sêu bằng cách trưng dẫn chuyện vua Đa-vít và các thuộc hạ khi đói và thiếu thốn thì cũng cứ ăn bánh thánh đặt ở nhà tạm, vốn chỉ dành cho các tư tế; trong khi theo luật định thì không được phép làm như thế. Và Người đã khẳng định là: LUẬT VỊ NHÂN SINH – “ngày sa-bát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày sa-bát”.

Người Pha-ri-sêu đã quên mục đích chính của việc giữ luật ngày sa-bát. Ngày sa-bát được Thiên Chúa lập nên để loài người có thời gian nghỉ ngơi hầu nhớ đến công trình tạo dựng và giải phóng của Ngài (x. Đnl 5,14-15).

Ngày sa-bát đúng là ngày của Chúa, dành cho Chúa, nhưng nó cũng là ngày cho con người nghỉ ngơi sau sáu ngày làm việc vất vả. Nghỉ ngơi sau sáu ngày làm việc để sống cho Chúa, sống cho mình, và sống cho nhau.

Ngày nay, Chúa Nhật của Ki-tô giáo được thay thế cho ngày sa-bát của Do Thái giáo.

Lạy Chúa Giê-su, sự sống con người quan trọng hơn mọi lề luật. Xin cho con con tim của Chúa, để con biết chạnh lòng thương trước những nỗi khổ đau của đồng loại mình, để con biết sống cho đi với tha nhân. Amen.

CÁT BIỂN

 

Chủ

Chúa Giê-su đã tinh chỉnh ý nghĩa của ngày sa-bát: “Ngày sa-bát được tạo nên cho con người… Bởi đó, Con Người làm chủ cả ngày sa-bát”; nhân việc người Pha-ri-sêu bắt bẻ các môn đệ Chúa bứt lúa trong ngày sa-bát.

Đối với người Pha-ri-sêu, họ chỉ chú trọng việc tuân giữ lề luật theo nghĩa đen, giữ luật theo hình thức bên ngoài, mà bỏ quên tinh thần của lề luật.

Ngược lại, Chúa Giê-su lên án lối giữ luật vụ hình thức mà bỏ quên hoặc xem nhẹ điều quan trọng nhất trong lề luật chính là yêu mến Thiên Chúa; sống công bình, và bác ái với tất cả mọi người – Đó cũng chính là thánh hóa ngày sa-bát, để thờ phượng Thiên Chúa đẹp lòng Ngài nhất.

Lạy Chúa, xin dạy biết con sống giới luật của Chúa, xin dạy con biết mến Chúa và yêu người như ý Chúa muốn. Amen.

CÁT BIỂN

 

Luật yêu thương

Mahatma Gandhi (Ấn Độ) nói:

“Công lý mà tình yêu mang lại là sự đầu hàng; Công lý mà luật pháp mang lại là sự trừng phạt”.

Tin Mừng hôm nay cho thấy cuộc đối đầu giữa Chúa Giêsu và nhóm Biệt phái về vấn đề luật pháp.

Chúa Giêsu là một người sống tuân thủ kỷ luật. Bởi:

Người được giáng sinh trong lúc thánh Giuse và mẹ Maria đi lên Bê-lem để khai tên theo lệnh hoàng đế Au-gút-tô truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ dưới thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri (x. Lc 2,1-5);

Người cũng chịu cắt bì, được hiến dâng trong Ðền thờ theo luật của Mô-sê (x. Sđd 2,21-24);

Người và gia đình thánh, hằng năm đều lên Giê-ru-sa-lem để mừng lễ Vượt Qua (x. Sđd 2,41-46);

Ngài thực thi nghĩa vụ đóng thuế của một công dân như bao người khác (x. Sđd 20, 20-25);

Chúa Giêsu đã sống tuân thủ kỷ luật chính là để kiện toàn lề luật (x. Mt 5,17-19).

Kiện toàn lề luật chính là mặc cho lề luật một ý nghĩa mới – một ý nghĩa nhân sinh, mà nền tảng là tình yêu thương.

Kiện toàn lề luật chính là thay cho lề luật một tinh thần mới – giải thoát cho con người, giúp cho con người được sống sung mãn ân sủng của Thiên Chúa; chứ không phải luật là trừng phạt, là giết chết…

Vì vậy, lề luật chỉ có ý nghĩa và thật sự giá trị khi nó là biểu hiệu của sự tôn trọng và yêu thương dành cho con người.

Chúa Giêsu gay gắt lên án và đả phá thứ lề luật kềm hãm trói buộc con người, hoặc giết chết con người. Không chỉ trong thời của Chúa Giêsu, mà thế giới ngày nay cũng nệ luật nhân quyền, nhân đạo… làm giảm mất phẩm giá con người, xúc phạm đến chính sự sống của con người. Vì thế, người ta cho phép phá thai, cho phép hôn nhân đồng tính, cho phép ly dị, cho phép bệnh nhân được chọn an tử…

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con ý thức được chu toàn lề luật chính là mặc lấy tâm tình của Chúa Kitô, nghĩa là con phải sống như Ngài đã sống, và biết yêu thương như Ngài đã yêu. Amen.

CÁT BIỂN

 

Con người làm chủ ngày Sa-bát

Đọc Tin Mừng, thỉnh thoảng lại gặp thấy cảnh Thầy Giêsu bị các nhóm Do thái thời đó tranh luận và chống đối về vấn đề giữ ngày sabát. Ngày thánh, ngày vui của dân Thiên Chúa thành dịp cãi cọ, bởi họ vạch lá tìm sâu, quét nhà ra rác. Thực ra, có ngày sabát là để con người được nghỉ ngơi. Thiên Chúa không muốn một dân của Ngài lại làm nô lệ cho nhu cầu ăn uống hằng ngày hoặc cho việc lao động của mình. Tuy nhiên, không phải vì thế mà con người làm nô lệ cho ngày sa bát, nhưng là để con người làm chủ ngày Sa-bát, với tinh thần này, Chúa Giê-su bị các kinh sư và nhóm Pharisêu chống đối nhiều lần.

Tin Mừng hôm nay chỉ đơn cử một việc làm rất nhỏ: “Vào ngày sabát, Đức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa. Dọc đường, các môn đệ bắt đầu bứt lúa.” Thời đó người ta coi việc bứt lúa, vò trong tay này như việc ngoài đồng áng, gặt hái. Ngày sabát họ kiêng cả việc lượm củi nấu nướng đồ ăn, dắt lừa đi uống nước… Ngày nay nếu cứ Chúa nhật là kiêng làm việc bếp núc, dẫn đến thiếu ăn, bụng đói meo, người mệt dải, mặt ủ rũ… Dân Chúa chịu đói khổ trong ngày của Chúa như thế, không biết Chúa có vui thích không nhỉ?

Hôm nay các ông đi cùng Thầy Giêsu, mà còn “lỗi luật”, làm ảnh hưởng đến Thầy. Được thể họ tố cáo rõ ràng: “Ông coi, ngày sabát mà họ làm gì kia? Điều ấy đâu được phép!”  Đức Giê-su biện hộ cho các môn đệ, đồng thời được dịp phân tích ý nghĩa và mục đích của ngày sabát: .“Các ông chưa bao giờ đọc trong Sách sao? Ông Đavít đã làm gì, khi ông và thuộc hạ bị thiếu thốn và đói bụng? Dưới thời thượng tế Abiatha, ông vào nhà Thiên Chúa, ăn bánh tiến, rồi còn cho cả thuộc hạ ăn nữa. Thứ bánh này không ai được phép ăn ngoại trừ tư tế.”  Hay thật! Người mượn chuyện “thầy trò” vua Đa-vít ngày xưa trong Sách, để biện hộ cho Thầy trò mình hôm nay, chuyện giống y chang! Đoàn ngày xưa có vua Đa-vít, hôm nay các môn đệ có Thầy Giê-su. Người khẳng định mình làm chủ ngày sabát: “Con Người làm chủ luôn cả ngày sabát!”

Thực ra các ông Pharisêu cũng không muốn làm chủ, mà lại là làm nô lệ ngày Sabát. Ngày nghỉ cấm hết mọi việc dù là việc tốt tối cần, tôi không cựa quậy động đến thân xác, chỉ ngồi chơi, rỗi hơi rình bắt lỗi người khác, lại được tiếng “đạo đức”. Ai làm sao thì mặc kệ nó, dại gì mà bẩn thỉu “lội xuống bùn kéo con bò bị sa hố” lên thêm mệt vào xác?

Chúa ơi! Trên tất cả là Tình Yêu! Khi con yêu mến thì con không mang luật lệ ra làm thước đo, nhưng càng là ngày thánh, thì con càng ra tay làm nhiều việc tốt lành, tùy cơ ứng biến, vì chạnh lòng, vì cảm thương với người anh em ngay bên đang cần đến con. Bởi vì khi con người được hạnh phúc, là Thiên Chúa cũng được tôn vinh.

 Én Nhỏ

 

Vì con người và cho con người

“Ngày sabát được tạo ra cho loài người… Con người làm chủ luôn cả ngày sabát.” (Mc 2,27-28)

Suy niệm: Nhân việc người Pharisêu bắt bẻ các môn đệ bứt lúa trong ngày sabát, Chúa Giêsu minh định ý nghĩa của ngày Sabát là “được tạo ra vì con người và cho loài người.” Vì con người con người để họ biết quan tâm, chăm sóc nhau để cùng mưu tìm hạnh phúc đích thực cho con người. Cho con người để họ hướng tới Thiên Chúa và tôn thờ Ngài, Đấng tạo dựng họ và toàn thể vạn vật. Chúa Giêsu nhấn mạnh đến ý nghĩa cốt lõi của ngày sabát là đưa con người đến chỗ nhận ra ý định yêu thương của Chúa và đem lại sự an tĩnh cho con người sau những ngày lao động mệt nhọc. Bổn phận của con người là thánh hóa ngày ấy theo như ý Thiên Chúa muốn vì “Con Người làm chủ luôn cả ngày sabát.”

Mời Bạn: Vì những ý nghĩa mang nặng tính nhân văn cũng như tính tôn giáo nên Hội Thánh mới khuyên chúng ta nên “nghỉ việc xác” trong ngày Chúa Nhật hiện nay. Nhưng trên thực tế có ít người tuân giữ, cứ viện cớ làm thêm để cải thiện cuộc sống. Rồi ra chính chúng ta làm cho ngày Chúa Nhật trở thành một ngày như mọi ngày!

Chia sẻ: Hãy suy nghĩ và đặt lại vấn đề làm thêm trong ngày Chúa Nhật, xem nó có thực sự cải thiện cuộc sống bản thân và gia đình hay chúng ta đang đẩy ngày này đi sai mục đích của nó.

Sống Lời Chúa: Tìm lại ý nghĩa đích thực của điều răn thứ ba “giữ ngày Chúa Nhật.”

Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa là Chủ của ngày sabát chứ không phải con. Xin cho con biết tuân theo ý muốn của Chúa là Chủ của đời sống con. Amen.

 

THỨ TƯ TUẦN 2 THƯỜNG NIÊN

LỜI CHÚA: Mc 3, 1-6

Khi ấy, Chúa Giêsu lại vào hội đường và ở đó có một người khô bại một tay. Người ta để ý quan sát xem Chúa có chữa bệnh trong ngày Sabbat không, để tố cáo Người. Chúa bảo người có tay khô bại rằng: “Ngươi hãy đứng ra giữa đây”. Rồi Người bảo họ: “Trong ngày Sabbat được làm sự lành hay sự dữ? Ðược cứu sống hay là giết chết?” Nhưng họ thinh lặng.

Bấy giờ Người thịnh nộ đưa mắt nhìn họ và buồn phiền vì lòng họ chai đá, Người bảo bệnh nhân rằng: “Hãy giơ tay ra”. Người đó giơ tay ra và tay anh ta được lành. Lập tức, những người biệt phái đi ra bàn tính với những kẻ thuộc phái Hêrôđê chống đối Người và tìm cách hại Người.

Suy Niệm 1: Anh giơ tay ra!

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Bài Tin Mừng hôm nay là cao điểm của năm cuộc tranh luận

giữa Đức Giêsu với các kinh sư hay người Pharisêu (Mc 2, 1-3, 6).

Đó là các cuộc tranh luận về quyền tha tội của Đức Giêsu,

về chuyện Ngài ăn uống với người thu thuế, chuyện môn đệ không ăn chay,

chuyện môn đệ bứt lúa ngày sabát, và cuối cùng là chuyện Ngài chữa bệnh.

Trong hội đường, vào một ngày sabát, một người có bàn tay bị teo đi dự lễ.

Các người Pharisêu rình xem Đức Giêsu có chữa cho anh ấy không.

để có cớ tố cáo Ngài.

Đức Giêsu chủ động đưa âm mưu của họ ra ánh sáng.

Ngài muốn công khai h óa và chính thức hóa việc làm của mình,

bởi vậy Ngài mới nói với người bị tật rằng: “Anh hãy trỗi dậy ra giữa đây!”

Như thế mọi người trong hội đường đều thấy được anh.

Rồi Ngài đặt câu hỏi với các người đang rình rập Ngài

về điều được phép làm trong ngày sabát:

được làm điều tốt hay điều xấu, cứu sống hay giết chết?

Câu trả lời tưởng như quá rõ ràng,

nhưng ta nên nhớ rằng chữa bệnh ngày sabát bị coi như lao động.

Chỉ được chữa bệnh ngày sabát khi đó là một bệnh nguy tử.

Anh bại tay không phải là người lâm cơn bệnh nguy tử.

Nếu hoãn lại đến ngày mai mới chữa anh, thì có vẻ cũng chẳng sao.

Nhưng Đức Giêsu đã không chấp nhận sự trì hoãn này.

Đối với Ngài, làm điều tốt là chữa ngay cho anh.

Ngài không đợi anh ấy gần chết mới cứu sống.

Cứu sống là cho con người được sống hạnh phúc dồi dào hơn.

Một bàn tay héo khô, teo tóp, bại liệt,

một bàn tay đàn ông chẳng còn làm việc được, chẳng còn tự phục vụ được,

một bàn tay đã chịu tật nguyền như thế từ bao giờ,

theo Đức Giêsu, bàn tay ấy phải được chữa lành ngay khi có thể.

“Hãy giơ tay ra!”

Người ấy đã giơ tay ra và tay anh trở lại bình thường.

Giơ tay ra là điều trước kia anh mong muốn mà không làm được.

Bây giờ anh có thể giơ tay để nắm lấy một bàn tay khác,

và cảm được sự ấm áp chân thành của tình bạn.

Có bao nhiêu bàn tay, dù không bại liệt, nhưng chẳng bao giờ bình thường

vì chẳng bao giờ dám đưa ra để trao và để nhận, để nắm và để buông.

Trước sự thinh lặng chai đá của các kẻ chống đối,

Đức Giêsu vừa giận vừa buồn (c.5).

Ngài chấp nhận trả giá cho quyết định của mình.

Ngài đã chữa bệnh chỉ bằng một lời nói, chứ không bằng đụng chạm.

Thế nên theo Luật Môsê, Ngài vẫn không bị coi là đã vi phạm ngày sabát.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa,

lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau

để làm thành một vòng tròn khép kín.

Sau đó chúng con hiểu rằng

cần phải buông tay nhau

để nhận những người bạn mới,

để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng

và trái tim được lớn lên mãi.

Lạy Chúa, chúng con biết rằng

cần phải nối vòng tay lớn

xuyên qua các đại dương và lục địa.

vòng tay người nối với người,

vòng tay con người nối với Tạo Hóa.

Chúng con thích Chúa

đứng chung một vòng tròn

với tất cả loài người chúng con,

nắm lấy tay chúng con

và đưa chúng con lên cao.

Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá

giúp chúng con biết cầm lấy tay nhau

và nhận nhau là anh em. Amen.

Suy Niệm 2: Vua công chính, vua hòa bình

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Men-ki-sê-đê có nghĩa là “Vua Công Chính”, ông lại là vua Sa-lem, nghĩa là “Vua Hòa Bình”. Đa-vít, thánh vương báo hiệu triều đại Nước Chúa cũng là vua công chính và vua hòa bình. Chúa dùng ông để trả lại công bằng cho dân tộc bị áp bức. Và đem lại nền hòa bình cho Dân Chúa. Vì thế Chúa cho ông sức mạnh chiến thắng Gô-li-át khổng lồ của người Phi-li-tinh hùng mạnh.

Nhưng Chúa Giê-su mới thật là Vua Công Chính. Người trả lại mục đích nguyên thủy của lề luật là để phục vụ con người. Ngày sa-bát được Chúa dựng nên để con người được nghỉ ngơi và phát triển toàn diện. Trên hết, cần phát triển đời sống tâm linh. Khi chất vấn người Biệt phái: “Ngày sa-bát được phép làm điều lành hay điều dữ..?” Chúa nhắc họ phải tìm về đúng ý nghĩa nguyên thủy của ngày nghỉ sa-bát.

Người trả lại cho con người quyền được sống và sống dồi dào. Chúa tạo dựng nên con người để con người được hạnh phúc. Nhưng tội nguyên tổ đã phá hỏng công trình của Chúa. Vì thế Chúa đã phải sai Con Một xuống phục hồi lại phẩm giá cao quí, sửa chữa lại những hư hại nơi bản tính con người. Chúa chữa lành những vết thương không chỉ nơi thân xác mà cả nơi tâm hồn và trong xã hội nữa.

Chúa Giê-su là Vua Hòa Bình. Vì Chúa hòa giải con người với Thiên Chúa. Tội lỗi gây nên mối bất hòa. Chúa Giê-su chịu chết đền tội thay cho loài người để loài người được hòa giải với Thiên Chúa. Theo quan niệm của người Do thái, bệnh tật là dấu hiệu của tội lỗi. Khi Chúa Giê-su chữa bệnh phần xác, Người có ý chữa bệnh trong linh hồn, đưa con người trở về làm hòa với Cha của mình.

Chúa Giê-su hòa giải con người với nhau. Người bệnh tật là người bị loại trừ. Chữa lành bệnh là đưa người bệnh trở lại hội nhập với xã hội, làm hòa với anh em để sống đề huề trong gia đình nhân loại và gia đình của Chúa.

Chúa Giê-su hòa giải con người với chính mình. Người bệnh tật, người tội lỗi là người có sự phân hóa ngay trong bản thân, bất mãn với bản thân. Khi chữa lành bệnh tật, Chúa Giê-su đưa con người trở về chính mình, yêu thương chính mình, kính trọng chính mình. Chính khi làm hòa với chính mình, con người khởi đầu sống hạnh phúc.

Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con được theo Chúa trong phục vụ công bình và hòa giải.

 

Suy Niệm 3: Phản ứng của Chúa Giêsu

Trong diễn văn đọc trước ngoại giao đoàn bên cạnh Toà Thánh nhân dịp Năm Mới 1996, Ðức Gioan Phaolô II đã mạnh mẽ tố giác các đàn áp Kitô hữu; Ngài nhận định như sau: “Người ta không thể đàn áp mãi hàng triệu tín hữu, nghi ngờ hoặc chia rẽ họ, mà những hành động đó lại không đưa đến những hậu quả tiêu cực, chẳng những đối với uy tín của các quốc gia trên trường quốc tế, mà cả trong nội bộ các xã hội liên hệ; trái lại, những mối quan hệ tốt giữa các Giáo Hội và nhà nước góp phần vào sự hòa hợp mọi thành phần trong xã hội”.

Vừa đàn áp, vừa kêu gọi tin tưởng, chỉ có người mù quáng mới không thấy được sự mâu thuẫn trong hành động của mình. Người mù lòa ít ra còn biết mình không thấy, nhưng kẻ mù quáng vốn có mắt, nhưng lại không nhìn thấy.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu có một phản ứng trước sự mù quáng của những người Biệt phái. Chúng ta cứ tưởng tượng một bệnh nhân đang quằn quại trong đau khổ cần được một bàn tay săn sóc chữa trị, thì người ta lại nại đến luật ngày Hưu lễ để bắt bẻ và cấm chế. Thánh sử Marcô như muốn tô đậm phản ứng của Chúa trước thái độ mù quáng như thế, khi viết: “Chúa Giêsu giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng chai đá của họ”. Chúa Giêsu vốn là Ðấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Chúng ta hãy chiêm ngưỡng thái độ của Ngài đối với những người khốn khổ, các bệnh nhân, các tội nhân, những người bị đẩy ra bên lề xã hội, Ngài đồng bàn với họ, cảm thông với họ, tha thứ cho họ.

Chúa Giêsu tỏ ra cảm thông tha thứ đối với mọi tội lỗi của con người, duy chỉ có một thái độ Ngài không bao giờ chấp nhận và tha thứ, đó là thói giả hình và mù quáng. Do yếu đuối, con người sa ngã là chuyện bình thường, nhưng nhắm mắt khép kín tâm hồn để không nhận ra mình yếu đuối cũng như nhân danh đạo lý và pháp luật để khước từ yêu thương, để loại trừ người khác, Chúa Giêsu gọi đó là tội chống lại Thánh Thần, tội không thể tha thứ được. Thật thế, khi con người không còn nhận ra thân phận tội lỗi yếu đuối của mình, khi con người khước từ yêu thương, thì mọi tương quan với Thiên Chúa cũng hoàn toàn bị cắt đứt. Chúa Giêsu không ngừng lên án thái độ giả hình và mù quáng của những người Biệt phái; Ngài cũng luông kêu gọi các môn đệ đề cao cảnh giác trước men Biệt phái.

Nguyện xin Chúa giúp chúng ta ghi tạc Lời Chúa để tránh khỏi men giả hình và mù quáng ấy. Xin Ngài cho chúng ta một tâm hồn nhạy cảm để nhận ra thân phận yếu đuối bất toàn của chúng ta và đáp lại tiếng gọi thống hối và hoán cải không ngừng của Chúa. Xin Ngài ban cho chúng ta một trái tim luôn biết rung động trước nỗi đau khổ của đồng loại và đôi tay luôn biết rộng mở để săn sóc chữa trị và san sẻ trao ban cho mọi người.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Suy Niệm 4: Làm việc lành khi nào?

Đức Giêsu lại vào hội đường. Ở đó có một người bị bại tay. Họ rình xem Đức Giêsu có chữa người ấy ngày sa bát không, để tố cáo Người. Đức Giêsu bảo người bại tay: “Anh chỗi dậy, ra giữa đây!” Rồi Người nói với họ: “Ngày sa bát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi?” Nhưng họ làm thinh. (Mc. 3, 1-4)

Chúa Giêsu và các người Biệt phái đã nhiều lần đối đầu với nhau về vấn đề giải thích Luật. Chúa Giêsu có một cách tiếp cận Luật một cách khá thông thoáng, còn những người Biệt phái chủ trương một sự giải thích chặt chẽ khít khao. Thực ra mỗi bên đều theo đuổi những nguyên tắc và quan điểm riêng, nên không thống nhất được một thang giá trị về công lý. Một bên thì cọi trọng những luật lệ và thực hành cũ kỹ của quá khứ, bên kia lại sẵn sàng thích ứng với hiện tại.

Một vấn đề có tính thời sự

Sự phát triển về cấu trúc lao động trong các xã hội công nghiệp đã dẫn đến một sự quá chuyên biệt và phân cách trong các ngành nghề và hoạt động khác nhau, đồng thời khiến cho những luật về lao động càng rắc rối phức tạp. Kết quả là vì muốn tôn trọng người lao động mà người ta đã phạm phải những sai lầm vô lý, tỉ dụ như trên một công trường xây dựng, người thợ điện không được phép cưa một khúc gỗ cho anh mà phải đem khúc gỗ ấy đến xưởng cưa, ông thầy dạy học không thể cung ứng cho các sinh viên một sinh hoạt ngoài giờ học; những công nhân đã bị người ta rầy la khi làm việc vì đã tỏ ra quá nhiệt tình và đã bày ra thêm một lượng công việc lớn hơn mức trung bình.

Người ta lại phải tự hỏi: khi nào phải làm việc lành? Có phải tôn trọng hay bỏ qua những luật lệ tỉ mỉ này không?

Thí dụ nêu trên về tình hình lao động khiến chúng ta phải nêu lên mấy câu hỏi. Chúa Giêsu liệu có phải giận dữ rảo mắt nhìn ta khi thấy ta đôi khi vì những luật lệ tỉ mỉ này mà làm cho lòng quảng đại khó được thực hiện chăng? Chúng ta xây dựng loại thế giới nào khi chính những con người cần cù lao động lại bị coi như làm hại cho những kẻ lười biếng? Và biết bao người trong chúng ta thường ỷ vào những quy ước, văn bản đã ký, những nỗi lo toan việc chung để thoái thác một đơn thỉnh cầu và xếp lại hồ sơ hay gọi điện thoại đẩy công việc đó cho một người khác?

Phần Chúa Giêsu, Người đã trả lời những câu hỏi này và khi thấy việc lành cần làm thì Người đã làm ngay.

Suy Niệm 5: Có được phép làm điều thiện trong ngày Sa-bát không?

Khi nói đến Đức Giêsu, hẳn ai ai trong chúng ta cũng đều nghĩ ngay đến một Đức Giêsu nhân từ, hiền hậu và khiêm nhường. Mà quả thật là như vậy, bởi đã có lần Ngài nói: hãy học cùng tôi vì tôi hiền lành và khiêm nhường; hay trong các cử chỉ, hành động của Ngài cũng đều toát lên bản chất đó.

Tuy nhiên, chúng ta thấy có những lúc Đức Giêsu rất cương nghị. Chẳng hạn như khi Ngài loan báo cuộc khổ nạn thì Phêrô đứng ra ngăn cản Ngài, Ngài sẵn sàng mắng Phêrô là Satan và đuổi ông xéo lại đằng sau. Hay khi Ngài lên đền thờ Giêrusalem và thấy người ta buôn bán đủ thứ trong đền thờ, Ngài đã nổi nóng và lấy giây bện thành roi đánh đuổi và lật nhào bàn ghế của họ. Tại sao vậy, thưa vì nếu những gì làm cho con người xa ơn cứu chuộc, hay làm cản trở sứ vụ cứu thế của Ngài thì Ngài không khoan nhượng. Bởi nếu khoan nhượng thì họ bị mất ơn cứu chuộc.

Hôm nay cũng vậy, Ngài tỏ ra buồn bực và mạnh mẽ lên án cách nặng nề những người đang đứng đó với Ngài bởi vì lòng họ hóa ra trai đá, cứng cỏi, nên không thể có một cái nhìn tích cực về những việc làm tốt đẹp và như một điều tất yếu, họ khó có thể đón nhận được hồng ân cứu độ vì sự kiêu ngạo đã phủ lấp tâm hồn họ.

Lời Chúa hôm nay cật vấn lương tâm mỗi chúng ta. Liệu có khi nào vì ích kỷ, ghen tương và vụ luật mà chúng ta không thể có một cái nhìn tích cực hay nhìn đúng sự việc tốt lành của anh chị em mình? Hay là chúng ta chỉ tìm cơ hội để thọc gạy bánh xe, làm cho người anh chị em chúng ta khó lòng thi hành điều tốt đẹp mà họ được thúc đẩy để làm?

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho mỗi người chúng con luôn biết nghĩ tốt cho người khác; hay khi muốn sửa lỗi cho ai thì chính mình phải nhìn nhận bản thân cũng có những lỗi đó. Có thế, chúng ta mới trở thành môn đệ thực thụ của Chúa. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 6: Nghỉ ngơi cho đúng ý Chúa

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Phải biết dùng những giờ phút nghỉ ngơi cho đúng ý Chúa. Nghỉ ngơi không có nghĩa là không làm gì, nhưng là dành thời gian làm việc lành phúc đức và phục vụ tha nhân.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa nhìn thấy cuộc sống con vất vả, ngược xuôi tất bật tối ngày, một nắng hai sương mà vẫn thiếu thốn nghèo khổ. Con có cảm tưởng một ngày quá ngắn làm không hết việc. Có lúc con chẳng tìm ra giờ nghỉ ngơi, nhưng cũng có khi con đã lạm dụng giờ nghỉ ngơi.

Lạy Chúa, người Biệt phái giữ luật nghỉ ngày Sa-bát cách cứng nhắc, đến nỗi họ phẫn nộ vì Chúa chữa bệnh trong ngày đó. Còn ngày nay, theo tinh thần của Chúa, Hội Thánh có thể cho phép con làm việc ngày Chúa nhật. Nhưng dù vậy, xin Chúa giúp con nhận ra rằng luật nghỉ ngày Chúa nhật và các ngày Hội Thánh buộc chính là dấu hiệu tình thương của Chúa, vì Chúa muốn giải thoát con khỏi gánh nặng của công việc. Xin Chúa cho con biết nghỉ ngơi để bồi bổ sức khỏe xác hồn.

Xin cho con biết nghỉ ngơi như ý Chúa muốn để thực sự đem lại ích lợi cho con. Cả người Biệt phái, cả chúng con, đều chẳng biết nghỉ ngơi đúng ý Chúa. Xin cho con được nghỉ ngơi bên Chúa, biết gác bỏ công việc để đến bên Chúa cầu nguyện, sống thân mật với Chúa. Xin cho con biết nghỉ ngơi với Chúa, để nhờ sự hiện diện của Chúa, con không dùng giờ nghỉ để lao vào những trò giải trí không lành mạnh. Xin cho con biết nghỉ ngơi như Chúa dạy, biết dùng giờ nghỉ ngơi để làm điều lành, sống tình bác ái với nhau, thăm hỏi, an ủi, giúp đỡ, và làm việc tông đồ. Và sau hết, vào cuối cuộc đời miệt mài làm việc, xin cho con được về nghỉ ngơi trong Chúa muôn đời. Amen.

Ghi nhớ: “Trong ngày Sabbat được cứu sống hay là giết chết?”

Suy Niệm 7: Chúa Giêsu thổi tình yêu vào Lề Luật

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Văn hào Nga Léon Tolstoi có kể câu chuyện ngụ ngôn: Một ông chủ nọ cho các gia nhân một công việc và bảo họ chỉ chu toàn công việc ấy mà thôi. Ông hứa sẽ thưởng công cho họ, nếu họ làm tốt công việc. Lúc mới bắt tay vào việc, ai cũng muốn làm vừa lòng ông chủ, cho nên để hết tâm trí vào công việc được giao, mà cũng chẳng màng tới phần thưởng ông chủ đã hứa. Cuối cùng, tưởng mình đã có thể tự túc với công việc của mình, họ cũng gạt luôn ông chủ ra khỏi cuộc sống của họ.

Léon Tolstoi đưa ra kết luận: Người ta thường thấy một thái độ như thế nơi các Kitô hữu; họ thay thế đạo của tình thương bằng vô số những nghi lễ trống rỗng vô hồn.

Suy niệm

Những người luật sĩ và biệt phái đang rình xem Đức Giêsu có lỗi luật nghỉ ngày Sabát hay không để bắt lỗi Ngài đã vi phạm ngày hưu lễ, hầu có lý do ám hại Chúa. Ngài nhìn họ với ánh mắt buồn và giận, vì họ cứng lòng, giữ Luật vì hình thức và vụ lợi. Chúa Giêsu đã từng khẳng định, Ngài không đến để phá bỏ Lề Luật, nhưng là để kiện toàn (x. Mt 5,17-18), làm cho Luật được trọn nghĩa, là đem cho Lề Luật một ý nghĩa tích cực, một nội dung tình yêu. Chúa không chấp nhận giữ Luật theo nghĩa đen và câu nệ vào hình thức hơn nội dung. Nhất là giữ luật mình hơn Luật của Thiên Chúa để rồi lỗi giới luật căn bản là công bình, yêu thương và lòng tin.

Dù giữ luật ngày Sabát, tuy nhiên những luật sĩ và biệt phái vẫn có giải thích rộng rãi khác về luật nghỉ ngày Sabát: cho phép cứu thoát con vật bị sa xuống giếng trong ngày Sabát (x.Mt 12,11). Như thế, họ tự cho phép cứu con vật mà lại không cho phép cứu người anh em đang đau khổ vì bệnh tật. Ðức Giêsu buồn và giận vì điều đó.

Qua hành động chữa lành người bị bại tay cả trong ngày Sabát, Chúa Giêsu biểu lộ tâm hồn tràn đầy yêu thương đối với con người, đặc biệt người khốn khổ. Qua đó, Ngài thổi tình yêu vào Lề Luật: Ngày Sabát được làm việc lành để thể hiện tình thương. Xin Chúa giúp chúng con ý thức được ý nghĩa của Luật Chúa và giữ Luật vì yêu mến.

Ý lực sống: “Thiện căn ở tại lòng ta,

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” (Nguyễn Du)

Suy Niệm 8: Chúa chữa người bại tay

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Ngày hưu lễ, Chúa Giêsu vào hội đường. Ở đó có người bị bại một cánh tay. Nhóm biệt phái theo rình mò xem Chúa có chữa cho người bệnh này không. Biết thế, Chúa gọi người bệnh ra đứng giữa họ và hỏi: Ngày hưu lễ nên làm lành hay làm ác, cứu sống hay giết chết? Họ không trả lời, vì họ ngoan cố không muốn biết sự thật mà chỉ tìm cách tố cáo thôi. Chúa nhìn họ vừa buồn vừa giận vì thái độ ngoan cố của họ. Rồi Chúa bảo người bệnh: Hãy đưa tay ra. Tức thì người ấy khỏi bệnh. Thấy vậy, nhóm biệt phái và liên kết với nhóm của Hêrôđê tìm cách giết Chúa.
  2. Theo truyền thống, người bại tay này làm nghề thợ xây đá. Nghĩa là anh cần có một bàn tay khỏe mạnh sớm hết sức, để có thể nuôi sống bản thân và gia đình. Không lạ gì trước những người Do thái “chẻ sợi tóc làm tư” dò xét, bắt bẻ để lên án. Theo luật Do thái, chỉ được chữa bệnh vào ngày sabat trong trường hợp nguy tử. Trường hợp của anh không phải là nguy tử, nhưng Ngài không thể nào để đến ngày mai. Ngài đã can đảm dám chữa lành anh ngay hôm nay. Ngày sabat là ngày dành cho Chúa, ngày làm điều lành, ngày cứu người. Nhờ đó, bàn tay anh có thể duỗi thẳng, anh có thể cầm lấy bàn tay người khác, cũng như có thể mưu sinh bằng chính bàn tay của mình (5 phút Lời Chúa).
  3. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu có một phản ứng trước sự mù quáng của những người biệt phái. Chúng ta cứ tưởng tượng một bệnh nhân đang quằn quại trong đau khổ cần một bàn tay săn sóc chữa trị, thì người ta lại nại đến luật ngày Hưu lễ để bắt bẻ và cấm chế. Thánh Marcô như muốn tô đậm phản ứng của Chúa trước thái độ mù quáng như thế, khi viết: ”Chúa Giêsu giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng chai đá của họ”. Chúa Giêsu vốn là Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Chúng ta hãy chiêm ngưỡng thái độ của Ngài đối với những người khốn khổ, những người tội lỗi, các bệnh nhân, những người bị đẩy ra bên lề xã hội, Ngài đồng bàn với họ, cảm thông với họ, tha thứ cho họ.
  4. Có câu chuyện kể rằng: hôm ấy một rabbi Do thái cưỡi ngựa đi từ Giêricô về Giêrusalem vừa đi vừa hát thánh ca, trên đường đi, chẳng may con ngựa trượt chân ngã xuống vực, nhanh tay vớ được cành cây nên rabbi không rơi xuống vực. Ông thấy con ngựa rơi xuống nước nên không hề hấn gì, nhưng bờ cao không lên được, ông định chặt nhành cây lấp đất cho con ngựa lên, nhưng sực nhớ hôm đó là ngày sabat không được làm việc tay chân nên thôi, ông liền phục trong bụi cây rình thấy một người hành hương cưỡi ngựa đi qua, ông rút súng bắn người ấy rơi xuống vực, cướp ngựa phóng đi và tiếp tục hát thánh ca…

Bài Tin Mừng hôm nay cũng cho thấy việc Chúa Giêsu vạch trần sự giả hình của họ, ngày sabat mọi người đến nghe Lời Chúa, còn họ thì đến với ý đồ xấu nhằm để hại người. Giống như câu truyện trên, rabbi kia không dám cứu con ngựa của mình lên vì sợ phạm luật nhưng lại dễ dàng giết người cướp ngựa… Chúa Giêsu biết họ đang rình mò tìm kế hại Ngài, nhưng Ngài vẫn không ngần ngại chữa lành cho anh bị bại tay và qua đó Ngài đặt cho họ một câu hỏi để họ suy nghĩ: ”Ngày sabbat nên làm điều lành hay làm điều dữ”? 

  1. Chúa Giêsu thấu rõ ác tâm của nhóm biệt phái, nhưng Ngài không chống đối bằng lời nói mà lấy việc làm, lấy việc cứu giúp người bệnh để sửa dạy họ. Ngài nêu gương cho chúng ta, thay vì ra mặt công khai chống đối kẻ làm hại mình hay người tội lỗi, chúng ta lấy việc lành, lời cầu nguyện, sự hy sinh của chúng ta để dẫn đưa họ về nẻo chính đường ngay.
  2. Truyện: Luật là luật

Chúng ta đã biết những người biệt phái luôn có cái nhìn cứng nhắc về lề luật. Họ chủ trương “luật là luật” và đã là luật thì phải giữ. Có thế thôi. Đối với những người như thế, chúng  ta nên đọc và suy nghĩ về câu truyện này:

Một người Do thái qua đời, sau khi đã khám nghiệm các bác sĩ xác nhận người đó đã thực sự chết theo đúng ý nghĩa của y học và đã cấp giấy chứng thực để chôn cất.

Giữa lúc đang chuẩn bị hạ huyệt người ta bỗng nghe có tiếng kêu trong quan tài. Mở nắp quan tài ra, mọi người rất đỗi ngạc nhiên vì thấy kẻ chết đã sống lại.

Thế nhưng vị giáo trưởng chủ trì tang lễ ra hiệu cho mọi người thinh lặng rồi nói với kẻ chết như sau:

– Chúng tôi không biết rõ ông đang sống hay chết. Nhưng căn cứ theo giấy chứng thực của các bác sĩ, ông quả thực đã là người chết. Vậy chúng tôi cứ thi hành theo đúng nhận định của bác sĩ.

Nói xong, ông truyền cho tang lễ đóng nắp quan tài lại và tiếp tục nghi thức an táng.

Suy Niệm 9: Làm gì trong ngày Sa-bát?

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Phân tích (Hạt giống…)

Đây là cuộc tranh luận thứ năm trong số những cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và các đối thủ của Ngài được Mc ghi lại. Vấn đế cũng là luật nghỉ ngày Sabbat nhưng được nhìn dưới một khía cạnh khác: Làm gì trong ngày đó?

– Hoàn cảnh: Có một người bệnh nhân cần được chữa. Người đó đang có mặt trong hội đường và hôm đó là ngày Sabbat.

– Trong bài Tin Mừng hôm qua, Chúa Giêsu đã nêu rõ mục đích của khoản luật nghỉ làm việc ngày Sabbat là để phục vụ con người. Trong đoạn này Ngài cho biết thêm ngày đó ta có thể (và phải) làm việc lành.

– Khi đặt cho những người biệt phái câu hỏi: “Ngày Sabbat được phép làm điều lành hay điều dữ” Chúa Giêsu muốn họ suy nghĩ để thấy thêm điểm quan trọng đó.

– Nhưng họ làm thinh: một là do cảm thấy khó trả lời – Hai là cố chấp không nhận lẽ phải. Do đó Chúa Giêsu “rảo mắt nhìn họ”, một cái nhìn vừa “giận” vừa “buồn”.

  1. Suy niệm (…nảy mầm)
  2. Những người biệt phái đang dùng luật để ngăn cản Chúa Giêsu chữa một người bệnh và để hại Chúa Giêsu. Thái độ đó đụng chạm đến lòng của Ngài rất mạnh, đến nỗi Ngài phải “giận dữ rảo mắt nhìn họ và buồn khổ”.
  3. “Ngày Sabbat được phép làm điều lành hay điều dữ”. Câu hỏi này Chúa đặt ra cho những người biệt phái. Họ làm thinh không trả lời cho nên chính Chúa Giêsu tự trả lời bằng hành động chữa người bại tay. Câu trả lời của Ngài là: Cứu giúp người đau khổ là điều lành, từ chối giúp đỡ là điều dữ.
  4. Hai cái nhìn:

– Điều Chúa Giêsu thấy rõ hơn hết trong hội đường ngày hôm ấy là có một người bị khô bại một tay. Ngài thấy và rất thương anh nên muốn cứu anh.

– Còn những người biệt phái thì chỉ thấy những khoản luật về ngày Sabbat. Những khoản luật ấy che khuất tầm mắt của họ nên họ chẳng thấy nỗi khổ của bệnh nhân mà chỉ coi đây là cơ hội để họ bắt bẻ Chúa. Khi Chúa Giêsu chữa cho anh này thì họ không vui mừng mà còn tức giận và “tìm cách hại Ngài”. Cái nhìn của Chúa Giêsu xuất phát từ một tấm lòng nhân hậu, còn cái nhìn của Biệt phái phát xuất từ “cõi lòng chai đá”. Xin ban cho con một quả tim bằng thịt thay vì quả tim bằn đá.

  1. “Những người Biệt phái đi ra bàn tính với những kẻ thuộc phái Hêrôđê chống đối Ngài và tìm cách hại Ngài” Trước đây Biệt phái không thích những người phái Hêrôdê vì biết những người ấy xấu. Nhưng hôm nay sự thù ghét Chúa Giêsu đã đưa họ đền hợp tác với những kẻ xấu ấy để cùng nhau làm thêm một việc xấu to lớn hơn nữa là hại Chúa Giêsu.

Đôi khi trong cuộc sống va chạm, tôi cũng thấy trong lòng của mình rộn lên sự tức giận. Nhưng tôi cần phải bình tĩnh, đừng để mình bị lôi cuốn vào những xúi dục xấu xa của sự tức giận ấy.

  1. “Ra khỏi đó, nhóm Pharisiêu lập tức bàn tình với phe Hêrôđê để tìm cách giết Chúa Giêsu”(Mc 3,6)

Trong ký túc xá Nguyễn Huệ, Hương là một cô gái hiền lành và đoan trang. Hương luôn tìm cách giúp đỡ những người bạn gặp khó khăn vì hoàn cảnh xa gia đình cũng như an ủi những bạn gặp thất bại trong học tập. Từ những việc tốt đó, Hương bị một số bạn bè xấu ghen tương và đố kỵ, tọa rập với nhau để hãm hại. Hương vẫn vô tư không biết chuyện dữ sắp xảy đến với mình. Một ngày kia, cả phòng xôn xao vì một người trong phòng bị mất đồ. Bảo vệ lên làm việc và không thể tin được: “Thủ phạm” lại chính là Hương. Mọi người đều biết rằng Hương không bao giờ làm chuyện đó.

Những kẻ xấu thường không ưa nhau. Nhưng chỉ vì muốn hạ đối thủ chung nên sẵn sàng liên kết với nhau. Tôi là người biết rõ từ A đến Z. Nếu tôi không đủ can đảm đứng ra đương đầu với các bạn kia, sao tôi không biết liên kết với những bạn còn lại trong phòng để bênh vực cho Hương?

Cầu nguyện: Chúa ơi, thế giới con đang sống đã trở nên thảm hại, không phải chỉ vì tội ác của kẻ xấu mà còn vì sự nhu nhược của những kẻ lành. Xin giúp con biết yêu chuộng sự thật là liên kết với mọi người thành tâm thiện chí hầu xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn (Epphata).

Suy Niệm 10: Cùng một sự kiện mà 2 cái nhìn khác nhau

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Đứng trước cùng một sự kiện mà cái nhìn của Chúa Giêsu và cái nhìn của những người Pharisêu khác nhau.

Những người Pharisêu thì chỉ thấy những khoản luật về ngày Sabat. Còn Chúa Giêsu thì khác, Ngài thấy rõ trong hội đường ngày hôm ấy có một người bị khô bại một tay. Ngài thấy những đau khổ của anh. Ngài rất thương anh nên muốn cứu anh.

Hai lối nhìn đưa đến hai cách hành động khác nhau.

Có một chàng thanh niên kia lên đường đi tìm kho tàng quý được cất giấu trong một lâu đài.

Sau những ngày đi đường xa mệt mỏi, anh nhận thấy mình như lạc lối và đang đứng trước một đoạn dốc gồ ghề, bên cạnh những hố sâu thăm thẳm như muốn nuốt chửng thân xác đã hao mòn sinh lực của anh. Trong lúc chiến đấu để lấy lại sự bình tĩnh của tâm hồn, ngước mắt lên, anh thấy một lâu đài tráng lệ hiện ra trước mắt. Trước cổng toà lâu đài tráng lệ có hàng chữ lớn: “Xin mời vào”.

Biết mình bị lạc đường nhưng lại gặp may, anh sung sướng tiến lại gần cổng lâu đài. Đứng trước cổng lâu đài anh ngạc nhiên khi thấy có những người lữ hành tuy đã hết sức mỏi mệt nhưng vẫn cứ tiếp tục lê bước đi ngang qua tòa lâu đài mà không chịu dừng lại. Hình như họ không thấy có lâu đài ở trước mắt họ. Thấy vậy, người lữ hành bèn tiến lại gần người gác cổng lâu đài và hỏi: – Tại sao những người lữ hành kia không dừng lại để bước vào lâu đài mà cứ tiếp tục đi qua như vậy?

Người gác cổng trả lời:

– Đây là một toà lâu đài màu nhiệm, chỉ có những ai nhận biết mình đã lạc đường mới có thể trông thấy nó. Trái lại, những người tưởng mình biết đường và chỉ cắm đầu chạy theo con đường riêng của họ, thì họ sẽ bị mờ mắt và sẽ không bao giờ nhận thấy lâu đài. Ông quả là người ngay thẳng, nhiệt thành tìm kiếm chân lý, yêu chuộng sự thật. Chính sự khiêm tốn ngay thật đã mở mắt tâm trí ông và dẫn đưa ông tới đây. Xin mời ông bước vào, giờ đây tất cả kho tàng quý giá trong lâu đài này sẽ thuộc về ông.

  1. “Ngày Sabat, được phép làm điều lành hay điều dữ” (Mc 3,4).

Đây là câu chuyện từ Internet: Hôm đó là một buổi tối lạnh lẽo, rét buốt ở miền bắc Virginia cách đây đã nhiều năm. Bộ râu của ông lão cứng ngắc trong cái lạnh của mùa đông khi ông đợi có ai đó giúp ông sang sông. Sự chờ đợi dường như vô tận. Ông có cảm giác tê cóng và cứng đờ cả người ra vì những cơn gió bấc lạnh giá.

Bỗng ông nghe thấy tiếng ngựa phi nhịp nhàng đang đến gần. Ông chăm chú nhìn những chàng trai phi ngựa rẽ qua khúc quanh. Người đầu tiên chạy qua mà ông đã chẳng hề gọi. Sau đó, một người khác đi qua, rồi một người nữa. Lúc này, tuyết đã rơi, trông ông lão giống như một bức tượng bằng tuyết. Sau đó là người kỵ sĩ cuối cùng. Khi người này đến gần, ông già ra dấu xin người này dừng lại rồi nhẹ nhàng nói:

– Chào cậu, phiền cậu đưa lão già này sang bên kia sông được không? Chẳng có lối nào để đi bộ được cả.

Người kỵ sĩ ngồi trên ngựa đáp: – Được chứ, thưa bác. Bác nhảy lên đây nào.

Thấy ông lão không thể nhấc nổi cơ thể đã gần như đông cứng khỏi mặt đất, chàng trai nhảy xuống và giúp ông leo lên lưng ngựa. Chàng kỵ sĩ không chỉ đưa ông già qua sông mà còn mang ông đến nơi ông định đến cách đó vài dặm nữa.

Khi đến gần một mái nhà tranh nhỏ xíu ấm cúng, chàng kỵ sĩ tò mò hỏi:

– Thưa bác, cháu thấy bác đã để nhiều người cưỡi ngựa khác chạy qua mà không nhờ một ai để giúp bác qua sông. Vậy mà khi cháu đến thì bác lại nhờ cháu ngay lập tức. Cháu thắc mắc không hiểu tại sao, vào một buổi tối mùa đông lạnh giá như thế này, bác lại đợi và nhờ người cuối cùng. Nếu cháu từ chối không giúp bác thì sao?

Ông lão từ từ leo xuống ngựa, nhìn thẳng vào mắt chàng trai, đáp:

– Bác đã ngồi đấy một lúc rồi. Bác nghĩ bác biết cách nhìn người, ông tiếp tục. Bác nhìn vào mắt những chàng trai kia và ngay lập tức bác thấy họ chẳng quan tâm gì đến tình cảnh của bác cả. Nhờ họ giúp cũng chẳng ích gì. Nhưng khi nhìn vào mắt cháu, lòng tốt và sự thương người hiện lên rất rõ. Bác biết rằng, thái độ dịu dàng của cháu sẽ mở ra cho bác cơ hội được giúp đỡ lúc bác cần.

Những lời ấm lòng đó của ông lão làm người kỵ sĩ hết sức cảm động.

– Cháu hết sức cám ơn những gì bác vừa nói – anh nói với ông lão – Có lẽ sẽ chẳng bao giờ cháu quá bận rộn với chuyện riêng của mình mà không đáp lại những gì người khác cần bằng lòng nhiệt thành cả.

Lạy Chúa Giêsu,

Xin biến đổi cái nhìn của chúng con

nên giống như cái nhìn của Chúa.

Xin biến đổi trái tim chúng con

thành trái tim từ biết yêu thương như Chúa. Amen.

 

Ngày yêu thương – ngày hạnh phúc

“Trong ngày Sabbat được cứu sống hay là giết chết?” Có người tâm sự: “Không hiểu tại sao, cứ mỗi sáng Chúa Nhật là vợ chồng em lại có chuyện bất bình! Đi lễ, mà trong lòng chẳng thấy vui. Vào nhà thờ, vừa quỳ xuống, đã khóc”. Có thể là vợ chồng ấy chuẩn bị đủ quần áo xinh, xe đẹp để đi lễ, nhưng họ chưa chuẩn bị đủ tình yêu nhau, đủ lòng mến Chúa. Lại có câu chuyện này: “Không biết có tự đời ông tổ hay ông cố, mà ông Tư thường nói với các con: “Ông bà ta dặn: ngày Chúa  nhật  là  ngày  yêu  thương,  ngày  hạnh  phúc,  ngày  thánh thiện, ngày làm việc lành, lánh việc tội, ngày xây dựng tình hiệp nhất huynh đệ trong nhà, trong làng xóm, cộng đoàn…”.

Bởi thế, khi vợ chồng con trai giận nhau, ông thường nói: “Hết ngày giận nhau rồi sao con? Hôm nay Chúa nhật!”. Hoặc: “Hôm nay lễ trọng nhé, con!”. Nếu ngày thường, mà các con giận nhau, ông Tư nói:  “Xem như hôm nay ngày Chúa nhật đi con, ngày lễ trọng đi con!”. Cũng vậy, thỉnh thoảng, ông cũng nói với bà trước giờ đọc kinh tối: “Bà hết giờ giận rồi sao? Sao phải giận giờ này?!” Thảo nào, mấy bạn già của ông Tư kể, lúc nào gặp nhau mà nghe ai nói chuyện tào lao, hay nói xấu ai, ông Tư hay nhắc: “Nhớ nhé, hôm nay lễ trọng đấy!”.

Chúa Giê-su hỏi: “Trong ngày Sabbat, được cứu sống hay là giết chết”. Chúa cũng hỏi chúng ta: “Ngày Chúa nhật, nên yêu hay giận, nên làm việc tốt hay việc xấu, nên thứ tha hay chấp tội, nên quảng đại cho đi hay ích kỷ giữ lại, nên bồi dưỡng đời sống thiêng liêng, hay chỉ nghỉ ngơi bồi dưỡng thể xác…?”

Lạy Chúa, xin giúp các gia đình chúng con biết sống yêu thương, và ngay lành trong ngày Chúa Nhật. Và từ việc “thánh hoá” ngày Chúa nhật, ngày lễ trọng, xin cho chúng con cũng biết thánh hoá các ngày thường, và cả thời gian sống, để gia đình sống thánh thiện, an bình, hạnh phúc, trở nên bằng chứng cho Tin Mừng Tình Yêu. Amen.

“Trong ngày Sabbat được cứu sống hay là giết chết?” ( Mc 3,4 )

BCT

 

Ngày làm sống lại niềm tin và hạnh phúc 

“Trong ngày Sabbat được cứu sống hay là giết chết?” ( Mc 3,4 )

Tin  Mừng  hôm  nay,  thánh  Mar-cô  lại  kể  tiếp  câu chuyện  về  ngày  Sa-bat.  Chúa  Giê-su  chữa  lành  người  bị  bại tay trong ngày Sa-bát và bị nhóm biệt phái cho là phạm luật. Lời Chúa Giê-su hỏi nhóm người biệt phái, cũng là lời chất vấn mỗi chúng ta: “Trong ngày Sa-bat được làm sự lành hay sự dữ? Ðược cứu sống hay là giết chết?”.

Chúng ta hãy vui mừng nhìn thấy một thực tế đáng trân trọng này là: hiện nay có nhiều gia đình công giáo đã sử dung thời gian ngày Chúa Nhật đúng ý Thiên Chúa: Việc tâm linh, cả nhà cùng nhau đi tham dự thánh lễ, nghe Lời Chúa; Việc bác  ái:  vợ,  chồng  thăm  viếng  người  yếu  đau  bệnh  tật,  đồng thời còn có một chút quà sẻ chia cho người bất hạnh; Việc làm mới lại tình yêu hôn nhân gia đình: sau Thánh Lễ, vợ chồng con cái chở nhau đi ăn sáng, uống cà phê, rồi vợ đi chợ, làm một  bữa  cơm  khá  hơn  ngày  thường  để  cả  nhà  cũng  thưởng thức. Bầu khí đạo đức và yêu thương đầm ấm của ngày Chúa Nhật làm cho gia  đình có đủ sinh khí  và  niềm vui  cho  công việc vất vả cả tuần sắp đến.

Nhưng,  cũng  thật  đáng  buồn,  đáng  tiếc  vì  có  nhiều người sử dụng ngày Chúa Nhật vào những công việc vô bổ: vợ chồng hẹn  nhau  nhậu  nhoẹt,  say sưa,  hát  hò,  nhảy  múa,  hay tìm tiêu  khiển  nơi những  tương  quan  ngoài luồng  bất  chính; còn con cái thì tự do muốn chơi nhỡi đâu đó cũng chẳng màng. Vô tình,  ngày Chúa  Nhật  để  thờ  phượng  Chúa,  đã  trở  thành thời gian phạm tội, tự đánh mất linh hồn, mất sức khỏe, mất phẩm cách, và nhất là mất cả hạnh phúc gia đình.

Lạy  Chúa,  xin  cho  các  gia  đình chúng con biết  dùng  ngày  Chúa Nhật để làm sống lạị và sống dồi dào lòng Tin Cậy Mến Chúa, làm mới tình yêu hôn nhân và hạnh phúc gia đình của mỗi chúng con. Amen.

BCT

 

Đức Giêsu chữa người bị bại tay 

Tin Mừng hôm nay vẫn ở trong hành trình giảng đạo tại miền Galilê của Chúa Giêsu. Ban đầu người ta sửng sốt, vui mừng nhưng dần dần thấy việc làm, lời dạy của Chúa khác thường, họ bắt đầu nhòm ngó, bới móc chê bai. Chúa bắt đầu va chạm với họ. Như hôm nay “Đức Giêsu lại vào hội đường. Ở đó có một người bị bại tay. Họ rình xem Đức Giêsu có chữa người ấy ngày sabat không, để tố cáo Người”. Biết lòng họ chai đá ác độc, Chúa đã gọi người bại tay đứng ra công khai trước mặt mọi người: “Anh trỗi dậy ra giữa đây, rồi người nói với họ: Ngày sabat, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi?Họ làm thinh. Đức Giêsu giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng họ chai đá”. Thế rồi Người vẫn quyết tâm cứu chữa anh mặc dù cho những người Pharisêu phản đối: “Người bảo anh bại tay, anh giơ tay ra. Người ấy giơ ra và tay liền trở lại bình thường”. Người Pharisêu quả là ác độc, mê muội và sai lầm. Đúng là đã đến lúc Chúa cứu thế phải đến để hủy bỏ, đối mới những sai lầm ấy. Họ vẫn tự hào có tổ phụ là Apraham, có Thiên Chúa là Cha. Thiên Chúa đã truyền cha ông họ phải tuân giữ mười giới răn qua tổ phụ Môsê trước đó đã hàng ngàn năm, tóm gọn lại là: “Hãy kính mến Thiên Chúa là Chúa ngươi hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi”. Còn phần thứ hai cũng quan trọng như phần trước: “Hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi vậy.”(Đnl 6,2-6). Trong khi luật lệ của họ thời đó được phép kéo con bò con vật lên nếu chúng bị sa xuống hố trong ngày sabat. Vậy mà họ cố tình chống đối hành động yêu thương Chúa dành cho con người bại tay. Thậm chí còn “bàn tính… để tìm cách giết Đức Giêsu nữa”, thì quả là ác độc không còn chỗ nói.

Người Pharisêu xét nét, nệ luật một cách mù tối. Họ hiểu sai luật Chúa để rồi chống lại chính Thiên Chúa, mà có lần Chúa Giêsu đã nói về luật rửa tay trước khi ăn của họ: “Các ngươi gạn lọc một con muỗi ra, nhưng lại nuốt chửng cả  con lạc đà.” (Mt 23,23-26).

Giờ đây nhìn lại mình xem có bao giờ chúng ta còn mắc những sai lầm như những người Pharisêu xưa không?

Có bao giờ chúng ta phán quyết sai lầm để rồi làm khổ, làm tổn hại danh dự, nhân phẩm những người anh em ta không?

Có bao giờ chúng ta thù ghét, loại trừ ai chỉ vì họ không thuận theo ý ta điều nọ điều kia chăng?

Lạy Chúa ! Xin Người luôn soi sáng tâm hồn chúng con, để mọi suy nghĩ, lời nói việc làm của chúng con đều thuận theo thánh ý Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.

Giuse Lâm Ngọc Năng

 

Chữa người bại tay 

Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục sứ mang tại quê hương Galêlia của Người: “Đức Giêsu lại vào hội đường” làm phép lạ, chữa bệnh tật cho người ta: “ở đó có một người bại tay”, Chúa đã chữa lành cho họ: “Người bảo anh bại tay: Anh giơ tay ra… và tay liền trở lại bình thường”.

Nhưng Chúa lại bị nhóm người Pharisêu nhòm ngó chê trách vì Chúa đã chữa bệnh vào ngày lễ nghỉ, ngày sabat.

Biết lòng họ, Chúa đã sửa dạy những sai lầm của họ bằng câu hỏi và cũng chính là câu trả lời dạy họ: “Ngày sabat được làm lành hay làm dữ, cứu mạng người hay giết đi?”

Như ta đã biết, 10 điều răn gồm mến Chúa và yêu người, Thiên Chúa đã truyền cho người Do Thái đã hàng nghìn năm trước. Vậy mà trước việc làm yêu thương của Chúa, họ lại thù ghét quyết liệt như vậy. Vì sao thế? vì họ dốt nát, ngu muội, sống câu nệ vào lề luật lý do để bảo vệ luật Chúa chăng? Hay họ vẫn biết Chúa đã làm việc nhân ái, nhưng vì ghen tức muốn nâng mình lên, hạ Người xuống thì quả là độc ác. Làm một việc nhân ái mà Chúa bị họ kết án tử: “Pharisêu lập tức bàn tính với phe Hêrôđê để tìm cách giết Đức Giêsu”. Lich sử kể lại nhân loại ngày ấy sống với nhau quả là ác độc. Người Do Thái được Chúa dẫn dắt ban lề luật mà còn thế, huống hồ dân ngoại. Họ coi mạng sống con người không hơn con vật, mạnh được yếu thua. Người cầm quyền muốn giết ai thì giết. Mạng sống con người được đưa ra làm trò vui giết nhau trên đấu trường mà khán giả vỗ tay cười ha hả. Đúng là Chúa cứu thế đã đổi mới lòng người thế gian thật tuyệt vời.

Ngày nay theo gương Thầy chí thánh của mình, Hội thánh tiếp tục yêu thương nâng đỡ, chia sẻ với mọi lớp người, đã được nhiều người yêu mến. Thế nhưng vẫn chưa hết bị hiểu lầm hay ghen ghét. Còn mỗi chúng ta bây giờ có thể nói được rằng nếu Chúa hiện diện trở lại với tôi như trong câu chuyện Tin Mừng trên thì tôi sẽ chẳng hề dám kết án Chúa. Nhưng có khi nào tôi cố tình phủ nhận những việc tốt lành của tha nhân, chỉ vì họ có lỗi lầm hoặc va chạm với họ trong quá khứ? Có khi nào vì ích kỷ vì sống buông thả mà đã cố tình loại bỏ chính đứa con của mình?

    Lạy Chúa! xin Chúa luôn soi sáng hướng dẫn đời con, để con không phải đi theo cái vết xe ngu muội chai lì, độc ác của những người Pharisêu xưa.  Amen.

 Gs. Ngọc Năng (BC)

 

Kính mến Thiên Chúa và yêu thương anh em 

Bài Tin Mừng hôm nay là một trong những cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và các Pharisêu, liên quan đến việc giữ luật ngày Sabát. Chúa Giêsu đã có một phản ứng mãnh liệt trước sự mù quáng của những người Pharisêu khi họ cố ý dò xét xem Ngài chữa bệnh trong ngày Sabát, để mượn cớ tố cáo Ngài.  Họ đã lạm dụng luật ngày Hưu lễ để bắt bẻ và cấm chế. Về phần Chúa Giêsu, Ngài vốn là Ðấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng, Ngài tỏ ra cảm thông với những đau khổ của con người và Ngài đã giải thoát họ thoát khỏi những khổ đau đó.

Chúa là cùng đích đời con

Cho con sự sống, cho con ơn lành

Với bao ước nguyện hoàn thành

Bến bờ hạnh phúc luôn dành chờ con

*

Con xin ghi dạ sắt son

 Phụng thờ Thiên Chúa, đâu còn gì hơn

Có Chúa vững bước chẳng sờn

Quên đi gian khổ giận hờn thương đau

Thời gian thấm thoát qua mau

Đêm qua, ngày tới, trời màu xanh tươi 

“Mến Chúa và yêu người” chính là đặc tính cốt yếu của Kitô giáo. Chúa Giêsu muốn con người sống tinh thần yêu thương nhau với tất cả lòng quảng đại. Ngài đã chữa lành cho người có cánh tay bị khô bại. Qua việc làm đó, Ngài muốn trả lại cho ngày Sabát ý nghĩa nguyên thủy mà Thiên Chúa đã lập nên. Điều này chứng tỏ Chúa luôn yêu thương con người bằng một tình yêu vô bờ bến và Ngài đã “làm chủ ngày Sabát”.

Yêu thương tất cả mọi người

Tận tâm phục vụ cho đời hoan ca

Ca khen Tình Chúa bao la

Nhân từ thương xót, chan hòa tình thương

Chúa dạy con phải đúng đường

Kính mến Thiên Chúa, yêu thương mọi người

“Ngày Sabát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi?” (Mc 3,4). Câu hỏi đặt ra của Chúa Giêsu đã khiến cho những người Pharisêu phải im lặng không trả lời được, vì họ quá câu nệ vào hình thức mà quên đi nội dung tinh thần và ý nghĩa của luật lệ.

Qua nội dung của bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta cảm nhận được: ngày Sabát là ngày của lòng thương xót, ngày của ơn cứu độ và thực thi việc lành. Vì chính Chúa là hiện thân của Lòng thương Xót, Ngài đã hành động trong ngày Sabát là chũa lành cho người bị khô bại cánh tay, để làm mẫu mực cho những việc làm của chúng ta, giúp chúng ta hiểu và thực thi những điều cần thiết phải làm khi tuân giữ ngày Sabát.

Tim con rực lửa sáng ngời

Cháy lên lòng mến, vang lời thiết tha

Ngày mai hội ngộ hoan ca

Thiên Đàng hạnh phúc mãi là niềm vui

Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa vì Chúa đã thức tỉnh chúng con qua lời phán dạy:  “Trong ngày sabát được làm sự lành hay sự dữ, cứu sống hay giết chết?”. Xin Chúa thương giải thoát chúng con khỏi thái độ sống đạo vụ hình thức, để chúng con biết quan tâm chia sẻ với những nỗi khổ đau, bất hạnh của người khác. Bởi từ lòng thương yêu mọi người, chính là sức mạnh tinh thần để chúng con được đến với Chúa và kết hợp mật thiết với Chúa nhiều hơn. Amen.

  HOÀI THANH

 

Giữ Ngày Sabat 

Dọc theo Tin Mừng, thỉnh thoảng lại gặp thấy cảnh các nhóm Do thái thời đó tranh luận và chống đối Chúa Giêsu về vấn đề giữ ngày sabat. Thực ra, có ngày sabat là để con người được nghỉ ngơi, Thiên Chúa không muốn một dân thánh lại làm nô lệ cho nhu cầu ăn uống hằng ngày hoặc cho việc lao động của mình. Tuy nhiên, không phải vì thế mà con người làm nô lệ cho ngày sabat, nhưng là để “Con Người làm chủ ngày sabat.” Vì tinh thần này, Chúa Giêsu hay bị các kinh sư và nhóm Pharisêu chống đối.

Trong Tin Mừng hôm nay, cũng vào một ngày sabat, thấy Đức Giêsu vào giảng dạy trong hội đường, lại sẵn có một anh bị bại tay, họ “rình” xem Ngài có “phá luật” để chữa anh không? Thừa biết ý nghĩ trong đầu họ, Ngài liền bảo anh trỗi dậy, ra giữa đây và hỏi thách thức họ: “Ngày sabat, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi?” (Mc 3,4). Nhưng họ làm thinh. Ngài hỏi thế thì ngày nay con cũng biết trả lời là phải làm điều lành  cứu mạng người. Rảo mắt nhìn họ hết lượt, rồi Ngài tự trả lời bằng việc làm, lập tức Ngài chữa anh khỏi hẳn, tay anh trở lại bình thường. Thế là thua cuộc, họ giận điên lên và ra đi bàn tính với phe Hêrôđê để tìm cách giết Ngài. Chỉ cần một chút ghen tương, thù ghét lẻn vào hồn, sẽ biến lương tâm thành tà tâm có ý hại người.

Những người Pharisêu giữ lề luật cách máy móc và cứng nhắc để bắt lỗi. Họ trung thành với luật lệ đến nỗi bỏ việc lành là cứu người. Thái độ máy móc này khiến họ có cái nhìn về Thiên Chúa như một vị thần so đo, tính toán và luôn rình phạt con người, Thiên Chúa như quan tòa thưởng phạt theo tâm trạng và cảm tính của con người.

Đức Giêsu đến để kiện toàn lề luật, Ngài đánh đổ quan niệm ấy, Ngài đến với những người thu thuế, tội lỗi, gái điếm. Ngài chữa bệnh và làm phúc cho con người mọi nơi mọi lúc, bất kể ngày sabat hay ngày thường. Ngài bày tỏ cho con người thấy rõ khuôn mặt yêu thương, nhân từ của Thiên Chúa đối với con người. Tình yêu thương ấy vượt qua mọi thứ cân lường, tính toán theo lẽ công bình của con người, vượt qua không gian, thời gian. Tinh thần cốt lõi của luật là tình yêu thương. Tình yêu thương phải luôn trải dài, không kể năm tháng ngày giờ để thi ân. Ngày nay chúng con cần phải thay đổi cách nghĩ, lối nhìn về luật lệ. Con người được hạnh phúc là Thiên Chúa được tôn vinh. Ngày sabat được lập ra vì con người.

Lạy Chúa, xin hoán cải và đổi thay trái tim con, để con luôn yêu Chúa với hết tâm tình. Yêu Chúa con không rời xa Chúa giây phút nào. Yêu Chúa con luôn lắng nghe và thực thi Ý Chúa mà không tính toán đo lường hay sợ luật lệ. Con sẽ mạnh dạn bước đi trong Tình Yêu Ngài, vì “tình yêu thì vượt lên nỗi sợ”.

Én Nhỏ 

 

Yêu thương là chu toàn Lề Luật 

Trình thuật Tin Mừng Nhất Lãm cho chúng ta nhận biết những phép lạ Ðức Giêsu đã làm trong ngày Sabát, trong một hội đường ở thành Ca-phác-na-um thuộc miền Ga-li-lê…

Đức Giêsu vừa giảng dạy, vừa chữa trị mọi thứ bệnh hoạn, tật nguyền, và trừ nhiều quỷ… cho nhiều người. Lời giảng dạy của Người khác với các kinh sư, nội dung giảng dạy mới mẻ, đầy uy lực, khiến thần ô uế phải tuân lệnh.

Từ đó, làm cho danh tiếng của Đức Giê-su được đồn ra khắp nơi, khiến mọi người thán phục, sửng sốt (x. Mc 1,21-28). Vì thế, nhóm Biệt phái đã theo dõi, rình xem… tìm mọi cách để bắt lỗi, tố cáo Người, vì Người đã lỗi luật ngày hưu lễ. Ðức Giêsu nhìn họ với ánh mắt buồn và giận, vì họ cứng lòng, dạ chai như đá; họ giữ luật chỉ vì hình thức, khuôn sáo bên ngoài.

Không phải Ðức Giêsu đến trần gian để phá bỏ lề luật, nhưng là để kiện toàn, làm cho luật được trọn nghĩa: Tất cả chỉ vì yêu thương và mưu cầu hạnh phúc cho con nguời.

Đối với Đức Giêsu, con người luôn có giá trị vượt lên trên mọi thứ lề luật. Không phải cứ giữ luật không sai một chấm, một phẩy là làm đẹp lòng Thiên Chúa và được cứu rỗi. Người đã phá bỏ rào cản trói buộc của lề luật. Tẩy rửa não trạng thống trị của lề luật. Và mở ra tinh thần mới “sống lề luật”, chứ không phải để “giữ lề luật”. Đó là một tinh thần vị nhân, vị ái. Cho con người hiểu rõ tính chất của lề luật và thi hành nó với một lương tâm chân chính. Bởi lẽ, để chu toàn lề luật, thì ngày hưu lễ không được phép làm điều lành, không được phép chữa bệnh cứu người hay sao ? (x. Mc 3,1-6).

Ngày nay, chúng ta lắm lúc cũng rơi vào tình trạng vụ luật; sống đạo xơ cứng, giữ luật Chúa và Giáo hội một cách máy móc, vô hồn, áp đặt cho người khác… giống như người Biệt phái trong Tin Mừng. Nghĩa là:

Nhiều khi tôi sống đạo một cách hết sức hình thức: đi lễ, đọc kinh, cầu nguyện… hết sức máy móc; thuộc làu và giữ luật theo kiểu “chương cú” vì sợ lỗi luật của Chúa và Giáo hội hơn là vì lòng yêu mến Chúa, và sống tình con thảo muốn làm đẹp lòng Chúa, noi gương học biết yêu thương người khác như Chúa đã yêu…

Nhiều khi tôi hăng hái tham gia mọi hoạt động của họ đạo, hội đoàn nào cũng tham gia, nhóm tổ nào cũng sinh hoạt… Tham gia, sinh hoạt để tô hồng, để chứng tỏ vị thế đời sống đạo đức cá nhân của mình; hơn là tham gia vì bổn phận phải chia sẻ sự thăng tiến chung xây cộng đoàn, vì tình hiệp thông huynh đệ, và vì đức ái Kitô giáo đòi buộc tôi…

Ngược lại với những hăng hái nói trên. Nhiều khi tôi lại ù lì, thụ động, không tham gia, cộng tác làm việc với người khác, không thèm sinh hoạt gì cả, mà ngồi yên đó dò xét, nhìn xem người khác làm thế nào để rồi soi mói, bắt bẻ, lên án… việc làm của họ theo não trạng xơ cứng, cố chấp, ganh tỵ của chính mình.

Lạy Chúa, xin uốn nắn chỉnh sửa những tư tưởng cố chấp vụ hình thức, và nệ luật của chúng con… trở thành những nghĩ suy tích cực, ngay chính, và nhân ái…để góp phần yêu thương, san sẻ, dựng xây nhiệm thể Chúa Kitô theo như ý Chúa. Xin biến đổi lòng chai dạ đá của chúng con thành những tấm lòng biết rung cảm trước những nhu cầu khẩn thiết, những khốn khổ, và những bất hạnh của anh chị em sống xung quanh mình; để góp phần dựng xây nền văn minh tình thương, và sự sống ngay trong lòng thế giới hôm nay. Amen.

CÁT BIỂN 

 

Sabát, ngày của sự sống

“Ngày sabát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết chết?” (Mc 3,4)

Suy niệm: Luật lệ được lập ra là để phục vụ cho con người hay ngược lại? Đây là một câu hỏi không chỉ được đặt ra từ bối cảnh thời đại hôm nay, mà đã xuất hiện từ hơn 2000 năm trước, được chính Đức Giêsu khơi gợi lên. Là người Do Thái, Đức Giêsu chắc hẳn hiểu rất rõ về ý nghĩa của ngày sabát: đó là ngày dành riêng để thờ phượng Thiên Chúa. Phải có những luật lệ căn bản trong ngày này là điều không có gì phải bàn cãi. Thế nhưng, một khi việc thờ phượng Thiên Chúa trong ngày sabát đánh mất đi chiều kích nội tâm, và chỉ còn lại dáng vẻ bề ngoài, tức là chỉ còn biết tuân giữ luật lệ cách khắt khe, tỉ mỉ, bất chấp cả sự sống con người, thì cần phải đặt lại vấn đề. Chính Đức Giêsu đã làm thế khi đặt ra câu hỏi: “Ngày sabát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết chết?” Ngài chỉ cho thấy một sự thật, đó là việc thờ phượng Thiên Chúa không loại trừ nhưng làm cho cuộc sống của con người được sung mãn trọn vẹn.

Mời Bạn: Ngày hôm nay, chúng ta, trong đó có bạn và tôi, hơn lúc nào hết, cần nhận ra sự thật mà Đức Giêsu đã chỉ cho thấy và được thánh giáo phụ Irênê đã diễn tả cách chính xác: “Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống.”

Chia sẻ: Bạn hiểu thế nào về câu nói của thánh Irênê được nêu trên đây? Bạn nghĩ phải làm gì cụ thể để Thiên Chúa được vinh quang?

Sống Lời Chúa: Quyết tâm bảo vệ nhân phẩm và sự sống con người.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết đón nhận và sống hết mình cho sự thật mà Chúa đã trao ban.

 

 

THỨ NĂM TUẦN 2 THƯỜNG NIÊN

LỜI CHÚA: Mc 3, 7-12

Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ lui về bờ biển, đám đông từ Galilêa theo Người, và từ Giuđêa, Giêrusalem, Iđumê, bên kia sông Giođan, miền Tyrô và Siđon, nhiều kẻ đến cùng Người, khi nghe biết tất cả những việc Người đã làm.

Vì đông dân chúng, nên Người bảo các môn đệ liệu cho Người một chiếc thuyền, kẻo họ chen lấn Người. Vì chưng, Người đã chữa lành nhiều bệnh nhân, nên bất cứ ai mắc bệnh tật gì đều đến gần để động đến Người.

Và những thần ô uế vừa thấy Người, liền sụp lạy và kêu lên rằng: “Ngài là Con Thiên Chúa”, nhưng Người nghiêm cấm chúng không được tiết lộ gì về Người.

Suy Niệm 1: Chữa lành nhiều bệnh nhân

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Bài Tin Mừng hôm nay được coi là một bản tóm lược

những hoạt động của Đức Giêsu tại vùng phía biển hồ.

Có vẻ Ngài rút lui về vùng này không phải vì sợ bị hãm hại (Mc 3,6),

nhưng để mở rộng phạm vi hoạt động hơn.

Như trước đây không lâu, mọi người từ vùng Giuđê và Giêrusalem

kéo tới xin chịu thanh tẩy bởi ông Gioan (Mc 1, 5),

giờ đây một đám đông lớn hơn từ khắp mọi vùng đổ xô đến với Đức Giêsu.

Có thể nói cả dân Ítraen hào hứng tụ họp bên ngài (Mc 3, 7-8).

Chưa bao giờ Đức Giêsu thành công đến thế!

Nhưng nhiều người trong đám đông khổng lồ này lại là những bệnh nhân.

Họ theo Đức Giêsu vì họ đã nghe biết những phép lạ chữa bệnh ngài làm.

Đức Giêsu xin các môn đệ chuẩn bị một chiếc thuyền

để nếu bị chen lấn quá trên bờ, ngài còn có thể xuống thuyền mà tránh đám đông.

Những bệnh nhân tin rằng mình có thể được chữa lành nhờ chạm đến Ngài.

Có những người chỉ xin chạm vào tua áo choàng của Ngài (Mc 6, 56).

Họ không chờ Đức Giêsu đến với họ.

Chính họ chủ động chen lấn để chạm đến Đức Giêsu.

Họ không cần Ngài phải làm gì hay nói gì,

họ chỉ cần chạm đến trong lòng tin là mọi bệnh tật được chữa khỏi.

Dù y khoa đã đạt được những bước tiến đáng kể,

nhưng ai có thể thống kê hết số bệnh nhân trên thế giới.

Con người hôm xưa chạy đến với Đức Giêsu để xin được chữa lành

khỏi ách nặng nề của bệnh tật thân xác và tinh thần.

Con người hôm nay cũng chạy đến với Giáo Hội để xin được chữa lành.

Mọi nhà thương, phòng khám bệnh hay phát thuốc của người Công giáo,

đều là nơi các bệnh nhân gặp được Đức Giêsu.

Nơi đây họ chạm được vào con người nhân hậu của Ngài,

và nơi đây Đức Giêsu chạm đến họ qua bàn tay của những y bác sĩ Công giáo.

Con người hôm nay nhận ra CHÚA GIÊSU

không nhờ sự giới thiệu của quỷ: “Ông là Con Thiên Chúa”,

nhưng nhờ sự phục vụ khiêm hạ của những lương y sống như Giêsu.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa,

xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin

để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,

nơi khuôn mặt khốn khổ

của tất cả những người bị thử thách:

những kẻ đói, không chỉ vì thiếu của ăn,

nhưng vì thiếu Lời Chúa;

những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,

nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật, công bằng và tình thương;

những kẻ vô gia cư,

không chỉ tìm kiếm một mái nhà,

nhưng còn tìm một con tim hiểu biết, yêu thương;

những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,

không chỉ trong thân xác,

nhưng còn trong tinh thần nữa,

bằng cách thực thi lời hy vọng này:

“Điều mà ngươi làm cho người bé mọn nhất trong anh em

là làm cho chính Ta”. Amen.

(Thánh Têrêxa Calcutta)

Suy Niệm 2: Ông là Con Thiên Chúa

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Mọi người bệnh tật đến với Chúa để được chữa lành. Không phải chỉ dân Do thái, nhưng cả dân ngoại. Không phải chỉ miền Ga-li-lê, nhưng cả miền Giu-đê. Không phải chỉ trong nước, nhưng cả miền I-đu-mê, Tyr và Si-don. Không phải chỉ bệnh thể lý, nhưng cả những người bị tâm thần, bị quỉ ám. Dân chúng chỉ biết có sức mạnh từ nơi Người phát ra. Họ chỉ cần chạm vào áo Người lập tức được khỏi. Nhưng ma quỉ biết rõ nên kêu lên: “Ông là Con Thiên Chúa”.

Là Con Thiên Chúa nhưng mặc xác phàm ở giữa loài người, Chúa Giê-su trở thành người trung gian tuyệt hảo. Muôn dân phải qua Người đến với Chúa Cha.

Hình ảnh thái tử Gio-na-than phần nào diễn tả vai trò trung gian này. Gio-na-than thân phận là thái tử nhưng rất yêu thương Đa-vít. Coi Đa-vít không chỉ như bạn thân thiết mà còn như chính bản thân mình. Đến nỗi bảo vệ bênh vực Đa-vít dù Đa-vít có thể chiếm mất ngai vàng của Gio-na-than. Vì là con vua Sau-un nên Gio-na-than dùng tình yêu và địa vị can thiệp với vua cha cho Đa-vít. Nhiều lần cứu Đa-vít thoát chết (năm chẵn).

Thư Do thái cho thấy vai trò trung gian của Chúa Giê-su là tuyệt hảo. Vì Người yêu thương nhân loại. Trở nên một con người ở giữa loài người, Người trở nên đại diện cho toàn dân. Của lễ của Người toàn hảo vì Người thánh thiện vô song. Hơn nữa Người dâng chính bản thân mình. Địa vị của Người toàn hảo vì Người là Con yêu dấu của Chúa Cha. Ở bên hữu Chúa Cha nên lời chuyển cầu của Người thần thế được Chúa Cha nhận lời. Là Con Thiên Chúa nhưng cũng là Con Loài Người, Chúa Giê-su là trung gian duy nhất. Là giải pháp duy nhất cho thế giới (năm lẻ).

Thế giới hôm nay quá nhiều bế tắc, nhiều vấn đề, nhiều chia rẽ, nhiều đau khổ. Vấn đề lớn lao nhất là ma quỉ đang thao túng, đang tàn phá, thống trị con người và thế giới. Sự dữ khắp nơi. Khủng bố. Phá thai. Tham nhũng. Hối lộ. Nhưng sự dữ lớn lao nhất là con người đánh mất lương tâm và lương tri. Coi sự dữ là sự lành.

Ta không thể giải quyết vấn đề. Hãy noi gương người thời xưa chạy đến với Chúa Giê-su. Người là trung gian duy nhất. Người là cứu cánh duy nhất. Người là giải pháp duy nhất cho con người và cho thế giới. Chỉ cần chạm vào gấu áo Người ta sẽ được khỏi.

 

Suy Niệm 3: Hiểu biết Chúa Giêsu

Có một giai thoại về Trang Tử như sau:

Một hôm, Trang Tử cùng đệ tử đi chơi núi, một người thợ rừng hỏi: “Tại sao cây này không dùng được?”, Trang tử liền nói: “Cây này vì bất tài mà được sống lâu”.

Về đến nhà, nguời thợ bắt con chim không biết gáy để làm tiệc đãi khách. Hôm sau đệ tử hỏi Trang Tử: – Hôm qua, cái cây trên núi vì bất tài mà sống, con chim hồng vì bất tài mà chết; theo Thầy, Thầy xử trí thế nào?

Trang Tử cười và nói:

– Tài và bất tài đều là quấy cả. Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống.

Ðông Phương đề cao sự khôn ngoan ở đời; Tây Phương chịu ảnh hưởng Hy Lạp cũng dạy: con người lý tưởng là con người biết nhiều. Nhưng biết không chỉ là biết sự vật, mà là biết con người, và biết con người không chỉ là một nhận thức suông, mà thiết yếu là đi vào tri giao mật thiết.

Trong Tin Mừng hôm nay, dường như tác giả muốn đưa chúng ta vào một sự hiểu biết như thế. Thánh Marcô trình bày cho chúng ta nhiều phản ứng hay đúng hơn nhiều nhận thức khác nhau về con người CHÚA GIÊSU. Trước hết là đám đông từ các nơi tìm đến với CHÚA GIÊSU, họ nghe và chứng kiến nhiều phép lạ Ngài thực hiện. Nhưng trong nhận định của Marcô, đám đông chỉ tìm đến để được ăn no nê, để được chữa trị khỏi các bệnh tật, chứ không phải để hoán cải; đám đông chỉ thấy cái trước mắt là phép lạ, mà không đọc ra được ý nghĩa của phép lạ là dấu chỉ của Nước Trời mà CHÚA GIÊSUđã loan báo. Nói tắt, đám đông không biết gì về CHÚA GIÊSU, và đây là lý do tại sao CHÚA GIÊSUtỏ ra dè dặt đối với đám đông, Ngài thường lẩn tránh họ. Duy chỉ có ma quỷ biết CHÚA GIÊSUlà ai, nhưng biết đối với ma quỷ không đồng nghĩa với tri giao, mà chỉ là thù hận.

Ðặt vào đúng văn mạch, thì Tin Mừng hôm nay muốn trình bày cho chúng ta nhiều thứ hiểu biết về CHÚA GIÊSU: ma quỷ biết CHÚA GIÊSU, nhưng biết trong thù hận; đám đông thì tìm đến với Ngài vì mục đích trục lợi; bà con thân thuộc của Ngài chỉ có về Ngài một sự hiểu biết hời hợt, thiếu chiều sâu; những người Biệt phái thì hoàn toàn mù tịt về con người CHÚA GIÊSU; chỉ có Nhóm Mười Hai về sau này mới có một hiểu biết chính xác về Ngài. Nhưng đối với CHÚA GIÊSU, biết Ngài không chỉ là một nhận thức của trí tuệ, mà là đi vào tri giao mật thiết với Ngài, đi theo Ngài, nên một với Ngài. Ðó là lý do tại sao sau khi Phêrô đại diện Nhóm Mười Hai tuyên xưng Ngài là Ðức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống, Ngài liền loan báo về cuộc Tử nạn của Ngài và mời gọi họ vác lấy Thập giá mỗi ngày và đi theo Ngài. Và đó chính là sự hiểu biết về Ngài mà CHÚA GIÊSUđang chờ đợi nơi mỗi Kitô hữu. Biết và tuyên xưng trên môi miệng mà thôi chưa đủ, biết Ngài thật sự là nên một với Ngài đến độ thốt lên như Thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”.

Ước gì tâm tình và xác tín của Thánh Phaolô cũng thấm nhập và hướng dẫn chúng ta từng giây phút của cuộc sống.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Suy Niệm 4: Khi người ta quá nhiệt tình

Quả thế, Người đã chữa lành nhiều bệnh nhân, khiến ai có bệnh cũng đổ xô đến để sờ vào Người. Còn các thần ô uế, hễ thấy Đức Giêsu, thì xấp mình dưới chân Người và kêu lên: “Ông là Con Thiên Chúa.” (Mc. 3, 10-11)

Phúc âm Maccô như ta đã biết, có nhiều chi tiết rất ý vị, tỏ ra ngài có một con mắt tinh tường khi nhìn những sự việc bình thường. Hôm nay Maccô kể lại rằng CHÚA GIÊSUmuốn để khỏi bị đám đông chen lấn, nên đã bảo các môn đệ dành sẵn cho Người một chiếc thuyền nhỏ, để Người ngồi ở đó mà giảng dạy và chữa bệnh cho dân. Maccô đã tả lại cảnh huyên náo của đám đông bằng những lời giản dị mà sắc bén: “Họ đổ xô đến để sờ vào Người”. Các thánh sử khác chỉ viết nôm na rằng: dân chúng đến với Người; trái lại thánh Maccô nhấn mạnh đến việc người ta chen lấn xô đẩy nhau mà đến.

Những thái độ này có thể giúp ta phân tích lối cư xử của chúng ta. Thực ra chúng ta có nhiệt tình đến với Đức Kitô không?

Hoảng hốt và vội vã

Ta hãy thử phân tách những lúc ta sống vội vã, để biết ta đang đồng hội đồng thuyền với ai, đang chạy theo thần tượng nào.

Chúng ta vội vã để kịp mua được món có lời, để kịp chuyến xe buýt, để mua được tấm vé đi coi tuồng, để làm qua loa cho xong công chuyện của ngày. Chúng ta hối hả đi xem cho được trận đá banh, hay đi nghỉ cuối tuần.

Điều khiến CHÚA GIÊSUlo lắng bồn chồn ngày nay, hẳn không phải là chuyện người ta hồ hởi đổ xô đến với Người như xưa. Chắc chắn là Người sẽ không sợ bị ngộp thở vì lòng nhiệt thành sốt sắng của các tín hữu.

Cõi lòng ngổn ngang

Không, điều khiến Chúa Kitô phải lo láng buồn phiền, có lẽ vì Người thấy chúng ta đến với Người mà lòng ngổn ngang trăm mối. Vì lo hưởng thụ, mà ta xốn xang chạy khắp đó đây để thỏa mãn cơn đói khát ấy, cả ngày chỉ bận rộn về cái gọi là “những nhu cầu của đời sống hiện đại”! Nói cho cùng, chúng ta đi tới chỗ giống như một cửa tiệm sưu tầm đồ cổ, mà trên quầy đã chất đống những món đồ. Và để quên đi cảm tưởng bị ngộp thở vì cảnh bộn bề ngổn ngang này, ta vội chạy đến vớí những cuộc “săn tìm” mới lạ khác.

Nếu CHÚA GIÊSU không muốn để người ta chen lấn, xô đẩy Người trong những điều kiện này, thiết tưởng cũng là chuyện thông thường thôi.

Suy Niệm 5: Đi theo Chúa vì mục đích gì?

Có nhiều thái độ đi theo Đức Giêsu. Có người đi theo Đức Giêsu chỉ vì hiếu kỳ; có người vì trục lợi; lại có người theo vì hiệu ứng đám đông; nhưng cũng có người theo Đức Giêsu vì lòng mến. Tuy nhiên, con số này chỉ là thiểu số, đếm trên đầu ngón tay. Còn lại đa số họ theo Ngài vì thực dụng.

Hôm nay, Bài Tin Mừng thánh Máccô thuật lại việc Đức Giêsu được đám đông lũ lượt đi theo Ngài, đến nỗi Ngài phải ngồi trên một chiếc thuyền mà giảng dạy.

Họ đến với Ngài vì nghe danh tiếng và việc làm của Ngài khá nhiều. Thấy họ, Đức Giêsu lại một lần nữa chạnh lòng thương và ra tay tế độ cho họ bằng việc chữa lành nhiều thứ bệnh hoạn tật nguyền và xua trừ Ma Quỷ.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết chạy đến với Chúa để được Ngài chữa lành bệnh tật thiêng liêng và nhất là kín múc được nguồn ân sủng phong phú từ tình yêu của Ngài. Đồng thời cũng biết chọn Chúa làm lý tưởng, lẽ sống của cuộc đời, chứ không chỉ thực dụng trước mắt mà thôi.

Hơn nữa, ngang qua những hành động của Đức Giêsu, chúng ta cũng được mời gọi chạnh lòng thương đến người anh chị em chúng ta như chính Chúa đã chạnh lòng thương đến ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết chọn Chúa làm lý tưởng, lẽ sống và mục đích của cuộc đời. Xin trái tim của Chúa luôn là sự cuốn hút chúng con đến say mê, để chúng con luôn biết rung động trước sự khốn cùng của anh chị em chúng con. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 6: Tin và đến với Chúa sẽ được sống

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Dân chúng lũ lượt đến với Chúa để được Chúa cứu chữa khỏi những đau khổ bệnh tật. Chúa Giêsu là Đấng cứu độ. Ai tin vào Chúa và đến với Chúa sẽ được sống sung mãn.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, lòng thương xót của Chúa thật bao la, Chúa cùng các môn đệ muốn lánh đi một chút trước con mắt ngờ vực và âm mưu của nhóm Biệt phái và phe Hêrôđê. Nhưng Chúa không thể cầm lòng được trước cảnh tượng người ta lũ lượt đến với Chúa. Trong đó có rất nhiều bệnh nhân, nhiều kẻ bị quỷ ám. Chúa đã thương chữa lành tất cả.

Lạy Chúa, Chúa nhìn thấy nhân loại ngày xưa và nhân loại hôm nay vẫn là một nhân loại gánh chịu nhiều khổ đau. Chúng con nhìn lên Chúa là Đấng cứu độ giàu lòng thương xót. Con cảm tạ Chúa vì không một Danh hiệu nào dưới gầm trời này đã được ban cho chúng con để phải nhờ vào đó mà được cứu độ. Chỉ một mình Chúa mà thôi. Nhìn vào thế giới hôm nay, con thấy cũng có những người như luật sĩ và biệt phái lập thành bè nhóm để rình rập, bắt bẻ và chống đối Chúa. Nhưng trong khi đó, đông đảo tầng lớp dân chúng đau khổ thì đổ xô đến với Chúa, khao khát, lắng nghe Tin Mừng của Chúa, kêu cầu Chúa ban ơn cứu độ.

Lạy Chúa, xin Chúa tỏ lòng thương xót chúng con. Những người khỏe mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng Chúa biết chúng con cần đến Chúa. Con xin đặt vào bàn tay Chúa tất cả những yếu đuối, khổ đau và bệnh tật của con, của gia đình con và của toàn nhân loại. Mọi âu lo con xin trao phó cho Chúa. Con biết Chúa vui khi con chân thành và khiêm tốn kêu cầu Chúa. Và con muốn Tin Mừng Chúa lan rộng hơn nữa, để người người mọi nơi đến với Chúa và được ơn cứu độ. Amen.

Ghi nhớ: “Các thần ô uế vừa thấy Người, liền sụp lạy và kêu lên rằng: “Ngài là Con Thiên Chúa”, nhưng Người nghiêm cấm chúng không được tiết lộ gì về Người”.

Suy Niệm 7: Chúa Giêsu giảng dạy uy quyền

Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ

Câu chuyện

Tokichi Ishi-I, một tên giết người không gớm tay, đã hạ sát nhiều nạn nhân nhất bằng những phương thế dã man không thể tưởng tượng nổi. Hắn ta tàn nhẫn hạ sát đàn ông, phụ nữ kể cả trẻ em. Với bàn tay khát máu, hắn đã thủ tiêu bất cứ người nào tình cờ hắn gặp và muốn giết. Nhưng cuối cùng hắn cũng bị bắt và bị kết án tử hình.

Lúc ở nhà tù chờ ngày hành quyết, hai phụ nữ làm công tác tông đồ thử khuyên nhủ hắn, nhưng tất cả những câu hỏi han, trò chuyện của họ cũng không làm cho hắn mảy may động tâm, trái lại hắn nhìn thẳng vào họ với một cặp mắt dữ tợn như một hung thú.

Cuối cùng, mất hết kiên nhẫn hai phụ nữ ra về. Họ chỉ để lại cho hắn quyển Tân ước, với một hy vọng mỏng manh là hắn ta sẽ đọc và Lời Chúa sẽ hoạt động khi tiếng nói con người trở nên hoàn toàn bất lực. Niềm hy vọng của họ đã trở thành sự thật. Ishi-I đã đọc và những câu chuyện trong Tân ước hình như có một sự thu hút mãnh liệt khiến hắn cứ tiếp tục đọc, đọc mãi và cuối cùng hắn đọc đến câu chuyện diễn tả cuộc tử nạn của CHÚA GIÊSU. Câu CHÚA GIÊSUcầu nguyện với Chúa Cha trên thập giá: “Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”, đã thắng sự chống trả cuối cùng trong tâm hồn của hắn. Sau đó Ishi-I thuật lại: “Ðọc đến câu này tôi mới dừng lại. Con tim tôi hình như bị đánh động, bị đâm thâu bằng một con dao dài. Tôi có thể gọi đó là tình yêu của ông Giêsu hay tôi phải gọi đó là lòng thương xót của Ngài? Tôi không biết, nhưng điều duy nhất tôi biết là sự hung dữ, tàn bạo nơi tôi đã tan biến và tôi đã tin”.

Những nhân viên nhà giam có phận sự đến dẫn độ Ishi-I đi hành quyết ngạc nhiên tột độ. Họ đã không gặp được tên sát nhân hung bạo như họ chờ đợi, nhưng là một con người hòa nhã, lễ độ. Ishi-I, tên sát nhân đã được Lời Chúa tái sinh (Theo Lẽ Sống, Radio Véritas).

Suy niệm

Đức Kitô giảng dạy uy quyền, Lời Ngài vẫn luôn mang sức mạnh. Dân chúng kinh ngạc lời giảng dạy với giáo lý mới mẻ của Ngài, vì Lời Ngài giảng dạy có uy quyền. Sự uy quyền của Ngài chỉ một lời khiến thần ô uế đã phải vâng lệnh, ra khỏi người mà hắn quấy phá.

Thần ô uế (x. Mc 1,23) cũng như quỷ (x. Mc 1,32; 3,11a.15.22) luôn tượng trưng quyền lực sự dữ, luôn đối địch với Thiên Chúa và là sự chẳng lành với sức khỏe thể xác và tâm linh cho con người. Ðức Giêsu dùng uy quyền và phán một lời ra lệnh cho quỷ phải xuất khỏi nạn nhân bị ám. Lập tức, nó liền lay mạnh người ấy, rồi thét lên một tiếng rùng rợn trước khi xuất khỏi người ấy (x. Mc 1,26). Sự hiện diện của Đức Kitô uy quyền với lời giảng dạy đầy uy quyền, khiến ma quỷ, tà thần phải khuất phục Ngài. Lời đó đã làm cho niềm tin của dân chúng đặt vào Ngài – Đấng giảng dạy đầy uy quyền. Đấng Uy quyền đó là Đấng mà sách Đệ Nhị Luật 18,15-20 đã nói về lời hứa của Thiên Chúa dành cho dân, đó là tất cả niềm hy vọng của họ: Ðấng Thiên Sai cứu thế sẽ đến. Người sẽ là vị tiên tri trổi vượt trên hết mọi tiên tri. Thật thế, Người chính là Ðức Giêsu Kitô đã khiến cho người ta phải kinh ngạc.

Qua mọi thời, Đức Kitô vẫn luôn hiện diện đầy uy quyền, sức mạnh giáo huấn qua lời của Ngài vẫn mang quyền năng, văn sĩ Origene khẳng định rằng: “Nếu sách Thánh là sự thật, Thiên Chúa đã không chỉ nói trong Đại hội của người Do Thái, Ngài còn đang nói trong các Đại hội của chúng ta, trong các cuộc họp mặt của ngày hôm nay. Ngài giảng dạy không chỉ cho chúng ta và cho tất cả những người khác và trên toàn thế giới, những người tìm kiếm tất cả mọi phương tiện để lắng nghe lời của Ngài”.

Ngày hôm nay chúng ta vẫn còn những thần ô uế và sự dữ đang hoành hành trong thế giới, đó là chiến tranh, bệnh hoạn, bất công hiện diện khắp mọi nơi… Vẫn còn thần ô uế trong chính bản thân của mỗi người chúng ta: Đó là những tư tưởng xấu, những sự hận thù, những mưu toan chà đạp anh em, những tính toán gây hại đến người khác… Chúng ta cần chạy đến với Đấng có đầy uy quyền là Đức Giêsu Kitô. Chúng ta đến bên Ngài không chỉ để chiêm ngưỡng, ngạc nhiên và ngưỡng mộ Đấng Quyền năng như dân Do Thái xưa nghe Ngài giảng và thấy uy quyền trên thần ô uế, cũng như đã mở lòng đón nhận Lời quyền uy như Thánh Vịnh 130,5 dạy:

“Mong đợi Chúa, tôi hết lòng mong đợi, cậy trông ở lời Người”.

Ý lực sống: “Ngài ra tay chặn đứng,

lấy tay uy quyền giải thoát con” (Tv 138,7c).

Suy Niệm 8: Vì sao theo Chúa?

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)            

  1. Chúa Giêsu và các môn đệ đi ra bờ biển. Dân chúng từ khắp nơi theo Chúa rất đông, nên Người phải xuống thuyền giảng dạy để khỏi bị chen lấn. Người đã chữa lành nhiều bệnh nhân, nên hết thảy những kẻ đau yếu đều tuốn đến với Người. Còn ma quỉ mỗi khi thấy Người thì sụp lạy và tuyên xưng Ngài là Con Thiên Chúa.. Nhưng Người cấm không cho chúng tiết lộ điều đó để tránh sự dòm ngó của nhà cầm quyền, nhất là vì quần chúng còn hiểu lầm về sứ mạng của Người.
  2. Thánh Marcô cho biết danh tiếng Người đã đồn đi khắp nơi nên người ta từ mọi miền, các Thành Do thái cũng như các thành ngoại giáo, không biết là bao nhiêu người.

Nhưng có một điều muốn đặt ra ở đây là “động cơ nào” đã khiến người ta đến với Chúa đông như thế vì người ta chưa thực sự biết Chúa: ma quỉ biết Chúa Giêsu, nhưng chỉ biết trong thù hận; đám đông thì tìm đến với mục đích kiếm lợi; bà con thân thuộc của Ngài chỉ biết một cách hời hợt; những người biệt phái thì hoàn toàn mù tịt về con người của Chúa; chỉ có nhóm Mười Hai về sau này mới biết chính xác về Người.

Như vậy có nhiều động cơ nhưng theo như cách Chúa hành xử trong bài Tin Mừng hôm nay, có lẽ đa số người ta đến với Chúa vì động cơ vụ lợi và vật chất. Chính vì thế, nên khi ma quỉ muốn làm cho người ta hiểu Chúa Giêsu là một “nguồn lợi vật chất”, thì chính Chúa Giêsu đã phải tìm cách lánh xa và ngăn cấm.

  1. Phải công  nhận rằng, trong cuộc sống, việc con người đến với Chúa thường bị chi phối bởi rất nhiều động lực có tính cách trần thế. Tại sao vậy? Thưa, vì bản tính con người chúng ta vốn ích kỷ. Lòng ích kỷ đã biến chúng ta  thành những người chỉ biết nghĩ đến mình mà không cần biết đến những người khác. Tệ hơn nữa, là nhiều khi chúng ta còn coi Thiên Chúa là một nguồn lợi – các giám mục hai giáo phận Lyon và Saint Étienne bảo: nhiều khi các tín hữu còn biến Thiên Chúa thành một cái kho – để cho chúng ta đến mà khai thác và thủ lợi, hơn là đến để tỏ lòng tôn kính và biết ơn.

 Truyện: Jesus only.  

Câu chuyện sau đây do mục sư H.A. Ironside kể trong một buổi thuyết trình về Thánh Kinh:  Một nhóm Kitô hữu đang họp trong một ngôi nhà. Trước mặt tiền nhà, họ treo một biểu ngữ với hàng chữ “Jesus only” (chỉ vì Chúa Giêsu mà thôi). Một cơn gió mạnh thổi qua làm mất 3 mẫu tự đầu. Hàng chữ trở thành “Us only” (chỉ vì chúng ta mà thôi).

Mục sư kết luận: đối với một số Kitô hữu, họ tưởng hàng chữ đầu diễn tả đúng ý hưởng của họ, nhưng thực ra ý hướng của họ là hàng chữ thứ hai (Sunday School Times).

  1. “Nhưng Người cấm ngặt chúng không được tiết lộ Người là ai”(Mc 3,18).

Tại sao Chúa lại cấm ma quỉ tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa? Thưa, không phải tà thần tuyên truyền dùm Ngài, thực ra chúng muốn phá hại hoạt động của Ngài, vì khi làm như thế, chúng khiến dân chúng chỉ để ý tới khía cạnh quyền phép của Ngài và do đó sẽ không chấp nhận khi Ngài cho biết Ngài là Đấng Messia dùng Thập giá để cứu loài người. Bởi đó việc Ngài “cấm ngặt chúng không được tiết lộ Ngài là ai cũng là một biện pháp ngăn chận quan niệm sai lạc ấy (Lm Carôlô).

  1. Các Tông đồ theo Chúa một thời gian, nghe Ngài giảng dạy, chứng kiến phép lạ Chúa làm mà vẫn chưa hiểu rõ Ngài khi Ngài hỏi: “Phần các con, các con bảo Thấy là ai”(Mc 8,29)? Các ông cũng chỉ trả lời theo dư luận của quần chúng, trừ ông Phêrô được Thiên Chúa mạc khải cho: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Câu trả lời Ngài chờ đợi các môn đệ và mọi người chắc không phải là một công thức, một lời tuyên xưng trên môi miệng, nhưng là tất cả cuộc sống. Sự hiểu biết Chúa Giêsu chờ đợi nơi mọi người chúng ta không phải là một hiểu biết thuần trí thức, mà phải là một tương giao mật thiết.
  2. Truyện: Bệ hạ là tất cả của thần.

Ferdowsi (925-1020) thi sĩ người Ba tư, kể câu chuyện: Một quốc vương nọ phải đi qua sa mạc để đến một ốc đảo. Cùng đi với ông là cả triều đình. Họ mang theo vô số vàng bạc của cải. Dọc đường, một con lạc đà bỗng ngã quị. Từ trên lưng nó, một dòng thác vàng bạc châu báu chảy xuống cát. Người ta thấy được tức khắc sự tham muốn bừng lên trong mắt những người theo hộ giá nhà vua. Bằng một cử chỉ vương giả, quốc vương nói với những người tùy tùng:

– Các khanh hãy tự do nhặt lấy những thứ đó. Trẫm tặng cho các khanh tất cả. Các khanh cũng được tự do đi tiếp với trẫm hoặc lựa chọn con đường khác quay về.

Nói xong, ông tiếp tục lên đường không một chút do dự. Ông nghĩ, tất cả sẽ dừng lại để nhặt cho đến viên kim cương cuối cùng.

Đang đi ông bỗng nghe thấy có tiếng chân theo sau mình. Ông quay lại và nhận ra đó là người hầu cận được tiếng là trung thành nhất của ông. Ông âu yếm nhìn anh và nói:

– Sao nhà ngươi không ở lại nhặt vàng bạc trẫm đã ban tặng? Ngươi không biết rằng, với số vàng bạc ấy ngươi sẽ trở nên giầu sang không?

Người hầu cận trung thành trả lời:

– Tâu bệ hạ, ngài là vua. Đối với hạ thần, bệ hạ là kho tàng quí giá nhất. Bệ hạ là tất cả của thần.

Vâng, Giêsu cũng là Đấng quí giá nhất cho mỗi người chúng ta. Chúa phải là tất cả cho mỗi người chúng ta.

Suy Niệm 9: Hoạt động chữa bệnh và trừ tà của Chúa Giêsu

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Phân tích (Hạt giống…)

Trong đoạn này Mc ghi tóm lược hoạt động chữa bệnh và trừ tà của Chúa Giêsu:

– Chữa bệnh: do biết Chúa Giêsu có khả năng chữa bệnh, người ta từ khắp nơi đi theo Chúa Giêsu rất đông, đến nĩ Ngài phải bảo các môn đệ tìm cho Người một chiếc thuyền nhỏ cho Ngài lên đó”để khỏi bị đám đông xô lấn”. Biện pháp này nhằm làm dịu đi phần nào một niềm tin tưởng có phần vụ lợi và một quam niệm có phần sai lạc về Đấng Messia

– Trừ tà: những tà thần khi bị Ngài trục xuất đã tuyên bố lớn tiếng: “Ông là con Thiên Chúa” không phải tà thần tuyên truyền dùm Ngài thực ra chúng muốn phá hủy hoạt động của Ngài vì khi làm như thế chúng khiến dân chúng để ý đến khía cạnh quyền phép của Ngài và do đó sẽ không chấp nhận khi Ngài cho biết Ngài là một Đấng Messia dùng Thập giá để cứu loài người. Bởi đó việc Ngài cấm ngặt chúng không được tiết lộ Ngài là ai “cũng là một biện pháp ngăn chặn quan niệm sai lạc ấy”

  1. Suy niệm (…nảy mầm)
  2. Khi người ta chạy theo Chúa vì những động cơ vụ lợi và khi ma quỷ muốn làm cho người ta hiểu Chúa Giêsu là một nguồn lợi vật chất thì chính Chúa Giêsu phải có biện pháp lánh xa và ngăn cấm.
  3. Kinh nghiệm dạy cho tôi biết rằng khi ta thực sự đến với Chúa, Ngài không bao giờ để ta ra về với bàn tay trắng cả chỉ trừ khi ta đến với Ngài mà lòng đầy những tính toán vụ lợi (Phophecy Monthly)
  4. Câu truyện sau đây do Mục sư H.A. Ironside kể trong một buổi thuyết trình về Thánh Kinh:

Một nhóm Kitô hữu đang họp trong một ngôi nhà. Trước mặt tiền nhà, họ treo một biểu ngữ với hàng chữ “Jesus only” (Chỉ vì Chúa Giêsu mà thôi).

Một cơn gió mạnh làm bay mất 3 mẫu tự đầu, hàng chữ trở thành “us only” (chỉ vì chúng ta mà tôi)

Mục sư kết luận: “Đối với một số Kitô hữu, họ tưởng hàng chữ đầu tiên diễn tả đúng ý hướng của họ, nhưng thực ra ý hướng của họ là hàng chữ thứ hai. (Sunday school Times).

Cầu nguyện: Xin cho chúng con nhận ra được tình thương và ân sủng đích thực của Chúa.

Suy Niệm 10: Đến với Chúa Giêsu vì …

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe cho thấy ảnh hưởng của Chúa Giêsu lúc bấy giờ rất lớn: Từ miền Giuđê, từ Jêrusalem, từ xứ Iđumê, từ vùng bên kia sông Giođan và vùng phụ cận hai thành Tia và Siđôn, người ta lũ lượt đến với Người.

Người ta đến từ mọi miền, các thành Do Thái cũng như các thành ngoại giáo, không biết bao nhiêu ngàn người mà kể.

Thế nhưng, vấn đề đặt ra ở đây là động cơ nào đã khiến người ta đến với Chúa đông như thế. Có nhiều động cơ nhưng theo như cách Chúa hành xử trong bài Tin Mừng hôm nay thì có lẽ đa số người ta đến với Chúa vì động cơ vụ lợi và vật chất. Chính vì thế nên khi ma quỷ muốn làm cho người ta hiểu Chúa Giêsu là một nguồn lợi vật chất, thì chính Chúa Giêsu đã phải tìm cách lánh xa và ngăn cấm.

Kinh nghiệm dạy cho chúng ta biết rằng, khi chúng ta đến với Chúa mà lòng còn đầy dẫy những toan tính vụ lợi thì chắc là Chúa sẽ không vui, nhưng khi chúng ta thực tâm đến với Chúa với lòng tin tưởng và yêu mến thì chẳng bao giờ Chúa để cho chúng ta phải ra về với hai bàn tay trắng (Phophecy Monthly). Thế nhưng, thử hỏi có được mấy khi chúng ta đến với Chúa chỉ vì lòng tin tưởng và yêu mến Ngài như thế.

Trong một buổi thuyết trình về Thánh Kinh, Mục sư H.A. Ironside kể lại một câu chuyện có thật như thế này: Có một nhóm Kitô hữu tụ họp lại trong một ngôi nhà. Trước mặt tiền ngôi nhà đó, họ treo một biểu ngữ với hàng chữ “Jesus only” (Chỉ vì Chúa Giêsu mà thôi).

Nhưng rồi một cơn gió mạnh thổi đến làm bay mất 3 mẫu tự đầu. Hàng chữ “Jesus only” chỉ còn lại “us only” (Chỉ vì chúng ta mà tôi)

Mục sư kết luận: “Đối với một số Kitô hữu, họ tưởng hàng chữ đầu tiên diễn tả đúng ý hướng của họ, nhưng thực ra ý hướng của họ là hàng chữ thứ hai”. (Sunday school Times).

Phải nhận rằng, trong cuộc sống, việc con người đến với Chúa thường bị chi phối bởi rất nhiều động lực có tính cách trần thế. Tại sao như vậy? Thưa, vì bản tính con người chúng ta vốn ích kỷ. Lòng ích kỷ đã biến chúng ta thành những con người chỉ biết nghĩ đến mình mà không cần biết đến những người khác. Tệ hơn nữa là nhiều khi chúng ta còn coi Thiên Chúa thành một nguồn lợi – các đức giám mục hai Giáo phận Lyon và Saint Étienne bảo: nhiều khi các tín hữu còn biến Thiên Chúa thành một cái kho – để cho chúng ta đến mà khai thác và thủ lợi hơn là đến để tỏ lòng tôn kính và biết ơn.

  1. Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta được hiểu Chúa rõ hơn để từ đó chúng ta biết đến với Chúa và sẵn sàng theo Chúa bằng tất cả tấm lòng thành của chúng ta.

Ferdowsi (925–1020) thi sĩ người Ba tư sống vào thế kỷ 11, kể câu chuyện: Một quốc vương nọ phải đi qua sa mạc để đến một ốc đảo. Cùng đi với ông là cả triều đình. Họ mang theo vô số bạc vàng của cải. Dọc đường, một con lạc đà bỗng ngã quị. Từ trên lưng nó, một dòng thác vàng bạc châu báu chảy xuống cát. Người ta thấy được tức khắc sự tham muốn bừng lên trong mắt những người theo hộ giá nhà vua. Bằng một cử chỉ vương giả, quốc vương nói với những người tùy tùng:

– Các khanh hãy tự do nhặt lấy những thứ đó. Trẫm tặng cho các khanh tất cả. Các khanh cũng được tự do đi tiếp với trẫm hoặc lựa chọn con đường khác quay về.

Nói xong, ông tiếp tục lên đường không một chút do dự. Ông nghĩ, tất cả sẽ dừng lại để nhặt cho đến viên kim cương cuối cùng.

Đang đi ông bỗng nghe có tiếng chân theo sau mình. Ông quay lại và nhận ra đó người hầu cận được tiếng là trung thành nhất của ông. Ông âu yếm nhìn anh và hỏi:

– Sao nhà ngươi không ở lại nhặt vàng bạc trẫm đã ban tặng? Ngươi không biết rằng, với số vàng bạc ấy ngươi sẽ trở nên giàu sang không?

Người hầu cận trung thành trả lời:

– Tâu bệ hạ, ngài là vua. Đối với hạ thần, bệ hạ là kho tàng quí giá nhất. Bệ hạ là tất cả của thần.

Vâng! Giêsu cũng phải là Đấng quí giá nhất cho mỗi người chúng ta. Chúa phải là tất cả cho mỗi người chúng ta.

Hiểu được như thế, chúng ta sẽ đến với Chúa bằng những động lực khác. Sẽ không còn những tính toán ích kỷ và những lý do hoàn toàn trần thế, nhưng sẽ là với lòng tin kính, mến yêu và tha thiết gắn bó với Chúa để rồi sau đó chúng ta sẽ thấy: Cuộc đời tất cả là hồng ân Chúa ban và chúng ta sẽ dùng những hồng ân đó để cảm tạ và làm vinh danh Chúa.

Lạy Chúa, khi đến với Chúa,

chúng con thường mang mặt nạ

để che giấu cái trống rỗng bên trong.

Xin Chúa giúp chúng con

biết nhìn vào cuộc sống của Chúa

để xây dựng cuộc đời của chúng con

để mỗi ngày được trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa. Amen.

 

Xin Chúa chữa bệnh

Thiên Chúa là tình yêu. Người muốn trao ban tình yêu ấy cho nhân loại để ai tin và đón nhận Người thì được cứu độ. Nhằm tỏ bày tình yêu, Thiên Chúa đã dùng nhiều cách, nhưng phương thế cuối cùng và hoàn hảo là qua chính Con Một Người (Dt 1,1-2).

Nghe biết các việc Chúa Giêsu đã làm, người ta lũ lượt kéo đến với Người; việc tìm đến với Chúa mới chỉ là bước đầu cho một tiến trình đón nhận ơn cứu độ. Một cách tiệm tiến, Thiên Chúa dẫn đưa họ vào mầu nhiệm tình yêu trọn vẹn nơi cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Giêsu, để rồi cùng với Chúa Giêsu họ sẽ dâng về cho Thiên Chúa một tình yêu tự do và trọn hiến. Quá trình mạc khải không nhằm cho con người một danh xưng hay một khái niệm, song là một tình yêu. Và tình yêu phải được đáp trả bằng tình yêu, chứ không thể chỉ bằng sự hiểu biết suông hay ‘tụng kinh’ suông trên môi miệng.

Tin Mừng hôm nay vẽ nên khung cảnh hữu tình giữa thiên nhiên và con người. Dưới biển là Chúa Giêsu trên chiếc thuyền nhỏ; trên bờ là đám đông đang quây quần. Họ từ nhiều nơi tuôn đến, họ mang nhiều loại bệnh tật. Họ đang dồn con tim, mơ ước, trăn trở, và cả những đớn đau hồn xác của họ về phía Chúa Giêsu. Họ khát khao, mong chờ, hy vọng Ngài sẽ bù đắp, chữa lành và nâng đỡ họ.

Tin Mừng hôm nay, dường như tác giả muốn đưa chúng ta vào một sự hiểu biết như thế. Thánh Marcô trình bày cho chúng ta nhiều phản ứng hay đúng hơn nhiều nhận thức khác nhau về con người Chúa Giêsu.

Trước hết là đám đông từ các nơi tìm đến với Chúa Giêsu, họ nghe và chứng kiến nhiều phép lạ Ngài thực hiện. Nhưng trong nhận định của Marcô, đám đông chỉ tìm đến để được ăn no nê, để được chữa trị khỏi các bệnh tật, chứ không phải để hoán cải; đám đông chỉ thấy cái trước mắt là phép lạ, mà không đọc ra được ý nghĩa của phép lạ là dấu chỉ của Nước Trời mà Chúa Giêsu đã loan báo. Nói tắt, đám đông không biết gì về Chúa Giêsu, và đây là lý do tại sao Chúa Giêsu tỏ ra dè dặt đối với đám đông, Ngài thường lẩn tránh họ. Duy chỉ có ma quỷ biết Chúa Giêsu là ai, nhưng biết đối với ma quỷ không đồng nghĩa với tri giao, mà chỉ là thù hận.

Ðặt vào đúng văn mạch, thì Tin Mừng hôm nay muốn trình bày cho chúng ta nhiều thứ hiểu biết về Chúa Giêsu: ma quỷ biết Chúa Giêsu, nhưng biết trong thù hận; đám đông thì tìm đến với Ngài vì mục đích trục lợi; bà con thân thuộc của Ngài chỉ có về Ngài một sự hiểu biết hời hợt, thiếu chiều sâu; những người Biệt phái thì hoàn toàn mù tịt về con người Chúa Giêsu; chỉ có Nhóm Mười Hai về sau này mới có một hiểu biết chính xác về Ngài. Nhưng đối với Chúa Giêsu, biết Ngài không chỉ là một nhận thức của trí tuệ, mà là đi vào tri giao mật thiết với Ngài, đi theo Ngài, nên một với Ngài. Ðó là lý do tại sao sau khi Phêrô đại diện Nhóm Mười Hai tuyên xưng Ngài là Ðức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống, Ngài liền loan báo về cuộc Tử nạn của Ngài và mời gọi họ vác lấy Thập giá mỗi ngày và đi theo Ngài. Và đó chính là sự hiểu biết về Ngài mà Chúa Giêsu đang chờ đợi nơi mỗi Kitô hữu. Biết và tuyên xưng trên môi miệng mà thôi chưa đủ, biết Ngài thật sự là nên một với Ngài đến độ thốt lên như Thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”.

Khung cảnh đẹp này hẳn đã đủ để thu hút tôi, bạn và anh chị sẵn lòng dành những giây phút đẹp nhất, ý nghĩa nhất trong ngày sống để lãnh nhận Lời Chúa, để gặp gỡ Chúa. Hy vọng cuộc gặp gỡ hôm nay sẽ đầy tràn niềm vui và ý nghĩa nhờ sức hút tỏa ra từ Chúa Giêsu, từ những phận đời đang lũ lượt đi theo Người, lũ lượt đến với Người.

Trước hết, thật dễ dàng để ta nhận ra động lực thúc đẩy đám đông đến với Chúa: họ nghe biết những gì Chúa Giêsu đã làm. Hữu xạ tự nhiên hương, tiếng lành đồn xa.

Thử hỏi, Chúa Giêsu đã làm gì khiến Ngài thu hút dân chúng đến thế ? – Lần theo mạch văn, ta tìm được phần nào câu trả lời: Ngài rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa và gọi các môn đệ đầu tiên (1, 14-20), chữa bệnh tại Capharnaum (1, 21-45), làm cho các Kinh sư và Pharisêu phải bẽ mặt trong các cuộc tranh luận (2, 1 – 3,5).

Dân chúng miền Galilê và Giuđa năm xưa vui mừng hớn hở vì tìm được nguồn hy vọng hòng thoát khỏi những bế tắc trong lối sống ; tìm được sức mạnh hòng nhanh chóng khuất phục thế lực quỷ thần ; tìm được ý nghĩa đời mình hòng sống an hạnh trong tình yêu và niềm vui.

Kế đến, nhìn vào bản thân, mỗi người chúng ta không chỉ nghe biết những gì Chúa đã làm, mà chắc chắn ít nhiều trong hành trình đời mình, ta đã chân nhận ít nhiều những gì Chúa đã làm cho chính bản thân ta, cho những người thân thuộc của ta. Ta cũng chẳng phải khó nhọc để tìm đến với Chúa như người xưa. Nhưng xem ra, sức hấp dẫn của Chúa Giêsu chưa thể lớn bằng các tạo vật khác, nên ta còn đứng xa, còn chưa quan tâm đủ, còn chưa thật sự khát khao gặp gỡ Ngài. Hơn nữa, dương như chính ta cũng chưa đủ sáng, chưa đủ thông để nhận ra mình đang mang những tật bệnh hồn xác, đang phải đối diện với cuộc sống đầy hiểm nguy bởi đủ thứ lạc thuyết và đam mê, nên chưa thấy cần phải chữa trị, chưa thấy mình phải tìm thầy chạy thuốc.

Thậm chí, khi xuôi ngược trong sứ vụ loan báo Tin Mừng, liệu những gì ta nói và những việc ta làm có đáng để người nghe chúng ta được thúc đẩy tìm đến với Chúa Giêsu như kinh nghiệm của đám đông trên đây chăng ?

Cùng nhau ta ở lại với Chúa Giêsu thêm ít phút nữa. Mỗi người hãy để Lời Chúa hôm nay soi chiếu mọi ngõ ngách, mọi nơi mọi chốn, kể cả những góc khuất lâu năm meo mốc của  đời ta, của hồn ta, để ta được chữa lành các tật bệnh ; được thanh tẩy các nhơ uế ; và nhất là được có đủ uy tín mà giới thiệu Chúa Giêsu cho anh chị em ta. Chính nơi Chúa, ta tìm về để lãnh nhận Tin Mừng và cũng từ Chúa, ta đi ra loan báo Tin Mừng.

Lm Anton Tuệ Mẫn

 

Lũ lượt đến với Chúa 

Tin Mừng hôm nay cho ta thấy không khí những ngày đầu Chúa Giêsu bắt đầu đi giảng dạy: “từ miền Galilê người ta lũ lượt đi theo Người…vì nghe biết những gì Người đã làm”. Câu này với một đoạn văn ngắn, thánh Maccô đã nhắc đến 2 lần, chứng tỏ tiếng lành của Chúa đã lan truyền rộng rãi như thế nào.

Dân chúng Do Thái, họ đang sống một cuộc đời lầm than cơ cực dưới hai tầng áp bức là đế quốc Rôma ngoại bang và chính quyền Do Thái. Với đế quốc Rôma họ cai trị hà khắc thuế má nặng nề. Còn chính quyền Do Thái, họ nắm quyền đời và cả quyền đạo để cai trị. Họ lấy danh Chúa, quyền của Chúa để cai trị dân mà sai lầm, ác độc. Vì vậy chỉ thấy những gánh nặng chất lên đầu lên cổ người dân, làm họ đói khổ, phần hồn, phần xác.

Trong bối cảnh ấy, một thanh niên Giêsu xuất hiện lanh lợi thông minh, dễ dãi, thương yêu… mà lại làm được những việc lạ lùng xưa nay chưa ai làm được. Nhất là đem đến của ăn, giữa cơn đói khát, chữa trị bệnh nạn tật nguyền thật là dễ dàng mà chẳng phải tốn công tốn của gì. Thật là tuyệt vời, dân chúng như là sắp chết đuối lại vớ được cọc, được phao cứu sinh. Như nai đang khát lại gặp được suối nước trong, còn gì mà họ không theo, không xúm đến.

“Quả thế, Người đã chữa lành nhiều bệnh nhân, khiến ai ai có bệnh cũng đổ xô đến để sờ vào Người”. Chúa Giêsu đã biết trước điều ấy nên “ Người đã bảo các môn đệ dành sẵn cho Người một chiếc thuyền nhỏ” để Chúa được tự do tiến lui, nếu không thì sự chen lấn có thể sẽ làm náo loạn. Đấng Cứu Thế của Thiên Chúa hôm nay chưa rõ dân chúng đã có ai nhận ra, nhưng ma quỷ thì rành hơn, chúng đã nhận ra Người, nhận biết cả quyền năng của Chúa nữa nên đã kêu van Người, vì Chúa hiện diện ở đâu thì chúng bị đe doạ, bị tiêu diệt: “Các thần ô uế hễ thấy Đức Giêsu thì sấp mình dưới chân Người và kêu lên: Ông là con Thiên Chúa, nhưng Người cấm ngặt chúng không được tiết lộ Người là ai”.

Chúa “cấm ngặt chúng không được tiết lộ…”, bởi vì giờ Chúa chưa dến, vì sợ dân chúng xúm đến mà tôn vinh ông vua vật chất của họ chăng? Chúa đến trần gian không phải cốt để làm những phép lạ đem lại mấy đồ ăn đồ uống hay chữa lành mấy bệnh tật phần xác cho con người. Nhưng sứ mệnh của Người còn lớn lao vô cùng: Người rao giảng cho ta hiểu biết về Thiên Chúa, hiểu về Nước Thiên Chúa là nơi được sống hạnh phúc vĩnh cửu. Nơi ấy Chúa dành cho những ai biết và yêu mến Người, chứ không phải mấy thứ ở đời mau qua này.

Vì vậy có lần Chúa đã dạy: “Trước hết hãy tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người đã còn tất cả mọi sự Người sẽ thêm cho”(Mt 6,33). Còn thánh Phaolô tông đồ dân ngoại ngài đã khẳng định: “Thầy chẳng mừng vì thầy đã được học biết những gì, thầy chỉ mừng vì thầy đã được biết Đức Kitô là Chúa đã chịu chết vì chúng ta”.

Giờ đây Chúa Kitô đã đến trần gian dạy cho ta về Thiên Chúa và chương trình cứu độ của Người do Chúa Giêsu thực hiện. Mỗi người đã ý thức về việc học hỏi lời Chúa, mà nhận ra thánh ý Chúa cho cuộc đời mỗi người chúng ta chưa? Chúng ta có yêu mến, chăm chỉ học hỏi, thực hành Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô không? Vì chỉ có Chúa Giêsu Kitô mới là Đấng cứu độ duy nhất của toàn thể nhân loại (Cv 4,12).

Lạy Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa! Con cảm tạ Chúa vì đã đem giáo lý từ Trời đến dạy dỗ nhân loại. Xin cho nhân loại ngày nay cũng biết “ lũ lượt”đến với Người mà vâng nghe.  Xin cho con biết yêu mến và luôn kiên trung thực hành giáo lý Người dạy. Vì chỉ có con đường ấy con mới được về hưởng hạnh phúc muôn đời cùng Chúa. Amen.

Giuse Ngọc Năng

 

Muôn dân quy tụ bên Người

Mỗi Chúa nhật là ngày giáo dân cùng quy tụ lại để lắng nghe Lời Chúa và lời giáo huấn của các linh mục tại giáo xứ. Để giáo dục các con trẻ giữ nề nếp này, từ tuổi ấu nhi các bé đã theo chân cha mẹ vào thánh đường tham dự thánh lễ. Hình thành nơi các bé một thói quen “ngày của Chúa”, là nơi sinh hoạt và mở ra cho các con biết những điều về thế giới xung quanh là công trình của Đấng Tạo Hóa. Thiếu nhi Thánh Thể trưởng thành, được học lời Chúa song song với việc học văn hóa trở thành những Kitô hữu đạo đức, có chuyên môn, tất cả là do sự nổ lực của cha mẹ. Điều đáng để chúng ta quan tâm, liệu có phải con cái chúng ta  đến với Chúa trong tâm tình sốt sắng, cùng hiệp thông tôn vinh Thiên Chúa hay chỉ là một thói quen đến hẹn lại lên. Vì khi tham dự thánh lễ, có người vẫn liên tục lướt web, vẫn chuyện trò to nhỏ, làm chia trí những người xung quanh. Thánh Bênađô từng nói: “ Kẻ thù đáng ghê sợ hơn cả, chính là kẻ thù trong mình ta”.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, sự kiện rất đông dân chúng từ các miền khác đổ dồn về nơi Chúa cùng các môn đệ, gồm đủ mọi thành phần không phân biệt người Do Thái hay người ngoại giáo, già, trẻ…, sự nổi tiếng của Chúa Giêsu đã lôi kéo  nhiều kẻ tò mò muốn biết về Ngài, chúng ta nhận thấy Chúa đã lường trước sự việc: “Vì đông dân chúng, nên Người bảo các môn đệ liệu cho Người một chiếc thuyền, kẻo họ chen lấn Người”. Con người ta luôn có tính hiếu kỳ muốn thấy điều lạ lùng, có phải đoàn người đến lắng nghe Chúa giảng dạy và chữa bệnh chăng? Thật ra, trong số người nghe rao giảng và những người cần chữa bệnh cũng có kẻ muốn xem Chúa làm phép lạ. Vì “Người đã chữa lành nhiều bệnh, nên bất cứ ai mắc bệnh tật gì đều đến gần để động đến Người”.. Họ không hiểu rằng các bệnh nhân được khỏi bệnh, xuất phát từ lòng thương xót của Chúa và niềm tin tưởng tuyệt đối của người bệnh với Người. Chúa đang thực hiện việc loan báo Tin Mừng theo thánh ý Chúa Cha, để muôn người được biết Ơn Cứu Độ là hồng ân của Thiên Chúa ban cho con người. Thánh Bônaventura chia sẻ: “ Đấng đã làm biết bao công trình và đã chịu biết bao đau khổ để cứu tôi, sao Người lại có thể từ chối mà không ban cho tôi mọi ân sủng cần thiết cho sự cứu độ tôi chứ?  Hồng ân của Chúa sẽ ban dư đầy trên con cái Người, theo thánh Ausgustino : “Chúa muốn ban ơn cho ta nhiều hơn là ta muốn” chúng ta xin dâng niềm kính yêu và tôn thờ Đấng giàu tình Thương Xót.

Là thành viên Huynh Đoàn Đa Minh, chúng ta có nhận ra vấn đề then chốt : “ tất cả mọi thay đổi bắt nguồn từ trái tim con người : đầu tiên, một người phải thay đổi nội tâm, suy nghĩ và sống theo các giới răn của Chúa; sau đó, người ấy mới có thể thay đổi môi trường bên ngoài. Sự hoán cải tâm hồn, điều chúng ta phải cố gắng thực hiện mỗi ngày, là bước khởi đầu thật sự cho một thế giới tốt đẹp hơn.” (Docat 25,18). Bước vào tuần lễ cầu nguyện cho sự hiệp nhất các Kitô hữu, chúng ta hãy là những ngọn nến nhỏ thắp sáng, tạo nên sự ấm áp là mối liên kết giữa mọi người trong vòng tay yêu thương của Cha trên trời.

LHTH

 

Hãy đến với  Chúa Giêsu Ki-tô 

Ghi nhớ:

Người ta lũ lượt đến với Người, vì nghe biết những gì Người đã làm”. (Mc 7, 8)

Suy niệm:

Vài năm trở lại đây, xảy ra một hiện tượng là : Mỗi ngày ( hiện nay nghỉ ngày thứ hai đầu tuần) có hàng ngàn người ở khắp nơi; từ Bắc tới Nam, thậm chí ở nước ngoài cũng đến hành hương tại Giáo Điểm Tin Mừng (địa chỉ 1201/12 Nguyễn văn Tạo, xã Hiệp Phước, huyện nhà Bè. T.P HCM). Nơi đây do cha Giuse Trần đình Long coi sóc. Họ đến đây với hai mục đích chính; Xin ơn và tạ ơn.

Rất nhiều người xin ơn và họ đã được Lòng Thương Xót Chúa cho toại nguyện! Vì vậy họ lại trở lại để tạ ơn Ngài.

Một việt kiều ở Mỹ về chia sẻ:

  • Tôi có đứa con trai, học hành giỏi giang, khôi ngô tuấn tú, thành đạt trong cuộc sống, Nhưng nó lại có tư tưởng vô thần, không tin tưởng Chúa, mặc dầu tôi đã khuyên bảo đủ cách, vậy mà nó vẫn cứng lòng. Quá buồn vì thấy con mình ngày càng xa Chúa có nguy cơ mất “ phần rỗi” nên tôi chỉ còn biết chạy đến Lòng Thương Xót Chúa mà cầu khẩn đêm ngày! Thế rồi Chúa đã nhận lời. Một lần tôi nói với nó:
  • Hôm nay bố bị bệnh không thể tự lái xe đi dự lễ được! Con làm ơn lái xe đưa bố đi lễ nhé! Nó  nghe lời lái xe chở tôi đi  và cũng vào nhà thờ tham dự thánh lễ. Kể từ hôm đó nó đã ăn năn sám hối và trở về cùng Chúa. Tôi mừng khôn xiết! Và hôm nay về đây hành hương để tạ ơn Chúa vì Ngài đã Xót Thương biến đổi cuộc đời của người con trai tôi!

Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật lại việc Chúa Giê-su đã làm  nhiều phép lạ chữa lành rất nhiều bệnh nhân, vì thế cho nên người nọ đã thông tin cho người kia, bởi vậy người ta mới lũ lượt tìm đến với Người, trong lòng mong muốn là mình cũng được Chúa chữa khỏi mọi bệnh tật. Phúc Âm ghi rõ: “Quả thế, Người đã chữa lành nhiều bệnh nhân, khiến ai ai có bệnh  cũng đổ xô đến để sờ vào Người”.(Mc 3, 10). Chúa Giê-su không chỉ lôi quấn người ta đến với Ngài bằng những phép lạ mà Chúa còn hấp dẫn người ta đến với Người qua lời giảng dậy tốt đẹp của Ngài nữa! “Thiên hạ sửng sốt về những lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyển, chứ không như các kinh sư”(Mc  1, 22).

Chỉ vì yêu thương nhân loại Chúa đã đến dạy bảo con người những điều hay lẽ phải để mọi người đem ra thực hành trong đời sông của mình hầu tìm được hạnh phúc ngay ở đời này và nhất là hạnh phúc vĩnh viễn vô cùng đời sau.

Chỉ vì yêu thương nên Chúa đã ra tay chữa lành bệnh cho tất cả những ai tin tưởng tìm đến với Ngài.

Chúng ta cũng phải tin tưởng tìm đến với Ngài để khẩn cầu Ngài chữa lành cho chúng ta mọi chứng bệnh về thể xác cũng như tâm hồn. Đồng thời cũng  xin noi gương Ngài biết hy sinh phục vụ mọi người, nhất là những người yếu đau bệnh tật cần đến sự giúp đỡ chia sẻ của chúng ta

Cầu nguyện:

Lạy Chúa, xin chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền thể xác cũng như tinh thần của chúng con. Hầu mỗi ngày chúng con được trở nên giống Chúa hơn, biết yêu thương và phục vụ mọi người như Chúa đã yêu thương và phục vụ. Amen.  

Sống Lời Chúa:

Lý tưởng sống: “Yêu thương và phục vụ trong khiêm tốn”

Đaminh Trần văn Chính

 

Không được tiết lộ

Trình thuật Tin Mừng hôm nay tiếp nối sau hai vụ tranh luận của nhóm Pharisêu với Đức Giêsu. Trước những lời giảng dạy uy quyền, thu hút dân chúng, Người còn chữa bệnh bất kể ngày Sabat, xảy ra đụng độ, họ bị mất thể diện ngay trong hội đường. Họ thấy mình bị tổn thương danh dự và bị mất quyền lợi, nên họ nổi cơn ghen ghét, bực tức. Nhiều lần họ bàn nhau tìm cách để loại trừ Người.

Cùng lúc có hai thái độ trái ngược nhau: Đức Giêsu thì vất vả lang thang đó đây để cứu sống con người; còn những người Pharisêu lại ích kỷ tìm cách diệt trừ Đấng ban sự sống. Người không phản đối, không lấy quyền uy trong tay mà dẹp trận. Người lẳng lặng lánh đi nơi khác. Nhưng dù Người lánh đi, dân chúng vẫn theo Người đông đảo. Người lại tiếp tục “hành nghề”, lấy lòng nhân hậu thương xót mà chữa lành hết. Người gây ảnh hưởng nhiều làm gai mắt nhóm Pharisêu, cứ như vậy thì sớm hay muộn họ cũng tìm bắt và giết Người thôi.

Nhưng Người cấm ngặt chúng không được tiết lộ Người là ai.” (Mc 3, 12). Người cấm không cho các thần ô uế tiết lộ tông tích Người là ai, để Người có thể đi lại dễ dàng và thi hành sứ vụ của Người. Ngày nay chúng con lại cứ thích nổi cơ! Có khi chưa được người khác biết đến, là chúng con cố gắng thể hiện mình, khéo phô trương kẻo nhiều người chưa thấu tỏ.

Chúa ơi! Ngày xưa Chúa đến trần gian âm thầm lặng lẽ nơi cánh đồng hoang vu. Ba mươi năm Chúa sống hiền lành ẩn dật, làm con nhà thợ mộc nơi làng quê nghèo khó. Ba năm lang thang rao giảng, Chúa chọn gọi môn sinh toàn những người ít học, chẳng có thế giá. Trường Chúa dạy không có tài liệu sách vở, nhưng là sống sát sườn với Thầy, bài học từng ngày khắc ghi vào tim gan trí lòng. Bị chối từ, chống đối, ngược đãi Chúa không mở miệng kêu to, không dùng uy quyền mà chống trả, nhưng nhẫn nhục chịu đựng cho đến khi bị giết chết treo trên đồi vắng. Cả cuộc đời Chúa sống gần gũi với con người và còn dùng chính Thịt Máu mình nuôi chúng con, là minh chứng cho một tình yêu. Dù phải chết như một tử tội, nhưng cuối cùng Chúa đã Phục Sinh chiến thắng khải hoàn, “… cho đến khi Người đưa công lý đến toàn thắng, và muôn dân đặt niềm hy vọng nơi danh Người.”

Cho đến hôm nay Chúa vẫn âm thầm lặng lẽ trong những tâm hồn rộng mở, khát khao có Chúa ở cùng. Để trong những phút giây đời thường giản dị, dù bị lãng quên như không có, thì trong những giây phút lắng đọng, những người ấy luôn cảm nhận sự hiện diện của một Thiên Chúa sống động, êm ái ngọt ngào trong tim. Có khi nơi những dáng vẻ bề ngoài như không có chi, mà tự trong đáy con tim, tình mến vẫn luôn đong đầy, còn âm thầm tỏa lan trải rộng đến với mọi người gặp gỡ. Và con vẫn cậy trông nơi lòng nhân hậu Chúa, vì dẫu cho tim đèn con có leo lét, thì Chúa vẫn yêu, vẫn không nỡ dập tắt đi, phải không Chúa?

Én Nhỏ

 

Người là Con Thiên Chúa 

Bài Tin Mừng hôm nay được coi là một bản tóm lược những hoạt động của Đức Giêsu tại vùng phía biển hồ. Ngài rút lui về vùng này không phải vì sợ bị hãm hại, nhưng để mở rộng phạm vi hoạt động hơn. Như trước đây không lâu, mọi người từ vùng Giuđê và Giêrusalem kéo tới xin chịu thanh tẩy bởi ông Gioan, thì giờ đây một đám đông lớn hơn từ khắp mọi vùng miền tuôn đến với Đức Giêsu. Có thể nói cả dân Ítraen hào hứng tụ họp bên ngài.

Khi các thần ô uế thấy Ngài thì sụp lạy và kêu lên rằng Ngài là con Thiên Chúa. Nhưng Đức Giêsu cấm quỷ nói Ngài là Con Thiên Chúa, vì nếu nhờ đó mà nhiều người tìm đến với Ngài để xin được chữa bệnh, thì ngăn trở cho việc rao giảng của Ngài. Bởi vì sứ mệnh chính của Ngài đến trần gian là loan báo Lời của Chúa Cha cho nhân loại, để họ biết cách sống mà được cứu độ. Một số trường hợp Đức Giêsu chữa lành bệnh nhân, để cho dân chúng nhận ra Ngài là Đấng Cứu Thế và đó cũng là dấu chỉ chứng minh Ngài là Thiên Chúa có quyền tha tội, vì người Do Thái quan niệm bệnh là hậu quả do tội gây nên.

Những tà thần khi bị Người trục xuất đã tuyên bố lớn tiếng “Người là Con Thiên Chúa”. Ở đây, không phải tà thần tuyên truyền dùm Người, thực ra chúng muốn phá hoại hoạt động của Người, vì khi làm như thế, chúng khiến dân chúng chỉ để ý tới khía cạnh quyền phép của Người và do đó sẽ không chấp nhận khi Người cho biết Người là một Đấng Messia dùng Thập giá để cứu độ loài người. Bởi đó việc Người “nghiêm cấm chúng không được tiết lộ gì về Người” cũng là một biện pháp ngăn chặn quan niệm sai lạc ấy.

Xin Chúa cho chúng ta biết nhận ra sự cần thiết của Chúa trong cuộc sống, biết nhận ra bàn tay và quyền năng của Chúa thể hiện trong cuộc đời của chúng ta, để biết cùng nhau tìm đến ca tụng và tôn vinh Chúa qua các Thánh lễ, giờ chầu, các giờ kinh nguyện. Nhờ đó chúng ta sẽ hiểu biết về Chúa, được Chúa yêu thương chữa lành, và được sống trong tình yêu thương của Ngài.

Cuộc sống vất vả gian truân

Khổ đau gian khổ bao lần xảy ra

Lòng người cảm thấy xót sa

Đôi khi nản chí tưởng là buông trôi

*

Xem như số mệnh đã rồi

Bi quan thất vọng cuộc đời tiêu tan

Có khi trách móc phàn nàn

Tại sao như thế! Than van một mình

*

Chợt nhìn ra Đấng công minh

Cậy trông phó thác tâm tình cầu xin

Lại thêm củng cố đức tin

Chúa thương phù hộ giữ gìn con đây

*

Thương đau rồi cũng qua ngay

Niềm vui trở lại tràn đầy mãi luôn

Xua tan quá khứ u buồn

Hân hoan phấn khởi trào tuôn ơn lành

*

Cuộc sống đâu chỉ “màu xanh”

Đôi khi điểm chút long lanh “tím màu”

Chớ đừng thất vọng u sầu

Hãy tin vào Chúa bền lâu mãi hoài

*

Quá khứ, hiện tại, tương lai

Buồn – vui – sướng – khổ: miệt mài cậy trông

Chắp tay nguyện ước cầu mong

Vững tin nơi Chúa cho lòng bình yên

Lạy Chúa! Sự hiện diện của Chúa luôn nâng đỡ những ai mang gánh nặng nề hay đang cô đơn thất vọng. Chúa luôn đi bước trước trong tình yêu. Chúa không chờ người ta kêu xin, Chúa không đợi người ta van nài. Trái tim Chúa luôn chạnh lòng xót thương. Xin cho đôi chân của chúng con cũng nở hoa yêu thương trên hành trình chúng con đi. Xin loại trừ nơi chúng con thói hưởng thụ và tính ích kỷ để chúng con sống có ích cho tha nhân. Xin giúp chúng con luôn làm vinh danh Chúa qua đời sống hằng ngày của chúng con. Amen.

HOÀI THANH  

 

 Dân chúng đi theo Đức Giêsu

 

1- Ghi nhớ:

“Người đã chữa lành nhiều bệnh nhân, nên bất cứ ai mắc bệnh tật gì đều đến gần để động đến Người” (Mc 3, 10).

2- Suy niệm:

Sự hấp dẫn của Đức Giê-su thật là mãnh liệt. Nơi nào có Ngài xuất hiện là nơi ấy có dân chúng tuôn đến với Ngài. Cứ tưởng lánh về phía biển Hồ là nơi hoang vắng, dân chúng sẽ không biết đến. Thế nhưng từ miền Ga-li-lê người ta lũ lượt đi theo Ngài, từ miền Giu-đê-a, từ Giê-ru-sa-lem, từ xứ I-đu-mê, từ vùng bên kia sông Gio-đan và vùng phụ cận hai thành Tia và Xi-đôn người ta cũng tấp nập tìm đến với Ngài.

Tại sao dân chúng lại tìm đến với Đức Giê-su nhiều như vậy? Bởi vì thiên tính của Ngài tỏa rạng và nhân cách của Ngài tỏa sáng. Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ, nhiều bệnh nhân đã được chữa lành. Do đó danh tiếng của Ngài được loan truyền khắp mọi nơi, ngay cả thần dữ cũng phải tôn vinh Ngài. Ma quỷ tìm cách bêu rếu danh xưng của Đức Giê-su: Người là con Thiên Chúa, chúng sợ hãi trước sức mạnh nội tại nơi Ngài phát ra, nên chúng muốn gây hiểu lầm, gây tranh cãi  và gây bất hòa giữa những người  đã tin, chưa tin hay niềm tin còn lu mờ lỏng lẻo trong dân chúng.

Tuy nhiên, Đức Giê-su đã dùng chính sự tự mãn của ma quỷ để chiến thắng chúng, nhưng không theo cách của thế gian mà theo cách của Thiên Chúa. Đó chính là Con Thiên Chúa tự hạ nên giống con người mọi đàng, trừ tội lỗi, nhất là đã hy sinh chịu chết để cứu chuộc loài người và ở lại với loài người cho đến tận thế.

Khi con người bị đau khổ, cần được giải thoát, họ sẽ chạy đến với Đức Giê-su, Ngài sẽ băng bó vết thương lòng và chữa lành tâm hồn con người. Đó là cách Ngài thi ân, đó là cách Ngài cứu độ. Thiên Chúa đã chiến thắng sự dữ bằng chính lòng xót thương bao la của Ngài.

3- Cầu nguyện :

Lạy Chúa! Xin Chúa ban ơn khôn ngoan để chúng con nhận ra đâu là con đường tình yêu và sự sống đích thực, đâu là những cạm bẫy mà Satan đang rình chờ để giăng bắt chúng con. Xin Chúa luôn đồng hành và dìu dắt chúng con trên hành trình tiến về Nhà Chúa. Vì khi có Chúa, chúng con sẽ được an bình trong tâm hồn để yên tâm vững bước trong cuộc sống của chúng con. Amen.

4- Sống Lời Chúa :

Hãy thi thố tình yêu thương, sự quan tâm, chăm sóc, chia sẻ với những người đang sống chung quanh chúng ta,  nhất là những người đang gặp khó khăn đau khổ về tinh thần cũng như thể xác, giúp họ biết sống theo Thánh ý của Chúa.

 HOÀI THANH

 

Đến với Chúa với cả tấm lòng

Người đã chữa lành nhiều bệnh nhân, khiến tất cả những ai có bệnh cũng đổ xô đến để sờ vào người. Còn các thần ô uế, hễ thấy Đức Giêsu thì phủ phục trước mặt Người và kêu lên: “Ông là Con Thiên Chúa.” (Mc 3,10-11)

 

Suy niệm: Ta hãy mở to mắt để nhìn khung cảnh thật ngoạn mục này: dân chúng từ khắp nơi đổ xô về được nhìn thấy Chúa, bệnh nhân thì cố gắng đến gần để sờ vào Ngài, còn ma quỷ phủ phục trước mặt Ngài. Thế nhưng, có vẻ Đức Giêsu không hồ hởi lắm trước thành công vang dội này: Ngài bảo môn đệ dành sẵn một chiếc thuyền nhỏ để khỏi bị dân chúng chen lấn; với ma quỷ, Ngài cấm ngặt chúng không được phát ngôn bừa bãi. Tại sao Đức Giêsu lại không phấn khởi trước những kết quả mỹ mãn như vậy? Chắc chắn Ngài biết rõ lòng người, họ đổ xô đến với Ngài vì tinh thần vụ lợi; Ngài cũng biết rõ lòng dạ ma quỷ, chúng làm vậy để lừa bịp Ngài và dân chúng.

Mời Bạn: Đến với Chúa, gặp gỡ Ngài không vì một ý hướng vụ lợi, cầu cạnh, thậm chí cũng chẳng vì lợi ích, thú vui thiêng liêng nào. Bạn hãy đến cùng Chúa với tâm tình người con thảo cần gặp gỡ người Cha, vị Chúa của mình.

Chia sẻ: Tôi thường làm các việc đạo đức với ý hướng nào: nhằm xin ơn, vì sốt sắng hay chỉ vì muốn gặp gỡ, tiếp xúc với Ngài?

Sống Lời Chúa: Kiên trì đọc Lời Chúa mỗi ngày với ý hướng muốn gặp gỡ Chúa và sống giống Ngài hơn.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con không coi Chúa như một công ty bảo hiểm, một kho tàng chứa ơn lành, mà chỉ biết nhìn Chúa và đến với Chúa với ý hướng yêu mến của người con thảo hiếu. Xin cho chúng con mỗi ngày nên giống Chúa hơn. Amen.

 

Chỉ xin theo Chúa mà thôi

Suy niệm: Nhiều danh thủ, siêu sao thế giới hết sức bất ngờ vì độ “cuồng” mà người hâm mộ Việt Nam dành cho họ khi họ đến thăm đất nước này. Từng đoàn người đông đảo chờ đợi tại sân bay tới tận nửa đêm để đón thần tượng của mình; có người còn khóc ròng vì không thể xin được chữ ký của họ. Đó chỉ là một số dấu chỉ nhẹ nhàng của hội chứng cuồng thần tượng mà nếu không tỉnh táo, có thể dẫn đến những sai lệch về nhận thức và về chính bản thân. Tin Mừng hôm nay thuật lại việc đám đông lũ lượt tìm đến Chúa Giê-su. Ngài không cho họ chữ ký kỷ niệm; trái lại, Ngài chữa lành họ không chỉ tật bệnh phần xác mà còn phục hồi cho họ điều cao quý nhất đó là phẩm giá của người con cái Chúa.

Mời Bạn: Theo Chúa mà chỉ để tìm kiếm những lợi lộc vật chất sẽ dẫn đến những lệch lạc trong mối tương quan với Thiên Chúa, khiến niềm tin đích thực bị xói mòn và biến thành một thứ thờ ngẫu tượng như ngày xưa dân Ít-ra-en từ bỏ Thiên Chúa và đặt ra một thứ ngẫu tượng để thờ lạy. Khi dạy chúng ta cầu nguyện, Chúa Giê-su cũng nói chúng ta cầu xin cho các nhu cầu vật chất, nhưng trước tiên Chúa dạy chúng ta hãy xin cho “Nước Chúa trị đến”, rồi những sự khác Chúa cũng sẽ ban cho.

Sống Lời Chúa: Trong ngày lặp lại nhiều lần lời nguyện tắt: “Lạy Chúa, xin cho con theo Chúa mà thôi!”

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, giữa bao điều lựa chọn, con xin chọn Chúa. Giữa bao hạnh phúc trong đời, con xin chọn tám mối phúc mà Chúa dạy. Giữa bao vinh quang trần thế, con chỉ mong được vào hưởng vương quốc của Chúa mà thôi. Amen.

 

 

THỨ SÁU TUẦN 2 THƯỜNG NIÊN

LỜI CHÚA: Mc 3, 13-19

Khi ấy, Chúa Giêsu lên núi và gọi những kẻ Người muốn gọi, và họ đến cùng Người. Người chọn mười hai vị để theo Người, và sai các ông đi giảng và ban cho các ông quyền trừ quỷ.

Mười hai vị ấy là: Simon mà Người đặt tên là Phêrô, Giacôbê con ông Giêbêđê, và Gioan là em Giacôbê, (cả hai được Người đặt tên là Boanerges, nghĩa là con của sấm sét), rồi đến Anrê, Philipphê, Bartôlômêô, Matthêu, Tôma, Giacôbê con ông Alphê, Tađêô, Simon nhiệt tâm, và Giuđa Iscariô là kẻ nộp Người.

Suy Niệm 1: Đến với Người, ở với Người

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Thông thường ở xã hội Do Thái, người môn đệ đi tầm sư học đạo.

Còn Thầy Giêsu lại đi “gọi” học trò.

Thầy muốn lập một nhóm học trò ruột, hết sức gần gũi với mình.

Những người Thầy muốn, Thầy đã gọi họ lại.

Và họ đã đáp lời mà đến với vị Thầy đang ở trên núi.

Như thế sáng kiến thì bắt nguồn từ Thầy,

còn đáp lại là điều con người cần thực hiện.

Thầy Giêsu muốn lập một nhóm mười hai môn đệ.

Có thể vì Thầy nhớ đến mười hai chi tộc Ítraen ngày xưa.

Mục đích của nhóm Mười Hai này là ở với Thầy và được Thầy sai đi.

Ở với là chuyện ưu tiên, và cũng là chuyện dễ bị xao lãng.

Ở với là có tương quan thân thiết và thường xuyên với Thầy.

Ở với là chia sẻ cuộc sống ăn ở, đói no, thành công, thất bại.

Khi ở với Thầy Giêsu, người môn đệ hiểu Thầy sâu xa và gắn bó với Thầy.

Khi các môn đệ đến với và ở với Thầy Giêsu,

họ như được tách ra khỏi đám đông.

Sau này, khi tìm người thay thế Giuđa phản bội,

Phêrô đòi đó phải là người đã sống với Thầy Giêsu ngay từ đầu (x.Cv 1, 22).

Ở với nằm trong định nghĩa về người môn đệ của Thầy Giêsu.

Nhưng đó không phải là điểm dừng.

Ở lại với Chúa là để được sai đến với con người.

Được tách ra khỏi đám đông chính là để được sai đến với đám đông,

trong tư cách của người đã được mắt thấy tai nghe Thầy Giêsu.

Người môn đệ được sai sẽ được phép làm những việc y hệt như Thầy:

rao giảng Tin Mừng và trừ quỷ nhằm phục vụ cho con người.

Chẳng những họ làm việc như Thầy, họ còn làm việc của Thầy và với Thầy.

Không ở với thì cũng chẳng được sai đi, và cũng không đủ sức để được sai.

Nhưng ở với là để có ngày được sai đi, mà sai đi thì vẫn luôn ở với.

Kitô hữu là người được gọi, để ở với Chúa Giêsu và được ngài sai đi.

Cuộc sống xao động hôm nay có vẻ làm ta quên ở với Chúa

và rơi vào tình trạng nghiện việc.

Chính vì thế công việc ta làm không đem lại hiệu quả thực sự và lâu bền.

Hãy ở với Giêsu mỗi ngày 15 phút, bạn sẽ thấy mọi sự thay đổi.

Cầu nguyện:

Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào,

xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.

Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc,

xin cho con quý chuộng những lúc

được an nghỉ trước nhan Chúa.

Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo,

xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa

để nghe lời Người.

Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng,

xin cho con thoát được lên cao

nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.

Lạy Chúa,

ước gì tinh thần cầu nguyện

thấm nhuần vào cả đời con.

Nhờ cầu nguyện,

xin cho con gặp được con người thật của con

và khuôn mặt thật của Chúa. Amen.

Suy Niệm 2: Giao ước mới

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Thiên Chúa kiên trì trong chương trình yêu thương của Người. Nên luôn có những sáng kiến mới. Mở ra những chân trời mới.

Khi giao ước cũ không đem đến hiệu quả như mong muốn, Thiên Chúa quyết định lập ra Giao Ước Mới: “Đức Chúa phán: Này sắp đến những ngày Ta hoàn thành một Giáo Ước Mới với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa”. “Giao Ước Mới tốt đẹp hơn. Căn cứ vào những lời hứa tốt đẹp hơn”.

Có Thượng Tế cao trọng hơn. Chúa Giê-su là trung gian Giao Ước Mới. Vô cùng cao trọng hơn trung gian giao ước cũ. Chúa Giê-su là trung gian tuyệt vời. Vì Người vừa là Thiên Chúa, vừa đứng đầu nhân loại. “Vị Thượng Tế của chúng ta được một tác vụ cao trọng hơn, bởi vì Người là trung gian của một giao ước tốt đẹp hơn”. Người dâng hiến chính thân mình. Giao Ước Mới được ký kết bằng chính máu Người đổ ra. Nên có giá trị vô biên.

Có con người mới tốt đẹp hơn. Vì Lề Luật không còn ghi vào bia đá. Nhưng ghi vào trong tâm hồn: “Đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en sau những ngày đó. Đức Chúa phán: Ta sẽ ghi vào lòng trí chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng lề luật của Ta”. Cũng như khi Sa-un hư hỏng, Chúa đã chọn Đa-vít, tôi trung của Chúa. Đa-vít kính sợ Chúa. Dù Sa-un ghen ghét đuổi bắt ông vô cớ. Nhưng khi có thể giết Sa-un, Đa-vít vẫn không dám xúc phạm đến Sa-un là người đã được Chúa xức dầu. Ông để cho Chúa phân xử: “Điều ác từ kẻ ác mà ra, nên tay con sẽ không đụng đến cha” (năm chẵn).

Có nền tảng mới là 12 tông đồ thay cho 12 chi tộc cũ. Các tông đồ được Chúa đích thân tuyển chọn. Được sống với Chúa để thấm nhiễm luật mới. Rồi mới được sai đi để làm chứng về Chúa. Xua trừ ma quỉ. Thiết lập triều đại mới của Thiên Chúa: “Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người, và để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ”.

Xin Chúa đổi mới con. Để con xứng đáng là dân mới. Được hưởng những lời hứa từ Giao Ước Mới. Xin cho con trở nên con người mới. Giống như các tông đồ. Được ở với Chúa. Để thấm nhập luật mới của Chúa.

 

Suy Niệm 3: Giáo Hội là một Mầu Nhiệm

Nếu thời Cựu Ước đã có những tiên tri cung đình, chuyên phụ họa cho vua chúa, thay vì nói lời của Chúa; thì ngày nay cũng không thiếu những tiên tri như thế: thay vì nói Lời Chúa, lên tiếng tố cáo bất công, người ta lại chỉ làm tiên tri để công kích và chỉ trích Giáo Hội của mình. Dù sao, đây cũng là dịp để các Kitô hữu suy nghĩ và đào sâu về bản chất của Giáo Hội.

Ðiều cơ bản nhất mà chúng ta cần phải tuyên xưng trước tiên khi nói về Giáo Hội, đó là Giáo Hội là một mầu nhiệm, do đó chúng ta không thể so sánh hay xếp Giáo Hội vào bất cứ một tổ chức trần thế nào. Giáo Hội không là một thể chế quân chủ chuyên chế hay quân chủ lập hiến. Giáo Hội cũng không hề là một chế độ tập quyền hay Bô lão trị; Giáo Hội lại càng không phải là một chế độ dân chủ. Giáo Hội thiết yếu là một mầu nhiệm, do đó mà không có một tên gọi nào diễn tả và múc cạn mầu nhiệm ấy. Giáo Hội được gọi là Hiền thê của Chúa Kitô, Giáo Hội được gọi là thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô, Giáo Hội được gọi là Dân Chúa; mỗi kiểu nói này bày tỏ một khía cạnh, nhưng không thể nào nói hết về Giáo Hội.

Tin Mừng hôm nay như muốn đưa chúng ta vào trong bản chất mầu nhiệm ấy của Giáo Hội. Chúa Giêsu thiết lập nhóm Mười Hai để các ông ở với Ngài và được Ngài sai đi rao giảng. Ngài trao ban cho các ông quyền năng mà chính Ngài đã từng sử dụng: chỉ có các Tông Ðồ mới có quyền trừ quỷ, mới có quyền cử hành các Bí Tích, và chỉ những ai được các ông trao quyền cho mới được cử hành các Bí Tích. Chúa Giêsu trao phó cho các Tông Ðồ kho tàng mạc khải, chỉ có các ông mới có khả năng và có quyền giải thích kho tàng ấy và giảng dạy đúng ý muốn của Chúa. Trong Nhóm Mười Hai, Chúa Giêsu đặt Phêrô làm thủ lãnh để cai trị và trở thành mối giây hữu hình trong Giáo Hội, Ngài hứa ở với Giáo Hội mỗi ngày cho đến tận thế: như Ngài đã ở với các Tông Ðồ ngay từ buổi đầu, thì hơn 2,000 năm qua, Ngài vẫn tiếp tục ở với và trong Giáo Hội.

Giáo Hội chính là thân thể Chúa Kitô. Thuộc về Giáo Hội chính là chấp nhận lời rao giảng của Chúa Giêsu được ủy thác cho các Tông đồ và những người mà các ông cắt đặt để thay thế và tiếp tục sứ mệnh của mình. Thuộc về Giáo Hội một cách cụ thể, là đón nhận và sống giáo huấn của chính các Tông đồ được ủy thác cho Giáo Hội và những người kế vị các ông. Giáo Hội không phải là một thể chế dân chủ, nhưng Giáo Hội chưa hề cưỡng bách ai phải gia nhập Giáo Hội; nhưng nếu đã thuộc về Giáo Hội thì không thể không chấp nhận quyền bính của Giáo Hội. Dù vậy, ngay cả khi một Kitô hữu không chấp nhận quyền giáo huấn của Giáo Hội, thì Giáo Hội cũng không phải dùng đến võ lực hoặc nhà tù để đe dọa và trừng phạt.

Hằng năm, Giáo Hội dành một tuần lễ để cầu cho sự hiệp nhất của các Kitô hữu, một tuần lễ để đi sâu vào mầu nhiệm của Giáo Hội, một tuần lễ để hoán cải. Chúng ta hãy cầu xin bằng chính lời cầu nguyện của Chúa Giêsu: “Xin cho chúng nên một như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha, ngõ hầu thế gian tin rằng Cha đã sai Con”.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Suy Niệm 4: Những kẻ Người muốn

Rồi Người lên núi và gọi những kẻ Người muốn. Và các ông đến với Người. Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng. (Mc. 3, 13-14)

Để hiểu sâu bài Phúc âm hôm nay, một lần nữa chúng ta còn tìm ra được vài chi tiết khác thánh Maccô muốn làm nổi lên hình ảnh con người Đức Giêsu.

Vì thế, để gây ý thức về tiếng gọi mà mười hai Tông đồ đã nhận được, cũng như về ơn gọi của các ông, thánh Maccô ghi lại rằng: “Người gọi những kẻ Người muốn và Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng.”

Những kẻ Người muốn

Có lẽ ta lấy làm ngạc nhiên khi thấy rằng Chúa Giêsu đã có những sự lựa chọn. Phải chăng Người không đến” kêu gọi những người tội lỗi”? Như thế, theo nguyên tắc, mọi người trong cái nhân loại ốm đau này có lẽ phải được làm tông đồ mới phải!

Người ta giải thích sự Chúa tuyển chọn như sau: lời mời gọi của Chúa diễn ra ỏ hai mức độ, và mỗi người chúng ta đều được gọi hai lần. Tiên vàn là kêu gọi đón nhận đức tin, sám hối, gia nhập Nước Tròi, hưởng ơn cứu độ. Sứ mệnh của Đức Kitô có mục đích tối hậu là làm vang lên tiếng mời gọi của Chúa Cha “Anh em hãy đến!”

Nhưng cũng có tiếng mời gọi khác gởi đến từng người giúp họ xác định vị trí hoạt động, chọn lựa phần đóng góp của mình trong Nhiệm Thể Chúa Kitô: “những người này Chúa đã cho làm tông đồ, những người kia làm tiên tri; người được ơn chữa bệnh, người khác lại được ơn diễn giải”. Chúa Giêsu muốn cho tất cả chúng ta, mỗi người giữ một vị trí nhất định.

“Để các ông ở với Người và đi rao giảng”

Nếu chúng ta muốn hiểu biết chức vụ linh mục, hiểu biết linh mục là gì, phải trở lại hai chức năng được Chúa Giêsu gán cho Nhóm Mười Hai là “ở với Người và được sai đi rao giảng”.

Nhờ bí tích truyền chúc, linh mục được đặt để ở với Chúa Giêsu. Người ta thường đòi hỏi linh mục sống hòa mình với mọi người, ngang tầm với họ, phục vụ họ. Đòi hỏi linh mục cùng tầm vóc với Chúa Giêsu, ở với Người, thiết tưởng lại không phải là điều tốt hơn và chính đáng hơn sao? Linh mục bỏ ra một chút thời giờ trong ngày để chuyện trò với Chúa Giêsu không phải là điều tốt đẹp sao? Hãy chuyện trò với Chúa đã, rồi mới đi ra ngoài! Rồi mới giảng giải và hội họp!.

Suy Niệm 5: Chúng ta được mời gọi đến và ở với Thầy

Có nhiều người nhìn bộ dạng bên ngoài “rất cốt tu”, nhưng kỳ thực anh ta không hề nghĩ là sẽ đi tu! Hay nhìn những người trông xem ra có vẻ đơn sơ, chất phác, nông dân thì Chúa lại chọn và gọi để trở thành linh mục, tu sĩ của Ngài.

Như vậy, chỉ cần đưa ra một vài hình ảnh, chúng ta cũng nhận thấy rất rõ rằng: ơn gọi tu trì là một mầu nhiệm, vì Chúa chọn và gọi những ai Ngài muốn.

Hôm nay, Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu chọn nhóm 12 trở thành môn đệ của Ngài, để họ tiếp tục sứ mạng loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Qua danh sách 12 môn đệ, chúng ta thấy không ai là trọn vẹn cả. Ai cũng có những khuyết điểm, thiếu xót, đôi khi những lỗi mắc phải trước, trong, và sau khi ở với Đức Giêsu là những lỗi rất nặng.

Nhưng điều quan trọng đối với các ông là: tập trung quy vào Đức Giêsu. Thầy của các ông như là cái tâm trong một vòng tròn. Nhiều khi vì yếu đuối, nên xao nhãng đi xa tâm của vòng tròn, nhưng khi tỉnh lại và ngộ ra sự yếu đuối, tội lỗi của mình, các ông lại tiếp tục nhập vào vòng tròn đó và hướng về Đức Giêsu là tâm điểm, đích đến của cuộc đời. Vì thế, tuy bất toàn, nhưng các ông ở lại với Ngài, Ngài đã huấn luyện và làm cho các ông xứng đáng là kẻ lưới người như lưới cá trên hành trình loan báo Tin Mừng.

Mỗi người chúng ta ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được mời gọi bước theo Đức Giêsu để trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài khi mang trong mình những tâm tư của chính Đấng mà chúng ta đi theo.

Tuy nhiên, điều quan trọng là chúng ta có sẵn sàng thi hành những giáo huấn và lời dạy của Đức Giêsu không hay nhiều khi chúng ta chỉ có tên tuổi mà không có chất? Chỉ có phẩm mà không có lượng?

Lạy Chúa Giêsu, được trở thành môn đệ của Chúa là một hồng ân. Tuy nhiên, xin Chúa ban cho mỗi người chúng con biết làm cho hồng ân ấy triển nở trong cuộc sống thường ngày của mình qua những hoa trái tốt lành. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 6: Tiếp nối sứ mạng cứu thế của Chúa Giêsu

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu mời gọi mọi người tiếp nối sứ mạng cứu thế mà ngày xưa Ngài khởi đầu và xây dựng trên nền tảng Mười Hai Tông đồ.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, còn hạnh phúc nào hơn khi con được Chúa yêu thương kêu gọi theo Chúa và ở với Chúa. Làm sao một thân phận thấp hèn, nhỏ bé và yếu đuối như con lại được Chúa đón nhận để sống với Chúa trong tinh thần thầy trò, tình anh em, và mật thiết hơn nữa là tình bạn hữu. Chúa lại muốn con cộng tác làm việc với Chúa như các tông đồ ngày xưa để làm chứng cho tình yêu của Chúa. Để trở nên một người môn đệ, người em, người bạn của Chúa, xin Chúa giúp con kiên trì tập luyện để trở nên con người mới, bởi Chúa đang hy vọng qua cuộc sống của con, sứ điệp tình yêu sẽ được triển nở nơi anh em mà con thường xuyên gặp gỡ.

Con biết rằng tự sức mình, con không thể làm được. Vậy xin Chúa ban cho con sức mạnh của Chúa, để con luôn can đảm, hy sinh, quảng đại, sẵn sàng đón nhận và thực thi ý Chúa trong từng biến cố, từng phút giây của cuộc sống. Xin Chúa loại trừ trong con tính ích kỷ, những cách cư xử thiếu bác ái, thiếu kính trọng và yêu thương, khiến cho tha nhân không nhận ra được khuôn mặt tình yêu của Chúa, và vì thế mà làm cản trở sứ mạng cứu thế của Chúa.

Dù đã bao lần lầm lỗi, xin Chúa thương tha thứ cho con, đừng để con phản bội Chúa. Xin dẫn dắt con từng bước để con xứng đáng là cộng tác viên trong sứ mạng đã được trao ban. Amen.

Ghi nhớ: “Người gọi những kẻ Người muốn gọi để họ ở cùng Người”.

Suy Niệm 7: Chúa Giêsu gọi-chọn mười hai tông đồ

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Một gia đình sống giữa đồng không mông quạnh. Vào một đêm người trong nhà sơ ý làm rớt cây đèn dầu, căn nhà bốc cháy dữ dội. Cha mẹ, con cái vội vã chạy ra ngoài sân và đành đứng bất lực nhìn ngọn lửa thiêu rụi mái ấm của họ. Bỗng mọi người chợt nhận ra còn thiếu mất đứa con bé nhất. Thì ra trong lúc cậu bé chạy với mọi người, nhưng chưa ra tới cửa, thấy lửa cháy dữ quá, cậu sợ hãi nên chạy trở lại lên lầu.

Lửa phừng phừng cao ngút tứ phía, đang lúc cả gia đình hốt hoảng không biết phải làm sao để cứu cậu bé chỉ mới 5 tuổi này, thì bỗng cửa sổ trên lầu mở toang và cậu bé ló ra, nhìn xuống kêu khóc inh ỏi. Từ dưới sân, cha cậu bé gọi lớn tên con, rồi nói: “Con nhảy xuống đây?”. Cậu bé chỉ thấy bên dưới toàn khói mù và lửa, nhưng nghe rõ tiếng cha kêu mình, liền trả lời: “Ba ơi, con không trông thấy ba đâu hết!”. Người cha trả lời giọng cương quyết: “Con cứ nhảy đi, có ba trông thấy con là đủ rồi?”. Nghe lời cha, cậu bé leo lên thành cửa sổ, liều mình nhảy xuống. Mọi người la lên kinh hãi vì lo sợ cho mạng sống của cậu, nhưng cậu đã rơi đúng vào vòng tay yêu thương của cha mình một cách an toàn… Sau này nhiều năm, người quen trong khu phố ai gặp cậu bé cũng tò mò hỏi: “Sao hôm ấy cháu liều thế, lỡ rơi không trúng vòng tay của ba cháu thì sao?”. Cậu hồn nhiên trả lời: “Cháu cũng không biết nữa, khi ấy cháu nghe tiếng kêu của ba cháu, tự nhiên cháu không sợ nữa, cháu tin ba cháu không bao giờ để cho cháu té chết đâu!”.

Trong cuộc đời có những tiếng gọi, tiếng gọi huyền nhiệm thúc bách để ta bước đi, bước đi… đi trong chốn tối tăm mịt mù…

Suy niệm

Chúa Giêsu gọi và chọn mười hai tông đồ với tên tuổi rõ ràng như các Tin Mừng ghi nhận (x. Mt 10,1-6; Mc 3,13 -19; 6,7-13; Lc 6,12 -16; 9,1-6), nhóm Mười Hai được giao sứ mạng đi đến với muôn dân và làm cho muôn dân trở nên môn đệ của Đức Giêsu (x. Mt 28,19).

Tin Mừng ghi lại tiêu biểu vài việc Chúa gọi và chọn vài nhân vật: Simon, cũng gọi là Phêrô, và Anrê, em ông, ông Giacôbê và người em là ông Gioan, Người bảo: “Các anh hãy theo tôi. Tôi sẽ làm cho các anh trở thành những ngư phủ lưới người ta…”. (Mt 4,19), lập tức, các ông bỏ chài lưới, bỏ thuyền, bỏ gia đình lại mà theo Người (x. Mt 4, 18-22). “Các anh hãy theo Tôi”, một lời mời gọi đến gặp, gắn bó với Đức Kitô là ánh sáng, là nguồn sống: “Sự sáng thế gian, chính là Ta! Ai theo Ta sẽ không phải đi trong tối tăm, nhưng nó sẽ có ánh sáng sự sống” (Ga 8,12), người môn đệ có tình yêu cứu độ, lên đường đem Tin Mừng ánh sáng cứu độ cho mọi tâm hồn… Chính nhờ lời rao giảng, gương sáng cuộc sống của người môn đệ, thế gian nhận ra ánh sáng của Thiên Chúa như Đức Kitô đã nói với những người Ngài tuyển chọn: “Các con là muối cho đời và ánh sáng cho trần gian” (Mc 9,50; Lc 14,34-35).

Mọi người được mời gọi đích danh trở nên môn đệ, và trong ơn gọi làm môn đệ như Chúa Giêsu khẳng định: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái và hoa trái anh em tồn tại” (Ga 15,16).

Thật thế, Chúa đang thì thầm gọi tôi, gọi bạn, Ngài gọi đích danh tên mỗi người “hãy theo Tôi”. Theo Ngài để khám phá tình yêu, trở nên môn đệ và được sai đi…

Ý lực sống: “Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ” (Is 49,1).

 Suy Niệm 8: Chúa chọn Nhóm Mười Hai

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)                                          

  1. Trong việc rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu không muốn làm việc một mình mà muốn cho con người cộng tác vào công việc quan trọng này. Vì thế, Người đã tuyển chọn Nhóm Mười Hai để Ngài huấn luyện và trao cho họ tiếp tục sứ mệnh của Người. Nhóm Mười Hai này sẽ là cột trụ, là nền tảng Giáo hội mà Người sẽ thiết lập sau này; vì thế, Đức Giêsu phải để các ông luôn ở với Người, gần kề Người. Người tin tưởng họ và trao cho họ sứ mệnh cao cả này.
  2. Điều cơ bản nhất mà chúng ta phải tuyên xưng trước tiên khi nói về Giáo hội, đó là Giáo hội là một mầu nhiệm, do đó, chúng ta không thể so sánh hay xếp Giáo hội vào bất cứ một tổ chức trần thế nào. Tin Mừng hôm nay như muốn đưa chúng ta vào trong bản chất mầu nhiệm của Giáo hội ấy.

Chúa Giêsu thiết lập Nhóm Mười Hai để các ông ở với Ngài và được Ngài sai đi rao giảng. Ngài trao ban cho các ông quyền năng mà chính Ngài đã từng sử dụng: chỉ có các Tông đồ mới có quyền trừ quỉ, mới có quyền cử hành các bí tích, và chỉ nhữg ai mà các ông trao quyền cho mới được cử hành các bí tích. Chúa Giêsu trao phó cho các Tông đồ kho tàng mạc khải, chỉ có các ông mới có khả năng và có quyền giải thích kho tàng ấy và giảng dạy đúng ý muốn của Chúa. Trong Nhóm Mười Hai, Chúa Giêsu đặt Phêrô làm thủ lãnh để cai trị và trở thành mối giây hữu hình trong Giáo hội; Ngài hứa ở với Giáo hội mỗi ngày cho đến tận thế: như Ngài đã ở với các Tông đồ ngay từ buổi đầu, thì hơn 2000 năm qua, Ngài vẫn tiếp tục ở với và trong Giáo hội (Mỗi ngày một tin vui).

  1. Trong việc lựa chọn này, Chúa chọn họ là những người bình thường, không giầu có, không danh tiếng. Họ cũng chẳng là người có thế lực trong xã hội. Họ không là những học giả mà chỉ là những người bình dân, đơn sơ. Chọn làm Tông đồ là Chúa Giêsu đã muốn làm thay đổi cả thế giới. Công việc của Chúa Giêsu không đặt trong tay  những người mà thế giới cho là những vĩ nhân, nhưng ở trong tay những người bình thường như các Tông đồ.
  2. Chúa gọi và chọn họ không tự cho mình được chọn hoặc ứng cử, nghĩa là Chúa ở vị thế cao hơn. Chúa là trung tâm chứ không phải họ được quyền lấy mình làm chuẩn; như thế, điều kiện đầu tiên để trở thành Tông đồ là do được Chúa chọn. Các môn đệ ở lại với Người, nghĩa là họ được tách ra khỏi đám đông và đến; điều kiện thứ hai là khi được gọi, họ phải ở tách riêng ra, nghĩa là  có sự thay đổi đời sống nên tốt hơn…

Trong Giáo hội, việc được chọn làm công việc này, chức vụ nọ là do Chúa chọn qua sự tuyển lựa của Giáo hội, chứ không phải cha truyền con nối hay mình ứng cử. Vì thế, luôn phải đặt ý Chúa lên trên hết và dù hợp với chúng ta hay không thì cũng phải biết thuận theo ý Chúa.

  1. Theo truyền thống, các bậc thầy bên phương Đông cũng như phương Tây, thường họ có một số môn đệ, được coi như các cán bộ nồng cốt để tuyên truyền cho học thuyết hay giáo thuyết của mình như Socrate, Platon, Aristote bên phương Tây; như Lão Tử, Khổng Tử, Đức Phật Thích Ca bên phương Đông… Tại sao Chúa Giêsu không chọn cho mình nhiều hơn hay ít hơn? Có lẽ Ngài muốn chọn con số 12 tượng trưng cho 12 chi tộc Israel?

Trong số 12 Tông đồ, chúng ta thấy:

Gioan và Giacôbê, những người trẻ nóng tính,

Matthêu, một người thu thuế cho đế quốc,

Simon, một thành viên của nhóm cuống tín,

Phêrô, anh dân chài thất học.

Những con người quá đỗi bình thường ấy có thể làm được gì lớn lao cho Chúa và cho đời?

Chúa Giêsu chọn họ để họ ở với Người và Người ở với họ, để từ một nhóm người bé nhỏ, tội lỗi, tình yêu của Thiên Chúa được rao giảng, con người tìm được hạnh phúc thật.

Chúa ơi, cho con ở với Chúa thật sâu, để con có sức mạnh mà thành người hữu ích cho đời (Epphata).

  1. Truyện: Chúa tuyển chọn 12 Tông đồ.

Một tác giả tưởng tượng việc Chúa Giêsu chọn các Tông đồ như sau: Sau những đêm dài cầu nguyện, Ngài rảo bước khắp nơi nhưng không chọn được người nào, Ngài đành đăng quảng cáo, nhưng trong số những người đến trình diện Ngài, Ngài cũng không chọn được ai.

Ngài đành tổ chức thế vận hội. Môn đầu tiên là cầu nguyện: nhiều người biểu diễn cầu nguyện rất hay nhưng Chúa không chọn được ai cả. Môn thứ  hai là thờ phượng cũng thế. Môn thứ ba là giảng thuyết, cũng chẳng được ai.

Chán nản vì mất thì giờ vô ích, Chúa Giêsu rời vận động trường để ra bở biển hóng gió và ở đây Ngài thấy đám dân chài. Ngài đứng quan sát và nhận ra có một số người để hết tâm hồn vào công việc. Ngài nghĩ thầm họ là những người có quả tim. Và thế là Ngài chọn họ làm Tông đồ của Ngài.

Suy Niệm 9: Chúa muốn con người chia sẻ sứ mạng của Ngài

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Phân tích (Hạt giống…)

Chúa Giêsu lập nhóm 12. Có vài chi tiết đáng để ý:

– Việc này xảy ra trên núi. Theo truyền thống Thánh Kinh thì “Núi” là:

+ nơi linh thiêng, nơi Thiên Chúa gặp gỡ con người (1V 19,18: Thiên Chúa gặp Êlia),

+ nơi lập Giao ước (Xuất hành 19.3), nơi mạc khải…

Vậy Chúa Giêsu lập nhóm 12 trên núi vì việc này có tính cách quan trọng và thánh thiêng.

– Ngài “gọi đến với Ngài những kẻ Ngài muốn”: Ơn gọi xuất phát từ sáng kiến và ơn ban của Thiên Chúa chứ không phải do công đức của con người.

-12 người này được chọn “để các ông ở với Ngài và được Ngài sai đi”. Đây là 2 nét quan trọng trong căn tính của người tông đồ.

– Trong số những người được chọn có cả một người sẽ phản nộp Ngài.

  1. Suy niệm (…nảy mầm)
  2. Chúa không đích thân đi rao giảng Tin mừng mặc dù cách này hữu hiệu hơn, nhưng lại chọn một số người làm việc ấy. Lý do:

a/ Chúa muốn con người chia sẻ sứ mạng của Ngài;

b/ Chúa chia sẻ cho con vinh dự Chúa Cha trao cho Ngài…

  1. Nhưng để không phụ lòng tin tưởng của Chúa, những người được chọn để được sai đi ấy trước hết phải “ở với” Ngài. Kẻ được sai phải ở với Đấng sai phái để thấm nhuần tinh thần của Ngài và có như thế họ mới là sứ giả đích thực của Ngài av làm việc đứng như ý Ngài muốn.
  2. Thế chiến thứ II kết thúc, một binh sĩ Hoa kỳ vẫn ở lại một số miền được giải phóng ở Đức. Họ giúp dân chúng thu dọn và sửa chữa những ngôi nhà đổ nát. Công tác quan trọng là xây dựng lại những nhà thờ bị hư hại vì bom đạn…

Sau khi thu dọn, sửa chữa, sắp đặt, các binh sĩ khựng lại trước một bức tượng của Chúa Giêsu bị đổ nát trên bàn thờ. Bức tượng này xem ra đã được tân trang chỉ trừ đôi tay là biến mất và cho dù cố gắng đến mấy cũng không thể nhặt được những mảnh vụn của đôi tay. Bất lực đứng nhìn bức tượng không tay của Chúa Giêsu các binh sĩ Hoa Kỳ đành phải lấy sơn viết vào tấm bảng và đặt dưới chân Ngài với hàng chữ “Ta không có đôi tay nào khác hơn là đôi tay của các bạn” (Trích mỗi ngày một tin vui)

  1. “Chúa Giêsu lập nhóm 12 để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng” (Mc 3,14)

Chúa Giêsu chọn nhóm 12 người:

Gioan và Giacôbê, những người trẻ nóng tính

Matthêu một người thu thuế cho đế quốc

Simon, một thành viên của nhóm cuồng tín

Phêrô, anh dân chài thất học…

Những con người quá đỗi bình thường ấy có thể làm được gì lớn lao cho Chúa và cho đời?

Chúa Giêsu chọn họ để họ ở với Người và Người ở với họ, để từ một nhóm nhỏ bé đó, tình yêu của Thiên Chúa được rao giảng, con người tìm được hạnh phúc thật.

  1. Mầm khác:

Công trình của bàn tay Chúa

Thánh Irênê thành Lyon, một vị giám mục sống vào thế kỷ thứ hai, đã đưa ra những lời khuyên sau đây về mối quan hệ của chúng ta với Đấng tạo thành.

Bạn là công trình của Thiên Chúa

Hãy sẵn sàng để cho bàn tay Ngài

Làm mọi việc đúng thời đúng buổi.

Hãy dâng Ngài tarí tim bạn

Trái tim mềm dẻo

Để mặc Ngài uốn nắn.

Hãy là cục đất sét đẫm nước

Và đừng bao giờ hóa thành khô chai –

Để dấu tay Ngài có thểin lên – thật rõ.

Cầu nguyện: Chúa ơi, cho con ở với Chúa thật sâu, để con có sức mạnh mà thành người hữu ích cho đời. (Epphata)

Suy Niệm 10: Chọn người đi rao giảng Tin mừng

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Chúa không muốn một mình đích thân đi rao giảng Tin mừng mãi mãi, mặc dù cách này hữu hiệu hơn, nhưng Ngài đã chọn một số người để làm việc ấy.

Thế chiến thứ II kết thúc nhưng Hoa Kỳ còn để lại một số binh sĩ tại một số miền được giải phóng ở Đức. Họ giúp dân chúng thu dọn và sửa chữa những ngôi nhà đổ nát, nhất là những nhà thờ bị hư hại vì bom đạn… Tại một ngôi nhà thờ bị đổ nát kia, sau khi thu dọn, sửa chữa, sắp đặt, các binh sĩ đã phải khựng lại trước một bức tượng Đức Kitô bị bể nát trên bàn thờ. Họ cố gắng hết sức để tân trang lại bức tượng. Với tất cả cố gắng họ đã tân trang lại gần như cũ chỉ trừ đôi tay của Chúa. Lý do là vì họ có cố gắng mấy cũng không làm sao thu nhặt được những mảnh vụn bể nát từ đôi tay ấy. Bất lực đứng nhìn pho tượng của Đức Kitô không có đôi cánh tay, các binh sĩ Hoa Kỳ đành phải lấy sơn viết vào tấm bảng và đặt dưới chân Ngài hàng chữ: “Ta không có đôi tay nào khác hơn là đôi tay của các ngươi” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”)

Vâng! Rõ ràng là qua Tin Mừng chúng ta thấy Chúa muốn con người chia sẻ sứ mạng của Ngài. Sách Giáo Lý mới đã giải thích việc làm đó của Chúa như sau: “Để cho tiếng gọi ấy vang lên trong toàn cõi địa cầu, Đức Kitô đã sai phái các tông đồ do Người tuyển chọn, trao cho các ông nhiệm vụ loan báo Tin Mừng: “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19-20).

Cám ơn Chúa đã cho con người được tham dự vào công việc mà Chúa Cha đã trao ban cho Người

  1. Nhưng, để cho công việc tham dự vào sứ mạng của Chúa có kết quả tốt đẹp, những người được Chúa tuyển chọn phải làm gì? Thưa trước tiên là phải “ở với” Ngài. Việc ở với Chúa là một việc rất quan trọng.

Chúng ta vẫn thường nói: Gần mực thì đen gần đèn thì sáng.

Hai môn đệ của Gioan mới ở với Chúa có một buổi chiều và một đêm, hôm sau khi gặp lại những người quen họ đã tuyên bố: “Chúng tôi đã gặp thấy Đấng Messia” (Ga 1,41).

Sử sách ghi lại rằng: Dù có phải mải mê rao giảng Tin Mừng cho lương dân như thế nào đi nữa, nhưng mỗi khi đêm về, thánh Phanxicô Xaviê luôn giữ thói quen quỳ gối trước chúa Giêsu Thánh Thể để cầu nguyện. Có lần vì quá mệt, Ngài đã ngủ gục trước bàn thờ. Nhiều lần Ngài đã phải cầu nguyện: “Lạy Chúa, nếu linh hồn con không tỉnh thức được với Chúa, thì ít nữa thân xác con đây cũng muốn được ở gần Ngài”.

Một nhà truyền giáo tại Ấn Độ, ông Gordon Marsuel đã xin một tín đồ Ấn Độ giáo, đến sống bên cạnh để dạy ông học tiếng bản xứ. Nhưng tín đồ Ấn giáo này từ chối, anh ta nói:

– Thưa ngài, tôi không thể đến dạy tiếng bản xứ cho ngài, vì lẽ tôi không muốn trở thành Kitô hữu.

Nhà truyền giáo trả lời:

-Tôi chỉ muốn học tiếng bản xứ để có thể giao tiếp với những người chung quanh để hiểu biết họ hơn, chứ không nhằm bắt họ trở lại với đạo Chúa.

Nhưng người tín đồ Ấn giáo đáp lại:

-Thưa ngài, tôi biết vậy. Nhưng đối với tôi, tôi nhận thấy rằng: không một ai có thể sống bên cạnh ngài mà không bị ngài cảm hóa để tin vào Chúa. Tôi không thể dạy ngài vì tôi đã nghĩ, không thể nào sống bên cạnh ngài mà không trở thành Kitô hữu.

Ở với ai thì sẽ thấm nhuần nếp sống của người đó. Kẻ được sai phải “ở với” Đấng sai phái mình để thấm nhuần tinh thần của Ngài, và có như thế họ mới có thể trở thành những sứ giả đích thực và làm việc đúng như ý Chúa muốn.

Các tông đồ đã đóng xong vai trò của mình. Thế còn mỗi người chúng ta thì sao? Thưa mỗi người cũng phải là một tông đồ cho Chúa.

Lạy Chúa, xin cứ dùng con theo ý Chúa,

Làm chân tay cho người què cụt,

Làm lỗ tai cho người bị điếc,

Làm miệng lưỡi cho người không nói được,

Làm tiếng kêu cho người chịu bất công.

Lạy Chúa, xin cứ gửi con ra đồng lúa,

Để đưa cơm cho người đói đang chờ,

Đem thuốc thang cho người đang đau ốm,

Đem áo quần cho người đang trần trụi,

Đem mền đắp cho người rét đang run.

Lạy Chúa, xin cứ gửi con vào thôn xóm,

Đem an hòa cho những ai bất thuận,

Đem yên bình cho kẻ sống âu lo,

Đem ủi an cho người đang sầu khổ,

Đem niềm vui cho những ai bất hạnh,

Lạy Chúa, xin cứ dùng con làm tất cả,

Cho mọi người được hạnh phúc an vui.

Còn phần con, xin gửi hết nơi Ngài,

Là Thiên Chúa, là tình yêu, là lẽ sống

Ngài cho con tất cả niềm hy vọng,

Để tin yêu mà vui sống trọn đời.

(Một linh mục dòng Tên)

 

Với Ngài và trong Ngài 

“Người lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn.”

Chúa không muốn một mình mãi mãi đích thân đi rao giảng Tin Mừng, mặc dù một mình Ngài có thể làm được hết mọi sự mà không cần đến con người. Nhưng, Ngài đã tuyển chọn và kêu gọi một số anh em để cùng làm công việc này.

“Muốn đi nhanh thì đi một mình, mà muốn đi xa thì phải đi cùng nhau.”

Chúa muốn con người chia sẻ sứ mạng của Ngài. Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo đã giải thích việc làm này như sau: “Để cho tiếng gọi ấy vang lên trong toàn cõi địa cầu, Đức Kitô đã sai các tông đồ do Người tuyển chọn, trao cho các ông nhiệm vụ loan báo Tin Mừng: “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền dạy cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”

Cảm tạ Chúa đã cho loài người chúng con được tham dự vào công việc cao cả mà chính Chúa Cha đã trao cho Người.

Nhưng, để cho công việc tham dự vào sứ mạng của Chúa có kết quả tốt đẹp, những người được Chúa tuyển chọn phải làm gì? Điều quan trọng và tiên quyết đó là phải “ở với Ngài”. Đây là việc cần thiết nhất.

Bạn không thể rao giảng và làm chứng cho một Thiên Chúa mà bạn không biết. Dù bạn có nói thật hay, có truyền cảm đến đâu, thì cũng đều thất bại. Vì đó không phải là một Thiên Chúa mà bạn đã từng gặp gỡ. Bạn làm chứng cho một điều mà ngay bạn con chưa vững tin.

Chính vì vậy, việc ở với Ngài, lắng nghe Ngài đang hiện diện trong mỗi thánh lễ. Ngài ẩn mình trong tấm bánh nhỏ bé, Ngài vẫn dạy bảo chúng ta qua Lời Chúa mỗi ngày. Chúa ở ngay bên chúng ta, nhưng chúng ta có đến với Ngài hay không thì còn tùy vào chúng ta quyết định.

Chúa chọn hết tất cả chúng ta. Mỗi người đều có ơn gọi riêng, có người chọn đời sống hôn nhân, có người theo cuộc đời thánh hiến, có người nguyện độc thân vì nước trời. Song, tất cả phải được xây dựng trên chính Chúa Giêsu Kitô là nền móng vững chắc nhất. Ngày hôm nay, bạn đã đến với Chúa chưa? Bạn đã ở với Ngài chưa?

Ngọn cỏ ven đường.  

 

Chúa Giê-su chọn môn đệ

Có nhiều hình thức để giới thiệu Thiên Chúa với mọi người, theo khả năng Chúa ban cho mỗi người, như thiếu niên Carlo Acutis người Công giáo Ý sớm phát hiện mình là một người giỏi tin học. Mới 15 tuổi, cậu được biết đến nhiều nhất qua việc thiết kế một trang web để tổng hợp các câu chuyện về phép lạ Thánh Thể trên khắp thế giới. Hiện nay trang web này đã phát triển thành một trang triển lãm Phép Lạ Thánh Thể Thế Giới, chuyên về các sự kiện siêu nhiên trên. Acutis từng nói: “Cùng đích của chúng ta phải là ở sự vô cùng chứ không phải hữu hạn. Vĩnh cửu mới là quê hương. Chúng ta phải luôn thấy hứng thú khi nghĩ về Thiên Đàng. Thánh Thể chính là đường cao tốc để lên trời.” Cậu được Chúa gọi về năm  2013 ở tuổi 15, Acutis được phong chân phước tại Vương cung thánh đường Giáo hoàng Thánh Phanxicô Assisi vào ngày 10.10.2020. Carlo Acutis là một bằng chứng cho sự thánh thiện thời hiện đại – hoạt động trên internet để làm cho Nước Cha trị đến (Theo The Catholic News Agency).

Tin Mừng hôm nay thánh Marco thuật về việc: “ Chúa Giê-su lên núi và gọi những kẻ Ngài muốn gọivà họ đến cùng Người”(Mc 3, 13). Sau một thời gian giảng dạy Lời Chúa, Chúa Giê-su quyết định thiết lập nhóm mười hai tông đồ, cùng sống với Người và để tiếp tục sứ mạng cứu độ của Người. Chúa tuyển chọn môn đệ theo tiêu chuẩn nào? Mười hai ông được Chúa gọi đến không phân biệt người giàu, nghèo, người lao động hay tri thức trong xã hội, ngay kẻ sau này phản bội Người là Giuđa Iscariô cũng được kêu gọi theo Chúa, Người chọn những kẻ Người muốn. Theo thánh Ambrôsiô chia sẻ : “ Chúa muốn các môn đệ của Người có một quyền năng vô biên: Người muốn các tôi tớ thấp hèn của Người nhân danh Người mà thực hiện tất cả những gì Người đã làm khi còn tại thế.”

Chúng ta cũng được Chúa Giê-su gọi và chọn để trở thành môn đệ của Người, được tham gia vào sứ mạng của Người là một vinh dự cao quý. Bài học cho mỗi người chúng ta là con người bất toàn trước mặt Thiên Chúa, nên phải luôn khiêm tốn, đừng phê phán hay chê trách người khác, chúng ta sẽ làm gì khi những người phụ trách các hội đoàn trong giáo xứ còn nhiều thiếu sót, trong cái nhìn so sánh của chúng ta với người khác? Chúng ta sẽ phối hợp hay không phối hợp? Chúng ta có vui khi tiếp nhận và luôn cầu nguyện cho họ, để cùng hiệp hành với nhau trong mọi sứ vụ được giao phó. Chúng ta có nghĩ rằng đó là những người đã được Chúa tuyển chọn không? Chính vì vậy, mà người Kitô hữu cần ý thức về ơn gọi và sứ mạng của mình để trở thành những chứng nhân của Chúa Kitô và của Nước Trời. Theo Tông huấn Evangelii Gaudium (2013), 67 của Đức Giáo Hoàng Phanxicô:  “Xây dựng cầu nối với tha nhân: Chủ nghĩa cá nhân thời hậu hiện đại và toàn cầu hóa ưu ái một lối sống làm suy yếu sự phát triển và bền vững của các tương quan cá nhân, và làm biến dạng mối dây gia đình. Hoạt động mục vụ cần làm nổi bật sự thật này là mối liên hệ của chúng ta với Cha trên trời đòi hỏi và khuyến khích một tình hiệp thông có tác dụng chữa lành, thúc đẩy, và củng cố các mối quan hệ giữa con người với nhau.”

Lạy Chúa, chúng con được vinh dự là người Kitô hữu, chúng con muốn trở thành những tông đồ nhiệt thành của Nước Chúa. Xin Chúa đến và giúp chúng con luôn biết yêu mến và sống theo Lời Chúa dạy.                                                                                  

Anna Anh

 

Giới thiệu Chúa đến với mọi người qua đời sống của mình

Ghi nhớ:

 “Người lập nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng” ( Mc. 3, 14 )

  Suy niệm:

 Voltaire (1684-1777) Là một văn hào người Pháp. Nhận thấy có một số phần tử trong đạo Công Giáo làm những điều sai trái, vì  thế, ông có cái nhìn không tốt về đạo và có thành kiến với Thiên Chúa. Bởi đó ông ra sức chống đối, châm biếm và bổ báng đạo. Có một lần ông ngông cuồng tuyên bố rằng:

 – Ông Giê-su phải mất đến 33 năm trời và cần đến Mười Hai môn đệ mới thành lập được Đạo Công Giáo. Còn tôi, 20 năm nữa tôi sẽ cho Thiên Chúa về hưu vì không còn ai tin tưởng và phục vụ Ngài nữa!

Sử sách ghi lại. Đúng 20 năm sau ngày ông phát ngôn phạm thượng đó, ông chết. Điều tồi tệ diễn ra là trước khi lìa đời,  có người khuyên bảo ông nên xưng tôi để chịu những bí tích sau hết, nhưng ông cương quyết không nghe!

Theo lời kể lại của người giúp việc cho ông thì Voltaire khi hấp hối đã nhìn thấy những cảnh tượng ghê rợn, khiến ông tru tréo, gào thét, ông dùng tay cào xé da thịt mình… và người giúp việc nhận xét rằng:

Nếu Quỷ mà có thể chết được! Thì cũng không chết dữ dội như là Voltaire!

 Bài Tin Mừng hôm nay, Thánh sử Marcô thuật lại việc Đức Giê-su thành lập Nhóm Mười Hai Tông Đồ để các ông ở với Người và sau đó Người sai các ông đi giảng đạo.

Khi ở bên Người, đi đây đi đó các ông học được nơi Đức Giê-su những điều hay lẽ phải. Nói cách khác là ở bên Chúa các ông được huấn luyện, dạy bảo và sau khi các ông đã lĩnh hội được những điều cần thiết rồi thì Người sai các ông đi rao giảng Tin Mừng và  quyền xua trừ ma quỷ.

Với quyền năng của Thiên Chúa thì Ngài chỉ cần phán một lời thôi thì cũng khiến cho tất cả thế gian phải tin tưởng, tôn thờ và phụng sự Ngài. Thế nhưng đó không phải ý muốn của Thiên Chúa. Ý muốn của Ngài là mọi người phải cùng cộng tác với Ngài trong công trình sáng tạo và cứu độ trần gian. Chính vì thế, mà chúng ta, từng người, ai cũng được Chúa kêu gọi để trở thành những môn đệ đi rao giảng Tin Mừng của Chúa đến cho mọi người.

Trong nghi thức cử hành Bí Tích Rửa Tội,  người lãnh Bí Tích nhận được một cây nến cháy sáng và một tấm áo trắng tinh.. Điều này nói nên là; từ nay cuộc đời của họ phải trở nên như ngọn nến cháy sáng bằng cách luôn giữ tâm hồn  trong sạch sẽ như tấm áo trắng, để nhờ đó mà đem Chúa đến với mọi người chung quanh.

Đem Chúa đến với mọi người và đem mọi người về với Chúa đó là bổn phận và là trách nhiệm của mỗi Ky tô hữu chúng ta. Cuộc sống của chúng ta chỉ có ý nghĩa và giá tri khi chúng ta thực hiện được lời mời gọi này.  .

 Cầu nguyện:

 Lạy Chúa, bên cạnh chúng con còn biết bao người chưa nhận biết Chúa. Xin Chúa ban nhiều thợ gặt lành nghề đến để cánh đồng truyền giáo được tiến triền tốt đẹp, sẽ có nhiều biết Chúa, tin tưởng và tôn thờ Chúa. Xin cho bản thân chúng con cũng biết làm sáng Danh Chúa bằng đời sống ăn ở hiền lành, để qua cách sống đó chúng con giới thiệu Chúa đến cho mọi người sống chung quanh. Amen.

 Sống Lời Chúa:

Kính mến Thiên Chúa và yêu thương mọi người.

Đaminh Trần Văn Chính.

 

Ở lại bên Chúa và loan truyền ơn Tin Vui

Suy niệm

Bài Tin Mừng cho biết, trước khi cứu rỗi thế gian, Chúa Giê-su đã chọn Nhóm Mười Hai để xây dựng Nước Chúa ngay trên trần gian này.

Trải qua từ thời Cựu ước, Thiên Chúa luôn luôn tuyển chọn những người của Chúa, để Chúa thánh hóa và trao ban nhiệm vụ. Khi Chúa phán cùng tiên tri Giêrêmia: “Trước khi tạo thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi, và trước khi ngươi ra khỏi lòng mẹ, Ta đã hiến thánh ngươi.” (Gr 1, 4)

Khi Thiên Chúa ông Abraham làm tổ phụ loài người, Chúa phán: “Đức Chúa phán với ông Áp-ram : “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi.” (St 12, 1)

Thiên Chúa chọn ông Môi-sê. Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: “Ngươi hãy ra đi, đem dân của Ta ra khỏi Ai Cập”. (Xh 3,1-10)

Khi Thiên Chúa đã chọn ai thì Thiên Chúa luôn ở trong người ấy và đông hành cùng người ấy.

Nhưng Chúa phán cùng tôi rằng: “Ngươi đừng nói: “Con là con nít”,

vì ngươi sẽ đi đến với những kẻ Ta sẽ sai ngươi đi,

ngươi sẽ nói mọi điều Ta sẽ truyền dạy ngươi nói.

Ngươi đừng sợ họ,

vì Ta sẽ ở với ngươi để bảo vệ ngươi”. (Gr 1, 7-8)

Trong thời Tân ước, chính Chúa Giê-su đã chọn các Tông  đồ, và ở cùng với các ông: “Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người, và để Người sai các ông đi rao giảng.” (Mc 3, 14)

Chính Chúa Giê-su đã chọn các ông: “Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con, và đã cắt đặt để các con đi và mang lại hoa trái, và để hoa trái các con tồn tại.” (Ga 15, 16)

“Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. (Mt 28, 18-20)

Hôm nay đây, mỗi chúng ta đã được tuyển chọn làm con Chúa qua Bí tích Rửa tội, chúng ta được tràn đầy các ân sủng qua các Bí tích, chúng ta được sống trong Hội Thánh của Chúa, chúng ta được học hỏi chính Lời Chúa qua Hội Thánh, chúng ta luôn có Chúa ở bên chúng ta như lời Chúa hứa: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. (Mt 28, 20)

Ở lại trong Chúa chính là ở lại trong ơn cứu rỗi của Đức Giê-su Ki-tô.

Vậy chúng ta đã làm được gì cho Nước Chúa trên trần gian này. Thánh Phaolo đã nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng.” (1Cr 9, 16)

Nói đến việc học hỏi Lời Chúa là một sự ngại ngùng; nói đến việc tông đồ bác ái là một việc khó khăn; nói đến nhà thờ để cầu nguyện và hiệp dâng thánh lễ là một việc sợ hãi; nói đến thực thi Lời Chúa thì cứ loanh quanh. Đó là thực trạng của người tín hữu Ki-tô Giáo hôm nay.

Sống Lời Chúa là xây dựng Hội Thánh, xây dựng giáo xứ, khu xóm, và đặc biệt  xây dựng một gia đình Thánh Thiện.

Điều quan trọng nhất của người Ki-tô hữu là kết hợp mật thiết với Thánh Thể mỗi ngày, để Chúa sống trong ta và ta sống trong Chúa. Chỉ khi chúng ta ở bên Chúa, lắng nghe Lời Chúa và thực thi Lời Chúa, chúng ta mới là con cái đích thực của Chúa.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa, xin cho con nhận biết Chúa luôn ở bên con, đồng hành cùng con, con chỉ là con nít, xin Chúa đặt Lời Chúa trên môi miệng con, để con ca rao Danh Chúa trong suốt cuộc đời con. Xin cho con trở nên chứng nhân Tin Mừng giữa môi trường con đang sống. Amen./.

Gã Đầu Bạc 

 

Người gọi những kẻ người muốn

Khi tuyển chọn nhân viên vào làm trong một cơ quan hay một công việc nào đó. Người ta phải bắt ứng cử viên nộp hồ sơ, trong đó có đầy đủ sơ yếu về lý lịch cá nhân.. kinh nghiệm nghề nghiệp ..vv. Nhưng đối với Thầy Giêsu thì thật ngoại lệ: một nhóm dân chài ngơ ngác, quanh năm vất vả quăng chài thả lưới, thậm chí còn có cả một ông cuối cùng không ngại bán đứng cả Thầy mình. Người ta bảo trông mặt mà bắt hình dong, nhưng với Chúa, Ngài… chơi tuốt.

Thật ra, đường lối của Chúa ai suy cho tỏ. Ngài đã tuyển chọn nhóm 12 để huấn luyện và trao cho họ tiếp tục sứ mệnh của Ngài. Họ là những cột trụ, là nền tảng cho Giáo Hội mà Ngài sẽ thiết lập sau này. Chúa đã hoàn toàn tin tưởng để trao cho họ sứ mệnh cao cả đó; để rồi họ đã theo Chúa trên mọi bước đường, cùng chung vai sát cánh với Chúa, và đem cả cuộc đời để phục vụ Chúa, đến cả cái chết cũng không làm các ngài tách rời Thầy mình.

Qua Lời Chúa hôm nay, ta suy nghĩ đến việc “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”. Mỗi người Kitô hữu ai cũng đều ước ao con số những người thợ gặt ngày càng tăng trưởng để có người phục vụ ở những giáo phận vùng sâu vùng xa… Có một việc ít khi ta để ý, là hàng năm mỗi mùa truyền chức Linh mục, Phó tế, khấn dòng… Ta thấy nở rộ lên ở một vài giáo xứ có số lượng người dâng mình cho Chúa rất đông, mà năm nào cũng có một hai ông chịu chức, đi dự đám ăn tiệc, nguyên ông Cố bà Cố cũng năm sáu bàn. Có nhà con trai con gái đi tu hết, chỉ để ở nhà duy nhất một người con phụng dưỡng cha mẹ. Khách nơi xa khi biết sự việc không khỏi ngạc nhiên: Không lẽ đất nơi đây có trạch vàng?

Nhưng khi được tiếp xúc với vị Linh mục quản xứ thì mới thấy công khó của ngài bỏ ra không hề nhỏ: Các tu sĩ tương lai của chúng ta đã được chăm sóc từ bé qua tay các Sơ từ mẫu giáo. Lý lịch gia đình đạo đức, tính tình các em được rèn từ nét chữ nết người. Rồi lên cấp 1, cấp 2, cấp 3 các em luôn được cha xứ dìu dắt hội họp hằng tuần, các anh lớn (dự tu) và gia đình ông bà cha mẹ cũng quan tâm tiếp tay với cha xứ, để  các em có một đời sống căn bản về tu đức, dễ dàng sống đời tu trì sau này. Cứ thế, mỗi năm đi tu hàng loạt, đầu vào đã vậy đầu ra đâu có gì ngạc nhiên?

Các Thầy mỗi năm về nghỉ, chỉ về gia đình vài ngày, còn lại là ở trong nhà xứ, cùng nhau lên kế hoạch giúp cho giáo xứ nào là tập hát cho ca đoàn, giúp các em thiếu nhi sinh hoạt, dạy giáo lý hôn nhân… nên ơn gọi luôn được củng cố chứ không sứt mẻ sau mỗi kỳ nghỉ. Tôi nghĩ một Linh mục quản xứ  có biết bao công việc bề bộn phải làm, nhưng nhờ biết quan tâm vun trồng ơn thiên triệu mà Giáo Hội được hưởng lợi biết bao nhiêu. Rất mong và vô cùng ước mong có nhiều vị Linh mụccũng hết lòng gieo trồng những người thợ gặt cho nước trời như vậy.

Lạy Chúa, lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Xin Chúa ban cho Giáo Hội chúng con nhiều ơn Thiên Triệu. Xin cho các cha mẹ và các Linh mục quản xứ luôn biết quan tâm đào tạo và vun trồng những mầm non trong gia đình và giáo xứ, để số Linh mục và Tu sĩ triển nở ngày một đông số, cho danh Chúa ngày càng tỏa sáng dưới đất cũng như trên trời. Amen.

THANH ANH NHÀN

 

Chúa chọn

Chúa Giê-su đã chọn những kẻ Người muốn, để họ thi hành sứ vụ Chúa trao. Điều khác thường ở chỗ Nhóm Mười Hai này đều là những người bình thường, thậm chí còn ‘dưới mức trung bình’ chứ không phải là những con người ưu tú xuất chúng theo những tiêu chí tuyển chọn của người đời: một Phê-rô hăng hái, nhưng đã chối Thầy Giê-su ba lần; một Gio-an nóng tính với biệt danh “con của thiên lôi;” một Tô-ma cứng cỏi hoài nghi đòi thọc tay vào lỗ đinh thì mới tin Chúa sống lại; còn Ta-đê-ô và Si-mon lại mang tiếng quá khích. Cũng phải kể đến Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, kẻ đã bán Thầy. Vượt lên trên tất cả giới hạn đó, Đức Giê-su đã nhẫn nại, đón nhận các ông, huấn luyện các ông, để các ông quy tụ cho Ngài một dân tộc của giao ước mới.

Chúng ta đang sống trong tuần lễ cầu nguyện cho sự hiệp nhất các Kitô hữu. Hiệp nhất giữa anh chị em Công giáo (khoảng 1,5 tỉ người), với Chính Thống giáo, Tin Lành, và Anh Giáo (tất cả gồm khoảng 2 tỉ). Ngày xưa, Chúa Giê-su đã huấn luyện nhóm Mười Hai. Với tính khí mỗi người mỗi khác, Chúa đã làm cho họ nên một trong Chúa. Các môn đệ đã dám sống và tuyên xưng niềm tin vào Chúa. Hôm nay, Bạn và tôi, chúng ta đã được Chúa Giê-su chọn. Vì thế, chúng ta hãy để Chúa Giê-su huấn luyện, để trở nên người môn đệ có tâm hồn hiệp nhất, để thuộc về những kẻ Người muốn.

Lạy Chúa, xin hiệp nhất chúng con nên một trong tình yêu của Chúa Ba Ngôi. Xin giúp con luôn biết sống tình huynh đệ yêu thương chân thành với tất cả mọi người không trừ ai : “ Tứ hải giai huynh đệ” khắp nơi nơi, để tình người được sẻ chia nồng ấm, bớt đi những sự vô cảm làm băng giá cuộc đời hôm nay.

BCT 

 

Ơn gọi: hồng ân và sứ mạng

 Suy niệm: Ta thường tìm cách giải thích vì sao người này người kia có ơn gọi này hay ơn gọi nọ; nhưng ta không bao giờ lý giải được rốt ráo, vì tiên vàn đó là một hồng ân. Chúa gọi những ai Chúa muốn. Ơn gọi là một ân huệ vì đó là quà tặng của Thiên Chúa do ý định nhiệm mầu của Ngài chứ không phải do chúng ta có quyền đòi hỏi. Ơn gọi luôn gắn liền với sứ mạng: Chúa gọi các môn đệ để sai họ đi rao giảng. Điều này dễ nhận ra vì sứ mạng rao giảng có thể thấy được qua những hoạt động bên ngoài. Nhưng cũng đừng quên rằng nhịp cầu nối liền ơn gọi với sứ mạng chính là ở lại với Đức Ki-tô bằng đời sống cầu nguyện kết hiệp. Được ơn Chúa kêu gọi thì phải đến ở với Chúa Giê-su thì mới được Ngài sai đi.

Mời Bạn: Ý thức rằng qua bí tích Rửa Tội mọi người đều được kêu gọi và được sai đi, chứ không riêng gì những người được ơn gọi chuyên biệt trong Giáo Hội. Và không chỉ những tu sĩ chiêm niệm mà mọi Ki-tô hữu đều phải có đời sống cầu nguyện để nuôi dưỡng và thống nhất các hoạt động tông đồ của mình. Có những ơn gọi có vẻ như gãy đổ hay mất ‘chất’, ta sẽ không oán trách gièm pha, nhưng tìm cách giúp đỡ trong khả năng mình (nhất là bằng cầu nguyện) để người anh chị em ấy tìm lại được “tình yêu thuở ban đầu” (cf. Kh 2,4).

Chia sẻ: Kinh nghiệm của bạn về mối tương tác chặt chẽ giữa cầu nguyện và hoạt động.

Sống Lời Chúa: Sống tâm tình tạ ơn vì mình đã được gọi, và tổ chức lại đời sống, nếu cần, để tạo đựơc sự hài hoà giữa cầu nguyện và hoạt động tông đồ.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, con xin tạ ơn Chúa vì ơn gọi Chúa dành cho con.

 

Ở với Chúa để được sai đi

Suy niệm: Cuộc sống người môn đệ Đức Giêsu bao hàm hai nhịp liên hoàn: ở với Người và được Người sai đi.

Trước tiên, phải sống thân mật với Chúa đã, để có kinh nghiệm về Người và để thấm đượm tinh thần của Người. Muốn biết Chúa bằng cái đầu, có thể qua sách vở, chữ nghĩa, qua nghiên cứu; song để biết Chúa bằng trái tim, nhất thiết phải sống với Người…

Sau đó mới có thể ra đi làm chứng nhân cho Người, rao giảng về Người bằng tất cả nhiệt tình và xác tín – là điều kiện để có được lời chứng thuyết phục, nhất là đối với con người thời đại hôm nay…

Mời Bạn: Cải thiện đời sống cầu nguyện, phụng vụ và bí tích của mình bằng việc lắng nghe và suy niệm Lời Chúa. Một khi bạn thực sự yêu Chúa, thì cả cuộc sống bạn là một lời chứng sáng tỏ, hùng hồn, đầy mãnh lực cuốn hút người ta. Bạn sẽ không phải quá băn khoăn về việc nói gì và nói cách nào để rao giảng về Chúa…

Sống Lời Chúa:

–  Đọc và suy niệm Lời Chúa mỗi ngày;

– kết hợp với Chúa thường xuyên bằng những lời nguyện tắt trước khi bắt đầu một công việc hay một cuộc tiếp xúc.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trong công cuộc xây dựng Nước Trời, Chúa đã cần đến sự cộng tác của các môn đệ. Chúa đã mời gọi các môn đệ đến ở với Chúa trước khi sai các ông đi rao giảng. Ngày nay, Chúa cũng chờ đợi sự cộng tác của chúng con. Xin cho chúng con biết trân trọng đời sống cầu nguyện, biết gặp gỡ Chúa thực sự qua phụng vụ và bí tích – để được Chúa biến đổi. Và chúng con sẽ thành muối men âm thầm thấm đượm vào thế giới này. Amen.

 

THỨ BẢY TUẦN 2 THƯỜNG NIÊN

LỜI CHÚA: Mc 3, 20-21

Khi ấy Chúa Giêsu cùng các môn đệ trở về nhà, và dân chúng đông đảo lại đổ xô tới, đến nỗi Người không dùng bữa được.

Những thân nhân của Người hay tin đó, liền đi bắt Người, vì họ nói: “Người đã mất trí”.

Suy Niệm 1: Người bị mất trí

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Bài Tin Mừng hôm nay thật là ngắn, chỉ gồm có hai câu.

Nhưng câu chuyện kể lại có thế làm chúng ta bối rối.

Đức Giêsu đã gặp sự chống đối từ phía các kinh sư và người Pharisêu.

Bây giờ Ngài lại gặp sự hiểu lầm từ phía những thân nhân,

trong đó có thể có thân mẫu của Ngài (x. Mc 3, 31).

Khi Đức Giêsu và các môn đệ trờ về nhà ở Caphácnaum,

đám đông lại kéo đến.

Nhu cầu thật lớn lao và thúc bách khiến cả nhóm không thể nào có giờ ăn.

Thân nhân của Ngài nghe tin ấy thì hốt hoảng.

Có lẽ họ đã đi từ quê làng Nadarét đến để gặp Đức Giêsu.

Họ nghĩ Ngài bị mất trí và họ muốn lôi Ngài về lại quê nhà.

Họ sẵn sàng dùng sức mạnh để ép Đức Giêsu phải đi.

Kể cũng lạ nếu chỉ dựa vào chuyện Đức Giêsu không ăn

để vội vã kết luận là Ngài mất trí.

Các thân nhân chẳng để ý đến chuyện đám đông chạy đến với Ngài

để được trừ quỷ, được chữa bệnh và để được nghe giảng.

Làm sao một người mất trí có thể làm được những việc như thế?

Xem ra họ không hiểu mấy về con người và sứ mạng của Đức Giêsu.

Thật ra dưới mắt của các thân nhân,

Đức Giêsu có những điều chẳng bình thường chút nào.

Ngài đã không lập gia đình như những thanh niên khác.

Ngài đã bỏ nghề thợ mộc ở Nadarét để lang thang khắp đó đây.

Dù không phải là người học thức,

Ngài đã chiêu tập một nhóm môn đệ chủ yếu là dân đánh cá,

đã giao du với những hạng người nên tránh, đã dám đụng độ với các kinh sư,

và bây giờ Ngài đang mê mệt với một đám đông cuồng nhiệt theo Ngài.

Họ tự hỏi ông Giêsu, người thân của họ, có vấn đề gì về tâm lý không,

có rơi vào tình trạng hoang tưởng tự đại không.

Chúng ta cần nhiều thời gian để hiểu được sự “mất trí” của Đức Giêsu.

Quan hệ máu mủ có khi lại làm cản trở việc nhận ra Ngài là ai.

Đức Giêsu bao giờ cũng vượt trên những gì chúng ta thường nghĩ.

Cần thấy được sự khôn ngoan và lòng nhân hậu của Thiên Chúa

nơi sự “mất trí” và điên rồ của Đức Giêsu trên thập giá (1 Cr 1, 18).

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

dân làng Nadarét đã không tin Chúa

vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.

Các môn đệ đã không tin Chúa

khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.

Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa

chỉ vì Chúa sống như một con người,

Cũng có lúc chúng con không tin Chúa

hiện diện dưới hình bánh mong manh,

nơi một linh mục yếu đuối,

trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.

Dường như Chúa thích ẩn mình

nơi những gì thế gian chê bỏ,

để chúng con tập nhận ra Ngài

bằng con mắt đức tin.

Xin thêm đức tin cho chúng con

để khiêm tốn thấy Ngài

tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống. Amen.

Suy Niệm 2: Mất trí

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Người bình thường lo cho bản thân. Những nhu cầu tối thiểu trong đời sống hằng ngày: ăn uống, ngủ nghỉ. Nhưng “Chúa Giê-su cùng với các môn đệ trở về nhà, và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được”. Người đời và nhất là thân nhân, những kẻ thương mến Người “liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí”. Người đã rất quyết liệt. Nên không để bị bắt trở về. Từ đây Người giã từ gia đình trần thế. Để hiến thân cho gia đình Nước Trời. Để thi hành thánh ý của Cha. Để toàn tâm toàn ý cho tha nhân. Cho gia đình mới của Người.

Anh hùng là những người quên bản thân, quên lợi ích riêng tư, vì quyền lợi chung của đất nước, của dân tộc. Sa-un và Gio-na-than là những bậc anh hùng. Vì đất nước, dân tộc mà tử nạn. Nên Đa-vít và toàn dân khóc thương các ngài. Các ngài quên mình vì dân tộc: “Thiếu nữ Ít-ra-en hỡi, hãy khóc Sa-un, người đã mặc cho các cô vải điều lộng lẫy, đính trên áo các cô đồ trang sức bằng vàng”(năm chẵn).

Chúa Ki-tô đáng ca tụng gấp bội. Vì Sa-un và Gio-na-than lo cho đời sống vật chất mau qua của dân Ít-ra-en. Còn Chúa Ki-tô hiến mình vì đời sống vĩnh cửu và vì kho tàng không hư nát của mọi dân tộc trên thế giới.

Sa-un và Gio-na-than bất đắc dĩ chịu chết. Còn Chúa Ki-tô tự hiến thân mình để đền tội muôn dân.

Chúa Ki-tô là Thượng Tế trổi vượt. Các thượng tế dâng lễ vật là súc vật. Còn Chúa Ki-tô dâng chính bản thân mình. Các thượng tế phải dâng nhiều lần. Còn “Người vào chỉ một lần, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta” Máu chiên bò chỉ làm cho thân xác trong sạch. “Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết”(năm lẻ).

Người không chỉ mất trí. Mà còn điên dại. Yêu ta nên tự hiến mình chịu chết. Đổ máu mình ra. Nhưng chính nhờ tình yêu điên dại của Người ta được ơn cứu độ. Được sống. Được hạnh phúc.

Thế giới hôm nay cần nhiều người mất trí để lo cho tha nhân. Cần nhiều môn đệ bước theo tình yêu điên dại của Thầy Giê-su. Thế giới mới được cứu rỗi.

Suy Niệm 3: Vai trò của gia đình

Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ về tương quan với Chúa Giêsu và gia đình của Ngài, để từ đó rút ra những bài học thực tiễn về vai trò gia đình đối với con người.

Chúa Giêsu đã sinh ra và lớn lên trong một gia đình. 33 năm sống kiếp làm người, Ngài đã sống 30 năm với gia đình. Hơn nữa, cũng như bất cứ một người Á Ðông nào, Chúa Giêsu rất xem trọng những mối giây liên hệ thân thuộc: trong ba năm rao giảng công khai, Ngài vẫn tìm dịp trở về thăm làng cũ, và giữa lúc Ngài bận bịu với sứ vụ công khai, bà con thân thuộc của Ngài vẫn tìm đến thăm Ngài. Quả thật, Chúa Giêsu xem trọng những liên hệ máu mủ và tình bà con xóm giềng, Ngài quý trọng gia đình; Ngài đề cao sự thánh thiêng và bất khả phân ly của giây hôn phối. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không lập gia đình; trong ba năm thi hành sứ vụ công khai, Ngài sống xa gia đình, không nhà, không cửa.

Như vậy, đối với Chúa Giêsu, trên cõi đời này, gia đình cũng như mọi thứ định chế khác của loài người đều không phải là những giá trị tuyệt đối. Chỉ có một giá trị tuyệt đối, đó là con người, bởi có con người mới có một vận mệnh vĩnh cửu. Tất cả đều hiện hữu vì con người. Trong Kinh Tin Kính, Giáo Hội tuyên xưng: “Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trờ xuống thế”. Như vậy, ngay cả mầu nhiệm Nhập Thể cũng là vì con người. Chính Chúa Giêsu đã tuyên bố rằng Ngài đến để phục vụ, chứ không phải để được phục vụ; nếu Con Thiên Chúa nhập thể là để phục vụ con người, thì huống chi những định chế của xã hội loài người. Tất cả đều hiện hữu vì con người: gia đình cũng như xã hội hiện hữu vì con người, chứ không phải con người vì gia đình và xã hội.

Từ cái nhìn trên đây của Chúa Giêsu về gia đình, chúng ta có thể thấy được vai trò của gia đình và một cách cụ thể mục đích của việc giáo dục trong gia đình.

Trong tuyển tập “Giới Luật Yêu Thương”, Ðức Cha Bùi Tuần đã có một phân tích sâu sắc về mục đích của việc giáo dục gia đình, Ngài viết:

“Các bậc cha mẹ muốn biết xưa nay mình nhằm mục đích gì trong việc giáo dục con cái, thì hãy xét xem ta thường muốn gì, chờ đợi gì ở con cái. Có phải muốn chúng nên giàu sang không? Có phải chờ đợi ở chúng một lợi lộc vật chất chăng? Không thiếu những cha mẹ nhắm cái đó khi giáo dục con cái. Những hy vọng đó không phải là xấu, nhưng chắc chắn không phải là chính mục đích mà cha mẹ phải nhắm để đưa con cái mình đi tới. Mục đích chính đó là gì?”

Mục đích đó là giúp chúng nên người với tất cả ý nghĩa cao đẹp của nó. Mà nên người trước hết là thực hiện đầy đủ ý nghĩa câu nói quen thuộc: “Con người, đầu đội trời, chân đạp đất”. Chân đạp đất là thái độ phải thắng dẹp những lôi cuốn tội lỗi thế tục, là đạp lên trên những gì làm cho mình ra hèn như cát bụi, là đạp lên trên những gì đưa ta xuống đất, xuống địa ngục. Nếu chân đạp đất chỉ những sự phàm trần, thì đầu đội trời chỉ những sự siêu phàm. Ðầu đội trời chi thái độ vươn lên những gì cao thượng, đầu đội trời chỉ sự cố gắng phóng mình tới lý tưởng xa vời, đầu đội trời chỉ sự hướng tâm con người về mục đích ở tận bên kia thế giới, đầu đội trời chỉ nỗ lực băng mình lên cao để tìm về quê hương trên trời.

Những suy tư của Ðức Cha Bùi Tuần gợi lại cho chúng ta câu nói của Chúa Giêsu với cha mẹ Ngài khi hai Ðấng gặp lại Ngài trong Ðền Thờ Yêrusalem: “Cha mẹ không biết con phải lo việc Cha con sao?” Ðầu đội trời chính là lo việc Cha trên trời, là hướng về trời cao, là sống cho những giá trị vĩnh cửu. Nên người thực sự là sống đúng ý nghĩa ba chữ “đầu đội trời”, và đó phải là mục đích của giáo dục gia đình, bất cứ hành động nào đi ngược mục đích ấy đều là phản giáo dục.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tự vấn lương tâm xem đâu là những giá trị đích thực mà chúng ta đang theo đuổi và muốn truyền đạt cho người khác. Nguyện xin Ðấng là Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống soi sáng và hướng dẫn chúng ta.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Suy Niệm 4: Người đã mất trí

Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được. Thân nhân của người hay tin ấy, liền bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí. (Mc. 3, 20-21)

Thân nhân của Chúa Giêsu đã không được chiều chuộng cho lắm. Buổi đầu khi Người xuất thân đi rao giảng, nhứng người thân của Chúa đã phải chịu nỗi phiền hà là có liên hệ bà con với một con người kỳ quặc, tự cao. Sau này khi Chúa Giêsu đã có tiếng tăm rồi và bà con muốn tới gặp Người thì lại bị rầy la, khi Người nói: “Ai là anh chị em tôi?”

Phần chúng ta, chúng ta có hạnh phúc vì được kể vào hàng bà con thân thích mới này- chúng ta sung sướng được gọi là anh là chị của Đức Kitô. Nhưng vấn đề Phúc âm hôm nay đặt ra cho ta là hãy tìm xem liệu ta có nét nào giống với đám bà con ấy là những người đã coi Chúa Giêsu như kẻ “phá rối” cần sớm cho vào “nhà nghỉ mát” không?

Tại sao có sự phiền hà này

Ta có thể hiểu thế nào về phản ứng của những thân nhân ấy? Phản ứng này một phần lớn là Do thái độ tự phụ của Chúa Giêsu dám coi mình là “Con Người”. Với danh xưng này, Người đòi buộc người ta phải nhìn nhận mình là một nhân vật của Truyền thống có quan hệ thân cận độc nhất vô nhị với Đức Giavê Vì thế, là thân nhân của một con người tự phụ, một anh “ngộ đạo”, thì chẳng có gì là vinh quang cả! Tốt hơn là nên coi Người như một người khùng thay vì đưa ra tòa hoặc bịt miệng Người lại.

Còn chúng ta có “giam tù” Người không?

Những thân nhân của Chúa Giêsu có lập trường rõ ràng. Còn ý định của chúng ta lại tế nhị hơn. Hãy coi xem.

Chúng ta không nói rằng Chúa Giêsu đã mất trí. Nhưng chúng ta để trong ngoặc đơn những đòi hỏi gắt gao nhất của Người.Ta có can đảm như thế nào khi làm chứng Người là Thiên Chúa? Ta làm chứng gì về sự Phục sinh của Người?

Chúng ta không muốn bắt Người để tống vào ngục, nhưng chúng ta gác ra một bên những yêu sách quyết liệt nhất của Người: “… Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo … rồi hãy đến theo Tôi!” – “Phúc thay ai xây dựng hòa bình! Phúc thay ai hiền lành!”

Bôi bác Tin mừng của Đức Kitô, làm méo mó chân dung Người, đòi Phúc âm phải hợp với lý luận, đó chính là một cách thế nào đó đã giam giữ Đức Kitô vậy.

Suy Niệm 5: Vì sứ vụ

Có một linh mục sống tại một đất nước phồn thịnh, nhưng khi làm linh mục được 5 năm, ngài đã xin phép bề trên để về Việt Nam phục vụ những bệnh nhân sida, nghiện ngập, những bạn trẻ cơ nhỡ và trẻ em mồ côi. Khi quyết định của ngài được thông báo cho gia đình, bà cố đã không chấp nhận và cho rằng con mình có vấn đề…!!!

Hôm nay, Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu tất bật lo lắng cho dân chúng, đến nỗi không có thời giờ để nghỉ ngơi và ăn uống. Những việc như: giảng dạy, chữa bệnh, xua trừ Ma Quỷ… Ngài làm mọi việc không xuể, nên đã gọi và chọn các môn đệ để hỗ trợ Ngài trong sứ vụ.

Tuy nhiên, sự nhiệt tình vì sứ vụ khi chăm lo cho người nghèo, bệnh tật, ốm đau thì lại là mối lo của bà con, họ hàng của Ngài khi họ nghe tin đổn thổi Ngài bị mất trí…, vì thế, họ đã đến để tìm cách ngăn cản Ngài.

Thật vậy, trong cuộc sống, chúng ta vẫn thấy xuất hiện đây đó những hình ảnh sống động của Đức Giêsu khi những anh chị em Kitô hữu luôn sống chu toàn bổn phận và sẵn sàng đặt lợi ích của cộng đoàn, gia đình lên trên cá nhân của mình. Luôn đứng về phía người nghèo khổ để nâng đỡ và phụ giúp họ… Luôn coi sứ vụ là chính yếu, nhu cầu cá nhân là phụ thuộc…

Nhưng lẽ ra, theo lối suy nghĩ của người đời thì họ phải được tán dương, chúc tụng mới xứng! Tuy nhiên, điều đó có lẽ có nhưng họa hiếm, ngược lại có khi chỉ là những lời dè môi bỉu mỏ cho rằng: họ bị điên, bị khùng thì mới làm những chuyện như thế!

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết đặt sứ vụ lên trên hết mọi chuyện. Nếu có phải khinh thường, chỉ trích, thì chúng ta cũng biết vui chịu để danh Chúa được cả sáng và Nước Chúa được trị đến. Chỉ khi nào chúng ta trở nên giống Chúa, thì hình ảnh, khuôn mặt của Ngài mới được lộ hiện nơi chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết yêu mến Chúa tha thiết. Luôn biết trung thành với sứ vụ được trao. Và xin cho chúng con biết đón nhận tất cả, miễn sao anh chị em chúng con được hạnh phúc và Chúa được loan báo. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 6: Nhận ra điều kỳ diệu Chúa làm

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu đã hy sinh sức lực, hy sinh thời giờ để phục vụ mọi người. Điều Chúa làm thật là cao cả tốt đẹp, nhưng những người thân họ hàng lại không chấp nhận. Phải có con mắt đức tin và sống trong tình yêu mới có thể hiểu được công việc của Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa, là tình yêu Thiên Chúa nhập thể, Chúa đã đến bày tỏ tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa. Tình yêu ấy không phải là lý thuyết, nhưng là tình yêu cụ thể và có thật, được biểu lộ qua những hoạt động của Chúa nhằm cứu độ chúng con. Nhưng với cái nhìn hẹp hòi, với cõi lòng ích kỷ, nhiều kẻ không bắt gặp được con tim quảng đại của Chúa. Đồng thời, họ cũng không cộng tác với Chúa, và cũng không tin vào Chúa.

Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa, hằng ngày con được đón nhận Lời Hằng Sống khi cùng cộng đoàn dâng Thánh lễ, khi đọc và suy niệm Tin Mừng. Nhưng Lời Chúa còn quá xa lạ đối với con. Và thậm chí, cuộc sống con còn đối nghịch với Lời Chúa nữa. Chúa đến với con trong bí tích Thánh Thể nhưng con chẳng nhận ra Chúa. Chúa là Thiên Chúa cao cả vô biên. Nhưng để con khỏi chết vì thấy sự rực rỡ huy hoàng vô cùng của Chúa, nên Chúa đến với con trong thân phận con người đơn sơ, nhỏ bé, nghèo hèn, bình thường, thầm lặng. Thế mà con lại vì đó mà coi thường Chúa.

Xin Chúa mở mắt cho con nhìn thấy các công trình Chúa thực hiện. Xin mở rộng tâm trí con để con đón nhận những điều kỳ diệu Chúa đã làm vì thương con. Xin ban tình yêu cho con, để trong tình yêu, con nhận ra tình yêu Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Những thân nhân của Người nói: Người đã mất trí”.

Suy Niệm 7: Người đã bị mất trí

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm) 

  1. Sau khi đi rao giảng một thời gian, Đức Giêsu và các môn đệ trở về nhà và giảng dạy tại nhà bà mẹ vợ ông Phêrô ở Capharnaum, dân chúng lại đổ xô tới đông đúc, đến nỗi các ngài không có thời giờ ăn uống. Thấy vậy, các thân nhân của Chúa đến bắt giữ Ngài vì được tin người ta cho biết là Ngài đã mất trí. Thân nhân Ngài làm như vậy có ý cho các môn đệ của Ngài được rảnh rỗi nghỉ ngơi, đồng thời cũng để cho họ khỏi bị liên lụy về Ngài. Vì nếu dân chúng kéo theo Ngài đông đảo rùm beng như vậy thì sợ nhà chức trách sẽ làm khó dễ.
  2. Bài Tin Mừng hôm nay rất vắn gọn, nhưng cũng hé mở cho chúng ta biết Chúa nhiệt thành phục vụ đến mức nào. Trong thời gian đầu của đời sống công khai, Đức Giêsu đã khơi dậy lòng nhiệt thành sùng mộ của đông đảo quần chúng. Ngài phục vụ cách vị tha và vô vị lợi, Ngài hoạt động ở nơi hội đường, ở ngoài trời và ở đây ngay tại nhà. Điều đó chứng tỏ Ngài hiến thân trọn vẹn cho tác vụ, miệt mài với công việc bổn phận, không còn thì giờ nghĩ đến mình đến nỗi không có cả thời giờ dùng bữa.
  3. Trong thời Tam Quốc, khi Lưu Bị khởi quân chống Tào Tháo, nhiều tướng lãnh oai hùng và nhiều hiền nhân lỗi lạc đã đến giúp đỡ ông, vì tin rằng ông chính là minh chủ, sẽ thống nhất sơn hà. 

Thánh Marcô hôm nay kể rằng có nhiều người kéo đến với Đức Giêsu, đông đến nỗi Người không có thời gian để dùng bữa, vì họ tin rằng Người là Đấng uy quyền và bởi Thiên Chúa mà đến. Họ nghe Người giảng và đi theo Người. Chính đức tin đã thúc đẩy họ hành động, thúc đẩy họ tìm đến và bước theo Đức Giêsu.

  1. Ngài không phải là con người dễ hiểu, ngay các Tông đồ đã ở với Ngài gần ba năm trời, khi Chúa hỏi các ông cho Ngài là ai, thì các ông cũng chỉ biết lơ mơ như dân chúng hiểu thôi. Còn đối với quần chúng thì cũng có người, nhất là các biệt phái và luật sĩ còn cho Ngài là bị quỉ ám. Còn hôm nay thì người ta cho là Ngài bị mất trí.

Người ta kể rằng, ngày nay ở bên Mỹ tại nhà quốc hội có một thư viện lớn vào loại bậc nhất thế giới. Hàng năm có cả ngàn người viết thư đến hỏi viên quản thủ thư viện này nhiều vấn đề khác nhau. Trong số những câu hỏi người ta gửi đến, có một câu hỏi được nhiều người hỏi nhất, đó là câu: “Ai là người được nhiều tác giả viết nhất”?

Sau khi cho kiểm kê, viên quản thủ thư viện đã tổng kết được kết quả như sau

Có 1735 cuốn viết về Napoléon.

Có 1755 cuốn viết về George Washington,

Có 2319 cuốn viết về Abraham Lincoln,

Có 3175 cuốn viết về William Shakespeare,

Và có tới 5151 cuốn viết về Đức Giêsu Kitô.

  1. “Phải chăng  Đức Giêsu là người mất trí, một kẻ điên”?

Bài hát “Mùa Đông Của Anh” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh có một câu lột tả hết sự thật của tình yêu đôi lứa là: “Em chỉ là người điên trong vòng tay tình ái”. Thật vậy, khi yêu nhau, người ta như một ”kẻ điên” theo sự rung cảm của con tim hơn là lý trí;  người ta biết đau khổ và rắc rối do chính sự lựa chọn đem lại, nhưng vẫn lao vào, thậm chí biết rằng có thể mất tất cả từ danh dự đến sự nghiệp, thậm chí mất cả mạng sống… chỉ vì yêu.

Tắt một lời, khi yêu làm người ta lắm khi như người mất trí, như NGƯỜI ĐIÊN.

Nhưng cái “điên” của Chúa là tất cả cho con người đến nỗi hy sinh cả mạng sống vì con người. Thánh Phaolô cũng đã nói về sự “điên rồ của thập giá”. Cũng như đôi tình nhân yêu nhau, họ cần đến sự gặp gỡ và hy sinh cho nhau, thì nếu Chúa Giêsu ở trên trời nói vọng xuống rằng “Ta yêu nhân loại” thì liệu có ai tin chăng? Quả thật, Ngài đã đến với con người, ở với con người và cuối cùng chết đi vì con người. Để rồi từ đó, rất nhiều tâm hồn bước theo Chúa Giêsu và “điên vì Chúa”…

  1. Truyện: Phải biết đúng sự thật khi nói.

Một ngày kia có một người hàng xóm đến gặp Socrate, một triết gia Hy lạp nổi tiếng ngày xưa. Ông ta nói:

– Này ông Socrate, ông đã nghe chuyện này chưa?

Socrate vội ngắt lời:

– Khoan đã! Anh có chắc rằng, tất cả những gì anh sắp kể cho tôi đều đúng sự thật không?

Ông hàng xóm ấp úng:

– À, cũng không chắc  lắm. Tôi chỉ nghe người ta kể thôi.

Socrate mỉm cười bảo:

– Thế vậy chúng ta không cần quan tâm đến nó trừ phi nó là một chuyện tốt không?

Ông hàng xóm thật sự lúng túng:

– Không, chuyện này không tốt lắm. Phải nói đây là một chuyện xấu.

Socrate vỗ vai ông ta hỏi thêm:

– Chà, anh có nghĩ rằng, tôi cần phải biết chuyện ấy để giúp ngăn ngừa những điều không hay không tốt cho người khác chăng.

Lần này thì ông hàng xóm tiu nghỉu cúi gầm mặt:

– Ờ… Ờ, kể ra thì cũng chẳng giúp được cho ai!

Socrate kết luận:

– Thế này nhé, chúng ta hãy quên ngay chuyện ấy đi. Còn vô số chuyện đáng giá hơn trong đời sống, chúng ta không nên mất công bận tâm vào những chuyện tầm phào, vừa không đúng sự thật, vừa không tốt, lại vừa không cần thiết cho ai.

Suy Niệm 8: Quan tâm nghe Chúa giảng dạy

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Phân tích (Hạt giống…)

Lúc Chúa Giêsu đang giảng thì thân nhân của Ngài tìm đến. Ta hãy chú ý chung quanh Chúa Giêsu có hai vòng:

a/ Vòng phía trong gần gũi với Chúa là những người đang nghe Ngài giảng. Họ “đang ngồi chung quanh Ngài”

b/ Vòng ngoài là những người ba con của Ngài. Những người này đứng đó không phải để nghe giảng mà để bắt Ngài về quê không cho Ngài giảng nữa vì nói Ngài bị mất trí.

Tin Mừng Maccô không nói nhưng Tin Mừng Mát-thêu thái độ của Chúa Giêsu đối với những người ở vòng trong rất đặc biệt. (Mt 12,46-50). Chúa Giêsu coi trọng những người ở vòng trong hơn vòng ngoài: Chẳng những Ngài không bỏ việc giảng để ra ngoài gần gũi với bà con mà còn nói những kẻ đang nghe Ngài giảng mới là gia đình thật của Ngài.

  1. Suy niệm (…nảy mầm)
  2. Chúa Giêsu coi trọng những kẻ nghe Lời Chúa hơn chính cha mẹ và anh em ruột thịt. Đây không phải chỉ là một cách nói khuyến khích mà là sự thật: Các thánh được Chúa coi như người nhà của Ngài; và không vị thánh nào không siêng năng nghe lời Chúa và thực thi Lời Chúa.
  3. Sự quan tâm lo lắng: những người bà con của Chúa quan tâm lo lắng về việc ăn uống của Ngài; Còn Chúa Giêsu thì coi những kẻ đang nghe Ngài giảng là gia đình thiêng liêng của mình, nên quan tâm lo cho họ có lương thực thiêng liêng. Ngài quan tâm điều này đến nỗi quên luôn của ăn vật chất của mình.
  4. Thái độ cần có khi nghe lời Chúa:

– Tiêu cực: Cố gắng bỏ qua một bên những trở ngại làm cho Lời của Chúa không thể bén rễ, nảy mầm và phát triển:

Trong vườn, một gốc nho héo úa giữa bao cây xanh tươi mơn mởn. Bón bao nhiêu phân cũng không thấy khá hơn. Cuối cùng người chủ đào gốc lên xem thì thấy có miếng gỗ nằm chắn ngang gốc nho.

Có lẽ đời của ta cũng vậy. Nếu không đâm rễ sâu vào lòng đất là Lời Chúa, đời ta cũng sẽ tàn úa (Góp Nhặt)

– Tích cực là cố gắng đáp lại Lời Chúa bằng một lòng yêu mến chân thành

Một bà kia rất thường đọc sách thánh và đọc rất sốt sắng. Khi được hỏi tại sao thì bà dùng một thí dụ để giải thích:

Hôm qua tôi nhận được một bức thư của một người tôi rất quí mến. Tôi đã đọc rất chăm chú và đọc đi đọc lại đến 5 lần. không phải vì tôi không hiểu lời lẽ trong thư vốn đã quá rõ, nhưng vì tôi biết đó là những lời của một người rất thương tôi và tôi cũng rất thương người đó. (United Presbyterian).

  1. Thân nhân Chúa Giêsu đi bắt Người vì họ nói rằng Người mất trí (Mc 3,21)

Chuyện kể về một em bé đã giúp môt người bạn nghèo trong lớp. Hạnh phúc quá, em về khoe với mẹ. Không ngờ mẹ mắng: “Không được chơi với đứa khố rách áo ôm đó.” NỤ cười trên môi em bé chợt tắt, em thất vọng trước sự cố gắng của mình.

Hôm nay qua lời nói của mình, tôi cũng dập tắt niềm hạnh phúc mỏng manh của người khác. Tôi đã giết chết đi những mầm non hy vọng, sự cố gắng, lòng nhiệt thành của những người chungquanh. Tôi như những người thân của Chúa ngày xưa, không hiểu và không nhìn ra sứ mạng của Ngài để rồi vô tình cản trở buớc rao giảng Tin Mừng nuớc Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Cha. xin cho con biết quan tâm tới người khác để nhận ra những cố gắng và thiện chí của họ; biết đem hết khả năng của mình để nâng đỡ, khích lệ, cộng tác với anh em. (Epphata).

Suy Niệm 9: Chúa Giêsu bị cho là mất trí

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Bài Tin mừng hôm nay thật vắn gọn. Chỉ có hai câu nhưng qua hai câu này chúng ta cũng có rất nhiều điều để nói về Chúa Giêsu.

Tin mừng kể lại lúc Chúa Giêsu đang giảng thì thân nhân của Ngài tìm đến, đến để bắt Ngài, không cho Ngài giảng nữa vì nghe người ta nói là Ngài đã mất trí.

Đây không phải là lần duy nhất mà người ta cho là như thế. Chúng ta còn nhớ có lần người ta đã cho Ngài là người bỉ quỉ ám, là khùng điên, là một người nổi loạn.

Thực ra Chúa cũng chẳng phải là một nhân vật dễ hiểu. Các tông đồ của Chúa ngày xưa dù đã được sống với Chúa cả mấy năm trời vậy mà các ông ấy cũng chẳng hiểu được Chúa là ai.

Người ta kể rằng, ngày nay ở bên nước Mỹ tại tòa nhà Quốc hội Hoa Kỳ có một thư viện lớn vào loại bậc nhất thế giới. Hằng năm có cả hàng ngàn người viết thư đến để hỏi viên quản thủ thư viện này nhiều vấn đề khác nhau. Trong số những câu hỏi người ta gửi đến có một câu hỏi được nhiều người hỏi nhất đó là câu: “Ai là người được nhiều tác giả viết nhất?”

Sau khi cho kiểm kê, viên quản thủ thư viện đã tổng kết được kết quả như sau:

Có 1735 cuốn viết về ông Napoléon,

Có 1755 cuốn viết về ông George Washington,

Có 2319 cuốn viết về ông Abraham Lincohn,

Có 3175 cuốn viết về ông Wiliam Shakespeare,

Và có tới 5151 cuốn viết về Đức Giêsu Kitô.

5151 cuốn tức là 5151 loại sách. Thông thường mỗi loại sách người ta chỉ ấn hành vài ngàn cuốn. Nếu bán chạy người ta sẽ tái bản, và tái bản cùng lắm chừng 10 lần, mỗi lần vài ba ngàn cuốn. Riêng cuốn Kinh Thánh, đặc biệt là cuốn Tân Ước nói về Đức Giêsu, đã được ấn hành nhiều nhất bằng đủ thứ tiếng và được phổ biến trên khắp thế giới.

Từ khi ông Gutenberg in cuốn Thánh Kinh thứ nhất năm 1465 cho tới nay, người ta không thể biết được đã có bao nhiêu triệu Sách Thánh được ấn hành và được phổ biến. Chỉ nguyên năm 1989 đã có đến gần 350.000 cuốn Sách Thánh toàn bộ và hơn nửa triệu cuốn Tân Ước đã được gởi tặng các tin đồ Kitô ở Liên xô, vì từ năm 1988, nhà nước Liên Xô đã cho tự do nhập khẩu sách Thánh Kinh.

Sách nói về Chúa Giêsu nhiều như thế, vậy mà thử hỏi ngày hôm nay đã có được bao nhiều người thực sự hiểu một cách sâu xa về Chúa? Chắc là không nhiều lắm.

  1. Vậy thì vấn đề còn lại hôm nay là chúng ta hãy xem xem trong những trường hợp Chúa bị người ta hiểu lầm hay bị người ta nghĩ xấu về mình như thế, Chúa đã có thái độ như thế nào?

Phải nói rằng, Chúa đã có một thái độ rất cao thượng. Không những Ngài không buồn, không trách móc mà còn coi những chuyện đó chẳng đáng để Ngài phải bận tâm. Đàng khác như chúng ta thấy, ngay cả như việc Chúa bị người ta vu oan cáo vạ rồi đưa Ngài lên đồi Golgotha để đóng đinh, lúc sắp chết Ngài cũng còn ngửa mặt lên trời cầu xin Thiên Chúa Cha tha cho những kẻ đã hành hạ và giết Ngài một cách dã man như vậy. Lý do Chúa đưa ra là vì họ không biết Ngài.

Cuộc đời của Chúa là như thế. Cuộc đời của mỗi người chúng ta chắc nhiều khi cũng như vậy.

Trong cuộc sống, chẳng thiếu gì những lúc chúng ta bị hiểu lầm. Cũng chẳng thiếu gì những lúc chúng ta bị người ta ghét bỏ.

Những lúc như thế, chúng ta phản ứng lại thế nào? Cách tốt nhất tôi tưởng chúng ta hãy nhớ lại cuộc đời của Chúa Giêsu và bắt chước cách hành xử của Ngài.

Một ngày kia có một người hàng xóm đến gặp Socrates. Chúng ta biết Socrates là triết gia Hy Lạy nổi tiếng ngày xưa. Ông ta nói:

– Này ông Socrates, ông đã nghe chuyện này chưa?

Socrates vội ngắt lời:

– Khoan đã! Anh có chắc rằng, tất cả những gì anh sắp kể cho tôi đều đúng sự thật không?

Ông hàng xóm ấp úng:

– À, cũng không chắc lắm. Tôi chỉ nghe người ta kể lại thôi.

Socrates mỉm cười bảo:

– Thế vậy chúng ta không cần quan tâm đến nó trừ phi nó là một chuyện tốt. Vậy chuyện ông sắp kể cho tôi có phải là một chuyện tốt không?

Ông hàng xóm thật sự lúng túng:

– Không, chuyện này không tốt lắm. Phải nói đây là một chuyện xấu.

Socrates vỗ vai ông ta hỏi thêm:

– Chà, anh có nghĩ rằng, tôi cần phải biết chuyện ấy để giúp ngăn ngừa những điều không hay không tốt cho người khác chăng.

Lần này thì ông hàng xóm tiu nghỉu cúi gầm mặt:

– Ờ…. Ờ kể ra thì cũng chẳng giúp được gì cho ai!

Socrates kết luận:

– Thế này nhé, chúng ta sẽ quên ngay chuyện ấy đi. Còn vô số chuyện đáng giá hơn trong đời sống, chúng ta không nên mất công bận tâm vào những chuyện tầm phào, vừa không đúng sự thật, vừa không tốt, lại vừa không cần thiết cho ai.

Lạy Chúa,

Xin ban cho chúng con một trái tim quảng đại

để chúng con biết sống yêu thương như Chúa. Amen.

 

Ngược dòng…

Xem ra ngày nay muốn sống đàng hoàng, chuẩn mực đạo đức tối thiểu thật là quá khó.

Bởi lẽ đa phần bây giờ thiên hạ thích sống vội, nên đừng lại ba mươi giây trước màu đỏ của đèn tín hiệu giao thông là một điều khó chấp nhận. Vì thế, ai dừng lại khi đèn đỏ thì bị cho là “điên” !

Đa số mọi người thích hưởng thụ nhiều, nhưng lại nhác lầy nên mới có “móc ngoặc, nhũng nhiễu”. Vì thế, ai làm việc cần mẫn, liêm khiết thì bị cho là “điên” !

Tin Mừng hôm nay, thánh mác-cô cũng tường thuật một cách sống yêu thương hết lòng, thấy con người lầm than, vất vưởng vì ốm đau bệnh tật thì “chạnh lòng thương” mà ra tay cứu giúp, thậm chí không còn thì giờ ăn, uống nghỉ ngơi của Đức Giê-su. Vì thế, thân nhân của Người cũng nói rằng, Người bị “điên” (mất trí).

Thành nhữ có câu: “Cá lội ngược dòng cá mới sống, người vượt nghịch cảnh người thành công”

Là những Ki-tô hữu Đa-Minh, nếu vì biểu lộ đức tin của mình qua những chọn lựa cụ thể trong cuộc sống mà ta bị người đời, thậm chí cả những “đồng đạo” của mình chống đối, thì có thể nói rằng ta đang được diễm phúc (x. 1Pr. 1, 6-7) vì môn đệ không thể hơn thầy ! (Mt. 10,24)

Lạy Chúa, xin cho con dám sống ngược dòng đời, dù bị đời chê bai, cười nhạo để được nên giống Chúa luôn. Amen.

CÁT BIỂN

 

Xin cho biết làm việc quên mình 

Sau khi Gio-an Tẩy giả bị vua Hê-rô-đê tống ngục. Chúa Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Người kêu gọi mọi người hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Và Người đã chữa lành nhiều kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ (x. Mc. 1,14-15;34). Chúa Giê-su đã làm những công việc ấy suốt ngày, kể cả chiều đến khi mặt trời đã lặn Chúa vẫn còn chữa trị cho các bệnh nhân (x. Mc. 1,32). Dân chúng nghe danh tiếng Ngài, tụ tập lại, đông đến nổi trong nhà ngoài sân không chứa hết. Từ miền Ga-li-lê, người ta lũ lượt đi theo Người. Và từ miền Giu-đê, từ Giê-ru-sa-lem, từ xứ I-đu-mê, từ vùng bên kia sông Gio-đan và vùng phụ cận hai thành Tia và Xi-đôn, thiên hạ lũ lượt đền với Người. Người ta đổ xô đến để được sờ chạm vào Người, và sẽ được chữa lành. Để khỏi bị đám đông chen lấn, Chúa Giê-su phải xuống một chiếc thuyền nhỏ chèo ra xa bờ tránh né dòng người đông đảo tìm cách đến gặp Ngài. Đến khi Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao có thời gian để ăn uống được (x. Mc.3,7-8;20).

Chúa đã dành hết tất cả thời gian trong một ngày để rao giảng Tin mừng Nước Trời cho những người nghèo khó, và để chữa lành bệnh tật cho họ: bệnh thể xác lẫn bệnh tinh thần. Ngài làm việc không ngơi nghỉ, không dành cho mình phút giây thảnh thơi nào cả, làm việc và chữa trị đến nổi không thiết việc ăn uống, nghỉ ngơi; Chúa cũng không sợlàm việc quá sức sẽ nguy hại cho sức khỏe của Ngài. Vì thế, không lạ gì khi thân nhân Chúa Giê-su cho rằng Người bị mất trí. Vì họ không làm sao hiểu nổi điều gì, động cơ nào đã khiến cho Chúa phải làm việc quá sức như vậy.

Chúa đã đến thế gian trong thân phận con người như chúng con để bày tỏ tình yêu bao la muôn trùng của Thiên Chúa đối với nhân trần chúng con. Tình yêu ấy không phải chỉ dựa trên lý thuyết, nhưng đó chính là tình yêu cụ thể, được minh chứng qua lời giảng dạy, qua những hành động chữa lành mọi bệnh tật, qua những lời an ủi động viên, răn đe, khiển trách của Chúa nhằm cứu thoát loài người chúng con khỏi vòng nô lệ của ma quỷ, của tội lỗi và sự chết.

Lạy Chúa, lâu nay với vai trò một thành viên Ban Phục Vụ Huynh Đoàn; thay vì dấn thân phục vụ anh chị em mình một cách nhiệt thành, phục vụ quên mình như mẫu gương Chúa đã sống và phục vụ trong trình thuật Tin Mừng thánh Mác-cô hôm nay. Nhưng con đã sống cuộc sống đối nghịch lại với giáo huấn Tin Mừng; con đã không hết lòng phục vụ anh chị em mình; con vẫn còn đó những do dự, những suy tính hơn thiệt, những e ngại lãng tránh sợ thiệt thân mình.

Lạy Chúa, xin cho con biết hết lòng phụng sự Chúa qua những việc tông đồ bác ái, luôn sẵn sànggiúp đỡ và sẻ chia những buồn vui kiếp người với tất cả anh chị em xung quanh mình. Amen.

CÁT BIỂN

 

Mất trí 

Người ta thường nhìn vào một nhà bác học hay một thiên tài nào đó với sự ngưỡng mộ và khâm phục. Thế nhưng, ít ai ngờ rằng những người họ đang ngưỡng mộ đã từng bị xem là những kẻ tâm thần hay những người điên. Điều đó cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên vì khả năng của những thiên tài thường vượt quá tư duy của những người đồng đại. Vì thế, họ bị xem là những kẻ lập dị hay những người mất trí là chuyện hết sức bình thường.

Chẳng hạn, nhà bác học Nikola Tesla (cùng thời với Thomas Edison) là một trong những minh chứng cụ thể nhất. Ông được các nhà khoa học ngày nay đánh giá là một nhà phát minh tài ba. Thế nhưng, vào thời đại của ông, người ta không thể hiểu hết được những nghiên cứu của ông và cho rằng ông là một “bác học điên”. Hay có nhiều nhạc sĩ, họa sĩ hoặc thi sĩ bị rẻ rúng, xem thường khi còn sống, nhưng mãi đến khi họ mất rồi, người ta mới trân trọng và ca ngợi những tác phẩm lúc sinh thời của họ.

Không chỉ trong quá khứ mà ngay tại thời điểm hiện tại, đặc biệt là trong thời đại mạng Internet phổ biến, rất nhiều thiên tài bị “cộng đồng mạng” lên án, chửi bới, nhục mạ không thương tiếc khi có những nghiên cứu khác thường. Họ bị xã hội xem như những kẻ tâm thần vì người ta chẳng thể hiểu nổi những việc họ làm. Những thiên tài luôn bị xem thường, chỉ trích khi những nghiên cứu của họ không phù hợp với ý muốn của quần chúng. Đôi khi, chính sự ngu muội của đám đông khiến những thiên tài bị thui chột tài năng. Nếu ở trong phạm vi nhỏ, điều đó cỏ thể gây ra hiện tượng “chảy máu chất xám” nhưng nếu ở phạm vi toàn cầu, tài năng ấy sẽ bị phí phạm một cách vô ích.

Bài Tin Mừng hôm nay cũng thế, con người chẳng hiểu nổi việc Chúa Giêsu đã làm và họ xem Người như kẻ mất trí. Đáng buồn thay, những người đó lại là thân nhân của Người. Qua đó, ta có thể thấy được, người thân là một trong những người lên án, chống đối chúng ta trước nhất, tiếp đến là những kẻ chống đối, không cùng quan điểm và cuối cùng là những người “tin theo số đông”. Chính vì thế, họ không muốn thừa nhận quyền năng của Chúa Giêsu và khiến người phải thốt lên rằng: “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”.

Thế nhưng, đừng vội chê cười, giễu cợt những người không thừa nhận tài năng của người khác vì biết đâu chừng, chúng ta lại là một trong số họ. Đôi lúc, vì tiếp cận với quá nhiều thông tin không chính thống khiến chúng ta bị rối loạn, dẫn đến việc dễ dàng thuận theo đám đông để chống đối những thiên tài chưa được thừa nhận. Đôi khi, người chúng ta chống đối, vùi dập ấy lại chính là thân nhân của mình.

Là người Kitô hữu, đôi lúc chúng ta cũng vô tình trở thành những người chống đối. Không chỉ riêng các thiên tài mà thôi, lắm khi chúng ta cũng chống đối các vị hữu trách trong Giáo hội, cho rằng các ngài bị mất trí khi có những hành động trái với mong muốn của chúng ta. Đôi khi chúng ta lầm tưởng mình là Chúa rồi bắt người khác phải tuân theo ý mình. Mỗi người cần phải biết khiêm nhường, nhỏ bé lại để từ đó, chúng ta mới có thể nhận ra những điều đẹp đẽ, những tài năng của tha nhân và chấp nhận nó như một hồng ân Chúa ban, ngõ hầu giúp chúng ta biết yêu thương và gắn bó với nhau mỗi ngày một nhiều hơn.

Lạy Chúa, lắm khi chúng con lên án, chỉ trích người khác chỉ vì họ khác mình; chúng con vô tình xem người khác là kẻ điên, kẻ mất trí vì họ không giống với những người bình thường khác hay đơn giản vì chúng con ghen tị với tài năng của họ. Xin cho chúng con biết khiêm nhường, biết cảm thông với tha nhân nhiều hơn để từ đó, chúng con biết chấp nhận sự khác biệt và yêu thương nhau hơn. Amen.

Petrus Sơn

 

Yêu đến dại khờ

  1. SUY NIỆM

Trình thuật Tin Mừng theo thánh Mác-cô hôm nay nêu lên sự kiện Đức Giêsu bị các thân nhân của Người đánh giá là khờ dại, mất trí.

Sau khi tóm lược các hoạt động rao giảng và những dấu lạ đầy quyền năng Đức Giêsu đã thực hiện, thánh sử cho chúng ta thấy phản ứng của dân chúng:

– Với phần đông dân chúng: Họ thấy lời giảng dạy của Đức Giêsu có uy lực hấp dẫn, thuyết phục, bởi những giáo huấn mới mẻ đụng chạm đến khát vọng của họ là được giải thoát khỏi cái ách nặng nề của lề luật mà họ đang phải tuân giữ; họ còn thấy được quyền năng của Người khi chứng kiến những việc lạ lùng Người đã làm cho những kẻ đang bất lực trước nỗi thống khổ do bệnh hoạn, tật nguyền, đói nghèo; họ cảm nhận được sự an ủi, và tuôn đến với Người.

– Với những thân nhân của Đức Giêsu: Họ thấy Người bỏ nhà, đi lang thang khắp nơi, giảng dạy những điều không phù hợp với truyền thống của cha ông và đôi khi như muốn chống đối, hủy bỏ các tập tục đã có từ lâu đời; theo họ, đó là những hành vi cấm kỵ của người Do Thái trong cộng đồng vẫn tự hào là Dân riêng của Thiên Chúa, do đó họ giận dữ. Còn về những dấu kỳ phép lạ mà dân chúng truyền tụng và ca ngợi Đức Giêsu đã thực hiện, họ không được tận mắt chứng kiến nên không tin và cho đó là chuyện hoang đường; hơn nữa họ biết rõ Đức Giêsu là ai: Người là con bác thợ mộc Giuse và bà Maria cư trú ở làng quê Na-da-rét; vậy có gì đặc biệt? Người chỉ là một kẻ mất trí, không làm chủ được chính mình; do đó họ định tâm đến bắt Người về để quản thúc vì sợ bị ảnh hưởng. thành kiến trong tâm trí họ đã ngăn cản họ nhận ra Đấng Cứu Độ mà họ vẫn mong đợi và tính ích kỷ đã sai kiến họ phạm sai lầm khi muốn bắt Đức Giêsu.

– Về Đức Giêsu: những đồn thổi và tuyền tụng về hoạt động của Đức Giêsu đều là chân thật. Bỏ nhà ra đi lang thang khắp mọi nơi, với chủ đích giảng dạy cho dân chúng biết sự thật về cuộc sống tạm nơi trần gian này, đồng thời giới thiệu cho mọi người về Nước Trời vĩnh cửu cũng như điều kiện để được thừa hưởng, Đức Giêsu ra đi: rảo bước khắp các thành thị, làng quê; giảng dạy không ngơi nghỉ, đến mức độ chẳng có thời gian nghỉ ngơi, ăn uống. Sứ vụ của Đấng Mê-si-a luôn thôi thúc và tình yêu chiếm hữu cả con người của Đức Giêsu khiến Người trở nên “dại khờ” như người mất trí. Trước nỗi thống khổ về tinh thần mà dân Do Thái đang phải gánh chịu vì lề luật do các kinh sư và luật sĩ đặt ra; trước nỗi đau đớn vì bệnh tật, đói nghèo của nhiều người, Đức Giêsu chạnh lòng thương và Người thể hiện tình yêu của Người vô điều kiện. Vì hạnh phúc của dân Do Thái nói riêng và của cả nhân loại nói chung, Đức Giêsu đã yêu đến tận cùng, Người cống hiến cả cuộc đời cho công cuộc cứu độ nhân loại mà Thiên Chúa trao cho Người: loan báo Tin Mừng Cứu Độ và chết trên thập giá để minh chứng cho sự thật, cho tình yêu.

Sứ điệp Tin Mừng hôm nay mời gọi tôi:

– Đón nhận tình yêu của Đức Kitô, bước theo Ngài và thắp sáng ngọn lửa yêu mến nơi anh em bằng đời sống chan hòa yêu thương và tha thứ.

– Dấn thân cho sứ vụ Loan Báo Tin Mừng qua những hy sinh nhỏ bé: sức khỏe, thời giờ và vật chất, để chu toàn bổn phận, trách nhiệm được giao.

  1. CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa, xin cho con nhận ra sứ mệnh và tình yêu của Chúa để con hết lòng yêu mến kính tôn; đồng thời ban thêm sức mạnh thiêng liêng giúp con bước theo Chúa, lan tỏa tình yêu của Chúa đến với mọi người xung quanh, trong cuộc sống.

  1. SỐNG TIN MỪNG

Hy sinh và tích cực góp phần cho hoạt động tông đồ, bác ái của Giáo hội, của đoàn thể theo khả năng và hoàn cảnh của mình.

 

Tin và không tin

GHI NHỚ: Thân nhân của Người nói rằng Người đã mất trí.

Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được. Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí. 

SUY NIỆM

Chương 3 của Tin Mừng theo thánh Mác-cô, tóm lược các hoạt động của Đức Giêsu ở Ga-li-lê và việc Người tuyển chọn nhóm mười hai tông đồ làm nền tảng cho Hội Thánh mà Người sẽ thiết lập sau này; những việc đó được coi như những thành quả đạt được trong sứ vụ của Người. Tuy nhiên một sự chống đối cũng hình thành, bắt đầu từ những thân nhân của Người và các kinh sư từ Giê-ru-sa-lem xuống (Mc 3, 22); bởi giáo lý cũng như cách thức tuân giữ lề luật mà Người giảng dạy cho dân chúng khác với những tập tục, truyền thống của cha ông họ để lại.

Do đó, dễ dàng nhận ra các thái độ tương phản của đám đông dân chúng cũng như của giới lãnh đạo Do Thái giáo lúc bấy giờ: – Dân chúng bị thu hút, hấp dẫn bởi lời giảng dạy đầy thuyết phục và nhất là các việc lạ lùng Đức Giêsu đã làm (chữa lành cho kẻ ốm đau  tật nguyền, xua trừ ma quỷ). Khi biết Người ở đâu thì họ tìm đến và mang theo các bệnh nhân, để được nghe giáo huấn của Người, và xin Người thi ân giáng phúc như phúc lành từ Thiên Chúa.

Thực tế,  không phải tất cả những ai tìm đến với Người đều có lòng tin; một số vì muốn nhìn xem Đấng đã làm được các dấu kỳ phép lạ; số khác bị lôi cuốn bởi những lời tuyền tụng “ông ấy” giảng dạy như Đấng có uy quyền; chỉ một số ít thành tâm tìm đến với Người vì Người đáp ứng được những thao thức thầm kín tự trong tâm hồn của họ, đó là nỗi khát mong, chờ đợi Đấng Thiên Chúa sai đến để giải thoát cho họ khỏi bóng đêm tội lỗi và dẫn họ vào ánh sáng của Ngài, như lời Kinh thánh đã chép. Lần này, Đức Giêsu trở về nhà và đám đông lại kéo đến; Người và các môn đệ lại tất bật đón tiếp và giảng dạy cho họ. Đối với Đức Giêsu, việc rao giảng Tin Mừng cứu độ và chữa lành bệnh tật cho dân chúng là niềm vui, là việc cần thiết phải làm ngay; bởi đó là sứ vụ của Người. Đức Giêsu vui mừng vì thấy có những người thành tâm tìm kiếm, lắng nghe và lòng tin của họ được củng cố. Ngược lại, thân nhân của Đức Giêsu khi thấy cảnh náo nhiệt: dân chúng khắp nơi tập trung đến để nghe giáo huấn của Người thì họ khó chịu; họ cho rằng người bị mất trí nên muốn bắt Người.

Thân nhân của Đức Giêsu là những người bà con thân thuộc với bác thợ mộc Giuse và mẹ Người là bà Maria; họ cũng có thể là những người đồng hương, hàng xóm của Người. Những người này biết rõ gốc tích, gia thế của Đức Giêsu nên cho rằng: những lời Người giảng dạy chẳng có gì là chân thật và những việc Người làm chỉ là lời đồn thổi; vì một thanh niên xuất thân từ gia đình của bác thợ mộc nghèo nàn ở làng quê Na-da-rét có gì là giỏi giang, tài trí?. Họ ganh ghét, đố kỵ và muốn loại trừ Người, nên nói rằng Người bị mất trí. Theo họ, người mất trí thì không làm chủ được hành vi và lời nói; do đó, những điều Đức Giêsu nói, những việc Đức Giêsu làm chỉ là giả dối bịa đặt, không đáng tin. Hơn nữa trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ, người Do Thái đang chịu sự thống trị của đế quốc La-mã; còn giới lãnh đạo thì xu thời, cầu vinh; những cuộc tập hợp dân chúng đông đảo rất dễ bị nghi ngờ là nổi loạn và các đội quân của đế quốc có thể lập tức can thiệp dẹp loạn; dĩ nhiên nếu chuyện ấy xẩy ra, dân chúng càng khốn khổ hơn và họ là những người đồng hương, họ hàng với Đức Giêsu chắc chắn sẽ bị liên lụy.

Trình thuật Tin Mừng hôm nay đưa ra hai hạng người cùng với hai thái độ của họ đã cư xử với Đức Giêsu:

  • Đám đông dân chúng: Họ đang lạc lõng, bơ vơ như đoàn chiên không người chăn dắt; họ đang phải gánh chịu áp lực do những hình thức tuân giữ cách tỉ mỉ các lề luật mà các kinh sư và luật sĩ đặt ra; họ bất an vì quan niệm những bệnh hoạn, tật nguyền, đau khổ là hình phạt của tội lỗi. Mọi người kỳ vọng bản thân họ, dân tộc họ sẽ được giải thoát khi Đấng Cứu Thế đến. Vì thế, khi Đức Giêsu xuất hiện, công khai rao giảng và chữa lành mọi bệnh tật cho họ, họ đặt hy vọng và tin tưởng vào Người.
  • Thân nhân của Đức Giêsu: Những người tự hào có liên hệ họ hàng với Đức Giêsu, họ đã không nhận ra Người là Đấng phải đến để muôn dân được cứu thoát. Họ kiêu căng tự phụ và đánh giá Đức Giêsu theo hình thức bên ngoài; cho nên không những họ không tin mà còn tìm cách chống đối, loại trừ Người.

Đức Giêsu  Na-da-rét; trước con mắt người đời, Người là con bác thợ mộc Giuse và bà Maria, một gia đình nghèo hèn ở Na-da-rét thuộc Ga-li-lê; nhưng chính Người là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa đã nhập thế, nhập thể làm người và ở giữa nhân loại, Đấng mà thế gian phải đón tiếp và suy phục.

Sứ điệp Tin Mừng hôm nay mời gọi tôi:

Đặt trọn niềm tin vào Đức Giêsu Kitô để đón nhận và thực thi giáo huấn của Người trong cuộc sống thường ngày, nhờ đó có được hạnh phúc vĩnh cửu. 

CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con và mọi người biết hết lòng tin tưởng và yêu mến Chúa, chân thành tìm đến với Chúa, sống với Chúa và giới thiệu Chúa cho tha nhân. 

SỐNG TIN MỪNG

Nỗ lực tìm kiếm Đức Giêsu  qua việc chuyên cần đọc, suy niệm và thực thi Tin Mừng của Người.

 

Chúa bận rộn

Suy niệm: Bài Tin Mừng hôm nay chỉ gồm bốn dòng, đúng hai câu, nhưng rất hàm súc thông tin. Một đạo diễn lành nghề có thể dựng nên các cảnh phim sống động, trong đó nhân vật chính là chính Đức Giê-su với đầy những nét khắc họa sự bận rộn của Ngài: nào là rao giảng cho dân, nào là chữa lành bệnh nhân, xua đuổi thần ô uế (x. Mc 3,1-12); bận rộn với việc tuyển chọn các tông đồ để hỗ trợ Ngài trong sứ vụ (cc. 13-19); vẫn không hết bận rộn vì đám đông vẫn bám riết lấy Ngài khiến Ngài và các môn đệ thậm chí không có giờ để ăn uống! Có lẽ vì thế mà thân nhân Ngài cho rằng Ngài mất trí!

Mời Bạn: Điều gì đã thôi thúc Chúa Giê-su tất bật như thế nếu không phải là vì Ngài “chạnh lòng thương” như các tác giả Tin Mừng vẫn thường ghi nhận? Chúa bận rộn, không phải để tìm kiếm tiền bạc, danh vọng hay quyền lực… hay điều gì cho Ngài; Ngài bận rộn chỉ vì yêu thương và để cứu độ cách riêng những người bé mọn khốn cùng. Trong sự bận rộn ấy của Chúa Giê-su, chúng ta thấy nguyên mẫu của điều mà ngày nay chúng ta gọi là đức ái mục tử.

Mời Bạn chiêm ngắm Chúa để biết chạnh lòng trước tấm lòng của Chúa. Chúa Giêsu yêu thương chúng ta quá đỗi. Làm sao ta có thể ghẻ lạnh với Ngài? Chiêm ngắm Chúa, ta sẽ học với Chúa cung cách yêu thương và phục vụ, đến mức chấp nhận bị quấy rầy, bị xáo trộn trong đời sống riêng tư, chấp nhận quên mình.

Sống Lời Chúa: Vui vẻ đón nhận hy sinh và sẵn sàng phục vụ tha nhân.

Cầu nguyện: Lạy Chúa xin giúp con luôn sẵn sàng phục vụ anh chị em con.

 

print