Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 26 Thường Niên

Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 26 Thường Niên

 

THỨ HAI TUẦN 26 THƯỜNG NIÊN.

THỨ BA TUẦN 26 THƯỜNG NIÊN.

THỨ TƯ TUẦN 26 THƯỜNG NIÊN.

THỨ NĂM TUẦN 26 THƯỜNG NIÊN.

THỨ SÁU TUẦN 26 THƯỜNG NIÊN.

THỨ BẢY TUẦN 26 THƯỜNG NIÊN.

 

THỨ HAI TUẦN 26 THƯỜNG NIÊN

Lời Chúa: Lc 9, 46-50

Khi ấy, các mộn đệ nghĩ ngợi trong lòng rằng ai trong các ông sẽ là người cao trọng nhất. Chúa Giêsu thấu biết tư tưởng trong lòng các ông, Người liền dẫn một trẻ nhỏ tới, để đứng bên cạnh Người, và bảo các ông rằng: “Hễ ai đón nhận trẻ nhỏ này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy: mà hễ ai đón nhận Thầy, tức là đón nhận Đấng đã sai Thầy. Vì kẻ nào bé nhỏ nhất trong tất cả các con, đó là người cao trọng nhất”.

Gioan lên tiếng thưa Người rằng: “Lạy Thầy, chúng con thấy một người kia lấy danh Thầy mà trừ quỷ, và chúng con đã ngăn cản nó, vì nó không theo Thầy cùng với chúng con”. Chúa Giêsu bảo ông rằng: “Các con chớ ngăn cản, vì ai không chống nghịch các con, tức là thuận với các con”.

 

Suy niệm 1: Người nhỏ nhất

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Phá kỷ lục là ước mơ của các vận động viên.

Làm sao phá kỷ lục của quốc gia, của vùng, của châu lục và thế giới?

Để phá kỷ lục cần có thành tích vượt hơn người đang giữ nó.

Chỉ cần chạy nhanh hơn một phần ngàn giây,

nhảy cao hơn hay xa hơn một centimét,

cũng đủ để làm một kỷ lục đứng vững nhiều năm bị phá đổ.

Nhưng không phải chỉ các vận động viên mới thích phá kỷ lục.

Các nước cũng tranh nhau xem ai là cường quốc về một lãnh vực nào đó.

Có vẻ cả nhân loại đều ở trong một cuộc đua tranh xem ai đứng đầu.

Có những cuộc đua tranh lành mạnh, thúc đẩy tiến bộ.

Nhưng cũng có những cuộc đua tranh dẫn đến chiến tranh và hủy diệt.

Các môn đệ vẫn loay hoay với một câu hỏi trong đầu:

“Trong các ông, ai là người lớn nhất ?”(c. 46).

Thầy Giêsu muốn dạy cho họ một bài học rất gợi hình,

nên đem một em nhỏ đến và trân trọng đặt em đứng bên cạnh (c. 47)

Thầy đồng hóa mình với em nhỏ yếu đuối và không có địa vị ấy:

ai tiếp đón em này là tiếp đón chính Thầy.

Thầy cũng cho biết, ai tiếp đón Thầy là tiếp đón chính Thiên Chúa (c. 48).

Như thế một em nhỏ bình thường là con đường dẫn ta gặp gỡ Đức Giêsu,

và gặp gỡ chính Thiên Chúa siêu việt.

Để tiếp đón Thiên Chúa và Đức Kitô trong đời,

ta phải sẵn sàng tiếp đón những người yếu kém và nhỏ bé nhất trong xã hội.

Khi các môn đệ bị ám ảnh bởi chuyện làm lớn

thì Thầy Giêsu đem lại cho họ một em nhỏ,

và cho thấy sự cao trọng lớn lao của em trong cái nhìn của Thiên Chúa.

Câu trả lời của Thầy đã rõ: kẻ nhỏ nhất chính là người lớn nhất trong anh em.

Vượt ra khỏi sự tranh chấp trong nhóm,

bây giờ các môn đệ lại phải đối diện với một người trừ quỷ ở ngoài nhóm.

“Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không cùng chúng con đi theo Thầy.”

Tại sao một người ở ngoài nhóm lại dám lấy danh Thầy mà trừ quỷ?

Lẽ ra việc dùng danh Thầy phải là độc quyền của chúng con.

Người ấy không được chiếm lấy sự thành công và tăm tiếng

mà chỉ những ai theo Thầy như chúng con mới được hưởng.

Các môn đệ đã có thái độ cục bộ và bè phái.

Họ cần cởi mở và khoan dung hơn với những người ngoài.

Danh Thầy Giêsu là quà tặng cho cả thế giới, chứ không cho riêng môn đệ.

Ai cũng có thể đến múc lấy sức mạnh từ Danh ấy và sẻ chia.

Thầy Giêsu mời các môn đệ bước ra khỏi sự hẹp hòi khép kín,

để vui vẻ kính trọng một người tuy không thuộc nhóm mình,

nhưng làm được những việc mà có khi mình không làm nổi (Lc 9, 40).

Danh Giêsu được tôn vinh: đó là điều chúng ta nhắm tới.

Chúng ta chỉ mong sức mạnh của Danh này làm thế giới được trừ quỷ.

Chỉ mong ai đó đang ở ngoài nhóm và đang trừ quỷ nhờ Danh Giêsu,

sẽ có ngày trở thành người môn đệ trong nhóm.

 

Cầu nguyện:

Lạy Cha,

xin dạy chúng con biết cộng tác với nhau

trong việc xây dựng Nước Trời ở trần gian.

Xin cho chúng con đến với nhau

không chút thành kiến,

và tin tưởng vào thiện chí của nhau.

Khi cộng tác với nhau,

xin cho chúng con cảm thấy Cha hiện diện,

nhờ đó chúng con vượt qua

những tự ái nhỏ nhen,

những tham vọng ích kỷ

và những định kiến cằn cỗi.

Ước gì chúng con dám từ bỏ mình,

để tìm kiếm chân lý

ở mọi nơi và mọi người,

nhất là nơi những ai khác quan điểm.

Lạy Cha,

xin sai Thánh Thần đến trên chúng con,

để chúng con biết lắng nghe nhau bằng quả tim,

và hiểu nhau ngay trong những dị biệt.

Nhờ sống mầu nhiệm cộng tác,

xin cho chúng con được triển nở không ngừng

và Thánh Ý Cha được thể hiện trên mặt đất. Amen.

 

Suy niệm 2: Chúa là tất cả

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Thế giới đảo điên vì tranh chấp hơn thua. Con người khổ đau vì cái được cái mất. Vì thế châm ngôn Pháp nói: sống là đấu tranh. Đấu tranh để có địa vị hơn, giầu có hơn người. Não trạng thế tục len lỏi vào cả các môn đệ của Chúa. Nên các ông tranh giành địa vị cao thấp.

Chúa nhân cơ hội dạy dỗ các ông. Tinh thần trong Nước Chúa phải ngược với tinh thần thế tục. Ai muốn làm lớn phải trở nên bé nhỏ. Ai muốn chỉ huy phải phục vụ. Chúa chẳng nói suông. Chính Chúa đã làm trước. Chính Chúa rất giầu sang đã trở nên khó nghèo. Rất cao sang đã trở nên thấp hèn. Chúa là Thầy là Chúa nhưng đã quì xuống rửa chân cho các tông đồ. Ai trở nên bé nhỏ là trở nên chính Chúa. Chúa đi ngược với trần gian. Ai theo đuổi trần gian sẽ mất Chúa. Ai từ bỏ trần gian sẽ được chính Chúa. Được Chúa là được tất cả: “Ai tiếp đón em nhỏ này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, là tiếp đón Đấng đã sai Thầy. Thật vậy, ail à người nhỏ nhất trong tất cả an hem, thì kẻ ấy là người lớn nhất”.

Đó là điều thánh Gióp đã cảm nghiệm. Ma quỉ theo thói thế gian tưởng của cải, danh vọng, chức quyền là tất cả. Nên chiếm hết của thánh Gióp để lung lạc ông. Để ông bỏ Chúa mà đi theo ma quỉ. Không ngờ thánh Gióp có đức tin kiên vững. Là tôi tớ trung tín của Chúa. Càng đau khổ càng gắn bó với Chúa. Ông tuyên xưng đức tin: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa”. Ma quỉ chịu thua. Chúa trả lại cho ông tất cả. Con cái. Của cải. Danh vọng. Hạnh phúc. Còn hơn gấp bội những gì ngài có trước kia. Ngài càng xác tín: Chúa là tất cả. Có Chúa là có tất cả (năm chẵn).

Đó cũng chính là điều Da-ca-ri-a thay mặt Chúa khẳng định. Khi dân phản bội Chúa thì họ mất tất cả. Nhà tan cửa nát. Thân phận lưu đày nô lệ. Họ mơ một cuộc sống an bình nơi quê nhà. Họ mơ chiều chiều được ngồi trong quảng trường đền thánh. Ông già bà cả được thảnh thơi nghỉ ngơi. Lên đền thờ cầu nguyện. Sống lâu trăm tuổi. Đó là điều không thể được với tình hình lực lượng thua kém của họ. Nhưng Chúa quả quyết đó là điều có thể được đối với quyền năng của Chúa. Vì Chúa là tất cả. “Ta sẽ dẫn chúng về…Chúng sẽ là dân của Ta; Ta sẽ là Chúa của chúng” (năm lẻ).

Xin cho con biết từ bỏ thế gian. Chỉ chọn một mình Chúa thôi.

 

Suy niệm 3: Nhân Danh Chúa Giêsu

Một hôm, họa sĩ Picasso đến một xưởng mộc làm một cái tủ. Ông lấy bút phác họa hình thù và kích thước cái tủ rồi trao cho người thợ mộc và hỏi giá cả. Người thợ mộc cầm lấy tờ giấy một cách trân trọng và trả lời: “Ngài không phải trả gì cả, chúng tôi chỉ xin Ngài ký tên vào giấy này là đủ rồi”.

Tên tuổi gắn liền với sự nghiệp của con người. Người ta nhắc nhớ và đề cao tên tuổi của những bậc anh hùng, những người tài ba, những ân nhân của dân tộc hay nhân loại. Nhưng người ta phỉ nhổ và nguyền rủa tên tuổi của những con người chỉ biết gây đau thương tang tóc cho đồng loại. Khi một người nào đó đã được nổi tiếng, thì tên tuổi người đó tạo được một sức mạnh lạ thường. Chúng ta thích xin chữ ký của những người nổi tiếng, chúng ta thích ăn mặc và sử dụng những sản phẩm có chữ ký hoặc tước hiệu của những người nổi tiếng. Một cách nào đó, chúng ta tôn thờ tên tuổi của những người nổi tiếng, chúng ta tự đặt mình dưới quyền lực của những người nổi tiếng.

Ðối với người Kitô hữu, như thánh Phêrô đã nói trước Công nghị Do thái: “Dưới bầu trời này không một danh hiệu nào đã được ban cho con người, để được cứu rỗi, ngoài danh Chúa Giêsu Kitô”.

Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Luca cũng ghi lại sức mạnh của Danh Giêsu. Chính nhân danh Ngài mà một số người có thể xua trừ ma quỉ và chữa bệnh. Nhân Danh Chúa là một quyền hạn đã được trao ban cho các môn đệ Chúa Giêsu. Người ta chỉ có thể trừ quỉ và như vậy tiếp tục hoạt động cứu rỗi của Chúa Giêsu nhờ quyền năng Ngài và lòng tin vào Ngài mà thôi. Ðó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã không lo ngại với những kẻ lén lút nhân danh Ngài để trừ quỉ, bởi vì khi hành động như thế, họ chỉ hành động với lòng tin vào quyền năng Ngài mà thôi.

Danh Chúa Giêsu không những có sức mạnh chữa lành bệnh và xua trừ ma quỉ, mà còn tạo được mối tương quan giữa con người . Chính nhân danh Ngài mà con người mới có thể tập họp để cầu nguyện; chính nhân danh Ngài mà con người phải tiếp rước những kẻ Ngài sai đi; chính nhân danh Ngài mà con người phải đón rước tha nhân, nhất là những kẻ bé mọn, hèn kém như các trẻ em. Chúa Giêsu nói: “Ai nhân danh Thầy mà đón tiếp trẻ nhỏ này là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy”. Câu nói của Chúa Giêsu cho thấy được bản chất của Giáo Hội: Chúa Giêsu tiếp tục sống trong Giáo Hội Ngài, không như một vĩ nhân sống trong sự nghiệp mình và trong ký ức của dân tộc; Giáo Hội chính là một nối dài của Chúa Giêsu, Giáo Hội sống bằng sức sống của Chúa Giêsu.

Người Kitô hữu không chỉ mang danh hiệu Chúa Giêsu, họ còn sống bằng chính sức sống của Ngài. Ngài tự đồng hóa mình với mỗi tín hữu. Người Kitô hữu nhân danh Ngài để hành động, đến độ họ có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”.

Chúng ta thường nói đến tội kêu tên Chúa vô cớ, chúng ta nói đến tội xúc phạm Danh Chúa. Thực ra, khi cuộc sống chúng ta chưa là thể hiện của sức sống Chúa Kitô trong chúng ta; khi nhìn vào chúng ta, người ta chưa nhận ra Chúa Kitô đang sống trong chúng ta, phải chăng đó không là một kiểu chúng ta kêu tên Chúa một cách vô cớ và làm ô Danh Ngài?

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy niệm 4: Nhân Danh Chúa Giêsu

Tên tuổi có một ý nghĩa và sức mạnh đặc biệt trong cuộc sống con người. Người ta thường kể về tên tuổi Alexandre Ðại Ðế của Hy Lạp giai thoại như sau:

Trong quân đội của ông có một binh sĩ rất nhát đảm, cứ mỗi lần nguy ngập anh đều tìm cách thoái lui. Alexandre cảm thấy bị xúc phạm về hành vi của người binh sĩ này vì anh ta cũng mang tên Alexandre như ông. Một hôm, ông gọi anh ta lại và bảo: “Ta cho nhà ngươi một chọn lựa: hoặc là chấm dứt thái độ nhát đảm hoặc là đổi tên đi”.

Tên tuổi là một sức mạnh. Ðược nổi danh vốn là một trong những khát khao tự nhiên của con người. Trong Tin Mừng hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta Suy niệm về ý nghĩa, sức mạnh và quyền năng của Danh Chúa trong cuộc sống người Kitô hữu chúng ta.

Tin Mừng được ghi lại những sự kiện được liên kết với nhau bằng Danh Chúa. Chỉ nhân danh Chúa mà đón tiếp những người bé nhỏ nhất, cụ thể là các em nhỏ và cũng chỉ nhân Danh Chúa, con người mới có thể khu trừ ma quỉ, chữa lành bệnh tật và làm phép lạ.

Ngày nay, Giáo Hội cũng nhân Danh Chúa để tiếp tục sứ mệnh cứu rỗi của Ngài. Giáo Hội nhân Danh Chúa để cử hành các bí tích, để thực thi công tác bác ái, tranh đấu cho công lý. Nhưng phải chăng Danh Chúa Giêsu là một thứ bùa chú, một công thức ma thuật?

Chúng ta biết rằng nội dung niềm tin Kitô chính là tin rằng Thiên Chúa đã phục sinh Chúa Giêsu từ cõi chết, tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa và kêu cầu Danh Ngài. Cả ba kiểu nói này đều tương tự như nhau. Các Kitô hữu tiên khởi thường tự gọi mình là những kẻ kêu cầu Danh Chúa. Ðiều này được thể hiện một cách rõ rệt trong nghi thức rửa tội. Kêu cầu Danh Chúa có nghĩa là tin nhận rằng Ngài là Chúa và đặt mình dưới sự thống trị của Ngài. Duy chỉ mình Ngài mới có thể đem lại ơn cứu rỗi và sự sống, duy chỉ có mình Ngài mới có thể là lý tưởng của đời sống Kitô hữu.

Xét cho cùng, niềm tin của chúng ta không phải là một giáo điều để tuyên xưng, một số kinh kệ phải đọc làu làu, một số biểu dương tôn giáo cần bày tỏ ra bên ngoài. Niềm tin thiết yếu của chúng ta là Chúa Giêsu, Ðấng đang hiện diện cách sống động trong mỗi người chúng ta. Sống niềm tin ấy chính là luôn ý thức về sự hiện diện ấy của Ngài và không ngừng đi vào tương quan mật thiết với Ngài. Sống niềm tin ấy chính là để Ngài thấm nhập vào từng suy nghĩ, tâm tư và hành động đến độ có thể thốt lên như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không phải là tôi mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy niệm 5: Nghĩa mới về giá trị

Người liền đem một em nhỏ đặt bên cạnh mình và nói với các ông: “Ai tiếp đón em nhỏ này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, là tiếp đón Đấng đã sai Thầy. Thật vậy, ai là người nhỏ nhất trong tất cả anh em, thì kẻ ấy là người lớn nhất.” (Lc. 9, 47b-48)

Các môn đệ đã không hiểu ý nghĩa quan trọng về sự đau khổ mà Đức Giêsu sắp phải chịu. Người vừa loan báo về cái chết của Người là đỉnh cao của sứ vụ giữa loài người. Chính ra các ông phải xúc động và đổi đời, phải lo Suy niệm những lời giảng bi thảm của Thầy, để rút ra những điều bổ ích và chuẩn bị những hậu quả của những ngày đau khổ sắp tới.

Trái lại, các ông cứ tiếp tục nuôi dưỡng những ảo vọng danh lợi mong Đức Kitô sắp tới giờ vinh quang phục hưng vương quốc thế gian. Các ông hằng mơ thấy như thế. Đức Kitô đã không thành công trong khi thuyết phục các ông, Người không đến để làm như thế. Vì thế các ông đang nghĩ xem ai là người lớn nhất trong các ông, ai có chức vị cao nhất trong Nước Đức Kitô. Thánh Marcô cho thấy tính cách thô lỗ, thô bạo khi ông kể lại cuộc tranh giành giữa các tông đồ để biết ai được địa vị cao nhất. Đức Giêsu sắp hoàn toàn lật đổ quan niệm của các ông về giá trị mới trong nước trời. Người liền đem một em nhỏ đặt bên cạnh mình mà nói với các ông: “Ai tiếp đón em nhỏ này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy, và ai tiếp đón Thầy là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”. Đó là địa vị danh dự bên Đức Giêsu. Địa vị này không dành cho kẻ sáng giá nhất, thông minh nhất, tài năng nhất, có huy chương nhiều nhất! Nó chỉ dành cho ai đặt mình phục vụ những kẻ hèn mọn nhất, trơ trụi nhất, bị kinh bỉ nhất. Vì ai là người nhỏ nhất trong mọi người, chính là người lớn nhất.

Còn lời nào ngược đời đối với kẻ luôn luôn đòi cai trị người khác, nghịch lý đối với hạng chủ trương dùng quyền lực thống trị người khác. Đức Kitô quả quyết, cai trị là làm tôi tớ như chính Người đã làm gương, cai trị là hy sinh hủy mình đi vì người khác, chứ không phải là bắt họ làm nô lệ mình. Hủy mình đi vì thực thi bác ái của Đức Kitô để yêu người đến độ có thể hiến mạng sống mình vì họ.

Nhỏ bé là như thế, mới đạt tới sự cao cả duy nhất, như Đức Kitô kêu gọi chúng ta.

GF

 

Suy niệm 6: Muốn làm lớn … phải trở nên bé nhỏ

Xem lại CN 25 TN B, thứ Ba tuần 7 TN và tuần 19 TN, lễ Thánh Têrêxa và lễ Các Thiên Thần Bản Mệnh

Khi Đức Giêsu loan báo cuộc khổ nạn đầu tiên, các môn đệ can ngăn. Lần thứ hai thì không ai dám nói gì. Tuy nhiên, vì biết Thầy sắp ra đi, vị trí lãnh đạo sẽ khuyết, nên các ông bắt đầu nẩy sinh chuyện tranh dành xem ai là người lớn nhất trong anh em. Biết được tâm tưởng của các môn đệ, nhân cơ hội này, Đức Giêsu đã ban nhiều huấn dụ cho các ông để các ông hiểu và đi theo đúng con đường mà Ngài mong muốn nơi môn sinh của mình.

Huấn giáo của Đức Giêsu đã gây nên một ấn tượng mạnh nơi các môn đệ khi Ngài dẫn một em nhỏ đến bên cạnh và nói: “Hễ ai đón nhận trẻ nhỏ này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy: mà hễ ai đón nhận Thầy, tức là đón nhận Ðấng đã sai Thầy. Vì kẻ nào bé nhỏ nhất trong tất cả các con, đó là người cao trọng nhất”. Qua đó, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ phải từ bỏ tính tham quyền cố vị. Tránh đi thái cực muốn được người khác ca tụng, hay thích ăn trên ngồi trước. Cần loại bỏ sự mong muốn được người khác phục vụ, rồi thích thống trị thiên hạ bằng quyền lực.

Ngày nay, hình ảnh và lối suy nghĩ của các môn đệ khi xưa vẫn thường diễn ra trong cuộc sống của chúng ta!

Thật vậy, vẫn còn đó những người Kitô hữu có suy nghĩ và hành xử bè phái, cục bộ, không phục vụ vì Chúa và các linh hồn, nhưng là vì mình. Không quy về Đức Giêsu mà lôi kéo để mình có ảnh hưởng. Tính háo danh và ham địa vị, cũng như tính hay ghen tỵ cũng diễn ra thường xuyên.

Tất cả những thứ đó làm nguy hại đến tinh thần hiệp nhất và sứ mạng loan báo Tin Mừng rất lớn.

Vì thế, sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta:

Luôn sống kết hiệp với Thiên Chúa qua việc lắng nghe Lời Ngài dạy dỗ, bảo ban. Cần trở nên như trẻ nhỏ trong thái độ đơn sơ, chân thành và phục vụ cách vô vị lợi. Khiêm tốn và từ bỏ ham quyền, cố vị. Sẵn sàng cộng tác với hết mọi người để ra đi loan báo Tin Mừng cách trung thành.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống tinh thần của Chúa là trở nên như hạt lúa, chấp nhận chôn vùi đi để sinh nhiều bông hạt khác. Xin cho chúng con có được tinh thần của trẻ thơ, để không màng chi đến danh vọng, nhưng chỉ một lòng yêu mến Chúa và yêu người tha thiết. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy niệm 6: Kẻ nhỏ nhất là kẻ lớn nhất

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Các môn đệ tự hỏi xem ai là người lớn nhất, và Chúa Giêsu đã trả lời: kẻ nhỏ nhất lại là kẻ lớn nhất. Chúa muốn dạy ta rằng: người khiêm nhường phục vụ như Chúa là người lớn nhất trong Nước Trời.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, như các môn đệ ngày xưa, con cũng thích địa vị và đi tìm chỗ nhất cho mình. Con muốn hơn người khác và trở nên cao trọng bằng cách tự tôn mình lên hơn là sống theo đường lối của Chúa. Sở dĩ con không áp dụng phương thế của Chúa là vì con chưa hiểu được hình ảnh trẻ thơ bé nhỏ đối với Chúa lại cao đẹp và vĩ đại biết bao. Chính thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giêsu, hơn ai hết, đã chọn cho mình con đường thơ ấu thiêng liêng, một con đường ngắn nhất để nên trọn lành.

Lạy Chúa, suốt cả cuộc đời, Chúa đã phục vụ con người như một tôi tớ. Cuộc đời Chúa cho con hiểu rằng để trở nên cao trọng, con phải sống khiêm nhường phục vụ như Chúa. Xin cho con luôn trở nên nhỏ bé trước tình yêu Chúa, để con luôn đơn sơ phó thác vào Chúa.

Xin cho con biết noi gương Chúa, như khi Chúa hạ mình cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, để con cũng biết yêu thương phục vụ anh em, nhất là những anh em hèn mọn, nhỏ bé. Xin cho con xác tín rằng: khi con ích kỷ yêu chính mạng sống mình, con sẽ mất nó, nhưng khi con quên đi bản thân mình trong cuộc đời phục vụ tha nhân, con lại gặp chính mình.

Và lạy Chúa, xin cho con được lớn nên trong Chúa Thánh Thần, để trở nên cao trọng trong cung lòng Thiên Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Kẻ nào bé nhỏ nhất trong tất cả các con, đó là người cao trọng nhất”.

 

Suy niệm 7: Nước Trời thuộc về trẻ em

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Nhà kỹ nghệ công giáo danh tiếng, Léon Harmel, thuật lại câu chuyện sau:

Một bà mẹ đánh thức con dậy. Bà thấy dưới gối con có một cục gỗ.

– Con làm gì thế?

– Thưa mẹ, khi đi học giáo lý, con nghe dạy rằng mình phải hãm mình để cho kẻ có tội được trở lại. Con chọn cách hãm mình này. Con trông cậy Chúa nhận lời con.

Đó là gương một em bé trong sạch, biết đền tội thay cho những kẻ có tội mà không chịu đền tội.

Suy niệm

Các môn đệ đang suy nghĩ là ai sẽ là người lớn nhất. Chúa Giêsu đặt một em nhỏ vào giữa nhóm môn đệ và nói: “Hễ ai đón nhận trẻ nhỏ này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy, mà hễ ai đón nhận Thầy, tức là đón nhận Ðấng đã sai Thầy”. Cử chỉ này đi ngược lại phong tục Do Thái thời đó vì xã hội cổ đại không quan tâm tới trẻ em. Hơn nữa, chúng không hiểu biết Lề Luật nên người ta loại bỏ, khai trừ chúng ra khỏi cộng đoàn tôn giáo.

Đứa trẻ còn tiêu biểu cho những người đau khổ, cô thế cô thân, gặp thiếu thốn, có nhu cầu ủi an nơi chúng ta nhưng lại bị chính cộng đồng đã loại trừ. Qua việc đón tiếp các trẻ em, Đức Giêsu đề cao sự khiêm nhường phục vụ những người nghèo, có giá trị thiêng liêng cao quý như hành động phục vụ của Người và phục vụ chính Chúa Cha Đấng đã sai Người (x. Mt 10,40). Trong nước của Thiên Chúa, người lớn thì phải phục vụ, còn người bé nhỏ thì được đón tiếp nhân danh Thiên Chúa.

Chúa Giêsu còn nhấn mạnh: “Vì kẻ nào bé nhỏ nhất trong tất cả các con, đó là người cao trọng nhất”. Người bé mọn, cô thế cô thân được sống bên Chúa:

“Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ,

trong con, hồn lặng lẽ an vui” (Tv 131,2).

Chúa làm cho thân phận bé mọn được tràn đầy ân sủng như chính Ngài dùng lời Kinh Thánh khẳng định: “Ta sẽ cho miệng con thơ trẻ nhỏ cất tiếng ngợi khen?” (Mt 21,16; Tv 8,2). Tông đồ Phaolô nhìn nhận các đặc ân, các ơn huệ nhưng không Chúa đã trao ban cho những con trẻ: “Những gì yếu đuối trong thế gian thì Thiên Chúa đã chọn lựa” (1Cr 1,27).

Giáo hội mời gọi chúng ta mặc lấy tâm tình của trẻ thơ. Trẻ thơ luôn biết ngạc nhiên và ngây ngất trước những điều kỳ diệu của cuộc sống. Trẻ thơ tuy đơn sơ mà cao vời vợi, vì các em luôn bước trên đời không chỉ bằng đôi chân của mình, nhưng biết buông mình trong tay Cha từ ái.

Ý lực sống:

“Hãy để trẻ nhỏ đến với Ta, đừng ngăn cấm chúng vì nước Trời thuộc về chúng” (Mt 19,14).

 

Suy niệm 8: Ai là người lớn nhất?

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Sau khi nghe Đức Giêsu loan báo lần thứ hai về cuộc thương khó, tử nạn và phục sinh của Người, trong tâm tưởng của các Tông đồ đã nảy ra một ý tưởng rất tự nhiên: Thầy chết rồi, ai sẽ đứng đầu các anh em ? Ý tưởng đó làm các ông thắc mắc và đem ra bàn cãi lúc đi đường. Thừa dịp này, Đức Giêsu đã ban nhiều lời huấn dụ các ông. Trước những suy nghĩ của các ông, Đức Giêsu nhẹ nhàng dạy các ông chân lý của Người: “Muốn làm lớn, hãy trở nên bé nhỏ”. Người làm lớn trong Nước Trời phải là người biết phục vụ anh chị em mình.
  2. Sống với Đức Giêsu gần ba năm, các ông đã nghe lời Ngài giảng, đã chứng kiến việc Ngài làm, nhất là gương khiêm hạ, phục vụ của Ngài, thế mà các ông tranh luận nhau xem ai là người lớn nhất trong nhóm. Thấy vậy, Đức Giêsu đã nói với các ông:”Ai là người nhỏ nhất trong tất cả anh em, thì kẻ ấy là người lớn nhất” Để minh họa cho lời nói ấy, Đức Giêsu đưa một em nhỏ ra cho họ thấy gương mẫu điển hình và Ngài nói:”Hễ ai đón nhận trẻ nhỏ này, tức là đón nhận Thầy, mà hễ ai đón nhận Thầy, tức là đón nhận Đấng đã sai Thầy. Vì kẻ nào bé nhỏ nhất trong các con, đó là người cao trọng nhất”.

Qua đó, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ từ bỏ tính tham quyền cố vị. Tránh đi thái cực muốn được người khác ca tụng, hay thích ăn trên ngồi trốc. Cần loại bỏ sự mong muốn được người khác phục vụ, rồi thích thống trị thiên hạ bằng quyền lực.

  1. Chúng ta thấy cái nghịch lý của Nước Trời là “càng bé thì càng lớn, càng cao thì càng sâu”. Bởi vì:

Ai muốn làm đầu thì phải hầu thiên hạ,

Ai muốn làm lãnh tụ thì phải phục vụ tha nhân.

Cám dỗ lớn nhất của con người, đó là đam mê quyền lực, ai cũng mong muốn được ăn trên ngồi trốc, được mọi người tung hô kính trọng… để rồi từ đó làm mọi cách (cho dù là đê tiện thấp hèn) để đạt được mục đích chức quyền… Trong khi giữ chức quyền là để phục vụ chứ không phải để cai trị,  Làm to ai cũng muốn, nhưng lại ngại phải hy sinh. Vì thế, Đức Giêsu không trả lời trực tiếp là ai to ai nhỏ trong Nước Trời, mà chỉ đưa ra một “mẫu người” sẽ trở thành lớn nhất trong Nước Trời đó là nên như trẻ nhỏ, và Ngài nhấn mạnh rằng:”Ai muốn làm lớn thì phải cố tự hạ nên như trẻ nhỏ”.

  1. Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta phải trở nên giống trẻ nhỏ thì mới được vào Nước Trời, vì trẻ nhỏ có những đức tính sau đây:

Hình ảnh nên như trẻ nhỏ, nghĩa là biết sống tự hạ, khiêm tốn, vì ai biết hạ mình xuống sẽ được tôn lên, còn ai kiêu ngạo  thì tự đánh mất chính mình trong mắt mọi người.

Hình ảnh trẻ nhỏ nói lên  tính đơn sơ chân thực, trẻ nhỏ không tính toán  so đo hay những tính toán nham hiểm. Chúa cũng muốn mọi người chúng ta sống chân thành và ngay thẳng, không toan tính mưu lợi thấp hèn.

Hình ảnh trẻ nhỏ còn nói lên tinh thần sống phó thác và tin tưởng nơi cha mẹ. Chúa mời gọi chúng ta biết sống đơn sơ phó thác nơi tay Chúa quan phòng.

Hình ảnh trẻ nhỏ nói lên sự trong sạch. Trẻ nhỏ như tờ giấy trắng, không có những đam mê xấu. Chúa cũng muốn chúng ta sống trong sạch trước mặt Người.

Khi nói kẻ lớn nhất trong Nước Trời phải trở nên như trẻ nhỏ nơi nước trần thế, không có nghĩa là bây giờ làm Giáo hoàng rồi sau này trở nên kể rốt hết, nhưng Chúa nhắm đến tinh thần khiêm tốn và phục vụ, sự phục vụ  đó tùy theo bậc sống của chúng ta nơi thế gian này.

  1. Đức Giêsu đã nêu gương khiêm nhường cho chúng ta qua hành vi rửa chân cho các môn đệ. Vì thế, người môn đệ Chúa cũng được mời gọi trở nên những người phục vụ, và khiêm nhường. Thế nhưng, trong cuộc sống, có mấy ai nghĩ tới điều đó, ai cũng nghĩ người khác phải phục vụ mình, tranh giành quyền lợi, địa vị, loại trừ người khác… Đối với Đức Giêsu thì khác, những người làm lớn phải là người phục vụ kẻ khác. Muốn được như thế, mọi người phải có lòng yêu thương nhau, vì có tình yêu  thì những cạnh tranh không còn nữa. Là người lãnh đạo, Đức Giêsu đã sẵn sàng  hiến mạng sống mình cho nhân loại. Là Thầy, Ngài cúi xuống rửa chân cho các môn đệ.
  2. Truyện: Phục vụ trong khiêm tốn.

Sau đệ nhị thế chiến, những người dân ly tán khắp nơi còn sống sót đều trở về làng quê cũ, họ gạt nước mắt và sẵn sàng đổ mồ hôi để nỗ lực hàn gắn lại những vết thương chiến tranh và xây dựng lại cuộc sống trong hòa bình.

Tại một thị trấn nọ, tất cả nhà cửa, phố xá, ruộng vườn đều đã tan hoang đổ nát. Một nhóm bạn trẻ bước vào ngôi nhà thờ thân yêu ngày xưa, nay chỉ còn lại bốn vách tường và mái ngói tương đối là đứng vững, còn bên trong là những gạch vữa, gỗ đá vỡ vụn. Họ tìm thấy pho tượng Chúa Giêsu nằm sõng suợt dưới đất, chỉ còn có thân mình là nguyên vẹn.

Tuy thế, họ vẫn dọn dẹp sạch sẽ  gian cung thánh, rồi họ đặt bức tượng trên một chiếc bàn con, ở ngay trung tâm của những buổi cử hành phụng vụ và cầu nguyện của giáo xứ. Và người ta đã ghi lại được một lời cầu nguyện bộc phát rất cảm động của một chị thiếu nữ như sau:

 “Lạy Chúa, xin cho chúng con trở thành đôi mắt của Chúa, để chúng con diễn tả được tình yêu thương của Chúa. Xin biến chúng con trở thành đôi tay của Chúa, để chúng con nâng đỡ phục vụ anh chị em. Xin cho chúng con trở thành đôi chân của Chúa, để chúng con sẵn sàng  đến với tha nhân. Xin biến chúng con trở thành con tim của Chúa, để chúng con biết thực sự yêu thương hết thảy mọi người”.

 

Suy niệm 9: Phục vụ và kết bạn

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Chúa Giêsu dạy các môn đệ ba điều. Ba điều này ngược hẳn suy nghĩ của các ông:

  1. Lớn và nhỏ:mọi người, trong đó có các môn đệ và có cả chúng ta nữa, đều muốn làm người lớn, người cao trọng nhất, nghĩa là có địa vị, có uy thế, có quyền lợi. Các môn đệ của Chúa Giêsu ngày xưa cũng như thế. Chúa Giêsu biết ý nghĩ của các ông, nên Ngài bảo các ông đừng nghĩ tới vấn đề đó nữa, mà hãy nghĩ ngược lại: hãy trở thành kẻ bé nhỏ nhất, nghĩa là đừng nhắm địa vị, uy thế và quyền lợi mà hãy sống khiêm tốn phục vụ mọi người.

Năm thành viên của một gia đình nọ đang nghỉ ngơi và vui đùa ở một bãi biển. Các đứa bé tắm và nghịch ngợm xây những lâu đài bằng cát, khi cách đó không xa, xuất hiện một bà già gầy còm, đầu tóc rối bung trong gió và áo quần thì rách rưới, bẩn thỉu. Bà vừa đi vừa lảm nhảm điều gì đó trong miệng và cúi xuống nhặt các vật trên bãi cát, bỏ vào một cái bị.

Bố mẹ vội kêu các con lại bên họ và bảo chúng đứng tránh xa bà già kia ra. Khi đi ngang qua họ, bà cúi xuống nhặt bên trái, bên phải các vật trên cát, rồi bà nhìn và cùng mỉm cười với cả gia đình họ. Song thái độ thân thiện của bà ta không được đáp trả.

Nhiều tuần sau, họ biết được rằng, người đàn bà già yếu rách rưới đó đã bỏ những tháng ngày ròng rã để nhặt những mảnh vụn chai, sắt, thiếc trên bãi biển hầu các em nhỏ có thể nô đùa mà không bị thương tổn.

  1. Vấn đề đón nhận người khác:Thường thì chúng ta thấy người ta dễ dàng niềm nở với những ai có lợi cho mình, chẳng hạn người có thế giá, có địa vị, có quyền hành, có của cải v.v….

Chúa Giêsu lại dạy khác: hãy có thái độ rộng mở đón tiếp mọi người, dù đó là một đứa trẻ chẳng có địa vị quyền hành gì cả.

Nhạc sĩ Howard Kelly cũng là nhà vật lí, bác sĩ, sinh vật học nổi tiếng và cũng là một Kitô- hữu. Lần kia, sau một cuộc nghiên cứu, ông dừng lại nhà một nông dân xin nước uống. Một cô bé xuất hiện và khi biết ông muốn xin bát nước, em chạy vào nhà rồi đưa ra cho ông một ly sữa tươi mát. Ông ân cần cám ơn và nói, nếu người nhà có ai bị đau cứ việc đến bệnh viện của bác sĩ Kelly. Cô bé cũng cảm kích trước lòng tốt của ông. Ít lâu sau, mẹ cô đau và cô đưa đi bệnh viện của bác sĩ Kelly. Một sự đón tiếp đặc biệt dành cho hai mẹ con. Và khi mẹ cô khỏi bệnh ra về, bác sĩ còn gửi cho cô một số tiền lớn để bồi dưỡng cho mẹ cùng với lời ghi chú: “Để trả ơn một ly sữa.”

Giá mỗi người chúng ta biết đối xử với nhau như thế thì cuộc đời sẽ đẹp hơn biết bao.

  1. Vấn đề thuận và nghịch:Trong cuộc sống, người ta thường dùng cái khung phe nhóm để định hướng thái độ của mình. Ai thuộc phe nhóm mình thì là bạn mình và mình hợp tác. Ngược lại, ai không thuộc phe nhóm mình thì là kẻ thù của mình và mình phải chống lại. Chúa Giêsu lại dạy ngược lại: “Đừng ngăn cản người ta. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta!” (Lc 9,50)

Tổng thống Abraham Lincoln của Hoa Kỳ có thói quen áp dụng một phương pháp bất thường để kết bạn. Một lần kia, ông đã dùng những lời hay ý đẹp để nói về những chính trị gia đối lập với mình. Nghe thế một phụ nữ thắc mắc:

– Tại sao ông lại ca ngợi những địch thủ của mình mà không phê bình, chỉ trích và tiêu diệt họ ?

Tổng thống Abraham Lincoln đã trả lời bằng một câu hỏi:

– Biến kẻ thù thành bạn hữu, không phải là tôi đã tiêu diệt kẻ thù hay sao ?

Một hoàng đế Trung Hoa nói:

– Một khi chinh phục quốc gia ấy rồi, ta sẽ tiêu diệt tất cả các địch thù của ta!

Ông đã chinh phục các nước ấy và cả đình thần của ông đều chờ đợi một cuộc thảm sát địch quân. Họ mong những địch thù đó sau khi bị hành hình thì đem chém đầu. Nhưng họ rất bỡ ngỡ khi thấy tất cả bọn địch thù cùng ngồi ăn với vua và lại nói cười vui vẻ nữa. Họ tâu vua:

– Muôn tâu Hoàng Thượng, ngài đã nói sau khi thắng trận sẽ tiêu diệt tất cả địch thù kia mà!

Hoàng đế trả lời:

– Ta đã tiêu diệt tất cả bọn họ rồi đó, tiêu diệt bằng cách tha thứ cho họ và biến họ thành những người bạn của ta!

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa không gọi chúng con là tôi tớ,

Chúa cũng không chỉ coi chúng con là môn đệ.

Chúa còn coi chúng con như bạn hữu của Chúa,

Hơn nữa, sau Phục Sinh,

Chúa đã gọi các môn đệ là anh em.

Mặc nhiên, Chúa đã tự nhận mình là Anh Trưởng đứng đầu một đoàn em đông đúc.

Xin cho chúng con luôn thi hành ý muốn của Cha để trở nên những người em cùng huyết nhục với Chúa. Amen.

 

Suy niệm 10: Tiếp đón chính Thầy

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Hạt giống…

Chúa Giêsu dạy các môn đệ ba điều ngược hẳn suy nghĩ của các ông:

  1. Lớn và nhỏ: mọi người, trong đó có các môn đệ và có cả chúng ta nữa, đều muốn làm người cao trọng nhất, nghĩa là có địa vị, có quyền hành, có quyền lợi. Nhưng khi các môn đệ đang suy nghĩ trong lòng về ước mong đó thì Chúa Giêsu biết ý nghĩ của các ông, Ngài bảo các ông đừng nghĩ tới vấn đề đó nữa, mà hãy nghĩ ngược lại: hãy trở thành kẻ bé nhỏ nhất, nghĩa là đùng nhắm địa vị và quyền hành, quyền lợi mà hãy sống khiêm tốn như trẻ nhỏ
  2. Đón tiếp ai: Thói thường, người ta niềm nở với những ai có lợi cho mình, chẳng hạn người có địa vị, có quyền hành, có của cải. Chúa Giêsu thì dạy: hãy có thái độ rộng mở đón tiếp mọi người, dù đó là một đứa trẻ chẳng có địa vị quyền hành gì cả.
  3. Thuận và nghịch: người ta thường dùng cái khung phe nhóm để định hướng thái độ của mình. Ai thuộc phe nhóm mình thì là bạn mình và mình hợp tác; ngược lại ai không thuộc phe nhóm mình thì là kẻ thù của mình và mình chống lại. Chúa Giêsu dạy ngược lại: “Ai không chống lại các con tức là thuộc với các con”, và “Chớ ngăn cản họ”.

B…. nẩy mầm.

  1. Cái ý muốn “làm lớn” đã là nguồn gốc sinh ra biết bao đố kỵ, tranh dành và gây ra biết bao xào xáo khổ sở trong cuộc sống chung. Bởi thế Chúa dạy ta đừng ham làm lớn nhưng hãy ham làm nhỏ. Kiêu căng là đầu của 7 mối tội đầu, khiêm tốn là đứng số một trong 7 nhân đức hàng đầu.

Nếu con đang “làm nhỏ”, xin cho con biết cám ơn Chúa vì con được giống như những đứa bé trong gia đình. Nếu nhiệm vụ đang đặt con làm lớn, xin cho con biết “làm lớn” một cách khiêm tốn, làm lớn để phục vụ chứ không phải để bắt người ta phục vụ.

  1. Vấn đề quan trọng không phải là tôi được địa vị cao hay thấp mà là tôi được đặt vào đúng chỗ hợp với khả năng của mình. Kẻ ít khả năng mà ở địa vị cao thì không chu toàn được những nhiệm vụ được giao, và như thế càng cho người khác thấy rõ những yếu kém của mình.
  2. “Cái vòng danh lợi cong cong, kẻ hòng ra khỏi, người mong bước vào”. Chưa có địa vị thì ham có, đang có rồi thì cảm thấy nặng nề và mong được trút bỏ. Điều này càng đúng trong Giáo Hội.
  3. Về thái độ đón tiếp: lẽ ra là môn đệ của Chúa, tôi phải đón tiếp mọi người, đặc biệt ưu tiên đón tiếp những kẻ bé mọn. Thế nhưng khuynh hướng tự nhiên vẫn còn sống mạnh trong tôi, nên đôi khi tôi vẫn thờ ơ, thậm chí xua đuổi những kẻ bé mọn ấy, và niềm nở vồn vả với những người có lợi cho tôi.
  4. Thuận và nghịch: nhân danh Chúa Giêsu để trừ quỷ, đó là một việc làm tốt. Nhưng vì Gioan đã đánh giá việc làm đó theo một tiêu chuẩn sai (người đó không thuộc phe nhóm của mình), nên dẫn tới một thái độ sai là chống đối và ngăn cản. Để “chữa trị” Gioan, Chúa Giêsu bảo ông hãy suy nghĩ theo một tiêu chuẩn mới “Ai không nghịch với các con tức là thuận với các con”. Nghĩa là hãy suy nghĩ theo chiều “thuận”: hãy coi mọi người đều là “thuận” với mình, chỉ trừ khi rõ ràng người ta chống mình.
  5. “Ai tiếp đón em nhỏ này vì danh Thầy là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy là tiếp đón Đấng đã sai Thầy” (Lc 9,48)

Tôi đang loay hoay tìm kiếm mấy con ốc bị thất lạc khi sửa cái máy cassette thì thằng cháu mon men lại gần:

– Cậu ơi, cậu làm gì thế ? Cho cháu làm với.

– Con nít chỉ biết nghịch phá chứ biết làm cái gì. Đi chỗ khác chơi ! Tôi quát lớn.

– Nhưng cháu muốn ở lại nói chuyện với cậu, cho cậu đỡ buồn.

Câu nói ngây thơ của đứa trẻ lên bốn chứa đựng cả một tấm lòng nhân hậu làm tôi phải xét lại thái độ của mình. Những người lớn hay coi thường trẻ thơ bởi chúng là những trẻ nhỏ chưa có địa vị hay chỗ đứng trong xã hội. Thế nhưng những suy nghĩ tưởng chừng là bé nhỏ của chúng lại chất chứa cả một tâm hồn vĩ đại.

Lạy Chúa, xin cho những người lớn chúng con biết khiêm tốn lắng nghe và khám phá ra thế giới trẻ thơ; để qua trẻ thơ, mỗi người chúng con sẽ hoàn thiện chính mình (Hosanna)

 

 

 

THỨ BA TUẦN 26 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Lc 9, 51-56

Vì gần tới thời gian Chúa Giêsu phải cất khỏi đời này, Người cương quyết lên đường đi Giêrusalem, và sai những người đưa tin đi trước Người.

Những người này lên đường vào một làng Samaria để chuẩn bị mọi sự cho Người. Nhưng ở đó người ta không đón tiếp Người, bởi Người đi lên Giêrusalem. Thấy vậy, hai môn đệ Giacôbê và Gioan thưa Người rằng: “Lạy Thầy, Thầy muốn chúng con khiến lửa bởi trời xuống thiêu huỷ chúng không?”

Nhưng Người quay lại, quở trách các ông rằng: “Các con không biết thần trí nào xúi giục mình. Con Người đến không phải để giết, nhưng để cứu chữa người ta”. Và các Ngài đi tới một làng khác.

 

Suy niệm 1: Nhất quyết lên Giêrusalem

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Sống là lên đường. 

Hai lần tiên báo về cái chết sắp đến

cho thấy Đức Giêsu biết rõ con đường mình sắp đi, 

và những gì sẽ xảy ra ở cuối đường (Lc 9, 22. 44). 

Bị bắt, bị nộp, bị loại bỏ, bị giết chết, 

là những điều tự nhiên ai cũng gớm ghét, sợ hãi và muốn né tránh. 

Đức Giêsu cũng vậy, vì Ngài mang trọn phận người như ta. 

“Đức Giêsu nhất quyết đi lên Giêrusalem” (c. 51). 

Lên Giêrusalem là một quyết định đắn đo và nghiêm túc, 

cũng là một chọn lựa tự do và can đảm của Đức Giêsu, 

bởi lẽ lên đó là chấp nhận đối diện với cái chết bi đát. 

Giêrusalem là trung tâm hoạt động của các nhà lãnh đạo Do Thái giáo, 

những người đang âm mưu bắt được Đức Giêsu để thủ tiêu. 

Muốn được sống yên thân, Đức Giêsu chỉ cần đừng lên thành đô ấy, 

chỉ cần giới hạn hoạt động của mình ở Galilê. 

Lên Giêrusalem trong tình thế dầu sôi lửa bỏng như bây giờ 

là làm một cuộc Xuất Hành mới (Lc 9, 31), đầy bất trắc hiểm nguy. 

Nhưng Đức Giêsu không sợ đến với nơi Cha muốn mình đến: 

“Hôm nay, ngày mai và ngày mốt, tôi phải tiếp tục đi, 

vì một ngôn sứ mà chết ngoài thành Giêrusalem thì không được” (Lc 13, 33). 

Giêrusalem là nơi Đức Giêsu hiến mình qua cái chết vì vâng phục, 

nhưng Giêrusalem cũng là nơi Ngài được phục sinh và rước lên trời (c. 51). 

Tin Mừng Luca coi việc lên Giêrusalem như một hành trình dài (9, 51-19, 27).

Ngài cố ý đi ngang qua vùng đất của người Samari. 

Giữa người Do Thái và người Samari có sự xung khắc. 

Người Do Thái khinh người Samari, người Samari thù người Do Thái. 

Chính vì thế khi biết nhóm Thầy trò lên đường đi Giêrusalem dự lễ, 

người dân một ngôi làng Samaria đã từ chối tiếp đón. 

Giacôbê và Gioan, từng được Thầy gọi là con của thiên lôi (Mc 3, 17), 

đã muốn xin cho mình được chia sẻ quyền năng trừng phạt của Thầy. 

Họ muốn làm như ngôn sứ Êlia ngày xưa (2 V 1, 10. 12), 

“khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy bọn chúng” (c. 54). 

Nhưng Thầy Giêsu, người dẫn đầu, đã quay lại quở mắng hai ông. 

Ngài chẳng bao giờ dùng quyền lực để trừng phạt kẻ từ chối mình. 

Ngài sống điều Ngài đã giảng cho các môn đệ (Lc 6, 29). 

Làm sao có thể giết người khác chỉ vì họ không đón nhận mình? 

Quyền lực của Thiên Chúa không đe dọa, không áp đặt, 

cũng không bóp chết tự do mà Ngài đã ban cho con người. 

Sự bao dung của Đức Giêsu cho ta thấy sự bao dung của Thiên Chúa. 

Chúng ta có thể học được nhiều điều từ thái độ này. 

Như các môn đệ, chúng ta cũng thích thi thố quyền lực. 

Chúng ta cũng thích dùng lửa khi có lửa trong tay. 

Chúng ta không chấp nhận một Kitô giáo có vẻ yếu đuối, chịu lép vế. 

Thầy Giêsu và các học trò đã đi sang làng khác (c. 56). 

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa, 

xin dạy con luôn tươi tắn và dịu dàng 

trước mọi biến cố của cuộc sống, 

khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm, 

hay gặp sự bất trung, bất tín 

nơi những người con tin tưởng cậy dựa. 

Xin giúp con gạt mình sang một bên 

để nghĩ đến hạnh phúc người khác, 

giấu đi những nỗi phiền muộn của mình 

để tránh cho người khác phải đau khổ.

Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên đời, 

để đau khổ làm con thêm mềm mại, 

chứ không cứng cỏi hay cay đắng, 

làm con nhẫn nại chứ không bực bội, 

làm con rộng lòng tha thứ, 

chứ không hẹp hòi hay độc đoán, cao kỳ. 

Ước gì không ai sút kém đi 

vì chịu ảnh hưởng của con, 

không ai giảm bớt lòng thanh khiết, chân thật, 

lòng cao thượng, tử tế, 

chỉ vì đã là bạn đồng hành của con 

trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu. 

Khi con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối, 

xin cho con có lúc 

thì thầm với Chúa một lời yêu thương. 

Ước chi đời con là cuộc đời siêu nhiên, 

tràn trề sức mạnh để làm việc thiện, 

và kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh. Amen.

(dịch theo Learning Christ) 

 

Suy niệm 2: Con đường đau khổ

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúa Giê-su rao giảng tại Ga-li-lê. Người lên Giê-ru-sa-lem để hoàn tất quãng đời dương thế. Đó là cao điểm. Lu-ca nói Người đi về trời để được vinh quang. Da-ca-ri-a đã loan báo trước vinh quang của Chúa. Mọi dân tộc sẽ nhận biết Chúa. Sẽ trở về với Chúa. Sẽ đi theo con đường của Chúa: “Các nước và dân cư trong các thành phố lớn vẫn còn tuôn đến. Dân thành này sẽ đến thành khác mà nói rằng: “Nào ta cùng đi làm cho nét mặt Đức Chúa dịu lại và tìm kiếm Đức Chúa các đạo binh; cả tôi nữa, tôi cũng đi!…Trong những ngày ấy, mười người đàn ông thuộc mọi ngôn ngữ trong các dân tộc sẽ níu lấy áo của một người Giu-đa mà nói: “Chúng tôi muốn đi với anh em, vì chúng tôi đã nghe biết rằng Thiên Chúa ở với anh em”(năm lẻ).

 Nhưng con đường vinh quang phải trải qua đau khổ. Đau khổ lớn lao chưa từng có ai chịu nổi. Đau khổ không ai có thể chịu đựng được. Chúa bị phản bội, bị bỏ rơi bởi các môn đệ. Bị xét xử nhiều lần. Bị kết án. Bị nhục mạ. Bị đánh đòn. Bị vác thánh giá. Bị đóng đinh. Chết giữa những tên trộm cướp. Đau đớn nhất là Người cảm thấy như bị Chúa Cha ruồng bỏ. Thánh Gióp là người chịu đau khổ phần nào giống Chúa. Ông trong sạch. Ông trung thành thờ phượng Chúa. Nhưng ông bị thử thách. Mất hết của cải, con cái. Bản than bị lở loét, sâu bọ đục khoét. Vừa đau đớn vừa hôi thối. Nhưng đau đớn hơn nữa ông bị bạn bè kết án. Và nhất là người vợ thân thương cũng khinh khi miệt thị. Và nhất là ông cảm thấy như bị Chúa ruồng bỏ. Nên ông đau buồn than khóc. “Bấy giờ, ông Gióp mở miệng nguyền rủa ngày ông chào đời. Ông Gióp lên tiếng nói: “Phải chi đừng xuất hiện ngày tôi đã chào đời…Sao lại ban ánh sang và sự sống cho kẻ chẳng biết mình đi đâu, cho kẻ bị Thiên Chúa giam hãm tư bề?”(năm chẵn).

Việc người Sa-ma-ri không đón tiếp Chúa chỉ là bắt đầu. Rồi Chúa sẽ chịu nhiều đau khổ nhục nhã lớn lao hơn nữa. Cho đến chết. Các tông đồ muốn trừng phạt họ. Nhưng Chúa mắng các ông. Vì các ông không hiểu. Chính Chúa tự nguyện đi vào con đường đau khổ để được vinh quang. Chấp nhận chịu bạc đãi để đem lại yêu thương. Chấp nhận thân phận tội lỗi để qui tụ muôn người về với Chúa Cha. Chấp nhận chết đi để được sống lại.

Các môn đệ tuy chưa hiểu. Nhưng vì yêu mến Chúa, các ngài sẵn sang đi vào con đường của Chúa. Xin cho chúng ta cũng biết noi gương các ngài. Gắn bó với Chúa. Đi theo Chúa. Cùng chịu đau khổ để cùng vinh quang với Chúa. Cùng chịu chết để được sống lại với Chúa.

 

Suy niệm 3: Ra khỏi chính mình

Ðể lại một tên tuổi, có được một danh thơm tiếng tốt, đó vốn là ước mơ chung của mọi người. Tuy nhiên, được người khác trân trọng nhắc nhớ và mến thương hay không là tùy cách sống của mỗi người. Nói chung, cuộc đời hy sinh cho người khác, dù chỉ là hy sinh âm thầm cũng luôn được nhớ đến. Phải chăng đó không là ao ước của cố nhạc sĩ Văn Cao khi ông nói: “Tôi không đi qua tôi, tôi để lại gì? Tôi sẽ để lại gì nếu tôi chỉ khư khư giữ cho riêng mình? Nhưng nếu tôi có ra khỏi tôi, có trao ban chính mình, thì điều tôi để lại chính là bản thân tôi; bản thân tôi tìm gặp đã đành, mà đó cũng là quà tặng tôi để lại cho đời”.

Có thể đó cũng là ý nghĩa chúng ta tìm thấy trong Tin Mừng hôm nay. Nếu mỗi tác giả Tin Mừng có một sợi chỉ xuyên suốt nối kết các biến cố trong cuộc đời Chúa Giêsu, thì theo sự trình bày của thánh Luca, sợi chỉ xuyên suốt cuộc đời Chúa Giêsu chính là cuộc hành trình lên Giêrusalem. Với thánh Luca, cuộc đời Chúa Giêsu là một hành trình ra đi không ngừng để đạt tới đích điểm là Giêrusalem, nơi gặp gỡ chung cục giữa Chúa Giêsu và các nhà lãnh đạo Do thái cũng như chính quyền Roma. Giêrusalem là cao điểm của cuộc song đấu giữa quyền lực sự dữ và tình yêu diễn ra trong con người Chúa Giêsu. Giêrusalem, xét cho cùng, chính là cái chết đang chờ đợi Chúa Giêsu; đi lên Giêrusalem có nghĩa là giáp mặt với cái chết, là đi đến tận cùng của thân phận làm người.

Nếu đã đón nhận cái chết như tột đỉnh của cuộc hành trình, thì dĩ nhiên điều kiện tiên quyết của người ta ra đi là phải kiên nhẫn trước thất bại. Chúa Giêsu muốn dạy các môn đệ của Ngài bài học về sự kiên nhẫn trước thất bại ấy khi các ông bị những người Samari khước từ. Giacôbê và Gioan tưởng có thể sai khiến lửa từ trời xuống để tiêu diệt những kẻ chống các ông; tuy nhiên, trung thành với giáo huấn của Ngài, Chúa Giêsu nhắc nhở cho các ông bài học về yêu thương nhẫn nại mà họ phải có ngay cả với kẻ thù của mình.

Ra đi, hay nói theo ngôn ngữ của Văn Cao “đi qua khỏi mình” chính là biết thắng vượt những chướng ngại do lòng ích kỷ và hận thù có thể giăng mắc trên lối đi. Cái chết chỉ thực sự có ý nghĩa và giá trị khi nó là một cái chết vì yêu thương; cuộc hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu như vậy cũng là một cuộc hành trình của yêu thương. Chỉ có yêu thương mới giúp con người thắng vượt được chính mình, chỉ có yêu thương mới giúp con người nhìn xuyên suốt qua bên kia thất bại, khổ đau.

Cuộc sống của người môn đệ Chúa Giêsu là một cuộc hành trình không ngừng. Cùng với Ngài, chúng ta luôn được mời gọi từ giã con người cũ tội lỗi và ích kỷ để tiến về con người mới của ân sủng và yêu thương. Chông gai thử thách vẫn luôn có đó, nhưng chúng ta tin rằng có Chúa Giêsu đồng hành với chúng ta và phần thưởng đang chờ đợi chúng ta chính là niềm vui được lớn lên và tìm gặp lại bản thân mỗi ngày một cách sung mãn hơn.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy niệm 4: Cái Chết Trên Thập Giá

Tin Mừng hôm nay hẳn mời gọi chúng ta lặp lại niềm tín thác của chúng ta vào sự quan phòng kỳ diệu của Chúa. Thánh Luca, tác giả của đoạn Tin Mừng hôm nay nhìn cuộc đời của Chúa Giêsu như một cuộc hành trình tiến về Giêrusalem mà cao điểm là cái chết trên thập giá. Tiến về Giêrusalem để chịu tử nạn cho nên có gặp thù nghịch chống đối trong suốt cuộc hành trình cũng là chuyện bình thường đối với Chúa Giêsu, nhưng các môn đệ của Chúa Giêsu chưa thể hiểu tại sao Thầy mình phải gặp phải những chống đối như thế. Phản ứng của hai thánh Gioan và Giacôbê là điển hình, hai vị thánh này không thể chấp nhận được sự kiện người dân tại một làng Samaria nọ không đón tiếp Ngài. Các ngài chỉ mong cho lửa từ trời xuống để tiêu diệt cái dân phản nghịch này. Chúa Giêsu quở trách các ngài, Chúa Giêsu muốn nhắc nhở cho các môn đệ biết rằng điều kiện đầu tiên để làm môn đệ Ngài là phải có thái độ kiên nhẫn trước sự chống đối, thù nghịch và thẳng thắn nói chung. Ðây là dịp để các môn đệ hiểu được ý nghĩa của những bài dụ ngôn về nước Trời, đặc biệt là các bài dụ ngôn về hạt giống, về cỏ lùng và lúa tốt. Hạt giống được gieo vãi ngay cả trên đất xấu, hạt giống được gieo vãi ngay cả trên cỏ lùng, hạt giống phải chịu thối đi trong lòng đất; dù có được gieo vãi trong những điều kiện không thuận lợi, hạt giống vẫn mọc lên và sinh nhiều bông hạt.

Hình ảnh của hạt giống gợi lên cho chúng ta lịch sử của Giáo Hội. Giáo Hội được tẩy trần và sinh hoa kết trái ngay giữa những cơn bách hại đẫm máu nhất. Giáo Hội từng được thanh luyện và trưởng thành khi gặp chống đối và thù nghịch. Thái độ thỏa hiệp có thể mang lại cho Giáo Hội một vài đặc ân và dễ dãi, nhưng chắc chắn những thiệt hại và mất mát mà Giáo Hội phải chịu thì không gì có thể bù lại được. Giáo Hội có đáng tin hay không? Giáo Hội có thật sự đi lại cuộc hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu hay không? Hay giữa những chống đối, thù nghịch và thử thách, Giáo Hội vẫn tỏ ra trung thành với Ðấng khi bị treo trên thập giá đã lặng thinh và phó thác cho Thiên Chúa. Hạt lúa có gieo vào lòng đất mới thối đi và lớn lên sinh nhiều bông hạt, đó là định luật của cuộc sống Giáo Hội và của người môn đệ Chúa Kitô.

Ước gì giữa những khổ đau, chống đối và thù nghịch, chúng ta vẫn luôn nhận ra được bàn tay quan phòng kỳ diệu của Chúa, đó là ơn trọng đại mà chúng ta phải không ngừng cầu xin Chúa ban cho chúng ta.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy niệm 5: Đi sang làng khác

Khi đã tới ngày Đức Giêsu được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem. Người sai mấy sứ giả đi trước, họ lên đường và vào một làng người Sa-ma-ri để chuẩn bị cho Người đến. (Lc. 9, 51-52)

Với lòng quả cảm, Đức Giêsu nhất quyết lên Giê-ru-sa-lem, vì Người biết rõ sắp tới ngày chịu nạn chịu chết. Người sẵn sàng vâng theo thánh ý Cha Người, nên không bao giờ lùi bước. Người không sống cho chính mình, trái lại sống phụng vụ thánh ý Cha với tấm lòng vui vẻ của người con thảo. Người gởi sứ giả đi trước dọn đường đi qua Sa-ma-ri-a, họ hận thù với dân Do-thái.

Dân Sa-ma-ri-a bị coi là kẻ ly giáo đối với thành thánh Giê-ru-sa-lem kể từ khi họ xây đền thờ trên núi Ga-ri-dim. Cả hai dân tộc đều khinh ghét nhau, nên những đoàn hành hương khi đi ngang qua ranh giới, đều phải chịu những quẫy nhiễu đủ thứ. Những Tông Đồ bị từ chối không cho qua làng Sa-ma-ri-a để lên Giê-ru-sa-lem.

Gia-cô-bê và Gio-an nổi khùng, muốn dùng biện pháp mạnh thiêu đốt làng đó ngay lập tức. Các ông nói với Đức Giêsu: “Lạy Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó không”. Người ta có thể nghĩ xem Đức Kitô, Đấng nhân lành xử thế nào đối với sự chống đối của các môn đệ. Người cần cho các ông một bài học nhân lành về thái độ ngạo ngược này, và chỉ cho các ông phải lấy lửa nào mà đốt tật xấu của mình đi. Đức Kitô đã nhìn Gia-cô-bê và Gio-an với giọng khiển trách ngay thẳng, hẳn tâm can Người khá thất vọng không biết đến chừng nào các ông hiểu được một chút lời dạy của Người: cần kiên trì đến bao giờ đối với các ông và với mọi người khác. Dầu đang sống với chính Người, đang nghe chính Người nói, đang nhìn thấy chính Người hành động, các ông vẫn chưa nuốt được ý nghĩa cần thiết phải có thời giờ chờ đợi cho mọi thứ ăn năn trở về, không nên dùng sức mạnh cưỡng bách Thiên Chúa xâm nhập vào những con tim loài người. Chúng ta cũng giống như các môn đệ đó, muốn một Giáo Hội bị xé nát do nhiều Kitô hữu tự lên án phạt vạ tuyệt thông nhau, đối xử tệ với những người trễ nải, hay bất mãn với những gánh nặng của Giáo Hội đề ra. Họ còn chống đối cả sự kiên nhẫn của Thiên Chúa.

Đức Kitô chỉ nói đơn giản rằng: “Chúng ta đi sang làng khác”.

GF

 

Suy niệm 6: Hãy kiên trì để thi hành sứ vụ

Xem lại CN 13 TN C

Hành trình cứu độ của Đức Giêsu là một hành trình tiến về Giêrusalem để chịu chết trong chương trình cứu độ mà Thiên Chúa muốn. Trên hành trình ấy, Đức Giêsu đã tìm dịp thuận tiện để Thầy trò tâm tư về sứ mạng.

Thật vậy, một trong những điều mà Đức Giêsu quan tâm, đó là làm sao để cho các môn đệ có được tinh thần hy sinh, thái độ kiên trì trước nghịch cảnh và thử thách, cần khiêm tốn và phải có tấm lòng bao dung, vị tha.

Tại sao vậy? Thưa! Người môn đệ của Đức Giêsu phải là người phản chiếu tình thương của Thầy cho anh chị em mình một cách trung thực, mà sự thật về Đức Giêsu là gì nếu không phải là một vị Thiên Chúa, Đấng nhân từ và hiền hậu, khiêm nhường và hay thương xót, Đấng đến để phục vụ thay cho được phục vụ, hy sinh và sẵn sàng chết cho người mình yêu…!

Vì thế, Đức Giêsu đã không chấp nhận thái độ trả thù của hai môn đệ Gioan và Giacôbê khi các ông xin Ngài cho phép khiến lửa từ trời xuống thiêu đốt dân làng Samaria vì họ không cho Thầy trò đi qua. Nhân đây Đức Giêsu đã dạy cho các ông bài học về sự bao dung, tha thứ và biết đón nhận thử thách vì lòng yêu mến Chúa. Đồng thời cũng dạy cho các ông bài học về sự kiên trì và trung thành.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có thái độ cảm thông cho những nghi kỵ, khinh khi và cự tuyệt của người đời, ngay cả những sự vu khống, bắt bớ vì Đạo. Noi gương Đức Giêsu, sẵn sàng đón nhận đau khổ vì sứ vụ: “Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5,11-12). Biết chấp nhận những sự giới hạn của con người, và ý thức rằng: chúng ta đi đến đâu cũng có một số người sống chết với ta, một số người quyết loại bỏ ta và số còn lại thì chẳng cần quan tâm đến chúng ta cũng như công việc của ta. Đây cũng chính là thân phận của Thầy Chí Thánh Giêsu đã trải qua.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn có tấm lòng bao dung như Chúa. Luôn hiểu và thông cảm cho những bất toàn của anh chị em mình. Đồng thời, xin cho chúng con biết đón nhận mọi thử thách, nghịch cảnh xảy đến trong đời và nơi sứ vụ vì lòng yêu mến Chúa. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy niệm 7: Con Người không đến để giết chết

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Đức Giêsu cương quyết lên Giêrusalem qua xứ Samaria cho gần, nhưng dân làng không chấp nhận vì họ thù nghịch với dân Do thái mà Đức Giêsu là người Do thái. Thấy vậy, hai ông Giacôbê và Gioan nổi giận xin Chúa cho phép lấy lửa trên trời xuống đốt cháy tụi này. Nhưng Đức Giêsu quở trách tính hung hãn của hai ông và nói cho hai ông biết:”Con Người đến không phải để giết chết nhưng để cứu sống”. Thật vậy, bài học này đã làm cho các môn đệ và mỗi người chúng ta phải xét lại thái độ của chúng ta đối với anh em.
  2. Nên biết, giữa người Do thái và Samaria có một sự xung khắc về quốc gia và tôn giáo. Người Samaria bị những người Do thái giáo coi như những kẻ ly giáo, từ khi họ đã xây dựng một ngôi đền thờ trên đỉnh núi Garizim để cạnh tranh với đền thờ Giêrusalem. Phải tránh tiếp xúc với những kẻ “lầm lạc” (Ga 4,9-20).  Bị những người Do thái khinh bỉ, họ trả đũa lại bằng cách  gây ra mọi phiền nhiễu cho các đoàn hành hương mượn con đường ngắn nhất để đi từ Galilêa về Giêrusalem.

Trước thái độ từ chối của dân làng Samaria, hai ông Giacôbê và Gioan, với biệt hiệu “Con trai Thiên lôi”: muốn xin lửa từ trời xuống thiêu đốt những kẻ nghịch này. Hai ông có thái độ như thế vì nhớ lại trường hợp tiên tri Êlia xưa (2V1,10) và nghĩ rằng  dân làng Samaria làm như thế  là đã làm nhục cho Chúa. Đây là thái độ còn nhiều tinh thần Cựu Ước, tinh thần báo thù.

  1. Nhưng ở đây, Đức Giêsu muốn cho các môn đệ một hình ảnh đích thực về Thiên Chúa, Ngài vốn là Đấng toàn năng nhưng không can thiệp như một ông vua chuyên chế bắt các bề tôi và kẻ thù phải quỳ mọp dưới chân, nhưng Ngài chờ đợi họ hoán cải như người cha, người mẹ đối với con cái: ”Con Người đến không phải để giết, nhưng để cứu chữa”.

Các môn đệ được hiểu rằng việc báo thù là việc của tà thần chứ không phải là việc của Thiên Chúa. Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa báo oán, mà là Thiên Chúa tình thương. Đức Giêsu muốn dạy cho các ông con đường đi theo Chúa  không luôn thẳng tắp, không gặp trắc trở. Vậy những ai muốn theo Chúa phải nhẫn nại hiền lành để đối xử lại, để chinh phục lại các linh hồn. Thánh Phanxicô Salêsiô nói:”Một thìa mật lôi kéo nhiều ruồi hơn một thùng giấm”.

  1. Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy lối suy nghĩ của các môn đệ khi chưa hiểu và thấm nhuần giáo huấn của Chúa. Lối suy nghĩ và lối thích sử dụng quyền lực để răn đe hay trấn áp người khác là cách hành xử hoàn toàn trái với tinh thần Tin Mừng. Nên Chúa Giêsu đã cảnh cáo các ông. Thái độ của các môn đệ ngày xưa cũng chính là thái độ của chúng ta ngày hôm nay.  Tôi tôn thờ một Thiên Chúa nào ? Phải chăng là một Thiên Chúa tình yêu, nhân từ, quảng đại hay tha thứ… hay là một Thiên Chúa mà chúng ta cố giải thích méo mó để phục vụ cho ý muốn của riêng ta (5 phút Lời Chúa) ?
  2. Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có thái độ cảm thông cho những nghi kỵ, khinh khi và cự tuyệt của người đời, ngay cả những sự vu khống, bắt bớ vì Đạo.  Noi gương Đức Giêsu, sẵn sàng đón nhận đau khổ vì sứ vụ:”Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu không đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao”(Mt 5,11-12).

  Biết chấp nhận những sự giới hạn của con người, và ý thức rằng: chúng ta đi đến đâu cũng có một số người sống chết với ta, một số người quyết loại bỏ ta và số còn lại  thì chẳng cần quan tâm đến chúng ta cũng như công việc của ta. Đây cũng chính là thân phận của Thầy Chí Thánh Giêsu đã trải qua trong cuộc đời của Ngài.

  1. Truyện: Tấm lòng nhân ái tuyệt vời.

Nhiều năm về trước – một  ủy viên chấp hành khá cao tuổi của một tập đoàn dầu lửa Rochefeller ở Mỹ – đã đưa ra một quyết định sai lầm làm công ty thiệt hại hơn hai triệu đôla. John D. Rochefeller lúc đó là người đứng đầu công ty.

Bedford được Rochefeller mời lên văn phòng. Bedford đến rất đúng giờ và sẵn sàng để nghe những lời chỉ trích có thể nặng nề của Rochefeller.

Khi Bedford bước vào phòng, ông vua dầu hỏa đang ngồi cạnh bàn, chăm chú viết bằng bút chì lên một tờ giấy. Bedford đứng yên lặng, không muốn phá ngang. Sau vài phút, Rochefeller ngẩng lên.

– A, anh đấy à, Bedford – Rochefeller nói rất chậm rải – Anh đã nghe tin những tổn thất của công ty chúng ta rồi chứ ?

Bedford đáp rằng tôi đã biết rồi.

– Tôi đã suy nghĩ rất nhiều về điều này, – Rochefeller nói,- Và trước khi nói chuyện với anh, tôi đã ghi ra đây vài dòng.

Sau này, Bedford kể lại  cuộc nói chuyện của ông với Rochefeller như sau: Tôi thấy rõ dòng đầu tiên của tờ giấy  mà ông chủ đã “ghi vài dòng” là “những ưu điểm cùa Bedford”. Sau đó là một loạt  những đức tính của tôi, kèm theo là miêu tả  vắn tắt rằng tôi đã giúp công ty, đưa ra quyết định đúng đắn được ba lần, giúp công ty kiếm được gấp nhiều lần số tiền  tổn thất lần này.

Bedford không bao giờ quên bài học ấy. Ông đã ghi khắc những điều đó trong lòng và đem ra áp dụng trong những ngày làm việc còn lại của ông.

Thánh Giacôbê khuyên mọi người:”Phải mau nghe, đừng vội nói, và khoan giận”(Gc 1,20-21).

 

Suy niệm 8: Chúa Giêsu dạy bài học sứ mệnh và nhường nhịn

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Hạt giống…

Một lần nữa, Gioan (và Giacôbê) biểu lộ những thói xấu rất tầm thường của con người:

  1. Tính nóng nảy: hễ gặp chuyện không vừa ý là lập tức muốn trừng phạt.
  2. Óc bè phái: phân biệt bạn thù và hở một chút là muốn tiêu diệt kẻ thù.
  3. Lạm dụng quyền hành: ỷ mình là môn đệ Chúa Giêsu nên muốn dùng lửa trời để thỏa mãn tính nóng giận cá nhân.

Thái độ Chúa Giêsu dạy hai bài học:

  1. Xác định ý hướng căn bản của sứ mệnh: Con Người đến không phải để giết chết mà để cứu sống.
  2. Nhường nhịn: làng này không tiếp mình thì sang làng khác.

B…. nẩy mầm.

  1. Không nên phản ứng theo cảm xúc tự phát, nhất là cảm xúc nóng giận. Phải phản ứng theo định hướng căn bản của sứ mệnh của mình: không nhằm giết chết mà nhằm cứu chữa.
  2. Quyền hành không phải để trừng trị kẻ không làm đúng ý mình, mà để phục vụ.
  3. Theo suy nghĩ của loài người, nhường là thiệt thòi, nhịn là nhục. Nhưng theo suy nghĩ của Chúa, nhịn nhục là biểu lộ một nhân cách rất vững vàng và một tấm lòng rất khoan dung.
  4. Một Cha sở già kia có nhiều kinh nghiệm thường khuyên các đôi tân hôn như sau: “Khi các con thấy trong nhà sắp xảy ra cãi vã, các con hãy nói với nhau: “Để sáng mai rồi hãy gây gỗ”. Sáng hôm sau các con sẽ thấy rằng việc hôm qua thật là nhỏ nhoi không đáng gây gỗ chút nào. Khi các con sắp có chuyện cãi vã, chúng con hãy ngậm hoài một ngụm nước lạnh cho đến khi ngụm nước nóng lên. Rồi cứ tiếp tục ngậm ngụm nước khác. Làm như thế các con sẽ bớt được những xô xát đổ vỡ trong gia đình. (Trích ”Phúc”)

 

Suy niệm 9: Chúa là Đấng khoan dung nhân từ

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa là Đấng khoan dung nhân từ. Dù những người Sa-ma-ri không tiếp đón Chúa, nhưng Chúa không muốn tiêu diệt họ. Chúa vẫn tha thứ và chờ đợi.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con cảm tạ Chúa là Đấng giàu lòng thương xót nhân từ. Biết bao lần con cũng sống như người Samari, đã không tiếp đón Chúa, đã từ chối Chúa, đã xúc phạm đến Chúa, nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ cho con. Chúa chấp nhận bị từ chối vì Chúa tôn trọng tự do của con. Chúa muốn đến cứu con chứ không đến để tiêu diệt con. Nếu con có phải bị phạt thì cũng đáng, vì con đã phạm đến Chúa và Chúa có quyền phạt con. Nhưng lạy Chúa, Chúa không xử với con như con đáng tội. Chúa không phải là Thiên Chúa báo oán, nhưng là Thiên Chúa tình yêu giàu lòng nhân ái. Con được sống đến ngày hôm nay là do Chúa nhân từ xót thương. Con tạ ơn Chúa.

Lạy Chúa, xin cho con nhận ra tình thương của Chúa để con sống xứng đáng với tình thương bao la ấy. Không phải vì Chúa thương con mà con lạm dụng tình thương ấy. Nhất là xin Chúa giúp con biết sống hiền lành và khiêm nhường theo gương Chúa. Mỗi lần nghe một lời nói mất lòng, một câu chướng tai, mỗi lần thấy một việc gai mắt, mỗi lần gặp những điều trái ý, mỗi lần bị xúc phạm, xin Chúa giúp con biết kiên nhẫn nhịn nhục và chấp nhận. Xin cho con biết hãm dẹp tự ái, biết kềm hãm tính nóng nảy để chịu đựng những sự buồn phiền trái ý. Con đã kinh nghiệm rằng mắng chửi, quát tháo, đánh đập đã đem lại những hậu quả không tốt. Chỉ có tình thương mới có sức cảm hoá và đem lại niềm vui cho cuộc sống. Xin Chúa ban cho con một quả tim mới, một quả tim biết yêu thương. Amen.

Ghi nhớ: “Người cương quyết lên đường đi Giêrusalem”.

 

Suy niệm 10: Quyền hành để phục vụ, không để trừng trị.

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Một lần nữa, Gioan và Giacôbê biểu lộ những thói xấu rất thông thường của con người:

Tính nóng nảy: hễ gặp chuyện không vừa ý là lập tức muốn trừng phạt.

Thích sử dụng quyền hành: ỷ mình là môn đệ Chúa Giêsu nên muốn dùng lửa trời để thỏa mãn tính nóng giận cá nhân.

  1. Theo Chúa, quyền hành không phải để trừng trị nhưng đểphục vụ. Chính vì thế mà ta phải biết kiềm chế cơn nóng giận của mình.

Ở Tây Tạng xưa kia có một người tên là Ái Địa Ba, mỗi khi tức giận tranh chấp với người khác, anh đều chạy về nhà với tốc độ rất nhanh, chạy xung quanh ngôi nhà và mảnh đất của mình ba vòng, sau đó ngồi xuống bờ ruộng thở dốc.

Ái Địa Ba làm việc vô cùng siêng năng. Nhà của anh ta càng ngày càng to, đất đai của anh ta càng ngày càng rộng lớn, nhưng cho dù nhà có to và đất có rộng bao nhiêu đi nữa, thì nhưng khi tức giận với một người nào đó, anh vẫn chạy quanh nhà và mảnh đất của mình ba vòng.

Tại sao Ái Địa Ba mỗi lần tức giận đều chạy quanh nhà và mảnh đất ba vòng? Tất cả những người quen biết anh đều cảm thấy nghi hoặc, nhưng cho dù hỏi gì, anh đều không muốn giải thích.

Cho đến một ngày nọ, Ái Địa Ba đã trở thành một ông cụ rất già, ngôi nhà và mảnh đất của ông bây giờ cũng đã quá rộng lớn, khi tức giận, ông vẫn chống gậy vất vả đi xung quanh ngôi nhà và mảnh đất của mình, sau khi hoàn thành ba vòng một cách khó khăn, mặt trời cũng đã lặn xuống núi, Ái Địa Ba một mình ngồi trên bờ ruộng thở dốc, cháu ông đến bên cạnh nài nỉ:

– Ông ơi, tuổi ông đã cao, những người hàng xóm quanh đây cũng không có ai có đất đai rộng lớn bằng ông, ông không thể giống như lúc trước được, mỗi khi tức giận đều chạy quanh mảnh đất! Ồng có thể nói cho cháu biết bí mật này không, tại sao mỗi khi tức giận ông đều chạy quanh mảnh đất ba vòng?

Trước sự nài nỉ của đứa cháu, Ái Địa Ba cuối cùng cũng phải nói ra bí mật trong lòng mình suốt nhiều năm nay:

– Khi trẻ, mỗi khi ông cãi cọ, tranh luận, tức giận một ai đó ông đều chạy ba vòng quanh mảnh đất của mình, vừa chạy vừa suy nghĩ, ngôi nhà của mình nhỏ như vậy, đất đai của mình nhỏ như vậy, mình làm gì có thời gian và tư cách để tức giận mọi người. Khi nghĩ đến đây, bao nhiều tức giận đều tan biến hết, ông dành tất cả thời gian nỗ lực làm việc.

Đứa cháu hỏi:

– Ông à, vậy bây giờ ông đã lớn tuổi rồi, cũng đã trở thành một người giàu có, tại sao ông vẫn còn chạy như thế?

Ái Địa Ba cười nói:

– Phải. Bây giờ, tuy ta đã già nhưng nhiều khi vẫn có thể tức giận, khi tức giận thì chạy ba vòng, vừa chạy vừa suy nghĩ, nhà của ta thật to, đất đai của ta thật rộng lớn, ta hà tất tính toán với người khác làm gì cho mệt? Nghĩ đến đây, bao nhiêu tức giận đều tan biến cả.

  1. Hiền lành quảng đại sẽ mang lại cho cuộc sống nhiều thành công hơn.

Nhiều năm về trước, Bedford – một ủy viên chấp hành khá cao tuổi của một tập đoàn dầu lửa Rockefeller ở Mỹ – đã đưa ra một quyết định sai lầm làm công ty thiệt hại hơn hai triệu đô la. John D. Rockefeller lúc đó là người đứng đầu công ty.

Bedford được Rockefeller mời lên văn phòng. Bedford đến rất đúng giờ và đã sẵn sàng nghe những lời chỉ trích nặng nề trong cơn nóng giận của Rockefeller.

Khi Bedford bước vào phòng, ông vua dầu lửa đang ngồi cạnh bàn, chăm chú viết bằng bút chì lên một tờ giấy. Bedford đứng yên lặng, không muốn phá ngang. Sau vài phút, Rockefeller ngẩng lên.

– A, anh đấy hả, Bedford. – Rockefeller nói rất chậm rãi. – Anh đã nghe tin những tổn thất của công ty chúng ta rồi chứ?

Bedford đáp rằng ông đã biết rồi.

– Tôi đã suy nghĩ rất nhiều về điều này. – Rockefeller nói. – Và trước khi tôi nói chuyện với anh, tôi đã ghi ra đây vài dòng.

Sau này, Bedford kể lại cuộc nói chuyện của ông với Rockefeller như sau: Tôi thấy rõ dòng đầu tiên của tờ giấy mà ông chủ đã “ghi vài dòng” là “Những ưu điểm của Bedford”. Sau đó là một loạt những đức tính của tôi, kèm theo là miêu tả vắn tắt rằng tôi đã giúp công ty, đưa ra quyết định đúng đắn được ba lần, giúp công ty kiểm được gấp nhiều lần số tiền tổn thất lần này.

Bedford không bao giờ quên bài học ấy. Ông đã ghi khắc những điều đó trong lòng và đem ra áp dụng trong những ngày làm việc còn lại của ông. (Internet)

Thánh Giacôbê khuyên mọi người: “Phải mau nghe, đừng vội nói, và khoan giận, vì khi nóng giận, con người không thực thi được đường lối công chính của Thiên Chúa (Gc 1, 20-21). Và đây là Lời Sách Châm ngôn: “Ðừng bè bạn với người hay nóng giận, chớ giao du với kẻ dễ nổi xung, kẻo con lại học đòi lối sống của chúng” (Cn 22.24-25).

 

THỨ TƯ TUẦN 26 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Lc 9, 57-62

Khi ấy, đang lúc Chúa Giêsu và các môn đệ đi đường, thì có kẻ thưa người rằng: “Dù Thầy đi đâu, tôi cũng sẽ theo Thầy”. Chúa Giêsu bảo người ấy rằng: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có nơi gối đầu”.

Người bảo một kẻ khác rằng: “Hãy theo Ta”. Người ấy thưa: “Xin cho phép tôi đi chôn cha tôi trước đã”. Nhưng Người đáp: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; phần con, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa”.

Một người khác thưa Người rằng: “Lạy Thầy, tôi sẽ theo Thầy, nhưng cho phép tôi về từ giã gia đình trước đã”. Nhưng Chúa Giêsu đáp: “Ai đã tra tay vào cày mà còn ngó lại sau lưng thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa”.

 

Suy niệm 1: Trước đã

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Theo một tôn giáo thường được gọi là theo đạo.

Theo đạo là theo một con đường.

Ðiều này đặc biệt đúng đối với Kitô giáo (x. Cv 9,2).

Làm môn đệ Ðức Kitô là theo Ngài trên con đường Ngài đi,

con đường đất quanh co trong xứ Palestine

hay con đường đầy chông gai nhọc nhằn của sứ vụ.

Ðức Kitô chẳng những dạy Ðạo, Ngài còn là Ðạo (x. Ga 14,6).

Theo đạo là theo một ngôi vị hơn là theo một giáo lý.

Sống đạo là sống như Ngài, với Ngài, cho Ngài và trong Ngài.

Đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại chuyện ba người muốn theo Chúa.

Chúng ta chẳng biết họ là ai,

cũng chẳng rõ cuối cùng họ có theo Chúa hay không,

nên mỗi người chúng ta dễ thấy mình nơi hình ảnh họ,

để rồi chúng ta phải đưa ra lời đáp trả riêng của mình.

Người thứ nhất hăng hái xin theo Ngài đi bất cứ nơi đâu.

Ðức Giêsu không giấu anh hoàn cảnh bấp bênh của mình.

Ngài sống cuộc đời phiêu bạt, không mái nhà để trú,

lúc nào cũng ở trong tư thế lên đường.

Chấp nhận theo Ngài là chịu bỏ mọi an toàn, ổn định,

là sống thân phận lữ khách trên mặt đất (x. 1Pr 2,11).

Theo Ngài là theo Ðấng có chỗ tựa đầu,

chỗ tựa đầu tiên là máng cỏ, chỗ tựa cuối là thập giá.

Cuộc sống nghèo làm Ngài tự do hơn, sẵn sàng hơn

trước những đòi hỏi bất ngờ của Cha và nhân loại.

Người thứ hai chấp nhận theo Chúa với điều kiện

cho anh về chôn cất người cha mới qua đời trước đã.

Anh muốn chu toàn bổn phận thiêng liêng của người con.

Ðức Giêsu coi trọng việc hiếu kính mẹ cha (x. Mt 15,3-9),

nhưng Ngài đòi anh dành ưu tiên cho việc loan báo Tin Mừng.

Câu trả lời của Ngài làm chúng ta bị sốc.

Loan báo Tin Mừng ư? Cần gì phải vội vàng đến thế!

Dầu sao cái sốc giúp ta nhận ra mình vẫn quen thờ ơ

trước một bổn phận thiêng liêng và hết sức cấp bách.

Người chết nằm xuống thật đáng kính trọng.

nhưng có bao người sống đang cần phục vụ khẩn trương.

Người thứ ba xin về từ giã gia đình trước đã.

Ðức Giêsu đòi anh dứt khoát thẳng tiến như người cầm cày,

không quay lại với những kỷ niệm quá khứ,

cũng không bị cản trở bởi những ràng buộc gia đình,

để tận tâm tận lực lo cho Nước Thiên Chúa.

Trong đời sống, nhiều lúc ta phải chọn lựa.

Chọn lựa là chấp nhận hy sinh, bỏ một trong hai.

Ðức Giêsu không dạy ta sống vô cảm hay bất hiếu…

Ngài dạy ta can đảm tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã.

Có bao nhiêu cái trước đã chi phối đời ta?

Ðâu là lựa chọn ưu tiên một?

Chúng ta cần sắp xếp lại thứ tự các ưu tiên cho đúng.

Nếu Ðức Giêsu gặp tôi hôm nay và mời tôi theo Ngài,

tôi có xin phép Ngài để làm cái gì đó trước đã không?

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

giàu sang, danh vọng, khoái lạc

là những điều hấp dẫn chúng con.

Chúng trói buộc chúng con

và không cho chúng con tự do ngước lên cao

để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.

Xin giải phóng chúng con

khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,

nhờ cảm nghiệm được phần nào

sự phong phú của kho tàng trên trời.

Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi

bán tất cả những gì chúng con có,

để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.

Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng

trước những lời mời gọi của Chúa,

không bao giờ ngoảnh mặt

để tránh cái nhìn yêu thương

Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.

 

Suy niệm 2: Chúa Kitô là tất cả

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Trong đời thường có những giá trị cao quí. Như lòng yêu mến tôn kính ông bà tổ tiên. Lòng gắn bó với quê cha đất tổ. Đó là những giá trị văn hoá dân tộc rất đáng khích lệ. Những người có lý trí đều trân trọng những giá trị này. Chính vì thế, khi thấy Nơ-khê-mi-a buồn phiền vì phần mộ tổ tiên bị hoang phế. Quê hương bị điêu tàn. Vua Ác-tắc-sát-ta, một vị minh quân, đã cho phép ông trở về tái thiết quê hương và phần mộ tổ tiên. Thực ra Nơ-khê-mi-a mượn cớ xây mộ tổ tiên để tái thiết Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Và ông thờ kính Thiên Chúa hơn cả ông bà tổ tiên. Nên trước khi cầu xin vua trần gian, ông đã “cầu xin Thiên Chúa các tầng trời”. Và ông biết “Vua ban cho tôi như thế, vì bàn tay nhân lành của Thiên Chúa tôi che chở tôi” (năm lẻ).

Mọi quyền năng trên đời thuộc về Chúa. Đó là điều các thánh tổ phụ hằng tin tưởng. Đặc biệt thánh Gióp, bị thử thách, vẫn tin tưởng vào Thiên Chúa. Vì Người nắm giữ vận mạng phàm nhân và vũ trụ: “Người chuyển núi dời non mà chúng không hay… Người ra lệnh là mặt trời không mọc…Duy mình Người trải rộng các tầng trời, đạp lên trên ba đào biển cả”. Chính vì thế thái độ duy nhất đúng là vâng phục và xin Chúa xót thương: “Chẳng lẽ tôi lại tranh cãi, hay tìm lý để chống đối Người sao? Cho dù tôi có lý, tôi cũng không tranh cãi, nhưng sẽ xin Đấng xét xử tôi thương xót” (năm chẵn).

Đến thời Chúa Giê-su, chân lý này được minh nhiên công bố. Chúa Ki-tô là tất cả. Nhưng để đạt tới Người ta phải siêu thoát khỏi những dính bén trần tục. Người là quê hương. Đi theo Người là đi về quê hương đích thực. Người là gia đình đích thực. Vì nơi Người có Thiên Chúa là Cha của mọi người cha. Và là gia đình rộng lớn. Vì bất cứ ai nghe và giữ Lời Chúa đều là anh em với nhau. Người là tình yêu. Mọi tình cảm trên đời đều phát nguồn từ nơi Người.

Người là tất cả. Nên khi ta từ bỏ tất cả trần gian vì Người, ta lại được lại tất cả. Ở trần gian Người không có chỗ tựa đầu. Nhưng khi trần gian tan biến hết thì Người vẫn tồn tại và Người có cả vũ trụ là nhà. Ta bỏ tình cảm gia đình vì Chúa. Nhưng trong Chúa tình gia đình lại càng sâu xa bền chặt hơn. Vì chính Chúa là tình yêu sẽ làm cho tình yêu tầm thường của ta thành vĩnh cửu.

 

Suy niệm 3: Ðiều kiện theo Chúa

Một linh sư Ấn đang ngồi tịnh niệm bên bờ sông, có một người đàn ông nọ muốn xin làm đệ tử. Ông rón rén đến bên vị linh sư và đặt dưới chân vị tu hành hai viên ngọc quí nhất như của lễ ra mắt. Vị linh sư mở mắt ra, nhưng ông không để lộ một chút thích thú nào; không cần nhìn kỹ vào món quà quí giá ấy, vị linh sư cầm lấy một viên và ném xuống dòng sông.

Tiếc của, người đàn ông giầu có liền nhảy xuống sông để cố tìm lại viên ngọc, nhưng mất một ngày mà ông không tài nào tìm lại được. Chiều đến, mệt mỏi, chán nản, người đàn ông đến vị linh sư xin chỉ rõ nơi đã ném viên ngọc quí. Vị linh sư cầm viên ngọc còn lại ném xuống dòng sông và nói: “Ta đã ném vào chỗ đó, ngươi hãy lặn xuống mà tìm lại”.

Chúa Giêsu cũng đòi hỏi môn đệ Ngài một thái độ từ bỏ và dứt khoát như thế. Thánh Luca trình bày cuộc đời Chúa Giêsu là một hành trình lên Giêrusalem mà đích điểm là cái chết trên thập giá. Trong hành trình ấy, Chúa Giêsu đã kêu gọi một số người theo Ngài. Ðiều kiện đầu tiên là phải biết kiên nhẫn như đã được đề cập đến trong bài Tin Mừng hôm qua.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca ghi tiếp những điều kiện Chúa Giêsu đòi hỏi nơi các môn đệ. Một trong những điều kiện đó là chia sẻ cuộc sống nay đây mai đó với Ngài. Không nhà không cửa, sống nhờ vào sự bố thí của người khác, sống không có lấy một tiện nghi tối thiểu, Chúa Giêsu muốn những kẻ theo Ngài chuẩn bị đương đầu với số phận bi thảm mà Chính Ngài phải trải qua. Cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài trên thập giá là một sự lột bỏ trọn vẹn đối với tất cả mọi an toàn trong cuộc sống.

Một điều kiện nữa Chúa Giêsu đòi nơi những kẻ theo Ngài, đó là dấn thân rao giảng Tin Mừng Nước Chúa. Một cuộc sống từ bỏ sẽ không có giá trị, nếu đó không là dấu chỉ của một cuộc đầu tư trọn vẹn vì Nước Trời. Cuối cùng, Chúa Giêsu đòi hỏi môn đệ phải cắt đứt ngay cả những liên hệ ruột thịt họ hàng. Ngài là tất cả đối với người môn đệ đến độ họ phải sẵn sàng hy sinh tất cả vì Ngài, Ngài phải được đặt vào trọng tâm cuộc sống của người môn đệ.

Môn đệ không phải là tước hiệu dành riêng cho một số người ưu tuyển. Mỗi Kitô hữu là một môn đệ của Chúa Kitô, và là môn đệ Chúa Kitô thiết yếu đi theo Ngài. Chúa Kitô cách đây 2,000 năm cũng là Chúa Kitô ngày nay mà mỗi Kitô hữu đang đi theo. Ngài đồng hành với họ và cũng đòi hỏi những điều kiện mà Ngài đề ra cho các môn đệ tiên khởi của Ngài. Cuộc sống có cách biệt, hoàn cảnh có xoay chuyển, sinh hoạt có thay đổi, nhưng những điều kiện ấy không hề đổi thay. Tựu trung, người môn đệ ngày nay phải đồng hành với Chúa Kitô để tiếp tục là dấu chỉ, là tín hiệu của Nước Trời cho mọi người.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy niệm 4: Không được phép ngoái lại

Đức Giêsu bảo: “Ai đã tra tay vào cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa” (Lc. 9, 62)

Hôm nay Thánh Luca trình bày ba kiểu ơn gọi khác nhau.

Một người tự ý xin theo Đức Giêsu, anh nói với Người một cách tự tin, không mặc cảm sợ sệt nhút nhát: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu tôi cũng xin đi theo”. Anh tin tưởng vững chắc, có khả năng hoàn toàn. Sự nhiệt tâm của anh rất chân thành, đầy thiện chí, hiến thân vô điều kiện. Đức Kitô dường như không cảm động gì trước sự hiến thân tự phát này. Người trả lời một cách lạnh nhạt bất cần, đáng phải suy nghĩ: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng con người không có chỗ tựa đầu”. Câu đó phải chăng có nghĩa là: “Anh chàng bé bỏng của tôi ơi, anh chủ trương có thể theo tôi, được lắm! nhưng đừng quên rằng anh phải biết đón nhận: sự bất ổn hoàn toàn, mất mọi tiện nghi, chỉ có nghèo khó và còn hơn nữa đấy. Nghĩ kỹ đi trước khi tra tay vào cày, trước khi anh đáp tàu”. Thánh Luca không làm nổi bật cái con người có lòng quảng đại tự biên, tự diễn ấy tự hiến theo Thầy.

Một người khác được chính Đức Kitô kêu gọi trước: “Anh hãy theo Tôi”. Nhưng lần này, chính kẻ được mời gọi lại do dự, anh thưa với Ngài: “Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã”. Đức Giêsu bảo: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết”. Lời đáp có vẻ cứng cỏi, khó hiểu cho những nơi coi việc an táng hiếu thảo là một bổn phận thánh. Có phải Đức Kitô thích đòi hỏi có vẻ thái quá như vậy không? hoàn toàn không! Người muốn giải thích cho anh biết, hãy tự mình giải thoát mình khi theo Người. Theo Người chính là chết đối với đời sống tự nhiên này để mở ra cho mình một đời sống khác, đời sống gia nhập vào một thế giới hoàn toàn khác với những giá trị khác hẳn giá trị đời này. Loan báo Tin Mừng của một thế giới thuộc triều đại Thiên Chúa, đó chính là điều căn bản, tuyệt đối. Điều đó giả thiết phải từ bỏ tất cả mọi sự thế gian.

Ứng viên thứ ba cũng thế, anh vui mừng đến xin làm môn đệ Chúa, nhưng trước tiên xin về từ giã gia đình rồi đến theo Chúa. Với Đức Kitô: “Ai đã tra tay cấm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích với nước Thiên Chúa”. Nhưng phải có tinh thần từ bỏ mới biết sống theo Đức Giêsu. Người không nói không được yêu những thân nhân mình, nhưng hy sinh vì Ngài là chứng tỏ đã yêu mến họ đầy đủ rồi, đó là yêu trong đức tin.

GF

 

Suy niệm 5: Từ bỏ mọi sự để theo Chúa trọn vẹn

Xem thêm thứ Hai tuần 13 TN

“Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9, 58), đây chính là thân phận và tinh thần của Đức Giêsu và cũng là thái độ của người môn đệ cần có. Lần giở lại lịch sử cứu độ, chúng ta thấy khi Thiên Chúa muốn chọn và gọi ai để ra đi thi hành sứ vụ, hẳn Người đều muốn kẻ được chọn và gọi phải có thái độ dứt khoát và chấp nhận thiệt thòi, khổ đau.

Khởi đi từ tổ phụ Abraham: Thiên Chúa gọi ông và truyền cho ông phải rời bỏ xứ sở để lên đường đến một nơi Người sẽ chỉ cho. Rồi Người chọn dân riêng là Israel, Thiên Chúa cũng truyền cho họ ngay lập tức phải rời bỏ Aicập và lên đường tiến về Đất Hứa. Tiếp theo là các môn đệ, Đức Giêsu luôn mời gọi các ông lập tức lên đường và để lại mọi sự sau lưng.

Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật việc hai thanh niên xin đi theo Đức Giêsu, Ngài cũng mời gọi họ phải từ bỏ tất cả, kể cả những cái gắn liền với cuộc sống của họ như công việc hay tình cảm: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết, phần ngươi hãy theo Ta… ai tra tay cầm cày mà còn ngoảnh lại nhìn đằng sau thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa” (x. Lc 9, 59-62).

Mỗi người chúng ta, ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, Đức Giêsu cũng mời gọi chúng ta từ bỏ những gì không phù hợp với tư cách làm con Chúa và sứ mạng được trao. Thật vậy, nếu không từ bỏ, chúng ta sẽ bị vướng víu vào những điều phụ thuộc và quên đi công việc chính yếu. Đồng thời, theo Chúa mà còn quá nhiều lỉnh kỉnh thì hẳn khó có thể chu toàn và dễ rơi vào tình trạng dở dang, chẳng khác gì kẻ “bắt cá hai tay”.

Như vậy, chúng ta chỉ có thể an vui và hạnh phúc khi “là” môn đệ của Chúa thay vì “làm” môn đệ.

“Là môn đệ”, chúng ta trở nên giống Thầy. “Là môn đệ”, chúng ta từ bỏ như Thầy. “Là môn đệ”, chúng ta sống chết như Thầy… Nhưng “làm môn đệ”, chúng ta sẽ dễ bị rơi vào tình trạng thích thì làm, không thích thì thôi. Thuận thì dấn thân, khó thì lừng khừng. “Làm môn đệ”, chúng ta dễ bị có cảm tưởng như một công việc được hợp đồng, nên có lợi thì làm mà không có lợi thì hủy…, không khác gì một nghề kinh doanh thuần túy.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: một khi đã đi theo, là môn đệ của Chúa thì phải từ bỏ mọi tham vọng, mọi ràng buộc, nhất là về của cải vật chất, danh vọng, địa vị và thỏa mãn cá nhân để tự do hiến thân mình cho Chúa, trọn vẹn thuộc về Chúa để làm công việc cho Chúa. Không có chuyện lừng khừng, do dự, tính toán. Sống phó thác và tin tưởng nơi Chúa trọn vẹn. Chấp nhận sự bấp bênh do con người gây nên cho mình. Ngay cả mối liên hệ tình cảm là gia đình, nếu vì đó mà ảnh hưởng và có nguy cơ làm cho chúng ta xa Chúa, thì buộc phải khước từ.

Có thế, chúng ta mới coi mọi người là anh chị em của mình, và mình phải có trách nhiệm lo lắng, giúp đỡ họ. Nếu không, chúng ta sẽ bị cám dỗ là: chuyện đó có người khác lo, không phải chuyện của ta; hay chỉ muốn hay đáp ứng cho một số người mà ta ưa thích, số còn lại, chúng ta vô cảm vì họ không phải thuộc phe ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sẵn sàng từ bỏ những quyến luyến của tình cảm, nếu điều này làm cho chúng con xa Chúa và phần rỗi của mình. Xin cho chúng con biết can đảm để tiếp bước theo Chúa trên con đường hoàn thiện. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy niệm 6: Theo Chúa, được Chúa ban cho chính Chúa

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Người môn đệ đi theo Chúa không có gì để bảo đảm an toàn cho cuộc sống trần thế, và không được để cho mình bận tâm vì bất cứ lý do gì.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, nhiều khi con nghĩ rằng theo đạo công giáo thì con sẽ được cái gì đó. Có thể là theo đạo sẽ nên giàu có hơn, sẽ đỡ túng cực hơn, sẽ được Chúa phù hộ làm ăn may mắn hơn… Trong thực tế, có khi con không còn tin vào Chúa nữa, bởi vì khi con xin một điều gì đó mà mãi không thấy Chúa ban; con cầu xin cho qua khỏi các khó khăn, ấy mà các khó khăn cứ dồn dập xảy đến, và con đã thất vọng.

Lời Chúa hôm nay muốn thay đổi suy nghĩ của con. Khi con theo Chúa, khi con tin vào Chúa, Chúa không hứa ban cho con một điều gì để bảo đảm an toàn cho cuộc sống ở đời này, bởi vì Chúa cũng không có một hòn đá để gối đầu. Vâng, con biết rằng con theo Chúa, con giữ Đạo, thì con không được Chúa ban cho một cái gì, nhưng con được Chúa ban cho một người, đó là chính Chúa. Chúa sẽ là người hiện diện trong cuộc sống con, chia sẻ cuộc sống của con. Chúa sẽ chia sẻ các khó khăn của con, của gia đình con. Chúa sống với con trong mọi tình huống vui, buồn, sướng, khổ. Cuộc sống của con là cuộc sống của Chúa, sự sống tình yêu Chúa đi vào cuộc sống của con.

Chúa còn muốn con đón nhận cuộc sống của Chúa, chia sẻ những thao thức của Chúa, thực hiện việc làm của Chúa một cách quảng đại.

Lạy Chúa, đời con có Chúa, đó là bảo đảm an toàn nhất. Xin giúp con hoàn toàn tin tưởng phó thác để bước theo Chúa và làm công việc của Chúa. Xin đừng để những bận tâm lo lắng công việc ở đời cản trở bước chân và khép kín cõi lòng con. Amen.

Ghi nhớ: “Dù Thầy đi đâu, tôi cũng theo Thầy”.

 

Suy niệm 7: Theo Chúa Giêsu

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Theo truyện thần thoại của Hy Lạp, Hercule là một vị thần, một lần đứng giữa ngã ba đường và tự hỏi xem mình nên đi về đâu. Có hai người chỉ cho ông.

Một người nói: “Hãy theo tôi, đây là con đường thoải mái, hạnh phúc và lối đi dễ dàng”.

Người thứ hai nói: “Đây là con đường cố gắng, nỗ lực, khó khăn. Tuy là đường khó khăn, nhưng đưa tới hạnh phúc”.

Hercule đã chọn con đường khó khăn và quả thực ông khôn ngoan, ông đã thành công.

Suy niệm

Tin Mừng ghi nhận cuộc đối thoại ngắn giữa Chúa Giêsu và người muốn theo Ngài. Theo Chúa không phải là cuộc tháp tùng, du ngoạn nhưng là chia sẻ vào cuộc sống và sứ vụ của Chúa Giêsu. Cho nên người muốn theo Chúa, trả lời và sống một cách cương quyết triệt để. Đức Kitô đã đề nghị người muốn theo Ngài những điều kiện mạnh mẽ cương quyết xem ra có vẻ phi nhân: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết, còn ngươi hãy đi và loan báo vương quốc của Thiên Chúa” (Lc 9,59). Không phải là Chúa muốn chúng ta không còn sống nhân nghĩa, cũng không phải muốn tâm hồn người theo Chúa trở nên băng giá trước nhân loại. Nhưng cách nói của Đức Kitô biểu lộ một tính cương quyết theo Chúa, vượt lên trên mọi tình cảm nhân văn và ưu tiên hàng đầu trong mọi nấc thang giá trị của hành động.

Ngài muốn ai theo Ngài, phải dùng một quyết định mạnh và quyết tâm theo đến cùng, không màng đến những hoàn cảnh hào nhoáng xung quanh mà chỉ dấn thân cho Tin Mừng cho anh em. Trên bước đường theo Ngài, có những điều thiếu tiện nghi, có những xung đột về tinh thần, có những khó khăn về vật chất như chính Chúa đã nói:  “Cáo có hang, chim trời có tổ nhưng Con Người không có nơi gối đầu” (Lc 9, 58). Chúng ta nhớ đến điều kiện triệt để theo Chúa khi chúng ta gặp và đối mặt với những mệt mỏi về thể lý và tinh thần. Những mệt mỏi đó như là những hạt giống được gieo trồng thầm lặng để Tin Mừng được trổ bông.

Thật thế, là môn đệ Chúa, chúng ta tự gắn mình vào cuộc đời, vào sứ mệnh của Ngài. Cuộc đời chúng ta sẽ phải dứt khoát với những đam mê phù hoa, những tương quan mật thiết, yêu thương nhất của chúng ta. Sự đòi buộc này giúp chúng ta có được Ðức Giêsu, Ðấng tuyệt đối trên đường sứ vụ. Nhờ Ngài, chúng ta mới được hạnh phúc trong nước Trời.

Ý lực sống:

Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mọi ngày mà theo Thầy” (Lc 9,23).

 

Suy niệm 8: Những điều kiện để theo Chúa

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Lúc này danh tiếng Đức Giêsu đã lừng lẫy khắp nơi về những lời giảng và phép lạ Ngài làm, vì thế có nhiều người đến xin làm môn đệ Chúa. Trong tiểu đoạn này gồm ba chuyện nhỏ về ba người muốn đi làm môn đệ Chúa Giêsu. Điều quan trọng trong những chuyện này không phải là những nhân vật (vì không chi tiết nào mô tả các nhân vật ra sao), mà là giáo huấn của Đức Giêsu về những điều kiện để làm môn đệ Ngài.
  2. Chúng ta hãy nghe Linh mục Carôlô Hồ Bạc Xái cắt nghĩa cho chúng ta ba câu chuyện này.

Người thứ nhất muốn theo Chúa Giêsu đến bất cứ nơi nào. Trường hợp này thường xẩy ra trong xã hội thời đó: có những người vì ngưỡng mộ  một rabbi nào đó nên bỏ gia đình và xin theo ở với rabbi đó trong một thời gian vài ba năm (xem Ga 1,37-49).

– Câu trả lời của Chúa Giêsu cho thấy Ngài không giống như các rabbi: cuộc sống của Ngài là cuộc sống lang thang rầy đây mai đó, vì Ngài là một con người bị từ chối (x. Chuyện trên, một làng Samaria không tiếp rước Ngài). Vậy điều kiện thứ nhất để làm môn đệ Chúa Giêsu là phải giống Ngài ở chỗ chấp nhận một cuộc sống vật chất không ổn định,  có thể bị từ chối và có thể bị giết chết nữa.

  1. Người thứ hai: không phải cha người này vừa chết, nhưng ông ta vẫn còn sống. Ý người này là  tuy cũng muốn theo Chúa, nhưng xin một thời hạn chờ cho tới khi cha anh chết và được chôn cất xong xuôi rồi anh mới theo Ngài. Trong đầu anh đã có sẵn một ưu tiên: ưu tiên cho bổn phận hiếu thảo.

– “Mặc cho kẻ chết chôn người chết”: tiếng Pháp rõ nghĩa hơn “mặc cho les mortels chôn les morts”. Điều kiện thứ hai là phải dành ưu tiên cho bổn phận  đối với Nước Thiên Chúa, trên cả những bổn phận đối với thân nhân. Không phải Chúa Giêsu coi nhẹ những bổn phận đối với gia đình (x.Mt 15,3-9) nhưng Ngài dạy rằng trong trường hợp  có xung đột giữa hai bên thì môn đệ phải coi trọng Nước Thiên Chúa hơn.

  1. Lời xin của người thứ ba cũng giống lời xin của Êlisê (1V19,19-21).  Lời đáp của Chúa Giêsu cũng khiến ta nhớ đó là Êlisê đang kéo cầy “đầu ngoái lại sau”: còn luyến tiếc quá khứ. Như vậy, điều kiện thứ ba là phải dứt khoát với quá khứ (của cải, địa vị…), hơn nữa phải có một con tim không san sẻ để chỉ còn lo cho Nước Thiên Chúa mà thôi.

Theo văn mạch: Chúa Giêsu sắp đi vào giai đoạn quyết liệt là chịu chết, sống lại và lên trời. Ngài muốn các môn đệ mình phải đi cùng một hành trình như Ngài. Thế nhưng người ta có thể từ chối lời mời gọi của Ngài bằng nhiều cách: hoặc vì những thành kiến tôn giáo như dân làng Samaria; hoặc vì quá cậy dựa vào những bảo đảm vật chất, những quyến luyến gia đình và quyến luyến quá khứ (Lm Carôlô, Hạt giống nảy mầm, tuần 26, tr 213-214).

  1. Một linh sư Ấn độ đang ngồi tịnh niệm bên bờ sông. Có một người đàn ông nọ muốn xin làm đệ tử. Ông rón rén đến bên vị linh sư và đặt dưới chân vị tu hành hai viên ngọc quí như của lễ ra mắt. Vị linh sư cầm lấy một viên và ném xuống sông. Tiếc của, người đàn ông giầu có liền nhảy xuống sông để cố tìm viên ngọc. Nhưng mất một ngày mà không tài nào tìm lại được. Chiều đến,  người đàn ông đến xin vị linh sư chỉ rõ nơi ông đã ném viên ngọc quý. Vị linh sư cầm viên ngọc còn lại ném luôn xuống sông và nói:”Ta đã ném vào chỗ đó. Ngươi hãy lặn xuống mà tìm”.

Chúa Giêsu cùng đòi hỏi môn đệ Ngài một thái độ  từ bỏ dứt khoát như thế .

  1. Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: một khi đã đi theo. Là môn đệ của Chúa thì phải từ bỏ mọi tham vọng, mọi ràng buộc, nhất là về của cải vật chất, danh vọng, địa vị và thỏa mãn cá nhân để tự do hiến thân mình cho Chúa, trọn vẹn thuộc về Chúa để làm công việc cho Chúa. Không có chuyện lừng khừng, do dự, tính toán. Sống phó thác và tin tưởng nơi Chúa trọn vẹn. Chấp nhận sự bấp bênh do con người gây nên cho mình. Ngay cả mối liên hệ tình cảm là gia đình, nếu vì đó mà ảnh hưởng và có nguy cơ làm cho chúng ta xa Chúa, thì buộc phải khước từ (Ngọc Biển).
  2. Truyện: Phải dứt khoát từ bỏ.

Một nhà buôn ở Francfurt muốn tìm một em bé trai để lo việc giao hàng. Có một người anh trưởng trong một gia đình gồm 07 người anh em 16 tuổi đến xin việc. Nhân viên tiếp tân ở phòng khách gật đầu nói: ”Cậu không có nhiều may mắn lắm đâu. Trước cậu đã có 52 người đến xin việc rồi. Tuy nhiên, cậu có thể thử thời vận”.

Nhân viên này dẫn cậu vào phòng ông chủ. Ông chủ tiếp chuyện thân mật với ứng viên, đặt nhiều câu hỏi với chàng trai.

– Mời cậu một điếu.

– Cám ơn ông, nhưng cháu không hút thuốc.

– Thế nào? Cậu không hút thuốc ư? Nhưng anh bạn của tôi ơi, để làm một người lớn, cần phải biết hút thuốc. Đừng rồ dại nữa!

– Không. Cháu cám ơn bác. Cho đến nay cháu vẫn không hút thuốc và cháu cũng không muốn bắt đầu.

Thế rồi ông chủ chìa tay ra cho anh.

– Tôi nhận cậu vào làm việc. Cậu là người thứ 53 đến gặp tôi xin việc, nhưng cậu lại là người đầu tiên không nhận điếu thuốc. Cậu thích hợp với tôi.

Và ném điếu thuốc đi, ông nói thêm: – Tôi cũng vậy, tôi không hút thuốc.

Sau đó, chàng trai được biết rằng người làm công trước đã bị sa thải vì anh ta hút thuốc quá nhiều và đã thâm hụt thụt quỹ để mua thuốc.

Vâng ! Điếu thuốc không phải là nguyên nhân nhưng làm chủ được bản thân mới chính là điểm son của chàng trai. Ông chủ đã phải nể phục trước sự can đảm chống trả với cơn cám dỗ và thái độ dứt khoát của anh.

 

Suy niệm 9: Theo Chúa — hy sinh và dứt khoát

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Đọc trong Tin Mừng chúng ta thấy, Chúa đã kêu gọi rất nhiều người. Khi gọi những môn đệ đầu tiên, Chúa nói: “Hãy theo tôi” (Mt 4,19). Đứng trước bàn thu thuế của Lêvi-Matthêô Chúa cũng bảo: “Hãy theo tôi” (Mt 9,9).Hôm nay với một người Chúa cũng nói: “Hãy theo tôi” (Lc 9,59).

Được Chúa gọi, đó là một hồng ơn vô cùng cao quí. Vấn đề là con người có đáp lại lời mời gọi của Chúa hay không. Nếu biết đáp trả, cuộc sống chắc chắn sẽ thành công. Bằng không như cuộc đời của chàng thanh niên giàu có thì…thật là đáng tiếc.

Hai vợ chồng nhà báo người Hà Lan tên là Val Der Meer de Walcheren đã cùng xin chịu Bí tích Thánh tẩy vào năm 1911 để gia nhập Giáo Hội Công giáo. Sau đó, ông bà đã lần lượt khuyên các con cùng theo đạo, rồi lại cùng lần lượt theo đuổi ơn gọi Tận Hiến của các dòng tu. Người con trai lớn sau này trở thành một linh mục dòng Biển đức Nam (Bénédictin), người con gái kế làm nữ tu trong đan viện Biển đức nữ (Bénédictine).

Năm 1933, nhờ lòng khao khát tuyệt đối và ý chí tận hiến cho Chúa, Tòa Thánh đã chấp thuận đơn xin của hai ông bà để được phép chia tay nhau trong lòng mến đích thật. Ông xin được vào dòng Biển đức nam, nơi người con trai linh mục vừa sớm lìa đời, còn bà thì xin vào dòng Biển đức nữ chung với người con gái.

Trong thời kỳ tập tu, Bề Trên cả hai dòng chỉ định cho ông bà phải tiếp tục thường xuyên thư từ cho nhau. Sau hai năm, cả hai ông bà vẫn đầy thiện chí, sẵn sàng hy sinh dâng mình cho Chúa. Thế nhưng, Bề Trên của hai bên đều nhận thấy mối duyên tình của ông bà còn quá khăng khít, nên đã khuyên cả hai trở về với đời sống gia đình. Ông bà vâng lời trở về, tiếp tục sống hạnh phúc bên nhau, chan hòa lòng yêu thương bác ái đối với tha nhân, nhất là với những người nghèo khổ.

Đến năm 1954 thì bà Val Der Meer de Walcheren qua đời. Nối lại ý hướng từ 20 năm về trước, cụ ông 74 tuổi đã xin trở lại tu viện. Và vào ngày 22.12.1956, cụ được thụ phong linh mục tại nhà nguyện tu viện Đức Mẹ nơi người con gái của cụ vẫn đang sống cuộc đời đan tu gương mẫu đã hơn 40 năm qua.

  1. Nhưng để được theo Chúa thì thái độ của con người phải như thế nào ? – Thưa là phải hy sinh và dứt khoát. “Con chim có tổ, con chồn có hang nhưng Con Người không có nơi gối đầu” (Lc 9,58)– Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết” (Lc 9,60)– “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.” (Lc 9,62)

Vào một ngày đẹp trời, ở một thôn nhỏ trên cao nguyên hẻo lánh, bỗng xuất hiện một chiếc xe con bóng nhoáng. Đây là chuyện hiếm thấy đối với một thôn nhỏ chưa từng nghe thấy tiếng động cơ ôtô. Hầu hết những người dân trong thôn đều chạy ra khỏi nhà, xúm quanh chiếc xe để xem có chuyện gì lạ xảy ra.

Khi cánh cửa xe được mở ra, có vài người bước xuống. Một người đàn ông trung niên đầu cắt trọc, mặc một bộ quần áo rằn ri cất tiếng hỏi:

– Có ai muốn đóng phim không ? Ai muốn đóng phim thì lại đây đăng ký.

Tuy mỗi người dân trong thôn đều đã xem phim, nhưng đóng phim như thế nào thì họ biết rất ít. Tại sao lại đến nơi hẻo lánh này quay phim chứ ? Đóng phim là đóng như thế nào ? Rất nhiều người đều hỏi những người xung quanh hoặc tự lẩm bẩm một mình.

Người đàn ông trung niên ấy hỏi lại mấy lần, nhưng không có ai lên tiếng. Lúc đó, một cô bé khoảng mười ba tuổi bước lên trước một bước và nói: – Cháu muốn đóng phim.

Đó là một cô gái bình thường với đôi mắt nhỏ, một mí, cặp má đỏ au nhưng ánh mắt và gương mặt của cô toát lên vẻ hiền hậu và quả cảm của những đứa trẻ vùng sơn cước.

Người đàn ông trung niên hỏi cô: – Cháu có biết hát không ?

Cô gái trả lời gãy gọn, dứt khoát: – Có biết.

– Vậy cháu hãy hát một bài cho chúng tôi nghe đi!

– Hát thì hát ? – Cô bé không hề tỏ ra sợ sệt, cô vừa hát vừa nhảy – Đất nước chúng ta là một vườn hoa, những bông hoa trong vườn hoa thật đẹp.

Những người dân trong thôn không nhịn được cười, bởi vì giọng hát của cô thật khó nghe, không những sai nhạc, mà đến giữa chừng cô còn quên mất lời bài hát.

Nào ngờ, người đàn ông trung niên giơ tay chỉ vào cô: – Được rồi, chúng tôi chọn cháu.

Người đàn ông trung niên ấy chính là nhà đạo diễn điện ảnh lừng danh Trương Nghệ Mưu, còn cô gái dũng cảm bước về phía trước một bước ấy là Ngụy Mẫn Chi, nữ diễn viên chính trong bộ phim “Một người cũng không thể thiếu”.

Tuy Ngụy Mẫn Chi chỉ bước lên phía trước một bước, nhưng bước chân ấy đã thay đổi cuộc đời của cô.

J.J Rousseau nói: “Lòng dũng cảm là một chiếc thang, những đức tính tốt đẹp khác đều dựa vào đó mà leo lên cao.”

 

Suy niệm 11: Điều kiện để làm môn đệ Chúa

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Hạt giống…

Tiểu đoạn này gồm ba chuyện nhỏ về 3 người muốn đi theo làm môn đệ Chúa Giêsu. Điều quan trọng trong những chuyện này không phải là những nhân vật (vì không chi tiết nào mô tả các nhân vật ra sao), mà là giáo huấn của Chúa Giêsu về những điều kiện để làm môn đệ Ngài.

  1. Người thứ nhất muốn đi theo Chúa Giêsu đến bất cứ nơi nào. Trường hợp này thường xảy ra trong xã hội thời đó: có những người vì ngưỡng mộ một rabbi nào đó nên bỏ gia đình và xin theo ở với rabbi đó trong một thời gian vài ba năm (xem Ga 1,37-49)

  – Câu trả lời của Chúa Giêsu cho thấy Ngài không giống như các rabbi: cuộc sống của Ngài là cuộc sống lang thang rày đây mai đó, vì Ngài là một con người bị từ chối (x. chuyện trên, một làng Samaria không tiếp rước Ngài). Vậy điều kiện thứ nhất để làm môn đệ Chúa Giêsu là phải giống Ngài ở chỗ chấp nhận một cuộc sống vật chất không ổn định, có thể bị từ chối và còn có thể bị giết chết nữa.

  1. Người thứ hai: không phải cha người này vừa chết, nhưng ông ta vẫn còn sống. Ý người này là tuy cũng muốn theo Chúa Giêsu, nhưng xin một thời hạn chờ cho tới khi cha anh chết và được chôn cất xong xuôi rồi anh mới theo Ngài. Trong đầu anh đã có sẵn một ưu tiên: ưu tiên cho bổn phận hiếu thảo.

  – “Mặc cho kẻ chết chôn người chết”: tiếng Pháp rõ nghĩa hơn “mặc cho les mortels chôn les morts”. Điều kiện thứ hai là phải dành ưu tiên cho bổn phận đối với Nước Thiên Chúa, trên cả những bổn phận đối với thân nhân. Không phải Chúa Giêsu coi nhẹ những bổn phận đối với gia đình (x. Mt 15,3-9) nhưng Ngài dạy rằng trong trường hợp có xung đột giữa hai bên thì môn đệ phải coi trọng Nước Thiên Chúa hơn.

  1. Lời xin của người thứ ba cũng giống lời xin của Êlisê (1.V 19,19-21). Lời đáp của Chúa Giêsu cũng khiến ta nhớ lúc đó Êlisê đang kéo cày “đầu ngoái lại sau”: còn luyến tiếc quá khứ. Như vậy điều kiện thứ ba là phải dứt khoát với quá khứ (của cải, địa vị vv…), hơn nữa phải có một con tim không san sẻ để chỉ còn lo cho Nước Thiên Chúa mà thôi.

Theo văn mạch: Chúa Giêsu sắp đi vào giai đoạn quyết liệt là chịu chết, sống lại và lên trời. Ngài muốn các môn đệ mình cũng phải đi cùng một hành trình như Ngài. Thế nhưng người ta có thể từ chối lời mời gọi của Ngài bằng nhiều cách: hoặc vì những thành kiến tôn giáo như dân làng Samaria; hoặc vì quá cậy dựa vào những bảo đảm vật chất, những quyến luyến gia đình và quyến luyến quá khứ.

B…. nẩy mầm.

  1. Nhiều lần trong lúc sốt sắng, tôi cũng thưa với Chúa “Dù Thầy đi đâu, tôi cũng sẽ theo Thầy”. Thế nhưng trên thực tế con cũng như các nhân vật xưa đã không thực sự theo Chúa vì những thành kiến (như dân làng Samaria); hoặc vì quá cậy dựa vào những bảo đảm vật chất, những quyến luyến gia đình và quyến luyến quá khứ (3 người được kể trong Tin Mừng hôm nay).
  2. “Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ gối đầu”: đôi khi tôi cũng gặp cảnh thiếu thốn cả những tiện nghi cơ bản như thế. Cám ơn Chúa vì khi đó con đã không rút lui. Nhưng thú thật là tinh thần con đã bị chao đảo, nhiệt tình con đã bị nguội lạnh.
  3. “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết”: Tuy là môn đệ Chúa, tức là người chuyên lo những việc của Nước Trời, nhưng đầu óc tôi vẫn còn vấn vương những lo lắng thế tục, lo cho gia đình, cho những người thân. Chúa không cấm tôi nghĩ đến những việc đó và những người đó. Nhưng Chúa khuyên tôi đừng để những lo lắng ấy xâm lấn nhiệm vụ chính hiện tại của tôi, ngoài ra tôi còn phải biết phó thác vào Chúa quan phòng nữa.
  4. “Ai đã tra tay vào cày mà còn ngó lại sau lưng thì không xứng đáng…”: quá khứ mà Chúa dạy tôi phải quên đi là những quyến luyến tình cảm thế phàm, những ước mơ thế tục, kể cả những mặc cảm tội lỗi xa xưa…
  5. Một linh sư ấn độ đang ngồi tịnh niệm bên bờ sông. Có một người đàn ông nọ muốn xin làm đệ tử. Ông rón rén đến bên vị linh sư và đặt dưới chân vị tu hành hai viên ngọc quý như của lễ ra mắt. Vị linh sư cầm lấy một viên và ném xuống sông. Tiếc của, người đàn ông giàu có liền nhảy xuống sông để cố tìm lại viên ngọc. Nhưng mất một ngày mà không tài nào tìm lại được. Chiều đến, người đàn ông đến xin vị linh sư chỉ rõ nơi ông đã ném viên ngọc quý. Vị linh sư cầm viên ngọc còn lại ném luôn xuống sông và nói: “Ta đã ném vào chỗ đó. Ngươi hãy lặn xuống mà tìm”.

Chúa Giêsu cũng đòi hỏi môn đệ Ngài một thái độ từ bỏ dứt khoát như thế. (“Mỗi ngày một tin vui”)

 

THỨ NĂM TUẦN 26 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Lc 10, 1-12

Khi ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới.

Người bảo các ông rằng: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người. Các con hãy đi. Này Thầy sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường. Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: “Bình an cho nhà này”. Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ.

“Khi vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: “Nước Thiên Chúa đã đến gần các ngươi”. Khi vào thành nào mà người ta không tiếp đón các con, thì hãy ra giữa các phố chợ và nói: “Cả đến bụi đất thành các ngươi dính vào chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin phủi trả lại các ngươi. Nhưng các ngươi hãy biết rõ điều này: Nước Thiên Chúa đã đến gần”. Thầy bảo các con, ngày ấy, thành Sôđôma sẽ được xử khoan dung hơn thành này”.

 

Suy niệm 1: Như chiên con

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Đức Giêsu sai các môn đệ của mình đi trước,

từng hai người một, vào mọi thành phố và mọi nơi Ngài sẽ đến.

Sứ mạng dọn đường này không dễ chút nào.

Đức Giêsu biết rõ những hiểm nguy và chống đối đang chờ đợi họ.

“Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói.” (c. 3).

Chiên con trở nên hình ảnh của người môn đệ,

yếu đuối, không có khả năng chống cự khi gặp sự tấn công hung hãn.

Chính Đức Giêsu cũng là Chiên Con được Thiên Chúa sai đi.

Chính Ngài cũng “như chiên bị đem đi làm thịt,

như cừu câm nín khi bị xén lông, Người chẳng hề mở miệng” (Is 53, 7).

Người môn đệ được sai vào thế giới mãi mãi thấy mình mong manh,

trước thế lực tưởng như không thể thắng nổi của sự dữ.

Nhưng người môn đệ lại không được trang bị nhiều:

không túi tiền, không bao bị, không giầy dép,

dù đó là những điều bình thường thiết yếu cho một cuộc hành trình.

Chính vì thế họ buộc lòng phải cậy dựa vào người khác.

Mà không phải ai cũng có lòng, ai cũng vui vẻ đón nhận.

Như thế là chấp nhận liên tục bấp bênh,

liên tục cậy dựa vào sự quan phòng của Thiên Chúa.

Nhà của các tín hữu là nơi hoạt động của người môn đệ.

Căn nhà là nơi các môn đệ được trú ngụ, được chia sẻ bữa ăn.

Họ sống gần gũi như người trong nhà, như người thợ làm việc.

Nếp sống giản dị và siêu thoát của họ phải được bày tỏ

qua việc chấp nhận mọi đồ ăn thức uống người ta dọn cho (cc. 7-8),

cũng như việc không đi tìm một căn nhà khác tiện nghi hơn (c. 7).

Ngoài ra các thành phố cũng là điểm đến của họ (cc. 8-12).

Nhưng dù là vào một căn nhà hay vào một thành phố (cc. 5. 8),

thái độ của người môn đệ đều rất tích cực và thân thiện.

Họ chúc bình an, chữa bệnh, loan báo Nước Thiên Chúa đã đến gần.

Họ cũng khiêm tốn chấp nhận bị từ chối,

khi ơn bình an không được đón nhận, lời loan báo không được lắng nghe.

Những lời dặn dò của Đức Giêsu ngày xưa, bây giờ vẫn còn giá trị.

Chúng ta vẫn tiếp tục được sai vào các thành phố hôm nay.

Có biết bao người cần được chữa lành về thân xác, tinh thần,

với những thứ bệnh mới của thời đại được coi là văn minh.

Có bao người cần được nghe một lời đem lại cho đời họ chút hy vọng.

Được sai vào thành phố thế kỷ 21 để rao giảng, thật là một thách đố.

Làm sao ta có can đảm nói về Nước Trời cho những người vô tín,

và những người bị cuốn vào cơn lốc của vật chất và khoái lạc ?

Làm sao nói về Đấng Vô Hình khi nhiều người chỉ tin vào cái hữu hình ?

Người môn đệ hôm nay vẫn phải lại gần con người để chia sẻ cuộc sống,

như xưa các môn đệ xưa đã sống chung, ăn chung,

và làm việc như một người thợ để phục vụ.

Giáo Hội vẫn cần xin nhiều thợ hiền lành và can đảm để đến với thế giới.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu thương mến,

xin ban cho chúng con

tỏa lan hương thơm của Chúa

đến mọi nơi chúng con đi.

Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con

bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.

Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con

để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.

Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,

để những người chúng con tiếp xúc

cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.

Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,

không phải bằng lời nói suông,

nhưng bằng cuộc sống chứng tá,

và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa. (Mẹ Têrêxa Calcutta).

 

Suy niệm 2: Triều đại Thiên Chúa

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Triều đại Thiên Chúa. Đó là điều muôn đời ngàn dân trông đợi. Vì đời sống trần gian khổ cực đau thương. Chưa hề có triều đại nào đem lại hạnh phúc cho người dân. Chưa có chế độ nào hoàn toàn được tín nhiệm. Chưa có hệ thống ý thức hệ nào thực sự tạo nên thiên đường.

Dân Ít-ra-en cảm nhận được tất cả những nỗi khổ đau, nhục nhã khi bị lưu đầy. Nên khi được trở về. Được thờ phượng Chúa. Được nghe Lời Chúa. Lòng họ tràn đầy niềm vui. “Ông Ét-ra mở sách… Bấy giờ ông Ét-ra chúc tụng đức Chúa là Thiên Chúa vĩ đại, và toàn dân giơ tay lên đáp rằng: “Amen! Amen!” Rồi họ sấp mặt sát đất mà thờ lạy Đức Chúa….Các thầy Lê-vi thì trấn an mọi người như sau: “Anh em đừng khóc nữa, vì hôm nay là ngày thánh!…” Bấy giờ toàn dân đi ăn uống, rồi gửi các phần ăn, và liên hoan tưng bừng”. Họ sống một cuộc sống hạnh phúc vì tuân theo Lề Luật. Vì Thiên Chúa hướng dẫn họ.

Chúa Giê-su là Đấng phải đến. Quả thực Triều đại Thiên Chúa đã đến. Đó là tin vui lớn lao. Cần loan báo cho cả địa cầu. Vì thế Chúa không chỉ sai 12 tông đồ. Mà còn sai 72 môn đệ đi loan báo. Triều đại được chứng nghiệm bằng việc xua trừ ma quỉ. Chữa lành bệnh tật. Giải phóng con người khỏi mọi ách nô lệ ràng buộc của ma quỉ và sự dữ. Và đem bình an cho mọi người. Tuy nhiên chính người loan báo phải chứng tỏ Triều đại Thiên Chúa bằng một thái độ siêu thoát: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép”. Sứ điệp quan trọng. Thời giờ cấp bách. Nên “đừng chào hỏi ai dọc đường”. Tập trung vào sứ mạng. Không chú ý đến những gì phụ thuộc ở đời này như ăn uống, ngủ nghỉ: “người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó”. Khi người môn đệ siêu thoát, nghèo khó, chính Thiên Chúa ngự trong họ sẽ làm việc. Họ sẽ có sức mạnh của Thiên Chúa.

Chính vì hi vọng Triều Đại Thiên Chúa đến mà thánh Gióp, trong cơn đau khổ cùng cực, vẫn hi vọng tin tưởng đợi chờ. Luôn gắn bó với Chúa: “Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu huỷ, thì với tấm thân này, tôi sẽ được ngắm nhìn Thiên Chúa… Lòng tôi những tha thiết mong chờ” (năm chẵn).

Phần chúng ta hãy làm cho Triều Đại Thiên Chúa mau đến ngay trong bản thân mình. Bằng đời sống siêu thoát. Bằng tin tưởng vượt qua mọi gian khổ như thánh Gióp. Và bằng lời loan báo tin vui cho mọi người.

 

Suy niệm 3: Tinh Thần Nghèo Khó Ðích Thực

Có một nhà hiền triết đến nghỉ hè tại một thành phố nọ; ông vua của đô thị này thường tự hào mình là người giàu có nhất trần gian. Vốn là người siêu thoát mọi của cải trần thế, nhà hiền triết quyết định đến gặp cho được con người khoe khoang này. Khi nhà hiền triết vừa đến cung điện, nhà vua liền đưa ông đi một vòng và cho ông thấy tất cả sự giàu sang của mình. Nhà vua hỏi một cách huênh hoang:

Nhà ngươi nghĩ gì về tất cả sự giàu có của ta?

Nhà hiền triết cúi đầu giữ im lặng. Nhà vua lại hỏi tiếp:

Theo nhà ngươi, thì ai là người hạnh phúc nhất trần gian này?

Nhà hiền triết suy nghĩ một lúc rồi kể tên của những người Hy lạp mà có lẽ không ai biết đến, kể cả nhà vua. Nhận ra thái độ khiêu khích của nhà hiền triết, nhà vua liền nổi giận; ông yêu cầu nhà hiền triết phải giải thích ngay về thái độ ấy. Lúc bấy giờ, nhà hiền triết mới thong thả nói:

Thưa ngài, không ai có thể được xem là hạnh phúc, khi trái tim người đó còn gắn bó với của cải vật chất. Ðiều này cũng giống như một cuộc hôn phối, của cải vật chất qua đi, người có của sẽ thành một người góa, mà người góa thì đương nhiên sẽ khóc lóc; hoặc giả như người có của cải qua đi, người đó cũng chẳng mang theo được một đồng xu nào, lúc đó cũng chỉ có khóc lóc mà thôi.

Tin Mừng hôm nay nhắc nhớ chúng ta về tinh thần nghèo khó đích thực. Cuộc sống nghèo khó của Chúa Giêsu là một chọn lựa: Ngài đã chọn sinh ra trong nghèo khó; Ngài đã lớn lên trong khó nghèo; và trong ba năm sống công khai, Ngài đã chọn lựa nếp sống nghèo khó. Khi sai các môn đệ đi rao giảng Nước Trời, Ngài cũng đã khuyến dụ các ông hãy sống khó nghèo. Ra đi hai tay không, người ta tiếp đón thì ở lại, người ta không niềm nở thì ra đi, giũ bỏ lại mọi thứ bụi trần, đó là hình ảnh của sự siêu thoát mà Chúa Giêsu luôn đòi hỏi ở những môn đệ của Ngài. Ðây không chỉ là điều kiện của những người môn đệ, những nhà truyền giáo hay các tu sĩ: nghèo khó là đồng phục của mọi người mang danh hiệu Kitô. Nghèo khó là bộ mặt đích thực của các nghĩa tử của Thiên Chúa, họ phải giũ bỏ tất cả để mặc lấy phẩm giá của những con người được tái sinh.

Trong thực tế, người Kitô hữu phải sống thế nào mới gọi là nghèo khó? Ðó là thắc mắc mà trong xã hội nào, ở thời đại nào, các Kitô hữu cũng có thể nêu lên. Phải chăng sống nghèo khó, họ phải từ bỏ mọi thứ của cải trần thế? Phải chăng về lý tưởng nghèo khó, Kitô giáo chủ trương bần cùng hóa xã hội? Thực tế, nghèo không hề mâu thuẫn với sự phát triển hay làm giầu tài nguyên vốn có trong thiên nhiên mà Kitô giáo luôn cổ võ và nâng đỡ. Kitô giáo vốn là sức mạnh tiên phong trong việc khai hóa và mở mang vào thời Trung Cổ tại Âu Châu; những khám phá khoa học và tiến bộ kỹ thuật ở khởi đầu đều phát xuất từ Kitô giáo, như vậy, phát triển hay làm giầu không hề mâu thuẫn với Tin Mừng.

Thế nhưng, làm thế nào để sống tinh thần nghèo khó theo Tin Mừng? Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta thấy rằng tự nó, của cải vật chất không đương nhiên đem lại hạnh phúc cho con người, trái lại nó luôn có nguy cơ tha hóa và nô lệ hóa con người. Của cải vật chất vốn dễ làm cho con người trở nên mù quáng đối với bản thân cũng như trong quan hệ với tha nhân; và khi đã trở thành mù quáng, con người tôn của cải vật chất lên làm cứu cánh và tự giam mình trong vỏ ích kỷ. Như vậy, có tinh thần nghèo khó đích thực có nghĩa là luôn biết giữ khoảng cách đối với của cải vật chất, biết sử dụng nó như phương thế để tìm kiếm và xây dựng những giá trị Nước Trời, như công bằng, bác ái, liên đới. Một cách cụ thể, có tinh thần nghèo khó đích thực là biết mưu cầu cho công ích, biết san sẻ với người túng thiếu, biết làm ra của cải, nhưng không thuộc về của cải.

Hơn bao giờ hết, người Kitô hữu chúng ta phải không ngừng suy nghĩ về ý nghĩa của tinh thần nghèo khó. Túng thiếu, nghèo đói, mà vẫn tin tưởng cậy trông và giữ bàn tay thanh sạch, chứ không bán đứng lương tâm để làm điều gian ác; may mắn hơn người khác vì được thịnh vượng, giầu có, mà vẫn biết mở rộng trái tim và bàn tay để chia sẻ cho người nghèo khó, đó là thể hiện của tinh thần nghèo khó đích thực. Trong một xã hội của chụp giựt và xâu xé lẫn nhau, một cuộc sống như thế chắc chắn là một chứng tá cao độ cho Nước Trời.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy niệm 4: Rao Giảng Và Chữa Lành Bệnh Tật

Chúng ta vừa đọc lại bài tường thuật của thánh sử Luca nói về việc Chúa sai nhóm mười hai Tông Ðồ ra đi rao giảng Tin Mừng và chữa lành bệnh tật. Ðây là cuộc sai đi trước biến cố phục sinh để thực tập, để chuẩn bị cho cuộc sai đi quyết định sau phục sinh, khi đó Chúa sẽ nói với các ông một cách vĩnh viễn: “Mọi quyền hành trên trời dưới đất đã được trao ban cho Thầy. Vậy, các con hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ mọi điều Thầy đã truyền cho các con, và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,18-20).

Hai lần sai đi này, trước và sau Phục Sinh, trước và sau biến cố vượt qua của Chúa Giêsu, rất quan trọng và bổ túc cho nhau. Nếu lần sai đi thứ hai sau Phục Sinh, mà không có lần sai đi thứ nhất trước Phục Sinh thì người ta dễ dàng rơi vào cám dỗ quả quyết rằng, những đồ đệ của Chúa Giêsu tự bày việc cho mình để thành lập cộng đoàn Giáo Hội do sáng kiến riêng chứ không phải do ý muốn của Chúa Giêsu . Ngược lại, nếu lần sai đi thứ nhất trước Phục Sinh mà không có lần sai đi thứ hai sau Phục Sinh thì người ta cũng dễ dàng rơi vào cám dỗ khác nữa, cho rằng Chúa Giêsu đã thất bại trong dự án của Ngài sau khi bị giết chết trên thập giá. Nhưng các sách Phúc Âm đã ghi lại cho chúng ta hai lần sai đi trước và sau Phục Sinh, và điều này làm nổi bật ý định của Chúa Giêsu. Vượt qua giới hạn của thời gian, Chúa đã kêu gọi, huấn luyện và sai các tông đồ ra đi rao giảng Tin Mừng, vì Chúa muốn rằng sứ mệnh rao giảng của Chúa cần được tiếp tục mãi trong thời gian nhờ những con người được mời gọi cộng tác với Chúa, làm công việc của Chúa với những quyền năng do Chúa ban cho.

Sự hiện diện và sứ mệnh của Giáo Hội qua các thời đại trong lịch sử nhân loại đều nằm trong chương trình của Chúa ngay từ đầu và do ý Chúa muốn, chứ không do sáng kiến của con người. Hơn nữa, chúng ta thấy tác giả Phúc Âm thánh Luca mô tả sứ mệnh của các tông đồ được Chúa sai đi bằng hai cụm từ rao giảng và chữa lành bệnh tật. Nói theo ngôn ngữ ngày nay, chúng ta có thể nói rằng đây là sứ mệnh toàn diện ôm trọn cả con người xác hồn. Rao giảng và chữa lành, công bố sự thật ban ơn cứu rỗi của Chúa và chăm sóc cho cuộc sống phần xác được lành mạnh, đó là cứu rỗi và phát triển luôn đi đôi với nhau. Người đồ đệ của Chúa khi làm công việc của Chúa là công bố sự thật của Chúa, phân phát ơn cứu rỗi đã được Chúa thực hiện. Khi làm công việc này không thể nào lơ là hay đóng kín trước những việc phục vụ cho công cụ phát triển xã hội, phục vụ lợi ích tốt lành cho anh chị em chung quanh. Nhà thờ để thờ Thiên Chúa, nhà thương chăm sóc bệnh nhân, nhà săn sóc người cao niên, nhà học tập cho người trẻ, nhà ở cho người nghèo, nhà cứu trợ cho anh chị em gặp nạn, đó là những nhà, những loại công tác nằm trong sứ mệnh của người đồ đệ của Chúa.

Lịch sử hai ngàn năm qua của Giáo Hội cho thấy những đồ đệ của Chúa còn luôn trung thành với lệnh truyền của Chúa: rao giảng và chữa lành, mặc dù không thiếu những sai sót lỗi lầm mà giờ đây những đồ đệ chân thật của Chúa không ngần ngại ăn năn xin tha thứ và dốc quyết thực hiện tốt đẹp hơn trong tương lai.

Lạy Chúa,

Xin thương ban cho chúng con quyền năng của Chúa để chúng con được canh tân và dấn thân nhiều hơn nữa, để chu toàn tốt hơn sứ mệnh Chúa đã trao phó cho trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Xin Chúa hãy thương hiện diện với chúng con và cùng hoạt động với chúng con luôn mãi.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy niệm 5: Đừng ảo tưởng

Sau đó Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến. Người bảo các ông: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.” (Lc. 10, 1-2)

Đừng ảo tưởng! truyền giáo, theo Đức Kitô, chính là không ngừng nghỉ. Ngay từ đầu các môn đệ đã được chỉ định rõ rệt. Thầy đã nói từng chi tiết những gì các ông trông đợi trước khi sai các ông đi. Đi từng hai đến các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến. Trước hết, các môn đệ cần phải xác tín rằng: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”. Muốn có số thợ gặt sẵn sàng và có hiệu quả, phải cầu nguyện tận lực xin tuyển mộ được những thợ gặt chân chính và chắc chắn để đi loan truyền sứ điệp của Đức Kitô.

Số thợ tuyển mộ thì ít, họ như chiên ở giữa sói rừng! họ không được phép giơ tay năm ngón chỉ trỏ kiêu hãnh để áp đặt sứ điệp bằng bạo lực hay bất cứ thứ gì như thế. Nhưng chỉ đề nghị, rất trong sáng, an bình và tự do, không một chút bó buộc nào cả.

Những người truyền giáo nghèo khó, trơ trụi không trang bị những phương tiện gì to lớn của loài người, như tiền của tài năng, trù ếm, ảo thuật, không được dính bén những gía trị quan trọng quyền thế của trần tục, của bảo hiểm dưới đất, của an toàn vật chất, tuy không khinh bỉ chúng, nhưng không để chúng lôi kéo mình vịn lý do cần thiết.

Đối với Đức Kitô, những lời chào hỏi dọc đường là không cần thiết. Hãy trực tiếp đến nơi để rao giảng thì tốt hơn. “Đừng chào ai dọc đường” cũng có nghĩa là “hãy đi thẳng đến mục đích”. “Trước tiên hãy nói: Bình an cho nhà này”, đó là đem niềm vui đến cho họ, rồi đừng để mất giờ, hãy chữa bệnh tật cho họ và nói cho họ biết: “Triều đại Thiên Chúa đã đến gần các ông”.

Đó là những chỉ dẫn thật chính xác, rất ngắn gọn và cô đọng, đáng cảm phục biết bao một tinh thần trung thực vĩ đại! Người ta chấp nhận hay từ chối sứ điệp không phải dài dòng lý sự bắt người ta phải kính trọng. Người còn nói: “Nếu người ta không tiếp đón, hãy đi nơi khác”.

Người truyền giáo cần hành động chứ không van xin than thở.

GF

 

Suy niệm 6: Mỗi người đều là nhà thừa sai

Xem lại CN 14 TN C

Loan báo Tin Mừng là sứ mạng của hết mọi người chứ không chỉ dành riêng cho các linh mục hay tu sĩ. Hình ảnh 72 môn đệ được Đức Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng cho thấy tính phổ quát của sứ vụ này.

Khi được sai đi loan báo Tin Mừng, người thừa sai cần hiểu rõ một nguyên tắc căn bản về sứ vụ tông đồ là: việc Tông đồ là của Chúa. Người tông đồ là người được sai đi để thi hành ý muốn của Thiên Chúa. Mục đích là làm sao cho muôn người được ơn cứu độ.

Tuy nhiên, không phải ai được sai đi cũng đều thành công trong sứ mạng, bởi lẽ người tông đồ sẽ bị những thử thách, khó khăn do ngoại cảnh gây nên, và đôi khi do chính sự yếu đuối của bản thân, nên dẫn đến tình trạng buồn chán, thất vọng và buông xuôi…

Vì vậy, bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã hướng dẫn các môn đệ về tư cách, phương pháp và tinh thần của người thừa sai, để các ông ra đi và hy vọng mang lại nhiều hoa trái.

Trước tiên: người môn đệ phải noi gương Thầy của mình, đến để cứu độ bằng con đường thập giá. Vì thế, can đảm đón nhận những khó khăn, trở ngại do hiểu lầm, kỳ thị, ghen tức và hóa giải nó trong yêu thương là tinh thần của người môn đệ. Khó khăn này được ví như: “Chiên giữa bầy sói”.

Thứ đến: người môn đệ phải sống cuộc sống thanh thoát, nhẹ nhàng trong sự thiếu thốn. Không quá lo lắng về cơm áo gạo tiền cách thái quá. Không bị của cải, sự sung sướng và an thân níu kéo bước chân người thừa sai. Bởi vì của cải vật chất không đương nhiên đem lại hạnh phúc cho con người, trái lại nó luôn có nguy cơ tha hóa và nô lệ hóa con người. Của cải vật chất vốn dễ làm cho con người trở nên mù quáng đối với bản thân cũng như trong tương quan với tha nhân; và khi đã trở thành mù quáng, con người tôn của cải vật chất lên làm cứu cánh và tự giam mình trong vỏ ích kỷ. Cần cảm nghiệm được tình yêu của Chúa trên cuộc đời mình qua sự chăm sóc của Ngài, vì thợ thì đáng được thưởng công. Vì thế: không bị, không tiền, không mang hai áo … là tinh thần của người thừa sai.

Tiếp theo: hãy noi gương Đức Giêsu, Đấng đến để cho chiên được sống và sống dồi dào, còn bản thân Ngài thì lại hóa mình ra không đến nỗi trở nên của ăn cho người khác. Vì thế, người môn đệ cần nhạy bén để khước từ cám dỗ là tìm mọi cách để thay đổi điều kiện sống cho mình, nhằm an thân và sung túc, trong khi đó sứ vụ thì bỏ bê. Như thế, không cẩn thận sẽ dẫn đến tình trạng: “Đi hết nhà này đến nhà kia” mà sứ vụ thì không sinh hoa trái.

Mặt khác: hội nhập văn hóa là điều cần thiết để Lời Chúa thấm nhập vào truyền thống, văn hóa, được chuyển tải bằng những thứ ngôn ngữ của chính người bản địa. Những sinh hoạt hằng ngày như ăn uống, nghỉ ngơi cũng cần thích nghi. Được như thế, người thừa sai sẽ không bị cuốn theo bản năng để chỉ lo cho bản thân nhằm đáp ứng nhu cầu “hạ đẳng” của chính mình. Vì vậy: “Vào bất cứ thành nào mà người ta tiếp đón thì cứ ăn những gì mà người ta dọn cho anh em”.

Hơn nữa: truyền giáo phải đi đôi với bác ái. Nếu lời giảng dạy là để giới thiệu Đức Giêsu như một vị Thiên Chúa nhân từ, yêu thương, đứng về phía người nghèo, áp bức, bất công để giải thoát con người cách toàn diện, thì việc bác ái chính là một chứng minh cụ thể về tình thương, sự liên đới do lòng thương xót của Thiên Chúa cho con người. Vì thế, người môn đệ cần: an ủi kẻ âu lo, nâng đỡ kẻ yếu đuối… để làm chứng cho: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần”.

Cuối cùng: nhà truyền giáo phải là người thấm thía sự bình an của Chúa. Nếu không có bình an thì không thể trao ban cho người khác bình an được. Cuộc đời sứ vụ của người thừa sai mà thiếu đi yếu tố này, thì hẳn chính bản thân cũng bất hạnh, và như thế, chỉ còn gieo rắc sự thất vọng mà thôi. Tuy nhiên, bình an là một ơn ban của Thiên Chúa, kèm theo sự cộng tác của con người. Vì vậy: “Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với các con”.

Lạy Chúa Giêsu, lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Xin Chúa sai những người thợ lành nghề để ra đi thu lúa về cho Chúa. Xin Chúa cũng ban cho chính chúng con, là những người cũng được mời gọi tham gia vào sứ mạng truyền giáo ngày lãnh Bí tích Rửa Tội, luôn biết làm gương sáng, chu toàn bổn phận và trung thành với đời sống bác ái yêu thương. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy niệm 7: Nhiệm vụ loan báo Tin Mừng

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Nhiệm vụ loan báo Tin Mừng không chỉ dành riêng cho mười hai tông đồ, nhưng là sứ mạng của tất cả mọi người. Là người Kitô hữu, ta được Chúa sai đi nối tiếp công việc truyền giáo của các tông đồ.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, khi sai các môn đệ ra đi, Chúa đã căn dặn các ông cầu xin Chúa Cha ban nhiều thợ gặt. Chúa muốn các ông ý thức vai trò của các ông là hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa, vì Chúa Cha là chủ ruộng. Hôm nay, Chúa cũng mời con lên đường truyền giáo, nhưng công việc truyền giáo cần phải bắt đầu bằng những giờ cầu nguyện. Vâng Chúa ơi, công việc của Chúa trao phó luôn luôn bắt đầu từ tấm lòng đáp trả lại lời mời gọi, và được cụ thể hoá bằng giờ phút riêng tư giữa con với Chúa. Vì lạy Chúa, những giờ phút cầu nguyện sẽ đem lại cho con một nghị lực mới, một ánh sáng chan hòa, tạo được một sức sống trào dâng. Xin Chúa dạy con biết cầu nguyện.

Lạy Chúa, cầu nguyện là điều cần thiết, nhưng Chúa không miễn chuẩn cho con phải làm việc: “Anh em hãy ra đi”. Lệnh truyền của Chúa thật dứt khoát. Xin Chúa giúp con ra đi với một tấm lòng rộng mở. Con tin việc làm của con sẽ có một năng lực phi thường vì có Chúa trợ giúp. Xin giúp con biết làm việc tông đồ trong khi kết hiệp với Chúa.

Xin Chúa cho con biết ra đi khỏi chính mình để luôn bận tâm làm việc cho Chúa mà thôi. Xin cho con ra đi khỏi những ràng buộc của thế gian, để có thể phục vụ một người Chủ duy nhất là chính Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Sự bằng an của các con sẽ đến trên người ấy”.

 

Suy niệm 8: Tin vào Thiên Chúa

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Tướng Carreau bị thương nặng, sắp chết. Sau khi được chịu các phép sau hết, ông cầm lấy thánh giá mà vợ ông đã mang vào cổ ông, nói với các bạn binh sĩ của ông:

“Các bạn hãy can đảm lên!. Giữa các sự cực nhọc và đau khổ của mình, các bạn đừng quên rằng cuộc đời là vắn vỏi và ta thật vô phúc nếu khi chết, ta thấy rằng ta đã không hiểu biết, đã không thờ lạy và đã không bênh vực Chúa Giêsu”.

Suy niệm

Tyrô và Siđôn, những thành phố phồn thịnh, nổi tiếng thời Cựu ước, cũng là cửa ngõ bị ảnh hưởng của đời sống ngoại giáo xâm nhập vào Israel, nên các ngôn sứ hay phê phán nặng lời các thành phố này (x. Is 23; Ed 26-28; Ge 4,4-8; Am 1,9-10; Dcr 9,2-4). Riêng Sôđôma là thành phố tội lỗi đã bị Chúa hủy diệt bằng lửa… Các ngôn sứ lên án vì nếp sống thực dụng vật chất hưởng thụ dẫn tới những sa đọa luân lý, tôn thờ ngẫu tượng của ngoại bang tại các thành phố này.

Corozain, Bethsaiđa và Capharnaum là những thành phố nằm trên bờ hồ Giênêgiarét. Chúa Giêsu và các môn đệ đã nhiều lần rao giảng Tin Mừng, cũng như làm nhiều phép lạ ở các nơi này. Cuộc sống vật chất sung túc, làm cho con người không chỉ sa đọa, mà còn chối bỏ tương quan với Ðấng Tạo Hóa qua việc họ không tin vào lời giảng dạy của Đấng Thiên Sai đang ở giữa họ. Thế mà dân ở đây vẫn cứng lòng không lãnh nhận giáo huấn Chúa. Chính sự chối bỏ, cứng tin của họ, làm cho họ bị phán xét nặng hơn vì ngoan cố không chịu nghe theo Chúa. Thế mà dân ở đây vẫn cứng lòng không theo Chúa. Hình phạt cho các thị trấn sẽ nặng hơn vì ngoan cố không chịu nghe theo Chúa.

Khi loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, đời người sẽ trở nên trống rỗng vắng bóng Ngài, dễ dàng rơi vào sa đọa… Chỉ tin vào Thiên Chúa, khi đó con người mới biết đặt Ngài vào trọng tâm cuộc đời, sống những giá trị thiêng liêng và xây dựng tình người với nhau.

Ý lực sống

“Con hy vọng rất nhiều vào Chúa,

linh hồn con trông cậy ở Lời Chúa” (Tv 130,5).

 

Suy niệm 9: Bảy mươi hai môn đệ đi truyền giáo

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Đức Giêsu đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho dân chúng để đem lại ơn cứu độ cho họ. Mối ưu tư hàng đầu của Ngài là làm cho mọi người được nghe biết Tin Mừng. Và mối ưu tư  ấy đã được diễn tả  trong lúc thổ lộ tâm tình với các môn đệ:”Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít. Vậy các con hãy xin chủ ruộng  sai thợ gặt lúa về”(Lc 10,2).

Sau khi đã trang bị cho họ những khả năng tinh thần tuyệt diệu, Đức Giêsu đã sai 72 môn đệ đi loan báo Tin Mừng bình an cho mọi người. Ngài ân cần khuyên họ đừng lo tìm an toàn  nơi các phương tiện vật chất trần gian. Họ vâng lời ra đi và trở về trong hân hoan. Đức Giêsu cho họ biết họ hãy vui mừng vì tên tuổi họ  đã được ghi trên Nước Trời.

  1. Khi sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, điều đầu tiên Chúa muốn nơi họ là lòng tin tưởng tuyệt đối  vào sự quan phòng của Thiên Chúa. 72 môn đệ được sai đi tay không.  Chúa cũng không ra lệnh cho họ đến các Hội đường  hay các ngã ba đường để rao giảng, nhưng là đến từng nhà và hội nhập vào đó, hiện diện như một phần tử trong gia đình, ăn những gì người ta dọn cho. Nhờ đó Tin Mừng sẽ được đón nhận dễ dàng hơn, bởi vì Tin Mừng không còn là sức mạnh áp đặt từ bên ngoài, mà là một sức sống từ người rao giảng truyền sang những người khác và đâm rễ sâu trong lòng họ (Mỗi ngày một tin vui).
  2. Bảy mươi hai môn đệ là hình bóng của mọi tín hữu được kêu mời tham gia vào việc tông đồ của hàng Giáo phẩm. Đức Giêsu đã nói:”Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít”. Vậy thợ gặt là ai ? Trước đây người ta thường dành danh xưng “thợ gặt” cho các linh mục, các tu sĩ nam nữ, các nhà truyền giáo. Đây là một nhầm lẫn. Không ai có thể trở thành Kitô hữu mà lại không cảm nghiệm nơi mình nỗi lo âu của Đức Giêsu trước cánh đồng lúa chín mênh mông. Những tác vụ đa dạng sẽ làm nảy sinh những hình thức hoạt động khác nhau nơi mỗi người, nhưng ai nấy theo cách của mình, đều được gọi và làm việc ở đồng lúa chín (L. Sintas).
  3. Ngay từ đầu sứ vụ, Đức Giêsu đặt công việc truyền giáo trong cái nhìn cấp bách và khẩn thiết. Cho nên Chúa tuyển chọn 12 tông đồ và sau đó là 72 môn đệ, huấn luyên và sai đi truyền giáo. Hội thánh ngày hôm nay cũng không ngừng tiếp tục mời gọi những người thành tâm thiện chí tiếp tục ra đi loan báo sứ điệp tình thương và ơn cứu độ của Chúa cho trần gian, qua mọi thời đại. Cần ý thức rằng, qua bí tích Rửa tội, mỗi tín hữu cũng là một nhà truyền giáo, được sai đi để làm công việc của Chúa là cứu chữa các linh hồn (5 phút mỗi ngày).
  4. Trong tinh thần ấy, thánh Phanxicô Xaviê hồi còn là sinh viên ở trường đại học Paris, đã nghe được lời mời gọi trở thành linh mục và sau đó ngài là một nhà truyền giáo ở Ấn độ. Một trong những lá thư của ngài từ Ấn độ vang vọng lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay. Đây là một phần của lá thư:

“Nơi đây, nhiều người không trở nên Kitô hữu được, chỉ vì lý do là  không có ai  sẵn sàng đảm nhận việc dạy dỗ cho họ về Chúa. Tôi thường nghĩ đến việc đi tới trường đại học ở châu Âu và kêu gọi những người thợ  đến thu hoạch mùa ở Ấn độ”.

  1. Đức Giêsu đã kêu gọi và ngày nay Hội thánh cũng kêu gọi chúng ta hãy tích cực tham gia vào trong việc truyền giáo này.  Đức Giêsu đã không dành riêng việc rao giảng Tin Mừng cho các Tông đồ, mà còn sai 72 môn đệ ra đi. Nói khác đi, Ngài muốn gửi sứ mạng rao giảng đến mỗi người chúng ta. Ước gì chúng ta  luôn ý thức sứ mạng rao giảng đó, không những bằng lời nói mà nhất là bằng cuộc sống yêu thương và phục vụ.

Nói một cách cụ thể, chúng ta có thể tham gia vào việc truyền giáo bằng cầu nguyện, xin Chúa sai nhiều thợ gặt đến cánh đồng truyền giáo.  Đây là một việc mọi người có thể làm bất cứ lúc nào. Cầu nguyện còn chứng tỏ lòng tin tưởng cậy trông của chúng ta, vì từ việc sai thợ gặt đến cánh đồng truyền giáo, cho đến việc cứu độ thực sự là làm cho người ta chấp nhận Tin Mừng, trở về với Chúa để được hưởng ơn cứu độ .

  1. Truyện:  Đôi tay của Chúa.

Vào cuối thế chiến thứ hai, để thu phục thiện cảm và tin tưởng của người dân trong làng vừa mới được giải phóng khỏi tay Đức Quốc xã, toán lính thuộc lực lượng đồng mình cố gắng lượm lại từng mảnh vỡ của bức tượng Chúa Giêsu đã được dựng lên ở ở quảng trường trước ngôi nhà thờ nhỏ, trung tâm sinh hoạt của làng quê miền cực nam nước Italia.

Sau nhiều ngày cố gắng, toán lính đã gắn lại được  gần như toàn bức tượng của Chúa. Nhưng chỉ có đôi tay bức tượng là không thể nào hàn gắn lại được. Vì các mảnh vụn lớp thì bị bể quá nhỏ, lớp thì đã bị nát thành như bụi.

Sau nhiều giờ bàn luận và gần như sắp quyết định  bỏ dở công việc, thì một người trong toán lính có sáng kiến tìm lấy hai khúc gỗ gắn vào nơi hai cánh tay bị bể nát của bức tượng, rồi viết vào đó một hàng chữ bất hủ, không những đánh động được tâm hồn những người dân trong làng, mà còn thu hút được nhiều khách du lịch đến vùng này để được tận mắt xem hàng chữ đầy ý nghĩa. Các bạn có thể đoán được hàng chữ này không? Đó là “CHÍNH BẠN LÀ ĐÔI TAY CỦA CHÚA”.

 

Suy niệm 10: Đi rao giảng Tin Mừng

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)                                    

  1. Hạt giống…

Chúa Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng:

– Theo tường thuật của Thánh Luca, Chúa Giêsu đã sai đi rao giảng không phải chỉ nhóm tông đồ mà còn cả nhóm môn đệ nữa. Luca muốn nhấn mạnh rằng không riêng gì các tông đồ, mà tất cả mọi người đều được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng. Ý này lại được làm rõ thêm với con số 72. Đây là số dân của loài người mà St 10 đã liệt kê.

– “Từng nhóm hai người”: Việc loan Tin mừng không phải là việc của một cá nhân riêng lẻ, mà là việc của cộng đoàn, không phải là độc quyền của riêng ai, nhưng phải liên đới và liên kết với nhiều người khác.

– “Hãy cầu xin”: Việc đầu tiên mà nhà truyền giáo phải làm là “cầu xin”. Thiên Chúa là chủ mùa gặt, nhận ai vào Nước Thiên Chúa là quyền của Ngài và là ơn của Ngài. Chúa Giêsu bảo cầu xin là để các môn đệ ý thức rằng họ được gọi là nhờ ơn Chúa, và để có thêm nhiều người nữa nhận được ơn ấy.

– “Như chiên non vào giữa sói rừng”: Chúa Giêsu khuyến cáo các môn đệ về những hiểm nguy và sự thù nghịch mà có thể họ sẽ gặp phải.

– “Đừng chào ai dọc đường”: việc chào hỏi của người Phương Đông thường kéo theo những câu chuyện rề rà rất lâu. Trong khi sứ mạng loan Tin mừng đòi phải gấp.

– “Bình an cho nhà này”: đây vừa là một lời chúc vừa là một lời ban ơn bởi vì nó có sức tạo nên điều nó chúc (Is 45,23). Người rao giảng Tin Mừng phải là “con cái của sự bình an”. Họ phải có bình an trong mình và sau đó đem bình an ấy ban lại cho người khác. Nếu nhà nào đáng được hưởng ơn bình an thì được bình an, nếu không thì ơn bình an trở lại cho người chúc.

– “Cứ ở lại nhà ấy”: gặp nhà nào đầu tiên cho ở thì người môn đệ hãy ở đó. Đừng tìm hiểu nhà để so sánh chọn lựa nhà nào tiện nghi hơn. Điều quan trọng là loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa chứ không phải tiện nghi cho mình hoặc cách người ta tiếp rước mình.

– “Ăn uống của người ta cung cấp cho mình”: sứ mạng của môn đệ đừng để bị ảnh hưởng bởi những quan tâm có tính cách trần thế (đòi hỏi hoặc e ngại những gì của ăn uống người ta lo cho mình).

  – “Thợ đáng trả lương”: đây là một nguyên tắc (1Tm 5,18; 1Cr 9,11). Nhưng người thừa sai cũng có thể tự ý từ chối (1Cr 9,14-18).

  – “Người ta dọn thức gì cứ ăn thức ấy”: Người rao giảng Tin Mừng Chúa Giêsu không còn bị bận vướng bởi luật Môsê về sự phân loại thức ăn nào sạch, thức ăn nào dơ (1Cr 10,27).

  – “Hãy chữa lành các bệnh nhân”: đây là dấu hiệu Nước Thiên Chúa gần đến.

  – “Phủi bụi chân”: người Do Thái thường phủi bụi chân khi từ một vùng đất ngoại trở về đất Palestina vốn được coi là đất thánh. Cử chỉ này có nghĩa là không có chung đụng giữa Israel và dân ngoại. Thành nào không đón nhận sứ điệp của Chúa Giêsu thì cũng cắt đứt liên hệ với dân Thiên Chúa, trách nhiệm là thuộc về họ.

  – Thành đó sẽ đáng chịu phán xét trong ngày chung thẩm, họ sẽ bị trừng phạt nặng nề còn hơn Sôđôma ngày xưa. Việc các thừa sai đến loan Tin mừng là cơ hội cho người ta chọn lựa để hoặc được cứu độ hoặc bị luận phạt.

B…. nẩy mầm.

  1. Truyền giáo là bổn phận của tất cả mọi tín hữu không trừ ai. Thực ra, người tín hữu VN chỉ mới lo giữ đạo chứ chưa ý thức truyền đạo.
  2. Việc đầu tiên người truyền giáo phải làm là “cầu xin”. Đây là điều mà chúng ta hay quên.
  3. Điều thứ hai người truyền giáo phải lưu ý là: cái họ cần có hơn là ơn Chúa chứ không phải là những phương tiện vật chất (túi tiền, bao bị, giày dép…)
  4. Việc làm chính của người truyền giáo là “chữa lành các bệnh tật”, nghĩa là làm giảm bớt đi những đau khổ tinh thần và vật chất của người ta.
  5. “Anh em hãy ra đi. Đừng mang theo túi tiền, bao bị giày dép.(Lc 10,4)

Nếu phải thực hiện một chuyến đi dài, tôi sẽ mang theo thứ gì ? Chắc chắn là những gì gọn nhất, nhẹ nhất, cần thiết nhất. Và hôm nay, trong lênh truyền của Chúa Giêsu tôi đọc được nét nhẹ nhàng thanh thoát ấy trong bước chân của người môn đệ không giày dép, bao bị, tiền nong…

Và phải chăng cũng vang động trong tâm hồn tôi lời mời gọi “ra một cuộc lữ hành” ? Nhưng lạy Chúa, khó quá, vì nơi con: Đã quen rồi bóng râm của tiện  nghi, an toàn. Đã quen rồi đôi giày của danh vọng. Đã quen rồi chiếc đồng hồ kế hoạch. Đã quen rồi bao bị của bằng cấp, bạc tiền.

Lạy Chúa, trên hành trình tiến về nhà Chúa, xin giải thoát con khỏi những ràng buộc của bản thân, của lề thói xã hội, để biết trao ban cho anh em chính Chúa chứ không phải chính con (Hosanna)

 

THỨ SÁU TUẦN 26 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Lc 10, 13-16

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: “Khốn cho ngươi, hỡi Corozain, khốn cho ngươi, hỡi Bethsaiđa: vì nếu tại Tyrô và Siđon đã xảy ra những phép lạ thực hiện nơi các ngươi, thì từ lâu, những nơi đó đã mặc áo vải thô và ngồi trên tro bụi mà sám hối. Cho nên trong ngày thẩm phán, Tyrô và Siđon sẽ được nhiêu dung hơn các ngươi. “

Còn ngươi nữa, hỡi Capharnaum, phải chăng ngươi sẽ được nâng cao đến tận trời? Ngươi sẽ phải hạ thấp xuống tới địa ngục. “Ai nghe các con, tức là nghe Thầy, và ai khinh dể các con, là khinh dể Thầy. Mà ai khinh dể Thầy là khinh dể Ðấng đã sai Thầy”.

 

Suy niệm 1: Khốn cho ngươi

Suy niệm:

Tin Mừng hôm nay kể lại một kinh nghiệm không vui của Đức Giêsu,

Kinh nghiệm của một người tận tụy với công việc tông đồ

nhưng sau thời gian dài chờ đợi, kết quả lại không như ý.

Đức Giêsu là người vùng Galilê, hẳn Ngài yêu vùng đất này.

Ngài thường lui tới những thành phố quanh Hồ Galilê.

Khoradin, Bếtsaiđa, Caphácnaum nằm trong số đó.

Ngài đã rao giảng nhiều về sám hối (7, 36-50; 13, 1-5; 19, 1-10),

và Ngài cũng làm bao phép lạ kèm theo để gọi mời hoán cải.

Có thể nhiều người bị đánh động khi nghe lời Ngài giảng

và bị thu hút bởi các phép lạ Ngài làm.

Nhưng đối với Đức Giêsu, như thế vẫn chưa đủ.

Tất cả vẫn chỉ là hời hợt của cảm xúc bên ngoài.

Điều Ngài đòi hỏi là biến đổi tận căn bên trong cuộc sống.

“Khốn cho ngươi, hỡi Khoradin! Khốn cho ngươi, hỡi Bếtsaiđa!

Đức Giêsu đau đớn thốt lên như thế khi phải so sánh hai thành phố trên

với hai thành phố dân ngoại tội lỗi là Tia và Xiđôn (Is 23; Ed 26-28).

Hai thành phố ở Galilê chẳng đổi gì mấy dù đã biết Ngài từ lâu.

Dân ở đây sẽ bị xét xử nghiêm khắc hơn trong cuộc phán xét.

Thành phố Caphácnaum cũng chẳng khá hơn,

dù đây là nơi Đức Giêsu hay lui tới để phục vụ (Lc 4, 23. 31-37; 7,10).

Ngài đặt thẳng câu hỏi với thành phố này về tương lai của nó (c. 15).

Đừng mong được nâng đến tận trời, nhưng sẽ bị xuống tận âm phủ!

Đức Giêsu có kinh nghiệm về thất bại trong việc tông đồ.

Ngài cũng nhắc các môn đệ về chuyện đó (Lc 10, 10-12).

Không được tiếp đón, bị từ khước, không được người ta nghe (c.16),

thậm chí có khi bị bách hại, bị vu khống, bị giết chết.

Đó là những điều người môn đệ tín trung vẫn thường gặp,

vì Thầy của họ đã trải qua và vượt qua.

Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu nói chuyện với các thành phố,

những nơi thân quen, đã mang dấu chân Ngài.

Ngài lấy làm tiếc vì những gì Ngài làm chưa thấm vào bề sâu,

chưa tạo ra được những thay đổi nơi lòng thành phố.

Một sám hối thật sự không phải chỉ là một sám hối cá nhân,

nhưng là sám hối nơi sinh hoạt của cả một thành phố.

Nếu hôm nay Ngài đến với thành phố của chúng ta Ngài sẽ nói gì?

Ngài có chỗ không ở mọi nơi người Kitô hữu đang sống,

đang làm việc, đang học hành, đang vui chơi, đang cầu nguyện?

Sám hối là trả lại chỗ cho Ngài trong mỗi góc phố vắng,

là giữ cho thành phố xanh-sạch-đẹp theo nghĩa thiêng liêng nhất.

Ước gì chúng ta biết xây dựng quanh ta

những khoảng không gian tràn ngập sự hiện diện của Giêsu.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

việc tông đồ của con phải là việc tông đồ diễn tả lòng tốt.

để khi thấy con, người ta phải nói:

“vì anh này tốt quá, nên đạo của anh phải là đạo tốt.”

Và nếu có ai hỏi con

tại sao con lại hiền lành và tốt như thế,

con sẽ trả lời

vì con là tôi tớ của một đấng tốt hơn con nhiều.

“Mong sao bạn biết được Chủ Giêsu của tôi tốt biết bao!”

Con muốn sống thật tốt, để người ta có thể nói:

“nếu tôi tớ mà tốt như vậy,

thì Chủ sẽ tốt đến ngần nào ?” (Chân phước Charles Foucauld).

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

Suy niệm 2: CHỐI TỪ SỰ SỐNG

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúa Giê-su buồn phiền. Vì chính những nơi được nghe rao giảng Tin mừng, được chứng kiến nhiều phép lạ, lại không ăn năn sám hối. Chúa đặt Ca-phác-na-um làm trung tâm rao giảng Tin mừng. Chúa thường xuyên đi lại Kho-ra-din và Bết-xai-đa. Tại Bết-xai-đa có vài môn đệ theo Chúa. Nhưng đa số dân chúng cứng lòng không tin. Trong khi đó tại vùng dân ngoại Tia và Xi-đôn có người phụ nữ, dù bị Chúa xua đuổi, vẫn kiên trì tin tưởng. Chúa buồn không phải vì người ta chối từ Chúa. Nhưng vì người ta chối từ Chúa Cha. Chối từ tình yêu thương vô cùng sâu thẳm và bao la của Chúa Cha. “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một Người”. Còn tình yêu nào lớn lao hơn thế. Còn tấm lòng nào quan tâm hơn thế. Nhưng buồn là buồn cho chính họ. Chúa Cha là nguồn mạch sự sống. Khi chối từ nguồn mạch sự sống, họ đánh mất sự sống. Họ đi vào chỗ chết.

Đó chính là điều tiên tri Ba-rúc thú nhận. Trong thời kỳ lưu đầy, Ít-ra-en nhà tan cửa nát. Phải lưu đầy biệt xứ. Phải làm nô lệ. Vừa khổ cực vừa nhục nhã. Nhưng vị tiên tri phải thú nhận dân Ít-ra-en bị như thế là xứng đáng. Vì họ đã chối từ Thiên Chúa yêu thương. Thiên Chúa sức mạnh. Thiên Chúa ban sự sống. “Chúng tôi, những người Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem, các vua và thủ lãnh, tư tế và ngôn sứ cũng như các bậc cha ông, chúng tôi phải hổ ngươi bẽ mặt như ngày hôm nay thì cũng đáng, vì tất cả chúng tôi đã phạm tội trước nhan Đức Chúa, đã bất tuân, không nghe tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, không vâng theo các mệnh lệnh Đức Chúa đã đề ra trước mắt chúng tôi” (năm lẻ).

Chúa là nguồn mạch sự sống của toàn thể vũ trụ cũng như con người. Chúa đã chất vấn thánh Gióp. Và thánh Gióp không thể trả lời: “Có bao giờ ngươi đã đến tận nguồn biển cả và lang thang ở đáy vực sâu? Có ai từng mở cho ngươi lối vào âm phủ và ngươi thấy được cửa dấn tới âm ty? Có khi nào ngươi hiểu mặt đất rộng chừng nào? Nếu ngươi biết hết mọi điều đó thì cứ nói đi”. Và thánh Gióp chỉ biết thưa lại: “Vâng, con đây tầm thường bé nhỏ, biết nói chi để trả lời Ngài?” Thánh Gióp chỉ biết vâng theo ý Chúa. Chính vì thế ngài được Chúa yêu thương ban muôn hồng phúc (năm chẵn).

Chúng ta hãy noi gương thánh Gióp nhận biết Thiên Chúa là sự sống và là tất cả của chúng ta. Để luôn biết đón nhận Người. Đón nhận mệnh lệnh Người. Để chúng ta được sống.

 

Suy niệm 3: Nguy cơ của những tiện nghi vật chất

Có một hiện tượng chung tại các nước đang phát triển, đó là người dân nghèo từ thôn quê đổ xô ra thành thị. Tại đô thị dễ tìm được công ăn việc làm, đời sống nhiều tiện nghi, thú tiêu khiển cũng nhiều hơn. Nhưng hiện tượng đô thị hóa nào cũng có mặt trái của nó: người dân đưa nếp sống thôn dã lên thành thị, giao thông tắc nghẽn, việc buôn bán lấn chiếm vỉa hè, trật tự công cộng không được tôn trọng, và trầm trọng hơn vẫn là đời sống luân lý đạo đức xuống cấp, nạn phạm pháp gia tăng.

Thời Cựu Ước, các Tiên tri đã không ngừng lên tiếng cảnh cáo dân chúng về cuộc sống đồi bại tại các đô thị. Chúc dữ các đô thị vốn là một đề tài quen thuộc trong lời rao giảng của các Tiên tri. Dường như có hai lý do khiến các Tiên tri lên án các đô thị: Một đàng các Tiên tri muốn nhắc nhở dân chúng về cuộc sống du mục trong sa mạc, tại đó họ đã nghe được tiếng Chúa và đã kết ước với Ngài, cuộc sống càng đơn giản, con người càng dễ kết thân với Chúa; nhưng đàng khác, nhận thấy cuộc sống đồi bại của các thành phố ngoại giáo trong vùng, các tiên tri muốn cảnh cáo dân chúng về mối nguy cơ có thể chạy theo một cuộc sống như thế. Sự đồi bại nguy hiểm nhất mà các Tiên tri không ngừng lên án một cách gắt gao, đó là việc tôn thờ ngẫu tượng và nếp sống vô luân của thị dân, điển hình nhất là của các đô thị sa đọa là Sôđôma, Gômôra, Babylon, Tyrô, Siđôn.

Trong Tin Mừng hôm nay, theo truyền thống các tiên tri Cựu Ước, Chúa Giêsu cũng nêu đích danh ba thành phố có nếp sống sa đọa nằm dọc theo bờ hồ, đó là Cozazin, Betsaiđa và Capharnaum. Những tiện nghi vật chất khiến con người dễ trở thành câm điếc trước Lời Chúa. Con người được tạo dựng không phải để sống đơn độc một mình, do đó, cô đơn vốn là điều con người sợ nhất, thành ra đi vào quan hệ với người khác là một trong những nhu cầu cơ bản nhất của con người. Cuộc sống đô thị với nếp sống ồn ào náo nhiệt của nó dễ tạo cho con người cái cảm tưởng rằng ở đó họ dễ đi vào quan hệ với người đồng loại.

Tuy nhiên, như thực tế cho thấy, cuộc sống càng xô bồ, con người càng dễ rơi vào cô đơn. Kinh Thánh không ngừng nhắc nhở con người rằng chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể mang lại bí quyết cho sự thông hiệp đích thực của con người, nghĩa là giúp cho con người ra khỏi nỗi cô đơn của mình; bí quyết đó chính là Lời của Ngài. Thật thế, khi con người sống kết hiệp với Chúa, thì dù có sống một mình, nó cũng sẽ không cảm thấy cô đơn; lại nữa, khi sống kết hiệp với Chúa, con người sẽ cảm thấy được thúc đẩy để đến với anh em của mình. Con người không thể kết hiệp với Chúa mà có thể khước từ người anh em của mình, và ngược lại, bất cứ một quan hệ chân thành nào với người anh em, cũng luôn gia tăng sự kết hiệp con người với Thiên Chúa.

Dù muốn hay không, những thay đổi trong cuộc sống do kinh tế thị trường mang lại không thể không ảnh hưởng đến cuộc sống đức tin của người Kitô hữu. Thật ra, cuộc sống đức tin không phải là một sinh hoạt phụ trong cuộc sống chúng ta; đức tin phải là chiều kích bao trùm toàn bộ cuộc sống của chúng ta: chúng ta là Kitô hữu trong mọi nơi, mọi lúc, mọi sinh hoạt, mọi hoàn cảnh. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đề cao cảnh giác trước nguy cơ có thể tách biệt niềm tin với những sinh hoạt hàng ngày và dần dà đẩy niềm tin ra bên lề cuộc sống. Niềm tin ấy có lẽ chỉ còn là Thánh Lễ Chúa Nhật, một vài sinh hoạt trong khuôn viên giáo đường, một số kinh kệ trong gia đình, chứ không ăn nhập gì đến cuộc sống mỗi ngày; niềm tin ấy có lẽ chỉ còn là một món đồ trang điểm cho cuộc sống và cần thiết cho một số dịp nào đó trong năm, chứ không liên hệ gì đến đòi hỏi công bằng bác ái, liên đới mà chúng ta phải thực thi hằng ngày.

Nguyện cho Lời Chúa luôn là động lực thúc đẩy và hướng dẫn chúng ta trong mọi sinh hoạt và quan hệ hằng ngày của chúng ta, để trong khi mưu cầu cho cuộc sống, chúng ta luôn tìm gặp Chúa trong tha nhân và trong mọi biến cố.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy niệm 4: Nghe hay khước từ

“Ai nghe anh em là nghe Thầy; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy, mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy.” (Lc. 10, 16)

Hôm qua Đức Giêsu đã ban một số huấn lệnh cho các môn đệ đi truyền giáo. Trường hợp gặp thất bại, hãy đến nơi khác. Đức tin không cưỡng bức ai. Đàng khác, dù muốn hay không, nước Thiên Chúa vẫn đến! Người ta có thể khước từ nhưng sẽ có ngày họ sẽ gia nhập, vì đó là thành ý Thiên Chúa. Chính Ngài định đoạt ngày giờ, chứ không phải người ta. Ước mong họ sẽ tin cậy vào Ngài. Họ nghe lời Chúa không tùy thuộc vào tài khéo léo thuyết phục của loài người.

Chính Đức Kitô, là Con Thiên Chúa, cũng không thành công khi thuyết phục mọi người tin vào sứ điệp chân chính và cần thiết của Người. Bản tính nhân loại của Người như đã che lấp mọi may mắn làm cho người ta tin Người. Ba thành Kho-ra-zim, Bét-sai-đa và Ca-pha-na-um Người kể tên ra đây, là những vùng hoạt động của Người, được đặc biệt hưởng những ân huệ lời Người và tận tình cứu giúp của Người. Họ sẽ giầu có, phong phú biết bao về tinh thần, nếu họ lắng nghe và sống theo lời Người. Nhưng khốn thay! Họ đã cùng túng và thảm bại vì đã từ chối lời Người kêu gọi. Nếu các thành dân ngoại khác như Sô-đô-ma, Ti-a và Si-đôn đã được may mắn gặp gỡ Đức Kitô thì họ đã mặc áo nhặm ngồi trên tro tàn tỏ lòng ăn năn sám hối lâu rồi.

Chúa không chúc dữ đâu! Người chỉ than phiền về sự đui mù và vô ơn của mọi người, như Người khóc thương thành Giê-ru-sa-lem đã ruồng bỏ Người. Khi nghe những lời đau khổ của Đức Giêsu như thế, người ta không khỏi nghĩ đến những nước, những tỉnh thành, làng xã trong quá khứ đã nhận được dồi dào ơn lành và ánh sáng của Đức Kitô, nay họ đã ruồng bỏ Người, trong ngày phán xét, chúng ta sống hối hận chừng nào!

Hôm nay nghe các ngôn sứ của Đức Kitô, chính là nghe chính Đức Kitô. Nếu khước từ các Ngài là khước từ chính Người. Để lời khiển trách của Đức Giêsu xưa đem lại phúc lợi cho chúng ta, mỗi người và tất cả chúng ta hãy vui vẻ đón nhận lời Người để nghiêm chỉnh, thẳng thắn hồi tâm trở về với Đức Kitô. Đừng để lời cảnh giác của Người như tiếng vang ngoài tai rồi biến tan theo mây khói, thật khốn cho chúng ta!

GF

 

Suy niệm 5: SÁM HỐI ĐỂ ĐƯỢC ĐÓN NHẬN TIN MỪNG (Lc 10, 13-16)

Càng văn minh, tiến bộ, thì càng làm cho người ta được sung túc. Chuyện này là lẽ thường tình, và sống trong một xã hội thì sự phát triển của nó là điều mà ai cũng mong muốn! Tuy nhiên, mặt trái của vấn đề là ở chỗ: nó dễ làm cho tâm thức của con người rơi vào tình trạng bình thường hóa, tương đối hóa mọi chuyện, nhất là vấn đề giảm thiêng trong đời sống đạo đức. Vì thế, con người dễ bị sa vào những vòng vây của tội lỗi và tệ nạn… khiến nền tảng luân lý bị đe dọa và cuộc sống trác táng là điều dễ dàng xảy đến!

Hình ảnh sa đọa này thật rõ nét nơi các thành như: Sôđôma, Gômôra, Babylon, Tyrô, Sidon… Sang đến thời Đức Giêsu, diễn biến này cũng không thiếu, cụ thể là các thành: Bethsaida, Corozain, Caphanaum… Họ đã chối bỏ sự hiện diện của Thiên Chúa, chối bỏ những chứng từ đức tin và tôn thờ ngẫu tượng. Trai lỳ trong tội và đi tìm sự thỏa mãn xác thịt để bù lấp khoảng trống trong tâm hồn.

Nhưng tiếc thay, họ càng đi tìm thì lại càng mất. Bởi vì họ đã không gặp được Thiên Chúa ở trong chốn ăn chơi, xa đọa, mà chỉ gặp toàn những đối tượng, phương tiện làm cho mình xa Chúa và băng hoại đời sống đạo đức mà thôi.

Sự lãnh đạm, chai lỳ của dân các thành Bethsaida, Corozain, Caphanaum, cũng chính là sự chai lỳ và lãnh đạm của dân Chúa ngày nay là chúng ta! Hẳn mỗi người chúng ta đều thấy tình thương của Thiên Chúa trong thế giới và nơi cuộc sống, thế mà chúng ta đã không trở về với phẩm giá đích thực của mình là con cái Chúa, con cái Sự Sáng, nhưng vẫn sống thờ ơ, lãnh đạm và vui hưởng những thú vui tội lỗi…

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy bám vào Thiên Chúa như là cứu cánh của mình. Chỉ có Thiên Chúa và trong Ngài, chúng ta mới tìm được niềm vui và hạnh phúc đích thực. Loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, con người không chỉ rơi vào sa đoạ mà còn cắt đứt mối tương quan với tha nhân.

Thật vậy, chỉ có lắng nghe Lời Chúa và thực hành, thì chúng ta mới trở nên người hoàn thiện, và xã hội, gia đình mới trở nên tốt mà thôi.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết yêu mến Lời Chúa và hân hoan thi hành, để Lời Chúa hướng dẫn chúng con biết làm điều thiện, tránh điều dữ. Có thế, Giáo Hội, xã hội và gia đình mới trở nên lành mạnh và chúng con mới có hy vọng được cứu độ. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy niệm 6: ,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Ai đón nhận Tin Mừng là đón nhận chính Thiên Chúa. Ai không tin, không đón nhận sẽ bị kết án và mất phần thưởng đời đời.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, bài Tin Mừng hôm nay làm con phải sững sờ. Các thành phố Kho-ra-dim, Bet-sai-đa, Ca-phac-na-um đã được nghe Chúa giảng dạy và thấy các việc Chúa làm. Nhưng họ đã không nhận ra và thực thi điều Chúa truyền dạy. Họ không hối cải, và đã làm ngơ trước các đòi hỏi của Tin Mừng. Lòng họ đã nên chai cứng. Họ đánh mất ân huệ lớn lao mà bao nhiêu thế hệ trông chờ. Cuối cùng, thay vì ân phúc và trọng thưởng, họ đã bị kết án nặng nề và bị loại trừ khỏi hạnh phúc trường sinh.

Hình ảnh các thành phố ngoại giáo Ty-rô và Sy-đon sẽ được đối xử khoan dung hơn trong ngày phán xét làm con xác tín: Ai không tin, không đón nhận Tin Mừng là chối bỏ Chúa, và hơn thế nữa là chối bỏ chính Cha trên trời. Lạy Chúa, xin giúp con luôn nhận ra điều Chúa truyền dạy và quyết tâm thi hành. Việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa là lối mở dẫn đưa con về nhà Cha trên trời, là bảo đảm cuộc sống thật hạnh phúc đời sau.

Lạy Chúa, Giáo Hội đại diện Chúa tiếp tục loan báo Tin Mừng cứu độ. Ai tin, ai gắn bó, ai đón nhận giáo huấn của Giáo Hội là đi vào con đường cứu rỗi. Xin giúp con cởi mở nội tâm để sống tâm tình hiếu thảo trong lòng Giáo Hội. Xin thêm lòng yêu mến cho con, để Lời Chúa truyền và các điều Giáo Hội dạy, con thực hiện thật tốt đẹp. Xin đừng bao giờ để lòng con nên chai cứng trước những lời mời gọi sống cho Chúa, sống yêu thương phục vụ anh em hằng ngày. Amen.

Ghi nhớ: “Ai tiếp đón Thầy, là tiếp đón Ðấng đã sai Thầy”.

 

Suy niệm 7: ,,,

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Tướng Carreau bị thương nặng, sắp chết. Sau khi được chịu các phép sau hết, ông cầm lấy thánh giá mà vợ ông đã mang vào cổ ông, nói với các bạn binh sĩ của ông:

“Các bạn hãy can đảm lên! Giữa các sự cực nhọc và đau khổ của mình, các bạn đừng quên rằng cuộc đời là vắn vỏi và ta thật vô phúc nếu khi chết, ta thấy rằng ta đã không hiểu biết, đã không thờ lạy và đã không bênh vực Chúa Giêsu”.

Suy niệm

Tyrô và Siđôn, những thành phố phồn thịnh, nổi tiếng thời Cựu ước, cũng là cửa ngõ bị ảnh hưởng của đời sống ngoại giáo xâm nhập vào Israel, nên các ngôn sứ hay phê phán nặng lời các thành phố này (x. Is 23; Ed 26-28; Ge 4,4-8; Am 1,9-10; Dcr 9,2-4). Riêng Sôđôma là thành phố tội lỗi đã bị Chúa hủy diệt bằng lửa… Các ngôn sứ lên án vì nếp sống thực dụng vật chất hưởng thụ dẫn tới những sa đọa luân lý, tôn thờ ngẫu tượng của ngoại bang tại các thành phố này.

Corozain, Bethsaiđa và Capharnaum là những thành phố nằm trên bờ hồ Giênêgiarét. Chúa Giêsu và các môn đệ đã nhiều lần rao giảng Tin Mừng, cũng như làm nhiều phép lạ ở các nơi này. Cuộc sống vật chất sung túc, làm cho con người không chỉ sa đọa, mà còn chối bỏ tương quan với Ðấng Tạo Hóa qua việc họ không tin vào lời giảng dạy của Đấng Thiên Sai đang ở giữa họ. Thế mà dân ở đây vẫn cứng lòng không lãnh nhận giáo huấn Chúa. Chính sự chối bỏ, cứng tin của họ, làm cho họ bị phán xét nặng hơn vì ngoan cố không chịu nghe theo Chúa. Thế mà dân ở đây vẫn cứng lòng không theo Chúa. Hình phạt cho các thị trấn sẽ nặng hơn vì ngoan cố không chịu nghe theo Chúa.

Khi loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, đời người sẽ trở nên trống rỗng vắng bóng Ngài, dễ dàng rơi vào sa đọa… Chỉ tin vào Thiên Chúa, khi đó con người mới biết đặt Ngài vào trọng tâm cuộc đời, sống những giá trị thiêng liêng và xây dựng tình người với nhau.

Ý lực sống

“Con hy vọng rất nhiều vào Chúa,

linh hồn con trông cậy ở Lời Chúa” (Tv 130,5).

 

Suy niệm 8: Chúa than trách ba thành ở Galilê (Lc 10,13-16)

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Sau khi sai 72 môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu liên tưởng đến các thành phố Khoradin, Betsaiđa và Capharnaum nằm ở bờ Ghênêdaret. Là những thành phố tương đối giầu có và trình độ văn hóa cao hơn những thành khác. Chúa Giêsu và các môn đệ đã nhiều lần rao giảng Tin Mừng cũng như làm phép lạ ở các thị trấn này, nhưng  sự giầu có  và kiến thức của họ đã khiến họ kiêu căng tự mãn nên không đón nhận Tin Mừng, không chịu hối cải, nên hình phạt cho họ sẽ nặng hơn hơn các thành phố khác.
  2. Hôm nay Chúa Giêsu khiển trách các thành dọc bờ hồ Galilê là Khoradin, Betsaiđa và Capharnaum. Vì sao vậy ? Vì các thành này đã chứng kiến “phần lớn các phép lạ và các lời giảng dạy” của Chúa; thế nhưng họ không đón nhận Tin Mừng, không chịu hối cải, họ đã đóng kín lòng mình, họ không để cho ơn Chúa được thể hiện trong cuộc đời. Họ đã không tận hưởng cái đặc ân, cái cơ hội mà thành Tia, Sôđôma và Gômôra không hề được. Và chính vì không đón nhận Chúa, nên họ cũng không thể thấy các phép lạ xẩy ra tiếp tục trong chính hành vi tiếp nhận của họ.
  3. Cũng trong Tin Mừng hôm nay, sau khi chúc dữ các thành phố sa đọa, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng chỉ nhờ lắng nghe Lời Ngài, con người mới có thể thông hiệp và hiệp nhất với nhau. Niềm tin là men  nối kết con người với nhau, niềm tin là sức bật đưa con người ra khỏi chính mình để đến với người khác, niềm tin là thuốc chữa trị con người khỏi vong thân. Phát triển kinh tế là một yếu tố cần thiết cho cuộc sống; thế nhưng con người không chỉ sống bằng cơm bánh. Ăn no, hưởng thụ, mà tinh thần trống rỗng thì cũng chỉ là mẫu người què quặt kém phát triển mà thôi. Một cuộc sống sung mãn đích thực phải là cuộc sống trong đó giá trị tinh thần và luân lý được đặt vào hàng trọng yếu (Mỗi ngày một tin vui).
  4. Chúa Giêsu đến trần gian để cứu độ mọi người. Trước sự cứng lòng tin của một số dân thành đã từng chứng kiến phép lạ Chúa làm mà không tin, Chúa Giêsu dùng những lời lẽ than trách, khuyến cáo họ. Dầu vậy, Chúa không trừng phạt những kẻ lãnh đạm, cố chấp không đón nhận Tin Mừng, nhưng mời gọi, khuyến cáo họ nghe Lời Chúa mà ăn năn trở lại. Chúng ta cần khoan dung với kẻ ác, nhẫn nại với người cứng lòng, để tình yêu của Chúa được biểu lộ qua chúng ta, có sức lôi cuốn tội nhân hoán cải (5 phút Lời Chúa).
  5. Chúng ta thấy tội lỗi là đáng sợ, mà đã có tội lại còn cố chấp thì càng đáng sợ hơn. Tục ngữ Ả Rập nói rằng: tội có năm ngón tay, nó dùng hai ngón bịt mắt chúng ta, để chúng ta không thấy được tội lỗi xấu xa chừng nào. Nó sợ nếu chúng ta biết tội lỗi xúc phạm đến Chúa nặng nề thế nào, thì chúng ta không dám phạm.

Nó dùng hai ngón khác bịt tai chúng ta, để chúng ta không còn nghe thấy tiếng Chúa mà ăn năn sám hối. Nó làm như vậy để giữ chúng ta ở trong tình trạng tội lỗi lâu ngày, lòng chúng ta trở nên chai đá,  và chúng ta không muốn thống hối nữa.

Nó dùng ngón cuối cùng bịt miệng chúng ta, để chúng ta không đọc lời thống hối, không phàn nàn hối hận vì tội lỗi đã phạm (Phạm Văn Phượng).

  1. Người xưa dạy:”Kẻ tự cho mình là tài giỏi  thì tai không còn được nghe lời hay lẽ phải nữa”.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cảnh báo về số phận của những kẻ tự mãn. Họ giống như dân các thành Khoradin, Betsaiđa và Capharnaum sống trong sự sung túc về vật chất, trí thức và lấy làm thỏa mãn với sự thông minh trần thế của mình, để rồi họ khép kín lòng mình, và từ chối lời khôn ngoan của Chúa Giêsu. Bởi vậy, số phận dành cho những người đó là hố sâu của sự chết muôn đời.

Trong cuộc sống, chúng ta lắm khi cũng mắc phải  những cám dỗ như thế. Ta thường tự cao tự đại về lượng tri thức đồ sộ đã thụ đắc và cảm thấy thỏa mãn với chúng, để rồi khép kín tâm hồn và xem thường lời chỉ dạy, khuyên nhủ của người khác. Ta đâu biết  đó chính là những thông điệp mà Thiên Chúa đang muốn gửi đến cho ta (Học viện Đa Minh).

  1. Truyện: Hai triết gia Jacques Maritain và Raissa.

Jacques Maritain và Raissa là hai triết gia của nước Pháp vào đầu thế kỷ này. Hồi còn trẻ, hai người đã hết lòng yêu thương nhau. Nhưng rồi sự vô tín ngưỡng đã đưa họ đến vực thẳm của thất vọng. Cuộc sống càng ngày càng trở nên nhạt nhẽo, vô nghĩa. Rồi một hôm kia, hai người dắt nhau đến một công viên ở Paris và thề thốt với nhau rằng, nếu trong vòng 12 tháng mà không tìm ra được một ý nghĩa nào cho cuộc sống thì cả hai sẽ cùng tự vẫn.

Rất may là sau 12 tháng họ đã tìm ra cho cuộc sống một ý nghĩa. Ý nghĩa ấy là tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa.

Sau đó cho đến cuối đời, họ đã giành tất cả cuộc sống của họ để làm chứng cho tình yêu và ân sủng họ đã nhận được.

Trong tác phẩm có tựa đề “Thủ lãnh của thế gian”, bà Raissa đã viết như sau:”Ma quỉ đã tung ra một mạng lưới ảo tưởng trên chúng ta. Mạng lưới này  tuy vô hình nhưng rất mãnh liệt. Nó làm cho chúng ta yêu thích  giây phút chóng qua hơn cuộc sống vĩnh cửu. Nó khuyến dụ chúng ta  chạy theo sự vô định hơn chân lý. Nó bảo ta rằng, ta chỉ có thể yêu mến tạo vật bằng cách thờ lạy chúng mà thôi”.

 

 

THỨ BẢY TUẦN 26 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Lc 10, 17-24

Khi ấy, bảy mươi hai ông trở về vui mừng và nói rằng: “Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ cũng vâng phục chúng con”. Người bảo: “Ta đã thấy Satan từ trời sa xuống như luồng chớp. Này Ta đã ban cho các con quyền giày đạp rắn rết, bọ cạp, mọi quyền phép của kẻ thù, và không có gì có thể làm hại được các con. Dù vậy, các con chớ vui mừng vì các thần phải vâng phục các con; nhưng hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi trên trời”.

Lúc đó, Chúa Giêsu đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần, Người nói: “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ. Vâng, lạy Cha, đó là ý Cha đã muốn thế. – Cha Ta đã trao cho Ta mọi sự. Không ai biết Chúa Con là ai, ngoài Chúa Cha; cũng không ai biết Chúa Cha là Đấng nào, ngoài Chúa Con, và những người được Chúa Con muốn tỏ cho biết”. Rồi Chúa Giêsu quay lại phía các môn đệ và phán: “Hạnh phúc cho những con mắt được xem những điều các con xem thấy, vì chưng, Thầy bảo các con: Có nhiều tiên tri và vua chúa đã muốn xem những điều các con thấy, mà chẳng được xem, muốn nghe những điều các con nghe, mà đã chẳng được nghe”.

 

Suy niệm 1: Hớn hở vui mừng

Suy niệm:

Trong Tin Mừng Luca, Đức Giêsu đã sai nhóm Mười Hai

đi rao giảng về Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh tật (ch. 9).

Họ là những tông đồ thân tín, sống gần gũi bên Thầy Giêsu.

Nhưng vì thấy lúa chín đầy đồng, và thợ gặt thì ít,

Đức Giêsu lại sai thêm bảy mươi hai môn đệ lên đường.

Đây là một số người khá đông mà Đức Giêsu quy tụ được.

Chắc họ không luôn luôn ở với Ngài và gần gũi như nhóm Mười Hai,

vì họ còn phải vất vả lo chuyện gia đình, làm ăn,

nhưng họ vẫn được Ngài chỉ định và trao phó nhiệm vụ đi tiền trạm.

Ngày trở về của nhóm Bảy Mươi Hai là một ngày rất vui.

Họ thi nhau khoe với Thầy về chuyện họ trừ được quỷ dữ,

Họ đã có kinh nghiệm về Tên của Thầy mình.

“Nhân danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải lụy phục chúng con” (c. 17).

Những môn đệ bình thường bắt đầu vui sướng nhận thấy

họ có thể dũng cảm đối đầu với những mãnh lực đáng sợ

chỉ nhờ đặt nơi Thầy một lòng tin phó thác đơn sơ.

Đúng là Xatan đã đến ngày tàn khi Đức Giêsu xuất hiện (c. 18).

Nó bị sa xuống từ trời, và nước của nó bị đổ nhào bởi Nước Thiên Chúa.

Trước niềm vui chiến thắng của nhóm Bảy Mươi Hai,

Thầy Giêsu muốn nhắc họ về một niềm vui khác, lớn hơn nhiều.

Đó là vui vì tên họ đã được ghi trên trời (c. 20).

Khi Xatan bị tống khỏi trời, thì các môn đệ có chỗ vững vàng ở đó.

Phúc cho họ vì được ơn có tên trong sách sự sống (Pl 4,3).

Đây mới là hạnh phúc và niềm vui đích thật.

Bài Tin Mừng hôm nay đầy ắp niềm vui.

Niềm vui từ số đông môn đệ tỏa lan sang Thầy Giêsu.

Vào ngay giờ ấy, Thầy cũng bất ngờ cảm nếm niềm vui do Thánh Thần,

và môi Thầy bật lên lời cầu nguyện tự phát.

Vừa thân thiết, vừa cung kính, Thầy dâng Cha lời tạ ơn:

“Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha.”

Thầy Giêsu ngây ngất trước những việc Cha làm cho các môn đệ.

Tuy chỉ là những kẻ bé mọn, bình dân,

chẳng phải là những nhà khôn ngoan thông thái,

nhưng họ lại được Cha mặc khải những điều mầu nhiệm.

Cha đã vén mở cho họ tin vàoThầy Giêsu là Con của Cha.

Họ có niềm tin mà những người kiêu căng tự mãn không có được.

Thầy Giêsu khâm phục sự sắp đặt kỳ diệu của Cha:

“Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (c. 21).

Chúng ta có quyền tin rằng,

vào giây phút cầu nguyện linh thiêng này,

không phải chỉ các môn đệ và Thầy Giêsu mới đầy ắp niềm vui.

Cả Chúa Cha trên trời cũng vui, cùng với Chúa Thánh Thần.

Qua lời cầu nguyện, Thầy Giêsu cho thấy Cha đang mặc khải cho môn đệ.

Và chính Thầy cũng đang mặc khải về Cha cho họ.

Đây là giây phút Cha-Con mặc khải về nhau.

Giáo Hội hôm nay cần Mười Hai tông đồ,

Nhưng cũng rất cần Bảy Mươi Hai môn đệ đi tiền trạm cho Chúa Giêsu.

Giáo Hội cần những giáo dân được sai đi để xây dựng Nước Thiên Chúa.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

những hạt cải Chúa gieo vãi cách đây hai ngàn năm

nay đã trở thành cây cao

cho chim trời rủ nhau trú ngụ.

Nhúm men nhỏ bé được Chúa vùi vào khối bột,

đã làm bột dậy lên,

để trở nên tấm bánh thơm ngon cho thế giới.

Sau hai mươi thế kỷ,

các môn đệ Chúa không còn là nhóm Mười Hai bé nhỏ.

Hôm nay, các kitô hữu chiếm gần một phần ba,

người công giáo chiếm hơn một phần sáu dân số thế giới.

Chúng con được mời gọi xây dựng Nước Chúa trên trần gian,

cho đến khi tất cả mọi người nhận biết và tin yêu Chúa.

Xin cho chúng con đừng mặc cảm

vì người công giáo chỉ là thiểu số trên quê hương Việt Nam,

nhưng xin cho chúng con mạnh dạn làm chứng cho Chúa

trong việc xây dựng một xã hội công bằng và huynh đệ.

Hôm nay chúng con phải tiếp tục làm việc như Chúa,

gieo hạt giống để làm nên những cánh rừng,

trở nên chất xúc tác để biến đổi môi trường mình sống.

Và chúng con biết rằng sớm muộn cũng sẽ thành công

vì tin Chúa vẫn cần cù làm việc với chúng con. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

Suy niệm 2: NIỀM VUI ĐÍCH THỰC

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Niềm vui chỉ có trong Chúa. Đó là sứ điệp Lời Chúa hôm nay.

Ba-rúc tràn đầy nỗi buồn. Vì con cái Ít-ra-en thờ lạy ma quỉ. Ma quỉ thiêu đốt dục vọng. Khiến người ta mê mải đuổi bắt hạnh phúc. Càng đuổi càng xa. Càng chiếm đoạt càng buồn bã. Buồn cho bản thân. Buồn cho những người thân. Buồn cho cả Thiên Chúa. Buồn cho cả thiên đàng. “Xưa tôi vui mừng nuôi dưỡng chúng, nay đành phải buồn sầu ứa lệ để cho chúng ra đi. Chớ ai vui mừng vì thấy tôi goá bụa, bị mọi người bỏ rơi; tôi phải sốn đơn đôc như thế này chỉ vì con cái tôi phạm tội, lìa bỏ Lề Luật của Thiên Chúa”. Vì thế tiên tri không ngừng kêu gọi con cái trở về để được Chúa xót thương. Để được hưởng niềm vui. Niềm vui vĩnh cửu (năm lẻ).

Bài Tin Mừng hôm nay chứa chan niềm vui. Các môn đệ hớn hở sau một đợt sứ vụ. Về tường trình với Chúa những chiến thắng lẫy lừng. Ma quỉ phải chịu khuất phục vì các ngài kêu Danh Cực Thánh Giê-su. Chúa Giê-su tràn đầy niềm vui. Vì Chúa Cha đã ban cho các môn đệ được biết mầu nhiệm Nước Trời. Các ngài vốn là những người bé nhỏ nghèo hèn. Thất học. Chính vì không có gì. Không ham hố gì. Không hi vọng gì nơi trần gian. Tâm hồn các ngài hoàn toàn trong trắng. Thuộc trọn về Chúa. Nên Chúa ngự trong các ngài. Có Chúa các ngài khuất phục được ma quỉ. Có Chúa các ngài có tất cả. Đó là thiên đàng. Là thuộc trọn về Chúa. Chúa là niềm vui. Nên khi không có gì. Chỉ có Chúa. Các ngài tràn đầy niềm vui. Các ngài đã tới cõi phúc. Được gặp chính Chúa. Đó là điều mọi người mơ ước mà không được. Đó chính là niềm vui đích thực, Chúa Giê-su mặc khải cho các ngài: “Anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời”.

Thánh Gióp nêu gương cho ta. Dù trong thịnh vượng. Dù trong thử thách. Lúc nào cũng gắn bó với Chúa. Rồi Chúa lại ban thưởng niềm vui. Niềm vui trong đời sống sung túc. Niềm vui trong con cái đông đúc. Niềm vui được sống tới tuổi thọ hiếm có. Tất cả những niềm vui đó chỉ là hình ảnh diễn tả niềm vui có Chúa. Có Chúa là có tất cả. Khi thánh Gióp hoàn toàn từ bỏ mình. Trở nên người nghèo khổ nhất. Không có gì. Kể cả danh dự. Kể cả niềm an ủi. Nhưng ngài có Chúa. Nên ngài có tất cả. Ngài có niềm vui. Làm cho những người chung quanh được vui. Và nhất là Thiên Chúa vui tươi. Thiên đàng cũng mừng vui (năm chẵn).

 

Suy niệm 3: Niềm vui đích thực

Chúa Giêsu chọn 72 môn đệ và sai họ ra đi rao giảng Tin Mừng; họ gặp nhiều chống đối, nhưng cũng gặt hái được nhiều thành công. Tin Mừng hôm nay thuật lại rằng sau một thời gian ra đi rao giảng, các ông hớn hở trở về nói lên niềm vui của mình, vì đã nhờ quyền năng của Chúa mà xua trừ được ma quỉ, nhưng Chúa Giêsu muốn cho các ông thấy rằng Ngài đến là để giải phóng con người nô lệ và đưa họ tới tự do đích thực.

Giải phóng con người khỏi ách nô lệ và đưa con người vào tự do đích thực, đó là sứ mệnh mà Giáo Hội tiếp tục thực thi trong thế giới này. Chúng ta có thể nhận ra sứ mệnh ấy qua diễn văn Ðức Gioan Phaolô II đọc tại trụ sở Liên Hiệp Quốc vào ngày 5/10/1995. Ðức Thánh Cha ghi nhận rằng con người càng ngày càng tìm kiếm tự do và đây chính là điểm nổi bật của thời đại chúng ta. Sự tìm kiếm tự do ấy đặt nền tảng trên các quyền phổ quát của con người. Chính vì phản ứng lại những hành vi man rợ đối với phẩm giá con người, mà chỉ ba năm sau khi thành lập, Liên Hiệp Quốc đã công bố bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Ðây là một gia sản chung của nhân loại, nó bắt nguồn từ chính bản tính của con người, trong đó có phản ánh những đòi hỏi khách quan và không thể hủy bỏ được của một luật luân lý phổ quát.

Sống theo những khát vọng cao thượng nhất của mình, con người có thể làm được những điều xem ra vượt quá khả năng của nó. Ðó là sứ điệp chúng ta có thể đọc thấy trong Tin Mừng hôm nay: các môn đệ ra đi với hai bàn tay trắng, họ không có một khí giới nào khác ngoài sự siêu thoát và niềm tin vào quyền năng của Chúa Giêsu. Vậy mà khi nói về những thành quả của họ, chính Chúa Giêsu đã thốt lên: “Ta đã thấy Satan như tia chớp từ trời rơi xuống”. Ðó chính là sức mạnh của những người mà Chúa Giêsu gọi là những kẻ bé mọn.

Ngày nay, người Kitô hữu cũng có thể thực hiện được những điều cả thể ấy nếu họ cũng biết trang bị cho mình một niềm tin vào quyền năng của Chúa, nhất là nếu họ biết sống theo những khát vọng cao thượng nhất của con người. Những khát vọng đó là gì, nếu không phải là tự do, công bằng, bác ái, liên đới. Nếu họ thực sự sống theo những khát vọng thâm sâu ấy và sống tín thác nơi Thiên Chúa ngay cả khi gặp thất bại khổ đau, lúc đó họ mới có thể hưởng được niềm vui đích thực mà các môn đệ Chúa Giêsu đã bày tỏ khi gặp lại Ngài.

Ước gì mỗi người chúng ta luôn nếm được niềm vui đích thực ấy trong cuộc sống hằng ngày.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy niệm 4: Vui mừng theo Thầy

Ngay giờ ấy được Thánh Thần tác động, Đức Giêsu hớn hở vui mừng và nói: “Lạy Cha là Chúa tể trời đất, Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã dấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết ngững điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng lạy Cha, đó là điều đẹp ý Cha.” (Lc. 10, 21)

Mặc dầu gặp những thất bại trên đường truyền giáo, các ông được Đức Kitô sai đi, đã trở về vui mừng vì tổng kết những kết quả không thể bỏ qua. Như những cậu bé sung sướng, các ông kể lại với Thầy: “Nhân danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con”. Điều đó làm các ông xúc động mạnh. Đức Giêsu đã cho các ông hiểu chính Người đã hành động trong lúc các ông truyền giáo. Trong cầu nguyện Người đã thấy Sa-tan, kẻ thù, đã từ trời rơi xuống như chớp. “Đây Thầy đã ban cho anh em quyền năng giày đạp rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực kẻ thù mà chẳng có gì làm hại được anh em. Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng Thầy vui mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời”.

Như vậy, Đức Giêsu đã làm lắng dịu niềm vui của các môn đệ đi một chút. Điều quan trọng không phải khuất phục được quỷ thần và những thành công khác, nhưng chính là nhiều người đã đón nhận lời Chúa và được ơn cứu độ nhờ các ông, đây mới là điều đáng kể trước mặt Thiên Chúa. Các Tông Đồ đã được đẹp lòng Chúa Cha, Đấng ngự trên trời cao.

Trước công việc tốt lành các bạn hữu đã làm, Đức Kitô không thể ngăn cản được niềm hoan lạc trong Thánh Thần. Và Người đã cảm tạ Chúa Cha đã tỏ những mầu nhiệm cho những kẻ bé mọn mà không tỏ cho những người khôn ngoan thông thái.

Những nhà truyền giáo của Người là những kẻ nghèo khó và khiêm tốn hèn mọn. Người đã chọn các ông từ một giai cấp tầm thường họ không có bằng cấp gì, không phải hạng trí thức, không phải hạng danh tiếng, phần lớn là những người ngư dân chất phát. Vậy không phải kiến thức của họ có thể làm choáng mắt thính giả, nhưng chính đức tin sống động của họ và chân lý của sứ điệp Tin Mừng mà Đức Kitô đã trao phó cho họ.

Giáo Hội sơ khai được đặc ân thay Chúa, như là những dụng cụ truyền giáo, nhưng tất cả những thứ đó đều không thích hợp, không tương xứng với lý trí loài người. Những tiêu chuẩn đánh giá trị của Thiên Chúa không như chúng ta tưởng. Để nhận biết Chúa Cha cũng như nhận biết Chúa Con, những bằng cấp tiến sĩ không cần thiết, dù đôi khi có giúp ích. Chiều dài lịch sư Giáo Hội đã chứng tỏ điều đó. Những cái đầu nhồi nhét đầy, nhưng quá chắc không nhất thiết đạt tới ánh sáng Thiên Chúa. Chúng không có một ki-lô nào đối với những đầu óc bé nhỏ.

GF

 

Suy niệm 5: ƠN CHÚA PHÙ TRỢ KẺ BÉ MỌN (Lc 10, 17-24)

Xem lại CN 14 TN C, thứ Ba tuần 1 MV, thứ Tư và thứ Năm tuần 15 TN và lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su năm A

Hôm nay, bài Tin Mừng trình thuật việc các môn đệ tập kết quanh Đức Giêsu để báo cáo thành tích mà các ông đã đạt được trong lần đi truyền giáo vừa qua. Các ông khoe với Chúa: “Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ cũng vâng phục chúng con”. Tuy nhiên, Đức Giêsu thay vì khen ngợi các ông, Ngài lại tạ ơn Thiên Chúa vì đã làm những điều kỳ diệu nơi các ông, mặc dù bản thân và khả năng các ông không xứng đáng. Nhân đây, Đức Giêsu cũng mặc khải và hướng các ông về niềm vui siêu nhiên. Vì thế, sự chiến thắng không nằm ở chỗ khuất phục được thiên nhiên, bệnh tật, ma quỷ, mà là tên các ông đã được nghi dấu trên trời.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi chúng ta, cần phải ý thức rằng: sứ mạng truyền giáo không chỉ dành riêng cho ai, mà cho hết mọi người. Qua Bí tích Rửa Tội và Thêm Sức, sứ mạng đó thuộc về chúng ta, và chúng ta phải có bổn phận thi hành.

Khi thành công đến, chúng ta cần cảm nghiệm niềm vui siêu nhiên hơn là tự nhiên. Được cứu độ hơn là chiến thắng bề ngoài, vì giá trị tinh thần thì cao trọng và có sức biến đổi chứ không phải hình thức hay số lượng bên ngoài. Để đạt được điều đó, chúng ta luôn sống trong tâm tình đơn sơ, khiêm nhường, tín thác của kẻ bé mọn.

Lạy Chúa Giêsu, trong hành trình loan báo Tin Mừng, xin Chúa cho chúng con biết khiêm tốn, nghèo khó và tín thác nơi Chúa trọn vẹn. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy niệm 6: ,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Người môn đệ Đức Kitô được mạc khải mầu nhiệm Nước Trời, và đã được ghi tên trong sổ hằng sống, vì thế phải biết cùng với Đức Kitô cảm tạ ngợi khen Chúa Cha.

Cầu nguyện: Lạy Cha, khi nhìn lên trời đất bao la, con thấy mình chỉ như hạt cát giữa sa mạc. Và khi so sánh với những người thông thái khôn ngoan, con thấy mình chỉ là kẻ hèn kém bất tài. Thế mà, lạy Cha, qua Chúa Giêsu Con Một Cha, Cha đã mạc khải Nước Trời cho con. Cha cũng đã trao ban cho con muôn vàn hồng ân hồn xác, để con được sống và sống dồi dào. Hơn nữa, Cha còn dọn sẵn cho con một nơi ở bên Cha trong cõi hạnh phúc vô biên. Trước tình thương và muôn ân phúc cao vời ấy, con không biết làm gì hơn là xin được hợp với Chúa Giêsu, Con yêu dấu của Cha, để mãi mãi dâng lời cảm tạ tri ân Cha.

Lạy Cha, khi còn sống nơi dương thế, Con Một Cha đã không ngừng rao truyền Danh Cha cho mọi người. Vậy mà ngày nay, còn có rất nhiều người, đặc biệt là những người trẻ, đang bị bơ vơ và chao đảo, khi họ đi tìm cho mình một lẽ sống. Xin Cha thương mạc khải Nước Trời cho họ.

Xin Cha cũng giúp con biết nỗ lực tiếp nối công việc mà Con Một Cha đã khởi sự, đó là loan báo Danh Cha cho mọi người, để mọi nơi trên địa cầu, Danh Cha được ca ngợi tôn vinh, và mai sau trên cõi trời vinh phúc, mọi người không ngớt cảm tạ tri ân Cha, vì Cha là Đấng toàn năng, quảng đại và giàu tình yêu thương. Amen.

Ghi nhớ: “Các con hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi trên trời”.

 

Suy niệm 7: ,,,

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Bác sĩ Cronin kể câu chuyện của mình trở lại với Chúa như sau: Khi làm việc trong một bệnh viện, ông thấy một cô y tá rất tận tâm, rất yêu người bệnh, hầu như đêm nào cô cũng thức thật khuya để lo cho bệnh nhân. Dù vậy, ông biết rằng tiền lương của cô rất ít, chỉ vừa đủ để sống thôi.

Ngày kia, gặp cô y tá này, ông đề nghị:

– Cô có công nghiệp lắm! Rất đáng được tăng lương.

– Tiền lương của tôi như vậy cũng đủ rồi, cô y tá nói.

– Nhưng cô đáng được nhiều hơn nữa. Chúa biết cô có nhiều công nghiệp, vị bác sĩ khẳng định.

– Nếu Chúa biết… thì tôi còn muốn gì hơn nữa, cô nói thêm: Tôi chỉ làm vì Chúa!.

Và bác sĩ Cronin thú nhận: “Nghe cô nói như vậy, tôi rất cảm phục. Tôi thấy tâm hồn tôi bừng sáng lên. Tôi thấy cô y tá này có một tâm hồn quá cao trọng, còn tôi thì quá nghèo nàn. Và nhờ thế, tôi đã trở lại với Chúa”.

Suy niệm

Chúa Giêsu chọn và sai bảy mươi hai môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng; họ phải đối mặt với bao nguy khó, gặp nhiều chống đối, nhưng cũng gặt hái được nhiều thành công. Các môn đệ đã trở về trong niềm vui mừng, Tin Mừng hôm nay thuật lại sự trở về trong hớn hở nói lên niềm vui của người môn đệ dấn thân:

“Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống,

mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.

Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo;

lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126,5-6).

Trong sứ mạng ra đi, các môn đệ nhờ quyền năng của Chúa mà xua trừ được ma quỷ, nhưng Chúa Giêsu muốn cho các ông thấy rằng Ngài đến là để giải phóng con người khỏi nô lệ và đưa họ tới tự do đích thực. Chúa nói: Đừng tự mãn vì được thành công. Nhưng hãy vui mừng vì tên các ông đã được ghi vào sổ hằng sống (x. Lc 10,20).

Trước những hoa trái của các môn đệ, Chúa Giêsu đã cảm tạ Thiên Chúa Cha là nguồn mọi ơn lành, đã mạc khải cho những người bé mọn, môn đệ là những con người tầm thường nhưng hăng say theo Thầy đi rao giảng Tin Mừng.

Xin cho chúng ta luôn lắng nghe tiếng Chúa kêu mời trong cánh đồng truyền giáo và nhiệt thành trong công việc tông đồ, vì danh Chúa và phát triển nước Trời tại trần gian.

Ý lực sống

“Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay!”

Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại!

ta thấy mình chan chứa một niềm vui” (Tv 125,2b-3).

 

Suy niệm 8: 72 môn đệ đi thực tập trở về (Lc 10,17-24)

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Sau thời gian thực tập, 72 môn đệ trở về trong hân hoan, kể lại cho Chúa Giêsu nghe những thành công của mình. Qua những thành công này, Chúa muốn nói với các ông: đừng tự mãn vì được thành công, nhưng hãy vui mừng vì tên các ông đã được ghi trên Trời. Cũng trong Tin Mừng này, Chúa Giêsu đã cảm tạ Thiên Chúa là nguồn mọi ơn lành, đã mạc khải cho những tâm hồn đơn sơ bé mọn biết đón nhận Tin Mừng do các môn đệ rao giảng.
  2. Tin Mừng hôm nay nói đến sự thành công của 72 môn đệ. Thật thế, công việc truyền giáo của các ông đạt được nhiều thành quả: chẳng những lời rao giảng của các ông được đón nhận mà các ông còn thắng được cả quyền lực Satan. Bởi thế, chẳng lạ gì khi các ông trở về với tâm trạng vui mừng và hãnh diện. Sự thành công đó khích lệ các ông vững bước theo Chúa hơn,  nhưng cũng có thể đưa các ông đến chỗ tự mãn mà quên rằng tất cả đều có bàn tay Thiên Chúa.

Chúa Giêsu đã nhắc nhở các môn đệ:”Các con chớ vui mừng vì ma quỉ phải khuất phục các con, nhưng hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi ở trên trời”. Tên đã được ghi ở trên trời cũng có nghĩa là đã thuộc vào hàng ngũ  Thiên Chúa, nhờ đó được nghe những điều các Tiên tri và vua chúa hằng ao ước được nghe mà không được.

  1. Sau khi nghe các môn đệ trình thuật với Chúa những thành công của họ, Chúa Giêsu đã thưa với Cha Ngài:”Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho các bậc khôn ngoan, thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người hèn mọn”.  Lời này còn được Chúa trình bầy dưới một hình thức khác:”Nếu anh em không đón nhận Nước Thiên Chúa  như  những trẻ nhỏ thì anh em sẽ không được vào”.

Như vậy người hèn mọn hay bé nhỏ là những người có tinh thần thiện chí, tâm hồn phục thiện, có lý trí không tự kiêu, và có lòng mến đầy khiêm nhường. Một người như thế là một người hạnh phúc, vì xem thấy những điều các tông đồ được xem và nghe biết những điều các tông đồ được nghe. Tức là xem thấy Chúa Giêsu và nghe biết những lời Ngài giảng dạy.

  1. Chúa Giêsu muốn chúng ta trở nên nhỏ lại trong tính xấu, để những tính tốt nơi chúng ta được lớn lên  nhất là để Chúa Giêsu Thánh Thể được lớn lên mỗi ngày trong chúng ta. Như chúng ta đã biết:”Châm ngôn sống của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu là tình yêu, yêu Chúa yêu người, với tất cả tấm lòng khiêm cung nhỏ bé như trẻ thơ  tin yêu phó tác vào cha mẹ” (x.LMTV, Gương các thánh, tập 2, tr 228).  Thật thế, có tâm hồn như trẻ thơ là điều kiện  để vào Nức Trời, như lời Chúa Giêsu đã khẳng định:”Nếu anh em không trở nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời”(Mt 18,3).

Bởi vì, trẻ thơ có các đặc tính: khiêm nhường, nghèo khó, trông cậy, đơn sơ… nhờ những đức tính đáng quý này mà Chúa Giêsu đã đưa trẻ em làm lý tưởng sống  cho những ai muốn vào Nước Trời. Và thánh nữ Têrêsa Hài Đồng  đã sống với tâm hồn trẻ thơ để trở nên thánh thiện, bằng việc yêu mến và phó thác hoàn toàn cho Chúa (Phút lắng đọng).

  1. “Các con hãy vui mừng vì tên các con được ghi trên trời” (Lc 10,20).

Sau những thành công trong công tác mục vụ hoặc truyền giáo, thường chúng ta rất vui vì được người ta khen ngợi – vui vì đã phục vụ: điều đó là tâm lý thông thường của con người chúng ta, không có gì đáng trách.  Nhưng Chúa Giêsu nhắc chúng ta  về một niềm vui lớn lao hơn gấp bội: vui vì được kể là công dân Nước Chúa, vui vì được làm cộng sự viên của Chúa, vui vì hạnh phúc vĩnh viễn mai sau.  Đây mới là niềm vui thánh thiện, niềm vui của những con người đã vươn lên tới đỉnh trọn lành.

Vâng, tất cả những niềm vui trần thế đều rất mau qua.  Tiền bạc rồi cũng qua, địa vị, chức quyền danh vọng… rồi cũng qua.

  1. Truyện:  Cùng đích của con người.

Ngày xưa, triết gia Diogenes là một người sống rất thanh bạch, cái nhà của ông ở chỉ là một cái thùng rỗng. Ông có kiểu nói làm cho nhiều người phải ngạc nhiên.

Một hôm,  ông đến giữa chợ thành Athènes dựng một căn lều. Trước cửa lều, ông đặt một tấm bảng trên đó có ghi đậm hàng chữ như sau:

– Tại đây có bán sự khôn ngoan.

Một bậc khoa cử tình cờ đi ngang qua căn lều  đọc được lời rao bán, mới cười thầm trong bụng. Muốn biết đàng sau căn lều ấy có những gì. Ông mới sai người đầy tớ cầm tiền đến dò la và mua cho được cái  mà người bán gọi là sự khôn ngoan.

Người đầy tớ cầm tiền ra đi làm theo lời căn dặn của chủ, anh đưa cho Diogenes 3 hào và nói rằng, chủ của anh muốn có sự khôn ngoan. Cầm lấy 3 hào bỏ vào túi, triết gia Diogenes nói với người đấy tớ một cách trang trọng như sau:

– Anh hãy về đọc lại cho chủ anh nghe câu này:”Trong tất cả mọi sự hãy nghĩ đến cùng đích của mình”.  

Vị khoa cử thành Athènes vô cùng thích thú vì lời khôn ngoan này. Ông đã cho viết trước cửa nhà như khuôn vàng thước ngọc để chính ông Suy niệm mỗi ngày và tất cả những ai đi qua trước nhà ông đều có thể đọc thấy.

print