Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 27 Thường Niên

print

Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 27 Thường Niên

THỨ HAI TUẦN 27 THƯỜNG NIÊN.

THỨ BA TUẦN 27 THƯỜNG NIÊN.

THỨ TƯ TUẦN 27 THƯỜNG NIÊN.

THỨ NĂM TUẦN 27 THƯỜNG NIÊN.

THỨ SÁU TUẦN 27 THƯỜNG NIÊN.

THỨ BẢY TUẦN 27 THƯỜNG NIÊN.

THỨ HAI TUẦN 27 THƯỜNG NIÊN

Lời Chúa: Lc 10, 25-37

Khi ấy, có một người thông luật đúng dậy hỏi thử Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?” Người nói với ông: “Trong Lề luật đã chép như thế nào? Ông đọc thấy gì trong đó?” Ông trả lời: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình”. Chúa Giêsu nói: “Ông trả lời đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được sống”. Nhưng người đó muốn bào chữa mình, nên thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Nhưng ai là anh em của tôi?”

Chúa Giêsu nói tiếp: “Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, và rơi vào tay bọn cướp; chúng bóc lột người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ một tư tế cũng đi qua đường đó, trông thấy nạn nhân, ông liền đi qua. Cũng vậy, một trợ tế khi đi đến đó, trông thấy nạn nhân, cũng đi qua. Nhưng một người xứ Samaria đi đường đến gần người ấy, trông thấy và động lòng thương. Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa của mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho ông chủ quán mà bảo rằng: “Ông hãy săn sóc người ấy, và ngoài ra còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về tôi sẽ trả lại ông”.

“Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?”

Người thông luật trả lời: “Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy”.

Và Chúa Giêsu bảo ông: “Ông cũng hãy đi và làm như vậy”.

Suy niệm 1: Hãy đi và làm như vậy

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Trong Tin Mừng Mátthêu và Máccô (Mt 22, 36; Mc 12, 28)

vị luật sĩ đặt câu hỏi về điều răn nào là điều răn lớn nhất.

Còn theo Tin Mừng Luca, vị này lại hỏi Đức Giêsu

về việc phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp (c. 25).

Đức Giêsu nghĩ rằng câu trả lời đã có trong sách Luật, nên Ngài hỏi lại ông.

Ông này đã trích sách Đệ Nhị Luật 6,5 và sách Lêvi 19,18 để trả lời.

Động từ yêu mến diễn tả thái độ đối với Thiên Chúa và người thân cận:

“Hãy yêu mến Thiên Chúa với tất cả trái tim con, với tất cả linh hồn con,

với tất cả sức lực con và với tất cả trí khôn con,

và người thân cận như chính mình” (c. 27).

Đức Giêsu khen ông trả lời đúng và khích lệ ông (c. 28).

Như thế giữa Ngài và vị thầy Do thái giáo đã có sự nhất trí nào đó.

Tình yêu không phải là một đòi hỏi mới của Kitô giáo,

nhưng tình yêu đã là điều cốt yếu của Do thái giáo từ xưa.

Vấn đề là phải yêu Thiên Chúa với tất cả trái tim, linh hồn, sức lực và trí khôn.

Từ tất cả được lặp lại bốn lần để nói lên một đòi hỏi tận căn, trọn vẹn.

Nhưng Đức Giêsu còn phải trả lời câu hỏi: “Ai là người thân cận của tôi ?”

Ngài đã trả lời bằng một dụ ngôn nổi tiếng,

qua đó ngài mở rộng quan niệm truyền thống về người thân cận.

Một người từ Giêrusalem xuống Giêrikhô.

Anh phải vượt qua đoạn đường dài gần 25 cây số.

Đoạn đường này thời bấy giờ có nhiều trộm cướp.

Anh đã bị bọn cướp trấn lột, đánh nhừ tử và đặt nằm đó nửa sống nửa chết.

Nhìn vào tình cảnh bi đát của anh, có ai muốn thương giúp anh không?

Có ba người đi qua chỗ anh nằm, một là thầy tư tế, hai là thầy Lêvi.

Cả hai đều phản ứng như nhau: thấy và tránh qua bên kia mà đi (cc. 31-32).

Chúng ta không rõ tại sao họ làm thế.

Có thể vị tư tế sợ mình bị ô nhơ qua việc đụng chạm đến xác chết,

vì sách Lêvi (21, 1-3) cấm không được làm thế, trừ phi là xác bà con gần.

Một người Samari là nhân vật thứ ba đi ngang qua nạn nhân.

Hầu chắc nạn nhân này là một người Do Thái,

vì không có chi tiết nào cho thấy anh ta là dân ngoại cả.

Giữa dân Do Thái và dân Samari vốn có mối hiềm thù từ lâu.

Người Samari này cũng thấy nạn nhân như hai người trước,

nhưng đó không phải là cái nhìn lạnh lùng, vô cảm.

Anh thấy bằng trái tim mình, vì thế anh chạnh lòng thương (c. 33).

điều mà hai người trước không có.

Chính sự thúc đẩy của trái tim đã khiến anh làm một loạt hành động cụ thể:

lấy dầu và rượu đổ lên vết thương, băng bó, đặt nạn nhân trên lưng lừa,

đưa về quán trọ săn sóc, ở lại quán trọ nguyên ngày hôm ấy,

trả tiền cho chủ quán và hứa sẽ trở lại trả thêm nếu cần (cc. 34-35).

Lòng thương xót thật sự khiến anh chấp nhận mất công, mất của, mất giờ,

và có thể mất mạng nữa, vì có thể tên cướp vẫn còn núp đâu đây.

Khi giúp cho kẻ lâm nạn, dù biết đó là một người Do Thái kẻ thù của mình,

người Samari đã làm một phép lạ lớn.

Đó là biến mình trở thành người thân cận với anh ấy,

và biến anh ấy, kẻ thù của mình, trở thành người thân cận với mình.

Đây là phép lạ của tình thương phá vỡ và vượt qua mọi biên giới

của chủng tộc, tôn giáo và nhất là vượt qua những thù oán lâu đời.

Để trả lời câu hỏi của vị luật sĩ: ai là người thân cận của tôi ?

Đức Giêsu đặt câu hỏi ngược lại cho vị này: “Theo ông,

trong ba người, ai đã trở nên người thân cận với kẻ bị nạn ?” (c. 36).

Câu hỏi quá dễ, nhưng hàm chứa một điều mới mẻ sâu xa.

Trước khi giúp một người,

tôi không nên tự hỏi người này có thân cận với tôi không.

Chúng ta không chỉ giúp những người thân cận và loại trừ người khác.

Chúng ta giúp một người chỉ vì người đó đang cần chúng ta.

Giúp đỡ cụ thể là cách tạo ra người thân cận

Càng giúp nhiều, ta càng có nhiều người bạn thân.

Vị luật sĩ đã hỏi Đức Giêsu phải làm gì (c. 25).

Kể xong dụ ngôn, Đức Giêsu trả lời: Hãy đi và hãy làm như vậy (c. 37).

Đất nước chúng ta đã giàu lên đáng kể, nhưng vẫn không thiếu người nghèo,

nghèo sức khỏe, nghèo tri thức, nghèo vật chất tối thiểu, nghèo nhân phẩm…

Chúng ta cũng bị cám dỗ “tránh sang bên kia đường”,

thấy mà làm như không thấy những Ladarô nằm trước cửa.

Yêu những người nghèo như chính mình, yêu cả những ai đã làm khổ mình.

Đó là cách chúng ta rao giảng Tin Mừng cho quê hương Việt Nam hôm nay.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa,

lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau

để làm thành một vòng tròn khép kín.

Sau đó chúng con hiểu rằng

cần phải buông tay nhau

để nhận những người bạn mới,

để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng

và trái tim được lớn lên mãi.

Lạy Chúa, chúng con biết rằng

cần phải nối vòng tay lớn

xuyên qua các đại dương và lục địa.

vòng tay người nối với người,

vòng tay con người nối với Tạo Hóa.

Chúng con thích Chúa

đứng chung một vòng tròn

với tất cả loài người chúng con,

nắm lấy tay chúng con

và đưa chúng con lên cao.

Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá

giúp chúng con biết cầm lấy tay nhau

và nhận nhau là anh em.

Suy niệm 2: Ai là người thân cận của tôi?

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Tiên tri Gio-na và người Sa-ma-ri-ta-no nhân hậu là hai hình ảnh trái ngược. Gio-na là người Do thái, người có đạo, nhưng tâm địa hẹp hòi không muốn cứu dân thành Ni-ni-ve. Người Sa-ma-ri-ta-no nhân hậu là người ngoại đạo, nhưng tấm lòng bác ái bao la, quan tâm chăm sóc cho tha nhân. Gio-na là tiên tri, là người tin có linh hồn nhưng lại chẳng quan tâm cứu linh hồn dân thành Ni-ni-ve. Còn người Sa-ma-ri-ta-no nhân hậu tuy không có đức tin nhưng đã sẵn sàng cứu giúp dù chỉ là thân xác người lâm nạn. Gio-na là tiên tri của Chúa nhưng lại không vâng lệnh Chúa truyền. Người Sa-ma-ri-ta-nô nhân hậu không có đạo nhưng lại thực hành Lời Chúa. Và được Chúa đem làm gương mẫu cho những nhà lãnh đạo: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”. Bên trong hai bài Sách Thánh còn những trái ngược lớn lao gây suy nghĩ. Gio-na là tiên tri thì trốn Chúa. Những người đi thuyền ngoại đạo lại muốn tìm thánh ý Chúa, muốn cầu nguyện cùng Chúa. Cũng vậy thầy tư tế và thầy Lê-vi trong đạo tránh qua một bên để khỏi giúp người bị nạn. Trong khi người ngoại đạo xứ Sa-ma-ri lại tỏ lòng nhân hậu cứu giúp nạn nhân (năm lẻ).

Và để trả lời cho câu hỏi: “Ai là người thân cận của tôi?”, Chúa Giêsu đã hỏi ngược lại: “Theo ông, ai là người thân cận của người bị nạn?”. Chúa Giêsu trả lời bằng một mệnh đề kép. Muốn có người thân cận, chính tôi phải thân cận với mọi người. Nói khác đi người thân cận không tự nhiên có nhưng tôi phải tạo ra. Tôi tạo ra người thân cận bằng tấm lòng nhân hậu, bằng thái độ quảng đại, bằng cử chỉ phục vụ. Như thế người thân cận là tất cả những ai cần sự giúp đỡ, cần sự quan tâm, là những ai đang lâm nạn, đang không thể tự lo cho mình, cả phần hồn lẫn phần xác.

Trong thư Ga-lát, thánh Phao-lô chê trách giáo dân Ga-lát đã mau chóng trở mặt lại giáo lý của Chúa. Lời chê trách đó có thể áp dụng cho Gio-na. Dù là tiên tri nhưng lại không tuân lời Chúa dạy. Lời đó cũng nhắm đến thầy tư tế và thầy Lê-vi vì đã không thực hành Lời Chúa. Lời thánh nhân chê trách cũng nói với chúng ta hôm nay, có đạo nhưng lại không tuân giữ Lời Chúa (năm chẵn).

Chúng ta có thể hỏi một câu hỏi khác. Ai là người thân cận của Chúa. Câu trả lời thật hiển nhiên. Nhưng khá cay đắng. Không phải vị tiên tri người đem Lời Chúa cho mọi người. Không phải thày tư tế và thày Lê-vi những người dâng của lễ trên bàn thờ, trước tôn nhan Chúa. Nhưng lại là người Sa-ma-ri-ta-nô, kẻ ngoại đạo. Hôm nay, chúng ta hãy tỉnh ngộ trở nên người thân cận của mọi người. Và người thân cận của Chúa. Như thế tôi mới “được sự sống đời đời làm gia nghiệp”.

 

Suy niệm 3: Người Samaritanô Nhân Hậu

Một phóng viên nọ muốn biết cách đối xử với con người thế nào, ông đã giả vờ làm người bị thương nằm bên vệ đường cùng với chiếc xe bị hư của ông. Nhiều người đã đi qua…, cuối cùng có một người dừng xe lại xem xét và đến trạm gọi điện thoại cho cảnh sát. Người phóng viên đã cẩn thận ghi các số xe đã chạy qua, sau đó, ông đến tận nhà họ để phỏng vấn. Mỗi người đều nói lên lý do của mình, nhưng không ai nghĩ mình một ngày kia có thể rơi vào hoàn cảnh như thế: bàn tay của mình đưa ra để mong tìm được sự nâng đỡ của người khác mà không gặp được.

Người Samaritanô nhân hậu được nhắc đến trong Tin Mừng hôm nay là chính Chúa Giêsu. Dĩ nhiên, các tư tế, lêvi có lý do của họ: họ đã sống đúng luật, tuy nhiên luật đã giết chết lòng yêu thương của con người vì trọng mặt chữ mà thôi. Chúa Giêsu đã vượt qua luật lệ và hướng dẫn tâm hồn con người lên cao, đi vào chiều sâu của bác ái. Ngài đã đến với từng con người, Ngài không đứng xa nhìn con người đương đầu với những khó khăn thử thách trong cuộc sống. Như người Samaritanô nhân hậu, Ngài đến gần bên con người, Ngài nhìn họ với ánh mắt đầy trắc ẩn, cảm thông, Ngài cúi xuống băng bó các vết thương của họ và còn tình nguyện trả nợ cho họ bằng giá máu của Ngài khi chấp nhận chết trên Thập giá để cứu sống và đưa họ về quê trời.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta noi theo gương mẫu của người Samaritanô nhân hậu là hình ảnh của chính Chúa. Chung quanh chúng ta còn biết bao nạn nhân, dưới nhiều hình thức, đang chờ bàn tay nâng đỡ của chúng ta. Nhưng thử hỏi chúng ta đã làm được gì? Có thể chúng ta không có tiền bạc, nhưng một lời nói, một nụ cười, một cử chỉ, một việc làm tốt cũng có sức xoa dịu và cảm thông với những nỗi khổ đau của đồng loại.

Nguyện xin Chúa kiện cường lòng bác ái của chúng ta, một lòng bác ái biết tìm đến, dừng lại và xoa dịu những nỗi khổ đau của người khác; một lòng bác ái vị tha, không bị lấm bẩn bởi bản tính ích kỷ trục lợi.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Suy niệm 4: Biến Ðổi Tâm Hồn

Chủ đề chính của đoạn Phúc Âm trên đây là tình yêu thương đối với người lân cận và chủ đề được nhắc đến do bởi hai câu hỏi của luật sĩ: “Tôi phải làm sao để được sống đời đời?” và “Ai là người anh em tôi?”

Chúa Giêsu đã để cho chính luật sĩ phải trả lời cho câu hỏi thứ nhất: “Tôi phải làm gì để được sống đời đời?”, và vị luật sĩ đã trả lời đúng trăm phần trăm, dựa trên chính lời Kinh Thánh mà ông đã biết nằm lòng. Và nếu đã biết rõ như vậy rồi thì đâu còn lý do gì để hỏi Chúa Giêsu nữa. Không cần phải luật sĩ mới trả lời cho câu hỏi này, mọi thành phần dân Chúa đều có thể trả lời. Vấn đề là nơi câu hỏi thứ hai: “Ai là người anh em tôi?” Sự hiểu biết thông thái của luật sĩ làm ông ta lúng túng vì hẳn thật vào thời Chúa Giêsu có nhiều trường phái luật sĩ khác nhau đã cố gắng trả lời cho câu hỏi này, nhưng chưa có câu trả lời nào thỏa đáng cả. Có trường phái cho rằng người lân cận mà luật Môisen buộc phải yêu thương là cha mẹ, bạn bè, người đồng hương. Như thế, nhà luật sĩ có lý do để hỏi Chúa Giêsu: “Ai là anh em tôi?”, ông muốn biết những giới hạn của tình thương đối với anh chị em để rồi từ đó xác định những bổn phận cần phải tuân giữ. Chúa Giêsu trả lời bằng dụ ngôn người Samari nhân hậu để giúp cho luật sĩ biết là không có giới hạn nào cho tình thương đối với anh chị em và bất cứ ai cần trợ giúp thì người đó là anh chị em của mình. Kết thúc dụ ngôn, Chúa Giêsu đã đặt lại vấn đề như sau: “Ai trong số những kẻ qua đường là người anh em của kẻ bị cướp?”, và dĩ nhiên luật sĩ cũng đã trả lời đúng: “Thưa là kẻ có lòng thương xót người ấy”.

Giải quyết vấn đề trên bình diện tri thức hiểu biết xem ra rất dễ, chỉ cần một chút hướng dẫn như Chúa Giêsu đã làm trong dụ ngôn thì ta có thể biết được câu trả lời cho vấn đề, nhưng để vào nước Chúa không phải chỉ có biết mà thôi, cũng không phải chỉ nói Lạy Chúa, Lạy Chúa mà thôi, nhưng còn phải thực hành, phải làm nữa, phải thực hiện lời dạy của Chúa và phải làm ngay không được chần chờ.

“Hãy đi và làm như vậy!” xem ra Chúa Giêsu không muốn vị luật sĩ ở lại để tranh luận lý thuyết với Chúa mãi mãi mà hãy dấn thân hành động, vì thế liền sau câu trả lời thứ hai của vị luật sĩ, Chúa Giêsu khuyến khích ngay: “Hãy đi và làm như vậy!”

Khi phải hành động giúp đỡ anh chị em, chúng ta thường hay có thái độ chần chờ, tìm sự chân thành lý do để tránh né để khỏi phải cho đi, để khỏi phải làm ngay công việc bác ái phải làm. Vì thế, vấn đề là luôn luôn phải sẵn sàng phục vụ, vấn đề bắt đầu từ tâm hồn của chúng ta trước, vì phải có tâm hồn yêu thương, cần canh tân chính mình trước. Chúng ta đã thấy Chúa Giêsu đã đổi lại viễn tượng, đã đổi lại câu hỏi của luật sĩ, câu hỏi không còn là: “Ai là anh em ta?” nhưng là: “Ai là anh em của người bị nạn?”

Khi tâm hồn chúng ta đã được biến đổi rồi, đã có đầy tình yêu Chúa rồi thì chúng ta sẽ dễ dàng chu toàn mệnh lệnh yêu thương của Chúa hơn, sẽ yêu thương như Chúa, yêu thương không giới hạn, không tính toán, yêu thương cả đến hy sinh mạng sống mình. Không có tình yêu này to lớn hơn tình yêu của kẻ hiến mạng sống mình cho người mình thương. Vấn đề không phải là biết: “Ai là anh em của tôi?” nhưng vấn đề là biến đổi tâm hồn chúng ta để chúng ta trở thành người lân cận, người anh em của tất cả những anh chị em chung quanh chúng ta.

Lạy Chúa, xin giúp con canh tân chính tâm hồn mình trước và giúp con trở thành người lân cận của tất cả mọi người, mọi nơi và mọi lúc.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Suy niệm 5: Ai là người thân cận của tôi?

Và này có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng: “Thưa Thầy tôi phải làm gì để được sự sồng đời đời làm gia nghiệp?”Người đáp: “Trong luật đã viết gì? ông đọc thế nào? Ông ấy thưa: “ngươi hãy yêu mến Đức Chúa,Thiên Chúa của ngươi, và người thân cận như chính mình.” (Lc.10, 25-27)

Đây là vấn đề chính luôn luôn được đặt ra qua các thời đại: Ai là người thân cận của tôi? Chính ở điều này, Đức Kitô đã hoàn thành một cuộc cách mạng vĩ đại. Người sắp cho ông luật sĩ một bài học sáng giá về bác ái qua một dụ ngôn rất ý nghĩa và rõ nét.

Ông đã hỏi Ngài: “Ai là người thân cận của tôi? ”Đức Kitô đã giải đáp vấn đề cho chúng ta biết cách thực hiện ai là người thân cận của chúng ta. Trong những người chung quanh tôi, những người tôi gặp, ai là anh chị em tôi? Đức Kitô nói: “Một người nào đó đi từ Giê-ru-sa-lem xuống Giêricô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch và đánh nhừ tử người ấy rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết bên lề đường. Tình cờ có thầy tư tế cũng đi xuống con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi! cũng thế, một thầy lê-vi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, bỏ tránh qua bên kia mà đi! nhưng một người Samari đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy và chạnh lòng thương, ông lại gần lấy dầu rượu băng bó vết thương người ấy, đặt lên lừa, đưa về quán trọ mà săn sóc, lấy tiền nhờ chủ quán cứu chữa bệnh nhân!

Một người Samari nào đó chẳng quen biết, thuộc dân tộc ly giáo với Do-thái, họ không thờ Thiên Chúa ở Giê-ru-sa-lem nhưng ở núi Garidim! Thế mà ông đã lo chăm sóc cho một người cùng khổ hoạn nạn cướp bóc đánh đập và gánh lấy trách nhiệm cứu chữa. Ông không cần biết đó là ai, dân mình hay dân khác, bạn hay thù! không kể đến tốn phí bao nhiêu! ông chỉ thấy đó là một người cần giúp đỡ. Bác ái không từ bỏ một ai trong bất cứ một hoàn cảnh nào, nơi nào, thuộc hạng nào! bác ái có mặt mọi nơi, nơi nào có khổ sở cần xoa dịu giúp đỡ là có bàn tay êm ái nâng đỡ, có lòng tận lực chi trả, có lời an ủi âm thầm tâm sự, thông cảm mọi cảnh éo le, chia sẻ mọi cuộc sống ngoài lề xã hội, băng bó những xung đột, âu yếm những người bị bỏ rơi, hy vọng làm sáng lên những nơi đen tối, chia vui cho những nơi bị xáo trộn, bất ổn.

Bác ái hiện diện khắp nơi, nơi nào có tiếng nhân loại kêu cùng khổ là có con tim đến tiếp cứu, đến biến đổi nó lên tươi sáng. Bác ái hiện diện trên mọi trận tuyến, bạn cũng như thù, tương trợ lẫn nhau trong khắp thế giới. Lúc đó và chỉ như thế, chúng ta mới là anh chị em thân cận với nhau.

GF

Suy niệm 6: Yêu là biết hy sinh cho người mình yêu

Xem lại CN 15 TN C, CN 30 TN A, CN 31 TN B, thứ Ba tuần 1 MV, thứ Sáu tuần 3 MC, thứ Năm tuần 9 TN và thứ Sáu tuần 20 TN

Bài hát: “Qua cầu gió bay” có lẽ nhiều người trong chúng ta đều đã quen thuộc, hoặc đôi khi còn thuộc lòng! Bài hát này diễn tả tình yêu của hai người: khi yêu nhau, họ trao tặng cho nhau tất cả, ngay kể cả cái áo, cái nhẫn và chiếc nón là những thứ gắn liền với bản thân của con người, nhưng một khi đã yêu thì sẵn sàng trao tặng, miễn sao người mình yêu được vui và hạnh phúc…

Bài Tin Mừng hôm nay, qua hình ảnh người Samaritanô nhân hậu, Đức Giêsu cũng dạy cho người thông luật một bài học của tình yêu. Tình yêu đó là một tình yêu biết cho đi, hy sinh và chấp nhận gian khó vì người mình yêu.

Khởi đi từ việc người thông luật đến hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?”; và: “Ai là anh em của tôi?”. Đức Giêsu đã giúp ông xác tín nguyên lý của sự sống đời đời là yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu người thân cận như chính mình.

Tuy nhiên, Đức Giêsu còn muốn ông đi xa hơn nữa trên lộ trình tình yêu đó khi  kể cho ông nghe dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu.

Hình ảnh của người Samaritanô nhân hậu đối đãi với nạn nhân như: dừng lại, băng bó vết thương, xức dầu và rượu, đỡ nạn nhân lên lừa của mình, đưa về quán trọ, thuê người chủ quán trọ săn sóc cho nạn nhân … tất cả những nghĩa cử đó cho thấy người Samaritanô đã vì yêu mà chấp nhận tất cả, chịu đựng tất cả, cho đi tất cả… ngang qua hành vi của người Samaritanô, Đức Giêsu muốn giới thiệu cho người thông luật biết: những người đau khổ chính là anh em của ông.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy đi và làm như người Samaritanô nhân hậu, làm tất cả và cho đi tất cả vì người mình yêu.

Có lẽ chúng ta sẽ thắc mắc là nhiều khi tôi nghèo quá, nên khó có thể có gì để thể hiện tình yêu như người Samaritanô với người thân cận. Tuy nhiên, chúng ta sẽ không nghèo đến độ không thể không có gì để cho!

Có thể tôi nghèo về vật chất, nhưng tôi giàu về tấm lòng, giàu về tình yêu. Tôi không có hiện vật để trao tặng, nhưng tôi có nụ cười, thời giờ, niềm an ủi, sự cảm thông và tinh thần liên đới… Đây chính là món quà cao quý hơn cả bạc vàng.

Mong sao mỗi chúng ta hiểu rằng: chỉ có tình yêu là không thể chết, và cho đi là còn mãi.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết yêu mến Thiên Chúa tha thiết và yêu tha nhân như chính mình. Đồng thời xin cho chúng con biết sống tinh thần liên đới trong một thế giới quá nhiều bất công và vô cảm. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy niệm 7: Mẫu gương sống luật yêu thương

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Mến Chúa yêu người: đó là con đường đưa loài người đến sự sống đời đời. Dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu chính là mẫu gương sống luật yêu thương.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trên thế giới hôm nay có rất nhiều người đang đau khổ. Họ là những gia đình li tán, những đứa trẻ bị bỏ rơi, những người đang quằn quại trong cơn đói, những chiến binh gục ngã nơi chiến trường, những kẻ thất nghiệp bơ vơ không nhà cửa, và chung quanh con không thiếu những người đang mỏi mòn chờ đợi con yêu thương giúp đỡ. Thế mà con vẫn tự hỏi: Ai là người anh em mà tôi phải thương mến ?

Lạy Chúa, rất nhiều lần con đã có thái độ ích kỷ như thầy tư tế và thầy Lê-vi trong câu chuyện dụ ngôn, con cố tình làm ngơ hoặc dửng dưng trước những nỗi đau của tha nhân. Con sợ người ta quấy rầy cho dù con biết rõ những nhu cầu cần thiết của họ. Con không quan tâm đến những người nghèo khổ, những bệnh nhân, những người gặp hoạn nạn, vì con sợ mất thời giờ và hao tốn tiền của. Và như thế, lạy Chúa, con đã không sống luật yêu thương của Chúa.

Xin cho con biết bắt chước người Sa-ma-ri nhân hậu biết yêu thương tha nhân bằng tình yêu không tính toán và không biên giới. Xin hãy canh tân tâm hồn con. Xin Chúa mở rộng tầm nhìn và đôi bàn tay của con, để con nhận biết mọi người là anh em để con yêu thương phục vụ họ.

Và xin cho con biết chấp nhận những phiền hà khi giúp đỡ anh em, chấp nhận những mất mát khi cho đi chính con người và tiền bạc của con. Lạy Chúa, xin Chúa giúp sức để con thực hiện trọn vẹn giới luật yêu thương của Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Ai là anh em của tôi ?”

Suy niệm 8: Hai chiều kích của yêu mến

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Sir Launfal, một hiệp sĩ trẻ hào hùng. Một ngày nọ chàng hiệp sĩ lên đường đi truy tìm chiếc chén thánh mà Chúa Giêsu đã sử dụng trong bữa tiệc ly. Khi chàng bắt đầu rời khỏi thành phố ra đi thì gặp ngay một người cùi đang ngồi ăn xin bên vệ đường. Chạnh lòng thương, chàng đã giúp cho người cùi một đồng, rồi ra đi. Chàng tìm mãi chẳng thấy chén thánh đâu!

Thất bại, chàng hiệp sĩ bèn lên ngựa quay trở về nhà. Lúc này chàng đã già hơn xưa sau cuộc hành trình tìm kiếm thật gian khổ. Còn người cùi vẫn ngồi ăn xin ở chỗ cũ. Chàng hiệp sĩ chẳng còn tiền bạc gì nữa để cho, anh chia sẻ với người cùi mảnh bánh vụn còn lại của anh. Ăn xong, họ chẳng có gì để uống. Chàng hiệp sĩ bèn lấy cái tô của người cùi đi tìm nước cho người cùi uống. Khi chàng bưng tô nước quay trở lại đưa cho người cùi thì người cùi đã biến thành Chúa Giêsu và tô nước hoá nên chén thánh mà chàng đang đi tìm kiếm.

Suy niệm

Tình yêu mà Chúa Giêsu nói đến có hai chiều kích: Yêu mến Thiên Chúa và yêu mến anh em. Việc tôn thờ, yêu mến Thiên Chúa có lẽ chẳng ai thắc mắc. Còn chiều kích yêu mến với anh em thì Chúa Giêsu đã làm một cuộc cách mạng khi mạc khải một tình yêu không biên giới nơi tha nhân bằng dụ ngôn người Samaria nhân hậu (x. Lc 10,30-35).

Do những nguyên nhân về lịch sử và thực hành tôn giáo, người Samaria và người Do Thái không ưa nhau, quan hệ giữa hai miền này rất căng thẳng đến nỗi họ không thể nói chuyện với nhau. Qua thời gian, sự căng thẳng này dẫn đến việc người Do Thái không được giao thiệp với người Samaria và ngược lại như luật của họ. Cho nên, Tin Mừng Gioan kể lại các môn đệ của Chúa rất ngạc nhiên khi Chúa nói chuyện với người phụ nữ Samaria. Sự ngạc nhiên này cũng thể hiện nơi người phụ nữ Samaria khi Chúa Giêsu xin chị nước uống, chị bối rối và trả lời: “Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao ?”. Gioan đã khẳng định: “Quả thế, người Do Thái không được giao thiệp với người Samaria” (x. Ga 4,1-42).

Trong dụ ngôn Chúa Giêsu trình bày, người Samaria đã vượt qua ranh giới chủng tộc mà con người đã tự tạo ra để ngăn cách tình anh em, xé rào những bất đồng để đến cứu nguy người anh em Do Thái bị cướp, đánh đập nguy hiểm đến tính mạng. Chúa Giêsu cũng kêu gọi người anh em Do Thái cũng hãy đáp lễ, xé rào hận thù, xóa bỏ ngăn cách của chủng tộc để đến với tha nhân mà bước đầu tiên là anh em Samaria bên cạnh. Trước đó, Chúa Giêsu đã xé rào bằng tinh thần đối thoại qua việc Chúa đã trao đổi với người phụ nữ Samaria, một hình ảnh tối kị trong quan hệ Do Thái – Samaria.

Yêu thương anh em và anh em chính là tha nhân, bất cứ người nào ngoài ta, “Cứ làm như vậy là sẽ được sống” (Lc 10,28) như Chúa Giêsu đã truyền. Hãy thi hành một tình yêu không biên giới đối với tất cả mọi người dù là người thân cận hay có thù oán. Chúa Giêsu dạy chúng ta phải yêu thương mọi người, kể cả những người không hợp với mình và thù ghét mình (Mt 5,44).

Tình yêu mới: “Yêu không biên giới”, là cơ bản trước mọi hành động của đời sống người Kitô hữu như thánh Âugustinô nói: “Cứ yêu đi rồi muốn làm gì thì làm”. Tình yêu sẽ cho ta biết ta phải làm gì. Không tình yêu, mọi hành động đều vô nghĩa. Thánh Phaolô nói rất rõ: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13,3). Tình yêu không biên giới dành cho tha nhân là dấu chứng cho tình yêu của mình đối với Thiên Chúa, nếu có biên giới, tình yêu với Thiên Chúa là giả dối, như thánh Gioan Tông đồ có viết: “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4,20).

“Tôi phải làm gì để được sống đời đời”, đó cũng là điều luôn thao thức trong tâm hồn tôi tâm hồn bạn. Tiếng vang vọng lại trong cõi lòng: “Hãy đi và làm như vậy” (Lc 10,37): Làm như người Samaria nhân hậu, dám phá tan cái rào cản thù hiềm của ngăn cách chủng tộc, màu da, ngôn ngữ để giúp người anh em trong lúc khốn cùng cần có người giúp đỡ. Làm như người Samaria là thiệt thòi về thời gian, công sức, tiền của để cứu người anh em xa lạ có hiềm khích.

Ý lực sống:

“Tình yêu này là lời ca, lời ca đánh thức tôi. Lời ca dạy tôi những gì tôi đã học, chỉ cho tôi những nẻo đường bí mật và những vì sao nơi chân trời của trái tim tôi” (Tagore, Lời dâng).

Suy niệm 8: Ai là người thân cận của tôi

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Người Do thái vẫn biết giới luật cao trọng hơn hết là “Mến Chúa hết lòng và yêu người thân cận như chính mình”. Mến Chúa thì sẽ hiểu, còn yêu tha nhân thì họ khó hiểu, vì họ có cái nhìn thiển cận và hẹp hòi về những người ngoài dân tộc Do thái. Chính vì vậy, một người thông luật đã đến hỏi thử Chúa Giêsu xem ai là người thân cận của ông và ông xin Chúa cho một câu định nghĩa. Nhưng thay vì lý thuyết suông, Ngài đã đưa ra dụ ngôn người Samaritanô nhân lành để cho ông một bài học.

Đối với luật sĩ và biệt phái thì luật mến Chúa thì quá rõ, ai cũng biết vì nó có ở trong kinh Schema mà người Do thái đọc hằng ngày; nhưng còn luật yêu người thì họ còn mù mờ: “Thế nào là yêu người thân cận như chính minh ? Người thân cận là ai ?” Chính vì vậy mà một người thông luật đến chất vấn Đức Giêsu xem người thân cận là ai ? Đức Giêsu không trả lời bằng lý thuyết suông có thể gây tranh luận, Ngài dùng dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu, để nói cho người thông luật biết rằng: người thân cận không phải chỉ là người Do thái, mà là bất cứ ai không phân biệt chủng tộc, giai cấp, màu da hoặc tín ngưỡng đang cần đến sự giúp đỡ của chúng ta.

Ngày nay chúng ta hay nói: “Tứ hải giai huynh đệ”: bốn bể là anh em, nhưng người Do thái không chấp nhận quan niệm này. Luật của người Do thái đã giới hạn sự giao tiếp giữa người Do thái với những người không phải là Do thái. Theo luật của họ, người thân cận được định nghĩa là “những người con trai của xứ sở bạn”. Do đấy, chỉ có những người Do thái mới là hàng xóm, là thân cận của mình.

Đức Giêsu chủ trương ngược lại: người anh em của tôi, người thân cận của tôi là bất cứ ai tôi chọn để trở nên người anh em, người thân cận. Như vậy, không biết ai là người anh em của mình nữa, mà điều quan trọng là tìm cách để trở nên người anh em, người gần gũi với bất cứ ai đang cần sự giúp đỡ.

Có người nói tình yêu đích thực được thể hiện qua bốn phương diện: (1) sẵn lòng giúp đỡ; (2) biết xót xa trước đau khổ và (3) biết vui mừng trước hạnh phúc của người khác; cuối cùng (4) biết tha thứ. Chúa Giêsu đưa ra nhân vật Samaritanô như một điển hình về tình yêu đích thực đó. “Chạnh lòng thương” trước tình cảnh khốn khổ cấp bách của một người không quen biết, thay vì bỏ đi như thầy tư tế và thầy Lêvi với những bận rộn của mình – mà ai lại không có những việc bận rộn cơ chứ ? – ông Samaritanô này sẵn sàng gác lại công việc của mình, và dốc toàn lực cứu chữa người bị nạn cách tận tình. Với nghệ thuật kể chuyện tài tình, Chúa mô tả tỉ mỉ những việc làm bác ái của người Samaritanô. Ngài dạy chúng ta yêu thương đích thực phải thể hiện bằng việc làm cụ thể và Ngài kết luận cũng rất cụ thể: “Hãy đi và làm như vậy” (5 phút Lời Chúa).

Nhà văn Mark Twain nói: “Từ ngữ ‘mưa’ sẽ chẳng nói lên điều gì nếu như bạn chưa một lần đi trong mưa hoặc tiếp xúc với nó ? ‘Tình yêu’ cũng chẳng là gì, nếu như bạn chưa bao giờ kinh nghiệm về nó”. Người thông luật biết rất rõ hai giới răn quan trọng là mến Chúa và yêu người. Nhưng theo Đức Giêsu, để được sự sống đời đời, ông phải thực hành điều ông vừa nói. Ông sẽ không biết ‘mến Chúa yêu người’ thực sự, nếu không hiện thực hoá hai điều răn này trong suy nghĩ, lời nói và hành động của ông. Ai cũng cần có tình yêu để được sống hạnh phúc. Thế nhưng, tình yêu không phải là một khái niệm chỉ để nói suông. Tình yêu đòi hỏi chia sẻ, cảm thông, hy sinh và gắn bó với một đối tượng cụ thể. Tình yêu mời gọi mỗi người biết trao tặng một lời nói chân thành, một nụ cười khích lệ, hoặc một việc bác ái (Học viện Đa Minh).

Một cách tổng quát, chúng ta có thể thực hiện lòng yêu Chúa và tha nhân như sau:

Mến yêu Chúa: Muốn mến yêu Chúa, chúng ta có muôn vàn cách để yêu mến Ngài nhưng những cách biểu lộ ấy có tính cách chủ quan, mỗi người một cách, nhưng theo Tin mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu đã nhấn mạnh lại điều kiện tiên quyết để biết ai là người mến Chúa, đó là “Thực thi Lời Chúa, sống theo giới răn của Chúa”.

Yêu tha nhân: Muốn yêu tha nhân cho xứng đáng, hãy sống theo khuôn vàng thước ngọc này: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta như vậy” (Mt 7,12). Hay nói ngắn gọn hơn: “Ngươi hãy yêu thân cận ngươi như chính mình”(Mc 12,30). Yêu mình thế nào, thì phải yêu người như vậy. Tất nhiên mình luôn luôn muốn cho mình được những điều tốt lành, hạnh phúc và lợi ích. Không ai muốn mình bị xấu xa, khổ cực, tại hoạ; vậy yêu người cũng phải làm cho người như vậy.

Truyện: Đi tìm chén thánh

Có một câu chuyện huyền thoại về “một người Samaritanô tốt lành” có tên là Sir Launfal, một hiệp sĩ trẻ hào hùng. Một ngày nọ chàng hiệp sĩ lên đường đi truy tìm chiếc chén thánh mà Chúa Giêsu đã sử dụng trong bữa Tiệc ly. Khi chàng bắt đầu rời khỏi thành phố ra đi thì gặp ngay một người cùi đang ngồi ăn xin bên vệ đường. Chạnh lòng thương, chàng đã giúp cho người cùi một đồng, rồi ra đi. Chàng tìm mãi chẳng thấy chén thánh đâu! Thất bại, chàng hiệp sĩ bèn lên ngựa quay trở về nhà. Lúc này chàng đã già hơn xưa sau cuộc hành trình tìm kiếm thật gian khổ. Còn người cùi vẫn ngồi ăn xin ở chỗ cũ. Chàng hiệp sĩ chẳng còn tiền bạc gì nữa để cho, anh chia sẻ với người cùi mảnh bánh vụn còn lại trong cuộc đời. Ăn xong, họ chẳng có gì để uống. Chàng hiệp sĩ bèn lấy cái tô của người cùi đi tìm nước cho người cùi uống. Khi chàng bưng tô nước quay trở lại đưa cho người cùi thì người cùi đã biến thành Chúa Giêsu và tô nước hoá nên chén thánh mà chàng đang đi tìm kiếm.

Suy niệm 9: Người thân cận của tôi

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Chúng ta vừa nghe lại câu chuyện chúng ta đã thuộc lòng từ rất lâu. Ông luật sĩ hỏi Chúa: “Ai là người thân cận của tôi ?” (Lc 10,29)

Với câu hỏi này chúng ta thấy ông luật sĩ muốn hai điều:

– Ông muốn tìm một câu định nghĩa về “người thân cận”. Tại sao thế ? Thưa, vì người Do Thái thời đó chỉ hiểu “người thân cận” là những đồng bào Do Thái với mình.

– Ông muốn nghe một câu trả lời có tính lý thuyết.

Còn Chúa Giêsu thì sao ? Với dụ ngôn người Samaria nhân hậu, Chúa Giêsu muốn mọi người hiểu ba điều:

– Người thân cận là bất cứ ai (không phân biệt chủng tộc, tín ngưỡng, quan điểm…). Hình như hai nhân vật chính trong dụ ngôn này: một người là Do Thái, một người là Samaria. Người Samaria thì dụ ngôn nói rõ, còn người bị thương thì dụ ngôn bỏ ngỏ, nhưng có nhiều lý do nói rằng, đó là người Do Thái, vì những người Do Thái thường đi trên con đường này nhiều hơn người Samaria.

– Như vậy, định nghĩa về “người thân cận” không quan trọng bằng thực thi bác ái với người thân cận (Lc 10,37)

– Cuối cùng, thay vì tìm hiểu ai là người thân cận, tốt hơn nên tỏ ra mình là người thân cận đối với những kẻ đang cần mình giúp đỡ (Lc 10,36).

  1. Một phóng viên nọ muốn biết cách đối xử của con người thế nào, ông đã giả vờ làm người bị thương nằm bên vệ đường cùng với chiếc xe bị hư của ông. Rất nhiều người đã đi qua… Cuối cùng, mới có một người dừng xe lại xem xét và đến trạm gọi điện thoại gọi báo cho cảnh sát. Người phóng viên đã cẩn thận ghi các số xe đã chạy qua, sau đó, ông đến tận nhà họ để phóng vấn. Mỗi người đều nói lên lý do của mình, nhưng không ai nghĩ mình một ngày kia có thể rơi vào hoàn cảnh như thế. Đó là điều mà chúng ta ít khi để ý tới.

Sống ở đời, ai mà chẳng cần tới tình yêu. Nhưng ít người thực thi tình yêu đối với người khác. Hay nếu có, lại chỉ vỏn vẹn trong một khung cảnh gia đình hay trong một lũy tre xanh chật hẹp của mình. Chính vì thế mà trần gian mất đi rất nhiều nguồn vui thật”.

Chung quanh chúng ta còn có biết bao nạn nhân, dưới nhiều hình thức, đang chờ bàn tay nâng đỡ của chúng ta. Nhưng thử hỏi chúng ta đã làm được gì ? Có thể chúng ta không có tiền bạc, nhưng một lời nói, một nụ cười, một cử chỉ, một việc làm tốt cũng có sức xoa dịu và cảm thông với những nỗi khổ đau với đồng loại.

Vậy hãy cố gắng mà đối xử tốt với nhau và hãy cố gắng trở thành người thân cận của mọi người.

Một hôm, Thầy Antôn dẫn Thầy Amôna ra khỏi chòi tu và chỉ vào tảng đá giữa hoang địa mà nói:

– Thầy hãy mắng tảng đá và đập cho nó một cái đi.

Thầy Amôna làm theo. Lúc đó Thầy Antôn hỏi: – Tảng đá có nói gì không ?

Thầy Amôna đáp: – Không.

Thầy Antôn nói: – Thầy cũng vậy, thầy sẽ đạt tới mức độ này.

Ý thầy Antôn muốn nói là thầy Amôna phải tập sao cho mình không còn biết đến hai chữ giận dữ, không còn biết đến nóng nảy là gì nữa.

Và quả thực sau này đã xảy ra như thế. Thầy Amôna càng ngày càng tiến bộ, lòng nhân hậu của Thầy càng ngày càng tăng trưởng tới mức thầy không biết tới sự ác độc, dữ dằn là gì nữa. Về sau, khi thầy lên chức Giám Mục, có một lần các tu sĩ trong miền dẫn tới Toà Giám Mục một thiếu nữ mang bầu và xin Ngài ra hình phạt. Ngài đã ứng xử như thế nào ? Đức Cha đã đưa tay vẽ hình Thánh Giá lên bụng cô gái, rồi ra lệnh ban cho cô sáu tấm drap bằng lanh mịn và nói:

– Sợ rằng, khi cô ta sinh con, cô ta hay đứa con có thể chết, mà không có gì tẩm liệm chăng ?

Nhưng những kẻ tố cáo lại nói:

– Tại sao Đức Cha làm như thế ? Xin ra cho nó một hình phạt.

Ngài ôn tồn bảo:

– Xin anh em coi, cô ta đã đau khổ muốn chết được; tôi còn phải làm gì hơn nữa ?

Nói thế rồi Ngài cho cô ta về. Từ đấy, không tu sĩ nào còn dám tố cáo ai nữa.

Chúa Giêsu bảo chúng ta: “Hãy đi mà làm như thế”.(Lc 10,37) Điều đó không chỉ có nghĩa là chúng ta đi mà băng bó săn sóc cho những người bị thương tích, nhưng còn có nghĩa là hãy cố gắng mà trở nên người thân cận với mọi người. Nếu chúng ta làm được như thế thì những việc chúng ta đối xử tốt với nhau sẽ không còn khó khăn gì nữa, mà nó sẽ trở thành những việc tự nhiên trong cuộc đời.  

Lạy Chúa,

Giữa một thế giới

đề cao quyền lực và lợi nhuận,

xin dạy con biết phục vụ âm thầm.

Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,

xin dạy con biết yêu thương tự hiến.

Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,

xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.

Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,

xin dạy con biết coi mọi người như anh em.

Suy niệm 11: Định nghĩa về người thân cận

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Hạt giống…
  2. “Ai là người thân cận của tôi ?”. Câu hỏi này của vị Luật sĩ phản ảnh phần nào chiều hướng của ông:

– Ông muốn tìm một câu định nghĩa về “người thân cận”. Người do thái thời đó hiểu “người thân cận” chỉ là những đồng bào do thái với mình.

– Ông muốn nghe một câu trả lời có tính lý thuyết.

  1. Dụ ngôn người Samari phản ảnh chiều hướng của Chúa Giêsu:

– Định nghĩa về “người thân cận” không quan trọng bằng thực thi bác ái với người thân cận (câu 37)

– Người thân cận là bất cứ ai (không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, quan điểm…). Hình như hai nhân vật chính trong dụ ngôn này một người là do thái một người là Samari.

– Thay vì tìm hiểu ai là người thân cận, tốt hơn nên tỏ ra mình là người thân cận đối với những kẻ đang cần mình giúp đỡ (câu 36)

B…. nẩy mầm.

  1. “Sống ở đời, ai ai cũng có những lúc tối lửa tắt đèn, có lúc lá rách cần lá lành, có lúc chị ngã em nâng. Sống ở đời, ai ai mà không cần tới tình yêu. Nhưng ít người thực hiện tình yêu. Hay nếu có, lại chỉ vỏn vẹn trong một khung cảnh gia đình hay trong một lũy tre xanh chật hẹp. Cho nên cũng vì vậy mà trần gian mất đi nhiều nguồn vui thật” (Trích “TMCGK ngày trong tuần”)
  2. “Bác ái là thẻ thông hành có giá trị nhất để vào Nước Trời”. “Bác ái đích thực không tra vấn, không đặt câu hỏi” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”)
  3. Trong thế chiến vừa qua, một sĩ quan Anh thấy một sĩ quan Đức bị trọng thương, đang oằn oại bên hàng rào kẽm gai. Bom đạn ầm ầm, khói lửa ngút trời, nên không thể đưa người thương binh vào chỗ an toàn. Cuối cùng, người sĩ quan Anh tự nhủ: “Mình không đành lòng nhìn một người đau đớn khốn khổ như vậy ! ”Thế là anh phóng ra giữa lửa đạn, vác người thương binh trên vai và đưa sang phần đất mà quân Đức chiếm đóng. Khi trận chiến tạm dừng, một sĩ quan Đức bước ra khỏi chiến hào, tháo chiếc thánh giá bạc đeo trước ngực và gắn cho người sĩ quan Anh.

THỨ BA TUẦN 27 THƯỜNG NIÊN

Lời Chúa: Lc 10, 38-42

Khi ấy Chúa Giêsu vào một làng kia, và có một phụ nữ tên là Martha rước Người vào nhà mình. Bà có người em gái tên là Maria ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người. Martha bận rộn với việc thết đãi khách. Bà đứng lại thưa Người rằng: “Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với”.

Nhưng Chúa đáp: “Martha, Martha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện (quá). Chỉ có một sự cần mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất”.

Suy niệm 1: Chọn phần tốt hơn

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Nếu ở Việt Nam mỗi năm có khoảng mười hai ngàn người chết vì tai nạn giao thông,

thì ở Nhật có ba mươi ngàn người tự sát trong năm qua.

Tai nạn giao thông lắm khi do vội vã, không làm chủ được tốc độ.

Tự sát do áp lực của công việc quá lớn, do căng thẳng, do sợ bị khiển trách.

Xem ra cuộc sống hối hả đã dẫn đến nhiều cái chết thương tâm.

Nhiều người chết bất ngờ vì bệnh tim mạch.

Con người hôm nay có nhiều tiện nghi hơn, nhiều thú vui hơn ngày xưa,

nhưng lại thiếu sự thanh thản, bình an, trầm lắng.

Trong bài diễn văn ngày 20-08-2006 tại Castel Gandolfo,

Đức Thánh Cha đã cảnh báo về nguy hiểm khi làm quá nhiều công việc.

Ngài trích lời thánh Bênêđictô: bị quá tải thường dẫn đến sự chai đá của con tim,

tinh thần bị thương tổn, trí khôn bị mất và ơn Chúa bị phân tán.

Ngài khẳng định lời nhắc nhở này cũng áp dụng cả cho ngài và cho mọi người.

Không được đánh mất mình trong công việc:

đó là tâm niệm của người lãnh đạo trên một tỉ người Công Giáo khắp thế giới.

Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy một giây phút thư giãn của Đức Giêsu.

Trên con đường nay đây mai đó của một người rao giảng,

Đức Giêsu cũng có lúc dừng chân.

Một ngôi làng quen thuộc, một mái nhà ấm cúng, một bữa ăn ngon,

tất cả như một ốc đảo xanh tươi đem lại cho Thầy trò hạnh phúc

sau những vất vả, nhọc mệt, hiểm nguy và thiếu thốn.

Hầu chắc ngôi làng này ở Bêtania, gần Giêrusalem.

Hai chị em Mácta và Maria đã được nhắc đến trong Tin Mừng Gioan.

Mácta là người đón khách và nấu nướng (Ga 11, 20; 12, 2),

còn Maria thì hay phủ phục dưới chân Đức Giêsu (Ga 11, 32; 12, 3).

Những nét này ta lại thấy trong bài Tin Mừng hôm nay theo Luca.

Mácta vẫn là người ra đón Chúa, Maria vẫn là người ngồi duới chân Chúa.

Một người thiên về hoạt động, một người có vẻ trầm hơn.

Nhưng cả hai đều được Đức Giêsu quý mến (Ga 11, 5).

Chúng ta cần chiêm ngắm cuộc chia sẻ của Đức Giêsu với chị Maria.

Chị ngồi bên chân Chúa và lắng nghe lời Người (c.39).

Đức Giêsu là người nói và chị Maria là người nghe.

Ngài có thể đã chia sẻ với chị về đời sống nội tâm và việc tông đồ của ngài.

Được chia sẻ và có người nghe mình chia sẻ là một hạnh phúc.

Còn chị Maria thì sung sướng được ngồi nghe trong tư thế của một môn đệ.

Người ta có cảm tưởng chị có thái độ thụ động khi nghe.

Thật ra để lắng nghe cần tích cực mở tai và mở lòng.

Lắng nghe Lời Chúa là cần trước khi đem ra thực hành.

Mácta đón Chúa vào nhà,

còn Maria đón Lời Chúa vào tâm hồn mình.

Có thể định nghĩa cầu nguyện là ngồi và lắng nghe Chúa nói.

Một số người tưởng cầu nguyện là phải nói thật nhiều cho Chúa nghe.

Thật ra Chúa muốn bày tỏ cho ta những ước mơ của ngài về ta,

nên ta cũng cần dành khoảng lặng cho ngài.

Nghệ thuật đối thoại cũng là nghệ thuật thinh lặng lắng nghe.

Trong khi Maria ngồi nghe Chúa nói,thì Mácta tất bật dưới bếp.

Mácta bối rối về nhiều chuyện phục vụ (peri pollên diakonian, c. 40).

Chị sợ bữa ăn không được chuẩn bị chu đáo và kịp thời.

“Em con để con phục vụ một mình”: chị thấy cô đơn trong công việc.

“mà Thầy không quan tâm sao?”: chị nghĩ lẽ ra Thầy nên để ý chuyện ấy.

“Xin Thầy bảo em giúp con một tay”: chị muốn Maria xuống bếp giúp chị.

Mácta thật là người tốt, chị muốn tiếp đãi Đức Giêsu đàng hoàng.

Nhưng có lẽ chị quên rằng Maria cũng đang tiếp đãi Đức Giêsu,

và ngài rất vui với cách tiếp đãi đó.

Nếu đưa Maria xuống bếp phụ cho chị, thì Thầy Giêsu nói chuyện với ai?

Chúng ta cũng dễ say mê làm việc của Chúa, đến nỗi quên cả việc gặp Chúa.

Có khi chúng ta coi trọng hiệu quả của công việc ta làm cho Chúa

mà quên dành giờ cho Chúa.

Cầu nguyện là ở với Chúa, nghỉ ngơi bên Chúa,

sống tình bạn với Chúa như hai người ngồi bên nhau.

Đức hồng y Nguyễn Văn Thuận nhắc ta đặt Chúa lên trên việc-của-Chúa.

Đức Giêsu thông cảm với nỗi căng thẳng, âu lo của Mácta

thể hiện trên khuôn mặt và giọng nói của chị.

Ngài nhẹ nhàng gọi tên chị hai lần: “Mácta, Mácta ơi !”

“Chị băn khoăn lo lắng về nhiều chuyện quá!” (peri polla, c.41).

Câu này ngài cũng muốn nói với từng người chúng ta.

Chúng ta cũng lo nhiều chuyện, gánh nhiều trách nhiệm.

“Chỉ có một chuyện cần mà thôi”: ngài mời ta tập trung vào một chuyện cần.

Lo nhiều chuyện làm ta bị phân tán.

“Maria đã chọn phần tốt nhất”:

ngồi dưới chân Chúa là một chọn lựa nghiêm chỉnh giữa những công việc bề bộn.

Đặt Chúa lên trên và lên trước mọi việc khác là một chọn lựa không dễ dàng.

Dù sao Mácta là một thánh nữ, được Giáo Hội kính nhớ trong Phụng vụ.

Chúng ta phải làm Mácta, tận tụy với việc của Chúa, không phải việc của mình,

như thế ta sẽ bình an hơn khi thất bại, khiêm tốn hơn khi thành công.

Chúng ta phải làm Mácta, nhưng không được lo lắng, bôn chôn.

Chúng ta làm mọi việc trong an tĩnh, thư thái, vui tuơi, hài hước,

bởi lẽ Chúa chẳng đòi ta làm quá sức mình.

Chúng ta phải làm Mácta, đảm đang lo nhiều việc, nhưng không được tự hào,

coi thường những người thiếu khả năng, bệnh tật,

hay đánh giá người khác dựa trên hiệu quả công việc.

Chúng ta phải làm Mácta, nhưng không cần ai để ý (c.40).

không coi việc mình làm là quan trọng hơn việc người khác,

vì biết rằng Chúa ban cho mỗi người mỗi việc để phục vụ cho toàn thân.

Cuộc sống hôm nay khiến ta khó làm Maria.

Nhưng phải cố dành giờ để làm Maria mỗi ngày.

Phải thu xếp để được làm Maria, để có người thay mình làm Mácta.

Nghe lời Chúa sẽ dẫn tới hành động: đó là xây nhà trên đá.

Cuối cùng đời sống chúng ta là kết hợp của Mácta và Maria:

vừa đón Chúa như Mácta, vừa tiếp Chúa như Maria,

vừa làm việc của Chúa, vừa gặp gỡ chính Chúa,

vừa hoạt động, vừa chiêm niệm,

nhưng lúc nào cũng hướng về Chúa.

Cầu nguyện:

Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào,

xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.

Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc,

xin cho con quý chuộng những lúc

được an nghỉ trước nhan Chúa.

Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo,

xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa

để nghe lời Người.

Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng,

xin cho con thoát được lên cao

nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.

Lạy Chúa,

ước gì tinh thần cầu nguyện

thấm nhuần vào cả đời con.

Nhờ cầu nguyện,

xin cho con gặp được con người thật của con

và khuôn mặt thật của Chúa.

Suy niệm 2: Chọn phần tốt nhất

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Mục đích sau cùng của đời sống Ki-tô hữu là kết hợp với Thiên Chúa. Mọi công việc và đời sống ta đều nhằm đạt tới mục đích sau cùng này. Chỉ khi kết hợp với Thiên Chúa ta mới no thỏa hạnh phúc. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất vì đã đi đến kết hợp với Chúa. Mác-ta tốt nhưng chưa nhất vì việc phục vụ Chúa chỉ là con đường dẫn đến kết hợp với Chúa. Khi lên trời sẽ không còn phục vụ nữa. Chỉ còn kết hợp thôi. Vì thế phần của Ma-ri-a không bao giờ mất.

Kết hợp hệ tại mở lòng ta ra lắng nghe tiếng Chúa. Và để trọn vẹn tâm hồn cho Chúa chiếm ngụ. Lời Chúa tràn đầy tâm hồn lắng nghe như nước mưa thấm đẫm thửa đất khô cằn. Khi đã từ bỏ mình để lòng ra rỗng không, ta sẽ có đầy Thiên Chúa. Đó là hạnh phúc không gì so sánh được.

Chúa mong ước cho mọi người đạt tới hạnh phúc này nên không ngừng uốn nắn để ta biết lắng nghe tiếng Chúa. Hôm nay Chúa đã uốn nắn Mác-ta. Xưa kia Chúa đã uốn nắn Gio-na để không những ông nghe tiếng Chúa mà còn làm cho dân thành Ni-ni-vê được nghe tiếng Chúa qua lời rao giảng của ông (năm lẻ). Chúa cũng tuyển chọn Phao-lô để ngài đem Tin mừng cho dân ngoại (năm chẵn).

Để con người biết lắng nghe, nhiều khi Chúa phải sử dụng những biện pháp mạnh mẽ. Để Mác-ta tỉnh ngộ Chúa phải nói mạnh. Để Gio-na biết nghe và thực hành Lời Chúa, Chúa đã cho ông gặp tai nạn trên biển, bị quẳng xuống biển, bị cá nuốt 3 ngày. Để Phao-lô trở nên tông đồ dân ngoại, Chúa đã phải chiếu làn ánh sáng chói lòa làm cho ngài ngã ngựa, đui mù. Để dân thành Ni-ni-ve sám hối, Chúa đã phải cảnh báo, đe dọa.

Nhờ được nghe Lời Chúa qua tiên tri Gio-na, dân thành Ni-ni-vê đã biết chọn phần tốt nhất là trở về bên Chúa. Thực hành Lời Chúa. Nhờ được nghe Lời Chúa mà Phao-lô biết chọn phần tốt nhất. Ngài hoàn toàn kết hợp với Chúa đến nỗi có thể nói: “Tôi sống nhưng không còn là tôi sống. Nhưng là Chúa Ki-tô sống trong tôi”(Gl 2,19-20). Ngài đã chọn phần tốt nhất. Và không bao giờ chịu bỏ mất. “Những gì xưa kia tôi coi là mối lợi, thì nay vì Đức Ki-tô tôi coi là thiệt thòi. So với mối lợi tuyệt vời là được biết Chúa Ki-tô”(Pl 3,8).

Tôi đang chọn lựa gì cho đời sống. Tôi có chọn phần tốt nhất là ở bên Chúa và lắng nghe Lời Chúa không?

 

Suy niệm 3: Lắng Nghe và Chiêm Niệm

Ngày nay, những tiện nghi do tiến bộ kỹ thuật mang lại đang tạo ra một nền văn hóa mới đặt tính hiệu năng và khả năng tiêu thụ lên hàng đầu bậc thang giá trị: người được đánh giá cao là người tài giỏi, giầu có, làm ra tiền và có khả năng tiêu thụ cao. Trong một nền văn minh như thế, dĩ nhiên những giá trị luân lý, tôn giáo hoặc bị đưa xuống thành thứ yếu, hoặc bị quên lãng và ngay cả bị chà đạp. Ðây là một thách đố lớn lao đối với Giáo Hội. Giáo Hội qua các Kitô hữu hiện diện như một dấu chỉ của cuộc sống mai hậu và những giá trị siêu việt, nhưng liệu các Kitô hữu có còn đủ thức tỉnh và can đảm làm chứng cho những giá trị siêu việt ấy không hay chính họ cũng chiều theo cám dỗ chạy theo dòng đời, thỏa hiệp với những sức mạnh tăm tối đang xói mòn những giá trị luân lý đạo đức và loại bỏ chiều kích thiêng liêng ra khỏi cuộc sống con người?

Tin Mừng hôm nay có thể được lắng nghe và Suy niệm với nỗi thao thức ấy. Chúa Giêsu hẳn không làm một cuộc so sánh về hai thái độ: một của Marta tất bật với việc tiếp đãi khách, và một của Maria ngồi bên chân khách để trò chuyện. Trong thực tế, cả hai thái độ này đều cần thiết: tinh thần hiếu khách được biểu lộ cụ thể và tích cực qua việc chuẩn bị bữa ăn, nhưng cũng được thể hiện không kém qua sự hàn huyên ân cần. Chúa Giêsu đề cao thái độ của Maria, nhưng không hề giảm thái độ của Marta. Ngài chỉ muốn mượn hình ảnh của Maria đang ngồi dưới chân Ngài để nói lên thái độ cơ bản mà con người phải có đối với Thiên Chúa, đó là thái độ lắng nghe và chiêm niệm.

Hơn bao giờ hết, sự hiện diện của những người hiến dâng cho việc cầu nguyện và chiêm niệm là một trong những kho tàng quí giá nhất của thời đại chúng ta, để nhắc nhở cho thế giới rằng cuộc sống con người không chỉ giản lược vào điều mà thánh Phaolô gọi là chuyện ăn, chuyện uống, tôn thờ cái bụng, và rằng cuộc sống chỉ có giá trị và đứng vững vì chính chiều kích siêu việt, thiêng liêng của nó.

Trong một bài nói chuyện với các nữ tu của một Dòng Kín tại Mêhicô năm 1979, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đề cao sự hy sinh của họ như sau:

“Cuộc sống của chị em quan trọng hơn bao giờ hết; sự hiến thân trọn vẹn của chị em đầy tính thời sự. Trong một thế giới đang đánh mất dần ý thức về thần linh, trong một thế giới đề cao quá mức những thực tại vật chất, hỡi các nữ tu thân mến, các chị lại dấn thân vào các tu viện Kín để làm chứng cho những giá trị mà các chị sống cho. Các chị là những chứng nhân của Chúa cho thế giới ngày nay; với lời cầu nguyện, các chị đang thổi một luồng sinh khí mới vào trong Giáo Hội và con người ngày nay”.

Những lời của Ðức Gioan Phaolô II không chỉ đề cao chứng từ của các Tu sĩ chiêm niệm, mà còn nhắc nhở cho các Kitô hữu về chính chứng từ của sự cầu nguyện của họ. Có những người hiến thân trọn vẹn cho sự cầu nguyện, nhưng cầu nguyện không phải là độc quyền của một số người, mà phải là hơi thở cho tất cả những ai có niềm tin. Có những giây phút dành cho việc cầu nguyện đã đành, nhưng người Kitô hữu phải sống thế nào để biến cả cuộc sống của họ thành lời cầu nguyện. Chiêm niệm không chỉ là hoạt động dành riêng cho một số người hay một số giờ hoặc một số nơi nhất định. Chiêm niệm chính là thái độ tìm kiếm, lắng nghe và Suy niệm bao trùm mọi sinh hoạt của người Kitô hữu.

Nguyện xin Chúa nung nấu sự khát khao trong tâm hồn chúng ta, để chúng ta luôn hướng về Ngài, tìm kiếm Ngài và kết hiệp với Ngài trong mọi sự. Nguyện xin Mẹ Maria là Ðấng luôn cất giữ và Suy niệm mọi sự trong lòng, hướng dẫn chúng ta trong thái độ cầu nguyện và chiêm niệm của Mẹ.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Suy niệm 4: Lao Ðộng Và Cầu Nguyện

Câu trả lời của Chúa Giêsu cho Mácta đáng cho ta suy nghĩ thêm. Các nhà chú giải đề ra hai điểm. Trước hết Chúa Giêsu không có ý định giảm giá trị của công việc tiếp rước Chúa mà Mácta đang làm nhưng Ngài cảnh tỉnh Mácta về nguy hiểm Mácta đang lao vào, đó là thái độ ganh tị, thái độ muốn tách rời Maria ra khỏi Chúa Giêsu; kế đến Chúa Giêsu làm nổi bật một điểm tốt mà Maria đã biết rút ra từ hoàn cảnh, đó là đến ngồi bên Chúa lắng nghe và nói: “Việc lắng nghe Chúa có ưu tiên hơn, vì con người không sống nguyên bởi bánh mà thôi, nhưng còn do bởi lời Thiên Chúa phán ra. Vì thế, hãy tìm nước Thiên Chúa trước rồi mọi sự khác sẽ được ban cho dư đầy”. Chúa Giêsu không đề ra một lựa chọn giữa một trong hai điều: hoặc làm việc, thái độ của Mácta; hoặc chiêm niệm, thái độ của Maria, để rồi chỉ chấp nhận một thái độ duy nhất của Maria mà thôi.

Không có sự đối nghịch giữa hoạt động và chiêm niệm trong đời sống người Kitô, bởi vì cả hai đều phát xuất từ một nguồn mạch là lời Chúa và cùng hướng đến một mục tiêu là phục vụ nước Chúa.

Việc lắng nghe lời Chúa được hướng đến hành động và hành động cần được nuôi dưỡng bởi lời Chúa. Ðây là hai khía cạnh của mối phúc thật: lắng nghe và tuân giữ lời Chúa. Mối phúc thật này đã được Chúa Giêsu tuyên bố khi Ngài trả lời với người nữ từ trong dân chúng cất tiếng chúc tụng mẹ, cũng như trả lời cho những kẻ báo tin cho Chúa biết là có mẹ và anh em Chúa đang chờ, thì lúc đó Chúa Giêsu trả lời: “Nhưng phúc thật cho những ai lắng nghe lời Chúa và tuân giữ lời ấy; những kẻ đó mới là mẹ Ta và anh em Ta”. Hai chị em Mácta và Maria nhắc nhở cho cộng đoàn Kitô cũng như cho mọi người Kitô thuộc mọi thời đại về hai thái độ luôn bổ túc cho nhau, để tiếp nhận nước Chúa được hiện diện nơi chính Chúa Giêsu Kitô. Không phải chỉ cầu nguyện chiêm niệm không mà thôi; cũng không phải chỉ có hoạt động vì hoạt động. Nhưng chiêm niệm và hoạt động phải là hai chiều kích hòa hợp với nhau của cùng một trách vụ, đây là hai yếu tố không thể nào thiếu vắng của việc theo Chúa. Trong những hoàn cảnh cụ thể và tùy theo mỗi hoàn cảnh cụ thể, mà người đồ đệ của Chúa thực hiện việc hòa hợp cụ thể này giữa cầu nguyện và hoạt động. Thật là sai lầm to nếu ta muốn canh tân xã hội mà không cần cầu nguyện, nghĩa là không cần lắng nghe lời Chúa, không đối thoại với Ngài. Ðể hoạt động của chúng ta có thể trổ sinh kết quả, người đồ đệ của Chúa cần dành thời giờ im lặng để lắng nghe lời Chúa và đối thoại với Ngài. Trong ý nghĩa này, chiêm niệm là phần tốt hơn mà Maria đã chọn, nhưng không phải là phần tách rời ra khỏi việc làm, không ăn thua gì đến việc làm. Ðức tin chúng ta phải là đức tin có sức tác động qua đức bác ái, đàng khác cầu nguyện không làm cho người đồ đệ xa lạ với cuộc sống và những vấn đề của con người. Nhưng ngược lại, cầu nguyện làm cho người đó được thêm sức mạnh để hoạt động biến đổi xã hội, ngõ hầu Thiên Chúa được tôn vinh và con người được hạnh phúc.

Lạy Chúa,

Xin giúp con hiểu và thành công hòa hợp được hai yếu tố không thể tách rời của đời sống Kitô đích thực này là làm việc và cầu nguyện. Ước chi mọi việc con làm đều phát xuất từ cầu nguyện, từ việc lắng nghe lời Chúa và được nâng đỡ bởi sức mạnh của Chúa, sức mạnh được trao ban trong những giây phút con trở về lắng nghe Chúa nói.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Suy niệm 5: Hành động và chiêm niệm

Chúa đáp: “Mác-ta! Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.” (Lc. 10, 41-42)

Trong đoạn Tin Mừng này, Thánh Luca kể lại biến cố trong bữa cơm gia đình ấm cúng giữa Đức Giêsu, Matha và Maria, ông đặc biệt lưu ý đến vấn đề chiêm niệm và hành động, không phải chỉ có chiêm niệm hay hành động riêng rẽ.

Chắc hẳn, Đức Kitô không muốn đối lập Maria với Matha. Người chỉ ghi nhận những ưu tiên, nhưng không lên án những hành động của Matha. Cả hai chị em đều mến Chúa bằng nhau! nhưng mỗi người mỗi vẻ. Matha thích hành động, chị cảm thấy cần thiết đón khách chu đáo đàng hoàng mới tỏ ra lòng mến khách, quý khách. Cho nên, chị cần chuẩn bị nhiều thứ…. như vậy rất có lý! nhưng chị quá lo lắng bối rối nhiều chuyện quá. Chúa đã lưu ý chị thế! Chắc chắn là cần thổi nấu, sắp đĩa bát, dọn bàn ăn! quá lo lắng, áy náy không hợp với lúc này! Điều quan trọng chính là họp mặt, gặp gỡ nhau, trao đổi tâm sự hơn là mâm cao cỗ đầy.

Maria, cô ngồi bên chân Thầy rất mến, ngây ngất lắng nghe Người không ngớt! Hai người nói gì với nhau? bản văn không nói gì đặc biệt. Có phải nói về cái chết sắp tới của Người như đã nói với các Tông Đồ, về mọi thứ đau khổ Người mong chờ và chấp nhận để cứu chuộc loài người chăng? Cũng có thể Người nói với Maria về ý nghĩa ngược đời của tám mối phúc thật, về hạnh phúc nước trời. Khó với tới và những đòi hỏi vượt sức loài người của đức ái Kitô giáo! Không ai biết được câu chuyện đó như thế nào! nhưng Maria rất ham thích lắng nghe! Khi người ta yêu, người ta không chán nghe người yêu nói.

Matha bất bình như mọi người hoạt động bất bình với những người chiêm niệm: không làm gì nhưng lại rất hoạt động và hoạt động đúng nhất. Đức Giêsu đã đặt lại những giá trị, Người nói: “Tội nghiệp Matha, chị làm cũng được, Thầy khen chị, cám ơn chị, nhưng hãy tin Thầy đi, chị không biết rằng chị cần thấy: lúc chúng ta ngồi với nhau để chia vui sẻ buồn là tốt nhất, là lịch duyệt và dễ thương nhất! chị thử coi tình yêu chứng tỏ bằng những cử chỉ chị làm lúc này, không thể bằng ánh mắt chăm chú biểu lộ lòng yêu mến đối với sự hiện diện của Thầy được!

Không cần tiếng khua nồi niêu bát dĩa… nhưng cần thinh lặng hết lòng yêu mến tôn thờ”.

GF

Suy niệm 6: Phần tốt nhất Maria đã chọn

Xem lại CN 16 TN C

Đối với văn hóa Việt Nam luôn coi trọng vấn đề thiết đãi mỗi khi có khách đến chơi. Vì thế mới có câu: “Khách tới nhà không gà thì vịt”.

Hôm nay, bài Tin Mừng cũng trình thuật cho chúng ta thấy một cuộc tiếp đãi thịnh tình đối với Đức Giêsu mà gia đình Martha đã thực hiện. Nơi đây, Ngài nhận được sự đón tiếp nồng nhiệt của hai chị em Martha và Maria.

Nếu Martha thể hiện lòng kính trọng và yêu mến Đức Giêsu qua việc nấu ăn, thì Maria cùng một lòng kính trọng và tình yêu mến Đức Giêsu như Martha, nhưng Maria thì thể hiện cách khác là lắng nghe Lời Chúa. Hai công việc đều phát xuất từ lòng mến và được khởi đi từ sự kính trọng. Hai thái độ đều tốt. Một bề ngoài, một bề trong. Nhưng giá trị thì lại khác nhau. Hôm nay Đức Giêsu khen và nói với Maria rằng: cô đã chọn phần tốt nhất.

Thật vậy, lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành phải là điều quan trọng nhất, bởi vì: mọi sự sẽ qua đi, nhưng Lời Chúa vẫn luôn tồn tại.

Trong cuốn Đắc Nhân Tâm, bà Carnegie đã viết: “Cách làm cho khách vui lòng nhất là lắng nghe khách nói, lắng nghe ước muốn, nguyện vọng, tâm tư của người khác. Như vậy, tỏ ra mình kính trọng, quan tâm đến người để hiểu biết, thông cảm, chia sẻ những tâm tình, những kiến thức, những yêu cầu thiết thực của người, quí hơn cả cơm ăn, áo mặc”.

Thật thế, Maria đã lựa chọn điều tốt nhất là được ở bên Đức Giêsu (x. Lc 10,42), nghe lời Ngài dạy (x. Lc 10,39) và lo lắng đến những gì thuộc về Ngài (x. 1Cor 7,32). Cô đã chọn cho mình phần phúc Nước Trời, bởi lẽ Đức Giêsu chính là nội dung của Tin Mừng, là hiện thân của Nước Hằng Sống. Vì thế, có Đức Giêsu là được cả Nước Trời. Nghe được Lời Chúa nói với mình và đem ra thực hành thì được ví như “… người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá” (Mt 7, 25). Maria trong bài Tin Mừng hôm nay đã có được đầy đủ các yêu tố trên, nên cô đáng được Đức Giêsu khen là người có phúc hơn Martha.

Thật vậy, việc lắng nghe Lời Chúa và tuân giữ cũng như đem ra thực hành là thể hiện lòng yêu mến Chúa trọn vẹn, vì qua đó, Lời Chúa được bén rễ sâu và sinh hoa kết quả trong đời sống của người lắng nghe.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi chúng ta: cần siêng năng đọc Thánh Kinh, suy gẫm và đem ra thực hành cách sống động trong gia đình, lối xóm, Giáo xứ và bất cứ môi trường nào… Bởi vì: “Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô” (thánh Giêrônimô), mà không biết gì về Ngài thì sao có thể định hướng đi cho cuộc đời của mình cách tốt đẹp? (x. Thư Chung 1980, số 8).

Ước gì Đức Giêsu khen ngợi cô Maria khi xưa vì đã biết chọn phần tốt nhất cũng là lời tác phúc cho mỗi chúng ta khi mỗi người thành tâm đi tìm kiếm, yêu mến Chúa bằng việc lắng nghe và đem ra thực hành Lời ấy trong cuộc sống.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết chọn Chúa làm chủ tể đời chúng con. Xin cho chúng con biết yêu mến và lắng nghe Lời Chúa bằng thái độ của người môn đệ. Và, xin cho chúng con biết đem Lời Chúa ra để thực hành trong cuộc sống hiện tại. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy niệm 7: Lắng nghe Lời Chúa là điều cần thiết và tốt nhất

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Lắng nghe Lời Chúa là điều cần thiết và tốt nhất. Dù sống trong hoàn cảnh nào hay làm việc gì, lắng nghe Lời Chúa vẫn là điều phải làm trước tiên.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa nói: chỉ có một chuyện cần thiết, đó là lắng nghe Lời Chúa. Nhưng con làm sao có giờ để ngồi mà cầu nguyện và suy gẫm Phúc âm cả ngày. Cuộc sống của con như bà Mat-ta, quá bận rộn với những hoạt động và việc phục vụ.

Nhưng lạy Chúa, cuộc sống của Chúa an ủi và khích lệ con. Con thấy Chúa cũng hoạt động và phục vụ cả ngày. Chúa không ngồi suốt trong đền thờ. Tuy nhiên, dù bận rộn vất vả đến đâu, Chúa vẫn xếp giờ vào nơi thanh vắng cầu nguyện cùng Chúa Cha, sáng sớm tinh sương hoặc lúc đêm về. Và trong mỗi công việc, Chúa luôn tìm biết Thánh ý Chúa Cha để thi hành.

Con nhìn lên mẫu gương của Chúa để bắt chước. Dù cuộc sống hằng ngày có vất vả bận rộn đến đâu, con cũng sẽ cố gắng xếp giờ cầu nguyện, lắng nghe Lời Chúa. Con thường bị cám dỗ coi việc cầu nguyện là mất giờ, coi việc đọc và Suy niệm Phúc âm chẳng đem lại lợi ích gì cho cuộc sống. Nhưng con tin rằng những giây phút gác bỏ mọi chuyện để ngồi bên Chúa như bà Maria sẽ đem lại cho con tình yêu, ánh sáng và nghị lực, để mọi việc con làm sinh hoa kết quả tốt đẹp.

Xin giúp con lắng nghe Lời Chúa mỗi ngày để con bắt đầu một ngày làm việc trong niềm vui và hăng say. Xin giúp con sau một ngày làm việc, biết ở bên Chúa để nhìn lại cuộc sống và nghỉ ngơi bên Chúa. Và trong từng công việc, xin giúp con biết lắng nghe Ý Chúa để làm mọi việc như Chúa muốn.

Lạy Chúa, con muốn sống bên Chúa để Chúa cùng sống với con trong cuộc đời. Amen.

Ghi nhớ: “Martha rước Người vào nhà mình. Maria đã chọn phần tốt nhất”.

Suy niệm 8: Hai cách đón tiếp Chúa

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Lòng hiếu khách của gia chủ Việt Nam được thể hiện qua câu:

“Ai kêu cửa ngõ thì vô

Nước trà đang quạt, cá khô đang lùi”.

Khi nghe chuông, chủ nhà nhanh nhẹn mở cửa mời khách vào. Mời khách ngồi và rót nước mời, chủ nhà phải tỏ ra ưu ái đối với khách qua nét mặt vui tươi và cử chỉ:

“Ra đi chân bước nhẹ nhàng

 Là người hiếu khách, rõ ràng yên vui”.

Mời cơm khách đến chia sẻ chung vui, người hiếu khách luôn lo lắng chuẩn bị làm bữa, dành của ngon đãi khách như tục ngữ có câu: “Khách đến nhà chẳng gà thì vịt”. Hay như câu ca dao diễn tả:

“Gỏi nào bằng gỏi cá kìm,

Dọn ra đãi bạn trọn niềm thủy chung”

Hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho những của ăn ngon nhất để đãi khách, cũng như trân trọng người khách qua việc chuẩn bị bữa ăn:

“Năm tiền một khứa cá buôi,

Cũng mua cho đặng đãi người khách sang…”

Cá buôi dù đắt cũng mua cho được để đãi khách quý, hình ảnh nói về tấm lòng chủ với khách: Luôn dành cho khách những của ăn ngon nhất.

Suy niệm

Ngôi nhà bé nhỏ tại làng Bêtania, đón tiếp Chúa Giêsu ghé thăm, rộn rã tiếng cười nói, của chủ lẫn khách. Nhà Bêtania được hồng phúc Chúa cho người em út Ladarô phục sinh (x. Ga 11,1-44). Trong cuộc đón tiếp tại nhà Bêtania, Chúa Giêsu là khách quý, sự hiện diện của Ngài là tâm điểm cho mọi sự đón tiếp, Ngài cũng là hiện thân của tha nhân, Martha và Maria là mẫu gương của lòng hiếu khách đón tiếp.

Hai cách đón tiếp của Martha – người lo phục vụ bếp núc bữa ăn và Maria – người lo tiếp chuyện. Cả hai bổ túc cho việc đón tiếp tha nhân một cách tuyệt vời. Tuy nhiên, Chúa Giêsu chú trọng và yêu mến hơn cách đón tiếp của Maria vì đó là lắng nghe Lời Chúa, cũng là biểu lộ của sự quan tâm chia sẻ với khách. Ngài không phê bình cách tiếp đón của Martha, nhưng khen cách làm của Maria vì Ngài muốn nhấn mạnh đến chiều kích tâm linh và tinh thần, đó cũng là cách đón Chúa tốt nhất nơi tâm hồn của mỗi người. Ngài cũng đã nhấn mạnh đến sự cảm thông chia sẻ tâm linh trong quan hệ giữa người với người, vốn dĩ nhân loại đã bỏ quên, chỉ quan tâm đến đời sống vật chất.

Tôi và bạn học nơi Maria và Martha: Đón Chúa đến viếng thăm nhà mình, chính Ngài cũng đồng hành với biết bao biến cố thăng trầm của cuộc đời. Chúng ta học nơi cách đón tiếp của hai chị em người làng Betania với tha nhân: Người phục vụ, người lắng nghe chia sẻ. Đặc biệt là tư thế đón tiếp của Maria làm cho khách vui lòng nhất, như tác giả sách Đắc nhân tâm viết: Là lắng nghe khách nói, lắng nghe ước muốn, nguyện vọng, tâm tư của người khác. Như vậy là tỏ ra mình kính trọng, quan tâm đến người để hiểu biết, thông cảm, chia sẻ tâm tình, kiến thức, nhu cầu thiết thực của người, quý hơn cả cơm ăn, áo mặc.

Phải chăng, thế giới hôm nay nếu mặc lấy sự đón tiếp của tinh thần của hai chị em làng Bêtania, con người sẽ thoát được những nghịch lý của văn minh thời đại: Hiếu khách – cô đơn, tri thức cao – không biết đi về đâu… Thời gian vui được sống – thời gian khủng hoảng đau khổ.

Thật thế, với tinh thần của Bêtania, chúng ta mở rộng tâm hồn đón Chúa vào nhà – ngôi nhà tâm hồn mọi người, ngôi nhà gia đình và cả ngôi nhà chung của nhân loại. Có Ngài là có nguồn tình yêu, tâm hồn mở rộng đón anh em, không chỉ là văn minh, ngọt ngào, lịch sự mà bằng tình yêu chân thành phục vụ, lắng nghe chia sẻ. Thiết nghĩ sẽ bớt sợ cảnh cô đơn, khủng hoảng vì sự chia sẻ của chính Thiên Chúa đang hiện diện, của tha nhân mang tâm tình giống như Thiên Chúa.

Ước chi tâm hồn tôi, tâm hồn bạn sẽ là mái nhà Bêtania mới, rộn rã tiếng cười nói của lòng hiếu khách và niềm vui của khách viếng thăm.

Ý lực sống:

Abraham như cây già đang dần khô héo, đón Chúa thăm viếng, được ra trái sum suê: từ nơi ông cả một hậu duệ đông đảo “như sao trên trời, như cát bãi biển”.

Suy niệm 9: Chúa nói về tinh thần phục vụ

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Đức Giêsu đã mạc khải cho các môn đệ Ngài là ai: Ngài là Đấng Messia đến cứu thoát loài người, nhưng cứu thoát qua con đường chịu nạn, chịu chết và sống lại. Các ông chẳng hiểu gì mạc khải đó, vì các ông vẫn quan niệm về một Đấng Messia vinh quang hiển hách. Vì thế trên đường đi các ông tranh cãi với nhau xem ai là người lớn nhất trong nước của Ngài. Về đến nhà, Ngài hỏi các ông trên đường đã tranh cãi với nhau về cái gì, các ông không dám trả lời. Nhân dịp này Ngài dạy các ông: Ai muốn làm lớn, phải làm đầy tớ mọi người. Rồi Ngài dẫn một trẻ nhỏ đến giữa các ông mà phán: “Ai đón nhận trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy và sống đơn sơ không tham vọng như nó là đón tiếp chính Thầy, và ai tiếp nhận Thầy là tiếp nhận Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy”.

Tranh giành quyền lực là chuyện thường tình của thế gian, trong bất cứ lãnh vực nào cũng có chuyện người thủ lãnh, kẻ thuộc hạ, người làm lớn kẻ làm nhỏ, người ngồi trên kẻ ngồi dưới, người được danh dự kẻ bị quên lãng. Nhưng trong Giáo hội của Ngài, Đức Giêsu đã đưa ra nguyên tắc lãnh đạo: ai muốn làm người đứng đầu thì phải làm người rốt hết và làm người phục vụ mọi người. Đức Giêsu không chỉ phục vụ và hầu hạ, lại còn hầu hạ và phục vụ đến chết. Cái chết trên thập giá của Ngài là thể hiện tột cùng của lãnh đạo và phục vụ. Vì thế, người được đặt làm thủ lãnh để phục vụ phải là người sẵn sàng chết cho mọi người. Quy luật này có giá trị cho mọi Kitô hữu. Làm môn đệ của Đức Giêsu là chọn lấy con đường phục vụ và phục vụ cho tới cùng.

Vì thế, ở cuối văn kiện Toà thánh, các Đức Giáo hoàng thường ghi dòng chữ này cùng với chữ ký của mình: “Servus servorum”: tôi tớ của các tôi tớ. Đây là tinh thần mà Đức Giêsu muốn tất cả các vị lãnh đạo trong Giáo hội phải có, như được đề cập trong bài Tin mừng hôm nay: “Ai muốn làm đầu thì phải làm người rốt hết, và làm tôi tớ mọi người”.

Bác sĩ Elizabeth Couplaros là giáo sư về môn tâm lý trị liệu tại đại học Chicago, Hoa Kỳ. Một trong những tác phẩm bán chạy nhất của bà có tựa đề “Sự chết và Chết”. Cuốn sách ghi lại sự phỏng vấn của tác giả với hàng trăm người đã từng bị bác sĩ tuyên bố là chết nhưng bỗng dưng sống lại. Có thể nói người chết sống lại này đều cho biết rằng trong khoảnh khắc mà bác sĩ gọi là chết ấy họ như sống lại cả quãng đời của họ, cứ như thế họ xem lại cuốn phim về cuộc đời của họ. Khoảnh khắc ấy có nghĩa gì không ? Bác sĩ Couplaros đã nhận định như sau: “Khi bạn trải qua khoảnh khắc ấy, bạn chỉ thấy có hai điều quan trọng trong cuộc đời: một là bạn đã phục vụ, hai là bạn sống yêu thương; còn tất cả những điều mà chúng ta xem trọng như danh tiếng, tiền của, uy tín và quyền lực đều vô nghĩa”.

Một điều nghịch lý cần chấp nhận

Chúa phán: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”. Để các ông hiểu rõ sự nghịch lý này, Đức Giêsu đưa ra một dụ ngôn: Ngài đem một em nhỏ, đặt vào giữa các ông rồi ôm lấy nó và nói: “Ai tiếp nhận một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy”. Em nhỏ ở đây, chính là biểu tượng của tất cả những gì bé nhỏ, hèn mọn, tuỳ thuộc, cần được người khác chăm sóc, mà không thể cho ai được cái gì. Ngài hàm ý nói rằng: điều làm cho người ta nên cao cả là khả năng đón tiếp bản thân Ngài và khi người ta tiếp đón vì danh Ngài, một người yếu đuối, vô phương tự vệ, thì khả năng đó còn lớn hơn nữa bội phần. Ai trong anh em muốn làm người đứng đầu thì hãy tự mình phục vụ những người ít được kính nể, những người bị tước đoạt nhất, hãy làm người phục vụ những người bé mọn nhất, và làm như thế vì danh Thầy, bởi lẽ Thầy yêu cầu như vậy.

Truyện: Cần tinh thần phục vụ

Những thuộc viên cao cấp của Bà-la-môn ở Ấn Độ không bao giờ cúi xuống làm việc của người đầy tớ. Vì thế Shirman Naraayan sốc làm sao khi ông được giao nhiệm vụ mà ông thấy như mình bị hạ thấp khi ông dành thời gian làm tại trung tâm Gandhi (là một trung tâm tĩnh tâm của người Hindu).

Tốt nghiệp tiến sĩ tại trường Kinh tế Luân Đôn, chàng thanh niên này đã đến tìm hướng đi cho tương lai. Chàng không biết rằng mọi người tại trung tâm này đều được giao nhiệm vụ cụ thể, và Shirman phải chùi nhà vệ sinh. Thấy bị xúc phạm ghê gớm, anh đi thẳng đến chỗ Gandhi và phàn nàn: “Tôi có bằng tiến sĩ. Tôi có thể làm được nhiều điều lớn lao hơn, tại sao lại bắt tôi phải phí thời gian và tài năng vào việc lau chùi phòng vệ sinh vậy ?” Gandhi trả lời: “Tôi biết anh có thể làm được nhiều việc lớn, nhưng tôi cũng phải xem thử anh có đủ năng lực để làm những việc nhỏ không đã”.

Có thể bạn đủ năng lực để phục vụ Chúa một cách đặc biệt. Qua nền giáo dục bạn hấp thụ và ân tứ bạn có được, có thể bạn có khả năng làm những công việc lớn lao và hiệu quả. Nhưng bạn có sẵn lòng khiêm nhường làm những việc của đầy tớ, nếu Chúa giao công việc đó cho bạn không ? Bạn có sẵn lòng lau chùi nhà vệ sinh hay rửa chân cho người khác không ? (Ga 13,14-15). Đó mới thật sự là điều một môn đệ vâng lời cần làm.

Suy niệm 10: Tìm nhiều dịp để ở gần Chúa

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Thánh Luca nói về việc Maria ở bên chân Chúa:

Thánh sử Luca rất thích hình ảnh này:

 – Lc 7,36-45: một hôm có một phụ nữ tội lỗi nghe biết Chúa Giêsu đang dùng bữa tại nhà một người Pharisêu. Nàng tìm đến đó, quì dưới chân Chúa và khóc đến nỗi nước mắt làm ướt chân Ngài. Tư thế bên chân Chúa trong trường hợp này là quì và tâm tình là sám hối.

 – Lc 17,11-19: Lần khác, Chúa Giêsu chữa lành 10 người phong cùi. Trong số đó có một người đã trở lại sấp mình dưới chân Chúa để tỏ lòng biết ơn. Tư thế ở bên chân Chúa trong trường hợp này là sấp mình, và tâm tình là tạ ơn.

 – Lc 8,40-56: Con gái ông Giairô bị bệnh nặng. Ông chạy đến sấp mình dưới chân Chúa để van xin Ngài đến cứu con gái ông. Tư thế trong trường hợp này cũng là sấp mình, và tâm tình là xin ơn.

 – Lc 8,26-39: Có một người bị quỷ ám ở Ghêrasa. Sau khi được Chúa cứu, anh ngồi bên chân Chúa và sau đó xin đi theo Ngài. Tư thế lần này là ngồi, và tâm tình là muốn đi theo Chúa.

 – Đoạn Tin Mừng hôm nay kể chuyện Maria ngồi bên chân Chúa để lắng nghe lời Ngài. Tư thế ngồi, tâm tình lắng nghe.

 Tóm lại, ở bên chân Chúa có thể là ngồi, quì hay sấp mình sâu thẳm. Và tâm tình có thể là tạ ơn, sám hối, van xin, bày tỏ thiện chí muốn đi theo hay lắng nghe học hỏi.

  1. Hằng ngày, chúng ta làm nhiều việc, ở nhiều nơi và với nhiều tâm trạng khác nhau. Đoạn Tin Mừng hôm nay và những đoạn tương tự khác nhắc chúng ta có một nơi rất tốt, đó là ở bên chân ChúaỞ bên chân Chúa trong tư thế nào cũng được và với tâm tình nào cũng được, miễn là ở bên chân Chúa.

Chúng ta hãy tìm dịp đến bên chân Chúa. Bên chân Chúa chúng ta có thể ngồi, có thể quì, có thể sấp mình sâu thẳm. Chúng ta có thể van xin, có thể tạ ơn, có thể sám hối, có thể bày tỏ thiện chí muốn theo Chúa, có thể trầm lắng đón nghe lời Ngài. Đó là điều Chúa rất ưa thích và cũng rất ích lợi cho chúng ta.

Người ta thuật lại, thánh Phanxicô Xavie vì phải mải mê rao giảng Tin Mừng cho lương dân, nên mỗi khi đêm về, ngài thường quì gối trước Chúa Giêsu Thánh Thể, có lắm lúc quá mệt mỏi phải ngủ gục trên bục bàn thờ. Lúc ấy, ngài thường cầu nguyện: “ Lạy Chúa, nếu linh hồn con không tỉnh thức được với Chúa thì ít nữa xác con đây muốn ở gần Chúa”.

Còn thánh Vincent Ferrier thì có những cách ứng xử đặc biệt hơn. Những lúc gặp các tội nhân cứng lòng, khuyên bảo mãi cũng chẳng chịu trở lại, ngài gia tăng việc ăn chay, hãm mình, cầu nguyện để kéo ơn Chúa xuống cho họ nhiều hơn. Nếu như thế vẫn chưa có kết quả thì lúc đêm về, ngài lại ra trước bàn thờ để than thở cùng Chúa và nhiều khi ngài còn táo bạo mở cửa nhà chầu ra để nói chuyện cùng Chúa.

Gần đây, chúng ta có tấm gương của Đức Thánh cha Gioan XXIII. Người ta kể lại rằng: Mặc dù công việc Hội Thánh rất bề bộn, Ngài vẫn sống một cuộc sống nội tâm dồi dào. Đặc biệt ngài rất năng tĩnh tâm, tạm dẹp hết mọi công việc và dọn một phòng riêng ở Vatican để sống những giờ khắc âm thầm bên Chúa, nghe lời giảng dạy.

Trước khi khai mạc công đồng Vaticanô II, ngài đã đi tĩnh tâm một thời gian, rồi tới Lorette, một nơi tục truyền có nhà Đức Mẹ, để cầu nguyện cùng Mẹ ban ơn cho công đồng được thành công.

Để kết thúc, tôi xin được nhắc lại lời của Đức Thánh cha Gioan Phaolô II trong bài nói chuyện với các nữ tu của một Dòng kín tại Mêhicô năm 1979. Ngài đã nói với các chị ấy như thế này:

“Cuộc sống của chị em ngày nay quan trọng hơn bao giờ hết; sự hiến thân trọn vẹn của chị em đầy tính thời sự. Trong một thế giới đang đánh mất dần ý thức về Thần Linh, một thế giới đang đề cao quá mức những thực tại vật chất, hỡi các nữ tu thân mến, vậy mà các chị lại vào các tu viện kín để làm chứng cho những giá trị mà cuộc sống dấn thân của các chị kêu mời. Các chị là chứng nhân của Chúa cho thế giới ngày nay, với lời cầu nguyện, các chị đang thổi một luồng sinh khí mới vào trong Giáo Hội và con người ngày nay”.

Hãy cố tìm thật nhiều dịp để được ở gần Chúa. Chỉ có Người mới xứng đáng là Thầy dạy chúng ta.

Lạy Chúa,

con thường thấy mình không có giờ cầu nguyện,

không có giờ để trò chuyện với Ngài.

Thực ra, mỗi ngày con có biết bao giây phút

có thể gặp Chúa mà con đã bỏ mất:

Khi chờ một người bạn, chờ đèn xanh ở ngã tư,

Khi lên cầu thang, lúc bị kẹt xe, khi bị cúp điện bất ngờ.

Lúc con chờ gặp một người thân ở bến xe, ở phi trường,

Khi chờ để lên máy bay, hay xuống một con thuyền 

xin cho con biết tìm ra sự hiện diện của Chúa bên con. Amen.

Suy niệm 11: Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Hạt giống…

Câu chuyện có 3 vai: vai chính là Chúa Giêsu, hai vai phụ là Mác-ta và Maria mỗi người phục vụ Chúa một cách khác nhau:

– Mác-ta lăng xăng lo cơm nước, giường chiếu v.v.

– Maria “ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Ngài dạy”

Mác-ta khó chịu xin Chúa Giêsu bảo Maria tiếp mình. Nhưng Chúa Giêsu nói: “Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi”, đó là việc Maria đang làm, tức là ngồi bên chân Chúa đề lắng nghe lời Chúa.

B…. nẩy mầm.

  1. Ở bên chân Chúa:

a/ Thánh sử Luca thích trình bày hình ảnh người ta ở  bên chân Chúa:

– Lc 7,36-45: một hôm có một phụ nữ tội lỗi nghe biết Chúa Giêsu đang dùng bữa tại nhà 1 người biệt phái. Nàng tìm đến đó, quì dưới chân Chúa và khóc đến nỗi nước mắt làm ướt chân Ngài. Tư thế bên chân Chúa trong trường hợp này là quì, và tâm tình là sám hối.

– Lc 17,11-19: Lần khác Chúa Giêsu chữa lành 10 người phong cùi. Trong số đó có một người đã trở lại sấp mình dưới chân Chúa để tỏ lòng biết ơn. Tư thế ở bên chân Chúa trong trường hợp này là sấp mình, và tâm tình là tạ ơn.

– Lc 8,40-56: Con gái ông Giairô bị bệnh nặng. ông chạy đến sấp mình dưới chân Chúa để van xin Ngài đến cứu con gái ông. Tư thế trong trường hợp này cũng là sấp mình, và tâm tình là xin ơn.

– Lc 8,26-39: Có một người bị quỷ ám ở Ghêrasa. Sau khi được Chúa cứu, anh ngồi bên chân Chúa và sau đó xin đi theo Ngài. Tư thế lần này là ngồi, và tâm tình là muốn đi theo Chúa.

– Đoạn Tin Mừng hôm nay kể chuyện Mác-ta ngồi bên chân Chúa để lắng nghe lời Ngài. Tư thế ngồi, tâm tình lắng nghe.

* Tóm lại, ở bên chân Chúa có thể là ngồi, quì hay sấp mình sâu thẳm. Và tâm tình có thể là tạ ơn, sám hối, van xin, bày tỏ thiện chí muốn đi theo hay lắng nghe học hỏi.

  b/ Ở bên chân Chúa trong tư thế nào cũng được và với tâm tình nào cũng được, miễn là ở bên chân Chúa. Và chính Chúa Giêsu cũng đề cao việc ở bên chân Ngài: “Mác-ta Mác-ta, con lo lắng bôn chôn nhiều quá. Nhưng chỉ có 1 điều cần mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất”.

c/ Tư thế ở bên chân Chúa là

  – tư thế khiêm tốn

  – tư thế gần gũi gắn bó.

  – tư thế trầm lắng, bình an.

Hằng ngày chúng ta làm nhiều việc, ở nhiều nơi và với nhiều tâm trạng. Đoạn Tin Mừng này và những đoạn tương tự  nhắc  chúng ta có 1 nơi rất tốt, đó là ở bên chân Chúa. Chúng ta hãy tìm dịp đến bên chân Chúa, bên chân Chúa chúng ta có thể ngồi, có thể quì, có thể sấp mình sâu thẳm. Chúng ta có thể van xin, có thể tạ ơn, có thể sám hối, có thể bày tỏ thiện chí muốn theo Chúa, có thể trầm lắng đón nghe lời Ngài. Đó là điều Chúa rất ưa thích và cũng rất ích lợi cho anh em.

  1. “Tất cả vì Chúa và cho Chúa”, đó có lẽ cũng là bài học Chúa Giêsu muốn nói đến qua đoạn Tin Mừng hôm nay (…) Lời Chúa… mời gọi chúng ta thống nhất đời sống. Có những giây phút ưu việt danh cho cầu nguyện, thờ phượng; còn phần lớn thời giờ được dành cho những sinh hoạt khác. Đối với người kitô hữu, phải biến mọi sinh hoạt thành lời cầu nguyện kéo dài, thành những hy tế trên bàn thờ. Chính qua những sinh hoạt ấy, chúng ta gặp gỡ, lắng nghe, thực thi thánh ý Thiên Chúa” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”)
  2. Đôi tay để làm việc phục vụ cũng quan trọng, nhưng đôi tai lắng nghe Lời Chúa và đôi đầu gối quì bên chân Chúa quan trọng hơn.
  3. “Mác-ta đón Người vào nhà. Cô nói người em gái tên là Maria. Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe Lời Ngài dạy. Còn Mác-ta tất bật lo việc phục vụ.” (Lc 10,39-40)

Cô giáo môn tiếng Anh của tôi không phải là người công giáo. Một hôm cô nói với lớp: “Không hiểu vì sao cô rất thích nghe nhạc của đạo công giáo. Những bài hát ấy có một sức lôi cuốn nào đó, mỗi lần nghe cô cảm thấy tâm hồn thanh thoát vui tươi và cuộc sống thật hạnh phúc.” Nói xong cô hỏi lớp: “Lớp mình có bạn nào người công giáo không ? Hãy nói cho cô và các bạn nghe về Chúa !” Cả lớp vẫn im lặng. Tôi muốn nói nhưng khổ nỗi vào giờ này không ai được nói tiếng Việt. Tôi biết Chúa nhưng nói về Chúa bằng tiếng Anh thì không thể, vì tôi không có đủ vốn từ và cũng không biết phải nói làm sao.

Tôi buồn vì đã bỏ qua một cơ hội để nói về Chúa cho cô và các bạn chỉ vì thiếu khả năng ngoại ngữ. Từ đó bên cạnh việc học hỏi và chia sẻ Lời Chúa, tôi sẽ nói bằng tất  cả lòng yêu mến và kiến thức sẵn có của mình.

Lạy Chúa ! cả hai thái độ của Mác-ta và Maria đều cần thiết cho con trong cuộc sống hôm nay. Xin cho con vừa là Maria vừa là Mác-ta để con xứng đáng là chứng nhân đích thực của Chúa. (Hosanna)

THỨ TƯ TUẦN 27 THƯỜNG NIÊN

Lời Chúa: Lc 11, 1-4

Ngày kia, Chúa Giêsu cầu nguyện ở một nơi. Khi Người cầu nguyện xong, có một môn đệ thưa Người rằng: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông”.

Người nói với các ông: “Khi các con cầu nguyện, hãy nói: “Lạy Cha, nguyện danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”.

Suy niệm 1: Xin dạy chúng con cầu nguyện

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Có nhiều định nghĩa về con người.

Con người là con vật biết sử dụng các dụng cụ.

Con người là con vật biết suy nghĩ đắn đo.

Nhưng như thế vẫn chưa đủ.

Phải định nghĩa con người là con vật biết cầu nguyện,

nghĩa là có khả năng lắng nghe và đáp lời Thiên Chúa.

Con người là sinh vật biết chuyện trò với Tạo Hoá.

Cầu nguyện không phải là nói với một sự vật, một ý tưởng,

nhưng là nói với một Ðấng siêu vượt tôi,

mà lại rất gần gũi thân thương và biết tôi.

Ðấng ấy nói với tôi và nghe được lời tôi nói.

Có nhiều tâm tình khi ta cầu nguyện:

thống hối, tri ân, ca ngợi, thờ lạy, dâng hiến, nài xin.

Nài xin chẳng phải là điều hạ giá con người.

Con người cảm nghiệm được thân phận mong manh,

nên khiêm hạ đi tìm sự nâng đỡ.

Xin cho chúng con bánh cần dùng mỗi ngày.

Bánh vật chất, bánh tinh thần, Bánh Thánh Thể.

Bánh cho chúng con sự sống.

Xin tha thứ tội chúng con,

để chúng con được sống bình an sau những va vấp.

Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ.

Cơn cám dỗ lớn nhất là chỉ sống cho mình,

và khép lại trước Thiên Chúa và anh em.

Quỳ xuống cầu xin là thái độ của người biết mình,

biết những gì mình có thể làm được,

và biết những gì nằm ngoài tầm tay của mình.

Khi tương quan giữa Mỹ và Irak căng thẳng cực độ,

Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Kofi Annan đã tới Bagdad

để thuyết phục phía Irak ký vào bản thoả thuận.

Lúc trở về, ông nói: “Tôi đặc biệt đã cầu nguyện nhiều.

Ðừng bao giờ đánh thấp sức mạnh của sự cầu nguyện.”

Chẳng phải chỉ cầu nguyện khi gặp chuyện khó khăn.

Ðể hít thở bình thường cũng cần đến ơn trên.

Cần có thái độ kiên trì khi cầu nguyện.

Hãy cứ gõ cửa nhà Chúa trong đêm mịt mù.

Cần tập đứng đợi, tập quấy rầy Chúa.

Thế nào Ngài cũng mở cửa và cho mọi sự ta cần.

Hãy để Ngài tự do cho vào lúc và theo cách Ngài muốn,

dù điều đó không hợp với ước mơ của ta.

Lắm khi ta có cảm tưởng Ngài không nhận lời.

Có thể vì lời nài xin của ta đầy tính ích kỷ,

hay vì Ngài muốn dành cho ta một ơn lớn hơn.

Xin Ðức Giêsu dạy ta biết cách cầu xin,

đưa ta ra khỏi những bận tâm hẹp hòi về chính mình,

để thấy những nhu cầu lớn lao của Hội Thánh.

Ơn cao cả nhất mà chắc chắn Cha muốn ban cho ta

đó là Chúa Thánh Thần.

Có Thánh Thần là có niềm vui, sức mạnh, ánh sáng, có sự sống.

Có khi nào ta nài xin Cha ban Thánh Thần chưa?

Cầu nguyện:

Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,

những ơn con thấy được,

và những ơn con không nhận là ơn.

Con biết rằng

con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,

biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.

Con thường đau khổ vì những gì

Cha không ban cho con,

và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.

Tạ ơn Cha vì những gì

Cha cương quyết không ban

bởi lẽ điều đó có hại cho con,

hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.

Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha

dù con không hiểu hết những gì

Cha làm cho đời con.

Suy niệm 2: Lạy Cha chúng con

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúa Giê-su dạy ta một lời kinh không những đẹp đẽ mà còn làm chỉ nam hướng dẫn đời sống ta. Đẹp đẽ biết bao ta được gọi Chúa là Cha. Lời cầu nguyện của ta là lời của đứa con nhỏ bé nói với Cha, người Cha vừa quyền năng rất mực vừa thương yêu vô cùng. Mối tương giao bất ngờ ngoài trí tưởng không khiến ta xúc động đến rơi lệ sao. Và còn nữa, vì Chúa là Cha nên mọi người đều là anh em với nhau.

Mối tương giao này phải chi phối toàn bộ cuộc đời ta, làm chỉ nam hướng dẫn đời sống ta. Vì yêu mến Cha mà phải thương yêu anh em. Một điều không thể thiếu trong tình yêu thương là sự tha thứ: “Xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con”.

Đọc sách Gio-na để thấy Thiên Chúa dịu dàng quá đỗi. Tức giận vì Ni-ni-vê phạm tội, nhưng rồi lại hối tiếc khi họ ăn năn. Tha thứ cho Ni-ni-vê rồi, Chúa vẫn còn kiên nhẫn thuyết phục Gio-na. Chúa quá kiên nhẫn. Khi Gio-na không nghe Lời Chúa, tìm cách uốn nắn bằng cho ông bị cá nuốt ba ngày. Khi Gio-na buồn phiền vì Chúa không phạt Ni-ni-vê, Chúa dạy ông lòng nhân từ bằng chuyện cây thầu dầu. “Còn Ta, chẳng lẽ Ta lại không thương hại Ni-ni-vê, thành phố lớn, trong đó có rất nhiều thú vật, và nhất là có hơn một trăm hai mươi ngàn người không phân biệt được bên phải với bên trái”. Thật là những lời ân cần của người Cha nhân hậu (năm lẻ).

Đọc thư Ga-lát để thấy Phao-lô cũng phải kiên trì đấu tranh với Phê-rô và các tông đồ để tình yêu thương của Chúa được biểu lộ nơi dân ngoại và nơi những anh em túng thiếu. Dân ngoại cũng được Chúa yêu thương cho đón nhận Tin mừng. Phao-lô và Bác-na-ba được uỷ thác làm việc đó. “Vậy, khi nhận ra ân huệ Thiên Chúa đã ban cho tôi, các ông Gia-cô-bê, Kê-pha và Gio-an, những người được coi là cột trụ, đã bắt tay tôi và ông Bá-na-ba để tỏ dấu hiệp thông; chúng tôi thì lo cho các dân ngoại, còn các vị ấy thì lo cho những người được cắt bì”. Dân ngoại cũng được đón nhận Thánh Thần mà không cần chịu phép cắt bì. Vì thế cần phải kính trọng dân ngoại trở lại. Đối xử với người không chịu phép cắt bì cũng giống như người chịu phép cắt bì (năm chẵn).

Lạy Cha, con tạ ơn Cha đã cho con được diễm phúc làm con Cha. Xin cho con cũng biết mở lòng đón nhận và yêu thương mọi người. Vì họ cũng là con Cha. Là anh em của con.

Suy niệm 3: Kinh Lạy Cha

Cầu nguyện là một việc quan trọng trong cuộc đời Chúa Giêsu: Ngài vào sa mạc 40 ngày để ăn chay và cầu nguyện trước khi bắt đầu sứ vụ công khai; Ngài đã cầu nguyện suốt đêm trước khi tuyển chọn các Tông đồ; trong ba năm rao giảng Tin Mừng, Ngài cũng đã nhiều lần tìm đến nơi thanh vắng để sống những giờ phút thân tình với Chúa Cha trong cầu nguyện.

Ðược nhiều lần chứng kiến Chúa Giêsu chìm sâu trong sự kết hiệp với Chúa Cha, và niềm mong ước được đi vào sự hiệp thông với Chúa Cha, như Chúa Giêsu, các Tông đồ đã đến xin Chúa Giêsu dạy họ cầu nguyện, và Ngài đã dạy họ Kinh Lạy Cha.

Trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy các Tông đồ gọi Thiên Chúa là Cha. Thực ra, quan niệm gọi Thiên Chúa là Cha không chỉ phổ thông trong dân tộc Do Thái: Trong Cựu Ước, nhờ giáo huấn của các Tiên tri, người Do thái gọi Chúa là Cha: Ngài là Cha của toàn dân; nhưng cả các dân tộc vùng Tiểu Á ngày xưa cũng gọi các thần minh là Cha. Tuy nhiên, cách xưng hô Cha, tiếng Do thái là Abba, mà Chúa Giêsu dạy các Tông đồ hoàn toàn khác hẳn với tiếng Cha của người Do Thái trong Cựu Ước. Ðó là tiếng thông dụng thường ngày nơi miện con trẻ gọi cha mình. Như thế, tiếng Cha trong Kinh Lạy Cha là nền tảng mạc khải của Chúa Giêsu và là lời tuyên tín của Cộng đoàn Giáo Hội do Chúa Giêsu thiết lập, kêu lên với Thiên Chúa.

Kinh Lạy Cha là kinh quen thuộc đối với người Kitô hữu chúng ta. Mỗi ngày chúng ta đọc nhiều lần kinh này, thế nhưng chúng ta đã có thái độ thế nào? Người ta có lý để bảo rằng chúng ta đọc kinh một cách máy móc, thiếu hồn sống. Sỡ dĩ như vậy là vì chúng ta chưa ý thức đủ tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta, chưa đi vào quan hệ mật thiết với Thiên Chúa, như con cái đối với cha mình.

Ước gì những giây phút dành riêng để gặp gỡ, tiếp xúc với Chúa, giúp chúng ta càng thêm gắn bó, yêu mến và dấn thân thực thi thánh ý Chúa trong đời sống chúng ta.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Suy niệm 4: Ý Nghĩa Của Kinh Lạy Cha

Chúng ta không đi sâu vào chi tiết chú giải kinh Lạy Cha, cũng không muốn tìm hiểu tại sao lời kinh Lạy Cha được Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ lại được ghi lại một cách khác nhau nơi Phúc Âm Mátthêu chương 6 và Phúc Âm Luca chương 11 và được Giáo Hội trình bày cho chúng ta trong lời Suy niệm hôm nay.

Chúng ta hãy nhớ đến ý nghĩa kinh Lạy Cha như là một bản tóm kết trọn vẹn cả Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô, bản tóm gọn khoa thần học, một bản giáo lý về đời sống Kitô. Chúng ta cần khám phá kinh Lạy Cha, đây là trường dạy ta cầu nguyện và hãy cầu nguyện kinh Lạy Cha với tâm trí chìm sâu trong chiêm niệm, để mỗi ngày chúng ta được hiểu thêm về mầu nhiệm Thiên Chúa trong cuộc đối thoại Cha con, trong thái độ tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa và với con tim rộng mở để tha thứ cho anh chị em và đón nhận mọi người như anh chị em mình trong cùng một đại gia đình của Thiên Chúa. Ðối với người Do Thái thời Chúa Giêsu, việc đối thoại với Thiên Chúa và gọi Ngài là Cha trong ý nghĩa Chúa Giêsu muốn cho các môn đệ Người hiểu, thì đó là một việc làm táo bạo và xúc phạm đến uy linh Thiên Chúa. Nếu không có lời Chúa Giêsu dạy để cầu nguyện như vậy, có lẽ con người phàm trần chúng ta không dám cất tiếng gọi Thiên Chúa là Cha như vậy.

Cầu nguyện với Thiên Chúa là Cha theo ý Chúa Giêsu muốn qua lời kinh Lạy Cha là một việc làm hết sức mới mẻ và đồng thời cũng hết sức đòi hỏi. Thói quen chúng ta đọc kinh Lạy Cha quá thường, làm cho chúng ta mất đi ý thức về sự mới mẻ và về đòi hỏi quan trọng đối với Thiên Chúa cũng như đối với anh chị em. Ðối với Thiên Chúa, mọi đồ đệ cần phải tôn vinh Ngài và vâng phục thánh ý Ngài. Ðối với anh chị em, người đồ đệ Chúa không thể nào tránh né bổn phận tha thứ như Chúa đã tha thứ. Chúng ta hãy ý thức lại để cho sự mới mẻ này đòi hỏi kinh Lạy Cha thấm nhập sâu vào con người chúng ta và hướng dẫn mọi hoạt động lớn nhỏ hàng ngày của người Kitô chúng ta.

Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng; Nước Cha trị đến.

Xin hãy ban ơn xuống trên chúng con tràn đầy Thánh Thần Chúa để chúng con có thể sống vâng phục thánh ý Cha dưới đất cũng như trên trời, như Chúa Giêsu, Con Cha đã nêu gương cho đến hy sinh mạng sống mình trên thập giá để cứu rỗi nhân loại chúng con. Xin Cha tha thứ những lầm lỗi của chúng con và ban ơn giúp chúng con thật lòng tha thứ cho nhau noi theo mẫu gương nhân từ tha thứ của Cha. Xin Cha gìn giữ chúng con luôn trung thành trong đức tin, ban cho chúng con sức mạnh để đừng sa vào chước cám dỗ, đừng sống nô lệ thần dữ và tội lỗi.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Suy niệm 5: Lời cầu nguyện lớn nhất

Có một lần Đức Giêsu cầu nguyện ở một nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gio-an đã dạy môn đệ của ông.” (Lc. 11, 1)

Kinh Lạy Cha là lời cầu nguyện lớn nhất vừa giản dị vừa dễ dàng. Hợp với trình độ của mọi người. Người nhỏ mọn nhất cũng như người uy quyền nhất, người danh giá cũng như người bình dân, người thông thái cũng như người thất học. Kinh lạy Cha phát xuất từ trái tim Đức Kitô và môi miệng của Người, không do sự chuẩn bị soạn thảo, nhưng do sự kết hiệp của Người với Thiên Chúa.

Từ câu hỏi của các tông đồ: “Thưa Thầy xin dạy chúng con cầu nguyện cũng như Gioan dạy các môn đệ của ông”. Đức Giêsu không trả lời bằng văn bản kênh kiệu, bùi tai, lóe mắt, súc tích những mầu nhiệm thâm sâu. Đức Kitô hài lòng dùng những lời đơn sơ thốt ra từ miệng trẻ thơ. Và đã được hàng triệu Kitô hữu lặp đi lặp lại qua bao nhiêu thời đại. Lời cầu nguyện vĩ đại này mở đầu bằng lời chào: “Lạy Cha chúng con”, đầy cảm mến, khiến người ta phải suy tư từ đầu đến cuối. Kinh lạy cha có thể giúp ta đặt niềm tin vào Thiên Chúa trong bất cứ hoàn cảnh nào, của hạng người nào. Nó giúp cho cả những người Hồi Giáo, Phật Giáo cầu nguyện cũng như người Công Giáo. Nó không chỉ giúp cho phong trào hiệp nhất Kitô giáo mà cho cả thế giới, các tôn giáo đang đi tìm những giá trị chung có sức hữu hiệu qui tụ cả loài người, dù niềm tin chính thức của họ là gì. Đối với ai tin vào Đấng Tối Cao, họ sẽ dễ dàng theo Đức Kitô để cầu nguyện với Thiên Chúa của họ như là cha của mình, Đấng ngự trên chốn tối cao, để cho danh thánh của Ngài vinh hiển, triều đại của Ngài mau đến và thánh ý chí tôn của Ngài được thực hiện.

Đối với những ai tin vào Đấng tuyệt đối, họ sẽ dễ dàng biết bao khi nghĩ đến xin Ngài ban cho con cái dưới đất của nuôi hằng ngày, xin Ngài tha thứ những lầm lỗi như họ cũng tha cho kẻ xúc phạm đến họ, đừng để họ xa chước cám dỗ và giải thoát họ khỏi mọi sự dữ.

Kinh lạy cha đánh dấu những chặng đường lớn của cuộc đời chúng ta, được đọc giữa lúc cử hành thánh lễ hằng ngày, kinh lạy cha càng đọc đi đọc lại, càng là sức mạnh lạ lùng giúp chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa. Thật lạ lùng, Đức Giêsu đã để lại cho chúng ta kinh lạy cha làm gia tài muôn thuở.

GF

Suy niệm 6: Thiên Chúa là Cha yêu thương

Xem lại CN 17 TN C (Mt 6,1-15), thứ Ba tuần 1 MC và thứ Năm tuần 11 TN

Đạo Công Giáo của chúng ta thật hạnh phúc vì được gọi Thiên Chúa là Cha. Đây là đặc ân cao quý mà nhờ Đức Giêsu mặc khải cho, chúng ta mới biết và dám thưa với Thiên Chúa “Ápba – Cha”.

Hôm nay, khi được môn đệ xin Đức Giêsu dạy cầu nguyện, Ngài đã dạy họ cầu nguyện:

Trước tiên cần xác định căn tính là con của các môn đệ với Cha trên trời: “Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời”. Khi có chung một Cha, thì ắt sẽ có nhau là anh em.

Thứ hai, đã là con thì luôn mong cho danh Cha của mình được tỏ lộ và nhiều người tin nhận: “Xin làm cho Danh Cha được vinh hiển”; “Triều đại Cha mau đến”.

Thứ ba là nguyện xin cho: “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”, tức là xin Cha thể hiện mục đích của Người trên nhân loại đã có trong chương trình yêu thương của Người.

Thứ tư, thể hiện lòng trông cậy vào Cha, đồng thời phó thác đời sống xác hồn cho Cha để Người chăm lo: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”.

Thứ năm, ý thức mình là kẻ tội lỗi nên cần Cha tha tội: “Xin tha tội cho chúng con, như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con”, tức là thành khẩn xin Cha tha mọi tội lỗi chúng ta xúc phạm đến Người, cũng như cho ta biết tha thứ các lỗi lầm mà anh em xúc phạm đến ta.

Thứ sáu, ý thức sự mong manh, yếu đuối của bản thân, nên cần Cha bảo vệ: “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”.

Cuối cùng, xin được trao phó mọi sự trong tay Cha, để xin Cha cứu giúp khỏi bị rơi vào tình trạng mất ơn nghĩa cùng Cha: “Nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ”.

Qua kinh lạy Cha, Đức Giêsu dạy các môn đệ cầu nguyện, thì ngay hôm nay, Ngài cũng dạy mỗi người chúng ta hãy cầu nguyện như thế để xứng đáng là con Cha trên trời và có nhau là anh em trong cùng đại gia đình Hội Thánh.

Xin cho chúng ta luôn yêu mến Thiên Chúa và năng cầu khẩn với Người trong tâm tình của người con thảo. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy niệm 7: Chúa dạy các môn đệ Kinh Lạy Cha

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Thời Chúa Giêsu, mỗi nhóm tín ngưỡng có một bài kinh riêng, đặc trưng của nhóm mình. Bài kinh mà Chúa Giêsu sắp dạy cũng là đặc trưng của Kitô giáo. Kinh Lạy Cha là lời cầu nguyện tuyệt vời nhất được chính Chúa Giêsu dạy cho chúng ta. Còn gì hạnh phúc bằng khi chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha. Khi đã ở trong tương quan Cha – con, thì trước hết, chúng ta phải nghĩ đến danh Cha và Nước Cha. Còn nhu cầu của chính chúng ta chắc chắn Cha chúng ta sẽ lo liệu. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải trình bày lên Cha sự thiếu thốn mọi mặt của chúng ta trong sự khiêm tốn và phó thác.
  2. Cầu nguyện được ví như hơi thở, là hoạt động căn bản của đời sống tâm linh. Cầu nguyện đối với người Công giáo là tâm tình con thảo với Cha trên trời, là thể hiện niềm tin  và phó thác cho sự an bài quan phòng của Thiên Chúa. Hôm nay, môn đệ xin với Thầy Giêsu dạy cách cầu nguyện, và Người đã dạy các môn đệ một mẫu cầu nguyện tuyệt hảo mà chúng ta gọi là Kinh Lạy Cha.

Cả hai thánh sử Matthêu và Luca đều ghi lại Kinh Lạy Cha, nhưng kinh Lạy Cha của thánh Luca ngắn hơn và ít hơn hai điều. Nhưng cả hai đều nhằm tới những điều căn bản nhất về tâm tình cầu nguyện mà Chúa Giêsu dạy chúng ta.

  1. Thánh Luca đặt kinh Lạy Cha sau lời xin của các môn đệ “xin Thầy dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ mình”. Như thế Kinh Lạy Cha là lời kinh Chúa Giêsu đã nhằm đáp ứng yêu cầu của các môn đệ có một bài kinh đặc biệt cho nhóm theo Chúa Giêsu. Khởi đầu, Chúa Giêsu dạy ta  xưng Thiên Chúa là “Cha” rõ ràng đây là một nét khác biệt với các tôn giáo khác. Mỗi khi chúng ta đọc hai tiếng “Lạy Cha”, chúng ta cảm thấy lòng đầy vui sướng, hạnh phúc và hy vọng  để cầu nguyện tâm sự với Thiên Chúa của mình. Kinh Lạy Cha, mẫu gương của những lời cầu nguyện, chúng ta phải ý thức rằng lời cầu nguyện đích thực cần phải được qui hướng về Thiên Chúa. Cầu nguyện là thờ phượng, tôn vinh Thiên Chúa chứ không phải để xin ơn này hay ơn kia cho bản thân (5 phút Lời Chúa).
  2. Trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy các Tông đồ gọi Thiên Chúa là Cha. Thực ra, quan niệm gọi Thiên Chúa là Cha không chỉ phổ thông trong dân tộc Do thái: Trong Cựu ước, nhờ giáo huấn của các Tiên tri, người Do thái gọi Thiên Chúa là Cha: Ngài là Cha của toàn dân;  nhưng cả các dân tộc vùng Tiểu Á ngày xưa cũng gọi các thần minh là Cha. Tuy nhiên, cách xưng hô Cha, tiếng Do thái là Abba, mà Chúa Giêsu dạy các Tông đồ hoàn toàn khác hẳn với tiếng Cha của người Do thái trong Cựu Ước. Đó là tiếng thông dụng thường ngày nơi miệng con trẻ gọi cha mình. Như thế, tiếng Cha trong kinh Lạy Cha là nền tảng mạc khải  của Chúa Giêsu và là lời tuyên tín của Công đoàn Giáo hội do Chúa Giêsu thiết lập, kêu lên với Thiên Chúa (Mỗi ngày một tin vui).
  3. Trong các tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung, có rất nhiều môn phái: Thiếu Lâm, Nga Mi, Võ Đang… Mỗi môn phái có những đặc trưng khác nhau thể hiện qua cách suy nghĩ, chiêu thức tấn công, phòng thủ, phương pháp luyện tập nội công… Các thành viên trong mỗi môn phái đều thực hành lối sống và nét đặc trưng của môn phái mình. Nhìn lối sống của họ, người ngoài có thể nhận ra họ thuộc môn phái nào.

Ông Gioan Tẩy Giả có các môn đệ của mình. Họ học theo cách suy nghĩ, cầu nguyện, cư xử, hành động của ông. Nhìn lối sống của họ,  người ngoài có thể nhận biết là môn đệ của Gioan Tẩy Giả.

Sau một thời gian rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu cũng có nhiều môn đệ. Các ông cũng muốn học theo cách sống, lối suy nghĩ, hành động, nói năng của Chúa Giêsu. Hôm nay, họ xin Người dạy họ cầu nguyện. Đáp lại mong ước chính đáng và đúng đắn của họ, Chúa Giêsu đã dạy họ Kinh Lạy Cha.

  1. Truyện: Lạy Cha chúng con…

Có một Giám mục trên đường kinh lý giáo phận, ghé thăm một bà lão. Người ta nói  bà là tấm gương cho cả làng soi chung. Trong khi thăm, vị Giám mục hỏi:

– Bà thường đọc sách đạo đức nào nhất ?

– Thưa Đức Cha, con không biết đọc – bà cụ trả lời. Nghe thế vị Giám mục hỏi:”Nhưng bà hay cầu nguyện cơ mà”? Thấy vị Giám mục muốn biết bí quyết của mình, bà thật thà thưa:

– Thưa Đức Cha, con chỉ biết tràng hạt  thôi: kinh Lạy Cha, kinh Kính mừng và kinh Tin kính. Mỗi ngày con khởi sự đọc tới 10 lần, nhưng thường thì con không đọc xong.

– Tại sao thế ? – Bà cụ thưa:”Tại vì khi bắt đầu đọc: Lạy Cha chúng con… con không hiểu tại sao Chúa có thể tốt lành đến mức cho phép một bà già hèn mọn như con được gọi Ngài là Cha. Điều đó làm con bật khóc và rồi con không thể nào đọc tiếp hết chuỗi được”. Nghe thuật lại kinh nghiệm trên, vị Giám mục khuyến khích:

– À , này bà cụ, đó là lời cầu nguyện giá trị bằng tất cả những lời cầu nguyện của chúng tôi. Bà cứ tiếp tục cầu nguyện theo câu đó nhé !

Suy niệm 8: Chúa Giêsu dạy Kinh Lạy Cha

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Hạt giống…
  2. Câu 1b “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy môn đệ ông”. Thời Chúa Giêsu, mỗi nhóm tín ngưỡng có một bài kinh riêng, đặc trưng của nhóm mình. Bài kinh mà Chúa Giêsu sắp dạy cũng là đặc trưng của Kitô giáo. Nét đặc trưng rõ nhất được thấy trong một từ chìa khoá lắp đi lặp lại rất nhiều lần, từ “Cha”: kitô hữu được làm con Thiên Chúa và được gọi Thiên Chúa là Cha.
  3. Vì là một bài kinh rất ngắn gọn cho nên những điều được nói trong đó đều là những điều then chốt nhất. Nói cách khác, những lời xin trong bài kinh này cho ta biết những điều mà kitô hữu cần quan tâm nhất là gì:

a/ Đối với Chúa: sao cho người ta được biết Chúa (“Xin làm cho danh Cha vinh hiển”); sao cho nhiều người gia nhập Nước Chúa (“triều đại Cha mau đến”)

b/ Đối với chính bản thân mình: có lương thực hằng ngày, được Cha tha thứ và mình cũng biết tha thứ cho người khác, đừng sa chước cám dỗ.

B…. nẩy mầm.

  1. Văn mạch: Tin Mừng Mt ghi Kinh Lạy Cha trong văn mạch Chúa Giêsu đang dạy cho các môn đệ mình cách thi hành những việc đạo đức (làm việc đạo đức cách kín đáo, đừng phô trương). Còn Tin Mừng Lc ghi kinh này sau khi một môn đệ xin Chúa Giêsu dạy cho nhóm môn đệ mình một bài kinh riêng của nhóm, để phân biệt với các nhóm tín ngưỡng khác. Như thế Kinh Lạy Cha là kinh nguyện độc đáo của Kitô giáo. Tìm hiểu Kinh Lạy Cha, ta có thể biết những điểm độc đáo của sự cầu nguyện Kitô giáo là gì. Điểm độc đáo đầu tiên là Kitô hữu được gọi Thiên Chúa là Cha (Abba) một cách rất thân thương gần gũi.
  2. Một cậu bé bệnh nặng sắp chết. Cha cậu bé hỏi:

– Con sợ chết không con ?

– Thưa ba, không, nếu như Thiên Chúa cũng giống như ba, cậu đáp (“Sunday school Times”)

  1. 2 Sam 18,33: Thái tử Absalom nổi loạn định lật đổ cha là Đavít. Nhưng quân đội của Đavít đã phản công và giết chết Absalom. Khi một người lính từ chiến trường trở về vui mừng báo tin cái chết của kẻ phản loạn, Đavít đã xé áo mình ra và kêu lên thảm thiết “Absalom con ơi, Absalom con ơi. Phải chi cha được chết thay cho con !”
  2. “Người con gái của Karl Marx có lần tâm sự với một người bạn: “Tôi lớn lên mà không hề biết đến bất cứ tôn giáo nào. Tôi cũng không tin tưởng Thiên Chúa. Thế rồi tình cờ tôi đọc được một quyển sách trong đó có lời kinh khác lạ. Tôi đọc hết lời kinh ấy và tự nhủ: nếu quả thật Thiên Chúa của lời kinh đó hiện hữu, tôi nghĩ rằng tôi có thể tin Ngài được”. Người bạn hỏi cho biết đó là lời kinh nào. Người con gái của Karl Marx mới từ từ đọc lại Kinh Lạy Cha (…) Tình cha con và tình anh em được Chúa Giêsu mặc khải qua kinh Lạy Cha. Sống với Cha trong tình phó thác, với anh em trong tình bác ái” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”)
  3. “Cả đời Chúa Giêsu chỉ xoay quanh một nguyên tắc này “Ta đến để làm theo ý Cha Ta”… Chúng ta hãy thử xem chúng ta có để cho ý Chúa được nên một với chúng ta không ? Chúng ta có cố tình lầm lẫn ý của chúng ta thay cho ý Chúa không ? Chúng ta hãy nhớ câu chuyện Giona (bài sách thánh hôm nay)… “ (trích “TMCGK ngày trong tuần”)
  4. “Chúng ta không thể cầu nguyện Kinh Lạy Cha mà chúng ta không có đóng góp gì vào vinh quang Nước Chúa trị đến. Cũng như chúng ta không thể xin cho cơm bánh hằng ngày dùng đủ mà lại cứ ngồi há miệng chờ sung. Kinh nguyện là hành động của lòng tin. Ta phải minh chứng bằng việc làm” (Trích “TMCGK ngày trong tuần”)
  5. Một bác chèo đò chở một thanh niên trên chiếc thuyền của mình. Chiếc thuyền có hai mái chèo. Trên một mái chèo có chữ “cầu nguyện”, trên mái chèo kia có chữ “làm việc”. Chàng thanh niên nói với giọng châm biếm:

– Nếu đã làm việc thì cần gì phải cầu nguyện nữa.

Bác lái đò chẳng nói gì, buông tay không chèo mái “cầu nguyện” nữa, chỉ chèo bằng mái chèo “làm việc”. Chiếc thuyền cứ quay vòng vòng chẳng tiến được chút nào cả. Khi ấy chàng thanh niên hiểu rằng ngoài mái chèo “làm việc” còn cần thêm mái chèo “cầu nguyện” nữa thì thuyền đời mới tiến được. (Đức Cha Tihamer Toth).

  1. Một lần kia cùng dự Thánh lễ với một nhóm sinh viên, tôi cấm lòng cầm trí đọc chung Kinh Lạy Cha với họ, và bỗng cảm thấy những điều Chúa Giêsu bảo tôi xin chứa đựng rất nhiều ý nghĩa:

– Lạy Cha chúng con…: tất cả chúng tôi đang ở đây đều có một người Cha chung.

– Nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đền, ý Cha thể hiện…: nhưng chỉ có một nhóm nhỏ này được biết Cha, còn biết bao nhiêu sinh viên học sinh khác nữa…

– Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày: tôi nghĩ đến những bạn chung quanh. Họ ăn cơm tháng, mỗi tháng chỉ hơn 100 ngàn, đồ ăn rất đạm bạc, buổi sáng thường nhịn đói.

– Và tha nợ chúng con: họ là những người trẻ, nhiều sai sót lỗi lầm, nhiều tội..

– Xin cớ để chúng con sa chước cám dỗ: có biết bao cám dỗ vây quanh họ, trong trường học, ngoài xã hội, ở chợ đời…

  1. Chúa Giêsu bảo các môn đệ: khi cầu nguyện anh em hãy nói: “Lạy Cha, xin hãy làm cho danh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến.” (Lc 11,2)

Lạy Cha, con biết rằng danh Cha vinh hiển thì mọi sự thế gian này sẽ tốt hơn ! Con biết rằng Cha dựng nên con nhằm để con làm sáng danh Cha.

Để làm sáng danh Cha tôi phải làm gì đây ? phải chăng chỉ lặp lại suông lời nguyện Chúa day tôi ? Không, tôi phải sống chính lời nguyện ấy. Tôi phải dùng những gì Chúa ban mỗi ngày để danh Cha cả sáng, dùng của cải vật chất, danh vị, quyền lợi, dùng kiến thức hiểu biết… Danh của tôi phải nằm trong danh Thiên Chúa. Nếu như danh Cha cả sáng thì mọi sự tốt đẹp hơn ! Tôi tin như thế và tôi sẽ cố gắng.

Lạy Cha, xin cho con biết dùng lời nguyện của Cha như là kim chỉ nam để sống mỗi ngày tốt đẹp hơn. (Hosanna)

THỨ NĂM TUẦN 27 THƯỜNG NIÊN

Lời Chúa: Lc 11, 5-13

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Nếu ai trong các con có người bạn, giữa đêm khuya đến nói với người ấy rằng: “Anh ơi, xin cho tôi vay ba chiếc bánh, vì tôi có anh bạn đi đường ghé lại nhà tôi, mà tôi không có gì thết đãi anh ấy”. Và từ trong nhà có tiếng người ấy đáp: “Xin đừng quấy rầy tôi, vì cửa đã đóng, các con tôi và tôi đã lên giường nằm rồi, tôi không thể chỗi dậy lấy bánh cho anh được”. Thầy bảo các con, dù người đó không dậy vì tình bạn để lấy bánh cho người bạn, người đó cũng sẽ dậy, ít nữa là vì sự quấy rầy của người kia mà cho anh ta tất cả những gì anh ta cần.

“Và Thầy bảo các con: Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ thì sẽ mở cho. Người cha nào trong các con có đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá ư? Hay nó xin cá lại cho nó con rắn thay vì cá sao? Hay nó xin quả trứng, lại cho nó con bọ cạp ư? Vậy nếu các con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người”.

Suy niệm 1: Hãy xin thì sẽ được

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Một thách đố lớn đối với đức tin của người Kitô hữu

đó là sự thinh lặng của Thiên Chúa.

Gặp cơn cùng khốn, con người cầu cứu Ngài

nhưng không nghe thấy tiếng đáp lại.

Người lành bị trù dập, kẻ vô tội bị hàm oan,

nỗi đau khổ thể xác tinh thần vây bọc lấy đời người.

Con người quằn quại, rên xiết, gào thét, nổi loạn.

“Chúng tôi tố cáo Thiên Chúa vì Ngài vắng mặt.”

Ngài không được quyền vắng mặt và thinh lặng.

Nếu Ngài là Thiên Chúa quyền năng,

Ngài phải tiêu diệt sự dữ và kẻ dữ.

Nếu Ngài là Cha yêu thương,

Ngài không thể quay lưng trước nỗi khổ của con người.

Có nhiều người đã lý luận như thế và kết luận:

‘‘Vì có đau khổ, nên không có Thiên Chúa.”

Có lúc người ta tưởng đau khổ là một vấn đề

có thể đem ra mổ xẻ, giải quyết.

Nhưng rồi người ta thấy đó là một mầu nhiệm.

Chỉ ai tin mới đến gần được mầu nhiệm ấy,

và đón nhận nó trong bình an.

Ðức Giêsu đã không trình bày con đường diệt đau khổ,

nhưng Ngài mang lấy đau khổ vào thân.

Trên thập giá, Ngài nghe được sự thinh lặng của Thiên Chúa,

và thấy được sự vắng mặt của Người.

‘‘Lạy Thiên Chúa của tôi, tại sao Ngài bỏ tôi?”

Như ta, Ngài cũng bước đi trong bóng tối của lòng tin,

dù bị thử thách, vẫn một niềm tín thác:

‘‘Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha.”

Thiên Chúa vẫn là Ðấng toàn năng và yêu thương,

nhưng Ngài hành động không giống điều ta nghĩ.

Ngài không đưa Ðức Giêsu xuống khỏi thập giá

nhưng đưa Con của Ngài ra khỏi nấm mồ,

điều đó khó hơn nhiều.

Hôm nay Ðức Giêsu mời gọi chúng ta cứ xin, cứ tìm, cứ gõ

và tin chắc sẽ được, sẽ thấy, sẽ mở cho.

Chúng ta tin Thiên Chúa là Cha nhân hậu,

Ngài chỉ ban cho ta những điều tốt lành,

những điều có lợi thực sự cho ta,

những điều làm ta trưởng thành và triển nở,

những điều đưa ta gặp hạnh phúc đích thực,

thứ hạnh phúc không chỉ hạn hẹp ở đời này.

Chúng ta tin Thiên Chúa là Cha nhân hậu,

nhưng Ngài không nuông chiều con cái,

Ngài dám cắt tỉa để chúng ta sai trái hơn.

Bạn hãy cứ cầu xin

nhưng hãy để cho Ngài định liệu,

vì Ngài biết rõ điều gì là tốt hơn cho bạn

trong hoàn cảnh này, ở đây, bây giờ.

Cần cầu nguyện nhiều, bạn mới biết điều bạn phải xin,

vì những điều chúng ta xin còn mang nhiều cặn bẩn.

Lắm khi chúng ta xin rắn mà không hay.

Cũng có khi ta tưởng Chúa cho chúng ta bọ cạp.

Cần có đức tin mới nhận ra rằng

Chúa đã nhận lời mình rồi,

nhưng theo một kiểu khác với kiểu ta muốn.

Cần đợi đến một lúc nào đó bạn mới thấy

mọi biến cố trong đời đều là quà tặng yêu thương.

Cầu nguyện:

Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,

những ơn con thấy được,

và những ơn con không nhận là ơn.

Con biết rằng

con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,

biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.

Con thường đau khổ

vì những gì Cha không ban cho con,

và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.

Tạ ơn Cha vì những gì Cha cương quyết không ban

bởi lẽ điều đó có hại cho con,

hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.

Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha

dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con.

Suy niệm 2: Hãy xin thì sẽ được

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Lời Chúa Giêsu khiến ta an tâm tin tưởng biết bao. Lời đó nhắc nhở ta phải cầu nguyện. Lời đó trấn an ta vì cứ cầu nguyện sẽ được nhận lời. Vì Thiên Chúa không phải là ông vua hà khắc, cũng không chỉ là một người bạn thân, nhưng còn hơn thế nữa, là Cha của ta. Cha nào có thể từ chối con cái.

Tuy nhiên cũng như cha mẹ không bao giờ cho trẻ nhỏ chơi với lửa, với dao là những thứ nguy hiểm, Thiên Chúa cũng không ban cho ta những gì có hại cho ta. Người chỉ ban cho ta những gì sinh ích lợi cho ta, đem đến cho ta hạnh phúc đích thật, vĩnh cửu. Và Chúa Giê-su hé lộ cho ta biết điều cần thiết nhất cho ta đó là Thần Khí. Xin Thần Khí chắc chắn Cha sẽ không thể chối từ. Điều này nhắc ta nhớ đến vua Sa-lo-mon. Sa-lo-mon chỉ xin ơn khôn ngoan và điều đó đẹp lòng Thiên Chúa (x. 1V 3, 10-13).

Ma-la-khi cho biết người không có Thần Khí chống lại Chúa có vẻ như được may mắn hạnh phúc. Nhưng đó chỉ là may mắn bề mặt và hạnh phúc thoáng qua. Rồi đến ngày mọi may mắn đó sẽ qua, bản thân người ác cũng bị thiêu đốt. “Vì này, ngày ấy đến, đốt cháy như hoả lò. Mọi kẻ kiêu ngạo và mọi kẻ làm điều gian ác sẽ như rơm rạ. Ngày ấy đến sẽ thiêu rụi chúng”. Chỉ người có Thần Khí mới thuộc sở hữu của Chúa, trở thành con yêu của Chúa và sau cùng mới được hạnh phúc đích thực, vĩnh cửu. “Ta sẽ xót thương chúng như người cha xót thương đứa con phụng dưỡng mình…mặt trời công chính sẽ mọc lên, mang theo các tia sang chữa lành bệnh” (năm lẻ).

Thư Ga-lát khuyên ta đã nhận được Thần Khí thì phải kiên trì gìn giữ trân trọng. Vì xác thịt yếu đuối dễ bị cám dỗ bởi những ảo ảnh phù vân đưa đến sự chết. Thần Khí giúp ta từ bỏ xác thịt, sống theo Chúa Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh để được tới hạnh phúc đích thực. Thần Khí được ban cho nhờ đức tin chứ không do Lề Luật. Vì thế ta phải giữ vững đức tin vào Chúa Ki-tô “đã chịu đóng đinh vào thập giá”. Đừng chao đảo nghe theo những kẻ mê hoặc (năm chẵn).

Nhận biết Thần Khí là cốt lõi của đời sống. Kiên trì tha thiết van xin. Chắc chắn Chúa sẽ ban Thần Khí cho ta. Để ta sống xứng đáng là con của Chúa. Và được hưởng muôn vàn ơn phúc Chúa muốn ban cho ta.

 

Suy niệm 3: Hiệu Lực Của Lời Cầu Nguyện

Một tác giả kể lại câu truyện như sau: Một hôm ông theo đoàn đánh cá ra khơi, trời thật đẹp, nhưng đến trưa, gió thổi mạnh và cơn bão rất lớn ập tới. Ðoàn người chống chọi quyết liệt nhưng vô ích, nước đã tràn vào đầy tàu. Lúc ấy, viên thuyền trưởng ra lệnh: “Các bạn hãy cầu nguyện”. Người phụ tá bảo: “Sao lại cầu nguyện? Mây che kín cả bầu trời rồi, Chúa chẳng nghe thấy đâu”. Nhưng viên thuyền trưởng dứt khoát: “Chúng ta cứ cầu nguyện”.

Tất cả đều sốt sắng cầu nguyện, bỗng từ đám mây đen nghịt ấy lóe ra một tia sáng xanh trong vắt. Viên thuyền trưởng la lên: “Cửa trời đã mở, Chúa đã nghe lời của chúng ta, và tia sáng đó là ánh mắt nhân từ Ngài nhìn xuống chúng ta. Hãy tiếp tục cầu nguyện”. Và rồi sau đó, sóng gió im lặng và trời càng sáng rõ, các thủy thủ tạ ơn Chúa và đã cập bến an toàn.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta: “Cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho”. Ngài đưa ra hai dụ ngôn để nhắc nhở chúng ta kiên tâm trong lời cầu nguyện và siêng năng cầu nguyện cùng Chúa. Ngài đoan hứa Thiên Chúa là người Cha tốt lành sẽ ban cho chúng ta những gì chúng ta cầu xin, đặc biệt Ngài sẽ ban cho chúng ta món quà tuyệt hảo là Thánh Thần, nhờ đó chúng ta sẽ tìm được hạnh phúc đích thực.

Trong thực tế, có lẽ chúng ta đã cầu xin rất nhiều, thế mà nhiều khi chúng ta chẳng nhận được. Tại sao thế? Thánh Giacôbê trả lời: “Anh em không có, là vì anh em không xin; anh em xin mà không được là vì anh em xin với tà ý, để lãng phí trong việc hưởng lạc”. Do đó, khi cầu nguyện, chúng ta hãy ý thức điều chính yếu chúng ta phải nhắm tới trước hết, đó là “Xin cho Ý Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Thiên Chúa là Cha, Ngài khôn ngoan thấu suốt những nhu cầu của chúng ta và sẽ ban cho những gì lợi ích cho phần rỗi chúng ta. Ðiều cần thiết là phải kiên trì trong niềm tin và xác tín Thiên Chúa yêu thương và ban cho những điều vượt quá sự mong ước của chúng ta.

Nguyện xin Chúa củng cố chúng ta trong đời sống và tâm tình cầu nguyện, cho chúng ta biết xin những gì đẹp lòng Chúa và phó thác tất cả cho tình yêu thương quan phòng của Chúa.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Suy niệm 4: Ban Thánh Thần

Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành phương chi Cha trên trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người. (Lc. 11, 13)

Thiên Chúa thích cầu nguyện và quấy rầy.

Đức Kitô chứng tỏ cho chúng ta thấy thế. Người nói về những người bạn còn không thể từ chối nhau được ngay cả khi họ gặp những bất tiện. Về tình cảm bạn bè nên ông bạn này đến quấy rầy bạn bè ban đêm!

Dù cho bạn bè cạu cọ, kêu trách, muốn đuổi ông bạn quấy rầy đi. Nhưng sau cùng, bạn cũng dậy đưa tất cả những gì ông bạn cần, cho xong chuyện.

Thiên Chúa cũng vậy, và còn vô cùng tốt lành hơn nữa, không bao giờ Ngài chán nghe chúng ta kêu cầu, không bao giờ chán thấy chúng ta chạy đến xin Ngài giúp đỡ. Thiên Chúa vô cùng nhẫn nại hơn tất cả mọi người, hơn bất cứ những người quen thân nhất với chúng ta. Đức Giêsu đã dùng ba mẫu mực khác nhau để nhấn mạnh cho chúng ta biết cầu xin cha chúng ta ở trên trời đến cứu giúp.

“Anh em cứ XIN thì sẽ được, cứ TÌM thì sẽ thấy, cứ GÕ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai XIN thì sẽ nhận được, ai TÌM thì sẽ thấy, cứ GÕ cửa thì sẽ mở cho”. Còn gì rõ ràng hơn nữa! Ai có thể vẽ được bức họa cho chúng ta cụ thể hơn nữa! có lẽ chúng ta hiểu, tuy nhiên, để tốt cho chúng ta hơn. Thiên Chúa không ban những gì chúng ta xin như chúng ta muốn, nhưng Ngài sẽ ban ơn khác tốt hơn cho chúng ta. Có lẽ chúng ta hiểu được tằng Thiên Chúa không mở cho chúng ta như chúng ta gõ, nhưng Ngài sẽ mở cho chúng ta sau này. Có lẽ chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa sẽ không cho chúng ta thấy những gì chúng ta tìm, nhưng cho thấy điều cốt yếu hơn.

Vì điều cốt yếu này, chính là Thánh Thần. Thánh Thần sẽ giúp chúng ta phân biệt được điều gì tốt hơn cho chúng ta khi chúng ta xin, khi chúng ta tìm và khi chúng ta muốn vào sâu thánh ý Thiên Chúa. Thánh Thần khôi phục lại thế giới Kitô đã bị thất thoát nhiều hay ít! Chính Thánh Thần mà Đức Kitô đã hứa ban cho các tông đồ, chỉ mình Ngài mới có thể giúp chúng ta đi sâu vào mầu nhiệm và sứ điệp của Đức Kitô. Chính Thánh Thần là sức mạnh, khôn ngoan, thông minh sáng suốt, ánh sáng và dịu hiền. Chính Thánh Thần kiến thiết xây dựng Hội Thánh và thánh hóa chúng ta trong ngọn lửa tình yêu.

GF

Suy niệm 5: Kiên trì khi cầu nguyện

Xem lại CN 17 TN C (Mt 6,1-15), và thứ Năm tuần 1 MC

Đức Giêsu, nơi này, nơi kia, lúc này, lúc khác, Ngài thường hay dùng dụ ngôn, hình ảnh để nói về sự kiên trì, trung thành. Chẳng hạn như người đàn bà xứ Canaan xin Chúa chữa lành, hay như viên sĩ quan có đầy tớ đau bệnh…

Hôm nay, sau khi dạy các Tông đồ cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha, Đức Giêsu đi thêm một bước nữa khi dạy các ông phải cầu nguyện trong tâm tình tín thác, kiên trì và trung thành.

Thật vậy, hình ảnh người bạn quấy rầy trong dụ ngôn hôm nay là một điển hình.

Thiên Chúa luôn luôn ở gần bên chúng ta và yêu thương mỗi người. Nơi Người không có chuyện sợ quấy rầy, cũng chẳng có chuyện ứ đọng các lời cầu xin.

Người luôn lắng nghe lời con cái nài van. Tuy nhiên, Người biết những gì cần cho đời sống chúng ta, nhất là có lợi cho tâm hồn. Vì thế, đôi khi chúng ta xin mà không phù hợp và có lợi cho linh hồn thì Người sẽ ban cho chúng ta những ơn lành khác tốt hơn và hữu ích gấp nhiều lần.

Thật vậy, nếu một người láng giềng không ngần ngại để thức giấc cho người bạn quấy rầy vay bánh vào ban đêm, thì huống chi Thiên Chúa là Đấng nhân từ lại không thoả mãn những điều chúng ta cầu xin với Ngài hay sao?

Thực trạng của con người ngày nay luôn mang trong mình não trạng: “Ăn sổi ở thì”, vì thế, nhiều khi xin mà không được như ý là có thể lung lay, mất niềm tin! Nhưng họ đâu biết rằng: có thể lời cầu nguyện của họ không đẹp lòng Chúa, có hại cho linh hồn và phần phúc đời đời. Vì thế, khi không được Thiên Chúa ban ơn theo ý muốn, họ sẵn sàng quay lưng với Người để đi tìm một vị thần khác, và đôi khi cậy nhờ cả đến ma quỷ…

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ý thức thân phận mỏng dòn, yếu đuối của con người để cậy dựa vào Thiên Chúa cách tuyệt đối, đồng thời hãy kiên trì và cầu nguyện không ngừng. Luôn tin tưởng, phó thác nơi Người, vì: “Hãy gõ thì sẽ mở cho, hãy xin thì sẽ được, hãy tìm sẽ gặp”. Tuy nhiên, “ai bền đỗ đến cùng thì mới được cứu độ”.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn kiên trì, trung thành và phó thác nơi Chúa mọi sự. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy niệm 6: Tin tưởng, kiên tâm nguyện cầu Chúa

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Thiên Chúa là Cha hằng thương yêu chúng ta là con cái của Ngài. Ngài biết ta cần gì và luôn cho ta những điều tốt nhất. Ta hãy tin tưởng và kiên tâm nguyện cầu.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, nhiều lần con nghe Lời Chúa hứa: hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ thì sẽ mở cho, mà lòng con vẫn nghi nan. Đó là những lúc con cầu xin một điều gì đó hoài, mà chẳng được như ý con xin. Thậm chí con còn hoài nghi cả sự hiện diện của Chúa nữa. Xin Chúa tha cho con tội nghi ngờ tình thương của Chúa.

Hôm nay, Chúa dạy con kiên trì cầu nguyện. Con tin Chúa thấu hiểu mọi khốn khó trong đời con. Con cũng tin Chúa là Đấng giàu lòng thương xót chẳng muốn con khốn khó. Con lại tin rằng Chúa toàn năng có thể làm được mọi sự giúp con vượt qua gian nan thử thách. Chúa dạy con kiên tâm cầu nguyện là muốn điều tốt cho con. Đó là cách thức tốt nhất để con ý thức sâu xa hơn về thân phận yếu hèn và sự bất lực của kiếp người. Nhờ đó tâm hồn con sẽ được trở nên thích hợp, trở nên khiêm tốn đáng đón nhận ơn Chúa ban.

Sức mạnh của người tín hữu là ở nơi Chúa. Đó là kinh nghiệm của những ai đã thực sự sống là con cái Thiên Chúa. Xin cho con kiên trì cầu nguyện, để trong khi cầu nguyện con luyện lòng cậy trông vào Chúa. Xin cho con kiên trì cầu nguyện để con trở nên bé thơ trong tay Chúa. Xin cho con kiên trì chỉ cầu xin nơi Chúa, để con biết tạ ơn Chúa khi Chúa thương ban ơn cho con. Xin cho con kiên trì cầu nguyện và biết chờ đợi Chúa, vì con biết rằng Chúa luôn ban cho con những điều tốt nhất, vượt trên cả những điều con có thể nghĩ tới, cao cả hơn những điều con ước mong. Amen.

Ghi nhớ: “Các con hãy xin thì sẽ được”.

Suy niệm 7: Vững tin vào tình yêu của Cha

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Một người giàu có Millwankee có một đứa con trai duy nhất mười hai tuổi. Thường ông cho con mọi cái nó muốn. Có một điều người con ao ước hơn hết, là có một người anh em cùng lứa tuổi để chia sẻ, để cùng chơi. Người cha quyết định nuôi một bé trai nghèo nhỏ hơn con trai ông sáu tháng. Cả hai đứa trẻ đều sung sướng. Đứa con trai có bạn, đứa con nuôi có những món đồ chơi mà nó chưa bao giờ biết đến.

Một bữa nọ, hai đứa trẻ đang thảy banh qua lại trong sân. Đứa con nuôi ngỏ ý: “Gee, em ước mong Kenny có một trái banh như thế này. Nó thích đá banh lắm, nhưng cha mẹ nó không thể mua cho nó một trái banh như thế này” và em tiếp tục nói về Kenny, một người bạn lối xóm cũ. Người con ruột nói: “Sao em không xin ba cho nó một trái banh ?”. Người con nuôi trả lời: “Ba đã quá tốt với em rồi, em không dám làm phiền người nữa”. Nhưng người con ruột nài nỉ: “Em đừng quên ba anh là ba em. Người cho anh mọi cái anh xin. Người cũng làm cho em như vậy. Nếu người cho rằng cái đó không tốt cho em, người sẽ nói, nhiều khi người cho em những cái tốt hơn nữa. Hãy xin đi, Kenny sẽ có trái banh” (Theo Suy niệm hàng ngày).

Suy niệm

Thiên Chúa là Cha giàu lòng yêu thương như Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta, khi Ngài dạy cầu nguyện bằng kinh “Abba – Lạy Cha” (x. Lc 11,1-4). Cha luôn đồng hành với con trong cuộc sống, luôn lo tìm kiếm những gì là tốt nhất cho đời con. Dù có lúc sự cám dỗ mãnh liệt, những thử thách đường đời làm con thật khốn quẫn, con cất tiếng kêu cầu Cha, có lúc con tưởng Cha như quên lãng, cảm nhận mình như đứa con bị bỏ chợ, bơ vơ giữa phong ba, con thất vọng muốn bỏ cuộc và quên cả Cha. Chúa Giêsu khuyến khích con hãy kiên trì trong lòng trông cậy Cha bằng dụ ngôn người láng giềng xin bánh giữa đêm khuya để tiếp khách, chủ nhà nếu không vì lòng nhân nhưng vì bị quấy rầy nên phải thức dậy mà cho bánh anh láng giềng (x. Lc 11,5-8). Cha chúng ta, Người không để chúng ta thiếu thốn kia mà… Ngài luôn cho chúng ta những gì là tốt nhất, hãy vững tin dù những lúc thử thách nhất, thử thách đó chẳng phải là “hòn đá”, “rắn rết” hay “bò cạp” của Cha ban đâu. Ngài sẽ ban Thánh Thần để chúng ta vượt qua đồi Canvê mà tiến tới Phục sinh cùng với Đức Giêsu.

Cha thương con bằng một tình yêu bao la như thế, nhưng chúng ta, những người con lại chẳng đoái hoài, luôn chạy theo những phù vân hào nhoáng của thế gian, vật chất mà quên đi tình Cha, đó là “căn bệnh” của nhân loại hôm nay. Thế giới hôm nay chứng kiến con người phát triển mọi mặt hơn bao giờ hết, từ khoa học kỹ thuật đến y khoa và cuộc sống vật chất. Và thế giới hôm nay lại chứng kiến con người khủng hoảng tinh thần hơn bao giờ hết, do thiếu quân bình về đời sống văn minh vật chất với nhu cầu thiêng liêng. Như những gì diễn tả qua nhận định sau: “Khoa phân tâm học và tâm lý học đã đạt được những bước tiến dài hơn và đã phải nhìn nhận rằng: Căn nguyên của sự thiếu quân bình hay bệnh tâm thần không phải là bệnh tôn giáo, nhưng trái lại là vì thiếu tôn giáo, vì không tin vào một Đấng Tối Cao quyền phép mà con người có thể nương tựa và được trấn an che chở. Sở dĩ có những kiện chứng tâm lý phát sinh cũng chính là vì từ nhỏ con người đã không biết nhìn nhận người Cha của mình”.

Xin cho con luôn vững tin vào tình yêu của Cha, dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con, vì như lời hứa: “Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11,9-10).

Ý lực sống

“Hãy ký thác đường đời cho Chúa,

tin tưởng Người, Người sẽ ra tay” (Tv 37,5).

Suy niệm 8: Dụ ngôn người bạn quấy rầy

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Sau khi dạy các môn đệ cầu nguyện theo kinh Lạy Chúa. Đức Giêsu còn đưa ra dụ ngôn “người bạn quấy rầy” để khuyên chúng ta hãy kiên tâm cầu nguyện. Theo dụ ngôn ấy,việc chủ nhà cuối cùng đã cho anh bạn vay bánh có thể vì một trong hai lý do: cho để khỏi bị quấy rầy hoặc cho vì tình bạn. Theo cách diễn tả của dụ ngôn thì người đó đã làm vì lý do thứ nhất. Nếu làm vì lý do thứ hai thì việc cho sẽ có ý nghĩa hơn. Nhưng dù sao thì cuối cùng anh bạn đứng ngoài đã đạt được điều mình xin và lý do là nhờ anh kiên trì.
  2. Một trong những đặc điểm của nền văn minh cổ xưa nhất chính là sự kiên trì cầu nguyện. Tất cả những lời cầu nguyện được tìm thấy trong nền văn minh đó, đều là những kinh cầu được lặp đi lặp lại. Lời cầu nguyện đối với người xưa là cả một công trình lâu dài. Khi người Ai cập thời cổ  tống táng người chết dọc theo bờ sông Nil, họ thường cho xây cất những đền thờ bên cạnh để đêm ngày cầu nguyện. Nếu người chết là một nhân vật quan trọng, sẽ có những tư tế ngày đêm túc trực trong đền thờ để cầu nguyện, có khi lời cầu nguyện này kéo dài hàng thế kỷ (R.Veritas).
  3. Chúa Giêsu dạy chúng ta kiên trì cầu nguyện, vì Thiên Chúa không là Đấng sợ bị quấy rầy, Ngài luôn lắng nghe chúng ta trong từng giây phút. Nơi Thiên Chúa không có tình trạng hồ sơ ứ đọng. Mỗi lần cầu xin, mỗi nhu cầu của chúng ta đều được Chúa lắng nghe với tất cả yêu thương trân trọng. Thật ra, trước khi chúng ta mở miệng kêu xin, Chúa đã biết rõ nhu cầu chúng ta và Ngài ban ơn trước khi chúng ta cầu xin. Chúng ta hãy cầu nguyện và cầu nguyện luôn bởi vì lời cầu nguyện gia tăng lòng tín thác và đó chính là sự đáp trả của Chúa, còn ân ban nào cao cả hơn. Cầu nguyện do đó cũng là xin ơn phó thác nơi Chúa.  Thiên Chúa có chương trình cho chúng ta, hãy cầu nguyện cho chương trình chúng ta, hãy cầu nguyện cho chương trình ấy được thực hiện để trong mọi sự Danh Chúa được cả sáng, ý Chúa được thể hiện (Mỗi ngày một tin vui).
  4. Kiên trì  là một đức tính quan trọng cho sự thành công trong cuộc sống. Trong cầu nguyện cũng thế, cầu nguyện cũng đòi hỏi sự kiên trì, nhẫn nại để thể hiện  sự ý thức giá trị của điều mình xin. Nhưng trong thực tế, có những người vẫn cầu nguyện hoài mà sao không thấy Chúa nhận lời, phải chăng Chúa Giêsu đã dối gạt chúng ta. Nhưng sở dĩ, chúng ta cầu nguyện  mà chưa được là do hai nguyên nhân. Thực ra khi chúng ta cầu nguyện thì Thiên Chúa đã nhận lời, nhưng vì ích lợi chúng ta nên Ngài còn trì hoãn và chưa để nó thành sự. Hai là lòng chúng ta chưa đủ kiên trì trước sự trì hoãn của Chúa (5 phút mỗi ngày).
  5. Một ngày nọ, thánh Clément Hofbauer vào một quán ăn để xin tiền giúp trẻ mồ côi. Thấy vậy, có một người chửi bới  và nhổ vào mặt ngài. Ngài lặng lẽ lau mặt và nói:”Đấy là phần ông cho tôi, còn phần cho các em cô nhi đâu”? Cảm phục trước sự kiên trì của thánh nhân, ông xin lỗi và dốc hết túi tiền tặng ngài.

Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi vì bị con cái quấy rầy bằng những lời van xin khẩn nguyện. Bởi vì, Ngài là Thiên Chúa yêu thương nhân từ. Thiên Chúa biết chúng ta cần gì là tốt cho chúng ta. Ngài luôn sẵn sàng ban những ơn cần thiết để nâng  đỡ và giúp chúng ta vượt thắng cám dỗ. Vì vậy, chúng ta hãy chạy đến với Ngài, kiên trì cầu nguyện để xin Ngài cứu giúp. Nhờ đó, chúng ta có những ân sủng cần thiết để đi trọn hành trình theo Chúa và gắn bó mật thiết hơn với Ngài.

  1. Có người thắc mắc: “Thiên Chúa đã biết tất cả mọi sự trước khi chúng ta cầu xin, tại sao Đức Giêsu còn nhắc bảo chúng ta: “Hãy xin, hãy tìm, hãy gõ”? Ba động từ như ba lệnh truyền lặp đi lặp lại. Đành rằng Chúa thông biết mọi sự, cần gì phải xin, phải tìm, phải gõ ? Thánh Augustinô giải thích:”Hãy xin Ngài sẽ cho. Những điều Ngài cho, Ngài chưa cho ngay để càng làm tăng thêm ước muốn của chúng ta và làm tăng giá trị cho của Ngài ban cho”.

Chúng ta có thể thêm vào lời thánh Augustinô: Phải kiên trì khi cầu xin để tăng thêm ước muốn của chúng ta, và cũng là để tăng thêm giá trị ơn Ngài sẽ ban. Nếu chúng ta chưa nhận được điều mình xin, thì không phải là Chúa không sẵn sàng ban ơn, nhưng có thể điều cầu xin ấy không ích lợi cho linh hồn chúng ta; hoặc Ngài muốn dành cho chúng ta một ơn lớn lao hơn. Cho dù sự đáp trả của Chúa không như lòng chúng ta mong ước hay không đúng lúc chúng ta mong đợi, thì đó cũng là bởi sự khôn ngoan và lòng yêu thương của một người Cha đầy lòng nhân ái.

  1. Truyện:  Một em bé cầu nguyện.

Một đứa bé nọ có thói quen đọc kinh trước khi đi ngủ. Ngày kia bị bệnh nặng phải vào nhà thương, các bác sĩ cho biết em phải qua một cuộc phẫu thuật. Trước khi cho thuốc tê mê, các bác sĩ cho em biết em sẽ ngủ một giấc dài. Nghe nói đến ngủ, em bé đã xin quì gối cầu nguyện và kết thúc bằng lời:” Xin Chúa cho con chóng lành bệnh”. Sau đó em nằm xuống và xin bác sĩ tiến hành giải phẫu.

Hôm sau thức dậy câu hỏi đầu tiên của em là: ”Thưa bác sĩ, cháu có được lành bệnh không”? Bác sĩ nhìn em bé và cảm động nói: ”Cháu hãy để Chúa liệu… điều bác tin chắc là  lời cầu nguyện của cháu có hiệu nghiệm, cháu đã cứu được một người là chính bác: từ lâu bác không còn đến nhà thờ, không nhớ đến Chúa, nhưng hôm qua khi cháu cầu nguyện sốt sắng, Chúa đã đánh động bác; sáng nay, bác đã đến nhà thờ xưng tội, rước lễ, bác tin chắc Chúa đã nhận lời cháu, cháu đừng lo, hãy phó thác cho Chúa”.

Suy niệm 9: Cầu xin Chúa cách kiên trì

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Tại sao Chúa muốn chúng ta cầu xin cách kiên trì ? Vì “Chúa muốn chúng ta ý thức của Ngài cho, hay sẽ cho, phải được tiếp nhận xứng đáng với tấm lòng. Của cho phải tương xứng với tấm lòng. Hơn thế nữa, Chúa muốn tăng thêm đức tin của người cầu xin” (Trích “TMCGK ngày trong tuần”)

Một đứa bé nọ có thói quen đọc kinh trước khi đi ngủ. Ngày kia nó bị bệnh nặng phải vào nhà thương. Các bác sĩ cho biết em phải qua một cuộc phẫu thuật. Trước khi cho thuốc mê, các bác sĩ cho em biết em sẽ ngủ một giấc dài. Nghe đến ngủ, em bé đã xin quì gối cầu nguyện và kết thúc bằng lời: – Xin Chúa cho con chóng lành bệnh.

Sau đó, em nằm xuống và xin bác sĩ tiến hành giải phẫu. Hôm sau thức dậy, câu hỏi đầu tiên của em là: – Thưa bác sĩ, cháu có lành bệnh không ?

Bác sĩ nhìn em bé cảm động nói:

– Cháu hãy để cho Chúa liệu…. Điều bác tin chắc là lời cầu nguyện của cháu có hiệu nghiệm: cháu đã cứu được một người là chính bác. Từ lâu bác không còn đến nhà thờ, không nhớ đến Chúa. Nhưng hôm qua khi nhìn cháu cầu nguyện sốt sắng, Chúa đã đánh động bác. Sáng nay bác đã đến nhà thờ xưng tội, rước lễ…” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).

  1. “Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì hãy được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11,9).

Vâng, phải xin, phải tìm, phải gõ cửa. Xin một cách kiên trì, tìm một cách kiên trì, gõ cửa cũng phải kiên trì.

Nhà văn Nga Maxime Gorki đã thuật lại một câu chuyện rất đẹp để dạy con người về việc này:

Thuở ấy, có một vị sĩ quan cao cấp nhưng rất độc ác tên là Gordien. Ông ta thường tróc nã và tàn sát những người ngay lành. Người mà Gordien ghét nhất là nhà tu hành Mirone, một ẩn sĩ đầy bác ái, làm việc thiện mà không bao giờ sợ hãi và luôn cầu nguyện.

Vị tướng Gordien gọi tên đầy tớ trung thành của ông là Yvan Le Guerrier, sai anh này đi sát hại nhà ẩn sĩ Mirone, chặt đầu vị ẩn sĩ đem về cho chó của vị tướng đánh chén.

Yvan đến gặp nhà ẩn sĩ, rút gươm ra khỏi bao da và chùi thanh gươm vào áo choàng của mình.

– Hỡi đạo sĩ Mirone, tôi đến đây để giết ông. Thế nhưng, trước khi lưỡi gươm của tôi chạm vào ông, tôi cho ông cầu nguyện với Thiên Chúa lần chót. Ông hãy cầu cho ông, cầu cho tôi, cầu cho cả nhân loại. Sau đó tôi sẽ chặt đầu ông!

Nhà tu hành Mirone liền quỳ xuống trước một gốc cây sồi và mỉm cười nói với Yvan:

– Yvan, anh sẽ phải đợi lâu lắm đó, vì lời cầu nguyện cho nhân loại sẽ rất dài. Hay hơn cả, là anh hãy giết tôi ngay bây giờ đi, để khỏi phải chờ lâu vô ích.

Nghe vậy, Yvan chau mày và đáp:

– Không được, tôi đã nói gì là không được rút lời lại. Tôi đợi cho đạo sĩ cầu nguyện xong cho dù có lâu một thế kỷ cũng được!

Nhà ẩn sĩ cầu nguyện cho đến chiều tà. Rồi từ chiều tà cho đến bình minh hôm sau. Người tiếp tục cầu xin, rồi từ bình minh đến hoàng hôn ông vẫn say sưa cầu khẩn. Rồi mùa hè qua đến mãi mùa xuân, lời cầu của ông không hề ngưng một phút. Rồi mùa này đến mùa nọ, năm này đến năm khác, Mirone vẫn cầu xin. Cây sồi mọc lên cao gần tới chân mây. Một khu rừng rậm mọc lên từ những hạt sồi rụng xuống. Nhưng lời cầu xin của nhà tu sĩ vẫn chưa ngừng. Cho đến ngày hôm nay, vị ẩn sĩ vẫn mấp máy những lời xin cứu độ, xin Thiên Chúa thương xót nhân loại, xin Đức Nữ Đồng Trinh cứu giúp loài người.

Thời gian trôi qua, Yvan vẫn đứng nguyên bên cạnh nhà ẩn sĩ. Thanh gươm của y đã rỉ sét hết và sắp tan thành cát bụi. Áo mũ của y rơi từng mảnh. Xuân qua đông lại, Yvan vẫn đứng đó. Các bầy chó sói và gấu đi ngang qua cũng chẳng thèm nhìn đến anh.

Nhưng lời cầu ngyuện của vị ẩn sĩ lão thành cho những người tội lỗi là chúng ta đây vẫn tuôn chảy, vì con người vẫn còn phạm tội. Lời cầu khẩn đó tuôn ra như một dòng sông tưới mát mặt địa cầu, ưu ái và dịu dàng như lòng từ bi của Thiên Chúa.

Lạy Chúa, Chúa đã chịu chết và sống lại,

xin dạy chúng con biết chiến đấu

trong cuộc chiến mỗi ngày

để được sống dồi dào hơn.

Chúa đã khiêm tốn và kiên trì

nhận lấy những thất bại trong cuộc đời

cũng như mọi đau khổ của Thập Giá,

xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách

chúng con phải gánh chịu mỗi ngày,

thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến

và trở nên giống Chúa hơn.

Xin dạy chúng con biết rằng

chúng con không thể nên hoàn thiện

nếu như không biết từ bỏ chính mình

và những ước muốn ích kỷ.

Ước chi từ nay,

không gì có thể làm cho chúng con

khổ đau và khóc lóc

chỉ vì quên đi niềm vui ngày Chúa Phục Sinh.

Amen. (Mẹ Têrêsa Calcutta)

Suy niệm 11: Dụ ngôn “người bạn quấy rầy”

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Hạt giống…
  2. Dụ ngôn này được đặt tên là “người bạn quấy rầy”

– “Quấy rầy” vì đến gõ cửa ban đêm để vay bánh: việc này khiến chủ nhà bị mất ngủ. Và nếu chủ nhà thức dậy thắp đèn lên, rồi lấy bánh, rồi mở cửa, rồi nói chuyện… thì sẽ làm cho vợ con của ông cũng mất ngủ luôn. Bởi thế, chủ nhà đã nói vọng ra lời từ chối. Nhưng người bên ngoài cứ vừa gõ cửa vừa kêu mãi.

– Nhưng người đứng bên ngoài ấy lại là một “người bạn”. Bạn bè thì phải thương yêu nhau và tương thân tương trợ nhau, nhất là trong những khi gặp khó như trường hợp này.

Việc chủ nhà cuối cùng đã cho anh bạn vay bánh có thể vì một trong hai lý do: cho để khỏi bị quấy rầy nữa; cho vì tình bạn. Theo cách diễn tả của dụ ngôn thì người đó đã làm vì lý do thứ nhất. Nếu làm vì lý do thứ hai thì việc cho sẽ có ý nghĩa hơn. Nhưng dù sao thì cuối cùng anh bạn đứng ngoài đã đạt được điều mình xin, và lý do là nhờ anh kiên trì.

  1. Sau khi kể dụ ngôn, Chúa Giêsu lý luận theo kiều a fortiori (huống chi): người đời dù quen hành động theo lý do ích kỷ (để khỏi bị quấy rầy) thế mà cũng phải chịu thua sự kiên trì của người xin. Huống chi Thiên Chúa vốn tốt lành quen đối xử với chúng ta theo tình thương. Bởi thế nếu ai kiên trì cầu xin với Chúa thì chắc chắn sẽ được nhậm lời.

B…. nẩy mầm.

  1. Tại sao Chúa muốn chúng ta cầu xin cách kiên trì ? Vì “Chúa muốn chúng ta ý thức của Ngài cho hay sẽ cho phải được tiếp nhận xứng đáng với tấm lòng. Của cho phải tương xứng với tấm lòng (…) Hơn thế nữa, Chúa muốn tăng đức tin của người cầu xin” (Trích “TMCGK ngày trong tuần”)
  2. “Một đứa bé nọ có thói quen đọc kinh trước khi đi ngủ. Ngày kia bị bệnh nặng phải vào nhà thương. Các bác sĩ cho biết em phải qua một cuộc phẫu thuật. Trước khi cho thuốc mê, các bác sĩ cho em biết em sẽ ngủ một giấc dài. Nghe đến ngủ, em bé đã xin quì gối cầu nguyện và kết thúc bằng lời “Xin Chúa cho con chóng lành bệnh”. Sau đó em nằm xuống và xin bác sĩ tiến hành giải phẫu.. Hôm sau thức dậy câu hỏi đầu tiên của em là “Thưa bác sĩ, cháu có lành bệnh không ?” Bác sĩ nhìn em bé cảm động nói “Cháu hãy để cho Chúa liệu…. Điều bác tin chắc là lời cầu nguyện của cháu có hiệu nghiệm: cháu đã cứu được một người là chính bác. Từ lâu bác không còn đến nhà thờ, không nhớ đến Chúa. Nhưng hôm qua khi cháu cầu nguyện sốt sắng, Chúa đã đánh động bác. Sáng nay bác đã đến nhà thờ xưng tội, rước lễ…” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).
  3. “Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì hãy được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho “. (Lc 11,9)

Nhiều lần tôi cầu nguyện với Chúa. Và nhiều lần cảm thất trống vắng. Bao mơ ước với lời cầu không được nhận lời. Nhiều biến cố trong cuộc đời là những thất bại. Và tôi thầm nghĩ: Chúa thật xa vời. Hình như Ngài đã bỏ tôi. Nhưng hôm nay ngồi nhìn lại chính mình. Tôi cảm nhận Chúa luôn ở với tôi. Điều tôi tưởng như là thất bại, chỉ vì tôi:

Chưa đặt niềm tin nơi Ngài;

chưa kiên nhẫn với việc ngài trao;

chưa kiên trì gõ cửa và tìm kiếm ý Ngài trong đời tôi.

Vì tôi, chỉ thấy thành quả đạt được là của bản thân hơn là Hồng Ân của Ngài.

Lạy Chúa, Chúa thật kiên nhẫn với con. Xin cho con đừng bao giờ nản lòng trước những thất bại, nhưng biết kiên nhẫn tìm kiếm và gõ cửa cho đến khi được Hồng Ân của Ngài. Amen. (Hosanna)

THỨ SÁU TUẦN 27 THƯỜNG NIÊN

Lời Chúa: Lc 11, 15-26

Khi ấy, (lúc Chúa Giêsu trừ quỷ), thì có mấy người trong dân chúng nói rằng: “Ông ta nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ”. Mấy kẻ khác muốn thử Người, nên xin Người một dấu lạ từ trời xuống.

Nhưng Người biết ý của họ, liền phán: “Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp đổ chồng chất lên nhau. Vậy nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được? Bởi các ngươi bảo Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó chính con cái các ngươi sẽ xét xử các ngươi. Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi.

“Khi có người khoẻ mạnh và võ trang đầy đủ canh giữ nhà mình, thì của cải người đó được an toàn. Nhưng nếu có người mạnh hơn xông đến đánh bại hắn, thì sẽ tước hết khí giới hắn tin tưởng, và làm tiêu tán hết những gì đã tước đoạt. Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán.

“Khi thần ô uế ra khỏi người nào, thì nó đi dông dài những nơi khô ráo, tìm chỗ nghỉ ngơi, nhưng không tìm được, nên nó nói rằng: “Ta sẽ trở lại nhà ta, nơi ta đã ra đi”. Khi đến nơi, nó thấy nhà đó đã được quét sạch và sắp đặt ngăn nắp. Bấy giờ nó đi rủ bảy tà thần khác hung ác hơn nó, chúng vào cư ngụ ở đó. Và tình trạng sau cùng của người ấy trở nên tệ hại hơn trước”.

Suy niệm 1: Ngón tay Thiên Chúa

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Nếu đời người là một cuộc chiến đấu không ngừng

thì Đức Giêsu khi sống ở đời, cũng không tránh khỏi cuộc chiến ấy.

Cha sai Ngài đến để khai mở Nước Thiên Chúa trên trần gian.

Để làm việc đó, Nước của Xatan cần bị triệt tiêu.

Cuộc đối đầu giữa Đức Giêsu và Xatan là điều không tránh khỏi.

Ngay trước khi bắt đầu sứ vụ,

Đức Giêsu đã phải đối diện với những mồi chài khôn khéo của Xatan.

Và Ngài đã thắng, đã bắt Xatan phải xéo đi cho khuất mắt (Mt 4, 10).

Khi làm việc Cha giao, khi gần gũi với con người,

Đức Giêsu thấy rất rõ sự hiện diện đầy quyền lực của tên tướng quỷ.

Xatan và Nước của nó chi phối và tác động trên con người.

Đức Giêsu là Đấng giải phóng con người khỏi nô lệ bởi Xatan.

Một công việc không ai chối cãi được của Ngài là trừ quỷ.

Nhưng có nhiều cách giải thích chuyện trừ quỷ của Ngài.

Có người coi Đức Giêsu đã trừ quỷ dựa vào thế lực của Bêendêbun.

Bêendêbun là một vị thần xứ Canaan, ở đây được coi là Xatan.

Không thể nào tướng quỷ lại giúp Ngài diệt các quỷ nhỏ của hắn.

Nếu thế Nước của Xatan chẳng thể nào tồn tại đến nay (c. 18).

Đức Giêsu khẳng định mình dùng ngón tay Thiên Chúa để trừ quỷ (c. 20).

Chỉ cần chút quyền năng Thiên Chúa cũng đủ để xua đuổi ác thần,

và khai mở Nước Thiên Chúa giữa lòng thế giới.

Chúng ta thường quên Xatan là nhân vật có thật và hùng mạnh,

có vũ trang đầy đủ để canh giữ lâu đài của hắn cho an toàn (c. 21).

Nhưng Đức Giêsu chính là người hùng mạnh hơn và thắng được hắn.

Ngài có khả năng tước vũ khí và phân chia chiến lợi phẩm (cc. 21-22).

Cuộc chiến của Đức Giêsu chống lại Ác thần vẫn còn kéo dài đến tận thế.

Có những lúc chúng ta tưởng Xatan là kẻ hùng mạnh hơn,

và dường như thế giới nằm dưới móng vuốt của hắn.

Nhưng chiến thắng cuối cùng thuộc về Đức Giêsu, khi Ngài quang lâm.

Chúng ta không đứng ngoài cuộc chiến giữa Đức Giêsu với Xatan.

Chúng ta cùng chiến đấu với Giêsu cho một thế giới không còn tội ác,

một thế giới không còn bạo lực, bất công, thất vọng, muộn phiền,

một thế giới không còn khổ đau, bệnh tật, đói nghèo, mất hướng.

Đứng hẳn về phía Giêsu, đi với Giêsu, thu góp với Giêsu:

đó là chọn lựa của người Kitô hữu (c. 23).

Ngay cả khi đã trục xuất được quỷ dữ khỏi đời mình,

và khi ngôi nhà đời mình đã được quét tước, dọn dẹp hẳn hoi,

ta cũng phải hết sức cảnh giác, vì có nguy cơ quỷ trở lại.

Sự trở lại này có thể còn kinh khủng hơn trước (c. 26).

Có vẻ quỷ thích ở lại với con người hơn là lang thang nơi hoang mạc,

nên căn nhà tâm hồn của chúng ta cần được bảo vệ bằng lũy hào Lời Chúa.

Xin Đức Giêsu dạy chúng ta biết cách nhận diện kẻ thù,

biết cách đuổi Xatan ra khỏi đời mình và ngăn không cho nó trở lại.

Cầu nguyện:

Lạy Cha từ ái,

đây là niềm tin của con.

Con tin Cha là Tình yêu,

và mọi sự Cha làm đều vì yêu chúng con.

Cả những khi Cha mạnh tay cắt tỉa,

cả những khi Cha thinh lặng hay vắng mặt,

cả những khi Cha như chịu thua sức mạnh của ác nhân,

con vẫn tin Cha là Cha toàn năng nhân ái.

Con tin Cha không chịu thua con về lòng quảng đại,

chẳng để con thiệt thòi khi dám sống cho Cha.

Con tin rằng nơi lòng những người cứng cỏi nhất

cũng có một đốm lửa của sự thiện,

được vùi sâu dưới những lớp tro.

Chỉ một ngọn gió của tình yêu chân thành

cũng đủ làm đốm lửa ấy bừng lên rạng rỡ.

Con tin rằng chẳng có giọt nước mắt nào vô ích,

thế giới vẫn tồn tại nhờ hy sinh thầm lặng của bao người.

Con tin rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về Ánh sáng.

Sự Sống và Tình yêu sẽ chiếm ngự địa cầu.

Con tin rằng dòng lịch sử của loài người và vũ trụ

đang chuyển mình tiến về với Cha,

qua trung gian tuyệt vời của Chúa Giêsu

và sức tác động mãnh liệt của Thánh Thần.

Con tin rằng dần dần mỗi người sẽ gặp nhau,

vượt qua mọi tranh chấp, bất đồng,

mọi dị biệt, thành kiến,

để cùng nắm tay nhau đi qua sa mạc cuộc đời

mà về nhà Cha là nơi hạnh phúc viên mãn.

Lạy Cha, đó là niềm tin của con.

Xin Cha cho con dám sống niềm tin ấy. Amen.

Suy niệm 2: Dọn cỗ cho ma

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Đổi đời là ước vọng ngàn đời của con người. Ai cũng mong ước được đổi mới cuộc đời. Gio-en tiên báo sẽ có cuộc đổi đời quyết liệt, triệt để, toàn diện. Đó là ngày thế giới cũ, con người cũ bị tận diệt. “Ôi ngày đáng sợ thay! Ngày của Đức Chúa quả đã gần kề! Ngày sẽ đến tựa cơn tàn phá do lệnh Đấng Toàn Năng”. Đó là ngày tận số cho những kẻ làm điều ác. “Run lên đi, mọi cư dân trong xứ, vì Ngày của Đức Chúa đến rồi, Ngày ấy đã kề bên. Ngày tối tăm u ám, Ngày mây mù tối đen”. Nhưng thế hệ xấu qua đi để có một thế hệ tốt mới xuất hiện. Thần dân của bóng tối qua đi, để Dân Thiên Chúa, dân của ánh sáng xuất hiện: “Một dân đông đúc và hùng mạnh đang tràn ngập núi đồi như thể ánh bình minh. Một dân như vậy xưa nay chưa hề có và muôn năm muôn đời cũng sẽ chẳng bao giờ có nữa” (năm lẻ).

Lời tiên báo đó ứng nghiệm nơi Chúa Giê-su. Chúa đến tiêu diệt vương quốc bóng tối của ma quỉ. Giải phóng con người khỏi ách nô lệ ma quỉ. Xua đuổi chúng về miền tăm tối. Ma quỉ không còn phải là kẻ mạnh nhất nữa. Chính Chúa Giê-su, Đấng Cứu Thế mới là Đấng Toàn Năng, mạnh mẽ: “Khi một người mạnh được vũ trang đầy đủ canh giữ lâu đài của mình, thì của cải người ấy được an toàn. Nhưng nếu co người mạnh thế hơn đột nhập và thắng được người ấy thì sẽ tước lấy vũ khí mà người ấy vẫn tin tưởng và sẽ đem phân phát những gì đã lấy được”. Chúa đã chiếm lại được sự sống và tự do từ tay ma quỉ. Chúa đem sự sống và tự do trả lại cho con người.

Tuy nhiên lại có một vấn đề. Con người có tự do, có đón nhận Chúa không? Những người không tin Chúa cho rằng Chúa là tướng quỉ đến trừ quỉ. Họ dọn cỗ cho ma. Vì không chấp nhận Chúa thì họ sẽ như căn nhà bỏ hoang sau khi được Chúa quét dọn sạch sẽ. Ma quỉ sẽ quay trở lại. Không có Chúa, số phận họ sẽ khốn khổ hơn trước.

Muốn đón nhận Chúa phải có đức tin. Chính đức tin làm cho con người nên công chính. Chính đức tin làm nên sức mạnh. Vì sống bằng sức sống và sức mạnh của Chúa. Chính đức tin vào Chúa Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh giải phóng ta khỏi bị nguyền rủa. “Khi vì chúng ta chính Người trở nên đồ bị nguyền rủa”. Chịu chết Chúa qui tụ một dân đông đúc và hùng mạnh. “Các dân ngoại cũng được hưởng phúc lành dành cho ông Áp-ra-ham”. Đó là dân hùng mạnh vì thoát khỏi ách quỉ thần. Và sống bằng Thần Khí nhờ đức tin như thánh Phao-lô dạy: “nhờ đức tin, chúng ta nhận được ơn Thiên Chúa đã hứa tức là Thần Khí” (năm chẵn).

 

Suy niệm 3: Nương Tựa Vào Chúa

Dù với công thức dài như ở Tin Mừng Matthêu hay ngắn gọn nơi Tin Mừng Luca, Kinh Lạy Cha được kết thúc bằng câu: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”. Nhắc nhở các môn đệ cầu xin cho khỏi sa chước cám dỗ, Chúa Giêsu cũng muốn nói đến một thực tại luôn có mặt trong thế giới này để làm hại con người, đó là sự dữ hay ma quỉ. Ở bên cạnh con người, nhưng ma quỉ không hiện nguyên hình, mà lại mượn chính hình dạng con người để quyến rũ và lôi kéo con người đến điều ác.

Ðó cũng là sự kiện đã xảy ra như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay: sau khi Chúa Giêsu chữa cho một người bị quỉ ám được khỏi, trong đám đông có mấy người nói rằng Ngài đã nhờ thế của quỉ vương Beelzebul mà trừ quỉ. Chúa Giêsu đã nhân cơ hội này để mạc khải về Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa đã đến và trong đó có bóng dáng của ma quỉ. Một Phêrô vừa được khen thưởng vì đã tuyên xưng đúng tước hiện của Chúa Kitô, thì lập tức đã bị khiển trách là Satan khi ông căn ngăn Chúa Giêsu lên Yêrusalem để chịu khổ nạn.

Chúa Giêsu đã đến để chiến thắng ma quỉ và tội lỗi, đồng thời Ngài cũng đòi hỏi những kẻ theo Ngài phải có một thái độ dứt khoát: “Ai không theo tôi, là chống tôi, và ai không cùng tôi thu góp, là phân tán”. Hình ảnh người võ trang canh giữ nhà của mình là một lời mời gọi những kẻ theo Chúa biết hoàn toàn đặt tin tưởng, phó thác vào Ngài. Tìm một người hùng mạnh để canh giữ cho mình được an toàn thì có ai bằng Thiên Chúa; kiếm một nơi ẩn náu trước những tấn công của kẻ thù, thì có đâu vững chắc cho bằng núp bóng dưới cánh tay Ngài.

Chúng ta phải tìm nơi nương tựa mạnh mẽ, vững chắc, vì ma quỉ như sư tử luôn gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé, làm hại chúng ta. Một lần thất bại, nó không nản lòng, nó sẽ trở lại với một lực lượng hùng mạnh hơn. Bởi đó, chúng ta phải kiên trì trong lời cầu nguyện: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ”. Cám dỗ là vũ khí ma quỉ dùng để đánh bại chúng ta, nhưng chúng ta vẫn không nao núng, nếu biết đứng vững trong đức tin để chống cự và biết ẩn núp dưới sự che chở của Chúa.

Nguyện xin Chúa gìn giữ chúng ta luôn kiên vững trong niềm xác tín đó.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Suy niệm 4: Quyền Năng Trên Quỉ Dữ

Phép lạ Chúa Giêsu thực hiện là một dấu chỉ để mạc khải nước Thiên Chúa và tình thương giải phóng của Thiên Chúa đối với con người. Nhưng mọi dấu chỉ đều lưỡng vị, hai nghĩa và người ta có thể giải thích cách này hay cách khác, tùy theo tâm hồn họ như thế nào. Thiên Chúa chấp nhận để cho con người làm như vậy là vì Ngài kính trọng tự do của người chứng kiến và giải thích dấu chỉ. Ðó là điều đã xảy ra và được kể lại trong đoạn Phúc Âm chúng ta vừa đọc lại trên đây.

Nhiều người kính phục quyền năng giải phóng và tình thương nhân từ của Thiên Chúa được thể hiện nơi và qua hành động của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, vài người khác thì giải thích xấu đi, cho rằng Chúa Giêsu cấu kết với quyền lực của quỷ vương để trừ quỷ con. Nhưng giải thích như vậy không hợp lý gì cả. Lòng gian tà và ý xấu muốn bôi nhọ Chúa Giêsu làm cho họ ra mù quáng và lý luận không còn hợp lý nữa. Chúa Giêsu chỉ cho họ thấy khuyết điểm này với những lời như sau: “Vương quốc nào chia rẽ thì sẽ bị tan rã. Giờ đây, nếu Satan cũng chia rẽ thì làm sao chúng đứng vững được”. Giải thích duy nhất đúng là qua dấu lạ đó mà nhìn nhận Ðấng thực hiện dấu lạ có quyền năng trên quỷ dữ và như thế là Nước Thiên Chúa và hành động giải phóng của Ngài đã đến giữa con người trước mặt họ.

Ðể chấp nhận lời mạc khải của Chúa và trong trường hợp này, lời giải thích của Chúa Giêsu về ý nghĩa của dấu lạ Chúa vừa thực hiện, con người cần nhờ đến ánh sáng siêu nhiên hướng dẫn, cần có đức tin, cần có sự soi sáng của Chúa Thánh Thần. Ðây là điều mà những kẻ thù của Chúa Giêsu không có được đức tin là hồng ân của Thiên Chúa, chứ không phải là kết luận của suy tư. Vì thế, trước dấu lạ Chúa Giêsu thực hiện, con người không nhất thiết có thể nhìn nhận ý nghĩa của dấu lạ đó và tuyên xưng đức tin. Nếu đức tin là kết luận của suy tư lý trí thì trước dấu lạ Chúa thực hiện, mọi người đều đã tin Chúa hết cả rồi.

Con người cần khiêm tốn cầu xin Thiên Chúa ban cho ơn đức tin, để có thể nhận ra ý nghĩa của dấu lạ và được củng cố trong đức tin. Trước dấu lạ của Chúa, con người chỉ có một trong hai thái độ: tin hay không tin; chấp nhận hay chối từ mà thôi. Và một khi đã tin rồi, người đồ đệ cần phải góp phần của mình để bồi dưỡng thêm cho đức tin, góp phần làm cho đức tin được phát triển, được vững mạnh hơn. Nếu không, tình trạng bị mất đức tin sau đó sẽ trở thành tồi tệ hơn trước khi tin Chúa, ma quỷ tấn công trở lại mạnh mẽ hơn muôn vạn cho đến bảy lần hơn.

Ðể hiểu rõ một ai thì cần phải yêu mến người đó và thường xuyên trao đổi với người đó. Ðối với Chúa Giêsu cũng vậy, để biết Chúa nhiều hơn, thì cần phải yêu mến Ngài và có những trao đổi thường xuyên với Ngài qua việc cầu nguyện, lắng nghe lời Chúa. Ðể có thể luôn luôn đứng về phe Chúa, luôn luôn trung thành theo Chúa thì không có cách nào tốt hơn là hữu hiệu hơn là sống thân mật kết hiệp với Chúa qua việc cầu nguyện và lắng nghe lời Ngài. Ðiều này đòi hỏi chúng ta phải luôn sám hối, hoán cải, để có thể cùng với Chúa mà chiến thắng sức mạnh thần dữ muốn chiếm đoạt chúng ta theo phe chúng.

Lạy Chúa là Cha chúng con.

Chúng con cảm tạ Chúa vì đã ban cho chúng con đức tin. Xin thương ban xuống tràn đầy Chúa Thánh Thần trên chúng con để chúng con được củng cố mỗi ngày một thêm trong đức tin.

Lạy Chúa.

Xin gia tăng đức tin cho chúng con.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Suy niệm 5: Không thuận là chống

“Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán.” (Lc. 11, 23)

Đó là lý luận đơn giản. Người ta không thể vừa thuận vừa chống cùng một lúc. Người ta tố cáo Đức Kitô lấy quyền quỷ mà trừ quỷ! Thưa quý vị, quý vị nếu có một chút thông minh, quý vị sẽ thấy rõ đó là cuộc nội chiến ghê gớm của Satan. Thiên Chúa nhân lành đã làm rất nhiều để chống lại Satan và bè lũ của nó. Muốn diệt chúng hoàn toàn, Chúa chỉ để chúng đánh nhau từ trong nội bộ là xong. Nhưng khốn nỗi, không bao giờ Ngài làm thế.

Không, không phải Đức Kitô nhờ tướng quỷ Bendêbút mà trừ quỷ. Người Aramê đã gọi Bendêbút là “chúa phân bớn” “chúa ruồi nhặng”. Những tiếng khinh bỉ đó không bao giờ dám gán cho Đức Kitô. Nhưng những kẻ dám gán cho Người rất quỷ quyệt, tuy nhiên họ lại ngu dốt đến nỗi cho thấy họ đã tự mâu thuẫn với chính mình!

Chính nhờ ngón tay Thiên Chúa có ý nghĩa là sức mạnh của Thiên Chúa mà Đức Kitô hành động. Vì từ nay đi, nhờ Người triều đại Thiên Chúa đã tiếp tục trị đến trong thế gian. Satan không thể nào chống được Con Thiên Chúa. Nó đã rình mò thám thính thử đến thuê mướn Người lúc ăn chay 40 ngày trong sa mạc. Người mạnh hơn nó trên thế gian, từ nay chính Người là Đấng Thiên Sai Cứu Thế! Người đến cứu độ nhân loại. Người ở lại đây, không bỏ đi nữa. Ai ở với Người và không chống lại Người thì được bảo vệ và được nâng đỡ mãi mãi trong tình yêu của Người.

Nhưng xin chú ý, chú ý! Người ta có thể thuận theo Người, thành thật chọn Người, muốn theo Người tới cùng, bằng mọi giá, tin cậy núp bóng Người luôn luôn! Nhưng đừng tưởng Satan không còn nữa, thời của nó đã trôi vào quá khứ, nó không còn thể chống lại loài người nữa; chối quyền lực của nó thì liều mình đi đến sa ngã thất bại. Nó còn hoạt động hơn bao giờ hết! nó biết lừa cơ hội để khai thác những yếu đuối sâu sa của chúng ta một cách đáng sợ! những làn sóng ngầm của sự dữ lôi cuốn thế giới chúng ta là chứng cớ rõ ràng có bàn tay lầm ngầm của ma quỷ. Sự đánh thức những bản năng hạ đẳng nhất của nhân loại là dấu chỉ chắc chắn quỷ đang có mặt giữa chúng ta! đừng sợ, đừng đánh thức những thú hạ đẳng đó, dù thần dữ không bao giờ đầu hàng, nhưng hãy tin cậy vững mạnh vào Đức Kitô vì Người đã chiến thắng thế gian; Phần chúng ta phải sáng suốt đi theo Người.

GF

Suy niệm 6: Không được vu khống

Xem CN 10 TN B (Mc 3,20-35) thứ Hai tuần 8 TN, thứ Năm tuần 3 MC và thứ Ba tuần 14 TN

Có một thời người ta đổ xô đi mua cuốn sách: “Cơn cám dỗ cuối cùng” của tác giả Nikos Kazantzakis, và trong những năm gần đây, đạo diễn Martin Scoresse đã hiện thực hóa trong bộ phim cùng tên. Khi phim được trình chiếu, nhiều người đã tỏ ra bức xúc vì những lời lẽ và hành động được tác giả gán cho Đức Giêsu xem ra có vẻ tầm thường và đôi khi không được tốt đẹp cho lắm!

Đó là câu chuyện thời nay, còn thời xưa, những người Pharisêu đã không ngần ngại gán cho Đức Giêsu rằng: Ngài đã nhờ Tướng Quỉ để mà trừ quỉ. Đây là một sự xúc phạm nặng nề đến bản tính của Thiên Chúa.

Tuy nhiên, họ đã bị phản pháo, khi Đức Giêsu đưa ra hai luận chứng nhằm lý giải cho họ biết rằng những lời họ vu cáo không có căn cứ:

– Trước tiên, Ngài không thể lấy danh của Tướng Quỷ mà trừ quỷ được. Lý do: một là Tướng Quỷ không đời nào cho như vậy; hai là nếu chúng đồng ý thì hẳn nước của chúng tới hồi kết thúc.

– Tiếp theo, Đức Giêsu dùng biện pháp lấy “độc trị độc” hay “gậy ông đập chính lưng ông” khi nói: “Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ?”

Nghe đến đây, họ đã câm miệng vì những lời lẽ khôn ngoan được thốt lên từ miệng Đức Giêsu.

Với những lời phi bác ấy, Đức Giêsu đã vô hiệu hóa  việc vu khống của những người Pharisêu.

Khi đánh tan sự xuyên tạc của chúng, Đức Giêsu vạch trần mục đích đen tối của họ là xấu xa, gian ác, nhằm mục đích hại người.

Trong thực trạng xã hội hiện nay, vẫn còn đó những Pharisêu kiểu hiện đại với những lời lẽ vu khống hết sức xảo quyệt. Họ luôn dùng chiêu thức: “Cả vú lấp miệng em” để đè ép, vu khống và cướp bóc nơi những người thấp cổ bé họng không có tiếng nói.

Còn về phía chính chúng ta, nhiều khi chúng ta không phỉ báng Chúa như những người Pharisêu, nhưng không chừng, chúng ta đang phỉ báng Chúa cách nặng nề hơn họ khi mỗi lần chúng ta rước Chúa vào lòng cách bất xứng với đầy tội lỗi; hay mỗi khi chúng ta khước từ Giáo Huấn của Chúa. Sống ích kỷ, kiêu ngạo, bất nhân và ác ý…

Như vậy, sự tốt – xấu; bóng đêm – ánh sáng vẫn luôn hiện diện trong mọi thời, và người công chính vẫn phải chịu cảnh thua thiệt.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy đấu tranh cho lẽ phải bằng cách lựa chọn điều tốt, tránh điều xấu làm phương hại đến đời sống tâm linh của ta cũng như mọi người. Không bao giờ được sống kiểu lập lờ; bắt cá hai tay… Tránh cho xa cái thói đê tiện làm cho ta ghen tức mà tìm cách hại người khác như triệt hạ uy tín của họ cách này hay cách khác. Cần có sự tha thứ cho anh chị em mình.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con tin tưởng vào quyền năng của Chúa. Luôn biết sống trong sự khiêm tốn và yêu thương mọi người. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy niệm 7: Quyền năng Chúa xua trừ ma quỷ

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu dùng quyền năng Thiên Chúa xua trừ ma quỷ và thực hiện triều đại Thiên Chúa. Ai thuộc về Thiên Chúa phải xa lánh tội lỗi và ma quỷ.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dùng uy quyền Thiên Chúa cứu chữa bao kẻ bệnh tật, xua trừ ma quỷ. Con xác tín rằng Chúa đến khai mở một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên Thiên Chúa cứu độ loài người. Chúa đến thiết lập một triều đại mới và vĩnh tồn, triều đại Thiên Chúa. Từng việc Chúa làm, từng lời Chúa nói, đều tỏ lộ quyền năng và tình thương cứu độ Chúa dành cho con. Lạy Chúa, con xin dâng lời cảm tạ và chúc tụng Chúa đến muôn đời.

Lạy Chúa, khi Chúa khai mở thời đại cứu độ cũng là lúc Chúa chấm dứt thời kỳ của ma quỷ. Nhưng chúng vẫn chưa hoàn toàn chịu khuất phục quyền uy Chúa. Chúng vẫn còn muốn khuấy động và gieo rắc vào lòng mọi người sự thù hằn, chống đối và phản nghịch Chúa. Có người đã coi Chúa như một thầy ma thuật, lấy quyền tướng quỷ để trừ quỷ, có kẻ đã đòi những dấu lạ như thách thức quyền năng Chúa. Ma quỷ vẫn còn đó, chúng ghen tức với hạnh phúc và ơn cứu độ dành cho chúng con. Chúng vẫn luôn tiếp tục gây chia rẽ, thù hằn, chống đối giữa chúng con với Thiên Chúa, giữa chúng con với nhau ngay trong thế giới hôm nay.

Lạy Chúa, xin biểu lộ quyền năng giúp con thắng vượt mọi mưu chước ma quỷ. Xin cho con ơn thức tỉnh ngay với bản thân để đừng khi nào con cố tình phạm tội, hay đồng lõa với cơn cám dỗ. Xin cứu con khỏi mọi sự dữ. Amen.

Ghi nhớ: “Nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi”.

Suy niệm 8: Quyền năng Thiên Chúa trên quỷ ma

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Sách Khải Huyền nói đến ma quỷ như con mãng xà có nhiều quyền năng: “Từ miệng, con rắn phun nước ra đằng sau bà như một dòng sông, để cuốn bà đi” (Kh 12,15).

Tác giả sách Khải Huyền tố cáo ma quỷ bắt bớ những người Kitô hữu: “Đừng sợ các nỗi đau khổ ngươi sắp phải chịu: Này ma quỷ sắp tống một số người trong các ngươi vào ngục để thử thách các ngươi” (Kh 2,10). “Con mãng xà nổi giận với người phụ nữ và đi giao chiến với những người còn lại trong dòng dõi bà, là những người tuân theo các điều răn của Thiên Chúa và giữ lời chứng của Đức Giêsu” (Kh 12,17).

Ma quỷ luôn hiện hữu và quyền năng mạnh mẽ…

Suy niệm

Chúa Giêsu đã rao giảng và đã thực hiện những dấu lạ khắp nẻo đường Palestine: Ngài đã chữa người bại liệt để chứng minh Ngài có quyền tha tội; Chúa Giêsu chữa lành cho người bị quỷ ám… Tất cả chứng tỏ quyền năng thần linh của Ngài. Một số người, họ là những người đã nghe Chúa giảng, đã thấy phép lạ tỏ tường, cho rằng: Chúa lấy quyền của tướng quỷ Belgiêbút mà trừ quỷ. Nhưng Ðức Giêsu đã khẳng định: Ngài lấy quyền từ Thiên Chúa. Ngài mạc khải rõ sứ mệnh của Ngài khi Ngài dùng quyền năng Thiên Chúa mà trừ quỷ, bảo vệ bênh vực chúng ta, cứu chúng ta thoát khỏi ách thống trị của ma quỷ và tội lỗi.

Chúa Giêsu chỉ cho họ thấy khuyết điểm của những giải thích như vậy là không hợp lý khi Ngài khẳng định: “Vương quốc nào chia rẽ thì sẽ bị tan rã. Giờ đây, nếu Satan cũng chia rẽ thì làm sao chúng đứng vững được”.

Ðức Giêsu còn cho ta biết thêm: Ma quỷ là kẻ thù rất mạnh, chúng luôn tìm cách lôi kéo trói buộc chúng ta bằng đủ mọi mưu chước, đặc biệt là cám dỗ: Chúng như sư tử luôn gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé, làm hại chúng ta (x. 1Pr 5,8). Một lần thất bại, nó không chịu bại trận, nó chỉ tạm rút lui và sẽ trở lại với một lực lượng hùng mạnh hơn. Vì thế, chúng ta cần tỉnh táo và sáng suốt trước những thử thách, cám dỗ của chúng.

Hình ảnh người đầy đủ võ trang canh giữ nhà của mình là một lời mời gọi những kẻ theo Chúa biết hoàn toàn đặt tin tưởng, phó thác và núp bóng dưới cánh tay Ngài, Đấng chiến thắng trên ma quỷ là nơi ẩn náu và sự an toàn vững chắc cho chúng ta.

Thật thế, hãy tin vào Ðấng thực hiện quyền năng trên quỷ dữ…

Ý lực sống:

“Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ” (Mt 6,7).

Suy niệm 9: Đức Giêsu trừ một quỷ câm

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Bài Tin Mừng hôm nay trình bầy cho chúng ta về việc Đức Giêsu thì hành sứ vụ cứu thế của Ngài qua việc trừ một quỷ câm, để mời gọi chúng ta phải có thái độ dứt khoát trong việc lựa chọn Ngài. Bởi vì, sau khi Đức Giêsu trừ một quỷ câm thì dân chúng có ba thái độ: Đa số thì ngạc nhiên và cảm phục, một nhóm xuyên tạc rằng Ngài dựa thế quỷ vương Bendêbun để trừ quỉ nhỏ, còn nhóm thứ ba thì nửa tin nửa ngờ nên muốn có một dấu lạ “từ trời” để chứng nhận Đức Giêsu chính là người mà trời sai xuống.
  2. Phép lạ Chúa Giêsu thực hiện là một dấu chỉ để mạc khải Nước Thiên Chúa và tình thương giải phóng của Thiên Chúa đối với con người. Nhưng mọi dấu chỉ đều lưỡng vị, hai nghĩa và người ta có thể giải thích cách này hay cách khác, tùy theo tâm hồn họ như thế nào. Thiên Chúa chấp nhận để cho con người làm như vậy là vì Ngài tôn trọng tự do của người chứng kiến và giải thích dấu chỉ. Đó là điều đã xẩy ra và được kể lại trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa đọc.
  3. Trước phép lạ Chúa Giêsu trừ một quỷ câm, nhiều người kính phục quyền năng và tình thương nhân từ của Thiên Chúa được thực hiện nơi và qua hành động của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, vài người khác thì giải thích xấu đi, cho rằng Chúa Giêsu cấu kết với quyền lực của quỷ cả để trừ quỷ con. Nhưng giải thích như vậy không hợp lý gì cả. Lòng gian tà và ý xấu muốn bôi nhọ Chúa Giêsu làm cho họ ra mù quáng và lý luận không còn hợp lý nữa. Chúa Giêsu chỉ cho họ thấy khuyết điểm này với những lời như sau: ”Vương quốc nào chia rẽ thì sẽ bị tan rã. Giờ đây, nếu satan cũng chia rẽ thì làm sao chúng đứng vững được”? Giải thích duy nhất đúng là qua dấu lạ đó mà nhìn nhận Đấng thực hiện dấu lạ có quyền năng trên quỷ dữ, và như thế Nước Thiên Chúa và hành động giải phóng của Ngài đã đến giữa con người trước mặt họ (R.Veritas).
  4. Chúa Giêsu đã đến để chiến thắng ma quỷ và tội lỗi, đồng thời Ngài cũng đòi hỏi những kẻ theo Ngài phải có một thái độ dứt khoát: ”Ai không theo tôi, là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp, là phân tán”(Lc 11,23). Hình ảnh người võ trang canh giữ nhà của mình là một lời mời gọi những kẻ theo Chúa biết hoàn toàn đặt tin tưởng, phó thác vào Ngài. Tìm một người hùng mạnh để canh giữ cho mình được an toàn thì có ai bằng Thiên Chúa; kiếm một nơi ẩn náu trước những tấn công của kẻ thù, thì có đâu vững chắc cho bằng núp bóng dưới cánh tay Ngài (Mỗi ngày một tin vui).
  5. Vào tháng 2 năm 2014, cầu treo Chu Va 6 bị lật khiến 8 người thiệt mạng và hơn 20 người bị thương nặng. Các chuyên gia cho rằng, lỗi kỹ thuật không nằm ở trụ cầu hay cáp treo mà ở một con ốc neo. Một sai lầm nhỏ cũng đủ làm lật cây cầu treo dài hơn 50 mét. Cũng thế, chỉ một sự chia rẽ nhỏ trong tập thể cũng có thể đem lại hậu quả khôn lường. Vì thế, hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta giá trị cần thiết của sự đoàn kết: ”Nước nào tự chia rẽ thì sẽ điêu tàn, nhà nọ đổ xuống nhà kia”; ngược lại, đoàn kết làm cho một tập thể thêm huynh đệ, yêu thương, tha thứ.

Đức Giáo hoàng Phanxicô cũng mạnh mẽ lên án việc chia rẻ bên trong các cộng đoàn. Ngài phê phán bệnh xầm xì nói xấu nhau. Căn bệnh này có thể phá hủy tình thân hữu  trong bất kỳ cộng đoàn nào. Đó là thứ tội lỗi xấu xa, phát xuất từ lòng ghen tị, thù hận, và là hoạt động trực tiếp của ma quỷ, nhằm phá hoại sự hiệp nhất của cộng đoàn.

  1. Vì thế, con người cần khiêm tốn cầu xin Thiên Chúa ban cho ơn đức tin, để có thể nhận ra ý nghĩa của dấu lạ và được củng cố trong đức tin. Trước dấu lạ của Chúa con người chỉ có một trong hai thái độ: tin hay không tin, chấp nhận hay chối từ mà thôi.  Và một khi đã tin rồi, người môn đệ cần phải góp phần làm cho đức tin được phát triển, được vững mạnh hơn. Nếu không, tình trạng bị mất đức tin sau đó sẽ trở thành tồi tệ hơn trước khi tin Chúa, ma quỉ tấn công trở lại mạnh mẽ hơn.
  2. Truyện: Phải biết chọn lựa.

Ngày kia, trong khi đến rao giảng cho các tù nhân tại trại tù nọ, cha Gioan nhìn thấy trong số cử tọa một người với gương mặt có vẻ quen quen.

Sau khi kết thúc bài giảng, cha liền tìm đến gặp người đó tại xà lim nơi giam giữ anh ta. Gặp lại người quen của mình từ nhỏ, người tù nhân đó nói:

– Thưa linh mục, tôi còn nhớ rất rõ về ông. Cả hai chúng ta đều lớn lên ở cùng một khu phố, chúng ta cùng đi học với nhau tại một ngôi trường; ngồi cùng một bàn bên cạnh nhau; và tôi cũng có những triển vọng tươi sáng giống như ông. Nhưng đến khi lớn lên, ông chọn lựa con đường làm linh mục, phục vụ Thiên Chúa. Còn tôi, tôi lại khước từ việc đến với Đức Kitô, và đã chọn đi theo thế gian và tội lỗi. Hiện nay, ông là một người rao giảng Tin Mừng, có cuộc sống hạnh phúc và được mọi người kính trọng, trong khi tôi lại là một con người tồi tệ, bị gạt ra ngoài lề xã hội. Tôi đã sống trong trại tù này từ 10 năm nay, và tôi sẽ con phải sống ở đây cho đến mãn đời !

Vâng ! Hãy biết chọn cho mình một hướng đi. Hãy tìm cho mình một lý tưởng sống. Xin Chúa luôn trợ giúp chúng ta.

Suy niệm 10: Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Chắc anh chị em còn nhớ trong bài Tin Mừng cách đây hai hôm, trong phần kết thúc Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu đã dạy phải cầu xin “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ” (Lc 11,4). Khi dạy các môn đệ như thế, Chúa Giêsu đã muốn nói đến một thực tại luôn có mặt trong thế giới này để làm hại con người, đó là sự dữ hay ma quỉ. Ma quỉ luôn ở bên cạnh con người, nhưng chúng không hiện nguyên hình, mà lại mượn chính hình dạng con người để quyến rũ và xúi giục con người làm điều ác. Chúa Giêsu bảo chúng ta phải biết luôn cảnh giác.

Trong lịch sử của thánh Martino, giám mục thành Tour (Pháp) có chép:

Một hôm, ma quỉ muốn cám dỗ thánh nhân đi vào con đường trụy lạc. Hắn liền hiện hình một vị vua oai phong huy hoàng đến với thánh nhân: – Martino hỡi con, cha cám ơn con về lòng tin của con đối với cha. Con cũng phải biết rằng, cha luôn thành tín đối với con. Từ nay, con sẽ mãi mãi cảm thấy ở bên cạnh cha, con có thể hoàn toàn tín nhiệm ở cha.

Thánh nhân chăm chú nhìn ông vua kia hồi lâu rồi ngài hỏi: – Nhưng thưa ngài, ngài là ai vậy ?

Tên quỉ đội lốt vua đáp: – Ta là Giêsu Kitô đây.

Thánh nhân lại hỏi: – Vậy thì vết thương bị đóng đinh ở chân tay ngài đâu ?

Tên quỉ trả lời: – Ta từ vinh quang trên trời xuống, nơi đó chẳng còn có thương tích nữa.

Thánh nhân đáp lại ngay: – Tôi không muốn nhìn Đức Kitô không thương tích. Tôi không thể tín nhiệm Đức Kitô không qua dấu hiệu Thập Giá.

Thấy mưu đồ bại lộ, tên quỷ lủi mất.

  1. Chúa Giêsu đã đến để chiến thắng ma quỉ và tội lỗi, đồng thời Ngài cũng đòi hỏi những kẻ theo Ngài phải có một thái độ dứt khoát: “Ai không theo tôi, là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp, là phân tán” (Lc 11,23).Hình ảnh người võ trang canh giữ nhà của mình là một lời mời gọi những kẻ theo Chúa biết hoàn toàn đặt tin tưởng, phó thác vào Ngài. Tìm một người hùng mạnh để canh giữ cho mình được an toàn thì có ai bằng Thiên Chúa; kiếm một nơi ẩn náu trước những tấn công của kẻ thù, thì có đâu vững chắc cho bằng núp bóng dưới cánh tay Ngài.

Vâng! Chúng ta phải tìm cho mình một nơi nương tựa mạnh mẽ, vững chắc. Thánh Phêrô bảo: ma quỉ như sư tử luôn gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé, làm hại chúng ta. Một lần thất bại, nó không nản lòng, nó sẽ trở lại với một lực lượng hùng mạnh hơn. Bởi đó, chúng ta phải kiên trì trong lời cầu nguyện.

Đọc lại lịch sử cuộc đời mẹ Têrêsa thành Calcutta, tôi thấy có lần mẹ cũng bị cám dỗ muốn bỏ cuộc trên con đường theo Chúa. Một con người thánh thiện như thế mà nhiều khi cũng bị cám dỗ huống chi chúng ta. Đây là tâm sự về giây phút đầu tiên trong cuộc đời phục vụ người nghèo của Mẹ:

– Tôi cần có một nơi để làm nhà tạm trú cho những con người bị bỏ rơi và bất hạnh nhất trong xã hội. Để tìm ra một ngôi nhà cần thiết đó, tôi đã phải đi rảo qua hết đường này đến phố nọ. Đi mãi cho đến lúc không còn sức để đi nữa, tôi mới hiểu thêm cảnh khổ cực của những người nghèo phải đi lang thang để tìm thức ăn khi đói, tìm thuốc khi đau, tìm bất cứ điều gì có thể giúp mình sống qua ngày. Rồi bỗng nhiên tôi cũng bị cám dỗ nhớ lại và muốn quay về với cuộc sống tiện nghi ngày trước.

Tôi bị cám dỗ và muốn quay về với cuộc sống tiện nghi ngày trước.

Có lẽ rất nhiều lần trong cuộc sống chúng ta cũng bị cám dỗ như vậy. Cám dỗ bỏ qua những việc tốt lành mà chúng ta muốn làm. Cám dỗ lao vào những việc tội lỗi mà chúng ta biết rằng, làm như thế là mất lòng Chúa.

Gặp những lúc như thế, chúng ta phải ứng xử thế nào ? Hãy noi gương Mẹ Têrêsa: tìm về và cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, con đã tự nguyện sống như thế này, chỉ vỉ tình yêu Chúa mà thôi, con muốn sống như thế này để chu toàn ý Chúa. Không, con không muốn quay lại với đời sống tiện nghi ngày trước. Cộng đoàn tu trì mới của con là những người nghèo, sự an ninh của họ cũng là sự an ninh của con. Sức khỏe của họ là sức khỏe của con. Nhà của con là bất cứ nơi nào con sống với người nghèo. Và không phải chỉ nghèo mà thôi, mà là nghèo nhất trong số những người nghèo. Đó là những người mình đầy ghẻ lở, bệnh tật, là những con người không còn can đảm để đi ăn xin trên các đường phố, vì họ không còn quần áo để che thân, là những người không còn có thể ăn uống được nữa chỉ đơn giản là họ không còn có sức đủ để ăn uống, những kẻ đang hấp hối gần chết. Chúa muốn giúp cho con sống cuộc sống phục vụ này, chắc chắn Chúa sẽ giúp con chu toàn điều Chúa muốn”.

Lạy Chúa, xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Amen.

Suy niệm 11: Phó thác vào Chúa, không sợ quỷ ma

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Hạt giống…
  2. Các câu 14-16: Sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ trừ một quỷ câm, dân chúng phản ứng 3 cách khác nhau: a/ Đa số “ngạc nhiên”, nghĩa là thán phục; b/ Một nhóm xuyên tạc rằng Ngài đã dựa thể quỷ vương Bê-en-dê-bun để trừ quỷ nhỏ; c/ Nhóm thứ ba nửa tin nửa ngờ nên muốn có một dấu lạ “từ trời” để chứng nhận Chúa Giêsu chính là người mà trời sai xuống.
  3. Các câu 17-23: Để trả lời cho những kẻ không tin (nhóm thứ hai), Chúa Giêsu lý luận rằng: ma quỷ không ngu dại gì mà làm hại thuộc hạ của nó. Bởi thế việc Chúa Giêsu trừ quỷ không phải là dựa vào thế của quỷ vương. Nếu việc đó không do quỷ vương thì do đâu ? Thưa do một quyền lực mạnh hơn ma quỷ, tức là Thiên Chúa. Như thế phép lạ này là dấu chỉ rằng Nước Thiên Chúa đã đến gần.
  4. Các câu 24-26: Đây là của lời khuyến cáo các môn đệ Chúa Giêsu. Đành rằng ma quỷ đã bị Chúa Giêsu đánh bại, nhưng các môn đệ chớ có lơ là cảnh giác. Ma quỷ tìm cách quay trở lại và có thể làm hại họ nặng hơn trước nữa.

B…. nẩy mầm.

  1. Thực tại về ma quỷ: “Nhiều người ngày nay không còn tin vào ma quỷ. Tội lỗi được biện minh bằng sự yếu đuối và thiếu tự do nơi con người. Quỷ ám được giải thích như những chuyện thần thoại mà khoa tâm lý chiều sâu tìm cách giải thích. Những cám dỗ chỉ còn là sản phẩm của óc tưởng tượng. Chiến thuật của ma quỷ trong thế giới xem ra không phải là sự đe dọa con người bằng những ám hại, mà chính là thuyết phục con người tin rằng nó không có mặt trên trần gian này” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).
  2. Người hạnh phúc nhất mà tôi từng được biết, đó là một người Ái nhĩ Lan tên Dundee. Ông bị té gãy lưng từ năm 15 tuổi, sau đó phải nằm trên giường bệnh rất đau đớn trong suốt 40 năm. Nhưng lúc nào ông cũng tươi cười. Tôi hỏi:

– Có khi nào ông bị quỷ cám dỗ không, chẳng hạn nó nói với ông rằng nếu Chúa thương ông thì chẳng để ông phải liệt giường như vậy ?

– Có chứ, rất nhiều lần. Nó thường dẫn trí óc tôi nhìn đến cảnh sung sướng của người khác và nói với tôi như thế. Nhưng tôi cũng dẫn nó tới đồi Canvê, chỉ cho nó thấy Chúa Giêsu đang chết trên Thập giá. Và tôi hỏi lại nó “Thế Chúa không thương tôi sao ?”. Kết quả là lần nào nó cũng vội vàng rút lui. (Moody’s story)

  1. Sự mù quáng do ganh tị: Vì ganh ghét Chúa Giêsu nên các kẻ thù của Ngài đã bị mù quáng. Chẳng những họ không nhận ra ý nghĩa việc Ngài trừ quỷ, mà còn xuyên tạc rằng Ngài làm như thế là dựa vào sức quỷ vương.
  2. Có một con đại bàng ganh tị với một con đại bàng khác vì con này bay cao hơn nó. Một hôm con đại bàng ganh tị gặp một xạ thủ. Nó xúi anh bắn hạ đối thủ của nó. Chàng xạ thủ đáp: “Được. Nhưng tôi không có tên”. Con đại bàng nhổ một cọng lông cánh đưa cho chàng xạ thủ làm tên. Nhưng chàng bắn hụt. Vì quyết tâm hại đối thủ của mình, con đại bàng ganh tị lại nhổ thêm một cọng nữa, rồi một cọng nữa… cho tới khi hai cánh nhỏ trụi nhẵn. Nó không bay được nữa. Chàng xạ thủ không bắn được con kia nên bắt lấy con đại bàng trụi cánh về làm thịt. Nếu bạn ganh tị muốn hại ai thì rốt cuộc bạn chỉ tổ hại chính bản thân mình (D.L. Moody).
  3. “Kẻ khác lại muốn thử Chúa Giêsu nên đã đòi Ngài một dấu lạ từ trời” (Lc 11,16)

Lạy Chúa, Tại sao Ngài cho con sinh ra trong gia đình này với người cha “pharisêu” và các anh chị “giả hình” ? Tại sao Ngài không cho con tài năng như anh kia ? đạo đức như chị nọ ? Tại sao con không có một mái tóc óng mượt, không có một khuôn mặt xinh xắn hơn ? Tại sao ?… Tại sao ?… Nhiều lần con đã chất vấn Ngài, con thử thách Ngài, con đòi Ngài phải cho con cái của người khác, có như thế thì Chúa mới thực là một Thiên Chúa yêu thương.

Lạy Chúa, xin cho con tâm hồn đơn sơ để con nhận ra  tất cả những quà tặng Ngài mang đến cho con. Và tin rằng đó là món quà tốt nhất đối với con, là dấu chứng rõ nhất về một Thiên Chúa yêu thương. (Hosanna)

THỨ BẢY TUẦN 27 THƯỜNG NIÊN

Lời Chúa: Lc 11, 27-28

Khi ấy, Chúa Giêsu đang giảng cho dân chúng, thì từ giữa đám dân chúng, có một phụ nữ cất tiếng nói rằng: “Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú!”

Nhưng Người phán rằng: “Những ai nghe và giữ lời Thiên Chúa thì có phúc hơn”.

Suy niệm 1: Phúc thay lòng dạ

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Thánh Luca hẳn đã dựa vào một nguồn tài liệu riêng

để viết nên đoạn Tin Mừng rất ngắn này.

Khung cảnh có vẻ diễn ra ở ngoài trời, có đám đông dân chúng.

Đức Giêsu đang giảng dạy, còn dân chúng thì nghe.

Bất ngờ có một phụ nữ cất cao giọng mà nói với Ngài rằng:

“Phúc cho lòng dạ đã cưu mang Thầy, và vú đã cho Thầy bú mớm.”

Đây là một lời ca ngợi thân mẫu của Thầy Giêsu.

Người phụ nữ chắc đã rất tâm đắc với những lời Thầy giảng,

nên từ lòng ngưỡng mộ đối với Thầy,

bà đã bật lên lời ngợi khen đối với người mẹ của Thầy.

Bà không ngại nói đến những nét đặc trưng và kín đáo của một người mẹ,

những gì nơi thân xác mẹ cần cho sự sống của con.

Lòng dạ của thân mẫu Thầy đã cưu mang Thầy chín tháng.

Chín tháng đủ để một thai nhi cứng cáp mà nhìn thấy ánh mặt trời.

Chín tháng ấp ủ, mẹ và con gần gũi nhau như là một.

“Và vú đã cho Thầy bú mớm.”

Không phải chỉ chín tháng cưu mang, mà còn ba năm bú mớm.

Mẹ nuôi con bằng chính dòng sữa của mình, sự sống của mình.

để con được lớn lên, có thể đứng đây mà giảng thuyết.

Rõ ràng thân xác mẹ là cái nôi ru cho con lớn lên.

Mẹ vừa lo sinh, vừa lo dưỡng.

Lời khen ngợi của người phụ nữ vang ra cả đám đông.

Khen mẹ chính là khen con một cách gián tiếp.

Phải là một người mẹ tuyệt vời

mới sinh được một người con tuyệt vời đến thế!

Maria có phúc vì Mẹ được chọn để sinh dưỡng Đấng cứu độ.

Bà Êlisabét đã từng lớn tiếng kêu lên mối phúc này (Lc 1, 42):

“Em có phúc hơn mọi phụ nữ, và phúc cho hoa trái của bụng dạ em.”

Như thế Mẹ có phúc vì Con có phúc.

Đức Giêsu không phản đối hay phủ nhận câu nói của người phụ nữ

đang đứng nghe giảng cùng với đám đông.

Ngài chỉ muốn điều chỉnh cho hợp với bầu khí hiện tại,

khi những người trong đám đông đang ở tư thế lắng nghe.

“Phúc cho những ai lắng nghe và giữ lời của Thiên Chúa.”

Một mối phúc mới tưởng như không liên hệ gì với mối phúc trước,

kỳ thực đó là điều Mẹ Maria đã sống từ lâu.

Ai lắng nghe tiếng Chúa bằng Mẹ? Ai giữ lời Chúa bằng Mẹ?

Trước khi cưu mang Ngôi Lời nơi thân xác,

Mẹ Maria đã đón lấy Lời Chúa vào cuộc đời mình.

Đám đông đang lắng nghe lời Thầy Giêsu.

Họ cần tuân giữ lời đó nữa mới được hưởng mối phúc thật sự.

Chúng ta không được ban mối phúc sinh dưỡng Đức Giêsu như Mẹ,

nhưng vẫn được chia sẻ mối phúc nghe và giữ lời Chúa của đám đông.

Cầu nguyện:

Lạy Mẹ Maria,

khi đọc Phúc Âm,

lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.

Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu.

Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.

Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.

Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.

Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.

Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi

âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong,

từ con người hay từ Thiên Chúa.

Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu

trong mọi bước đường của cuộc sống.

Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.

Có những con đường đầy máu và nước mắt.

Xin Mẹ dạy chúng con

đừng sợ lên đường mỗi ngày,

đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa

dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.

Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu

để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ

đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.

Suy niệm 2: Phúc thật

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Người phụ nữ ngợi khen Đức Mẹ cũng nói “Phúc thay”. Chúa Giê-su cũng nói “Phúc thay”. Nhưng ở chiều kích và mức độ khác nhau. Người phụ nữ nói về hạnh phúc được làm mẹ. Chúa Giê-su nói về hạnh phúc được làm con. Ai sinh ra thì làm mẹ. Ai tuân giữ thì làm con. Người phụ nữ nói về người mẹ dưới thế. Chúa Giê-su nói về người con của Cha trên trời. Sinh ra theo xác thịt sẽ trở thành mẹ theo cách nhìn trần gian. Tuân giữ lời Cha trên trời sẽ trở thành con của Cha trên trời. Người phụ nữ nói về hữu hạn. Chúa Giê-su nói về vô hạn. Con chỉ có một mẹ. Nhưng Cha thì có vô số con cái. Người phụ nữ nói về liên hệ huyết thống. Chúa Giê-su nói về liên hệ thiêng liêng. Liên hệ huyết thống xác thịt thì chật hẹp, giới hạn. Liên hệ thiêng liêng thì bao la mênh mông vô hạn. Người phụ nữ nói về liên hệ bề mặt. Chúa Giê-su nói về liên hệ chiều sâu. Sinh ra là liên hệ bề mặt. Nhưng nghe và tuân giữ tạo nên một liên hệ gắn bó sâu xa hơn nhiều. Thành ra lời “Phúc thay” của người phụ nữ chỉ ở phương diện trần gian chóng qua. Lời “Phúc thay” của Chúa Giê-su mới thật cao cả, sâu xa và vĩnh cửu. Đó là “Phúc Thật”. Đức Mẹ ứng nghiệm cả ở hai chiều kích. Người phụ nữ thực sự muốn ca ngợi Đức Mẹ. Nhưng chưa xứng tầm. Chúa Giê-su phải sửa chữa lại. Vừa nâng Đức Mẹ lên xứng tầm. Vừa mở rộng tới muôn người. Để ai nghe và tuân giữ Lời Chúa cũng sẽ được hạnh phúc như Đức Mẹ.

Đó chính là điều thư Ga-lát khẳng định. Khi lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa ta có đức tin. “Nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô”. Chúng ta trở thành con vì “bất cứ ai trong anh em được thành tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô”. Là con chúng ta sẽ đồng thừa tự với Chúa Giê-su. Được hưởng gia tài vinh quang thiên quốc. Đó là phúc thật của chúng ta. (năm chẵn).

Điều đó không những ứng nghiệm cho mọi cá nhân. Mà còn cho mọi đất nước, mọi dân tộc. Rồi sẽ đến những ngày của Chúa. Ngày ấy trở nên cuộc phán xét khủng khiếp cho những dân tộc không nghe và không tuân giữ Lời Chúa. Họ sẽ bị kết án. Bị tàn lụi; “Ai cập sẽ nên chốn hoang tàn. Ê-đôm sẽ trở thành sa mạc hoang vu, vì chúng đã dung bạo lực sát hại con cái Giu-đa; chúng đã đổ máu người vô tội trên đất của họ”. Còn những ai nghe và tuân giữ Lời Chúa sẽ trở thành Dân của Chúa. Sẽ được hưởng hạnh phúc. “Giê-ru-sa-lem sẽ là nơi thánh, người ngoại quốc sẽ chẳng còn qua đó nữa. Ngày ấy, núi non sẽ tiết ra nước nho, đồi nương sẽ chảy sữa tràn trề, từ mọi khe suối Giu-đa, nước sẽ tuôn trào cuồn cuộn”. Họ trở thành con cái Chúa. Trở thành một dân tộc. Đó là phúc thật (năm lẻ).

Suy niệm 3: Cưu Mang Lời Chúa

Chúa Giêsu đã đến để đem Tin Mừng cứu độ cho nhân loại. Nơi nào Ngài đặt chân đến, thì nơi đó Vương quyền và Nước Thiên Chúa xuất hiện.

Nhận thấy quyền năng và sự khôn ngoan nơi các phép lạ cũng như lời nói và việc làm của Chúa Giêsu, một người phụ nữ trong đám đông không thể cầm mình được. Bà đã lên tiếng ca ngợi Chúa Giêsu cách gián tiếp bằng cách ca ngợi người mẹ đã cưu mang Ngài: “Hạnh phúc thay bà mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm”. Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: “Ðúng hơn phải nói rằng: “Hạnh phúc thay kẻ lắng nghe và giữ Lời Thiên Chúa”.

Chúa Giêsu không có ý phủ nhận vai trò của Mẹ Maria trong việc cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Ngài; nhưng qua những lời trên đây, Ngài mạc khải mối tương quan sâu xa giữa Ngài và Mẹ Maria; mối tương quan ấy không chỉ dừng lại ở huyết nhục, nhưng hơn ai hết, Mẹ là người đã triệt để lắng nghe và giữ Lời Thiên Chúa: cả cuộc đời Mẹ, từ biến cố Truyền tin cho đến khi đứng dưới chân Thập giá, Mẹ đã đón nhận Lời Chúa, qua tiếng Xin Vâng.

Một đời sống đạo đức gương mẫu vẫn luôn là một hấp lực và tác động người khác hơn cả những gì được viết trong sách vở. Mẹ Maria đã nêu gương cho chúng ta trong việc lắng nghe và thực thi Lời Chúa. Ðó là mối phúc mà ai trong chúng ta cũng có thể đạt được. Ước gì chúng ta tìm được hạnh phúc trong việc cưu mang Lời Chúa: cưu mang bằng cách lắng nghe, đón nhận và tuân giữ, để rồi một khi Lời Chúa đã trở thành sức sống, chúng ta có thể đem sự sống đó đến cho những người xung quanh.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Suy niệm 4: Lắng Nghe Và Sống Thực Hành Lời Chúa

“Phúc cho những ai lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành”.

Chúng ta gặp thấy nơi đây một mối phúc khác nữa, ngoài tám mối phúc đã được Chúa Giêsu công bố trong bài giảng trên núi, và chúng ta có thể gọi mối phúc được nhắc đến nơi đây là mối phúc “lắng nghe Lời Chúa và sống thực hành Lời Chúa”. Ðây là lời chúc phúc Chúa Giêsu nói không những cho Mẹ Maria mà còn cho tất cả mọi người. Ðáp lại lời của người nữ, đám đông dân chúng chúc tụng Mẹ Maria vì lý do tự nhiên phàm trần là cưu mang và nuôi dưỡng Chúa Giêsu: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm”, thì Chúa Giêsu mạc khải lý do sâu xa hơn: mối phúc được xây dựng trên nền tảng siêu nhiên là lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành. Khi trả lời như vậy, Chúa Giêsu không phải là không muốn làm vinh danh Mẹ Maria nhưng Chúa muốn nêu chỉ cho dân chúng thời đó biết và cho chúng ta hôm nay thấy rõ nền tảng của mối phúc mà Mẹ Maria đang vui hưởng, đó là lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành.

Hơn ai hết, Mẹ Maria là kẻ đầu tiên đã lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành khi Mẹ thưa: “Vâng, này tôi đây là nữ tỳ của Thiên Chúa, xin hãy thực hiện nơi tôi điều Ngài truyền”. Lời thưa “Xin vâng” của Mẹ Maria khai mở một thế giới mới của ơn cứu rỗi và của sự sống mới. Mẹ đã trở nên gương mẫu cho mọi người Kitô để lắng nghe và thực hành lời Chúa dạy, và mối phúc lắng nghe lời Chúa và sống thực hành cũng được mở ra cho tất cả mọi người thuộc mọi thời đại.

Mọi người, mọi thời đại, đều có thể hưởng được mối phúc thật khi họ biết khiêm tốn lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành. Mối phúc lời Chúa này không phải là độc quyền Mẹ Maria, nhưng Mẹ đã đi trước nêu gương và muốn cho chúng ta sống như Mẹ đã sống. Nơi tiệc cưới Cana, Mẹ đã nói với các gia nhân hãy làm theo lời Chúa Giêsu truyền. Và hành động vâng phục của họ đối với lệnh Mẹ Maria “hãy làm theo lời Ngài truyền”, hành động đó đã dọn sẵn mọi sự để Chúa làm phép lạ mang đến niềm vui cho những người chung quanh.

Lạy Cha.

Nhờ qua Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu, chúng con xin chúc tụng Cha vì đã trao ban cho chúng con một mẫu gương lắng nghe lời Chúa và sống thực hành. Xin Cha giúp chúng con noi gương Mẹ Maria sống trọn vẹn lời thưa: “Này con là tôi tớ Chúa, xin vâng theo như lời Ngài truyền, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, vâng Ý Cha dưới đất cũng như trên trời”.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Suy niệm 5: Lời Chúa hơn mối dây ruột thịt

Khi Đức Giêsu đang giảng dạy, thì giữa đám đông có mộtng phụ nữ lên tiếng thưa với Người: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!”Nhưng Người đáp lại: Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa.” (Lc. 11, 27-28)

Một lần nữa, Đức Kitô thiết lập những ưu tiên. Người không đối lập lời Chúa với những mối dây liên hệ ruột thịt. Người dạy lời Chúa phải vượt lên trên liên hệ ruột thịt. Này, một phụ nữ vô danh được Người cho một bài học. Chị đã không thể kìm hãm được sự cảm phục tinh tế của chị đối vời Người, nên chị đã thốt lên những lời, không dám trực tiếp nói với Người như lòng chị muốn tung hô: “Lạy Thầy, Thầy thật sáng chói vinh hiển, không ai nói được như vậy. Không ai có kiến thức, có lòng nhân hậu, có tình yêu cao quý là lùng như Thầy”. Chị chỉ gián tiếp theo bản năng phụ nữ ca ngợi Mẹ Đức Giêsu, Ngài đã sinh cho thế gian một người con số một, một người Thầy độc đáo!: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm”.

Nhưng Đức Kitô đã đáp lại đối ứng từng chữ từng chữ như câu đối: “Phúc hơn kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Chúa”.

Đức Kitô không chê bỏ dây ruột thịt đã kết hợp Người với Mẹ Maria. Người biết phải cần đến bản tính nhân loại của Mẹ Người, nhờ đó, Người cứu độ loài người. Nhưng Người muốn cho chị này hiểu về hạnh phúc thật trước mặt Thiên Chúa, không hệ ở con ruột thịt dù nó có trong sáng cao thượng. Cũng thế, Chúa không đánh giá chúng ta theo phẩm chất trí thức dù có chói sáng, theo địa vị trong Giáo Hội, theo chức vụ lãnh nhận và theo vinh quang rạng rỡ của ta.

Đối với Người, chúng ta có giá trị nhờ chúng ta có biết lắng nghe lời Chúa, biết hăng say lãnh nhận sứ điệp của Người với lòng yêu mến chân thành, biết quảng đại thực thi lời Chúa hằng ngày, biết sốt sắng làm cho mọi người cảm nhận lời Chúa, biết trung thành tuân giữ lời Chúa dù gặp những lúc gian lao khó khăn cũng như những lúc được vui mừng thuận lợi. Chúng ta có giá trị nhờ ở thiện chí vững chắc và không ngừng bước theo con đường thánh giá của Chúa luôn luôn mở ra trước mắt của chúng ta ánh sáng phục sinh cho ta ở đời này cũng như ở trời cao. Chúng ta có giá trị nhờ thực thi bác ái với người thân cận, nhờ ở hiến thân phục vụ những đại nghĩa công chính, phục vụ người nghèo và người cùng khổ thuộc mọi giới.

Đó là hạnh phúc thật, không còn ở đâu nữa.

GF

Suy niệm 6: Hạnh phúc thật ở đâu?

Xem CN 10 TN B (Mc 3,20-35)

Trong cuộc sống, không ai là người lại không muốn cho mình được hạnh phúc! Người thì cho rằng: vợ đẹp con khôn là hạnh phúc; người khác lại nghĩ có được nhà lầu xe hơi mới là hạnh phúc; lại có người nghĩ mình phải phấn đấu để được giữ chức nọ việc kia thì sẽ hạnh phúc, nhưng có người lại chỉ hy vọng rất đơn giản là làm sao có cơm ba bữa, quần áo mặc cả ngày cũng là hạnh phúc lắm rồi!

Như vậy, mỗi người đều mong cho mình được hạnh phúc, tuy nhiên quan niệm về hạnh phúc thì lại khác nhau.

Hôm nay, Đức Giêsu cho chúng ta thấy: hạnh phúc của người Tín hữu Kitô chính là việc được đón nhận hồng ân đức tin. Có được đức tin là chúng ta được sống trong tình yêu của Thiên Chúa. Đây là những người hạnh phúc đích thực.

Vì thế, Đức Giêsu rất quan tâm đến mối liên hệ trong đức tin hơn là sự liên hệ tình cảm thuần túy.

Vì thế, khi thấy được những điều kỳ diệu Đức Giêsu làm và những lời giảng dạy tuyệt vời của Ngài, một người đã thốt lên lời khen ngợi, hay nói đúng hơn là lời chúc mừng Đức Maria là người đã sinh ra và nuôi dưỡng Ngài: “Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú!”. Tuy nhiên, Đức Giêsu lại nói: “Những ai nghe và giữ lời Thiên Chúa thì có phúc hơn”.

Khi nói như thế, Ngài không có ý hạ thấp vai trò của Đức Maria, nhưng một cách gián tiếp, Ngài đang đề cao Mẹ Maria hơn bao giờ hết, bởi vì trong số những người lắng nghe lời Thiên Chúa, hẳn Mẹ là người trung thành và trọn vẹn nhất. Vì thế, Đức Giêsu muốn đưa Đức Maria ra làm mẫu gương về việc lắng nghe Lời Chúa.

Lời Chúa hôm nay gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh mỗi người chúng ta, vì: ngày nay, trong cuộc sống có quá nhiều sự bon chen, con người phải chạy đua với chúng như trò chơi đuổi nhau của bọn trẻ. Họ phỏng chiếu hạnh phúc qua lăng kính của tiền, tài, tình, quyền… Còn đứng trước lời mời gọi của Chúa qua chính Lời Ngài thì hẳn chúng ta không muốn nghe, nói gì đến việc tuân giữ!

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người: hãy xin Chúa ban đức tin cho ta, từ đức tin đó, chúng ta cộng tác với ơn Chúa để làm cho đức tin ngày càng lớn mạnh. Dấu hiệu của người có một đức tin trưởng thành là yêu mến và tuân giữ Lời Chúa, suy đi nghĩ lại và đem ra thực hành. Được như thế, chúng ta sẽ là những người hạnh phúc.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con. Xin cho chúng con được yêu mến và tuân giữ Lời Chúa cách trung thành như Mẹ Maria khi xưa. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy niệm 7: Hạnh phúc đích thực

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Hạnh phúc đích thực cho những ai biết cưu mang Chúa trong tâm hồn, để Chúa hiện diện trong cõi lòng, để tinh thần Chúa biểu lộ qua cách ăn nết ở, đó mới là người thực sự liên hệ với Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con hình dung cảnh đám đông người Do thái vây quanh Chúa. Họ đang trầm trồ thán phục vì được chứng kiến những phép lạ phi thường và được nghe những lời giảng dạy khôn ngoan của Chúa. Những người phụ nữ mơ ước có một người con tài giỏi như Chúa. Người mẹ sinh ra Chúa thật phúc đức. Một trong số những phụ nữ đó đã không kìm được lòng ngưỡng mộ chợt thốt lên: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang Thầy và cho Thầy bú”. Và Chúa đáp lại: “Đúng ra là: phúc thay ai nghe và giữ Lời Thiên Chúa”. Con nhận ra câu trả lời của Chúa ẩn chứa một bài học dạy con. Mẹ Maria là người được chúc phúc không phải chỉ vì Mẹ được phúc cưu mang Chúa, nhưng nhất là vì suốt đời Mẹ đã cưu mang Chúa trong tâm hồn. Mẹ kết hợp với Chúa trong kinh nguyện, Mẹ gặp gỡ Chúa trong Thánh Kinh. Mẹ đã hòa hợp ý mình với Thánh Ý Chúa. Mẹ đã mong chờ điều Chúa chờ mong: Mong ơn cứu độ sớm được thực hiện. Mẹ đáng được chúc phúc vì Mẹ chuyên tâm lắng nghe Thánh Ý Chúa và hết lòng thực hiện.

Lạy Chúa, Chúa không muốn giới hạn người thân trong mối dây huyết tộc mà thôi, nhưng đã mở rộng sang mối dây thiêng liêng. Mối dây thiêng liêng của đức tin đã liên kết mọi người trên thế giới trở thành anh chị em và thành con Thiên Chúa. Phần con, dù chẳng là mẹ hay là anh em họ hàng với Chúa, nhưng xin cho con biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa, để con trở nên người thân của Chúa và xứng đáng được Chúa chúc phúc. Amen.

Ghi nhớ: “Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy”.

Suy niệm 8: Nền tảng của mối phúc làm mẹ Chúa

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Có người hỏi thi sĩ François Coppée, người Pháp: “Ai làm cho ông nên tốt lành như thế ?”. Ông trả lời ngay, không chút do dự: “Đó là mẹ tôi!”.

Mẹ Maria khi được sứ thần loan tin cho biết Mẹ sẽ là Mẹ của Con Đức Chúa Trời, Mẹ xưng mình là tôi tớ của Đức Chúa Trời và luôn làm theo thánh ý Ngài.

Suy niệm

Ðức Giêsu giảng dạy khôn ngoan, làm phép lạ và những việc phi thường. Nghe dạy và thấy những việc Ngài làm, đám đông dân chúng ngưỡng mộ và chúc tụng Mẹ Ngài vì đã cưu mang và nuôi dưỡng một người con vĩ đại: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm”. Tuy nhiên trước lời ca tụng đó, Chúa Giêsu khẳng định: “Những ai nghe và giữ lời Thiên Chúa thì có phúc hơn”. Ngài muốn mạc khải về hạnh phúc siêu nhiên hơn tự nhiên, hạnh phúc đó được xây dựng trên nền tảng lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành.

Qua khẳng định này, Chúa Giêsu không phải là không muốn làm vinh danh Đức Maria, người Mẹ yêu dấu của mình, Chúa muốn nhấn mạnh nền tảng của mối phúc là lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành, mà chính Mẹ Maria đang vui hưởng.

Thật thế, Mẹ Maria là người đầu tiên đã lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành khi được sứ thần loan báo thánh ý Thiên Chúa về chương trình cứu độ, Mẹ thưa: “Vâng, này tôi đây là nữ tỳ của Thiên Chúa, xin hãy thực hiện nơi tôi điều Ngài truyền”.

Bằng việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa, Mẹ Maria cộng tác với Chúa Giêsu, Con Mẹ khai mở một thế giới mới của ơn cứu rỗi và sự sống mới. Với lời thưa “xin vâng”, Mẹ đã trở nên gương mẫu cho chúng ta: Lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy, đem lại hạnh phúc…

Xin cho chúng con noi gương Mẹ biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa trong cuộc sống. Ðể chúng con trở nên như Mẹ, người có phúc.

Ý lực sống:

“Điều đẹp ý Ngài, xin dạy con thực hiện” (Tv 143,10).

Suy niệm 9: Thế nào là hạnh phúc thực sự

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Giữa đám đông đang nghe Đức Giêsu giảng, có một phụ nữ, vì cảm phục trước việc Chúa làm phép lạ trừ quỳ câm, ngây thơ không biết khen ngợi Chúa thế nào, đã thốt ra câu khen ngợi Mẹ Ngài:”Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm”. Nhưng Chúa nói:”Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Chúa”. Chúa nói thế không phải là Ngài  coi rẻ Đức Maria, trái lại còn gián tiếp ca tụng Người: Người vừa là Mẹ ruột đã sinh ra Ngài, vừa là một người luôn lắng nghe và thực hiện lời Thiên Chúa.
  2. Dân gian có câu: ”Một ngươi làm nên cả họ thơm lây…” Khi thấy sự thành công của Chúa Giêsu đầy quyền năng trên quỷ thần, giảng dạy hay, chữa nhiều bệnh tật, dân dân lũ lượt theo Người… thì một người phụ nữ trong đám đông kêu lên: ”Phúc cho lòng dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú mớm”.  Xét theo phương diện này, thì Mẹ Maria là Đấng Đầy Ơn Phúc đã cưu mang Chúa Giêsu và cho Người bú mớm. Tuy nhiên, hiểu rộng ra, đây cũng là cái phúc chung cho mọi người chúng ta. Bởi vì Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Lời Thiên Chúa, và cũng được hiểu Lời Chúa  là chính Chúa. Cho nên, khi chúng ta yêu mến Lời Chúa, năng đọc và suy gẫm Lời Chúa, chính chúng ta đang làm mẹ cưu mang Chúa trong tâm hồn, và đang làm cho Chúa được lớn lên trong ta (Hiền Lâm).
  3. Diễm phúc thứ nhất là Đức Mẹ đã sinh ra Chúa Cứu Thế, và hạnh phúc thứ hai là Mẹ đã thực hành Lời Chúa.  Trong Tin Mừng hôm nay chính Chúa Giêsu đã dành cho mẹ Ngài một lời ca tụng đẹp đẽ nhất: đã nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa. Phúc cho mẹ không phải chỉ vì mẹ đã cho Chúa bú mớm, nhưng còn vì Mẹ đã ân cần đón nhận lời Chúa, mẹ đã Suy niệm và để lời Chúa thành chính sự sống của mẹ. Quả thực, không có ai đã nghe lời Chúa và thực hành lời Chúa bằng Đức Mẹ. Tóm lại, Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu, vừa sống đời sống của Chúa, vừa sống đúng lời Chúa, nên mẹ đã được hai diễm phúc: một là đã sinh ra Chúa, dưỡng dục Chúa, hai là đã thực hành Lời Chúa, nên mẹ là người hoàn hảo nhất. (Phạm Văn Phượng).
  4. Trong cuộc sống, có nhiều điều làm cho chúng ta được vui vẻ, hạnh phúc: một lời khen chân thành, một bản nhạc du dương, một bức tranh tuyệt đẹp, một trận bóng hấp dẫn, một gia đình ấm êm… Khi nghe Đức Giêsu giảng, một người phụ nữ đã cất tiếng khen ngợi Mẹ Maria là người hạnh phúc, vì Mẹ đã cưu mang, sinh hạ và dưỡng nuôi Đức Giêsu. Đáp lại, Đức Giêsu đã mạc khải một chân lý quan trọng: Đức Maria là người diễm phúc nhưng không phải chỉ vì tương quan huyết nhục với Đức Giêsu, mà trên hết, vì Mẹ luôn lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa. Lắng nghe và thực hành Lời Chúa làm cho chúng ta được hạnh phúc, vì được trở nên người thân thuộc trong gia đình của Người. Gắn bó mật thiết với Lời Chúa giúp chúng ta xây căn nhà cuộc đời trên nền đá vững chắc, không một sức mạnh nào có thể tàn phá được.
  5. Chúa Giêsu đáp rằng:”Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa”. Nói như thế, Chúa Giêsu không có ý phủ nhận vai trò của Mẹ Maria trong việc cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng, nhưng qua những lời trên đây, Ngài mạc khải mối tương quan sâu xa giữa Ngài và Mẹ Maria; mối tương quan ấy  không chỉ dừng lại ở huyết nhục, nhưng hơn ai hết, Mẹ là người đã triệt để lắng nghe và giữ lời Thiên Chúa; cả cuộc đời Mẹ, từ biến cố truyền tin cho đến khi đứng dưới chân Thập giá, Mẹ đã đón nhận Lời Chúa, qua tiếng Xin Vâng.
  6. Một đời sống đạo đức gương mẫu vẫn luôn là một hấp lực và tác động người khác hơn cả những gì được viết trong sách vở. Mẹ Maria đã nêu gương cho chúng ta trong việc lắng nghe  và thực thi Lời Chúa. Đó là mối phúc mà ai trong chúng ta cũng có thể đạt được. Ước gì chúng ta tìm được hạnh phúc trong việc cưu mang Lời Chúa; cưu mang bằng cách lắng nghe, đón nhận và tuân giữ, để rồi một khi Lời Chúa đã trở nên sức sống, chúng ta có thể đem sự sống đó đến cho những người chung quanh chúng ta.
  7. Truyện: Thực hành Lời Chúa dạy.

Có người nô lệ da đen kia đạo đức và trung thành, do được chủ mến chuộng, mỗi khi cần có thêm đầy tớ trong nhà, chủ thường dẫn theo người nữ tì da đen này để cô chọn cho chủ.

Một hôm, cô đã chọn một ông già có tật. Chủ nhất định không chịu mua vì nghĩ rằng hắn chẳng được việc và chẳng đáng giá. Nhưng vì cô nữ tì cứ nài nỉ mãi nên buộc lòng ông chủ  phải mua người nô lệ già này bị bệnh nặng. Cô nữ tì săn sóc ông với tất cả tình của người con hiếu thảo. Ông chủ ngạc nhiên hỏi:

– Bộ ông ấy là cha mày, sao mày chăm sóc ông ấy kỹ như thế ?

Người nữ tì trả lời:

– Thưa ông, người kia không phải là bố cháu, cũng không phải là bà con của cháu, trái lại còn là kẻ thù của cháu nữa. Bởi vì khi cháu con nhỏ, hắn đã bắt cóc cháu khỏi vòng tay cha mẹ của cháu, bán cháu như một đứa nô lệ. Nhưng vì cháu là người Công giáo nên cháu luôn thực hành lời dạy của Chúa Giêsu:”Hãy tha thứ thì sẽ được thứ tha”.

Suy niệm 10: Hạnh phúc làm Mẹ Chúa Giêsu

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Vâng! Lời tặng khen hồn nhiên của một phụ nữ trước hình ảnh phi thường của Chúa Giêsu: “Phúc thay lòng dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú” (Lc 11,27) đã là lời khen tặng rất tuyệt vời đối với Mẹ Maria, Đấng đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa Nhập Thể.

Chúa Giêsu đã vui nhận những lời tặng khen dành cho Mẹ của Ngài. Nhưng Ngài lại nói thêm: “Những ai nghe và giữ lời Thiên Chúa lại phúc hơn nữa” (Lc 11,28). Khi nói thế không phải Chúa muốn hạ giá người Mẹ đã cưu mang và cho Ngài bú mớm, mà có lẽ phải nói ngược lại, mới đúng vì hơn ai hết, Đức Mẹ đã nghe và giữ lời Thiên Chúa cách trọn vẹn nhất.

Đúng như thế, hơn ai hết, Mẹ là người đầu tiên lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành Lời Chúa một cách hoàn hảo nhất qua Lời Fiat “Xin Vâng” (Lc 1,38). Vâng! Sau lời Fiat “Xin Vâng”, thì toàn bộ cuộc đời Mẹ đã thuộc trọn về Chúa. Mẹ xin vâng trong biến cố Truyền tin; Mẹ xin vâng trên những nẻo đường Chúa đi truyền giáo và nhất là Mẹ đã xin vâng khi đứng kề bên Thập Giá Chúa Giêsu con Mẹ.

Như thế, trong đại gia đình của Đức Giêsu Kitô, tức là cộng đồng Nước Trời, Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu một cách vô cùng tuyệt hảo, vì Mẹ có liên hệ với Chúa đến hai lần: Về huyết nhục, thì Mẹ đã sinh ra Chúa, và về tinh thần, thì Mẹ đã nghe và tuân giữ Lời Chúa.

  1. Lắng nghe và thực hành Lời Chúa là một việc rất quan trọng.

Chúa Giêsu luôn đề cao những kẻ lắng nghe và giữ lời Ngài, thậm chí còn coi họ trọng hơn liên hệ ruột thịt nữa.

Trong kho tàng chuyện cổ dân gian Đức, người ta đọc được câu chuyện này.

Truyện kể rằng, khi ông Ađam và bà Evà bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, họ phải dựng lấy nhà để ở trên mặt đất khô cằn và phải đổ mồ hôi sôi nước mắt làm lụng mới kiếm ra miếng ăn. Ađam làm rẫy và Evà dệt vải. Mỗi năm họ cho ra chào đời một đứa con.

Năm tháng trôi qua, lũ trẻ mười bốn đứa lớn dần. Một hôm, chợt nghe tiếng gõ cửa, Ađam mở then gài cho một cụ già quắc thước bước vào. Với con mắt tinh đời, Evà nhận ra ngay cụ già đó chính là Đức Chúa. Bà vội vàng mời Chúa ngồi. Bà lấy nước ra mời Ngài dùng. Ngài cám ơn và hỏi:

– Lũ trẻ có nhà không ?

Ađam vội gọi các con ra và bảy đứa trẻ tiến đến trước mặt Chúa, lễ phép chào Ngài. Chúa đứng lên, mỉm cười và nói với chúng: – Ta sẽ ban cho các con mỗi đứa một ơn.

Lũ trẻ quỳ xuống để Ngài đặt tay trên đầu. Ngài phán bảo với đứa đầu tiên:

– Con sẽ trở nên một vị hoàng đế đầy quyền thế.

Quay sang đứa kế bên, Ngài phán: – Con sẽ là công Chúa.

Đứa thứ ba nghe Ngài truyền: – Con sẽ làm quận công.

Và bốn đứa còn lại cũng được ban cho làm học giả và nhà buôn giàu có.

Sau khi nghe những lời chúc phúc tuyệt diệu của Thiên Chúa ban cho con mình, ông Ađam và bà Evà vội vàng chạy đi tìm những đứa con khác đang làm việc ở bên ngoài. Cả lũ bảy đứa bé còn lại cũng hớt ha hớt hả chạy về trình diện Chúa. Ngài lại mỉm cười hiền từ và phán bảo:

– Ta cũng sẽ ban phúc lành cho chúng con.

Ađam và Evà tươi cười trông chờ và lắng nghe Lời Chúa.

Thiên Chúa phán bảo đứa thứ nhất: – Con sẽ trở nên một người giúp việc mẫn cán.

Ngài nói với đứa thứ hai: – Con sẽ là người nông dân.

Và đến đứa thứ ba, Ngài cho nó làm bác thợ giày. Những đứa còn lại trở thành thợ rèn, thợ thuộc da và thợ may.

Vừa nghe dứt lời chúc lành của Thiên Chúa ban cho những đứa về sau, Evà khóc oà lên:

– Lạy Chúa, Ngài thật là bất công. Ngài ban phát những lời chúc lành không công bằng chút nào. Chúng đều là những đứa con do vợ chồng con sinh ra, sao Ngài lại cho chúng đứa được làm vua làm quan, còn đứa thì lại làm kẻ hầu người hạ.

Thiên Chúa nghe xong, bèn giải thích rằng:

– Evà, con chẳng hiểu gì cả. Ta cần phải ban phát mọi ngành nghề cho thế giới này thông qua con cái của con. Giả sử tất cả bọn chúng đều là vua thì ai sẽ là người nông dân làm ra lương thực. Giả như tất cả đều làm quan thì ai sẽ làm ra y phục ? Mỗi người phục vụ ở những vị trí và giữ vai trò khác nhau, và trong mắt Ta mọi ngành nghề đều quan trọng như nhau. Giống như những bộ phận trong cùng một thân thể, chúng kết hợp lại để hỗ trợ lẫn nhau.

Lúc đó, Evà mới hiểu ra và thành khẩn xin Chúa tha thứ: – Lạy Chúa, xin tha tội cho con. Con đã vội vàng cãi lại Ngài. Con cầu xin cho ơn Ngài được thực thi trên con cái chúng con.

Chúng ta hãy bắt chước Samuen thuở xưa mà thưa: “Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đã sẵn sàng lắng nghe” (1Sm 3,9). Amen.

Suy niệm 11: Hạnh phúc kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Hạt giống…
  2. Trong đoạn này, Chúa Giêsu muốn đề cao những người “lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa”. Chúa Giêsu đã đề cao họ bằng cách coi họ còn trọng hơn mẹ ruột của Ngài.
  3. Nhưng nói thề không phải là Chúa Giêsu coi rẻ Đức Maria, trái lại còn gián tiếp ca tụng Người: Người vừa là mẹ ruột đã sinh ra Ngài, vừa là một người luôn lắng nghe và thực hiện lời Thiên Chúa.

B…. nẩy mầm.

  1. Lắng nghe và giữ lời Chúa: Trong Tin Mừng Luca, rất nhiều lần Chúa Giêsu đề cao việc lắng nghe và giữ lời Chúa (Thí dụ chuyện Mác-ta và Maria). Hôm nay một lần nữa Chúa Giêsu đề cao những kẻ lắng nghe và giữ lời Ngài, thậm chí coi họ còn trọng hơn mẹ ruột của Ngài nữa.
  2. Diễm phúc của Đức Mẹ: “Phúc cho Mẹ không phải vì đã cho Chúa bú mớm, nhưng vì đã để lời Ngài biến thành xương thịt của mình. Trong thinh lặng, Mẹ đã nghiền ngẫm và để lời Chúa thành chính sự sống của Mẹ” (Trích “Mỗi ngày một tin vui)
  3. Có 3 cách đọc Lời Chúa:

– Coi Lời Chúa như dầu gió: Khi bạn nhức đầu nóng lạnh, bạn xức dầu vì biết nó tốt cho sức khoẻ của bạn.

– Coi Lời Chúa như chiếc bánh bông lan: tuy khô khan khó nuốt nhưng cũng ngon và bổ.

– Coi Lời Chúa như quả đào, vừa mát vừa ngọt vừa bổ dưỡng.

Bạn đã đạt tới mức độ thứ ba chưa ?

  1. Một bà kia rất thường đọc Sách Thánh và đọc rất sốt sắng. Khi được hỏi tại sao thì bà dùng một thí dụ để giải thích:

Hôm qua tôi nhận được một bức thư của một người tôi rất quý mến. Tôi đã đọc rất chăm chú và đọc đi đọc lại tới 5 lần. Không phải vì tôi không hiểu lời lẽ trong thư vốn đã quá rõ, nhưng vì tôi biết đó là những lời của một người rất thương tôi và tôi cũng rất thương người đó (United Presbyterian).

  1. Bài Tin Mừng hôm nay bổ túc ý nghĩa cho bài hôm Thứ Ba (Lc 10,38-42: chuyện Mác-ta và Maria): phải dùng cả đôi tay phục vụ lẫn đôi tai lắng nghe Lời Chúa. Nói cách khác, phải thống nhất đời sống.
  2. “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,28)

“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”. Thiên sứ đã cất lời ngợi khen ấy với người trinh nữ được Thiên Chúa tuyển chọn. Mẹ không chỉ là người cưu mang và cho Chúa Giêsu bú mớm mà còn là người tôi tớ trung thành nhất của Thiên Chúa. Từng giây từng phút, Mẹ sẵn lòng đón đợi và thực thi Thánh Ý. Gương sống khiêm nhường và trung thành của Mẹ đã là một bằng chứng chân thật cho các bài giảng của Chúa Giêsu.

Mỗi ngày tôi vẫn ca vang Mẹ là người đầy ơn phúc. Nhưng tôi biết chắc Mẹ chưa hài lòng với những câu chúc tụng suông. Người muốn tôi thắng vượt thói xấu, mỗi ngài lại trở nên tốt đẹp hơn.

Con cầu nguyện với Mẹ qua chuỗi Mân Côi mỗi ngày, để chuẩn bị tâm hồn lãnh nhận và tuân giữ lời Thiên Chúa. (Hosanna)