Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 7 Mùa Phục Sinh

print

Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 7 Mùa Phục Sinh

Thứ hai tuần 7 Phục Sinh.

Thứ ba tuần 7 Phục Sinh.

Thứ tư tuần 7 Phục Sinh.

Thứ năm tuần 7 Phục Sinh.

Thứ sáu tuần 7 Phục Sinh.

Thứ bảy tuần 7 Phục Sinh.

Thứ hai tuần 7 Phục Sinh

Lời Chúa: Ga 16, 29-33

Khi ấy, các môn đệ thưa Chúa Giêsu rằng: “Đúng thế, bây giờ Thầy nói rõ ràng, và không dùng dụ ngôn nữa. Bây giờ chúng con biết rằng Thầy biết mọi sự, không cần có ai hỏi Thầy nữa. Bởi đó chúng con tin Thầy bởi Thiên Chúa mà ra”.

Chúa Giêsu đáp lại các ông: “Bây giờ các con mới tin ư? Này đến giờ, và đã đến rồi, các con sẽ tản mát mỗi người một ngả, bỏ mặc Thầy một mình. Nhưng Thầy không ở một mình đâu, vì có Cha hằng ở với Thầy. Thầy nói với các con những điều đó để các con được bình an trong Thầy. Giữa thế gian, các con sẽ phải đau khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian”.

 

SUY NIỆM 1: Cùng hiệp thông với Chúa

Chúa Giêsu làm thế nào để thuyết phục các môn đệ tin Ngài là Con Thiên Chúa? Xin thưa, vì Ngài có thể đọc được những ý nghĩ thầm kín nhất trong tận đáy lòng của họ như một quyển sách mở rộng ra trước mắt. Ngài trả lời những câu hỏi của các ông trước khi họ mở miệng thưa với Ngài, và qua đó mạc khải cho họ thấy sự vinh hiển của Thiên Chúa.

Ðối với người Kitô, tin vào Thiên Chúa có nghĩa là tin vào Ðấng do Ngài sai đến, đó là Người Con yêu quí của Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta tin nhận Chúa Giêsu vì chính Ngài là Thiên Chúa, là Ngôi Lời nhập thể làm người, vì Chúa Giêsu thấy Chúa Cha và Ngài là Ðấng duy nhất biết và làm chứng về Chúa Cha. Do đó, lòng tin của chúng ta có một nền tảng vững chắc vì dựa trên lời mạc khải của Thiên Chúa, và đó chính là sự khởi đầu cho đời sống trường cửu. Chúa Giêsu cũng cảnh giác các môn đệ rằng lòng tin của họ sẽ gặp những thử thách và các ngài có thể sẽ bị vấp ngã. Ngài cũng đã báo trước về sự phản bội của một dân tộc cũng như sự chiến thắng vẻ vang của Ngài trên thập giá. Mặc dù biết trước rằng các môn đệ sẽ bỏ rơi mình trong giờ phút khổ nạn nhưng Chúa đã đối diện với những cay đắng đó bằng với một tình yêu cao thượng và một thái độ kính cẩn nơi các môn đệ của mình. Chúa yêu thương các ông cho đến tận cùng ngay cả khi họ bỏ rơi Ngài chết cô độc trên thập giá. Vì Ngài biết rằng thập giá sẽ không đem đến sự thất bại nhưng là sự chiến thắng vẻ vang trên tội lỗi và sự chết.

Nếu ngày xưa Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ một cách vô điều kiện thì ngày nay Ngài cũng sẽ nói với chúng ta rằng Ngài cũng yêu thương tất cả nhân loại một cách vô điều kiện và không bỏ rơi bất cứ ai. Khi chúng ta không tránh khỏi những đau khổ của cuộc sống trần thế, thì Chúa Giêsu luôn hiện diện ở giữa chúng ta một cách vô hình và Ngài bảo đảm với chúng ta rằng Ngài sẽ dẫn dắt chúng ta vượt qua khỏi những thử thách cam go của cuộc sống. Ngài cũng kêu gọi chúng ta hãy can đảm và tin tưởng vì Ngài đã chiến thắng thế gian. Chúa Thánh Linh được sai đến để ban cho chúng ta nguồn hy vọng và lòng xác tín vào sự chiến thắng của Chúa Phục Sinh. Và không gì có thể đè bẹp được lòng tin và sự hy vọng này. Chúa Thánh Linh ban cho chúng ta sức mạnh và lòng can đảm để chúng ta vượt qua các trở ngại để giữ vững đức tin của mình.

Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy các môn đệ rất cần đến sự soi sáng của Chúa Thánh Linh để các ngài hiểu lời Thầy dạy, vì lời Thầy vượt lên trên sự hiểu biết của họ. Các môn đệ tin rằng đã hiểu được những điều Chúa nói nhưng thực ra tâm trí các ông vẫn còn hạn hẹp và lòng tin vẫn còn yếu đuối đến nỗi có thể bỏ rơi Thầy mình sau đó. Chúa cho các ông hiểu rằng việc Ngài trở về với Chúa Cha phải trải qua sự khổ nạn và sự trở lại đó mang một mầu nhiệm sâu xa làm biến đổi tính chất nhân bản của chúng ta, khiến chúng ta thành thụ vật mới dưới tác động của Chúa Thánh Linh, là Ðấng mà Chúa Giêsu sai đến để soi sáng và ban sức mạnh đức tin cho các môn đệ. Chỉ khi Chúa Giêsu chiến thắng sự chết, các môn đệ mới thực sự tin vào Ngài. Cũng như các môn đệ của Chúa ngày xưa, có nhiều lúc chúng ta không hiểu được thánh ý của Ngài. Do thế, chúng ta cầu xin Chúa soi sáng và hướng dẫn chúng ta bằng với hồng ân của Ngài để chúng ta được trở nên là những thụ vật mới trong Thần Khí của Ngài, và để chúng ta luôn thực hiện thánh ý của Ngài với một lòng tin sâu xa, đó là cùng hiệp thông với Chúa trong mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của Ngài.

Lạy Chúa, xin giúp cho chúng con luôn biết tín thác vào quyền năng cứu rỗi của Chúa, nhất là trong giờ phút thử thách và thất vọng. Xin ban cho chúng con sự bình an và lòng tin mỗi khi lòng chúng con tràn ngập những nghi ngờ, để chúng con tìm thấy sự hy vọng qua sự chiến thắng của Ngài trên tội lỗi và sự chết.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 2: Sức nuôi sống

Kết thúc bài diễn từ trong bữa tiệc ly, các môn đệ đã tuyên xưng niềm tin: “Chúng con tin Thầy từ Thiên Chúa mà đến” và Đức Kitô đã bảo đảm với các ông: “Hãy tin, Thầy đã thắng thế gian”. Xin cho chúng ta cũng biết tuyên xưng niềm tin của chúng ta như thế.

Nhưng cuộc thương khó đã làm cho lời tuyên xưng của các ông như giả dối: Các tông đồ bỏ Thầy một mình mặc cho sức mạnh của thế gian xổ lồng chống lại Đức Giêsu. Dầu thế, chân lý đã chế ngự toàn diện tấn bi kịch đó. Chính Đức Giêsu ra lệnh cho các kẻ thuộc về mình để kệ Người nộp mình chịu đau khổ trong tay quân thù. Người không tự bảo vệ. Những kẻ nghịch sẽ luôn luôn có. Nhưng sau cùng, tình yêu Thiên Chúa sẽ chiến thắng tất cả. Chúa Cha không bỏ rơi Con mình. Ngài yêu mến Con và mọi kẻ Con đã chọn để ở với mình.

Như thế, niềm trông cậy Kitô hữu đang treo mắc vào trời, không như một bằng khen làm ru ngủ mọi lo âu, sầu khổ, nhưng như một sức nuôi sống tình yêu của chúng ta mạnh mẽ tiến bước. Từ nay mãi mãi chúng ta là người của vĩnh cửu ban một trọng trách ở lại và biến đổi một thế giới hoang dại không Thiên Chúa. Là những người chứa chan niềm vui Thiên Chúa, mang trách nhiệm rao giảng nước trời để cho nhân loại được sống lại trong nước Chúa. Chúng ta sẽ không bao giờ ngừng tiến theo chân Người để phục vụ anh em chúng ta vì Người.

Nếu chúng ta để tâm suy nghĩ bài diễn từ của Chúa, chúng ta thấy được Đức Giêsu đã nói liên tiếp từ Chúa Cha, Thánh Thần và đến Người là Chúa Con: Chúa Cha chỉ nói qua Con, Con không làm gì cho ta mà không có Thánh Thần. Thánh Thần thuần thục hóa ta sống làm con Thiên Chúa. Vòng luân lưu mầu nhiệm này không bao giờ ngừng tăng trưởng trong ta và chung quanh ta. Ước chi chúng ta biết đón nhận mầu nhiệm này để không sống hời hợt như cánh bèo trôi dạt mà sống sâu thẳm như gốc rễ luôn luôn tiếp nhận nhựa sống mới. Sống đức tin không đơn giản nhờ trí thức, nhưng nhờ cam kết gắn bó chính bản thân đã quyết tâm xác tín một lần cho tất cả. Cần tiếp xúc lâu dài đi sâu vào cầu nguyện mới giúp ta cảm nghiệm được tiếng nói thiêng liêng sâu thẳm trong mình: “Hãy can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian”.

LP.

 

SUY NIỆM 3: Nương tựa vào Chúa.

Cuộc trao đổi giữa Chúa Giêsu và các môn đệ như được ghi lại trong Tin mừng hôm nay, đã được thực hiện trong khung cảnh Bữa Tiệc ly, trước giờ Chúa Giêsu vượt qua khỏi đời này để về cùng Cha. Trong những giờ phút đó, Chúa Giêsu cảm thấy được an ủi khi nghe lời tuyên xưng từ miệng các môn đệ Ngài: “Giờ đây chúng con nhận ra là Thày biết hết mọi sự… Vì thế chúng con tin Thày từ Thiên Chúa mà đến”. Có thể gọi đó là lời tuyên xưng niềm tin của các môn đệ; nó không phải là những lời bộc phát, nhưng được kết tinh sau ba năm theo Chúa, nghe Chúa giảng dạy và chứng kiến các phép lạ Ngài làm.

Đáp lại lời tuyên xưng ấy, Chúa Giêsu cảnh tỉnh các môn đệ về sự yếu đuối mỏng dòn của niềm tin nơi con người, đồng thời cho các ông thấy đâu là nơi nương tựa vững chắc nhất. Như Phêrô vừa tuyên xưng “Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa” thì liền sau đó lại ngăn cản Thày đi vào con đường khổ nạn dẫn tới vinh quang; vừa khẳng quyết theo Thày đến tận cùng, nhưng rồi lại lớn tiếng chối bỏ Thày. Các môn đệ giờ đây tin nhận “Thày từ Thiên Chúa mà đến” nhưng khi giờ đến, các ông sẽ tản mác mỗi người một nơi, bỏ mặc Thày một mình. Nhưng dù có bị các môn đệ bỏ rơi, Chúa Giêsu cũng không đơn độc một mình, bởi vì có Chúa Cha hằng ở với Ngài.

Những kẻ theo Chúa ngày hôm nay cũng có những lúc cảm thấy bị bỏ rơi và không biết tìm nương tựa nơi đâu? Họ chỉ có một nơi nương tựa duy nhất đó là Thiên Chúa, Đấng hằng quan tâm săn sóc con người và ban ơn trợ lực để giúp họ thắng vượt mọi thử thách. Chúa Giêsu đã báo trước các yếu đuối của các môn đệ cũng như những gian truân các ông sẽ phải chịu, nhưng không để làm các ông lo sợ, trái lại để các ông thêm tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa.

Nguyện xin Chúa gia tăng nơi chúng ta niềm cậy trông phó thác, để giữa những đêm tối của cuộc đời, chúng ta luôn được bình an, tin tưởng, vì biết rằng có Chúa hằng ở cùng chúng ta.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 4: CAN ĐẢM LÊN, THẦY ĐÃ THẮNG THẾ GIAN (Ga 16, 29-33)

Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, chúng ta thấy suốt 300 năm đầu, cha ông ta lớn lên trong thử thách. Một cuộc thử thách triền miên và kéo dài! Còn ngày nay, tuy rất ít hình khổ như  gông cùm, đòn roi và cái chết được trưng ra để tra tấn các Kitô hữu. Tuy nhiên, người Kitô hữu hôm nay phải đối diện với một thử thách mới, một cuộc thử thách mang tính vĩ mô và sâu xa đánh vào tận lương tâm của con người. Phải chăng đây là những thử thách tinh vi và người Kitô hữu khi sống đúng những giá trị của Tin Mừng thì cũng không khác gì một cuộc tử đạo liên lỉ, dai dẳng và kéo dài!

Hôm nay, Đức Giêsu tiên báo cho các môn đệ biết rằng: các ông là những người đi theo Chúa, không có lý do gì các ông không bị bách hại như chính Ngài. Nhưng liền sau đó, Ngài khích lệ các ông: “Giữa thế gian, các con sẽ phải đau khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16, 33).

Vững tin vào Lời Chúa phán cùng với sứ mạng đã đón nhận là hãy đi loan báo Tin Mừng khắp thế gian, nhất là sự xác tín vào niềm vui Nước Trời sau cuộc sống trần gian, các môn đệ đã không sợ gì nguy khốn, các ngài đã băng rừng, vượt suối và chấp nhận mọi sự đau khổ, ngay cả cái chết để loan báo về Tin Mừng tình thương, chân lý và sự sống cho mọi người, để ai tin và đón nhận thì cũng được hưởng niềm vui, hạnh phúc như mình.

Trong cuộc sống của người Kitô hữu ngày nay, hẳn mỗi người cũng đều cảm thấy khó khăn trong việc sống đạo! Thật thế, hơn bao giờ hết, chúng ta đang phải đối diện với những trào lưu tục hóa trên diện rộng, mọi nơi và mọi lúc. Trào lưu đó có thể là một hệ tư tưởng; có thể vì giá trị đạo đức bị đảo lộn; cũng có thể vì miếng cơm manh áo… mà người ta bắt chúng ta phải tin và hành động theo…

Những lúc như thế, Lương Tâm lên tiếng và chúng ta được mời gọi sống những giá trị Tin Mừng ngay trong những thực tại đó. Vẫn biết đây là khó, nhưng hãy cam đảm lên, vì Chúa đã thắng.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, chúng con là những người môn đệ của Chúa còn đang loay hoay giữa biển đời. Theo Chúa lên đường để về nơi phúc thật là hành trình xa xôi và vất vả. Xin giúp chúng con biết chạy đến cùng Ngài để đón nhận sự bình an và can đảm mỗi khi mỏi mệt đơn côi. Xin giúp chúng con chiến thắng con người yếu đuối, nặng nề của mình, để chúng con lên đường trong thanh thản và an vui. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

SUY NIỆM 5: Thầy không một mình

Suy niệm:

Cô đơn trên đời là điều ai cũng sợ.

Phải chăng vì người ta không được dựng nên để sống một mình ?

Chẳng phải chỉ người trẻ mới sợ cô đơn và tìm cách tránh né.

Người già cũng sợ không kém .

Người ta sợ đi về thế giới bên kia một mình.

Trong thân phận làm người, Đức Giêsu cũng phải đối diện với nỗi cô đơn.

Ngài không lập gia đình, không có một người bạn đời để chia sẻ.

Bù lại, Ngài có những người thân yêu ở làng Nadarét.

Nhưng ngay cả cha mẹ Ngài cũng không hiểu hết được Ngài (Lc 2, 50).

Khi đi rao giảng Tin Mừng, Ngài có những người bạn mới là các môn đệ.

Tiếc thay, họ không phải là những người luôn luôn hiểu Ngài.

Ngài muốn chia sẻ cho họ tất cả cái riêng tư giữa Ngài với Cha.

Nhưng họ chưa đủ sức kham nổi.

Đức Giêsu không phải là người thích cô đơn, khép kín.

Ngài dễ đến với dân chúng, với mọi hạng người.

Ngài gặp gỡ họ, loan Tin Vui, và cho họ được tâm thân an lạc.

Các bệnh nhân, tội nhân, trẻ em, phụ nữ,

cũng không ngại đến với Ngài để trò chuyện hay chia sẻ một bữa ăn.

Dù vậy tìm được một sự đồng cảm trọn vẹn nơi con người

vẫn là điều khó đối với Đức Giêsu,

bởi lẽ Ngài còn thuộc về một thế giới khác trên cao.

Ngài mãi mãi là một màu nhiệm đối với trí khôn hạn hẹp của con người.

Chỉ khi trở về với nguồn cội đời mình,

Đức Giêsu mới ra khỏi được nỗi cô đơn trống trải ấy.

“Tôi không (xét đoán) một mình, nhưng có tôi và Đấng đã sai tôi” (Ga 8, 16).

Chính vì Đức Giêsu luôn nói và làm mọi sự theo ý Cha,

nên Ngài chẳng bao giờ cô đơn .

“Đấng đã sai tôi vẫn ở với tôi; Người không để tôi một mình,

vì tôi luôn làm những điều đẹp ý Người” (Ga 8, 29).

Vào giây phút chia ly này, khi Đức Giêsu biết điều sắp xảy đến:

“anh em sẽ bị phân tán mỗi người mỗi ngả, và để Thầy một mình.

Nhưng Thầy không một mình đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy” (c. 32).

Đức Giêsu không cô đơn trong cuộc sống,

mà ngay cả khi Ngài kêu lớn tiếng trên thập giá :

“Lạy Thiên Chúa tôi, tại sao Chúa bỏ tôi?” (Mc 15, 34),

lúc đó lại là lúc Đức Giêsu gần Cha hơn cả, kết hợp với Cha hơn cả.

Đức Giêsu thực sự chẳng bao giờ cô đơn tuyệt đối,

vì Cha thực sự chẳng bao giờ bỏ Ngài,

và Ngài cũng chẳng bao giờ bỏ Cha.

Chúng ta xin được ơn dám chịu cô đơn trước thế gian tội lỗi,

để được một mình với Chúa.

 

Cầu nguyện:

Giữa những ồn ào của đám đông,

Giữa những sôi nổi của thành công

Và ê chề của thất bại,

Xin dành một cõi rất riêng cho Giêsu.

Giữa những đam mê quay cuồng,

Giữa những khát khao thèm muốn

Và những trói buộc của sợ hãi, âu lo,

Xin giữ một cõi rất riêng cho Giêsu.

Giữa lúc bị cuộc đời từ khước,

Giữa lúc bơ vơ đi trong đêm mênh mông,

Chẳng có ai để cậy dựa,

Xin trở về với cõi riêng bên Giêsu,

Để một mình ở đó, trầm lắng và bình an.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

 

Thứ ba tuần 7 Phục Sinh

Lời Chúa: Ga 17, 1-11a

Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời và nói: “Lạy Cha, giờ đã đến, xin hãy làm vinh hiển Con Cha, để Con Cha làm vinh hiển Cha. Vì Cha đã ban cho Con quyền trên mọi huyết nhục, để con cũng ban sự sống đời đời cho mọi kẻ Cha đã giao phó cho Con. Sự sống đời đời chính là chúng nhận biết Cha là Thiên Chúa duy nhất chân thật, và Đấng Cha đã sai, là Giêsu Kitô.

“Con đã làm vinh hiển Cha dưới đất, Con đã chu toàn công việc mà Cha đã giao phó cho Con. Giờ đây, lạy Cha, xin hãy làm cho Con được vinh hiển nơi Cha với sự vinh hiển mà Con đã có nơi Cha, trước khi có thế gian. Con đã tỏ danh Cha cho mọi kẻ Cha đã đưa khỏi thế gian mà ban cho Con. Chúng thuộc về Cha, và Cha đã ban chúng cho Con, và chúng đã tuân giữ lời Cha. Bây giờ chúng biết rằng những gì Cha ban cho Con, đều bởi Cha mà ra. Vì những lời Cha ban cho Con thì Con đã ban cho chúng và chúng đã lãnh nhận, và biết đích thực rằng Con bởi Cha mà ra, và chúng tin rằng Cha đã sai Con.

“Con cầu xin cho chúng, Con không cầu xin cho thế gian, nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho Con, bởi vì chúng là của Cha. Và mọi sự của Con là của Cha, và mọi sự của Cha cũng là của Con, và Con đã được vinh hiển nơi chúng. Con không còn ở thế gian nữa, nhưng chúng vẫn còn ở thế gian, phần Con, Con về cùng Cha”.

 

SUY NIỆM 1: Ngưỡng cửa vào sự sống

Trong ngôn ngữ của thánh Gioan, giờ của Chúa chính là lúc Ngài thể hiện việc cứu chuộc bằng cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài. Cuộc đời Chúa Giêsu có tột đỉnh là thập giá. Ðối với Ngài, thập giá là đường dẫn đến vinh quang. Qua thập giá, Chúa Giêsu làm vinh hiển Chúa Cha cũng như là vinh hiển Ngài.

Thập giá làm vinh hiển Chúa Cha vì nơi thập giá, Chúa Giêsu hoàn tất sứ mệnh được Chúa Cha ủy thác. Khi đến thế gian, sứ mệnh của Chúa Giêsu là mạc khải cho nhân loại biết tình yêu của Thiên Chúa và chỉ cho họ con đường đạt tới tình yêu này. Với cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã biểu lộ trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa; và hướng về thập giá con người cũng cảm nghiệm được tình yêu bao la của Thiên Chúa đến nỗi đã ban Người Con Một cho thế gian.

Thập giá làm vinh hiển Chúa Cha vì nơi đó thể hiện sự vâng lời tuyệt đối. Thật thế, Chúa Giêsu đã tôn vinh Chúa Cha bằng việc vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người và ban cho Người một danh hiệu cao trọng hơn mọi danh hiệu. Như vậy, thập giá không những làm vinh hiển Chúa Cha mà còn làm vinh hiển Chúa Giêsu vì thập giá chưa phải là dấu tận cùng. Cái chết của Chúa Giêsu không phải là một kết thúc bởi vì đã có sự phục sinh kèm theo, cái chết đó chỉ là tỏ lộ cho vinh quang tỏ hiện. Bởi thế, khi giờ đã đến, Chúa Giêsu đón nhận khổ nhục và cái chết trên thập giá, đó là lúc Ngài bước qua ngưỡng cửa dẫn vào cõi sống vinh quang muôn đời.

Ngưỡng cửa Chúa Giêsu bước qua đó vẫn được mở ngỏ chờ đợi những kẻ theo Ngài tiến vào. Theo Chúa Giêsu, người Kitô không thể đứng ngoài con đường của Ngài. Ðường Ngài đi chỉ có một cửa dẫn vào.

Ước gì chúng ta luôn biết đón nhận mọi đau khổ hy sinh, kể cả cái chết để làm vinh hiển Thiên Chúa, và nhờ đó chúng ta sẽ được hưởng vinh quang của Ngài muôn đời.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 2: Vinh quang Thiên Chúa.

Lời nguyện hiến tế của Đức Giêsu xoay quanh đề tài “vinh quang” “sự sống đời đời”, đồng thời loan báo cho con người thấy sự kết hợp với Đức Kitô. Sau cùng chúng ta được thấu đạt tới nguồn phong phú dồi dào. Chúng ta thử tìm hiểu những khía cạnh của vinh quang Thiên Chúa. Cũng là vinh quang của chúng ta sau này.

Theo tự điển Kinh thánh, vinh quang của ai không đặt ở tiếng tăm, nhưng ở sự phong phú của bản chất con người. Từ ngữ vinh quang cho ta thấy những ý tưởng hàm chứa những chất nặng ký đầy tràn. Người vinh quang là người bản chất tốt đáng giá, đáng mến, đáng khâm phục. Vinh quang không phải là thứ phụ thuộc bên ngoài bản chất con người, nhưng ở sinh lực nội tâm vững chắc.

Khi Đức Giêsu cầu xin Chúa Cha: “Xin Cha tôn vinh Con để Con tôn vinh Cha” có thể nói: “Xin Cha ban cho Con một bản chất trọn vẹn vững chắc để Con cho Cha trọn vẹn giá trị vững chắc toàn hảo”.

Vinh quang, theo từ ngữ Kinh thánh, còn là sự bày tỏ bản chất hữu thể. Vinh quang Gia-vê chính là Thiên Chúa bày tỏ uy lực huy hoàng, thánh thiện và sức mạnh linh diệu của Ngài. Vinh quang là sự biểu dương của Thiên Chúa phong phú về hữu thể hiện hữu dồi dào.

Trong ý nghĩa này, cuộc thương khó của Đức Giêsu là giờ phút bày tỏ cao nhất về vinh quang Thiên Chúa, Thiên Chúa bày tỏ thiện chí cứu độ của Ngài, bày tỏ bản chất tốt lành của hữu thể mình, bày tỏ ước muốn chia sẻ sự thánh thiện của mình với con người. Đức Giêsu đã nói: “Con đã tôn vinh Cha dưới đất. Con đã tỏ bản tính của Cha khi hoàn tất công trình Cha đã trao cho Con làm để cứu độ”.

Chiều kích thứ ba của vinh quang Thiên Chúa hệ tại ở sự liên kết của chúng ta vào vinh quang này: “Và Con được tôn vinh nơi họ”. Vinh quang của Đức Kitô sẽ hoàn tất trong vinh quang của Kitô hữu. Tùy theo chúng ta tham dự vào sự sống đời đời, vào sự sống của Thiên Chúa, chúng ta mới hoàn tất được sứ mệnh của Chúa Con, lúc đó Người mới được vinh quang và chúng ta được vinh quang với Người, nhờ Người và trong Người.

CG.

 

SUY NIỆM 3: Giờ đã đến.

Trong ngôn ngữ của thánh Gioan, giờ của Chúa Giêsu chính là lúc Ngài thể hiện việc cứu chuộc bằng cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài. Cuộc đời Chúa Giêsu có tột đỉnh là Thập giá. Đối với Ngài, Thập giá là đường dẫn đến vinh quang. Qua Thập giá, Chúa Giêsu là vinh hiển Chúa Cha cũng như Chúa Cha làm vinh hiển Ngài.

Thập giá làm vinh hiển Chúa Cha, vì nơi Thập giá. Chúa Giêsu hoàn tất sứ mệnh được Chúa Cha uỷ thác. Khi đến thế gian, sứ mệnh của Chúa Giêsu là mạc khải cho nhân loại biết tình yêu của Thiên Chúa và chỉ cho họ con đường đạt tới tình yêu này. Với cái chết trên Thập giá, Chúa Giêsu đã biểu lộ trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa và hướng về Thập giá, con người cũng cảm nghiệm được tình yêu bao la của Thiên Chúa đến nỗi đã ban người Con Một cho thế gian.

Thập giá làm vinh hiển Chúa Cha, vì nơi đó thể hiện sự vâng lời tuyệt đối. Thật thế, Chúa Giêsu đã tôn vinh Chúa Cha bằng việc vâng lời cho đến chết và chết trên Thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người và ban cho Người một danh hiệu cao trọng hơn mọi danh hiệu. Như vậy, Thập giá không những làm vinh hiển Chúa Cha, mà còn làm vinh hiển Chúa Giêsu, vì Thập giá chưa phải là dấu tận cùng. Cái chết của Chúa Giêsu không phải là một kết thúc, bởi vì đã có sự Phục sinh liền theo; cái chết chỉ là mở lối cho vinh quang tỏ hiện. Bởi thế, khi giờ đã đến, Chúa Giêsu đón nhận khổ nhục và chết trên Thập giá, đó là lúc Ngài bước qua ngưỡng cửa dẫn vào cõi sống vinh quang muôn đời.

Ngưỡng cửa Chúa Giêsu bước qua đó vẫn được mở ngỏ chờ đợi những kẻ theo Ngài tiến vào. Theo Chúa Giêsu, người Kitô hữu không thể đứng ngoài con đường của Ngài. Đường Ngài đi chỉ có một, cửa dẫn vào cũng chẳng có hai. Ước gì chúng ta luôn biết can đảm đón nhận mọi đau khổ hy sinh, kể cả cái chết, để làm vinh hiển Thiên Chúa, và nhờ đó chúng ta sẽ được hưởng vinh quang của Ngài muôn đời.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 4: “GIỜ” ĐỨC GIÊSU ĐƯỢC TÔN VINH (Ga 17, 1-11a)

Sự sống ai cũng quý và đều mong sao cho sự sống của mình được kéo dài bao nhiêu có thể. Từ đó, ta có thể kết luận rằng, cái chết thì không ai thích! Chính vì thế, mà nhiều người khi đứng trước cái chết đã tỏ ra rất sợ hãi.

Hôm nay, bài Tin Mừng cho thấy, Đức Giêsu nói đến  “Giờ” của Ngài đã chu toàn sứ mạng mà Chúa Cha đã trao phó.

“Giờ” mà Đức Giêsu nói đến ở đây chính là “Giờ”  của cuộc tử nạn. Nhưng cũng là “Giờ”  của chiến thắng, “Giờ”  của vinh Quang và “Giờ”  Thiên Chúa Cha được tôn vinh.

Như vậy, Đức Giêsu mặc khải cho chúng ta thấy rằng: mỗi Kitô hữu, chúng ta cũng đều trải qua “Giờ”  đó trong cuộc đời. Phải có “Giờ”  khởi đầu, có “Giờ”  thi hành và có “Giờ”  kết thúc. Hay nói cách klhác, phải trải qua “Giờ”  của đau khổ thì mới được vào vinh quang. Phải qua “Giờ” của hiện tại, hữu hạn thì mới có “Giờ”  của vĩnh cửu trên Thiên Quốc. Tuy nhiên, “Giờ” của hiện tại phải được chu toàn cách trung thành, thì “Giờ”  của tương lai trên Thiên Quốc mới được đảm bảo.

Mong sao, mỗi người chúng ta biết chuẩn bị cho “Giờ” chết của mình thật xứng đáng và ý nghĩa, để sau cái chết, chúng ta được hạnh phúc vính cửu trên Thiên Đàng.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin cho chúng con biết đi theo Chúa trên con đường mà chính Chúa đã đi. Xin cho chúng con biết chu toàn sứ vụ mà Chúa trao cho chúng con, để đến “Giờ” của Chúa đến, chúng con hân hoan đón nhận trong niềm vui và hạnh phúc. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

SUY NIỆM 5: Con cầu nguyện cho họ

Suy niệm :

Trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm, trước khi bị bắt,

Đức Giêsu đã cầu nguyện trong xao xuyến ở núi Cây Dầu.

Còn trong Tin Mừng Gioan, Ngài đã cầu nguyện trước khi đến đó.

Hôm nay Giáo hội bắt đầu cho ta nghe lời nguyện long trọng này

mà Ngài dâng lên Chúa Cha, trước mặt các môn đệ trong bữa Tiệc ly.

Đức Giêsu không một chút xao xuyến trước cái chết gần kề.

Cả các môn đệ cũng như được nâng lên một tầm cao mới.

Đức Giêsu vẫn bắt đầu lời nguyện bằng tiếng Abba quen thuộc.

Ngài như muốn tóm kết công việc Cha giao phó,

đó là việc tôn vinh Cha qua cuộc sống trên trần gian này (c. 4).

Bây giờ đã đến giờ Ngài về với Cha, nên Ngài nài xin:

“Xin Cha tôn vinh Con Cha, để Con Cha tôn vinh Cha” (c. 1).

Cái chết tự hạ trên thập giá là cử chỉ vâng phục vì yêu thương của Con,

là cử chỉ cao nhất của Con nhằm tôn vinh Cha.

Nhưng tất cả không ngừng lại với thập giá,

vì Cha sẽ tôn vinh Con qua sự phục sinh vinh hiển.

Đức Giêsu được trao quyền năng trên mọi người (c. 2).

Ngài có thể ban sự sống đời đời

cho những ai nhận biết Cha và Con là người được Cha sai (c. 3).

Lời nguyện của Đức Giêsu đặc biệt hướng về các môn đệ

mà Ngài coi là quà tặng quý giá của Cha cho đời mình.

Nhiều lần Ngài nhấn mạnh họ là quà tặng (cc. 2. 6. 7. 9).

Đức Giêsu đã từng coi các môn đệ là những kẻ thuộc về Ngài (Ga 13, 1).

Nhưng Ngài lại không phủ nhận việc họ là người thuộc về Cha (cc. 6. 9).

Môn đệ thật là của chung giữa Cha và Con (c. 10).

Họ là những người được Cha chọn từ thế gian (c.6).

tuy họ vẫn ở trong thế gian (c.11).

Trong giây phút sắp đến cùng Cha, sắp được hưởng vinh quang bên Cha,

Đức Giêsu dâng lời cầu nguyện cho họ (c. 9),

những người còn phải chịu nhiều gian nan thử thách ở đời.

Khi còn sống với họ, Ngài đã cho họ biết Danh Cha (c. 6),

Ngài còn ban cho họ lời mà Ngài đã nhận từ Cha.

Khi đón nhận những lời ấy, họ biết Ngài từ Cha mà đến

và tin Ngài là người Cha sai (c. 8).

Hãy đi vào tâm tình yêu thương của Thầy Giêsu đối với các môn đệ.

Hãy nghe lời cầu nguyện của Ngài cho chúng ta.

Hôm nay Đức Giêsu vẫn tiếp tục lời cầu nguyện tha thiết ấy.

 

Cầu nguyện :

Lạy Cha,

Cha muốn cho mọi người được cứu độ

và nhận biết chân lý,

chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha.

Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người

chưa nhận biết Đức Giêsu,

họ cũng là những người đã được cứu chuộc.

Xin Cha thôi thúc nơi chúng con

khát vọng truyền giáo,

khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc,

niềm vui và bình an của mình cho tha nhân,

và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.

Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực

trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất

để loan báo Tin Mừng.

Chúng con chỉ xin đến

với những người bạn gần bên,

giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài,

qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.

Chúng con cũng cầu nguyện

cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo.

Xin Cha cho những cố gắng của chúng con

sinh nhiều hoa trái. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

Thứ tư tuần 7 Phục Sinh

Lời Chúa: Ga 17, 11b-19

Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: “Lạy Cha chí thánh, xin hãy gìn giữ trong danh Cha những kẻ Cha đã ban cho Con, để chúng được nên một như Ta. Khi Con còn ở với chúng, Con đã gìn giữ chúng trong Cha. Con đã gìn giữ những kẻ Cha đã giao phó cho Con, không một ai trong chúng bị mất, trừ ra con người hư vong, để lời Kinh Thánh được nên trọn. Bây giờ Con về cùng Cha, và Con nói những điều này khi Con còn dưới thế, để chúng được đầy sự vui mừng của Con trong lòng.

“Con đã ban lời Cha cho chúng, và thế gian đã ghét chúng, vì chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian. Con không xin Cha đem chúng ra khỏi thế gian, nhưng xin gìn giữ chúng cho khỏi sự dữ. Chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian. Xin hãy thánh hoá chúng trong chân lý: lời Cha là chân lý. Cũng như Cha đã sai Con vào thế gian, thì Con cũng sai chúng vào thế gian. Và vì chúng, Con đã tự thánh hoá, để cả chúng cũng được thánh hoá trong chân lý”.

 

SUY NIỆM 1: Xin Cha gìn giữ họ.

Có một câu truyện tưởng tượng như sau:

Khi Chúa Giêsu về Trời giữa muôn vàn tiếng tung hô của các thiên thần. Tổng lãnh thiên thần Gabriel đã phỏng vấn Ngài:

– Lạy Chúa, có phải bây giờ cả trần gian đã nhận biết tình yêu Thiên Chúa dành cho họ chăng?

Chúa Giêsu trả lời:

– Không, chỉ có một nhóm nhỏ đếm được trên đầu ngón tay.

Thiên sứ Gabriel giật mình sửng sốt:

– Lạy Chúa, nếu nhóm nhỏ naỳ gặp chống đối khiến họ thất vọng từ bỏ Chúa trong trường hợp này, Chúa có dự định quay trở lại trần gian không?

Chúa Giêsu đáp:

– Không. Ta hy vọng nơi họ và tin chắc họ không bỏ rơi Ta.

Điều gì đã khiến Chúa Giêsu tin tưởng vào sự trung tín của các môn đệ, dù gặp gian truân thử thách? Chúng ta có thể tìm được câu giải đáp trong bài Tin mừng hôm nay.

Thật thế, dù chỉ là một nhóm nhỏ, các môn đệ đã là đối tượng được Chúa Giêsu đặc biệt quan tâm. Suốt thời gian chung sống, Chúa Giêsu đã gìn giữ họ để không một ai trong bọn họ hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng nghiệm Lời Kinh thánh. Giờ đây, sắp lìa bỏ họ để về cùng Cha, Ngài không che dấu nỗi lo sợ của Ngài. Ngài đã xin Cha gìn giữ các môn đệ trong Danh Cha, nghĩa là được hiệp thông vào sự sống của Thiên Chúa, nhờ đó các môn đệ có đủ sức mạnh để thắng vượt mọi khó khăn trở ngại.

Chúa Giêsu sắp về cùng Cha, nhưng các môn đệ vẫn còn ở lại thế gian và phải đương đầu với thế gian, vì họ đã bước theo Chúa và đã đón nhận lời Ngài. Nhưng nếu vì lời mà họ đã bị thế gian ghét bỏ, thì lời cũng giúp họ được thánh hoá trong chân lý, điều đó cho phép họ lãnh nhận sức sống của Thiên Chúa và xứng đáng được sai đi. Chúa Giêsu sai các môn đệ vào thế gian, cũng như Chúa Cha đã sai Ngài. Và để có thể chu toàn sứ mệnh đó, Ngài đã chuẩn bị cho họ đầy đủ. Trong cuộc hành trình này, họ không đơn độc một mình, vì có Chúa luôn ở với họ và cùng chiến đấu với họ.

Ước gì lời Chúa hôm nay củng cố chúng ta trong niềm tin tưởng vào sự hiện diện và quan tâm săn sóc của Chúa, để ngay giữa những khó khăn thử thách của cuộc sống, chúng ta được luôn kiên vững trong tình yêu và trung thành làm chứng cho Chúa.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 2: Đức Kitô và Kitô hữu.

Chúng ta cùng tên: Kitô hữu và Kitô, chúng ta đã được xức dầu bởi Thiên Chúa, nghĩa là được chọn trao cho một sứ mệnh. Hôm nay, lời Đức Giêsu soi sáng cho ta hiểu rõ hơn về sự đồng căn tính và đồng sứ mệnh giữa Người và chúng ta.

Đây: Đức Giêsu đã liên kết chúng ta với Người, với công trình của Người: “Để họ nên một như chúng ta là một”, “Họ không thuộc về thế gian cũng như Con đây không thuộc về thế gian”, “Như Cha đã sai Con đến thế gian, thì Con cũng sai họ đến thế gian”, “Con thánh hiến chính mình Con cho họ, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến”. Chỗ khác chúng ta cũng thấy những câu tương đồng như thế: Anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã thương yêu anh em”, “Người ta đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em”, “Họ đã giữ lời Thầy, họ cũng giữ lời anh em”.

Những điều quả quyết này của Đức Giêsu ném chúng ta vào trung tâm sức sống và sứ mệnh của Người. Chúng ta cần nghiêm chỉnh đón nhận lời của thánh Phao-lô: “Anh em là thân thể của Đức Kitô”. Đức Kitô là đầu, anh em là chi thể của thân thể Người.

Như thế, chúng ta cùng một đường đi như đầu tiếp với thân thể, cùng một hướng đích và một chỉ huy. Chúng ta còn phải cùng sống vâng phục và sẵn sàng như Chúa Con đối với Chúa Cha. Hơn nữa chúng ta còn chia sẻ mọi gần gũi của Đức Kitô với Thiên Chúa. Chúng ta là thân thể của Đức Kitô, nói cách khác, thân thể của Đức Kitô trong thế giới ngày nay. Chúng ta cùng tên, cùng gốc, chúng ta cần chia sẻ cùng đà tiến triển.

Khi ý thức được đồng căn tính, đồng sứ mệnh rồi, lúc đó một đòi hỏi khẩn thiết xuất hiện thúc đẩy chúng ta phải hiến con người mình, thể diện mình cho Đức Kitô. Chúng ta phải có trách nhiệm đáp lại cho những ai hát câu: “Tôi đi tìm dung nhan Chúa …”. Một câu hỏi đang đè nặng trên chúng ta: “Anh em là thân thể của Đức Kitô, anh em là máu huyết của Đức Kitô, anh em là sự vui mừng, tình yêu và hòa bình của Đức Kitô: vậy anh em đã làm gì để nên giống Người?

LP.

 

SUY NIỆM 3: Thánh hiến

Mục đích sứ mạng của Chúa Giêsu là mạc khải chương trình cứu độ của Chúa Cha và nhất là để làm vinh danh Cha, vì thế, tất cả những gì Ngài làm đều nhằm vào mục đích làm sáng danh Chúa Cha. Trước giờ phút chịu khổ nạn trên thập giá và trước sự hiện diện của các môn đệ, Chúa Giêsu đã hướng về Chúa Cha cầu nguyện: “Lạy Cha chí thánh, xin giữ gìn các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con để họ nên một như chúng ta”. Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho sự hiệp nhất giữa các môn đệ, lời cầu nguyện của Ngài cho nhân loại luôn được hiệp nhất với Chúa Cha trong Chúa Con và cùng với Chúa Thánh Linh và kết hợp với tất cả những ai là thành phần chi thể của mình Chúa. Chúa Giêsu đã tuân phục thánh ý Chúa Cha mặc dù đứng trước cám dỗ từ chối vác lấy thập giá. Ngài múc lấy sức mạnh từ Chúa Cha và lấy sự vâng phục Chúa Cha làm sự vinh hiển của mình.

Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta hãy luôn ở trong tư thế sẵn sàng vác lấy thập giá mà theo Ngài bất cứ lúc nào Ngài mời gọi chúng ta. Ngài ban cho chúng ta sức mạnh và quyền năng của Chúa Thánh Linh để sống như các môn đệ của Ngài. Chúa Giêsu cũng cầu xin Chúa Cha thánh hóa và thánh hiến các môn đệ trong sự thật và trong sự thánh thiện của Chúa Cha. Chân lý của Thiên Chúa giải thoát chúng ta ra khỏi sự tối tăm của trí óc và sự thống trị của tội lỗi, nó mang đến cho chúng ta sự tốt lành, tình yêu và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Chúa Thánh Linh là cội nguồn và là Ðấng ban tất cả sự thánh thiện, nếu chúng ta mở rộng cánh cửa tâm hồn để Chúa Thánh Linh bước vào cuộc đời ta và để Ngài tác động, soi sáng và lèo lái chúng ta, thì Ngài sẽ biến đổi chúng ta bằng ngọn lửa thanh tẩy để chúng ta trở nên giống như Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nói: “Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật họ cũng được thánh hiến”. Chúa Giêsu đã tự thánh hiến Ngài như của hy lễ hoàn tất sứ mạng đã được Chúa Cha giao phó và Ngài cũng giao phó sứ mạng đó cho các môn đệ.

Sự thánh hiến của Chúa Giêsu chính là sự khổ nạn của Ngài trên thập giá để qua đó đem tất cả nhân tính của Ngài vào trong sự thánh thiện của Chúa Cha. Sự thánh hiến là sự đổi mới trong Chúa Thánh Linh, bởi vì khi chúng ta mở rộng trái tim để đón nhận sự thánh thiện của Ngài, có nghĩa là chúng ta mở rộng tâm hồn cho Chúa Thánh Linh tác động lên trên cuộc đời của chúng ta. Chúa Giêsu trong lời cầu nguyện đã hướng về Chúa Thánh Linh để qua Ngài mà Chúa tự dâng hiến mình như của hy lễ toàn thiêu. Qua sự thánh hiến của Chúa Giêsu, Chúa Cha cũng thánh hiến toàn thể nhân loại cũng cùng một thể thức, để chúng ta cũng biết đặt mình dưới sức tác động của Chúa Thánh Linh, để Ngài giúp chúng ta bảo tồn đức tin và trung thành với ơn gọi và sứ mạng của mình.

Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết sống hiệp nhất và biết yêu thương lẫn nhau. Xin hãy thánh hóa chúng con trong chân lý và hướng dẫn chúng con qua Chúa Thánh Linh để chúng con luôn trung thành theo chân Chúa đến bất cứ nơi nào mà Chúa muốn.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 4: ĐƯỢC THÁNH HIẾN ĐỂ TRỞ NÊN CHỨNG NHÂN (Ga 17, 11b-19)

Câu chuyện ảo tưởng, tham vọng của Ađam và Evà khi nghe theo lời dụ dỗ và lừa phỉnh của Ma Quỷ trong Vườn Địa Đàng khi xưa vẫn được lập lại nơi nhiều người trong xã hội hôm nay, nhất là giới trẻ.

Thật vậy, ngày nay, nhiều người không thể, không biết hoặc đôi khi không nhận ra, nhưng vẫn vui vẻ lựa chọn những chân lý nửa vời, để rồi tin, sống và đi theo. Họ luôn có khái niệm “tạm” cho nhiều tình huống.

Hôm nay, Đức Giêsu cầu xin cho các môn đệ của mình được thánh hiến, tức là được “tách ra” để thuộc trọn về Chúa Cha như Đức Giêsu đã thuộc về Người. Thuộc về Chúa Cha, tức là thuộc về Chân Lý. Thuộc về Chúa Cha cũng là phó thác, tin tưởng vào tình thương của Người. Thuộc về Chúa Cha cũng là vâng nghe lời Đức Giêsu dạy dỗ.

Như vậy người môn đệ được hiện hữu giữa thế gian, nhưng không thuộc về thế gian. Giữa sự ác, lọc lừa, nhưng không thuộc về chúng, mà ngược lại, các ông phải làm chứng cho chân lý Tin Mừng.

Quả thật, các môn đệ đã sẵn sàng làm chứng cho chân lý Tin Mừng như lời Đức Giêsu đã phán: “Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16, 26).

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay muốn nhắc cho mỗi chúng ta hãy nhớ đến Bí tích Thánh Tẩy ta đã lãnh nhận. Khi thuộc về Chúa qua Bí tích này, chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa và trở nên môn đệ của Người. Trở nên môn đệ cũng có nghĩa là trở nên chứng nhân. Vì thế, chúng ta không thể không làm chứng cho Chúa trong cuộc sống thường ngày. Làm chứng cho Chúa, tức là từ bỏ Ma Quỷ và mọi việc, mọi sự sang trọng của chúng. Làm chứng cho Chúa cũng có nghĩa là đi ngược với những điều bất chính mà con người ngày nay bày ra.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã xin Chúa Cha thánh hóa các môn đệ bằng sự thật, bằng Lời của Người, thì xin cũng thánh hóa chúng con để chúng con được thuộc trọn về Cha để chúng con trở nên giống Cha dù vẫn sống giữa thế gian tội lỗi. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

SUY NIỆM 5: Xin Cha gìn giữ họ

Suy niệm :

Chúng ta đang sống trong một thế giới tự nhận là khoa học kỹ thuật,

trong đó dường như Thiên Chúa vắng mặt,

và Quỷ dữ, Ác thần, Satan cũng không có chỗ.

Thật ra, cả Thiên Chúa lẫn Satan đều có mặt trong thế giới này.

Con người sống trong thế giới là chịu sự lôi kéo của cả hai.

Khi dâng lời cầu nguyện lúc sắp trở về với Cha,

Đức Giêsu ý thức hơn khi nào hết quyền lực có thật của quỷ dữ

đang tác động trên các môn đệ còn sống ở trần gian.

Chính vì thế Ngài khẩn khoản xin Cha gìn giữ họ khỏi Ác thần (c. 15).

“Khi còn ở với họ, Con đã gìn giữ họ… Con đã canh giữ họ…” (c. 12).

Gìn giữ các môn đệ là việc Đức Giêsu đã làm trong suốt sứ vụ,

và Ngài đã không để ai trong họ phải hư mất, trừ Giuđa.

Những sói dữ bao giờ vẫn có, chúng khuấy phá đàn chiên.

Mục tử Giêsu đã không để ai cướp được chiên khỏi tay mình,

và trong cuộc chiến đấu này, Ngài đã dám hy sinh mạng sống (Ga 10, 11).

Bây giờ Ngài xin Cha tiếp tục gìn giữ các môn đệ (c. 11b),

là đoàn chiên của Cha mà Cha đã ban cho Ngài chăm sóc.

Vì Thiên Chúa là Cha chí thánh đối với Đức Giêsu (c. 11b),

nên Cha có khả năng làm cho các môn đệ nên thánh.

Thánh thiện là thuộc tính của Thiên Chúa Cha,

nhưng Đức Giêsu cũng được gọi là Đấng Thánh của Thiên Chúa (Ga 6, 69),

và Đấng Phù Trợ được gọi là Thánh Thần (Ga 14, 26).

Thánh thiện là nét chung của Ba Ngôi, tách biệt Ba Ngôi khỏi thế giới,

dù thế giới vẫn là đối tượng để Ba Ngôi luôn cùng nhau hướng về.

Ba Ngôi vẫn muốn chia sẻ sự thánh thiện của mình cho thế giới.

“Các ngươi phải nên thánh vì Ta là Đấng Thánh” (Lv 11, 44).

Đức Giêsu xin Cha thánh hóa các môn đệ (c. 17),

nhờ Thánh Thần mà Cha sắp ban xuống trên họ.

Làm cho các môn đệ nên thánh chính là tách biệt họ ra khỏi thế gian,

với lối suy nghĩ và hành động, với những giá trị riêng của nó.

Thánh hóa môn đệ chính là làm cho họ không thuộc về thế gian nữa,

để như Đức Giêsu, họ thuộc về Cha trọn vẹn (c. 16).

Nhưng tách biệt khỏi thế gian lại không có nghĩa là cất họ khỏi đó (c. 15),

và giữ họ an toàn trong tháp ngà bảo đảm.

Đời người Kitô hữu chẳng an toàn, vì họ được sai vào thế gian (c.18).

Thế gian đầy bóng tối, dối trá, hận thù, chính là nơi họ phải đến,

phải đằm mình vào, để biến đổi nó thành ánh sáng, sự thật, tình yêu.

“Các con là muối của trái đất, là ánh sáng của thế gian” (Mt 5, 13).

Được thánh hóa, được tách khỏi thế gian, chính là để được sai vào đó.

Nếu không được thánh hóa, không thuộc về Chúa, thì khi được sai vào,

ta sẽ chẳng biến đổi được thế gian, và sẽ bị nó nuốt chửng.

 

Cầu nguyện :

Lạy Cha,

thế giới hôm nay cũng như hôm qua

vẫn có những người bơ vơ lạc hướng

vì không tìm được một người để tin;

vẫn có những người đã chết từ lâu

mà vẫn tưởng mình đang sống;

vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,

ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;

vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,

bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;

vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,

dù không phải là người phong…

Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ

và biết chạnh lòng thương như Con Cha.

Nhưng trước hết,

xin cho chúng con

nhìn thấy chính bản thân chúng con.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

Thứ năm tuần 7 Phục Sinh

Lời Chúa: Ga 17, 20-26

Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: “Con không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ, nhờ lời chúng mà tin vào Con, để mọi người nên một, cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để cả chúng cũng nên một trong Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con.

Con đã ban cho chúng vinh hiển mà Cha đã ban cho Con, để chúng nên một như Chúng Ta là một. Con ở trong chúng, và Cha ở trong Con, để chúng được hoàn toàn nên một và để thế gian biết rằng Cha đã sai Con, và Con đã yêu mến chúng như Cha đã yêu mến Con.

Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con đã tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa”.

 

SUY NIỆM 1: Sức mạnh của hiệp nhất.

Có một câu truyện cổ như sau:

Trong một buổi hội họp của tất cả các muông thú rừng xanh, dòng giống nhà cọp đã dành được ngôi vị Chúa sơn lâm nhờ vào sức mạnh và bản tính hung dữ của chúng. Ngày kia, cọp gặp người thợ săn. Trước khi phóng mũi tên, bác thợ săn nói với cọp:

– Hỡi Chúa sơn lâm, hãy đón nhận điều mà con người gửi đến các muông thú.

Và mũi tên đã cắm phập vào lưng cọp. Quá đau đớn, cọp đã chạy trốn vào rừng rậm. Thấy cọp bỏ chạy, một con sói già hỏi: tại sao? Cọp lắc đầu đáp:

– Chỉ một lời con người muốn nói với ta, mà đã làm ta đau đớn thế này, thì làm sao chúng ta có thể chống lại bọn họ.

Sói già an ủi cọp:

– Điều suy nghĩ của Chúa sơn lâm thực tế, tuy nhiên, Chúa sơn lâm lại quên một điều là nếu tất cả muông thú rừng xanh đoàn kết lại, chúng ta có thể chống lại con người. Như nhà sói chúng tôi đây tuy sức mạnh không bằng Chúa sơn lâm, nhưng cả một bày sói, với sức mạnh tổng hợp, chúng tôi có thể làm thịt người thợ săn.

Ý kiến ấy thật hay, nhưng thú rừng vẫn bị tiêu diệt, vì chẳng bao giờ chúng học được hai chữ hiệp nhất.

Trước khi từ giã các môn đệ để về cùng Cha, Chúa Giêsu biết rằng những kẻ theo Ngài sẽ bị thế gian ghét bỏ và bị quyền lực sự dữ tấn công, nếu đơn độc chiến đấu, chắc chắn họ sẽ thất bại như Nguyên tổ của họ ngày xưa. Bởi thế, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho họ được hiệp nhất nên một “như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha”. Ngài không cầu xin cho họ có sức mạnh, vì sức mạnh thường đưa con người đến nguy cơ ỷ lại vào mình; Ngài cũng không cầu xin cho họ có quyền lực, vì quyền lực dễ đưa con người lọt vào hố sâu của tham vọng.

Khi cầu nguyện cho cộng đoàn những kẻ nhờ lời các Tông đồ mà tin, Chúa Giêsu đã không xin cho Giáo Hội được phát triển bằng sức mạnh và quyền lực, mà chỉ xin cho tất cả được hiệp nhất trong Ngài và hiệp nhất với nhau, để Ngài ở đâu, họ cũng ở đó, và để họ được chiêm ngưỡng vinh quang của Thiên Chúa.

Người kitô hữu chúng ta hôm nay cũng được mời gọi phản chiếu hình ảnh trung thực của Chúa Giêsu bằng cách sống yêu thương hiệp nhất. Chắc chắn không ai trong chúng ta có thể đứng vững một mình nhưng phải liên kết với nhau để thông truyền sức sống. Muốn liên kết với nhau, chúng ta cần phải ra khỏi con người ích kỷ của mình, phải từ bỏ nhiều tật xấu cố hữu của mình, nhờ đó chúng ta sẽ nên một trong Chúa và được chiêm ngưỡng quyền năng vinh quang Chúa hoạt động nơi chúng ta.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 2: Sự hợp nhất toàn hảo

Hiện nay, chúng ta thấy trong xã hội có nhiều thứ biến đổi tiến tới đỉnh hợp nhất như quy tụ thành những thị xã, đô thị, thành phố, những hiệp hội, liên hiệp. Ít lâu nay, chúng ta đã trở nên những thành viên không chỉ của một làng xã, một trường học, nhưng còn của một cộng đoàn, một khu vực bao gồm nhiều quốc gia.

Cơ cấu xã hội đang chuyển đổi thành nhóm như: hiệp hội công dân, cộng đồng căn bản, khối kinh tế, liên minh phòng thủ … Một triết gia đã quả quyết thế giới đang thành một làng xã nhờ những phương tiện giao thông tân tiến thần tốc.

Vũ trụ tiến tới hợp nhất dần dần như đáp lại lời kêu gọi của Đức Kitô: “Xin cho tất cả nên một trong chúng ta để thế gian tin rằng Cha đã sai Con”.

Nhưng hợp nhất nên một không hẳn là mặc khải và là bằng chứng của Đức Kitô. Chúng ta có thể thành một nhóm duy nhất, một cộng đoàn tôn giáo tập trung vào chính mình mà không vào Thiên Chúa, thành những nhóm bất khả xâm phạm đối với người ngoài, bất khả chia cơm sẻ áo. Chúng ta có thể sống dưới một mái nhà mà không tạo nên một gia đình.

Hiện thời, chúng ta thấy nhiều sức mạnh dẫn lối chỉ đường đưa loài người đến hợp nhất. Mặc khải của Đức Kitô có mặt ở đó, như đang cưu mang nó, nhưng sự hiệp nhất toàn hảo chỉ thực hiện được trong Thiên Chúa: “Xin cho tất cả nên một trong Chúng Ta”.

Những cộng đoàn Kitô hữu ngày nay có thể là dấu chỉ của sự hợp nhất toàn hảo này khi họ sống biết chia sẻ thực sự về đức tin, đức ái và hành động. Đó là một trong những vai trò của Giáo hội trong xã hội để giúp con người đạt tới vô cùng nhờ cố gắng tập trung vào Thiên Chúa.

CG.

 

SUY NIỆM 3: Sống trong hiệp nhất

Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly cũng là lời cầu nguyện cho sự hiệp nhất giữa các môn đệ và giữa tất cả những người tin nhận Chúa Giêsu từ Thiên Chúa. Chúa Giêsu cầu nguyện cách đặc biệt cho tất cả chúng ta được trở nên một như các thành phần chi thể trong một thân mình duy nhất của Ngài, đó là Hội Thánh. Cũng như Ngài và Chúa Cha đã kết hợp nên một. Sự hiệp nhất giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha là sự hiệp nhất trong tình yêu thương và sự vâng phục, và đó là sự hiệp nhất mật thiết nhất. Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta trước nhất và Ngài kết hợp với chúng ta trong bí tích thánh tẩy, qua đó chúng ta được kêu gọi để sống trong sự hiệp nhất tình yêu.

Lời cầu nguyện của Chúa trước lúc khổ nạn cho chúng ta thấy tình yêu cao cả và sự tín cẩn mà Thiên Chúa đã trao cho các môn đệ của Ngài, vì thế Ngài vẫn trao cho các ông một sứ mạng vô cùng lớn lao là rao giảng tên Ngài khắp nơi trên thế gian và cho đến tận cùng thời gian. Chúa Giêsu chết đi và sống lại để tất cả mọi người trở nên một như Ngài ở trong Cha và Cha ở trong Ngài. Chúa Giêsu nói: “Con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con để họ được là một như chúng ta là một”.

Lời Chúa trong bài Phúc Âm hôm nay nói tới sự vinh quang mà Ngài ban cho các môn đệ và Ngài cũng mời gọi tất cả chúng ta hãy mở rộng vòng tay để đón nhận sự vinh quang đến từ tình yêu của Chúa Cha, để tất cả được trở nên một. Tuy nhiên, đây là sự vinh quang khác biệt với sự vinh quang phát sinh từ lòng kiêu ngạo của con người, vì loại vinh quang này chỉ đem tới sự chia rẽ. Sự vinh quang của Chúa Giêsu là sự vinh quang của Ðấng đã tự hạ mình xuống ngang hàng với nhân loại để yêu thương và phục vụ như Ngài đã rửa chân cho các môn đệ. Ðó là sự vinh quang của Ðấng đã không màng tới sự vinh quang của cá nhân, vì thế mà Chúa Cha đã vinh danh Ngài. Thánh Phaolô tông đồ trong thư gởi các tín hữu Philipphê đã nói rằng Chúa Giêsu trong lúc còn sống tại trần thế đã lãnh nhận vinh quang của Thiên Chúa. Vì Ngài tuy là Thiên Chúa nhưng đã trút bỏ vinh quang và mặc lấy thân nô lệ và sống nên người phàm nhân. Ngài lại còn tự hạ mình xuống và vâng lời Cha để chết trên thập giá cho sự cứu rỗi của nhân loại. Chính vì thế mà Cha Ngài đã suy tôn Ngài và ban cho Ngài một danh hiệu vượt trổi hơn các danh hiệu khác. Chính Chúa Cha đã dành cho Con Ngài sự vinh quang vượt lên trên các vinh quang của trần thế. Chúa Giêsu đã có được sự vinh quang đó không phải vì Ngài ưa thích tìm kiếm mà vì Chúa Cha đã ban cho Ngài. Thiên Chúa đã chỉ cho chúng ta phương cách để trở nên một đó là đón nhận sự vinh quang mà Ngài đã ban cho chúng ta, sự vinh quang giúp chúng ta biết phục vụ cho những người khác và mở rộng trái tim đến tất cả mọi người. Sự vinh quang giúp chúng ta biết hạ mình sống gần gũi với tầng lớp của những người anh em khốn khó của mình.

Lạy Chúa, xin hãy thương xót nhân loại và chữa lành các vết thương chia rẽ của chúng con. Xin cho tất cả các tín hữu Kitô sống trong sự hiệp nhất như Ngài đã cầu xin Cha. Xin hãy đổi mới chúng con bằng sức mạnh của Thần Khí để chúng con trở thành dấu chỉ của sự hiệp nhất và làm tăng thêm trong chúng con tình yêu đối với anh chị em khác trong Chúa Kitô.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 4: HIỆP NHẤT ĐỂ YÊU THƯƠNG (Ga 17, 20-26)

Trong thời gian qua, lòng con dân Nước Việt luôn thể hiện lòng yêu mến quê hương đất nước và mong sao cho quê hương được thanh bình, không có chiến tranh. Lòng yêu mến đó được chứng minh qua sự can đảm, bất chấp mọi khó khăn… sẵn sàng đứng lên để đấu tranh cho sự thật, công lý và hòa bình trên Biển Đông. Qua những gì vừa xảy ra, hẳn ai cũng hiểu được rằng: chỉ có hiệp nhất, chung lòng thì mới có thể chiến thắng được ngoại xâm.

“Xin cho chúng nên một”. Đây là lời nguyện khẩn thiết của Đức Giêsu dâng lên Chúa Cha cho các môn đệ của mình. Đức Giêsu cũng nêu lên mẫu gương hiệp nhất giữa Chúa Cha và Ngài. Và như thế, Đức Giêsu cũng mời gọi các môn đệ cũng hiệp nhất với nhau như Chúa Cha và Chúa Con là một. Qua đó, mọi người sẽ nhận ra chúng ta là môn đệ của Thầy, đó là chúng ta yêu thương nhau.

Ngày nay, người Kitô hữu chúng ta sống sự hiệp nhất ấy qua lời cầu nguyện, bằng  hành vi đức tin và sự liên đới. Sự hiệp nhất chỉ có thể có khi chúng ta chấp nhận “hiệp nhất trong đa dạng”. Biết lắng nghe, thông cảm và tôn trọng mọi người.

Lời cầu nguyện và mong muốn của Đức Giêsu khi xưa cho các môn đệ được hiệp nhất, cũng chính là lời cầu nguyện và mời gọi của Ngài dành cho chúng ta hôm nay.

Lạy Cha, ơn cứu độ Cha ban cho chúng con không chỉ dành riêng cho người Kitô hữu, nhưng là cho toàn thể nhân loại. Xin cho chúng con biết loan báo lời của Con Cha cho mọi người không phân biệt, và biết làm chứng cho Cha trong sự hiệp nhất của chúng con. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

SUY NIỆM 5: Để họ được nên một

Suy niệm :

Bài Tin Mừng hôm nay là phần cuối của Lời Nguyện sau Tiệc Ly.

Đức Giêsu cầu nguyện, không phải cho các môn đệ đang hiện diện,

nhưng cho các môn đệ tương lai, là chính chúng ta,

những người tin nhờ nghe lời giảng của các môn đệ đi trước (c.20).

 

Hôm nay Đức Giêsu là Thượng Tế trên trời, là Đấng Trung Gian duy nhất,

vẫn dâng lên Chúa Cha lời nguyện tương tự.

Ngài nhìn thấy một phần ba dân số thế giới là Kitô hữu, hơn hai tỷ người.

Ngài nhìn thấy những người theo Công Giáo gồm hơn một tỷ,

theo Chính Thống giáo, Tin Lành, Anh giáo và bao giáo phái khác.

Ngài xin Cha cho họ nên một, như Cha và Con là một (c. 22).

Đức Giêsu đã xin cho các môn đệ đang hiện diện bên Ngài

được nên một “như chúng ta” (Ga 17, 11b).

Bây giờ Ngài xin cho các môn đệ tương lai cũng được nên một.

Sự hiệp nhất nên một giữa Cha và Con

vừa là khuôn mẫu, vừa là nguồn mạch cho sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu.

“Để tất cả nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” (c. 21).

Cha và Con ở trong nhau, đó là mẫu mực cho sự hiệp nhất.

Chúng ta được mời gọi ở trong nhau khắng khít như Cha và Con.

Điều này không thể thực hiện được, nếu chúng ta không được đưa vào

trong mối tương quan thân thiết giữa Cha và Con:

“để họ cũng ở trong Chúng Ta” (c. 21).

Các Kitô hữu chỉ hiệp nhất khi họ được sống trong nguồn hiệp nhất

là sự ở trong nhau giữa Cha và Con.

Trong Lời Nguyện của Đức Giêsu, ta thấy có một tương quan ba chiều

giữa Cha, Con và các môn đệ.

“Con ở trong họ và Cha ở trong Con…

Cha đã yêu thương họ như đã yêu thương Con” (c. 23).

“Tình Cha đã yêu thương Con ở trong họ, và Con cũng ở trong họ nữa” (c.26).

Tương quan này sâu lắng đến mức có sự ở lại trong nhau thật sự

giữa Cha, Con và các môn đệ là chính chúng ta.

Tuy vậy ít khi chúng ta dám nghĩ mình có tương quan gần gũi đến thế

với thế giới siêu việt của Cha và Con.

Nhưng Đức Giêsu còn nói đến tương quan giữa các môn đệ với thế gian.

Chỉ khi có sự hiệp nhất giữa các môn đệ, lúc đó mới hy vọng

“Thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai Con” (c. 21),

“Thế gian sẽ nhận biết rằng Cha đã sai Con (c. 23).

Chúng ta cầu cho sự hiệp nhất yêu thương giữa các Kitô hữu trên thế giới.

Nếu một phần ba dân số thế giới sống nên một trong yêu thương,

hai phần ba còn lại sẽ sống trong hạnh phúc bình an.

 

Cầu nguyện :

Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng con tôn thờ,

xin giúp con quên mình hoàn toàn

để ở lại trong Chúa.

lặng lẽ và an bình

như thể hồn con đã sống trong vĩnh cửu.

Lạy Đấng thường hằng bất biến,

mong sao không gì có thể khuấy động

sự bình an của con,

hay làm cho con ra khỏi Chúa;

nhưng ước chi mỗi phút lại đưa con

tiến xa hơn vào chiều sâu của mầu nhiệm Chúa !

Xin làm cho hồn con bình an thanh thản,

xin biến hồn con thành chốn trời cao,

thành nơi cư ngụ dấu yêu của Chúa,

nơi Chúa nghỉ ngơi.

Ước chi

con không bao giờ để Chúa ở đó một mình

nhưng con luôn có mặt, với trọn cả con người,

với thái độ nhạy bén trong đức tin,

cung kính tôn thờ

và phó mình cho Chúa sáng tạo. Amen.

(Lời nguyện của chân phước Elisabeth de Trinité)

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

Thứ sáu tuần 7 Phục Sinh

Lời Chúa: Ga 21, 15-19

Khi Chúa Giêsu đã tỏ mình ra cho các môn đệ, Người dùng bữa với các ông, và hỏi Simon Phêrô rằng: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?” Ông đáp: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy”.

Người lại hỏi: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy”.

Người hỏi ông lần thứ ba: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Phêrô buồn phiền, vì thấy Thầy hỏi lần thứ ba “Con có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy” Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho con biết: khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến”. Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa. Phán những lời ấy đoạn, Người bảo ông: “Con hãy theo Thầy”.

 

SUY NIỆM 1: Cơ hội thứ hai.

Trong một cuộc phỏng vấn, khi những người trung niên và lớn tuổi được hỏi về những năm tháng đã qua của cuộc đời mình, họ có hối tiếc gì không, và nếu có cơ hội thứ hai, họ sẽ quyết định như thế nào. Một số người cho biết, họ vẫn làm những gì họ đã chọn lựa. Ngược lại, một số đông cho biết họ đã chọn lựa sai ở một số thời điểm quyết định sự thành bại, và nếu bây giờ có cơ hội thứ hai, họ sẽ chọn lựa khác hẳn.

Tin mừng hôm nay cho chúng ta chứng kiến việc Chúa Giêsu trao ban cho Phêrô cơ hội thứ hai. Thật thế, trong Bữa Tiệc ly trước khi chịu khổ hình, Chúa Giêsu đã tuyên bố với các môn đệ: “Tất cả các con sẽ bị vấp ngã vì Ta trong đêm nay”. Nghe thế, Phêrô phản đối và quả quyết: “Cho dù tất cả vấp ngã vì Thày, con sẽ không vấp ngã bao giờ”, nhưng rồi chỉ vài giờ sau đó ông đã nhát đảm chối Thày đến ba lần. Giờ đây, sau khi Phục sinh. Chúa Giêsu đã gặp riêng Phêrô và cho ông cơ hội thứ hai. Chúa hỏi: “Simon, con của Giona, con có mến Ta hơn những người này không?. Phêrô không khỏi ngạc nhiên tự hỏi: những giọt lệ thống hối chân thành sau khi chối Thày đã không đủ để minh chứng mình yêu mến Thày sao? Nhưng Phêrô đã học được bài học của quá khứ, nhất là bài học khiêm nhường cần thiết để lãnh nhận ơn cứu rỗi mà nhóm Biệt phái không thể lãnh nhận được vì tự cao tự đại. Phêrô đã thưa: “Lạy Thày, Thày biết rõ mọi sự, Thày biết con yêu mến Thày”. Ba lần hỏi dẫn đến ba câu trả lời cùng một nội dung, nhưng không phải là để bù đắp cho ba lần chối Thày trước đây, mà là một đòi hỏi tiên quyết là tuyên xưng lòng yêu mến. Sau đó, Chúa đã trao cho Phêrô nhiệm vụ chăn dắt Giáo Hội, Phêrô đã sống đến tận cùng cơ hội thứ hai và đã sẵn lòng chết vì niềm tin của mình.

Thiên Chúa luôn sẵn sàng cho chúng ta cơ hội thứ hai, không phải một lần mà là nhiều lần. Điều quan trọng là chúng ta phải thành tâm nhìn nhận tội lỗi, xin ơn tha thứ và bắt đầu lại. Do đó mối hiểm nguy là do chúng ta tự định giới hạn cho lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa, mà không xin Ngài một cơ hội khác. Đó là sự khác biệt giữa Giuđa và Phêrô: Cả hai đã phản bội Thày trong cùng một ngày, nhưng Giuđa không xin cơ hội thứ hai nên đã thất bại, còn Phêrô đã tận dụng cơ hội được ban cho và đã toàn thắng.

Ước gì lời Chúa hôm nay giúp chúng ta khám phá ra lòng nhân từ vô biên của Chúa, để chúng ta luôn khiêm nhường chỗi dậy sau mỗi lần sa ngã, và xin Chúa ban cho chúng ta trung thành với ơn Chúa cho đến cùng.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 2: Lãnh trọng trách

Mùa phục sinh sắp hoàn tất. Suốt mùa, chúng ta được Đức Kitô giáo huấn. Lời Người rao giảng cho chúng ta mỗi ngày giúp chúng ta gắn bó hơn với Người trong cuộc đời Kitô hữu đã rửa tội và được sống lại.

Sau phần giáo huấn của Đức Kitô, có lẽ chúng ta sẵn sàng gắn bó sâu hơn với Người. Nhận biết như Chúa là luôn luôn tiến sâu nữa. Hôm nay, chúng ta sẵn sàng trả lời những câu hỏi của Đức Giêsu như thánh Phê-rô đã đáp lời Người: “Si-mon, con ông Gio-na, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?”. Anh đã học biết Thầy, Thầy đã giới thiệu anh với Cha Thầy, bây giờ anh biết kế hoạch cứu độ loài người, Thầy yêu anh, Thầy đã tha thứ cho anh: vậy “Anh có mến Thầy không?”

“Thưa Thầy, Thầy biết con mến Thầy”, ba lần Phê-rô đã quyết hứa lòng mộ mến Thầy. Tuy nhiên, Đức Giêsu không dừng lại đây, Người nhấn mạnh Phê-rô phải lãnh trọng trách đối với những người khác: “Để chứng tỏ anh mến Thầy là anh phải yêu mến anh em”. Thánh Gio-an đã quả quyết: “Ai quả quyết mến Chúa mà không yêu anh em là kẻ nói dối?”.

Lãnh trọng trách còn đi xa hơn nữa: mỗi lần gắn bó với ai, luôn luôn hy sinh sức khỏe, tự ái, tự do của mình cho người ấy: “Anh sẽ phải giang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn đến”.

Tình yêu Đức Giêsu luôn luôn kêu gọi ta từ bỏ, hy sinh đến chết. Yêu người khác đến độ trở nên tôi tớ để làm theo ý muốn của họ, đáp lại mọi ước ao của họ. Tình yêu phải chịu lệ thuộc.

Chúng ta đã được Đức Giêsu giáo huấn, được Ngài dẫn vào hiệp thông với Chúa Cha. Chúng ta đã học yêu mến Chúa. Bây giờ chúng ta hãy chọn: chúng ta có biết tự giữ lấy mọi lời đó cho mình không? Tình yêu mến Chúa của chúng ta chỉ là một thứ tình cảm chóng qua hay là một sức mạnh thúc đẩy chúng ta phục vụ.

CG.

 

SUY NIỆM 3: Yêu thương vô điều kiện

Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ như một người bình thường trên Biển Hồ Tiberia. Ngài giúp cho các môn đệ bắt được nhiều cá và sau khi ăn sáng xong với các môn đệ, Chúa Giêsu liền hỏi ông Phêrô: “Này anh Phêrô, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?” Chúa hỏi ông Phêrô đến ba lần, điều này khiến ông đau lòng vì nhắc ông nhớ tới việc đã công khai chối Thầy đến ba lần. Và trước mặt Chúa, Phêrô đã khẳng định với Ngài rằng ông yêu mến Ngài hơn các môn đệ khác. Chỉ trong lúc đó Phêrô mới hiểu rằng tình yêu của Thầy đổ tràn lên ông hơn là tình yêu của ông đối với Thầy. Trước đây, Phêrô đã từng hùng hồn tuyên xưng trước các môn đệ khác rằng: “Dẫu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã”. Nhưng sau kinh nghiệm cay đắng vì sự phản bội của mình, Phêrô ý thức về sự yếu đuối của mình để hiểu rằng ông phải hoàn toàn trông cậy vào Thiên Chúa chứ không ở khả năng của mình, vì thế mà Phêrô đã thưa với Chúa: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”.

Chúa Giêsu, trước khi giao phó Giáo Hội của Ngài cho Phêrô chỉ đòi hỏi ở ông duy nhất một điều kiện, đó là tuyệt đối yêu mến Ngài. Chúa không đòi hỏi người môn đệ khả năng xuất chúng để lèo lái Giáo Hội, cũng như trí thông minh phi thường để đối phó với các thử thách mà Ngài chỉ đơn giản hỏi ông: “Anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” Thánh Gioan cho chúng ta hiểu rằng Chúa Giêsu đã chọn ông Phêrô làm người đứng đầu Hội Thánh không phải vì ông yêu mến Chúa hơn các môn đệ khác, nhưng vì Chúa Giêsu đã đặt ông đứng đầu Hội Thánh nên ông phải yêu Chúa và yêu các môn đệ nhiều hơn cũng như cần phải trung thành nhiều hơn nữa.

Phêrô hiểu rằng cội nguồn của tình yêu không tới từ ông mà đến từ Chúa khi Ngài hỏi ông: “Anh có mến Thầy không?” Chúa Giêsu chính là cội nguồn của lòng nhân ái và Ngài muốn trao ban tình yêu đó cho Phêrô. Chúa Giêsu không chỉ hỏi ông Phêrô câu hỏi này, nhưng Ngài còn hỏi tất cả chúng ta và Ngài muốn trao ban cho chúng ta món quà quí giá đó. Chúng ta mang trong trái tim ước mơ yêu thương Thiên Chúa nhưng nhiều lúc tình yêu đó hời hợt vì bản chất chúng ta yếu đuối và bất trung, và đôi khi chúng ta lại còn nghi ngờ Ngài. Nhưng chính Chúa đã cho Phêrô và cả chúng ta cơ hội để trả lời Ngài: Lạy Chúa, Chúa biết chúng con yêu Chúa không phải vì chúng con hoàn hảo, mà vì Chúa đã yêu thương chúng con một cách nhưng không. Chúng con là những kẻ bất trung, còn Chúa thì luôn trung thành với lời hứa của Ngài. Khi Chúa Giêsu nói với Phêrô: “Hãy theo Thầy”, Ngài loan báo cái chết tử đạo của ông vì đi theo Chúa tức là vác thập giá để theo Ngài, có nghĩa là từ bỏ hoàn toàn chính mình và hy sinh cả mạng sống mình vì Nước Trời. Chúa Giêsu là người yêu chúng ta trước nhất, Ngài yêu chúng ta một cách vô điều kiện. Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu đã cho các môn đệ hồng ân là được theo Ngài và chịu chết tử đạo để làm vinh danh Ngài như thánh Gioan đã viết trong bài Phúc Âm hôm nay: “Người nói vậy có ý ám chỉ ông Phêrô sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa”. Ngài đã cho Phêrô hiểu thế nào là một tình yêu hoàn hảo, đó là dâng hiến chính mạng sống của mình cho Thiên Chúa và tha nhân, và biết hướng về tình yêu của Thiên Chúa bằng với tất cả lòng tin cậy. Ðiều đó cũng nhắc nhở với chúng ta là các hoạt động tông đồ trước hết phải đặt nền tảng trên tình yêu gắn bó với Chúa, để sau đó loan truyền tình yêu của Ngài cho những người khác.

Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu rằng tình yêu của chúng con đối với Chúa phải được thể hiện qua việc yêu mến tha nhân, và xin giúp cho chúng con yêu họ một cách cụ thể bằng việc quan tâm đến những niềm vui cũng như nỗi đau khổ của họ, đồng thời sẵn sàng hy sinh để giúp họ hạnh phúc hơn.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 4: CÓ YÊU THÌ MỚI CHU TOÀN (Ga 21, 15-19)

Khi nói về tình yêu, nhạc sĩ Nguyễn Duy đã có một bài hát mang tên: “Xin định nghĩa tình yêu”, trong đó có đoạn:

“Yêu là chết đi, là đóng đinh, là biết hy sinh cho người mình yêu […]. Yêu: xin đừng dối gian, xin đừng trái ngang, dù lắm lo toan, xin đừng ly tan. Hãy yêu như Giêsu, chết đi cho dương gian, đóng đinh cho người mình yêu mến. Hãy yêu trong an vui, thủy chung trong đau thương, sống trong cuộc đời đầy mến yêu”.

Lời bài hát trên mang đậm chữ “yêu”. Thật vậy, con người nếu không có tình yêu, hỏi rằng chúng ta có thể sống có ý nghĩa được chăng? Thưa không! Chỉ có tình yêu, con người mới làm cho cuộc đời này chan chứa niềm vui, dẫu vẫn còn đó khổ đau, bất hạnh, hiểu lầm…

Trước khi về trời, Đức Giêsu đã trao phó quyền chủ chăn cho Phêrô. Biết được vai trò, sứ mạng và những khó khăn mà ông sẽ đón nhận từ mình, nên Đức Giêsu đã cật vấn ông tới ba lần: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?”. Có lẽ Đức Giêsu hỏi ông như thế là vì muốn ông từ nay phải trở nên người trưởng thành thực sự chứ không phải như những lần trước, vừa mới thề sống chết với Thầy, rồi sau đó lại chối Thầy vì sợ liên lụy. Ý thức được điều đó, nên ông đã tỏ ra buồn rầu và xấu hổ.

Tuy nhiên, sứ vụ mà ông sắp đón nhận là một cuộc hành trình đầy cam go, cần phải có tình yêu đủ lớn thì mới có thể chung chia sứ vụ với Thầy được.

Thật vậy, Phêrô đã ý thức điều đó, và ông đã tuyên xưng mạnh mẽ với đầy tràn tình yêu và Thần Khí Thiên Chúa trong mình: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy”.

Ngày nay, Chúa cũng trao sứ vụ chăn dắt đoàn chiên của Ngài cho các mục tử trong Giáo Hội, chúng ta hãy cầu nguyện cho các ngài trở nên những mục tử “như lòng Chúa mong ước”. Trở nên những mục tử không chỉ “biết” mà còn “ngửi thấy mùi chiên”.

Bên cạnh đó, trong chức tư tế phổ quát, mỗi người chúng ta cũng đều là mục tử khi được tham dự vào chức tư tế độc nhất của Đức Giêsu qua Bí tích Rửa Tội, vì thế, chúng ta cũng không ngừng vươn tới mẫu gương của Đức Giêsu là mục tử nhân lành để noi theo và sống ơn gọi bằng cách chu toàn bổn phận của mình trong lòng mến.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho hết mọi thành phần dân Chúa, dù trong vai trò gì, cũng luôn biết lấy tình yêu làm lẽ sống, để qua đó, mỗi người sẽ được sống trong một tình yêu lớn hơn, đó là tình yêu của Chúa. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

SUY NIỆM 5: Hãy theo Thầy

Suy niệm :

Câu chuyện của bài Tin Mừng hôm nay diễn ra bên bờ hồ,

một cái hồ mang nhiều tên gọi: hồ Galilê, hồ Ghennêxarét, hồ Tibêriát.

Cái hồ quen thuộc đầy ắp kỷ niệm giữa Thầy và trò.

Nơi đây tiếng gọi đầu tiên của Thầy Giêsu đã vang lên: Hãy theo Thầy.

Tiếng ấy đã khiến họ từ bỏ nghề sông nước

để lên bờ, đi theo ông thợ mộc làng Nazareth.

Bao lần Thầy trò đi qua cái hồ rộng như biển này.

Sóng gió họ cũng đã gặp, vui buồn họ cũng đã từng.

Sáng sớm hôm nay, trên hồ này họ đánh được mẻ cá lớn,

nhờ một người lạ đứng trên bờ mà họ từ từ nhận ra là Thầy của mình.

Bữa ăn sáng do Thầy chuẩn bị thật chu đáo.

Có bánh và cá, có cả đống than hồng hong ấm tình Thầy trò.

Ngọn lửa này gợi nhớ đến đống than hồng ở dinh Thượng tế,

nơi Phêrô đã đứng sưởi và đã chối Thầy (Ga 18, 18. 25).

Bây giờ, cũng bên đống than hồng,

Thầy Giêsu cho Phêrô có cơ hội công khai bày tỏ tình yêu của mình.

“Anh có yêu mến Thầy không ?”: ba lần Thầy Giêsu hỏi Phêrô như thế.

“Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy”: ba lần Phêrô trả lời như thế.

Ba lần chối Thầy như được xóa đi bởi ba lần tuyên xưng tình yêu.

Nhưng bây giờ Phêrô khiêm tốn, biết tình yêu của mình mong manh, dễ vỡ.

“Hãy chăn dắt chiên của Thầy”: ba lần Thầy Giêsu đã nói như thế.

Tình yêu dẫn đến sứ mạng chăn dắt đoàn chiên mà Thầy quý chuộng.

Phải yêu Thầy thì mới yêu chiên của Thầy.

Yêu Thầy là điều kiện để được Thầy trao sứ mạng mục tử.

Làm mục tử là tiếp nối công việc của Thầy Giêsu, Mục tử nhân hậu,

nên cũng phải sẵn sàng chấp nhận cái chết như Thầy (cc. 18-19),

chết cho đoàn chiên, chết để tôn vinh Thiên Chúa (c. 19).

“Hãy theo Thầy”, lời mời năm xưa cũng là lời mời được lặp lại bây giờ.

“Hãy theo Thầy”, sau những vấp ngã, yếu đuối và chối Thầy.

“Hãy theo Thầy”, sau khi những giấc mơ trần tục bị tan vỡ bởi biến cố Núi Sọ.

“Hãy theo Thầy”, sau những hăng hái nồng nhiệt thuở ban đầu.

“Hãy theo Thầy” để giang tay ra và đến nơi mình không muốn đến.

“Hãy theo Thầy” để củng cố anh em và chăn dắt chiên của Thầy (Lc 22, 31-32).

Hôm nay Chúa Giêsu Phục sinh cũng hỏi từng Kitô hữu:

Con có mến Thầy không?

Và Ngài chờ một câu trả lời trước khi trao sứ mạng,

vì ai trong chúng ta cũng có sứ mạng chăm sóc một nhóm người nào đó.

Xin ơn yêu Giêsu bằng tình yêu thiết thân riêng tư.

Xin ơn theo Ngài vì nghe thấy lời mời gọi vang lên mỗi ngày: Hãy theo Thầy.

Và xin ơn dám sống hết mình cho những người được Chúa trao phó.

 

Cầu nguyện :

Lạy Chúa Giêsu,

xưa Chúa đã sai các môn đệ ra khơi thả lưới,

nay Chúa cũng sai chúng con đi vào cuộc đời.

Chúng con phải đối diện

với bao thách đố của cuộc sống,

của công ăn việc làm, của gánh nặng gia đình,

của nghề nghiệp chuyên môn.

Xin đừng để chúng con sa vào cạm bẫy

của vật chất và quyền lực,

nhưng cho chúng con

giữ nguyên lý tưởng thuở ban đầu,

lý tưởng phục vụ quê hương và Hội Thánh.

Lạy Chúa Giêsu,

xin dạy chúng con sống thực tế,

nhưng không thực dụng;

biết xoay xở nhưng không mưu mô;

lo cho tương lai cá nhân,

nhưng không quên

bao người bất hạnh cần nâng đỡ.

Giữa cơn lốc của trách nhiệm và công việc,

giữa những xâu xé trước bao lựa chọn,

xin cho chúng con

biết tìm những phút giây trầm lắng,

để múc lấy ánh sáng và sức mạnh,

để mình được thật là mình trước mặt Chúa.

Nhờ lời Đức Trinh Nữ Maria chuyển cầu,

xin cho chúng con thật sự trở nên chứng nhân,

làm tất cả để Thiên Chúa được tôn vinh,

và phẩm giá con người được tôn trọng. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

Thứ bảy tuần 7 Phục Sinh

Lời Chúa: Ga 21, 20-25

Khi ấy, Phêrô quay lại, thấy môn đệ Chúa Giêsu yêu mến theo sau, cũng là người nằm sát ngực Chúa trong bữa ăn tối và hỏi “Thưa Thầy, ai là người sẽ nộp Thầy?” Vậy khi thấy môn đệ đó, Phêrô hỏi Chúa Giêsu rằng: “Còn người này thì sao?” Chúa Giêsu đáp: “Nếu Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy đến thì việc gì đến con? Phần con, cứ theo Thầy”. Vì thế, có tiếng đồn trong anh em là môn đệ này sẽ không chết. Nhưng Chúa Giêsu không nói với Phêrô: “Nó sẽ không chết”, mà Người chỉ nói: “Nếu Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy đến thì việc gì đến con”.

Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó và đã viết ra, và chúng tôi biết lời chứng của người ấy xác thật. Còn nhiều việc khác Chúa Giêsu đã làm, nếu chép lại từng việc một thì tôi thiết tưởng cả thế giới cũng không thể chứa hết các sách viết ra.

 

SUY NIỆM 1: Làm chứng cho Chúa.

Trong kỳ nội chiến, Tổng thống Hoa kỳ là Abraham Lincoln có một sĩ quan trẻ làm thư ký. Viên sĩ quan này nổi tiếng là gan dạ, do đó công việc bàn giấy xem ra không thích hợp với anh. Anh chỉ mơ ước trở lại mặt trận và nếu cần sẵn sàng chết cho tổ quốc hơn là làm công việc đơn điệu nhàm chán trên bàn giấy. Một ngày nọ, sau khi nghe anh than phiền, Tổng thống Lincoln nhìn thẳng mắt anh và nói: “Hỡi anh bạn trẻ, như tôi nhận thấy thì quả thực anh luôn muốn xả thân chết cho tổ quốc, nhưng có lẽ anh không muốn sống cho tổ quốc”.

Tử đạo theo nguyên ngữ là “làm chứng cho đức tin”. Có người dùng cái chết để làm chứng, có người dùng cả cuộc sống. Tuy nhiên, chết đau thương nhục nhã hoặc chết âm thầm từng ngày, cả hai đều có giá trị như nhau. Phêrô, vị Giáo hoàng tiên khởi được mời gọi bước theo Chúa Giêsu, nghĩa là chấp nhận những thử thách bách hại và cái chết trên thập giá để làm chứng cho Chúa. Còn Gioan, vị tông đồ được Chúa Giêsu yêu mến lại làm chứng cho Chúa bằng chính cuộc sống của mình. Gioan tuy không được phúc tử đạo như các Tông đồ khác, nhưng đã sống một thời gian rất dài, để củng cố niềm tin của các tín hữu tiên khởi nhất là để suy niệm và viết cuốn Tin mừng thứ tư và ba lá thư. Tất cả đều là những cách thức làm chứng cho Đấng đã chết và sống lại là Chúa Giêsu Kitô.

Lịch sử Giáo Hội từ đầu cho đến nay là cả một cuốn sách về những chứng từ khác nhau: bằng lời nói, bằng đau khổ, bằng hy sinh, bằng công việc từ thiện… mỗi người một cách, mỗi thời đại một cách tuỳ ở Chúa Thánh Thần soi sáng, nhưng tất cả là để giới thiệu tình yêu Chúa cho mọi người để mọi người hưởng nhờ ơn cứu độ.

Chắc chắn, không phải tất cả chúng ta có thể làm chứng cho Chúa bằng cái chết vì đạo, nhưng chúng ta có thể làm chứng bằng chính cuộc sống của chúng ta. Ước gì chúng ta luôn ý thức phần đóng góp của chúng ta cho kho tàng phong phú của Giáo Hội qua những hy sinh âm thầm từng ngày, để làm cho mọi người nhận biết tình yêu Chúa và trở về cùng Chúa.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 2: Về thánh Gioan

Thánh Gio-an lúc bảy mươi tuổi bắt đầu viết Tin mừng làm chứng về Đức Giêsu. Hôm nay, Ngài ký vào lời chứng này.

Ngôn từ cuốn Tin mừng này đôi khi khó hiểu, bí ẩn, sâu kín, mang lại kinh nghiệm dày dạn sâu lắng của đời sống Kitô giáo, đời sống phục sinh. Ngài truyền lại cho chúng ta kiến thức về Đức Kitô sau khi đã cầu nguyện, suy niệm lâu dài mãi tới già.

Mấy tuần mùa phục sinh Ngài loan báo cho chúng ta Tin mừng về: sự tái sinh bởi Thánh Thần, chia sẻ bánh hằng sống, niềm hy vọng phục sinh, tiếp nhận mục tử tốt lành, ban Thánh Thần, thánh Gio-an giới thiệu chúng ta vào hiệp thông với Chúa Cha. Hơn nữa, ngài còn xác định về những đòi hỏi phải theo Đức Kitô: Sự cần thiết phải tin, nhận lãnh những dấu chỉ, đức tin vào lời chứng về Đức Kitô, trông cậy vào Đấng Thiên Chúa sai đến.

Đến lượt, chúng ta cần cảm nghiệm sâu sắc về đời sống của Đức Kitô. Nhờ thế, chúng ta là nhân chứng về những sự kiện cao cả của Thiên Chúa trong lịch sử lúc này. Lời chứng của chúng ta rất cần cho thế gian. Mỗi người trong chúng ta, tùy theo cách thức và đặc sủng của mình, phải loan báo Tin mừng đã sống thực trong đáy lòng con tim chúng ta.

Mỗi người chúng ta phải lớn tiếng rao giảng lời chứng của mình về Đức Kitô hàng ngày. Lời rao giảng Tin mừng trong phụng vụ được các tông đồ truyền lại cho chúng ta, giúp chúng ta làm sống lại lời Tin mừng đến tận các bàn giấy, các nhà máy, và các gia đình.

Chúng ta không nên đợi những người khác bắt đầu sống theo Đức Kitô, rồi chúng ta mới bắt đầu thi hành ý Người. Hãy nhờ chính lời của Người nói với Phê-rô: “Dù Thầy muốn cho người ấy cái gì, dù Thầy định cho những người khác thế nào, thì việc gì đến anh? Phần anh, anh hãy theo Tôi”.

CG.

 

SUY NIỆM 3: Làm chứng tá cho tình yêu

Hôm nay chúng ta lắng nghe phần đoạn kết trong sách Phúc Âm của thánh Gioan tông đồ, chỉ có ba nhân vật được kể đến trong phần cuối của Phúc Âm này là Chúa Giêsu, Phêrô và Gioan.

Qua những lời đối thoại với Phêrô, Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu rằng Ngài đã chọn mười hai vị tông đồ và trao phó cho mỗi người một sứ mạng khác nhau. Phêrô và Gioan vì thế cũng có sứ mạng khác biệt nhau. Nếu như Phêrô được chọn để chăn dắt đàn chiên của Chúa và trung thành với các sứ vụ bằng cái chết tử đạo, thì vai trò của Gioan là làm chứng tá cho Chúa Giêsu bằng Phúc Âm.

Gioan được ơn sống lâu để chiêm niệm một cách sâu xa hơn về mầu nhiệm nhập thể làm người và phục sinh của Chúa Giêsu, Con Một Thiên Chúa. Vì thế mà Gioan kết thúc Phúc Âm của mình bằng sự xác quyết: “Còn có nhiều điều khác Chúa Giêsu đã làm, nếu viết lại từng điều một thì tôi thiết nghĩ cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra”. Qua lời kết thúc này Gioan cho thế gian hiểu rằng quyền năng của Chúa Giêsu không bao giờ cạn, hồng ân của Ngài thì vô cùng, sự khôn ngoan của Ngài thì không ai có thể đối chọi lại được, và tình yêu của Ngài thì vô biên.

Trong lịch sử Giáo Hội suốt hai mươi thế kỷ nay, Thiên Chúa cũng vẫn liên tục kêu gọi nhiều người và ban cho họ những ân sủng đặc biệt để tiếp tục sống mãn đời trên trần thế. Họ là các thánh nam nữ đã được Thiên Chúa lựa chọn và trao cho các sứ mệnh đặc biệt ở những thời kỳ và hoàn cảnh khác biệt nhau. Có vị được gọi để trở thành các giáo phụ và tiến sĩ Hội Thánh. Các ngài dùng ngòi bút và trí thông minh để rao giảng Phúc Âm và đem ánh sáng Lời Chúa đến cho mọi người. Những vị khác thì được ơn gọi sáng lập các dòng tu với tinh thần tông đồ và hoạt động truyền giáo trong nhiều lãnh vực khác biệt nhau. Các sứ vụ tuy có khác biệt nhưng đều mang ý nghĩa và tầm mức quan trọng như nhau. Tất cả đều qui tụ vào cùng một mục đích duy nhất là làm chứng tá cho chân lý và tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con sức mạnh của đức tin và ngọn lửa của tình yêu, để chúng con can đảm và hăng say làm chứng tá cho tình yêu và chân lý của Chúa giữa thế gian. Xin Chúa cũng luôn hiện diện để giúp chúng con trung thành với ơn gọi và sứ mạng do Chúa giao phó, nhất là trong những lúc đứng trước các cơn bão táp của cuộc sống.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

SUY NIỆM 4: CẢM NGHIỆM VÀ LÀM CHỨNG (Ga 21, 20-25)

Trên các trang báo điện tử thời gian gần đây  đăng tin:

Một nữ tu “cháy hết mình” trên sân khấu The Voice của Ý.

Nữ tu đó chính là Cristina Scuccia, 25 tuổi, thành viên của Dòng các chị em Ursuline Thánh Gia. Chị đã xuất hiện trên sân khấu của chương trình The Voice tại Ý. Khi sơ xuất hiện, các giám khảo và mọi người thật sự ngỡ ngàng khi thấy trang phục của thí sinh đặc biệt này.

Khi các giám khảo quay lại nhìn sơ Cristina, họ đã không tin vào mắt mình khi thấy một nữ tu trẻ đang hát “No One”, bài hát ruột của Alicia Keys.

Sau khi nghe sơ Cristina hát, Carra là một trong 4 vị giám khảo đã hỏi sơ có thật là một nữ tu không và tại sao sơ chọn tham gia cuộc thi này?

“Vâng, tôi đích thực là một nữ tu,” sơ Cristina trả lời.

“Tôi đến đây bởi vì tôi có một món quà và tôi muốn chia sẻ món quà đó. Tôi đến đây để loan báo Tin Mừng”.

Thánh Gioan hôm nay hiện lên trên trang Tin Mừng như một người chứng về tất cả những gì ngài đã viết trong Tin Mừng của mình về Đức Giêsu. Ngài đã trở nên chứng nhân cho tất cả những gì đã viết là bởi vì ngài đã được ở với Đức Giêsu, được nghe lời dạy, và cảm nghiệm được tình yêu đặc biệt mà Thầy đã dành cho mình. Như vậy, muốn hiểu phải yêu, và khi đã yêu thì phải làm chứng và lời chứng của người đó mới thật.

Như vậy, phụng vụ hôm nay muốn mời gọi chúng ta rằng: hãy yêu mến Chúa tha thiết, lắng nghe lời Ngài và hãy trở nên chứng nhân cho Đức Giêsu đến tận cùng trái đất.

Tuy nhiên, không có một mẫu số chung nào cho mọi người, vì thế, mỗi người mỗi cách, miễn sao cho Tin Mừng được loan báo và hợp với tinh thần của Giáo Hội.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết yêu Chúa hết lòng, để từ đó cũng sẵn sàng trở nên những chứng nhân cho Tin Mừng cách sống động trong cuộc sống hiện tại của chúng con. Amen.

 Ngọc Biển SSP

 

SUY NIỆM 5: Lời chứng xác thực

Suy niệm:

Trong bài Tin Mừng hôm nay, ngoài Đức Giêsu và Phêrô,

còn có người môn đệ được Đức Giêsu thương mến.

Anh đã có mặt trong bữa Tiệc Ly cùng với Phêrô, đã nằm gần Thầy,

và được Phêrô nhờ hỏi Thầy xem ai là kẻ phản bội (13,23-25).

Anh đã đưa Phêrô vào dinh thượng tế khi Đức Giêsu bị bắt (18,15-16).

Anh đã cùng với Phêrô chạy ra ngôi mộ trống lúc ban mai,

nhưng anh chạy nhanh hơn, và tin trước Phêrô (20,3-10).

Khi Phêrô chối Thầy ba lần và không lộ diện nữa (18,17-18.25-27),

thì anh là môn đệ duy nhất đứng gần thập giá Đức Giêsu,

và được Ngài trao Thân Mẫu của mình để làm Mẹ của anh (19:25-27).

Trong lần Đức Giêsu tỏ mình bên bờ hồ Galilê, sau mẻ cá lạ (21,4-7),

anh là người đầu tiên nhận ra Thầy, và nói với Phêrô: “Chúa đó!”

Có vẻ hình ảnh người môn đệ được Chúa thương nổi trội hơn Phêrô.

Dù sao Simon Phêrô đã ba lần tuyên xưng tình yêu trước Thầy,

và ba lần Thầy giao cho anh chăm sóc đoàn chiên như người mục tử.

Thầy còn tiên báo cái chết tử đạo của anh,

và mời anh một lần nữa: “Hãy theo Thầy” (21,19; x. 13,36-37).

Đó là đường đời của Phêrô, một môn đệ và một mục tử.

Nhưng đâu là con đường tương lai của người môn đệ kia?

Phêrô đi theo Đức Giêsu, quay lại, thấy anh này cũng đang đi theo.

“Thưa Thầy, còn anh này thì sao?” (c. 21).

Đức Giêsu đã không bảo là anh này sẽ không chết,

hay anh còn sống mãi cho đến ngày Ngài quang lâm (c. 23).

Khi cuốn Tin Mừng Thứ Tư được viết xong vào cuối thế kỷ thứ nhất,

thì người môn đệ kia đã qua đời, nhưng không được phúc tử đạo.

Như thế tiếng đồn về câu nói của Đức Giêsu là sai sự thật (c. 22).

Những gì anh để lại cho thế giới là cuốn Tin Mừng Thứ Tư.

“Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra.

Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực” (c. 24).

Người môn đệ này cho chúng ta một lời chứng đáng tin,

vì anh là người đã sống bên Thầy Giêsu, thật gần gũi.

Anh đã mắt thấy tai nghe, và có kinh nghiệm thân thiết với Thầy.

Không hẳn anh đích thân cầm bút viết cuốn Tin Mừng này,

nhưng anh lại chính là tác giả của mọi điều được viết trong đó.

Tất cả là kinh nghiệm riêng tư anh đã trải qua với Thầy Giêsu,

và những suy niệm lâu dài dưới ánh sáng Phục sinh và Thánh Thần.

Người môn đệ này còn là người sáng lập một cộng đoàn tín hữu.

Cộng đoàn ấy được ám chỉ qua đại từ “chúng tôi” (c. 24; x. 1,14.16).

Một người trong cộng đoàn đã viết chương cuối này (c. 25: “tôi”).

Ai là người môn đệ được Đức Giêsu thương mến?

Nhiều người nghĩ anh là Gioan, nhiều người lại nghĩ khác.

Dù sao anh thật là một môn đệ lý tưởng cho chúng ta.

Điều anh để lại cho đời trong cuốn Tin Mừng là điều anh xác tín.

Anh là nhân chứng đáng tin cậy của Đức Kitô, Con Thiên Chúa.

Đúng anh là người được Thầy yêu và là người đã hết lòng yêu Thầy.

 

Cầu nguyện :

Lạy Thiên Chúa của đời con,

chỉ trong tình yêu con mới tìm thấy Chúa.

Trong tình yêu, các cánh cửa hồn con mở tung,

để con được thở không khí tự do tươi mới

và quên đi cái tôi nhỏ mọn của mình.

Trong tình yêu, toàn bộ con người con vươn ra khỏi

những ranh giới cứng nhắc của óc hẹp hòi

và của thái độ tự khẳng định đầy bất an

khiến con bị giam mình trong sự nghèo nàn và trống rỗng.

Trong tình yêu, mọi sức mạnh của hồn con tuôn chảy về Chúa,

chẳng bao giờ còn muốn quay trở lại,

nhưng chỉ muốn mất mình trọn vẹn trong Chúa,

vì qua tình yêu, Chúa là trung tâm sâu nhất của lòng con,

Chúa gần con hơn cả chính con gần con.

Nhưng khi con yêu Chúa,

khi con tìm cách phá vỡ vòng vây chật hẹp của cái tôi, và vứt bỏ sau lưng

nỗi khắc khoải không nguôi về những câu hỏi còn bỏ ngỏ,

khi đôi mắt mù lòa của con không còn chỉ nhìn từ xa và từ bên ngoài

ánh rạng ngời không thể lại gần được của Chúa,

và hơn nữa, lạy Chúa là Đấng vô phương thấu hiểu,

khi qua tình yêu, Chúa trở nên trung tâm sâu nhất của đời con,

khi ấy con mới có thể chôn mình hoàn toàn trong Chúa,

lạy Thiên Chúa nhiệm màu,

và chôn mọi câu hỏi của con cùng với con. Amen.

(Karl Rahner, S.J.)

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.