Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 8 Thường Niên

print

Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 8 Thường Niên

THỨ HAI TUẦN 8 THƯỜNG NIÊN.

THỨ BA TUẦN 8 THƯỜNG NIÊN.

THỨ TƯ TUẦN 8 THƯỜNG NIÊN.

THỨ NĂM TUẦN 8 THƯỜNG NIÊN.

THỨ SÁU TUẦN 8 THƯỜNG NIÊN.

THỨ BẢY TUẦN 8 THƯỜNG NIÊN.

THỨ HAI TUẦN 8 THƯỜNG NIÊN

 Lời Chúa: Mc 10, 17-27

Khi ấy, Chúa Giêsu vừa lên đường, thì một người chạy lại, quỳ gối xuống trước Người và hỏi: “Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?” Chúa Giêsu trả lời: “Sao ngươi gọi Ta là nhân lành? Chẳng có ai là nhân lành, trừ một mình Thiên Chúa. Ngươi đã biết các giới răn: đừng ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cắp, đừng làm chứng gian, đừng lường gạt, hãy thảo kính cha mẹ”. Người ấy thưa: “Lạy Thầy, những điều đó tôi đã giữ từ thuở nhỏ”.

Bấy giờ Chúa Giêsu chăm chú nhìn người ấy và đem lòng thương mà bảo rằng: “Ngươi chỉ còn thiếu một điều là ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta”.

Nhưng người ấy nghe những lời đó, thì sụ nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. Lúc đó Chúa Giêsu nhìn chung quanh, và bảo các môn đệ rằng: “Những người giàu có vào nước Thiên Chúa khó biết bao”. Các môn đệ kinh ngạc vì những lời đó.

Nhưng Chúa Giêsu lại nói tiếp và bảo các ông rằng: “Hỡi các con, những kẻ cậy dựa vào tiền bạc, thật khó mà vào nước Thiên Chúa biết bao. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Thiên Chúa”.

Các ông càng kinh ngạc hỏi nhau rằng: “Như vậy thì ai có thể được cứu độ?” Chúa Giêsu chăm chú nhìn các ông, và nói: “Ðối với loài người thì không thể được, nhưng không phải đối với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa làm được mọi sự”.

 

Suy Niệm 1: Tôi phải làm gì?

Suy niệm:

“Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?”

Một anh thanh niên vội vã chạy đến, quỳ trước mặt Đức Giêsu

và hỏi Ngài như thế khi Ngài vừa lên đường.

Rõ ràng anh đang háo hức và thao thức

tìm kiếm một lối sống phù hợp ở đời này,

để nhờ đó được hưởng hạnh phúc vững bền mãi mãi.

Anh đã đến với Thầy Giêsu tốt lành để hỏi câu hỏi này,

và anh thực sự chờ nơi Thầy câu trả lời.

Thầy nhắc anh về những giới răn liên quan đến tha nhân.

Đây là những điều anh đã biết, và hơn nữa,

anh thú nhận mình đã giữ chúng từ khi còn nhỏ (c. 20).

Thầy Giêsu như bị cuốn hút bởi con người đạo đức của anh.

Đưa mắt nhìn anh, Thầy đem lòng yêu mến (c. 21).

Đúng là anh đã không làm hại gì đến tha nhân.

Nhưng anh còn thiếu một điều quan trọng, đó là:

Đi. Bán những gì mình có. Cho người nghèo.

Rồi đến. Và theo Thầy Giêsu.

Thầy mời anh đi một vòng, rồi trở lại.

Lúc trở lại với Thầy, anh sẽ nhẹ hơn nhiều,

vì mọi của cải đã được phân phát cho người nghèo khó.

Thầy Giêsu muốn anh trở nên môn đệ của mình,

sau khi đã trở nên tay trắng, không còn gì để nương tựa.

Anh thanh niên sẽ có kho tàng trên trời,

khi anh được giải phóng khỏi kho tàng của anh dưới đất.

Tiếc thay anh đã từ chối lời mời của vị Thầy có lòng mến anh,

và đã chỉ cho anh điều phải làm.

Lúc nãy anh chạy đến với Thầy, bây giờ anh lại bỏ đi (c. 22).

Lúc nãy anh háo hức, vui tươi, bây giờ anh sa sầm nét mặt.

Anh không ngờ Thầy lại đòi hỏi tận căn đến thế.

Anh mong sự sống vĩnh cửu, anh thích làm môn đệ Thầy Giêsu,

nhưng anh lại không muốn bỏ chỗ dựa là của cải đời này.

Lòng gắn bó với của cải đã là một trở ngại khiến anh mất tự do.

Không phải vì anh chiếm hữu nhiều của cải,

nhưng thực ra, vì của cải đã chiếm hữu anh.

Thầy Giêsu chắc còn buồn hơn anh thanh niên,

vì Thầy bị mất một người mà Thầy ưng gọi làm môn đệ.

Đến bao giờ anh thanh niên mới nguôi ngoai nỗi buồn?

Lời mời của Thầy tốt lành vẫn đeo đuổi tâm trí anh.

Anh vẫn suốt đời thiếu một điều.

Khi về nhà, khi tiếp xúc với của cải dư dật,

có khi nào anh lại thao thức đặt câu hỏi:

Tôi phải làm gì để được thừa hưởng sự sống đời đời?

Có khi nào anh nghĩ đến chuyện chia sẻ cho người nghèo?

Có khi nào anh lại muốn đến với Thầy Giêsu?

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

giàu sang, danh vọng, khoái lạc

là những điều hấp dẫn chúng con.

Chúng trói buộc chúng con

và không cho chúng con tự do ngước lên cao

để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.

Xin giải phóng chúng con

khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,

nhờ cảm nghiệm được phần nào

sự phong phú của kho tàng trên trời.

Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi

bán tất cả những gì chúng con có,

để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.

Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng

trước những lời mời gọi của Chúa,

không bao giờ ngoảnh mặt

để tránh cái nhìn yêu thương

Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

Suy Niệm 2: THANH LUYỆN

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Lời Chúa hôm nay nói về thanh luyện. Trong vũ trụ hiếm có vật gì nguyên tuyền. Vạn vật trong vũ trụ sống bên nhau. Ảnh hưởng lẫn nhau. Xâm nhập vào nhau. Muốn có nguyên tố tinh tuyền. Cần phải thanh luyện.

Thánh Phê-rô cho biết vàng tuy là vật chất ở trần gian. Cũng đòi có cuộc thanh luyện. Huống hồ chúng ta có gia tài cao quí hơn gấp bội trên trời. Có thứ vàng vĩnh cửu. Có gia tài không bao giờ vẩn đục tàn phai. “Chúng ta được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động, nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã từ cõi chết sống lại, để được hưởng gia tài không thể hư hoại, không thể vẩn đục và tàn phai. Gia tài này dành ở trên trời cho anh em”. Để đạt tới gia tài lớn lao cao quí ấy ta cũng phải được thanh luyện bằng những đau khổ lớn lao. “Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội” (năm chẵn).

Hôm nay Chúa Giê-su cho biết cuộc thanh luyện đó thật khốc liệt. Vì rốt ráo. Muốn vào Nước Trời phải thanh luyện tâm hồn khỏi những dính bén trần tục. Kho tàng trần tục đối lập với kho tàng Nước Trời. Giá trị khác nhau. Chất liệu khác nhau. Và cách thức thủ đắc cũng khác nhau. Kho tàng trần gian là vật chất. Kho tàng Nước Trời là ân sủng. Kho tàng trần gian mau qua. Kho tàng Nước Trời vĩnh cửu. Kho tàng trần gian có được nhờ thu góp. Kho tàng Nước Trời thành hình nhờ phân tán. Kho tàng trần gian qui về bản thân. Kho tàng Nước Trời dành cho tha nhân. Như Chúa dạy chàng thanh niên: “Hãy về bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời”. Hai kho tàng này mâu thuẫn nhau. Chỉ được một trong hai. Muốn được kho tàng Nước Trời phải bán hết kho tàng trần gian. “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào Nước Thiên Chúa”.

Gắn bó với của cải trở thành chướng ngại. Chọn trần gian là tội lỗi. Vì quay lưng lại Nước Trời. Vì thế cần sám hối. Cần trở về với Chúa. Xa lánh trần gian. “Hãy trở về với Đức Chúa và từ bỏ tội lỗi, hãy cầu khẩn trước nhan Người, và giảm bớt dịp tội. Hãy đoạn tuyệt với gian ác, trở về cùng Đấng Tối Cao, và cực lực gớm ghét mọi điều ghê tởm”. Không ai ngờ chàng thanh niên kia là tội lỗi. Nhưng anh thực sự chạy theo tội lỗi. Vì trước lựa chọn. Anh từ bỏ Chúa mà chạy theo tiền tài. Mà Chúa đã nói công khai: “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa lẫn tiền của được”(Mt 6, 24) (năm lẻ).

Xin cho con luôn biết sám hối. Thanh luyện tâm hồn khỏi bụi bặm trần gia. Để chọn lựa Chúa. Và sống cho Chúa.

 

Suy Niệm 3: Khôn ngoan đích thực

Trong truyền thống Kinh Thánh, Vua Salômôn vẫn được coi như mẫu người biết sống khôn ngoan, bởi vì nhà vua hiểu rằng ai có được khôn ngoan là chiếm hữu được bí mật, là chiếm hữu được ý nghĩa cuộc sống, và đó mới là kho tàng quý báu nhất. Người khôn ngoan như thế là người biết đặt vấn đề về ý nghĩa của đời mình, bởi vì có nhiều tiền bạc, danh vọng, quyền bính để làm gì, nếu sống mà không có lý tưởng và mục đích tuyệt đối để đeo đuổi, và bởi vì chỉ có cái đức mới theo con người sau cái chết và thực sự lợi ích cho con người.

Ðây cũng là ý nghĩa của trình thuật kể lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người thanh niên giàu có, như được ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay.

Trong truyền thống Do Thái, của cải giàu sang là bằng chứng sự hiện diện và chúc lành của Thiên Chúa, còn nghèo khổ là dấu chỉ xa cách Thiên Chúa và bị Ngài chúc dữ. Chúa Giêsu sửa sai quan niệm duy vật đó của người Do Thái, bằng cách đảo lộn bậc thang giá trị của tâm thức trần gian. Thánh Matthêu và Luca trình bày điều đó qua Hiến Chương Tám Mối Phúc Thật, còn thánh Marcô thì lồng khung nó trong con đường của Chúa Giêsu tiến về thập giá và Núi Sọ, trên con đường ấy thái độ sống đúng đắn nhất, đó là tín thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa và Lời Ngài.

Qua cuộc đối thoại với người thanh niên giàu có, Chúa Giêsu cho thấy việc tuân giữ lề luật mà thôi không bảo đảm cho ơn cứu rỗi của con người. Muốn được cứu rỗi, phải chia sẻ của cải cho người nghèo khó để được phần trên trời và bước theo Chúa Giêsu. Nói khác đi, đối với Chúa Giêsu, việc tuân giữ luật lệ không đủ để được ơn cứu rỗi; muốn được ơn cứu rỗi, cần phải sống tin yêu, phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa, nghĩa là có được kho tàng trên trời, và yêu thương tha nhân bằng cách cho đi những gì mình có, dù đó là của cải vật chất hay tinh thần.

Chúa Giêsu không dạy chúng ta khinh thường của cải trần gian, nhưng Ngài chỉ khuyến cáo chúng ta rằng của cải trần gian có thể là một chướng ngại trầm trọng cho ơn cứu rỗi. Khi nó không được dùng để phục vụ tha nhân, thì của cải có thể trở thành dụng cụ của ích kỷ, nguồn gốc của bất chính hoặc phô trương lừa gạt. Của cải có thể trở thành sự dữ, khi nó khép kín con tim và tâm trí chúng ta trong ngục tù của ích kỷ và hưởng thụ, khi nó ngăn cản chúng ta sống yêu thương và quảng đại, khi nó không cho chúng ta sống hoàn toàn tự do khỏi mọi tù ngục trói buộc con người.

Lời mời gọi của Chúa Giêsu: hãy bán của cải, chia cho người nghèo, rồi đi theo Ngài, là một lời mời gọi cách mạng, có sức biến đổi tấm lòng và cuộc đời cũng như có sức biến đổi thế giới. Theo Chúa Giêsu là có can đảm từ bỏ tất cả: từ bỏ tội lỗi, từ bỏ kiểu cách sống trái với Tin Mừng yêu thương, từ bỏ tâm thức hẹp hòi ích kỷ, từ bỏ những người thân thương và từ bỏ chính mạng sống của mình nữa. Nhưng tất cả những từ bỏ ấy chỉ có ý nghĩa khi chúng ta chọn Chúa Giêsu và tiến bước theo Ngài. Và đó chính là sự khôn ngoan đích thực của chúng ta.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Đặt câu hỏi không đúng

Đức Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm phần gia nghiệp?”

Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: “Anh chỉ thiếu một điều, là hãy đi bán hết những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” (Mc. 10, 17. 21)

Người giầu có này đặt cho Chúa một câu hỏi kiểu người có óc kinh doanh: “Thưa Thầy, tôi phải đặt gía nào để được thừa hưởng sự sống đời đời làm gia nghiệp?” Chúa Giêsu trả lời anh rằng Người không có tiền mặt trao đổi cho một vụ giao dịch như thế, và anh chàng “buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải” đã hoàn toàn mất giá trong một cuộc trao đổi thuộc loại như thế. Cũng như thể ta đem bánh trao đổi với chủ lò bánh để mua nhà của ông ta vậy. Bánh không thể đổi lấy cái nhà tuy là vật sở hữu nhưng đã tham dự vào cuộc sống của chủ lò bánh. Sự sống đời đời không phải để bán. Chẳng thể dùng tiền mà mua được sự sống ấy; trái lại phải rũ bỏ hết mọi khế sở hữu của mình. Nếu lòng ta để hết cả vào cái sở hữu của ta, thì sự sống đời đời dù là đẹp đẽ đến đâu, cũng sẽ trở nên lê thê, buồn chán, bởi lẽ những khát vọng của ta sẽ chẳng được thỏa mãn. Xem ra ý nghĩa của câu truyện là như vậy.

Bạn để lòng ở đâu, thì ở đó có nguồn vui

Khi nói ta không thể dùng những việc lành, việc thực hành các giới răn mà mua được Sự Sống, thì hoàn toàn không có ý khinh chê những hành động này và nếu vì nghèo đói mà ta chỉ mải mê lo cho cuộc sống vật chất này thì thật bất hạnh! Một việc thiện vẫn là một việc thiện cho dù nó không đáng hưởng một Sự Sống mà không gì xứng đáng. Việc tuân thủ luật pháp vẫn là cần thiết để sinh hoạt của con người được trôi chảy, mặc dầu việc tuân thủ kia không thể cho quyền (theo luật) được hưởng Sự Sống đời đời.

Rất nhiều khi chúng ta thường trình bày Chúa Giêsu như một nhà cách mạng đả kích trật tự xã hội, đang khi Người lại làm hết sức mình để ta phải nhận rằng thái độ trên đây không phải là sứ mệnh của Người. Có những giá trị nhân loại, dầu sao vẫn là những giá trị lớn như công bình, ý thức chia sẻ, dù rằng nó không có một giá trị đời đời. Người tín hữu sẽ tự bôi lọ mình khi không quan tâm đến những giá trị trên đây, viện lẽ rằng mình chỉ phải lo cho những gíá trị đời đời. Dầu sao, trong chính bản thân ta, chúng ta có những cái phải quan tâm để đưa tới mức hoàn thiện. Chúng ta đã chẳng có Mầu nhiệm Nhập thể của Chúa Giêsu để dạy ta làm người hoàn toàn và tuyệt vời sao. Uy thác hoàn toàn cho Chúa sứ mệnh sửa lại một nhân loại đã suy đồi, thiết tưởng là làm hại cho công trình sáng tạo vậy.

Nếu chúng ta được Chúa mời gọi bán hết của cải mà cho người nghèo để đi theo Chúa Giêsu, chính là để ta chọn một con đường mà những của cải này, dù tốt và cần đến đâu để ta sống ở trần gian, thì đều không cần thiết ở nơi ấy, nơi “trời mới đất mới.”

 

Suy Niệm 5: KHÔN NGOAN VÀ KHÔN DẠI! (Mc 10,17-27)

Trong một dịp nói chuyện với các tu sĩ, một linh mục lớn tuổi được đề nghị chia sẻ về kinh nghiệm cầu nguyện của chính ngài. Lúc đầu ngài không muốn vì e rằng rơi vào tình trạng khoe khoang, nhưng sau khi mọi người thuyết phục trong tinh thần đạo đức, ngài đã nhận lời. Ngài chia sẻ rất nhiều ý tưởng, nhưng điều đáng chú ý nhất, ngoài lời cầu nguyện cho mọi người, ngài dâng lời cầu nguyện cho chính mình. Ngài nói: “Tôi thường xin Chúa cho tôi được ơn khôn ngoan, yêu mến Lời Chúa, can đảm đón nhận đau khổ, trung thành với ơn gọi và được chết lành đang lúc có ơn nghĩa với Chúa”.

Thật vậy, người khôn ngoan theo lối hiểu của Kinh Thánh chính là khám phá ra ý nghĩa của cuộc đời, biết đặt cuộc đời mình trong thánh ý của Thiên Chúa chứ không phải tiền bạc, danh vọng và lợi thú… Biết tìm đến với kho tàng vĩnh cửu, chứ không bám víu và phụ thuộc vào những thứ mau qua, chóng hết ở đời.

Hôm nay, có một chàng thanh niên tốt lành đến để gặp Đức Giêsu nhằm xin Ngài chỉ cho con đường dẫn đến hạnh phúc. Thấy thế, Đức Giêsu đã đem lòng yêu mến và mời gọi anh đi theo mình trên con đường mà chính Ngài đang đi. Tuy nhiên, khi buộc phải để lại mọi sự cho người nghèo thì anh đã không dám và từ từ rút lui!

Như vậy, ơn cứu độ đã đến được với anh thanh niên này, nhưng anh đã để mất bởi sự tham lam, ích kỷ của mình. Anh ta đã coi tiền bạc, của cải là số một trong cuộc đời của anh, nên chính Chúa cũng không còn chỗ đứng nơi tâm hồn người thanh niên đáng thương này thì làm sao ơn cứu độ có thể đến được!

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết đặt bậc thang giá trị, và biết lựa chọn đúng để được hạnh phúc đời đời. Hãy cẩn trọng với vấn đề tiền bạc vì tiền bạc có thể sẽ là rào cản lớn chắn đường về trời nếu nó trở thành ông chủ.

Nếu bao lâu chúng ta vẫn còn chạy đua với đồng tiền, bất chấp mọi thủ đoạn để chiếm lĩnh, hay sống ích kỷ, dửng dưng với người nghèo khổ, thì bấy lâu lời mời gọi đánh đổi kho báu Nước Trời sẽ là lời mời gọi xa lạ với chúng ta.

Như thế, lẽ đương nhiên, chúng ta đánh mất kho tàng đích thực và trở thành người dại trước mặt Thiên Chúa vì: “Lợi lãi cả thế giới mà mất linh hồn thì còn ích gì?”.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết tìm đến với Chúa, vâng nghe và thực hành Lời Chúa, bởi Chúa chính là nguồn mạch khôn ngoan. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Theo Chúa phải khó nghèo

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Đức Giêsu nhấn mạnh đến sự chọn lựa của một người đi theo Chúa: chọn của cải trần thế hay kho tàng Nước Trời? Người thanh niên trong bài Tin Mừng là một người giầu có và giữ đạo đức từ thuở nhỏ. Nhưng khi Đức Giêsu đưa ra một điều kiện cao hơn là chia sẻ của cải cho người nghèo, thì anh ta chán nản bỏ đi. Đức Giêsu cho thấy: để được vào Nước Trời, không chỉ giữ đúng, giữ đủ lề luật, không làm gì hại đến ai như anh nhà giầu kia, mà còn phải thực thi bác ái. Vì chỉ ai sẵn sàng trở nên nghèo khó để mưu ích cho anh em, mới xứng đáng đón nhận ơn cứu độ.
  2. Nhìn lại cuộc sống của người thanh niên trong Tin Mừng hôm nay, xem ra anh ta quả là một người đạo hạnh, vì tuân giữ các giới luật của Thiên Chúa từ lúc còn nhỏ. Thái độ sống của anh khiến chúng ta phải kính nể. Do đó, ước muốn trở nên hoàn thiện của anh là một điều chính đáng.

Tuy nhiên, khát vọng trở nên hoàn thiện không chỉ là những điều phải tuân giữ như anh ta nghĩ, mà còn phải thể hiện một cách mạnh mẽ hơn và triệt để hơn, đó là dám đánh đổi tất cả để được sự hoàn thiện ấy. Đức Giêsu đã “đánh” vào điểm yếu của người thanh niên, khi Ngài đưa ra một cuộc “trao đổi” cho anh: bán tất cả tài sản để có một kho tàng khác; đổi cả một gia tài cả đời dành dụm để được một sự hoàn thiện, và đổi cái có trong tay lấy cái không thấy được. Kết quả, anh ta không dám đánh đổi. Anh đành rút lui. Vâng, tiền bạc có thể mua được nhiều thứ nhưng không thể mua được sự thánh thiện.

  1. Trong truyền thống Do thái, của cải giầu sang là bằng chứng sự hiện diện và chúc lành của Thiên Chúa, còn nghèo khổ là dấu chỉ xa cách Thiên Chúa và bị Ngài chúc dữ. Đức Giêsu sửa sai quan niệm duy vật đó của người Do thái, bằng cách đảo lộn bậc thang giá trị của tâm thức trần gian. Thánh Matthêu và Luca trình bầy điều đó trong Hiến chương Nước Trời hay Tám mối phúc thật, còn thánh Marcô thì lồng khung nó trong con đường của Đức Giêsu tiến về thập giá và Núi Sọ, trên con đường ấy thái độ sống đúng đắn nhất, đó là tín thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa và Lời Ngài.
  2. Đức Giêsu không dạy chúng ta khinh thường của cải trần gian, nhưng Ngài chỉ khuyến cáo chúng ta rằng của cải trần gian có thể là một chướng ngại trầm trọng cho ơn cứu rỗi. Khi nó không được dùng để phục vụ tha nhân, thì của cải có thể trở thành dụng cụ ích kỷ, nguồn gốc của bất chính hoặc phô trương lừa gạt. Của cải có thể trở thành sự dữ, khi nó khép kín con tim và tâm trí chúng ta trong ngục tù của ích kỷ và hưởng thụ, khi nó ngăn cản chúng ta sống yêu thương và quảng đại, khi nó không cho chúng ta sống hoàn toàn tự do khỏi mọi tù ngục trói buộc con người.
  3. Thực ra, Đức Giêsu không lên án người giầu có, cũng không chúc lành cho người nghèo. Bằng chứng: những người đàn bà thánh thiện đi theo Chúa, họ là những người giầu có, đem tiền của trợ giúp Ngài và các môn đệ trong công việc truyền giáo, họ đâu bị kết án? Cũng như khi Maria, em của Marta và chị của Lazarô, đem bình thuốc thơm mà Giuđa đánh giá đến 300 đồng (công nhật một người thợ thời ấy là một đồng). Ngài đi dự những bữa ăn sang trọng của người biệt phái giầu có (Lc 7,36-38) hay những người thu thuế có tiền (Lc19,1-10).

Vậy Chúa lên án những gì?

Ngài lên án những người không biết dùng tiền của, làm nô lệ cho tiền của.

Thật khó cho người giầu có thể trở nên một Kitô hữu chân thật khi họ coi đồng tiền là chúa tể. Điển hình là người thanh niên hôm nay, anh không dám hay không đành dấn thân theo chân Chúa, như Phêrô và các bạn  ông đã làm.

Truyện: Đứng trên của cải.

Có một người giầu có kia thường xuyên đến xưng tội với thánh Philipphê Nêri. Ông có nhiều tiền của, có thiện chí, nhưng ông vẫn cảm thấy mình không đạt được sự tiến bộ nào trên đường thiêng liêng. Từ chán nản đến thất vọng, cuối cùng ông bỏ cuộc và không trở lại xưng tội với thánh nhân nữa. Thấy ông đã lâu không đến xưng tội, thánh nhân tìm đến nhà ông để gặp ông. Sau một hồi trò truyện, ngài nhìn lên cây Thánh giá trên tường, ngài cân nhắc độ cao của Thánh giá rồi đề nghị với người đàn ông giầu có: “Ông là người cao lớn, ông thử với coi có tới Thánh giá không”. Ông đứng dậy giơ cánh tay lên cố với nhưng không thể nào chạm tới Chúa Giêsu trên Thánh giá. Bấy giờ thánh Philipphê dùng hết sức đẩy cái hòm tiền của người giầu đến bên cạnh ông và bảo ông hãy đứng lên trên cái hòm tiền để với tới cây Thánh giá. Ông làm theo ý thánh nhân và sờ được Chúa Giêsu trên Thánh giá. Sau đó ngài nói với ông: “Để có thể nắm lấy được Chúa Giêsu, để có thể tiến bộ trên đường thiêng liêng, chúng ta cần phải đứng trên tiền bạc của cải”.

Chúa Giêsu bảo chúng ta: hãy dùng tiền của và cư xử cách nào để đem lại ích lợi cho cuộc sống hôm nay, và đồng thời cũng đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau nữa.

 

Suy Niệm 7: Tinh thần từ bỏ

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Muốn được cứu độ, cần phải có ơn Chúa. Nếu chỉ cậy dựa vào sức tự nhiên và tiền của, ắt không thể được cứu rỗi. Chúa quả quyết: “Không có Ta, các con chẳng làm gì được”.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa hôm nay cho con thấy, vào Nước Trời là một việc khó. Cái khó ấy chính là lòng tham sân si. Người giàu cũng như kẻ nghèo, nam cũng như nữ, ai cũng có thể mắc vào cái khó này. Người giàu thì cứ muốn giữ của mãi, người nghèo thì cứ muốn mơ ước mãi, ít ai có tấm lòng từ bỏ.

Lạy Chúa, con nhớ lại hình ảnh vẽ một người đang hấp hối chết dữ. Kẻ lâm chung được thiên thần và các thánh bay đến bên cạnh tấp nập khuyên lơn van xin. Nhưng ông ta cứ quay mặt nhìn vào bị tiền. Giây phút cuối cùng ấy, thiên thần bản mệnh của ông phải che mặt khóc. Ông ta đã quá gắn bó với tiền của.

Chúa đòi hỏi mỗi người chúng con một cách. Chúa ban cho mỗi người một phương tiện để sống. Xin cho con luôn nhớ rằng sự đời này chóng qua. Quê hương thật của con là Nước Trời. Quê hương thật của con sẽ trường tồn mãi mãi. Và để con được vào quê hương này, xin cho con biết sẵn sàng từ bỏ mọi sự để theo Thánh Ý Chúa. Ngày con sinh ra, con trần truồng, không một đồng bạc dính thân. Trong cả cuộc sống, Chúa trao cho con hành trang tiền của và các tài sản. Nhưng ngày con giã từ trần thế, Chúa gọi con về với cả thân xác linh hồn con, mọi sự đời này được để lại cho trần gian, con sẽ ra đi tay không.

Lạy Chúa, còn ngày nào sống trên đời, xin Chúa cho con luôn sống trong tinh thần từ bỏ. Xin đừng để con vì của cải mà mất quê Trời. Chỉ có Chúa là gia nghiệp muôn đời của con. Amen.

Ghi nhớ: “Ngươi hãy đi bán tất cả gia tài rồi đến theo Ta”.

 

Suy Niệm 8: Người khôn ngoan thật sự

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

Trong truyền thống Kinh Thánh, vua Salomon vẫn được coi như mẫu người biết sống khôn ngoan, bởi vì nhà vua hiểu rằng ai có được khôn ngoan là chiếm hữu được bí mật, là chiếm hữu được ý nghĩa cuộc sống, và đó mới là kho tàng quý báu nhất. Người khôn ngoan như thế là người biết đặt vấn đề về ý nghĩa của đời mình, bởi vì có nhiều tiền bạc, danh vọng, quyền bính để làm gì, nếu sống mà không có lý tưởng và mục đích tuyệt đối để đeo đuổi, và bởi vì chỉ có cái đức mới theo con người sau cái chết và thực sự lợi ích cho con người.

Đây cũng là ý nghĩa của trình thuật kể lại cuộc đối thoại giữa Chúa và người thanh niên giàu có, như được ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay.

Trong truyền thống Do Thái, của cải giàu sang là bằng chứng sự hiện diện và chúc lành của Thiên Chúa, còn nghèo khổ là dấu chỉ xa cách Thiên Chúa và bị Ngài chúc dữ. Chúa Giêsu sửa sai quan niệm duy vật đó của người Do Thái, bằng cách đảo lộn bậc thang giá trị của tâm thức trần gian. Thánh Matthêu và Luca trình bày điều đó qua Hiến chương Tám Mối Phúc Thật, còn thánh Máccô thì lồng khung nó trong con đường của Chúa Giêsu tiến về Thập Giá và Núi Sọ, trên con đường ấy thái độ sống đúng đắn nhất, đó là tín thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa và Lời Ngài.

Qua cuộc đối thoại với người thanh niên giàu có, Chúa Giêsu cho thấy việc tuân giữ lề luật mà thôi không bảo đảm cho ơn cứu rỗi của con người. Muốn được ơn cứu rỗi, phải chia sẻ của cải cho người nghèo khó để được phần trên trời và bước theo Chúa Giêsu. Nói khác đi, đối với Chúa Giêsu, việc tuân giữ luật lệ không đủ để được ơn cứu rỗi, cần phải sống tin yêu, phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa, nghĩa là có được kho tàng trên trời, và yêu thương tha nhân bằng cách cho đi những gì mình có, dù đó là của cải vật chất hay tinh thần.

Chúa Giêsu không dạy chúng ta khinh thường của cải trần gian, nhưng Ngài chỉ khuyến cáo chúng ta rằng của cải trần gian, có thể là một chướng ngại trầm trọng cho ơn cứu rỗi, khi nó không được dùng để phục vụ tha nhân, thì của cải có thể trở thành dụng cụ của ích kỷ, nguồn gốc của bất chính hoặc phô trương lừa gạt. Của cải có thể trở thành sự dữ, khi nó khép kín con tim và tâm trí chúng ta trong ngục tù của ích kỷ và hưởng thụ, khi nó ngăn cản chúng ta sống yêu thương và quảng đại, khi nó không cho chúng ta sống hoàn toàn tự do khỏi mọi tù ngục trói buộc con người.

Lời mời gọi của Chúa Giêsu: Hãy bán của cải, chia cho người nghèo, rồi đi theo Ngài, là một lời mời gọi cách mạng, có sức biến đổi thế giới. Theo Chúa Giêsu là có can đảm từ bỏ tất cả: từ bỏ tội lỗi, từ bỏ kiểu cách sống trái với Tin Mừng yêu thương, từ bỏ tâm thức hẹp hòi ích kỷ, từ bỏ những người thân thương và từ bỏ chính mạng sống của mình nữa. Nhưng tất cả những từ bỏ ấy chỉ có ý nghĩa khi chúng ta chọn Chúa Giêsu và tiến bước theo Ngài. Và đó chính là sự khôn ngoan đích thực của chúng ta.

 

Suy Niệm 9: Lý tưởng sống của người theo Chúa

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay là một trong những câu chuyện gây nhiều ấn tượng trong toàn bộ Tin Mừng.

Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã có lần lấy bài Tin Mừng này làm đề tài để chia sẻ với các người trẻ trên thế giới về lý tưởng sống của một người theo Chúa.

Rõ ràng Tin Mừng hôm nay đặt người thanh niên này cũng như chúng ta vào tư thế phải chọn lựa: Theo Chúa hay là theo của cải.

Câu chuyện ban đầu thật tốt đẹp. Anh ta đã chạy đến với Chúa, rồi quì dưới chân Chúa. Một chàng thanh niên giàu có, quí phái quì xuống trước mặt nhà tiên tri người Nazareth không một xu dính túi. Anh ta hỏi Chúa về những việc phải làm để có được sự sống đời đời.
Chúa đã nêu ra các điều răn vốn là nền tảng của một đời sống đạo đức, đáng kính trọng. Chàng thanh niên nọ đã không chút do dự đáp ngay rằng, mình đã giữ trọn tất cả từ thuở nhỏ.
Đối với cái nhìn của một con người thì được như thế quả đã là quá tốt rồi. Thế nhưng, đối với Chúa thì chưa đủ. Ngài muốn anh dấn thân một cách trọn vẹn hơn, bằng một đời sống biết chia sẻ những gì mình có cho những người nghèo khó. Nhưng người thanh niên đã không dám chấp nhận và rồi anh đã bỏ đi.

Và chính trong bối cảnh này mà Chúa đã nói: “Người giàu có khó vào Thiên Đàng biết bao. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Chúa” (Mc 10,24).

Vâng! Của cải vật chất như một con dao hai lưỡi. Cái nguy hiểm đầu tiên là nó làm cho con người muốn gắn chặt tấm lòng của mình vào đời tạm này, mà quên đi cuộc sống mai sau. Và nếu mối bận tâm chính yếu của con người chỉ là việc chiếm hữu của cải vật chất càng nhiều càng tốt, thì sớm muộn gì nó cũng khiến người ta nhìn mọi sự trên đời này bằng khuynh hướng lượng giá. Họ sẽ căn cứ vào sự giàu có sang trọng để đánh giá một con người, hơn là căn cứ vào những giá trị tốt đẹp để đánh giá con người đó.

Nếu mối bận tâm chính yếu của một người là của cải vật chất, thì người ấy sẽ chỉ biết có giá cả mà không biết đến giá trị. Người ấy chỉ biết nghĩ đến những gì người ta có thể mua bán bằng tiền bạc, chứ không biết rằng, có những giá trị ở đời người ta không thể nào mua bán bằng tiền bạc được.
George Horace Lorimer, chủ bút tờ Saturday Evening Post trong nhiều năm, có lần viết: “Có tiền và có những cái mua bằng tiền là tốt. Nhưng nếu biết dùng tiền và đừng để mất những thứ tiền không mua được còn tốt hơn “.

Có thể kể ra những thứ sau đây mà tiền không mua được:

Tiền không mua được tình bạn chân thực.

Tiền không mua được lương tâm trong sạch.

Tiền không mua được niềm vui mạnh khỏe.

  1. Chúng ta hãy cố gắng sống siêu thoát để cho cuộc sống được thanh thản hơn.
    Một chàng sinh viên vừa nhận được một phần thưởng. Lúc bước ra tới cổng thì gặp một người đàn bà với dáng vẻ tiều tụy.

– Chú ơi! Chúc mừng chú, thật vinh dự cho chú đã đạt được giải nhất trong cuộc thi khó khăn này. Tôi có một chuyện muốn nói với chú nhưng không biết có tiện không. Nếu chú có con nhỏ chú mới hiểu được điều tôi sắp nói. Con của tôi đang bị ung thư nặng nằm trong bệnh viện, nếu không có một khoản tiền để mổ, chắc em nó không qua khỏi được! Mà nhà tôi thì… không thể lo được một khoản tiền lớn đến như vậy…

– Thế bác cần bao nhiêu? – Anh sinh viên nhìn bà hỏi, lòng cảm thông thật sự.

 Sau khi nghe người phụ nữ kể hết sự việc, anh liền rút phong bì đựng số tiền vừa được thưởng và trao hết cho bà.

– Cầu mong cho con bác qua được hiểm nguy. Bác về lo cho em ấy ngay đi.

– Cảm ơn chú, không biết tôi phải lấy gì mà đền ơn chú đây.

Nói rồi, người phụ nữ với vẻ xúc động bước ngay ra cổng.

Vài ngày sau anh có dịp quay lại trường. Một người trông thấy liền tiến tới hỏi:

– Có người kể với tôi, mấy hôm trước anh có gặp một người phụ nữ sau cuộc thi, và anh đã cho bà ấy tiền để chữa bệnh cho đứa con sắp chết của bà ấy, phải không?

Người thanh niên gật đầu xác nhận.

– Vậy thì tôi phải báo với anh tin này để anh biết, bà ta là một tay lừa đảo thật sự đấy. Bà ta chẳng có đứa con nào bị bệnh gần chết cả. Anh cả tin quá! Anh bị lừa rồi, anh bạn ạ!

Một thoáng im lặng, anh thanh niên hỏi lại:

– Có thật là không có đứa bé nào bị bệnh gần chết cả, đúng không?

– Đúng vậy. Tôi bảo đảm là như thế – người đàn ông quả quyết

– Ồ đó là tin tốt lành nhất trong ngày mà tôi được biết đấy – người thanh niên nói.

Đoạn anh nói thêm:

– Chúng ta nên ăn mừng vì không có đứa trẻ nào phải chết cả.

 

 

 

THỨ BA TUẦN 8 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Mc 10, 28-31

Khi ấy, Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Ðây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy?”

Chúa Giêsu trả lời rằng: “Thầy bảo thật các con, chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đồng ruộng vì Thầy và vì Phúc Âm, mà ngay bây giờ lại không được gấp trăm ở đời này về nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái và ruộng nương cùng với sự bắt bớ, và ở đời sau được sự sống vĩnh cửu. Nhưng có nhiều kẻ trước nhất sẽ nên rốt hết, và những kẻ rốt hết sẽ nên trước nhất”.

 

Suy Niệm 1: Bỏ mọi sự vì Thầy

Suy niệm:

Bình thường con người làm gì cũng ít nhiều nghĩ đến cái lợi cho mình.

Không lợi vật chất thì cũng lợi tinh thần.

Không lợi đời này thì cũng lợi đời sau.

Không lợi cho cá nhân mình

thì cũng lợi cho gia đình mình, tôn giáo của mình, quê hương của mình.

Con người dám hy sinh bỏ cái này để được cái kia lớn hơn.

Nếu biết giữ cho đúng mực, khuynh hướng này không phải là xấu.

Anh thanh niên giàu có đã không dám bán và cho tất cả tài sản

để nhẹ nhàng thanh thản bước theo Thầy Giêsu.

Đối với anh, cái mất ở đời này lớn quá so với cái được ở tương lai.

Ngược lại, các môn đệ đã bỏ gia đình và nghề nghiệp ổn định

để đi theo một vị Thầy không chỗ tựa đầu,

sống cuộc sống bấp bênh, vất vả, thiếu thốn.

Khi nghĩ về cuộc sống hiện tại của cả nhóm đang theo Thầy,

Phêrô đại diện anh em đặt câu hỏi:

“Phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy!” (c. 28).

Vậy chúng con sẽ được gì? (x. Mt 19, 27).

Thầy Giêsu không coi thường hay gạt bỏ câu hỏi này của Phêrô.

Thầy còn muốn long trọng trả lời câu hỏi này

cho cả những người ở thế hệ kế tiếp.

Bất cứ ai vì Thầy và vì Tin Mừng

mà bỏ những điều được coi là thiết yếu đối với cuộc sống

như tương quan máu mủ: cha mẹ, anh chị em, con cái,

như phương tiện để sống và sống còn: nhà cửa, ruộng đất (c. 29),

những người ấy, ngay bây giờ, ở đời này,

sẽ được gấp trăm về những điều đã mất.

Hơn nữa, họ còn được sự sống vĩnh cửu ở đời sau (c. 30),

điều mà anh thanh niên giàu có mơ ước.

Nhưng Thầy cũng không giấu những bách hại đang chờ đợi họ.

Hẳn các môn đệ sau khi theo Chúa đã chẳng có thêm nhà đất, vợ con.

Nhưng họ đã thuộc về một cộng đoàn rộng lớn hơn gia đình xưa của họ.

Nơi cộng đoàn Kitô này, gia đình nào cũng là nhà của họ,

mảnh đất nào cũng là nơi họ gắn bó thân quen như của mình.

Và rõ ràng họ có nhiều anh chị em và con cái hơn xưa.

Hạnh phúc đến ngay từ đời này khi con tim và vòng tay rộng mở.

Hạnh phúc này chỉ là hưởng trước chút hạnh phúc đời sau.

Người kitô hữu hôm nay sống ở thế kỷ hai mươi mốt

cũng có lúc nghĩ về cái mất, cái được của việc một đời theo Giêsu.

Chúa Giêsu đòi chúng ta đặt mọi sự dưới Ngài và sau Ngài.

Điều đó kéo theo những từ bỏ đớn đau, những thập giá thầm lặng.

Theo Giêsu, chúng ta thấy mình phải bỏ thế gian với bao quyến rũ.

Theo Giêsu, chúng ta thấy mình không thể chiều theo cái tự nhiên.

Nhưng theo Giêsu, chúng ta được điều lớn hơn cả.

Đó là chính Giêsu.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa,

khi đến với Chúa

con tháo bỏ đôi giày: những tham vọng của con

con cởi bỏ đồng hồ: thời khóa biểu của con,

con đóng lại bút viết: các quan điểm của con,

con bỏ xuống chìa khóa: sự an toàn của con,

để con được ở một mình với Ngài,

lạy Thiên Chúa duy nhất và chân thật.

Sau khi được ở với Ngài,

con sẽ xỏ giày vào

để đi theo đường của Chúa,

con sẽ đeo đồng hồ

để sống trong thời gian của Chúa,

con sẽ đeo kính vào

để nhìn thế giới của Chúa,

con sẽ mở bút ra

để viết những tư tưởng của Chúa,

con sẽ cầm chìa khóa lên

để mở những cánh cửa của Chúa. Amen. (Graham Kings)

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

Suy Niệm 2: PHẤN ĐẤU VÌ NIỀM HY VỌNG

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúa Ki-tô là niềm hy vọng. Đó là điều các tiên tri loan báo từ ngàn xưa: ngày Chúa Ki-tô sẽ tỏ hiện. Bằng chịu đau khổ và đạt tới vinh quang. Nhưng thánh Phê-rô cho biết, để niềm hi vọng trở thành hiện thực, cần phải có thái độ tích cực chuẩn bị. Muốn mục đích phải muốn phương tiện. Muốn được thấy Chúa Ki-tô tỏ hiện, phải từ bỏ lối sống xưa cũ theo xác thịt để sống một đời sống mới theo thần khí, tiết độ, từ bỏ bản thân.”Đừng chiều theo những đam mê trước kia, lúc anh em còn mê muội. Anh em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, đên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em” (năm chẵn).

Sách Huấn ca hướng dẫn cách bày tỏ niềm hy vọng bằng việc từ bỏ. Trước hết là từ bỏ tội lỗi. “Từ bỏ gian tà thì đẹp lòng Đức Chúa. Chấm dứt bất công là dâng lễ đền tội”. Kế đến là từ bỏ đường tà. Đi theo đường ngay chính. Đó là tuân giữ Lề Luật của Chúa. “Tuân giữ Lề Luật là làm cho lễ phẩm thêm phong phú. Gắn bó với lệnh truyền là dâng lễ kỳ an”. Và sau cùng từ bỏ của cải. Dâng của lễ trọng hậu lên Chúa. Nhưng cũng phải dâng với tấm lòng quảng đại. Và nhất là với nét mặt vui tươi. Chắc chắn Chúa sẽ hài lòng. Và sẽ ban lại cho gấp bội. Đó chính là niềm hy vọng. “Hãy tôn vinh Đức Chúa với tấm lòng quảng đại…Dâng cúng chi, cũng phải giữ nét mặt tươi cười; dâng hiến của thập phân, hãy hân hoan vui vẻ. với tấm lòng quảng đại, hãy dâng hiến Đấng Tối cao, tuỳ theo nhưng gì Người ban tặng và tuỳ theo khả năng con có. Vì Đức Chúa là Đấng thưởng công, sẽ trả lại cho con gắp bảy lần” (năm lẻ).

Thánh Phê-rô cũng chính là người hỏi Chúa Giê-su về niềm hi vọng: Chúng con đã bỏ hết mọi sự mà theo Thầy, chúng con sẽ được gì bù lại? Chúa Giê-su không ngần ngại loan báo trước niềm hi vọng: Các con sẽ được lại gấp trăm.

Niềm hi vọng là được thấy Chúa tỏ hiện, được hưởng hạnh phúc trong Nước Chúa. Nhưng cần phải trải qua giai đoạn thanh luyện bằng từ bỏ. Địa vị trong Nước Chúa không được sắp xếp, đo lường bằng chức vị trong Giáo hội hay bằng thời gian theo Chúa, nhưng bằng mức độ từ bỏ. Càng từ bỏ nhiều thì càng gần Chúa. Càng gần Chúa thì càng hạnh phúc. Có những người theo Chúa đã lâu, nắm giữ những địa vị cao trọng trong Giáo hội, nhưng mức độ từ bỏ chưa cao. Trong khi có những người mới theo Chúa, giữ địa vị thấp kém trong Giáo hội, nhưng mức độ từ bỏ lại cao hơn. Vì thế Chúa Giê-su cảnh báo: “Quả thật, nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, còn những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu”.

 

Suy Niệm 3: Phần thưởng gấp trăm

Bài Tin Mừng hôm nay tiếp liền những lời dạy của Chúa Giêsu cho các môn đệ về sự nguy hiểm của tiền của. Sau khi người thanh niên rời lìa Chúa, vì anh ta không thể từ bỏ của cải, Chúa Giêsu đã nói: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”. Ở đây rõ ràng Chúa Giêsu sử dụng kiểu nói khuyếch đại như người Ðông phương thường dùng để kích thích sự chú ý. Hình ảnh con lạc đà chở nặng trên mình cho thấy sự say mê dính bén tiền của là một ngăn trở không cho con người trở thành môn đệ đích thực của Chúa Giêsu.

Trước sự sửng sốt của các môn đệ: “Thế thì ai có thể được cứu?”, Chúa Giêsu xác quyết rằng ơn cứu độ hoàn toàn vượt quá những khả năng của loài người; đó là một ơn nhưng không của Thiên Chúa, vì chỉ mình Ngài mới có thể cứu độ con người. Nhưng quan điểm này còn khiến các môn đệ hoang mang hơn. Bằng chứng là phản ứng của Phêrô. Nhân danh Nhóm Mười Hai, ông thắc mắc muốn biết sự dấn thân của các ông có được thưởng gì không? Chẳng lẽ lòng quảng đại của các ông lại vô ích sao? Nếu những người giàu có, mặc dù nhiều của cải không thể vào Nước Thiên Chúa đã đành, còn những người đã từ bỏ những của cải hợp pháp nhất, liệu họ không có cơ may được vào đó được sao?

Trả lời cho câu hỏi của Phêrô, Chúa Giêsu hứa ban gấp trăm ngay ở đời này và đời sau được hưởng sự sống đời đời. Kiểu nói “gấp trăm ở đời này” cần được hiểu theo nghĩa phẩm chất hơn là theo nghĩa số lượng: từ bỏ cha mẹ không có nghĩa là để được một trăm cha mẹ ngay ở đời này, nhưng là để được điều quý giá hơn cha mẹ, đó là cộng đoàn anh em sống hiệp nhất với nhau trong đức tin. Trong câu trả lời của Chúa, cần lưu ý một chi tiết, đó là ngoài những gì nhận được bây giờ, còn có sự bách hại nữa. Bị bách hại, bị ngược đãi là vận mệnh của người môn đệ; bước theo Chúa là chấp nhận phiêu lưu với Ngài trên con đường sống đức tin với những đau khổ, thử thách không thể tránh được.

Nguyện xin Chúa ban sức mạnh tình yêu để chúng ta sống trọn ơn gọi và chu toàn sứ mệnh Chúa đã trao phó.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Phần thưởng gấp trăm

Ông Phê-rô lên tiếng thưa Người: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy!” Đức Giêsu đáp: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái, ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà bây giờ ngay ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống đời đời ở đời sau.” (Mc. 10, 28-30)

Ai mà đã không có lần mơ tưởng đến phần thưởng gấp trăm ấy được hứa cho những ai từ bỏ tất cả: ly kỳ nữa là được cả một lô mẹ, anh em, chị em, nhà cửa… nhưng, ôi thôi!, lại cùng với sự ngược đãi nữa chứ? Giống như việc mua bán ở chợ, còn gì hấp dẫn cho bằng “bán chạy như tôm tươi”. Mơ ước hình như chưa bao giờ thực hiện được, ít ra là đối với những ai đã chơi bài. Sẽ được thực hiện ở thế giới bên kia không? Chẳng ai đã khẳng định điều đó bao giờ. Chẳng có gì ngạc nhiên, khi họa hoằn mới có những người dám đánh cuộc, một cái nắm trong tay còn hơn một trăm cái chưa có là vậy.

Hãy mở rộng nhãn giới của ta

Lời hứa như thế cho Phêrô và những người giống như ông là một lời hứa có tính tiên tri liên quan tới tương lai của cộng đồng các Kitô hữu sẽ sống những gía trị mà Chúa Giêsu đã loan báo. Không phải là loan báo thưởng gấp trăm lần hơn những gì người ta sẽ từ bỏ, nhưng là sự mô tả trước về những cộng đoàn sẽ sinh ra từ những ai sẽ mở rộng tâm hồn của họ tới chiều kích toàn cầu, những ai mà tình huynh đệ và yêu thương của họ sẽ không đóng khung trong gia đình, quê hương hay cục bộ, nhưng vươn tới hết mọi người bất kỳ họ là ai và ở nơi nào. Ở đây, chúng ta có được bài miêu tả có tính tiên tri về Giáo hội, và đại gia đình nhân loại, nơi đây tình huynh đệ và quyền sở hữu của cải sẽ không bị một quyền độc đoán nào khác giới hạn.

Giáo hội, gia đình của các con cái Thiên Chúa sẽ chỉ đạt được sự hoàn thiện tròn đầy, trọn vẹn ngày mà chúng ta sẽ chỉ là một trong Chúa Kitô, ngày mà người ta gọi là ngày sau hết, ngày thế mạt. Giáo hội ấy, cộng đồng không biên giới ấy, đã được thể hiện hôm nay trong những cơn bách hại, trong đau khổ của thập giá, nhưng cũng đang được hân hoan khi đi theo con đường Chúa đã đi và sống theo đường lối Đức Kitô đã muốn.

Giáo hội ấy, cộng đồng của những người anh em thuộc mọi chủng tộc, với những mái nhà đủ kiểu, với những môi trường văn hóa muôn vẻ thật đúng là phần thưởng gấp trăm đầy phấn khich cho những người biết sông yêu thương.

Giáo hội ấy có bành trướng không phải là để loại trừ những cộng đồng địa phương; mà sự bành trướng có chiều kích toàn cầu ấy còn bị những tâm hồn hẹp hòi ích kỷ tranh giành và bách hại vì nghĩ rằng họ sẽ bị tổn thương.

 

Suy Niệm 5: THEO CHÚA TA ĐƯỢC GÌ? (Mc 10,28 –31)

Sự nguy hiểm của tiền bạc đã làm cho người thanh niên có tiếng là đạo đức lầm lũi ra đi, vì tiền của anh ở đâu thì lòng anh ở đó!

Thật là một sự xót xa cho số phận chàng thanh niên giàu có này! Thấy được sự nguy hiểm như vậy, nên  tiếp theo đó, Đức Giêsu đã thốt lên với các môn đệ: “Người giàu có khó vào Nước Thiên Chúa biết bao”; “Con lạc đà chiu qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”.

Nghe đến đây, các môn đệ hiểu được sự nguy hiểm của tiền của, tuy nhiên, nó đã làm cho các ông hoang mang, bởi vì khó như thế thì có lẽ không ai vào được! Vì vậy, Phêrô đã đứng lên thay lời anh em và thưa với Đức Giêsu rằng: “Thế thì ai có thể được cứu?”; “Và chúng con đã bỏ mọi sự để đi theo Thầy thì được gì?”. Để giải thoát cho các ông về sự lo lắng này, Đức Giêsu đã mặc khải cho các ông biết: đối với loài người thì không thể làm được, nhưng đối với Thiên Chúa thì hoàn toàn có thể. Vì ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa chứ không phải đến từ cố gắng hay phấn đấu thuần túy của con người. Nhân đây, Đức Giêsu cũng nói rõ để các môn đệ nhận ra những ân huệ mà Chúa ban cho những ai trung thành với Ngài, đó là sự sống đời sau.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết trung thành đi trên con đường Chúa đã đi, để chúng con gặp được Chúa là nguồn bình an, hạnh phúc ở cuối con đường cuộc đời trần gian. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Phần thưởng cho môn đệ

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Sau khi người thanh niên giầu có bỏ Chúa mà đi, Phêrô liền hỏi Đức Giêsu: chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, chúng con sẽ được lại gì? Chúa đáp: Thầy bảo thật, ai bỏ cửa nhà, cha mẹ, con cái, ruộng vườn vì Thầy và vì Phúc âm, thì ngay ở đời này sẽ được lại gấp trăm cùng với các cơn bắt bớ, và ngày sau sẽ được sống đời đời, vì ai theo Thầy sẽ lật ngược được mọi giá trị ở đời: Ai bỏ đi thì được lại, ai ở sau thì trở nên trước.
  2. Khi nói tới hai chữ “từ bỏ”, tức là không còn hoặc mất đi một cái gì đó mà trước đây mình đã có hay đã sở hữu. Tâm lý con người thường không chịu thua thiệt, luôn luôn đòi hỏi sự cân xứng, hoặc “có qua có lại mới toại lòng nhau”. Thánh Phêrô đã hỏi Chúa thay cho chúng ta: Từ bỏ mọi sự, theo Ngài chúng con sẽ được gì?

Nhìn chung khi làm bất cứ việc gì có thể là tốt, có thể là xấu, thì điều đầu tiên mà ai cũng nhắm đến, đó là phải có lời, có lợi.

Sau khi đưa ra một loạt những việc từ bỏ: cha mẹ, anh em, ruộng vườn, nhà cửa… Đức Giêsu khẳng định sẽ trọng thưởng gấp trăm ngay ở đời này cùng với sự ngược đãi, nhất là được sự sống đời đời mai ngày.

  1. Trả lời câu hỏi của Phêrô, Đức Giêsu hứa ban gấp trăm ngay ở đời này và đời sau được hưởng sự sống đời đời. Kiểu nói “gấp trăm ở đời này” cần được hiểu theo nghĩa phẩm chất hơn là theo nghĩa số lượng: từ bỏ cha mẹ không có nghĩa là để được một trăm cha mẹ ngay ở đời này, nhưng là để được điều quí giá hơn cha mẹ, đó là cộng đoàn anh em sống hiệp nhất với nhau trong đức tin.

Nếu hiểu theo nghĩa đen, thì việc bỏ cha mẹ, anh em, chị em hay con cái, hoặc nhà cửa và ruộng đất mà theo Chúa xem ra không bình thường, thậm chí còn mất tính nhân bản, hay đi ngược lại với nền giáo dục gia đình nữa. Thực ra, phải hiểu là Đức Giêsu mời gọi chúng ta luôn biết chọn Chúa làm ưu tiên số một, những điều khác là thứ yếu. Những gì ở đời này chỉ là tạm bợ, chóng qua, chỉ có Chúa mới là vĩnh cửu. Đức Giêsu không muốn chúng ta quá bám víu vào vật chất, tiền bạc để rồi khước từ Nước Thiên Chúa.

  1. Đừng bắt cá hai tay (tục ngữ).

Có nghĩa là đừng tham lam, hai tay bắt hai con cá, như thế chẳng bắt được gì. Về vấn đề này, Đức Giêsu đã nhiều lần cảnh cáo trong suốt thời gian rao giảng Tin Mừng: “Các ngươi không thể phục vụ Thiên Chúa và tiền tài cùng một lúc (x.Lc16,13). Người giầu có thể đi đến chỗ không cần Thiên Chúa nữa. Họ từ từ đóng cửa con tim và không còn thấy anh em của mình đang đau khổ bên cạnh mình (Lc 16,19-31). Sự giầu sang bóp nghẹt Lời Chúa (x.Mt 13,22).

Truyện: Con lừa trước sự lựa chọn.

Ông viện trưởng đại học Paris ở thế kỷ 14 đã làm một thí nghệm như sau: ông để cho một con lừa nhịn đói, nhịn khát trong mấy ngày. Sau đó, ông đưa nó đến sân ăn, ông đặt nó giữa một thùng nước và một bó cỏ non. Lừa ta tuy đói lắm nhưng hễ nhìn đống cỏ này lại ngó thùng nước kia, nó lưỡng lự giữa nước và cỏ, để rồi cuối cùng kiệt sức mà chết.

Cuộc sống không ngừng đòi hỏi chúng ta phải lựa chọn, và chọn lúc nào cũng đòi hỏi hy sinh. Kẻ bắt cá hai tay vẫn luôn luôn là người thua thiệt nhiều nhất. Hãy nhớ lại Lời Chúa đã phán: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ kia. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” (Mt 6,24).

  1. Kẻ sau hết sẽ nên trước hết…

Đức Giêsu nói: “Kẻ đứng đầu sẽ nên sau chót, và kẻ sau chót sẽ lên hàng đầu”. Trước hết phải hiểu sự ám chỉ về dân Do thái tự phụ là những người biết Thiên Chúa trước, nhưng rồi chính họ lại tự đánh mất cơ hội nhận ra Tin Mừng nơi Người.

Ngoài ra, câu nói này, Đức Giêsu muốn chúng ta đừng bao giờ ỷ lại, hay chểnh mảng trong nhiệm vụ, nhưng phải luôn hy sinh cố gắng và kiên trì trên bước đường theo Chúa. Ở đời tốt xấu trở như bàn tay. Có khi trước đây họ là người tội lỗi xấu xa, nhưng giờ họ lại ăn năn hối lỗi và có đời sống đạo đức tốt lành. Trái lại, có những người trước đây là tốt lành thánh thiện, nhưng giờ họ lại bê tha, tội lỗi, xấu xa.

  1. Truyện: Hoàng tử và thanh kiếm.

Vua Charles một lần kêu hoàng tử và cho hoàng tử được chọn. Trên bàn vua đặt một thanh kiếm và một vương miện (triều thiên). Vua hỏi:

– Con chọn cái nào?

Ngần ngừ một lúc hoàng tử cầm lấy thanh kiếm.

Vua cha hỏi:

– Sao con lại chọn thanh kiếm?

Hoàng tử cầm thanh kiếm chỉ vào vương miện đáp:        

– Nhờ thanh kiếm này, con sẽ được vương miện kia.

 

Suy Niệm 7: Từ bỏ để được gấp trăm

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa sẽ thưởng bội hậu cho những ai từ bỏ mọi sự vì Chúa. Nhưng phần thưởng cao cả nhất là được chung số phận đau khổ và sự sống vinh quang với Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trên hành trình đi theo Chúa, đã có những lúc con tự hỏi như thánh Phêrô: con từ bỏ mọi sự mà theo Chúa, vậy con sẽ được phần thưởng gì ? Vì Chúa, con đã hy sinh bỏ mình, đã ép mình ép xác giữ các giới răn. Vì Chúa, con chấp nhận bị thua lỗ thiệt thòi, thậm chí bị nhạo cười khổ đau. Nhưng con sẽ được gì để bù lại ? Nhất là nhiều lúc con nhìn thấy những người sống bất nhân thất đức lại gặp nhiều may mắn thành công sung sướng, còn con theo Chúa lại gặp khổ đau thất bại nghèo đói. Dường như theo Chúa là dại khờ.

Lạy Chúa, không, con không tin như vậy. Chúa đã hứa ban phần thưởng gấp trăm cho con ngay từ đời này. Dù con không thấy được rõ ràng điều ấy, nhưng con tin cuộc sống con hôm nay là điều quá tốt đẹp mà Chúa đang thưởng cho con. Chúa luôn ban cho con gấp trăm ngàn lần điều con không dám cầu xin hay nghĩ tới. Chúa vẫn luôn quảng đại với con hơn con đáng được.

Lạy Chúa là gia nghiệp con, xin cho con cảm nếm niềm hạnh phúc theo Chúa và đồng số phận với Chúa. Xin ban cho con một đức tin vô vị lợi, được theo Chúa vô điều kiện, không mặc cả, không tính toán.

Cùng với thánh I-nhã, con xin Chúa dạy con biết sống quảng đại, biết phụng sự Chúa cho xứng đáng, biết cho đi mà không cần tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích, biết làm việc mà không tìm an nghỉ, biết xả thân mà không mong tìm một phần thưởng nào khác, hơn là biết làm theo Ý Chúa. Con chỉ xin Chúa ban tình yêu và ân sủng, và thế là đủ cho con. Amen.

Ghi nhớ: “Ngay ở đời này, lúc bị bắt bớ, các con lãnh được gấp trăm, còn đời sau các con sẽ được sự sống vĩnh cửu”.

 

Suy Niệm 8: Gấp trăm lần

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

“Quả thật, ta bảo các ngươi: không ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em hay cha mẹ, con cái, ruộng nương vì Ta và vì Tin Mừng mà lại không lĩnh gấp mấy trăm lần bây giờ” (c.30)

Chúa Giêsu cho chúng ta thấy giá trị thực sự của tiền tài và tình yêu mà người Do Thái cho là nhất, là được chúc phúc. Giờ đây, Chúa đưa ra một giá trị thiêng liêng cao cả vượt trên những thứ đó. Chúa bảo: “Ai từ bỏ cha mẹ ruộng nương… lại không nhận được… gấp trăm”: lời gấp trăm đây không phải là về số lượng toán học, nhưng Chúa muốn so sánh cái hạnh phúc Chúa dành cho kẻ từ bỏ mọi sự theo chân Ngài, được một hạnh phúc mà người đó không thể ngờ được ở trên Trời – nơi có đông đảo các thánh và triều đình thiên quốc, nơi đã ghi tên họ, đã dành phần sẵn cho họ.

Chữ gấp trăm lần đây còn hiểu là họ sẽ được thử thách gấp bội – mà trong Bát Phúc đã nói tới (Mt 5,11-12), vì môn đệ không trọng hơn thầy mình được. Nhưng sau khi vượt qua những thử thách ấy, họ sẽ được hạnh phúc gấp trăm lần là Nước Trời.

Điều kiện đạt được hạnh phúc ấy trước tiên là việc từ bỏ. Chúa bảo Phêrô, cũng như các môn đệ phải theo Ngài vô điều kiện. Chúa dùng ví dụ so sánh là bầy cáo có hang để trú ẩn trong giờ nguy hiểm, vào lúc trời lạnh giá, mưa sa. Chim trời có tổ sau những ngày mỏi cánh. Nhưng Chúa nói: “Con người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8,18). Người môn đệ phải sống một đời hoàn toàn bất định và tạm thời, hiến thân trọn vẹn ngay khi không có gì, và khi bất an nhất. Người môn đệ phải lội ngược dòng suối để đi tìm về nguồn, phải vẫy vùng giữa dòng nước cuốn trôi để đi tìm về đại dương vĩnh cửu…

Nói tóm lại, người môn đệ của Chúa trước hết phải từ bỏ chính mình đi: ”Hạt lúa giống nếu không mục nát …” (Ga 12,24). Xin hãy nghĩ tới việc đời này: chính cái việc làm âm thầm của một bác nông phu đã chuẩn bị cho một ngày mùa cơm trắng đầy xôi. Chính sự nghiền nát của cối xay bột đã biến hạt lúa gạo thành bột làm bánh thơm lành. Một đứa trẻ chỉ xuất hiện trên đời sau bao nhiêu đau khổ của người mẹ. Chính cái dao mổ của y sĩ đã trừ diệt được căn bệnh. Tất cả minh chứng: từ bỏ để lời lãi mai sau.

Từ bỏ là con đường hẹp của Phúc Âm. Chính Chúa xác định như thế. Con đường của Chúa đã hẹp mà lại còn phải vác thập giá nữa, nên con đường phải vất vả vấp váp, giống như đầy khúc khuỷu, mô ụ, ổ gà. Nhưng cuối con đường ấy là vinh quang Nước Trời. Và còn hơn thế nữa, “ngay bây giờ, ở đời này, còn nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm lần.” (Mt 10,30). Chỉ những người thực sự từ bỏ khi theo Chúa mới cảm nhận được sự kỳ diệu này.

Từ bỏ không phải theo nghĩa là chối bỏ, vứt bỏ đời sống trần gian. Không phải thế. Con người vẫn sống giữa trần gian, nhưng là từ bỏ những tham vọng trần gian để đi về vĩnh cửu.

Có thể chúng ta cũng đang hỏi Chúa như Phêrô: “Lạy Chúa chúng con từ bỏ mọi sự mà theo Chúa, chúng con được gì?” Có chắc là đã từ bỏ hết chưa? Và nếu đúng như thế thì cứ an tâm, chắc chắn nơi quê trời kia, ta đã có một phần tốt nhất. Thánh Phêrô hẳn đã hiểu ý Chúa rồi, nên chắc là rất vui lòng theo Chúa. Và Chúa cũng đang cần chúng ta là những Phêrô của cuộc sống hôm nay. Chúa đang cần những người thợ gặt của giờ thứ 11, cần những thợ gặt cho cánh đồng lúa chín vàng với tinh thần từ bỏ cần thiết…

 

Suy Niệm 9: Thiên Chúa quan phòng

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe là một trong những bài Tin Mừng  khó hiểu và gây nhiều tranh luận nhất.

  1. Nhìn vào cuộc sống thực tế, nếu không có cái nhìn bằng đức tin thì chúng ta khó mà thấy được những gì Chúa Giêsu nói: nào là được gấp trăm về đất đai nhà cửa, nào là ruộng nương, anh chị em, cha mẹ con cái.

Riêng thánh Marcô lại thêm một câu: cùng với sự bắt bớ, làm cho đoạn Tin Mừng này thêm khó hiểu hơn. Vậy phải hiểu như thế nào về đoạn Tin Mừng này của thánh Marcô? Chúng ta phải nhớ, thánh Marcô viết Tin Mừng theo cái nhìn thần học chứ không theo cái nhìn lịch sử như thánh Luca.
Khi Chúa bảo với các môn đệ: Ai bỏ nhà cửa, anh em chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này lại không nhận được nhà cửa, anh em chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, gấp trăm, thì chúng ta phải hiểu rằng: từ bỏ một gia đình nhỏ để nhận được một gia đình lớn, gia đình của Thiên Chúa, trong đó Thiên Chúa là Cha. Chính Chúa Giêsu cũng đã nói: Ai là anh em, chị em và mẹ Ta? Đó là những người làm theo ý Cha trên trời, người đó là anh, là chị là em và là mẹ Ta. Theo ý của Chúa Giêsu thì gia đình thiêng liêng này còn quan trọng hơn gia đình huyết thống.

Khi Egerton Young giảng đạo lần đầu tiên cho người da đỏ ở Saskatchewan, về Thiên Chúa là Cha mọi người thì ông đã làm cho những người từ trước đến giờ chỉ thấy Thiên Chúa trong sấm sét giông bão ngạc nhiên. Một tù trưởng cao niên hỏi Young:

– Có phải ông thưa với Thiên Chúa rằng “Lạy Cha của chúng tôi không?”

Young đáp:

– Phải.

Vị tù trưởng tiếp tục hỏi:

– Vậy thì Ngài cũng là cha của ông chứ gì?

Young đáp:

– Phải.

Rồi vị tù trưởng nói tiếp:

– Và Ngài cũng là cha của tôi phải không?

Young đáp:

– Chắc chắn như vậy.

Gương mặt vị tù trưởng bỗng sáng rực lên cách khác thường, ông ta vung tay lên và nói như người mới khám phá được một điều gì khác thường, ông bảo:

– Vậy thì tôi với ông là anh em.

Có người phải hi sinh nhiều mối dây ràng buộc với người thân yêu để trở thành Kitô hữu, nhưng khi làm như vậy người ấy đã trở thành một thuộc viên và anh em trong một gia đình rộng lớn bằng cả thế gian này kể cả Thiên Đàng.

  1. Hơn nữa khi từ bỏ những gì thuộc về trần gian, các môn đệ của Chúa còn nhận được sự quan phòng che chở đặc biệt của Cha trên trời.

Có lần Chúa Giêsu cũng đã khuyến cáo các Tông Đồ: Bông huệ ngoài đồng có canh cửi thêu dệt gì đâu mà đến như vua Salomon sang trọng tột bậc, cũng không có cái áo cẩm bào đẹp như vậy. Chim chóc trên trời có gieo vãi gì đâu mà Cha trên trời cũng nuôi sống. Và Chúa còn nhấn mạnh: đến tóc trên đầu của các con cũng đã được đếm cả rồi! Cha chúng con biết chúng con thiếu những gì. Nói cách khác, người Tông Đồ bỏ mọi sự mà theo Chúa thì nhận được một gia tài quí báu hơn bội phần, gấp trăm, đó là tình thương của Cha trên trời. Thiên Chúa biểu lộ tình thương của Người qua sự quan phòng trong suốt cuộc đời của mình.

Qua cuộc sống hiến thân phục vụ các người nghèo khổ, Mẹ Têrêsa thành Calcutta đã từng được chứng kiến những cử chỉ từ bi và âu yếm của Chúa quan phòng thật lạ lùng. Ở Calcutta, các nữ tu Dòng Bác Ái của mẹ hằng ngày phải chăm sóc cho 7.000 người, và còn phải cung cấp thực phẩm cho họ nữa. Một ngày thứ sáu trong tuần nọ, chị nữ tu coi nhà bếp đến thưa với mẹ:

– Thưa mẹ, trong nhà không còn gì ăn cho hôm nay và ngày mai. Tốt hơn hết là chúng ta nên báo trước cho mọi người biết điều đó.

Nghe tin đó, mẹ không biết trả lời với chị này thế nào… Thế nhưng, vào khoảng 09 giờ sáng hôm đó, không hiểu vì lý do gì, chính quyền Ấn Độ tuyên bố đóng cửa các trường công. Thế là số bánh mì đã được dành cho các học sinh được chở đến cho mẹ. Và tất cả hơn 7.000 người, từ nhỏ chí lớn có đủ bánh mì ăn trong hai ngày!

Thật vậy, chưa bao giờ những người nghèo lại được ăn những bữa no nê như thế, và không một ai trong cả tỉnh Calcutta biết lý do vì sao chính phủ đã tuyên bố đóng cửa các trường công hôm ấy. Nhưng đối với Mẹ Têrêsa thì đã qua rõ! Đó chính là dấu hiệu tình thương của Chúa, Người Cha giàu lòng yêu thương con cái mình!

Lạy Chúa Giêsu,

xin cho con dám hành động

theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.

Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,

vì xác tín rằng

Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con,

và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.

Ước gì khi dâng lên Chúa

những hy sinh làm tim con rướm máu,

con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt

của người một lòng theo Chúa. Amen.

 

 

THỨ TƯ TUẦN 8 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Mc 10, 32-45

Khi ấy, các môn đệ và Chúa Giêsu lên đường đi Giêrusalem, Chúa Giêsu dẫn đầu đi trước họ, và các ông hết sức bỡ ngỡ, những người theo sau thì sợ hãi. Người gọi mười hai ông lại gần và nói cho các ông biết những gì sẽ xẩy đến cho Người: “Giờ đây chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế, các luật sĩ và các kỳ lão. Họ sẽ kết án tử hình Người và nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo cười Người, phỉ nhổ vào Người, đánh đòn và giết Người, và ngày thứ ba Người sẽ sống lại”.

Giacôbê và Gioan, con ông Giêbêđê, đến gần Người và thưa Người rằng: “Lạy Thầy, chúng con muốn Thầy ban cho chúng con điều chúng con sắp xin Thầy”. Người đáp: “Các con muốn Thầy làm gì cho các con?” Các ông thưa: “Xin cho chúng con một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy”. Chúa Giêsu bảo: “Các con không biết các con xin gì. Các con có thể uống chén Thầy sắp uống và chịu cùng một phép rửa Thầy sắp chịu không?” Các ông đáp: “Thưa được”. Chúa Giêsu bảo: “Chén Thầy uống, các con cũng sẽ uống, và phép rửa Thầy sắp chịu, các con cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì không thuộc quyền Thầy ban, nhưng là dành cho những ai đã được chỉ định”.

Mười môn đệ khác nghe chuyện đó liền bực tức với Giacôbê và Gioan.

Chúa Giêsu gọi các ông lại gần mà bảo: “Các con biết rằng những người được coi là lãnh tụ các nước thì sai khiến dân chúng như ông chủ, và những người làm lớn thì lấy uy quyền mà trị dân. Còn các con không như thế. Trái lại, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy tự làm đầy tớ anh em. Và ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người. Vì chính Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người”.

 

Suy Niệm 1: Không được như vậy

Suy niệm :

Khi nghĩ đến những đau khổ Đức Giêsu phải chịu

chúng ta thường nghĩ ngay đến cuộc Khổ nạn của Ngài.

Chúng ta ít nghĩ đến một đau khổ khác,

đó là Ngài phải chịu đựng sự chậm hiểu của các môn đệ.

Bài Tin Mừng hôm nay là một thí dụ khá rõ.

Khi đang trên đường lên Giêrusalem,

Thầy Giêsu kéo riêng Nhóm Mười Hai để loan báo cho họ lần thứ ba

về những gì sắp xảy đến cho mình trong cuộc Khổ nạn (c. 32).

Tiếc thay, hai môn đệ thân tín là Giacôbê và Gioan,

vẫn loay hoay ở lại trong tham vọng về chức quyền của mình.

Họ nói với Thầy Giêsu một câu không được lịch sự lắm:

“Chúng con muốn Thầy làm cho chúng con bất kỳ điều gì chúng con xin.”

Vậy mà Thầy vẫn nhẹ nhàng trả lời họ:

“Các anh muốn Thầy làm gì cho các anh?” (c. 36).

Họ đã dám xin được ngồi hai chỗ cao nhất trong vinh quang Nước Thầy.

Thầy Giêsu thú nhận mình không có quyền cho điều đó,

nhưng Thầy lại mời hai ông chia sẻ chén đắng Thầy sắp uống

và dìm mình thật sâu trong phép rửa Thầy sắp chịu (c. 38).

Khi thấy mười môn đệ kia tức giận với Giacôbê và Gioan,

Thầy Giêsu đã huấn dụ cho cả nhóm về cách lãnh đạo trong Giáo Hội.

Cách lãnh đạo này khác hẳn cách lãnh đạo ngoài đời,

thường dùng quyền uy để thống trị và mưu cầu tư lợi.

“Giữa anh em thì không được như vậy!” (c. 43).

Mọi chức vụ và quyền bính là để phục vụ cho Dân Chúa.

Thầy Giêsu chỉ cách hành xử cho những ai muốn làm lớn, làm đầu.

Đó là sống như người đầy tớ, người phục vụ (c. 44).

Thầy Giêsu đã không nói suông, nhưng sống điều Ngài giảng.

Rõ ràng Thầy là người có uy quyền (Mc 1, 22.27; 2, 10).

Nhưng quyền uy đó chỉ được dùng để rao giảng và để giải phóng.

Suốt đời Thầy đã sống như một người phục vụ.

Và giờ đây, cái chết của Thầy chính là một việc phục vụ cao nhất.

Lần đầu tiên Thầy Giêsu nói rõ ý nghĩa cái chết của mình.

Như người Tôi Trung trong ngôn sứ Isaia (Is 52,13 – 53,12)

Thầy phải trả giá bằng mạng sống để cứu chuộc muôn người (c. 45).

Không dễ kéo các môn đệ ra khỏi những tham vọng trần tục.

Thầy Giêsu vẫn thấy mình lạc lõng bên cạnh các môn đệ.

Họ không hiểu được Thầy, và cũng chẳng muốn đi đường Thầy đi.

Làm sao để chúng ta cảm được hạnh phúc của việc phục vụ ?

Làm sao để chúng ta hiểu rằng phục vụ không làm con người hèn hạ,

nhưng lại nâng cao con người và ban cho nó sự lớn lao đích thực ?

Chính Chúa Giêsu, Đấng được thành toàn nhờ suốt đời phục vụ,

là chỗ dựa đầy hy vọng của chúng ta.

 

Cầu nguyện :

Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,

xin dạy con biết phục vụ âm thầm.

Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,

xin dạy con biết yêu thương tự hiến.

Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,

xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.

Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,

xin dạy con biết coi mọi người như anh em.

Lạy Chúa Ba Ngôi,

Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,

xin cho các Kitô hữu chúng con

trở thành tình yêu

cho trái tim khô cằn của thế giới.

Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,

biết sống nhờ và sống cho tha nhân,

biết quảng đại cho đi

và khiêm nhường nhận lãnh.

Lạy Ba Ngôi chí thánh,

xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa

ở sâu thẳm lòng chúng con,

và trong lòng từng con người bé nhỏ.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

Suy Niệm 2: PHỤC HỒI VINH QUANG

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Bị ngoại bang xâm lấn. Mất nước. Nô lệ. Nhục nhã. Người Do thái nhớ lại thời huy hoàng. Được Chúa phù trợ. Ngẩng đầu hiên ngang trước các cường quốc. Vì thế họ nài xin Chúa hãy trở lại. Hãy tái diến những kỳ công thuở xa xưa. Hãy phục hồi dân Chúa. Để cho mọi người nhận biết và tôn thờ Chúa. “Xin cho tái diễn những điềm thiêng và lại làm những dấu lạ khác. Các chi tộc Gia-cóp, nguyện chúa thương quy tụ cả về. Xin thương trả lại phần gia sản, như Chúa đã cho họ thuở ban đầu…Xin làm cho khắp cả Xi-on vang lời tường thuật những kỳ công của Chúa, và làm cho thánh điện, được rực rỡ ánh vinh quang của Ngài.. Và mọi người trên mặt đất sẽ nhìn nhận Ngài là Đức Chúa, là Thiên Chúa muôn thuở muôn đời” (năm lẻ).

Thiên Chúa đáp lời. Gửi Con Một từ trời xuống cứu độ con người. Nhưng không phải bằng bạo quyền thống trị theo thói người đời. Như hai anh em nhà Dê-bê-đê lầm tưởng. Nhưng bằng khiêm nhường phục vụ. Đến hi sinh mạng sống. Như Chúa dạy dỗ các tông đồ: “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em, thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến, không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Con đường của Chúa là con đường khiêm nhường. Hạ mình để phục hồi anh em. Chịu chết để cứu sống anh em. Chịu nhục nhã để anh em được vinh quang. Vì thế Chúa quả quyết lên Giê-ru-sa-lem để chịu chết. Điều đó khiên các môn đệ kinh hoàng. Nhưng đó mới là con đường vinh quang. Chúa được vinh quang. Và Chúa phục hồi ta trong vinh quang.

Vì thế thánh Phê-rô khuyên nhủ chúng ta. Trước hết phải nhận biết sự thật. Chúng ta được phục hồi không phải do thế lực trần gian. Nhưng do bửu huyết của Chúa Giê-su. Chúa đi vào con đường khiêm nhường phục vụ. Chịu chết rồi phục sinh. Đó là niềm hi vọng của chúng ta. Nếu đã biết sự thật. Ta hãy thanh luyện tâm hồn khỏi các thế lực trần gian. Hãy biết khiêm nhường phục vụ lẫn nhau. Yêu thương nhau: “Anh em hãy tha thiết yêu mến nhau với tất cả tâm hồn. Vì anh em đã được tái sinh, không phải do hạt giống mục nát, mà do hạt giống bất diệt, nhờ Lời Thiên Chúa hằng sống và tồn tại mãi mãi” (năm hẵn).

 

Suy Niệm 3: Tiên báo cuộc tử nạn

Dù không có ghi lại những chỉ dẫn địa lý chính xác, người ta cũng biết rằng Chúa Giêsu đang tiến đến gần các biến cố trọng yếu của định mệnh Ngài. Ngài đã băng ngang vùng Galilê từ Bắc tới Nam. Thánh sử Marcô đã nhấn mạnh hành trình lên Yêrusalem này qua ba lần loan báo về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, và đây là lần loan báo thứ ba.

Thật vậy, trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cập đến cái chết của Ngài như một con đường tất yếu phải đi qua. Giữa lúc mọi người đang thán phục về những lời rao giảng và các phép lạ của Ngài, giữa lúc mọi người đang chờ những điều phi thường hơn nữa, thì Chúa Giêsu lại tuyên bố: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, sẽ bị đánh đòn và bị giết chết”.

Chết là điều tất yếu của thân phận làm người. Ðã nhập thể làm người, Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi định luật ấy. Thế nhưng, khi loan báo về cái chết của mình, Chúa Giêsu muốn nối kết nó với sứ mệnh của Ngài. Sứ mệnh của Ngài chỉ được thực hiện bằng con đường sự chết. Người ta chống đối Ngài, người ta giết chết Ngài vì cuộc sống, lời nói và việc làm của Ngài là một tố cáo tội ác của con người; Ngài bị chống đối đến cùng, vì cuộc sống và sứ mệnh của Ngài là một hành trình đi ngược dòng đời.

Người Kitô hữu đích thực cũng không thể tránh được số phận ấy. Là chứng nhân của Ðấng đã đi ngược dòng đời, họ cũng không thể thoát khỏi những chống đối. Cái chết âm thầm, cái chết từng giây phút chống lại tội lỗi và sự dữ là điều tất yếu trong cuộc sống người môn đệ Chúa Kitô; có chết như thế, họ mới biết rằng mình đang đi đúng con đường của Chúa Kitô, con đường dẫn đến sự sống đích thực.

Dù sống trong nghèo nàn, dù sống trong cơ cực, khổ đau, xin cho chúng ta luôn vững tin vào Ðấng đã đi qua con đường sự chết để dẫn đưa chúng ta vào cõi trường sinh.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Thập giá Chúa Kitô, Tin Mừng của ta

“Này chúng ta lên Giê-ru-sa-lem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào mặt Người, họ sẽ đánh đòn và giết chết Người. Ba ngày sau Người sẽ sống lại.” (Mc. 10, 33-34)

Trên đường lên Giêrusalem, Chúa Giêsu lại loan báo cho Nhóm Mười Hai, cuộc Khổ nạn và Phục sinh của Người. Đây là lần loan báo thứ ba và cũng là dài hơn cả. Câu trả lời của các môn đệ xác nhận các ông đã quen cả rồi, ngay cả không còn sững sờ về điều tiên tri này nữa. Các ông vẫn bận tâm muốn biết mình sẽ có được địa vị nào trong cái vương quốc trần gian, mà theo các ông ước đoán, thì Thầy của họ sẽ gặp phải đau khổ và phải chết.

Khi thuận lợi và khi không thuận lợi

Chẳng lạ gì một sứ điệp phải loan báo đi mà lại mang vẻ ít hấp dẫn như vậy, gặp phải và luôn luôn sẽ gặp phải sự không hiểu; bao giờ sứ điệp ấy cũng vẫn sẽ là dấu hiệu bị người đời chống đối; phần chúng ta cho đến tận cùng thời gian sẽ bị cám dỗ muốn quên đi hay lẩn tránh sứ điệp ấy. Mầu nhiệm ấy, sứ điệp ấy vừa khó sống, lại vừa khó loan đi và ở mọi thời sẽ là đối tượng tầm thường cho bộ máy tuyên truyền nhắm vào. Tuy nhiên chính đó lại là nét đặc trưng của chúng ta. Nếu ta đánh mất đi thì còn gì để nói cũng như còn gì khôn ngoan hơn để dạy.

Hạnh phúc, công bình, chính trực chúng ta đâu có độc quyền. Nhưng “sự điên rồ của thập giá, nguồn tràn chảy ơn phục sinh” mới thật sự là của chúng ta. Khi ta loan báo điều gì khác không phải là “Đức Giêsu chịu đóng đinh, đã sống lại từ cõi chết”, ta đua tranh với những người giầu lòng nhân ái yêu thương, những bậc hiền nhân quân tử, và những vị ân nhân của nhân loại, điều đó tốt, nhưng không biện minh được cho hiện hữu cuộc đời Kitô hữu của ta. Không có ta, người ta vẫn có thể sống hạnh phúc và chính trực. Nhưng nếu ta không sống và loan đi sứ điệp của ta bằng một tình yêu nhưng không, tự do chấp nhận hiến thân, chết không chỉ cho bạn hữu mình mà còn cho cả những ai xa lạ, thù địch thì người ta sẽ không bao giờ hiểu biết được tình yêu sâu thẳm khôn lường của Thiên Chúa là thế nào.

Chẳng ai đã trông thấy Thiên Chúa bao giờ, mà chỉ thông qua những dấu chỉ, những bí tích mà con người được tiếp xúc với Người. Chỉ có một dấu chỉ tương xứng với một Thiên Chúa yêu thương chính là Đức Giêsu chết vì yêu thương, chính là những Kitô hữu nối gót Người, nhờ Người, và trong Người góp phần làm cho cái mầu nhiệm của một tình yêu đã làm nên những việc lạ lung của Thiên Chúa được trải dài đến thiên thu bất tận. Phúc âm không phải là công bố một hiệp ước xã hội đã được soạn thảo cách khoa học, nhưng là việc của Thánh Thần ngự trị trong Vương quốc tình yêu điên dại tuyệt vời, xâm nhập trái tim con người vậy.

 

Suy Niệm 5: QUA SỰ CHẾT MỚI ĐẾN VINH QUANG (Mc 10, 32-45)

Câu chuyện Tin Mừng hôm nay có thể ví như nước thủy triều dâng. Tại sao thế? Thưa! Vì Đức Giêsu đang tiến dần đến cái chết của Ngài. Ngài tiến gần cả về địa lý lẫn thời gian cũng như khung cảnh bề ngoài.

Về mặt địa lý, Ngài đang lên gần đến thành Giêrusalem;

Về thời gian, đây là thời điểm thuận lợi để những người Pharisêu, Kinh Sư và những kẻ không ưa Ngài dễ dàng thực hiện ý định giết Ngài;

Về tâm lý, việc Ngài giảng dạy hấp dẫn và những việc Ngài làm thu hút dân chúng, nên người ta không ngớt lời khen ngợi, đây là dịp châm ngòi cho sự ghen tương sẵn có nơi giới lãnh đạo Dothái.

Vì thế, Ngài đã loan báo lần cuối cùng về số phận của Người Tôi Trung: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, sẽ bị đánh đòn và bị giết chết”.

Chết là quy luật không thể bỏ qua cho những ai muốn sống. Không có sự chết, không có phục sinh. Nhưng điều quan trọng là chết như thế nào và làm sao phải chết? Đây mới là điều cốt lõi.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta noi gương Đức Giêsu, đó là vì yêu thương mà không chịu xã hội mua chuộc; không chấp nhận sợ tiếng chửi và ăn mày tiếng khen mà đánh mất tinh thần vâng phục cũng như sứ vụ cứu rỗi nhân loại… Vì thế, Đức Giêsu đã chấp nhận chết vì yêu, vì sứ vụ.

Mỗi người Kitô hữu cần phải xác định rõ quy luật tất yếu này là: nếu ta thuộc về Đức Kitô, ấy là chúng ta chấp nhận đi cùng Ngài để lội ngược dòng. Khi lội ngược dòng như thế, chúng ta sẽ không tránh khỏi sự thù nghịch, khinh khi, và ngay cả mạng sống.

Như Đức Giêsu, chúng ta chỉ có được sự sống viên mãn khi chấp nhận quy luật ngược đời như vậy mà thôi.

Lạy Chúa Giêsu, tin và theo Chúa thật không dễ! Nhưng xin cho con hiểu rằng, vinh quang và hạnh phúc vĩnh cửu chỉ có được nơi những tâm hồn trung thành đến cùng. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Tinh thần phục vụ (Mc 10, 32-45)

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Địa vị và quyền hành đã gây ra chia rẽ giữa các môn đệ. Điều đó cho thấy mục đích theo Đức Giêsu của các môn đệ còn thấp kém. Chính vì thế, trước lời loan báo của Đức Giêsu về cuộc khổ nạn, các ông vẫn không hiểu, dù Ngài đã nói đến lần thứ ba.

Đức Giêsu thì cương quyết lên Giêrusalem để chấp nhận khổ nạn, còn các môn đệ thì sợ hãi kinh hoàng. Đức Giêsu nói rõ, con đường của Ngài là con đường đau khổ, là chấp nhận chén đắng. Sự thanh tẩy tức là từ bỏ mình, là chấp nhận khiêm tốn phục vụ như một đầy tớ của mọi người. Đó là vinh quang đích thực của Đức Giêsu và của những môn đệ Ngài.

Trên đường đi Giêrusalem, Đức Giêsu loan báo cho các môn đệ: “Ngài sẽ bị nộp cho các thượng tế và luật sĩ. Họ sẽ lên án xử tử Ngài… nhưng ba ngày sau Ngài sẽ sống lại” (Mc 10, 33). Đây là lần thứ ba Chúa nói cho các môn đệ biết về điều này. Nhưng thật đau lòng, khi nghe Chúa nói như vậy, các môn đệ không quan tâm gì, các ông lại tranh giành ngôi thứ với nhau. Nhân cơ hội này Chúa đã sửa bảo các ông một cách tế nhị, và dạy các ông bài học sâu xa về lòng khiêm nhường phục vụ và thắng vượt tính ghen tương.

Khởi đầu câu chuyện là hai ông Giacôbê và Gioan, hai anh em ruột, xin Chúa cho mỗi ông được ngồi bên hữu bên tả Chúa, nghĩa là muốn xin được địa vị cao trong nước Chúa khi Ngài được làm vua dân Do thái. Đây cũng là điều bình thường, ai lại không muốn cho mình được chỗ tốt nhất, được vinh dự?

Đức Giêsu quá biết tâm lý tự nhiên của mỗi người, muốn được làm lớn, được vinh dự, được làm thủ lãnh sai khiến người khác. Bởi vì các môn đệ hãy còn suy nghĩ về nước Đức Giêsu ở trần gian này, nên các ông còn thích quyền hành danh vọng và muốn người ta phục vụ mình.

Nhưng Đức Giêsu lại suy nghĩ khác, nước Ngài không thuộc về thế gian, cho nên người có quyền hành không được dùng địa vị của mình để cai trị áp bức người khác, để lên mặt ta đây, và bắt người khác phục vụ mình, nhưng trái lại phải biết phục vụ, không phải chỉ dành quyền lợi cho cá nhân mình, nhưng để bảo vệ quyền lợi cho tất cả mọi người.

Các môn đệ được coi như những con người còn rất “thô sơ”, còn đầy những nết xấu ví dụ như trường hợp hôm nay, các ông có tính ghen tị. Lòng kiêu ngạo muốn tranh đấu để làm đầu mọi người là điều không tốt, nhưng lòng ganh tị cũng không tốt đẹp gì. Khi thấy hai ông Giacôbê và Gioan xin Chúa được ngồi bên hữu bên tả Chúa, các môn đệ khác khó chịu, bực mình. Các ông ghen tị, không muốn cho hai anh em kia được phần hơn. Các môn đệ của Chúa cũng vẫn còn hẹp hòi, ích kỷ. Điều này cũng chứng tỏ các ông còn suy nghĩ về nước Đức Giêsu ở trần gian. Vì thế, Chúa cũng sửa bảo các ông phải loại bỏ tính xấu này.

Kiêu ngạo và ghen tị là hai nết xấu đã cản trở sự phát triển đời sống chúng ta về mọi phương diện. Chúng ta phải loại bỏ hai tật xấu này để sống hòa hợp, vui vẻ với nhau, cộng tác với nhau, đừng ai kiêu ngạo muốn hơn người, và cũng đừng ai phân bì, ghen tị khi thấy người khác hơn mình.

Đối với Đức Giêsu, chức quyền là để phục vụ. Chức quyền cũng như tiền bạc, tự nó không xấu. Bất cứ nhóm nào cũng cần có một người phụ trách. Nhưng theo ý Chúa, phụ trách trước hết không phải là một địa vị thống trị hưởng lợi, hưởng uy thế, mà là một địa vị để phục vụ nhiều hơn: “Con Người đến không phải được phục vụ, nhưng là để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người” (Mc 10, 45).

Người lãnh đạo trong Hội thánh là “đầy tớ”. Trong các văn kiện, Đức giáo hoàng thường dùng danh hiệu “Servus servorum”: đầy tớ của các đầy tớ. Những chức vụ có vai trò đặc biệt chỉ nên gọi là “thừa tác” hay “trợ tá” theo đúng nghĩa của chữ Latinh “Minister” là tôi tớ; hoặc tiếng Hy lạp “Diakonos” là đầy tớ và “Doulos” là nô lệ.

Trong các vị lãnh đạo của Giáo hội cũng phải có phẩm trật như người ta nói: “Kim chỉ phải có đầu” (tục ngữ), cần phải có một người đứng đầu điều khiển một cộng đoàn, chứ không thể có cảnh “Cá đối bằng đầu” (tục ngữ) mà mọi việc được xuôi lọt, vì sẽ không ai muốn phục tùng ai. Điều quan trọng mà Đức Giêsu muốn nhấn mạnh: không phải là huỷ bỏ chức vụ của những người đứng đầu, chức vụ của những người lãnh đạo, nhưng đừng dùng địa vị và quyền bính của mình để áp bức người khác.

Truyện: Gương Đức Giáo hoàng Gioan 23

Một lần kia, phái đoàn tòa Giám mục ra đón Đức Hồng y Roncalli mới đi xa về, vừa từ trên xe xuống. Mọi người ngạc nhiên, vì trên áo Hồng y có vương mấy cọng rơm đồng quê.

Ai hỏi, ngài cũng cười, nhưng các người đi cùng thì hiểu. Vì xe của Ngài đang từ hướng bắc về miền nam, đi qua đồng ruộng. Giữa đường có chiếc xe bò chở rơm sa hố. Ngài liền cho xe của Ngài dừng lại, xắn tay áo, ngài hò dô ta đẩy phụ, và chiếc xe rơm sa lầy lại chuyển bánh lên đường.

Những cọng rơm trên áo Hồng y, ngài chỉ cười xòa cho qua. Nhưng sự thực tỏ rõ cho chúng ta một Hồng y không quản ngại khó khăn hay sợ bẩn chiếc áo dòng sang trọng.

Sau này lên ngôi Giáo hoàng, với tước hiệu Gioan 23, Ngài vẫn tiếp tục nếp sống bình dị phục vụ như thế.

Lần khác, cả giáo triều Rôma báo động: “Đức Giáo hoàng mất tích”. Nhân viên an ninh đi tìm. Cuối cùng gặp ngài đang nói chuyện với tù nhân trong khám đường Rôma.

 

Suy Niệm 7: ,,,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Lý tưởng cao cả nhất của Kitô giáo là phục vụ trong khiêm tốn. Chúa Giêsu ở giữa chúng ta như một người tôi tớ. Chúa mời gọi chúng ta từ bỏ chính mình, để cùng Ngài đi vào con đường thập giá bằng đời sống phục vụ mọi người.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, các môn đệ và người Do Thái ngày xưa, đã mong chờ Chúa là Đấng cứu tinh uy quyền và đầy sức mạnh. Nhìn thấy phép lạ Chúa thực hiện, cảm nhận uy tín trong lời Chúa giảng dạy, họ hy vọng một cuộc đổi mới, và họ sẽ được vinh quang. Nhưng chính lúc tưởng rằng sắp đạt tới tột đỉnh uy quyền, thì các ông lại ngỡ ngàng thất vọng khi nghe Chúa nói đến cái chết. Lạy Chúa, quyền bính mà Chúa thiết lập là thứ quyền bính của phục vụ. Cái chết của Chúa trên thánh giá là đỉnh cao của phục vụ, như một tên nô lệ. Nếu một người nô lệ sống là sống cho người khác, và chết cũng là chết cho người khác, thì Chúa đã chấp nhận sống và chết như một tên nô lệ.

Lạy Chúa Giêsu, hôm nay Chúa đang phục vụ con nơi bàn tiệc Thánh, Chúa phục vụ con nơi bà tiệc Lời Chúa, và bàn tiệc Thánh Thể. Chúa đã hoán đổi địa vị một cách bất ngờ. Con được trở thành người ngồi bàn, còn Chúa tự nguyện đi lại hầu hạ con. Chúa đã dọn bữa sẵn sàng và mời con hưởng dùng. Con xin dâng lời tạ ơn Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giúp con biết sống tinh thần phục vụ theo kiểu của Chúa: muốn làm lớn thì phải làm nhỏ. Xin giúp con biết khám phá rằng: cuộc sống không phải để hưởng thụ, nhưng là để phục vụ. Và trong phục vụ, con sẽ có hạnh phúc. Bởi vì nếu con thông phần vào thập giá của Chúa thì con cũng được chia phần sự sống phục sinh với Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Giờ đây chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp”.

 

Suy Niệm 8: ,,,,,

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Dù không có ghi lại những chỉ dẫn địa lý chính xác, người ta cũng biết rằng Chúa Giêsu đang tiến đến gần các biến cố trọng yếu của định mệnh Ngài. Ngài đã băng ngang vùng Galilê từ Bắc tới Nam. Thánh sử Máccô đã nhấn mạnh hành trình lên Giêrusalem này qua ba lần loan báo về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, và đây là lần loan báo thứ ba.

Thật vậy, trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cập đến cái chết của Ngài như một con đường tất yếu phải đi qua. Giữa lúc mọi người đang thán phục về những lời rao giảng và các phép lạ của Ngài, giữa lúc mọi người đang chờ những điều phi thường hơn nữa, thì Chúa Giêsu lại tuyên bố: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, sẽ bị đánh đòn và bị giết chết.”

Chết là điều tất yếu của thân phận làm người. Đã Nhập Thể làm người, Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi định luật ấy. Thế nhưng, khi loan báo về cái chết của mình, Chúa Giêsu muốn nối kết nó với sứ mệnh của Ngài. Sứ mệnh của Ngài chỉ được thực hiện bằng con đường sự chết. Người ta chống đối Ngài, người ta giết chết Ngài vì cuộc sống, lời nói và việc làm của Ngài là một tố cáo tội ác của con người; Người bị chống đối đến cùng, vì cuộc sống và sứ mệnh của Ngài là một hành trình đi ngược dòng đời.

Người Kitô hữu đích thực cũng không thể tránh được số phận ấy. Là chứng nhân của Đấng đã đi ngược dòng đời, họ cũng không thể thoát khỏi những chống đối. Cái chết âm thầm, cái chết từng giây phút chống lại tội lỗi và sự dữ là điều tất yếu trong cuộc sống người môn đệ Chúa Kitô; có chết như thế, họ mới biết rằng mình đang đi đúng con đường của Chúa Kitô con đường dẫn đến sự sống đích thực.

Dù sống trong nghèo nàn, dù sống trong cơ cực, khổ đau, xin cho chúng ta luôn vững tin vào Đấng đã đi qua con đường sự chết để dẫn đưa chúng ta vào cõi trường sinh.

  1. Đây là câu chuyện vui của thầy Anrê với cây Thập giá bị bỏ lại. Trước khi bắt đầu cuộc hành hương về Núi Thánh, thầy tu viện trưởng dẫn các tu sĩ của mình đến nơi có trưng bày nhiều loại Thập giá lớn nhỏ khác nhau và nói: “Nào chúng ta mỗi người hãy chọn lấy cho mình một cây Thập giá để vác trong suốt cuộc hành hương này.” Các tu sĩ chạy đến tranh nhau dành cho mình cây Thập giá nhỏ nhất bao nhiêu có thể. Họ nghĩ thầm rằng đó là cây Thập giá nặng nhất, tiện đường vì cuộc hành hương còn xa.

Khi mọi tu sĩ đã chọn cho mình cây Thập giá rồi, thì còn lại một cây Thập giá to nhất cho thầy tu viện trưởng. Thầy bước đến vác lấy cây Thập giá đó mà chỉ dùng có một tay nhấc cây Thập giá lên cùng đi. Ai cũng có vẻ thích thú vì có thái độ “Lãnh nặng, tìm nhẹ” để vác lấy Thập giá trên đường hành hương, nhưng người dành được cây Thập giá nhỏ nhất mới vỡ lẽ ra rằng Thập giá mà mình cầm lấy lúc đầu lại là Thập giá nặng nhất.

Câu chuyện vui phơi bày tâm lý tầm thường của mỗi người. Miệng chúng ta quyết mạnh mẽ là mình vác lấy Thập giá theo Chúa nhưng có thể trong thâm tâm chúng ta ước ao có một cây Thập giá nhẹ nhàng, tiện lợi theo ý muốn riêng của mình hơn là vác lấy Thập giá theo thánh ý Chúa gởi đến cho mình. Hay tệ hơn nữa, chúng ta có thể xin Chúa cho mình được vâng lời, hay ngồi bên hữu, bên tả Chúa, như lời cầu xin của hai anh em con ông Giêbêđê được kể lại trong Phúc Âm (Mc 10,32-45).

Như vậy thánh Máccô dường như muốn làm nổi bật thái độ sống chưa trọn vẹn của các môn đệ Chúa. Những bất toàn của các ngài không phải để làm chúng ta thất vọng, nhưng để chứng tỏ cho chúng ta hai điều kiện:

Thứ nhất là những kẻ được chọn theo Chúa còn bất toàn, còn những tật xấu, khuyết điểm như bao người khác.

 

Suy Niệm 9: ,,,,,

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Hai cảnh tượng đối nghịch nhau một cách trắng trợn:

* Chúa Giêsu loan báo (đây đã là lần thứ ba) rằng, Ngài sắp chịu nạn, chịu chết và sống lại. Trong lúc đó thì hai môn đệ Giacôbê và Gioan lại xin hai địa vị ưu tiên trong “Nước” mà họ nghĩ Chúa Giêsu sắp thành lập. 10 môn đệ kia bực tức. Không phải vì cho rằng, hai môn đệ này sai mà vì nghĩ họ đã muốn “chơi trội” hơn mình trong cuộc chạy đua tranh dành địa vị.

* Trong bối cảnh đó, Chúa Giêsu muốn dạy về Nước Thiên Chúa và nước trần gian, về cách cư xử của những người lớn trong hai nước đó:

– Trong nước trần gian, kẻ làm lớn thì lấy quyền mà trị dân, bắt dân phục vụ mình.

Mẹ Têrêsa kể ở Hội nghị thượng đỉnh được tổ chức tại Johannesburg. Trong lúc người dân đói khổ, không cơm ăn, không nước uống, các phái đoàn hùng hậu của các quốc gia tham dự Hội Nghị, sống tại các khách sạn bốn sao, năm sao, với những thực phẩm hảo hạng, cả rượu “champagne” được chở từ các nước Tây Phương đến Johannesburg, để thỏa mãn khẩu vị của các phái đoàn trong 10 ngày Hội nghị thượng đỉnh.

Còn trong Nước Thiên Chúa, làm lớn là làm đầy tớ, càng làm lớn thì càng phải phục vụ.

Chúa Giêsu đã không coi việc cai trị như là cơ hội để hưởng thụ mà là để phục vụ.

Ngày xưa, vua nước Tề sai sứ giả đem thư sang thăm bà Uy Hậu nước Triệu, là mẹ của Triệu Uy Vương được giữ quyền nhiếp chính. Khi nhận được thư của sứ giả, bà Uy Hậu chưa vội xem nhưng hỏi ngay sứ giả:

– Tề năm nay không mất mùa chứ? Dân tình yên chứ? Vua cũng mạnh khoẻ chứ?

Sứ giả nghe hỏi, không bằng lòng, nói:

– Tôi vâng mạng vua nước tôi sang xứ bên này, Thái Hậu không hỏi đến vua tôi mà lại hỏi thăm mùa màng với dân sự trước, thế chẳng ra, tôn trọng kẻ hèn hơn người sang ư?

Uy Hậu mỉm cười bảo:

– Không phải! nếu không có mùa màng thì lấy đâu có dân, không có dân thì lấy đâu có vua? Ai lại bỏ gốc mà hỏi ngọn bao giờ!

Đoạn, Uy Hậu lại hỏi luôn một loạt:

– Chung Ly Tử là sử sỹ bên ấy vẫn được bình yên chứ? Người ấy có lương ăn cũng thế, không có ăn cũng thế. Có áo mặc cũng thế mà không có áo mặc cũng vậy. Ấy là người có thể giúp vua mà phục vụ dân đấy. Sao nhà vua đến bây giờ vẫn chưa triệu người ấy ra làm quan? Còn Nghiệp Dương Tử bên ấy vẫn bình yêu chứ? Người ấy thương xót kẻ quan quả, chu tuất kẻ cô độc, chân tế kẻ khốn cùng, giúp đỡ kẻ túng bấn, đó là một người có thể giúp vua để sinh lợi cho dân. Còn người con gái Bắc cung tên Anh Nhi Tử vẫn bình yên đấy chứ? Người ấy bỏ cả đồ trang sức, đến già không lấy chồng để phụng dưỡng cha mẹ. Ấy là người làm gương mẫu cho dân, bắt chước ăn ở với cha mẹ cho có hiếu có đạo, sao đến bây giờ nhà vua chưa cho người ấy vào chầu? Nếu hai kẻ sỹ ấy không được làm quan, người con gái ấy không được vào chầu thì làm sao vua nước Tề trị được vạn dân? À, còn tên Tử Trọng ở Ô Lăng vẫn còn đấy chứ? Tên này trên không làm nên tôi vua, dưới không trị được việc nhà, giữa không kết giao với ai, thế là tên này chuyên dạy dân làm điều vô dụng, sao đến bây giờ nhà vua chưa đem ra xử tử?

Hỏi xong, bấy giờ Uy Hậu mới xem thư.

3.”Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em, ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em.” (Mc 10, 43-44).

Gần chúng ta bên nhà thờ Chí Hòa, có một cộng đoàn nữ tu gọi là tu hội Eau-Vive (Nước hằng sống). Tu hội này có nguồn gốc từ Bỉ. Ngoài công việc đạo đức ra, họ còn mở quán ăn phục vụ khách hàng. Cái đặc biệt của họ là sau giờ cơm tối, thông thường vào tối 9 giờ, tu hội có giờ cầu nguyện, chia sẻ Tin Mừng giữa các chị. Các chị thường thưa với khách hàng: “Giờ đây chúng tôi có giờ cầu nguyện, quý vị nào muốn tham gia, chúng tôi xin kính mời, ai không tham gia xin cứ tự nhiên”. Thế rồi các chị cùng một số thực khách sắp ghế vòng quanh lại và bắt đầu cầu nguyện với những bài thánh ca sốt sắng, truyền cảm. Có nhiều người mới đầu không tham gia, dần dần thấy hay hay cũng lắng tai nghe, rồi những lần kế tiếp xách ghế ngồi phía sau tìm hiểu. Khi đã quen, đã mê thì tuần nào cũng ít là một vài lần đến để ăn cơm, nhưng cốt là để tham dự các giờ cầu nguyện ban tối mà họ cho là rất tự nhiên, hấp dẫn và cảm động. Quán ăn đã trở nên nhà nguyện, vì có Chúa hiện diện giữa họ.

Lạy Chúa, xin cho đôi chân con thật vững, trái tim con đầy ắp yêu thương, để con biết “cúi xuống”, dẫu có lúc chỉ vì thế mà phải chịu nhiều chuyện rắc rối, bởi xác tín rằng, ngày xưa và mãi mãi, Ngài vẫn luôn làm như thế. (Hosanna)

 

 

THỨ NĂM TUẦN 8 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Mc 10, 46-52

Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi thành Giêricô cùng với các môn đệ, và một đám đông, thì có con ông Timê tên là Bartimê, một người mù ăn xin đang ngồi ở vệ đường. Khi anh ta nghe biết đó là Chúa Giêsu Nagiarét, liền kêu lên rằng: “Hỡi ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi”. Và nhiều người mắng anh bảo im đi, nhưng anh càng kêu to hơn: “Hỡi con vua Ðavít , xin thương xót tôi”.

Chúa Giêsu dừng lại và truyền gọi anh đến. Người ta gọi người mù và bảo anh: “Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh”. Anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo rằng: “Anh muốn Ta làm gì cho anh”? Người mù thưa: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy”. Chúa Giêsu đáp: “Ðược, đức tin của anh đã chữa anh”. Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người.

 

Suy Niệm 1: Xin thương xót tôi

Con mắt là một bộ phận hết sức mong manh,

dễ bị tổn thương, dễ bị nhiễm trùng,

nhất là trong điều kiện vệ sinh ngày xưa.

Chúng ta không rõ nguyên nhân khiến anh Báctimê bị mù,

chỉ biết anh không mù từ lúc lọt lòng mẹ.

Anh đã từng được thưởng thức ánh nắng ban mai

hay nhìn ngắm những người thân yêu, bè bạn.

Bây giờ chỉ có bóng tối triền miên.

Anh Báctimê sống bằng nghề hành khất,

ngồi ăn xin bên vệ đường, sống bên lề xã hội.

Danh tiếng của Ðức Giêsu Nadarét, anh đã được nghe nhiều.

Ngài có thể làm người mù bẩm sinh sáng mắt.

Anh tin vào Ngài, thầm mong có ngày được gặp.

Bài Tin Mừng hôm nay kể lại cuộc hạnh ngộ ấy.

Rất tình cờ, Ðức Giêsu đi ngang qua đời anh.

Anh mù lòa, ngồi đó như chỉ chờ giây phút này.

Khi nghe biết là Ðức Giêsu cùng với đám đông đi qua,

anh thấy cơ may đã đến.

Tất cả sức mạnh của anh nằm ở tiếng kêu,

tiếng kêu thống thiết bi ai của một người đau khổ,

nhưng cũng là tiếng kêu đầy tin tưởng, hy vọng.

“Lạy ông Giêsu, Con vua Ðavít, xin thương xót tôi!”

Tiếng kêu báo hiệu một sự hiện diện, một cầu cứu.

Nhiều người muốn bịt miệng anh,

nhưng anh chẳng sợ gì đe dọa.

Càng bị đe dọa, anh càng gào to hơn nhiều.

Cuối cùng tiếng của anh đã đến tai Ðức Giêsu.

Ngài dừng lại và sai người đi gọi anh,

vì Ngài cũng chưa rõ anh đang ở đâu.

Khi biết mình được gọi, anh vội vã và vui sướng

vất bỏ cái áo choàng vướng víu,

nhẩy cẩng lên mà đến với Ðức Giêsu.

Anh đi như một người đã sáng mắt,

bởi thực ra mắt của lòng anh đã sáng rồi.

Khi được khỏi, lòng tin của anh thêm mạnh mẽ hơn.

Anh thấy lại mặt trời, anh gặp Ðấng cho anh ánh sáng.

Không ngồi ở vệ đường nữa, anh đứng lên đi theo Ðức Giêsu.

“Xin thương xót tôi. Xin cho tôi nhìn thấy lại.”

Ðây có phải là tiếng kêu của tôi không?

Khả năng thấy là một khả năng mỏng dòn.

Ta có thể thấy điều này mà không thấy điều kia.

Tôi có thể lúc thấy lúc không, hay cố ý không muốn thấy.

Lắm khi tôi không đủ sức để ra khỏi sự mù lòa của mình.

Tôi có kêu gào với Chúa để xin được ơn thấy lại không?

Một người mù chữ, dù đã được xóa mù, vẫn có thể mù lại.

Chính vì thế tôi cứ phải xin cho mình được thấy luôn.

Thấy mình bé nhỏ, thấy Chúa bao la, thấy anh em dễ mến.

Thấy là đi vào một con đường dài hun hút.

Chúng ta phải được Chúa xóa mù suốt đời.

Chỉ trong ánh sáng của Chúa, tôi mới nhìn thấy ánh sáng.

 

Cầu Nguyện

Như người mù ngồi bên vệ đường

xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.

Xin cho con được thấy bản thân

với những yếu đuối và khuyết điểm,

những giả hình và che đậy.

Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con

cả những khi con không cảm nghiệm được.

Xin cho con thực sự muốn thấy,

thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa

chiếu dãi vào bóng tối của con.

Như người mù ngồi bên vệ đường

xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.

(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)

 

Suy Niệm 2: XIN CHO CON ĐƯỢC THẤY

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan và quyền năng. Người làm ra biết bao điều kỳ diệu. “Vinh quang Đức Chúa bao phủ công trình Người sáng tạo. Các thánh của Đức Chúa không tài nào kể lại mọi kỳ công của Người”. Vì những công trình quá lớn lao. Vượt quá tầm hiểu biết của con người. Bao thiên niên kỷ qua rồi mà người ta chưa hiểu thấu hết những bí mật Chúa đặt vào trong vũ trụ. Bao nghiên cứu tìm hiểu, nhưng “những gì thấy được chỉ như một ánh lửa” nhỏ bé. (năm lẻ).

Chính vì thế mà điều con người cần cầu xin là xin cho được thấy. Thấy những kỳ công Chúa thực hiện. Thấy những bí mật của đời mình. Và quan trọng nhất thấy Chúa và thấy được con đường mình phải đi để đạt tới Chúa. Đó chính là điều anh mù Ba-ti-mê đã xin. Trong cảnh mù loà anh tuyệt vọng. Vì chẳng ai có thể cho anh được thấy. Chỉ mình Chúa Giê-su. Anh đã tin Người là Đấng Cứu Thế khi anh tuyên xưng Người là Con Vua Đa-vít. Lòng tin lớn mạnh vượt qua được những chướng ngại. Nên đã được Chúa nhận lời. “Lòng tin của anh đã cứu anh”. Và khi được thấy anh đã làm điều cơ bản nhất. Không dùng ánh sáng để đi tìm trần gian. Tìm tiền của. Nhưng anh “nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi”. Thật khôn ngoan. Và cơ bản. Thấy Chúa và đi theo Chúa. Đó là đi vào điều cốt lõi trong đời sống. Đi vào ơn cứu độ. Đi vào sự sống đời đời. Đó là thành đạt lớn nhất đời.

Đó chính là điều thánh Phê-rô khuyên nhủ ta. “Hãy khao khát sữa tinh tuyền là Lời Chúa, nhờ đó anh em sẽ lớn lên để hưởng ơn cứu độ”. “Hãy tiến lại gần Đức Ki-tô”. Vì do lòng thương xót, Chúa “mời gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền”. Chúng ta đang trên đường từ bỏ bóng tối để tiến về ánh sáng. Chúng ta hãy noi gương anh mù Ba-ti-mê đi theo Chúa trên đường Chúa đi. Nghĩa là “tránh xa những đam mê xác thịt, vốn gây chiến với linh hồn”. Hãy làm chứng cho Chúa bằng đời sống ngay chính giữa ban ngày. “Anh em hãy ăn ở ngay lành giữa dân ngoại, để ngay cả khi họ vu không, coi anh em là người gian ác, họ cũng thấy các việc lành anh em làm, mà tôn vinh Thiên Chúa trong ngày Người đến viếng thăm” (năm chẵn).

Lạy Chúa, xin cho con được thấy ánh sáng của Chúa. Đi theo ánh sáng của Chúa. Và chiếu sáng ánh sáng của Chúa.

 

Suy Niệm 3: Ðến với Chúa

Trước cửa Thiên Ðàng, một tu sĩ gõ cửa và cầu khẩn: “Lạy Chúa, xin cho con được vào”. Cánh cửa vẫn đóng kín, nhưng có tiếng hỏi: “Con có mang theo điều gì không?”. Vị tu sĩ đáp: “Con mang theo một bị chứa đầy những nhân đức của con”. Có tiếng vọng lại: “Ðiều ấy tốt, nhưng Ta không thể mở cửa cho con vào”.

Vị tu sĩ ra đi, nhưng buổi chiều ông lại đến gõ cửa để xin được vào. Lần này, khi được hỏi có đem theo điều gì không?, ông cho biết có đem theo công nghiệp của việc suy niệm và cầu nguyện lâu giờ. Tuy nhiên, ông vẫn chỉ nhận được lời này: “Thật là tốt, nhưng Ta vẫn không thể mở cửa cho con vào”.

Vị tu sĩ lại ra đi, đến tối, ông trở lại. Lần này, ông chỉ đến với con người của ông mà thôi. Nhưng tức khắc cánh cửa mở rộng để cho ông bước vào.

Câu chuyện trên đây nhắc chúng ta về thái độ tinh thần cần phải có để đến với Chúa, đó là đến với Chúa bằng chính thực tế con người mình; bằng tâm tình tin tưởng và cậy trông vào lòng nhân từ của Chúa, hơn là dựa vào sức riêng của mình. Ðó cũng là thái độ chúng ta có thể thấy được nơi anh mù gần thành Yêricô mà Tin Mừng hôm nay ghi lại.

Anh mù đến với Chúa bằng chính thực tại đau thương của mình và trông cậy vào tình thương của Chúa: “Lạy con vua Ðavít, xin dủ lòng thương tôi”. Ðây là lời cầu xin của một tâm hồn khiêm tốn và tin tưởng, như Chúa Giêsu đã ghi nhận sau khi chữa lành anh: “Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Ðức tin nơi anh mù đã giúp anh vượt qua thử thách, người ta càng ngăn cản anh, anh càng kêu to hơn cho đến khi được Chúa nghe thấy và cho gọi anh lại.

Liệu chúng ta có đủ khiêm tốn, kiên trì chờ đợi gặp Chúa không? Chúng ta có ý thức mình cần đến ơn Chúa, cần đến tình yêu và sự tha thứ của Chúa không? Như anh mù, chúng ta hãy thưa: “Lạy Chúa, xin thương xót con”. Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta nhìn thấy những kỳ công Chúa đã và đang thực hiện trong lịch sử nhân loại và trong chính đời sống chúng ta, để chúng ta trở thành bài ca tôn vinh Chúa luôn mãi.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Người mù thấy rõ hơn những kẻ sáng mắt

Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Nagiarét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng: “Lạy ông Giêsu con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!” Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: “Lạy con vua Đa-vít xin dủ lòng thương tôi!” (Mc. 10, 47-48)

Thời Chúa Giêsu y khoa chưa phát triển, những bệnh tật về mắt ở thời đó thật là bi thảm, hy vọng chữa khỏi thực tế coi như không có. Người mù chẳng có cách thế phục hồi và sớm muộn phải lâm vào số phận những người đi ăn xin. Việc chữa khỏi mù thời ấy hầu như mang tính chất một cuộc cải tử hoàn sinh. Người ta coi những người mù và phong hủi là những “đại diện ưu tiên” của nỗi khốn khổ của con người. Trong mọi tập tục tôn giáo, thể thức chữa trị tật nguyền này đóng một vai trò quan trọng. Ở thời Chúa Giêsu, người ta coi đó là dấu chỉ thiên sai. Chẳng thế mà khi người ta hỏi Người có phải thật là Đấng Mêsia không, thì Người đã trưng dẫn việc Người chữa lành những người mù dể làm bằng chứng.

Người mù Giêricô phát hiện ra

Ai cũng biết rằng những người mù phát triển một sự chú ý mà những người sáng mắt hiếm khi có được. Điều họ cảm nhận dù chỉ nhỏ nhoi, thì họ lại suy nghĩ sâu xa, và nhờ sự chú tâm như thế, họ cảm nhận được bằng trực giác nhiều thực tại mà ta không thấy; phương ngôn ta đã chẳng nói “kẻ có tật, có tài” là gì. Đám đông đi theo Chúa Giêsu mù tịt về sứ mệnh đích thực của Người, đang khi người mù Giêricô, trong mịt mù đêm tối của đôi mắt, anh lại thành công: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít! Xin dủ lòng thương tôi!”

Tiếng kêu của anh lạc lõng trong tiếng huyên náo của mọi người. Vậy mà Chúa Giêsu nghe thấy và gọi anh. Giữa đám đông, một người nào đó nhận ra Người và người nào đó ấy lại mù cả đôi mắt. Một người không trông thấy Người lại nói đúng tên Người!!! Từ vực sâu khốn khổ của đời anh, người con trai ông Timê đã thấy rõ được cái bí mật thiên sai, đang khi các môn đệ của Người là những chứng nhân thường ngày nghe Người nói thấy Người làm, thì lại luôn luôn mơ tưởng những địa vị đặc biệt người ta dành cho mình trong cái tôi chẳng biết là vương quốc trần gian nào.

Chuyện đẹp mắt trong câu chuyện này không phải là chuyện người mù đã được chữa khỏi, mà là chuyện con người hèn mọn này, con người bé nhỏ này của Nước Trời đã là người, trước cả mọi người, làm chứng về Đức Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa. Nếu có bao giờ câu nói “Tin là thấy” có được trọn vẹn ý nghĩa, thì đúng là ở đây Với lòng khiêm tốn, chúng ta hãy cầu xin cho những người chưa có hay đã từ bỏ con đường của Chúa.

 

Suy Niệm 5: NHẠY BÉN ĐỂ ĐƯỢC CỨU ĐỘ (Mc 10,46-52)

Trước mỗi dấu chỉ hay sự kiện, mỗi người nhìn dưới góc độ khác nhau. Người thì trầm trồ khen ngợi; người thì chê bai không ngớt, kẻ thì dửng dưng…

Sự xuất hiện của Đức Giêsu cũng vậy. Ngài đi đến đâu cũng có nhiều người tin và theo Ngài, nhưng cũng không thiếu kẻ chống đối kịch liệt, lại có những người vô tình đến vô tâm, nên họ không cần quan tâm gì đến sự xuất hiện của Ngài.

Hôm nay, bài Tin Mừng trình thuật cho chúng ta thấy phản ứng nhạy bén của anh mù. Anh vừa nghe thấy nói là Đức Giêsu thành Nazarét, anh ta đã cố nhoi lên và không ngừng kêu xin: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi”. Lời kêu cầu này của anh mù không chỉ đơn thuần là lời van xin, mà còn là lời tuyên xưng niềm tin mãnh liệt của anh vào một Đức Giêsu đã được loan báo từ bao đời nay, hôm nay anh đã được gặp. Điều này đã được chứng minh bằng lời khen ngợi và sự chữa lành của Đức Giêsu: “Đức tin của anh đã cứu anh”.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta về tinh thần sống đạo. Liệu trong cuộc sống, chúng ta có nhạy bén với Lời Chúa, với các dấu chỉ, hay nhiều khi chúng ta dửng dưng với những sứ điệp mà hằng ngày Thiên Chúa không ngừng gửi đến cho chúng ta qua nhiều hình thức???

Thực tế, nhiều khi thay vì nhạy bén và thi hành, chúng ta lại ngụy biện và phớt lờ như người không biết. Như vậy, anh mù trong bài Tin Mừng hôm nay chỉ mù về thể lý, còn tâm anh thì sáng, trong khi đó chúng ta thì ngược lại!

Lạy Chúa Giêsu, xin cho tâm hồn chúng con luôn biết nhạy bén với sứ điệp Lời Chúa, để chúng con thi hành và được cứu độ. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Người mù thành Giêricô (Mc 10, 46-52)

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Thánh Marcô thuật lại cho chúng ta việc Đức Giêsu chữa người mù từ mới sinh tại cổng thành Giêricô. Lời kêu van của người mù: “Lạy Con vua Đavít, xin thương xót tôi”, cho thấy dân chúng tin Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, là Đấng khôi phục và giải phóng dân tộc. Nhưng khi Đức Giêsu chữa lành cho người mù được sáng mắt, Ngài muốn hướng người ta về sứ mạng đích thực của Ngài là cứu độ muôn dân. Ngài đến để giải thoát nhân loại khỏi đau khổ và tối tăm của sự dữ. Như thế, tin vào Đức Giêsu, con người mới được ánh sáng, được giải phóng và được tự do làm con Thiên Chúa.

Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn. Nhờ cặp mắt chúng ta có thể nhận biết và tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Chúng ta có thể nhìn thấy mọi người, mọi vật. Có những người mù từ thuở mới sinh, hay bị mù do tai nạn, bệnh tật. Họ giống như ngọn đèn bị tắt, suốt đời phải chịu lần mò trong bóng tối, không còn được hưởng ánh sáng mặt trời và những vẻ đẹp của thế tới sự sáng, họ phải buồn phiền khổ cực biết bao. Vì thế, anh mù thành Giêricô hôm nay đang phải ở trong tình trạng đó, anh đau khổ nên anh đã phải tha thiết xin Chúa giúp đỡ: “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương xót tôi”.

Hôm nay, nghe biết Đức Giêsu đi qua, anh mù kêu xin Chúa cứu chữa, người ta cấm anh, anh càng kêu lớn hơn. Anh không xin tiền, xin gạo, xin bánh như mọi khi, nhưng xin được xem thấy. Khi nghe tiếng Đức Giêsu gọi, anh vội vàng vứt áo choàng, nhảy chồm về phía Chúa. Lời kêu xin và thái độ của anh chứng tỏ anh tin tưởng sâu xa mạnh mẽ vào quyền năng của Chúa, chính vì niềm tin này Đức Giêsu đã cứu chữa anh, và khi được sáng mắt anh đã đi theo Chúa.

Mắt là cảm hứng cho thi sĩ làm thơ, cho nhạc sĩ viết nên cung nhạc. Mắt là hồn cho thơ, là sóng cho nhạc. Có người nhìn đôi mắt như mùa thu. Có người nhìn đôi mắt như dòng sông. Trong văn chương và nghệ thuật, cảm hứng về mắt bao giờ cũng đẹp. Trái lại khi nói về mắt, Phúc âm lại nói về đôi mắt mù. Mù đôi mắt thân xác đã bất hạnh, còn mù đôi mắt tâm hồn lại là một bất hạnh lớn. Mù đôi mắt tâm hồn là “mù” mà không chấp nhận mình “mù”, vì nghĩ rằng mình vẫn sáng suốt để nhìn ra Chúa. Nhưng đâu ngờ, đàng sau đôi mắt ấy, có thể chỉ là một màn đêm lạnh lẽo. Một tâm hồn trống trải, buồn tênh. Chẳng buồn nghe và thực thi Lời Chúa nữa (Hosanna).

Ngày nay trên thế giới số người mù về thể xác có lẽ suy giảm đi đôi chút, nhưng ai dám nói số người mù về tinh thần đã giảm đi? Số người “thấy mà xem chẳng thấy” (kinh cám ơn rước lễ xưa) thì rất nhiều. Người ta biết mọi cái trên thế giới, kể cả cung trăng, một số hành tinh và một vài vì sao, nhưng có cái gần nhất người ta lại không thấy, đó là cái “tôi” của mình, là con người của mình, là bản thân mình.

Nói chi đến thực tại siêu nhiên, người ta mù tịt trước những vấn đề thiêng liêng. Anh mù Bartimê đã nhìn ra Đức Giêsu là ai, là Đấng Cứu Thế trong khi đám đông chưa nhìn ra con người thật của Ngài. Họ có con mắt sáng, nhưng lòng họ vẫn còn u tối. Họ cần được Chúa soi sáng cho họ để họ nhìn ra chân lý.

Còn chúng ta, những người sáng mắt thì sao? Không những chúng ta phải cảm tạ Chúa, phải quí trọng giữ gìn, bảo vệ tâm hồn nữa. Nếu chúng ta đã lỡ để cho tâm hồn không còn trong sáng vì nhìn xem những hình ảnh xấu… thì chúng ta hãy bắt chước anh Bartimê cương quyết, can đảm và dứt khoát ném áo choàng, đến với Chúa Giêsu trong phép Giải tội để xin Ngài chữa lành, lấy lại ánh sáng tươi đẹp cho đôi mắt.

Truyện: Chiếc đèn lồng

Có một người mù, một đêm kia đến thăm người bạn thân. Hai người trò chuyện thân mật với nhau cả mấy tiếng đồng hồ. Trời đã khuya, khi chia tay nhau, người bạn sáng mắt tặng anh một chiếc đèn lồng để đi đường cho an toàn. Nhưng người mù nói:

– Tôi không cần đèn. Đối với tôi, tối và sáng như nhau.

Người bạn trả lời:

– Tôi biết anh không cần đèn để soi đường, nhưng nếu anh không cầm một cái đèn thì trời tối người ta có thể đụng phải anh, nguy hiểm lắm, anh nên cầm đi.

Nghe hợp lý, anh mù ra về với chiếc đèn lồng trong tay. Đi được một quãng đường, đột nhiên anh bị một người đụng phải anh. Với vẻ tức giận, anh mù nói:

– Người nào kỳ vậy, đui hay sao mà không thấy đèn của tôi?

Người kia đáp:

– Xin lỗi anh, đèn của anh tắt rồi nên tôi không trông thấy. Mong anh thông cảm.

Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy anh mù tưởng mình “thấy”, còn người kia không thấy đèn. Nhưng ngược lại, chính anh mù mới không thấy đèn mình tắt. Tác giả câu truyện kết luận: con người tưởng mình thấy nhiều chuyện, nhưng lại quên hay cố ý quên nhiều cái mình không thấy.

Nhiều khi cuộc đời chúng ta chỉ là chiếc lồng đèn bị tắt lửa không còn ánh sáng để soi chiếu cho người khác, chúng ta bắt chước anh mù Bartimê mà kêu lên: “Lạy Chúa, xin thương xót con”.

 

Suy Niệm 7: ,,,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Khi chữa lành anh mù Bac-ti-mê, không những Chúa Giêsu cho anh được sáng mắt, mà còn cho anh được sáng tâm hồn. Đó là anh tin tưởng hoàn toàn nơi Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, mù bao giờ cũng đáng buồn. Thân xác mù thì chỉ thiệt hại cho bản thân mình, còn tâm hồn mù thì thiệt hại cho cả xã hội. Xã hội hôm nay đang nỗ lực mang ánh sáng đến cho người mù. Đó là điều cần thiết vì mang lại hạnh phúc cho người tàn tật. Nhưng điều cần thiết hơn là giúp con người tìm thấy ánh sáng cho cuộc đời. Lạy Chúa, ngày nay xã hội đang nỗ lực thực hiện công việc từ thiện là chữa mắt miễn phí cho những người mù lòa. Đó là việc cụ thể của tình người. Từ đó, xin cho con biết trao tặng ánh sáng Lời Chúa cho các tâm hồn khi chính mình đi trong ánh sáng của Chúa.

Lạy Chúa, xin cho con biết học thái độ của anh mù Bac-ti-mê. Đó là biết rằng mình đang mù. Đó là tin rằng: chỉ một mình Chúa mới có thể chữa lành. Xin cho con can đảm vượt qua mọi chướng ngại, sẵn sàng từ bỏ mọi quyến luyến ràng buộc, sẵn sàng từ bỏ mọi tính hư tật xấu, như anh mù can đảm vất bỏ cả áo khoác, để đến với Chúa. Lạy Chúa, xin thương xót con.

Lạy Chúa Giêsu, biết bao kẻ gặp Chúa nhưng không biết Chúa. Trong khi đó, anh mù đã nhận ra Chúa là Đấng cứu độ duy nhất và tin tưởng nơi Chúa. Xin cho con biết đến với Chúa mỗi ngày, để đón nhận hồng ân cao cả, là nhận biết Chúa là Đấng Toàn Năng, và con là người mang thân phận yếu hèn cần được cứu giúp. Xin Chúa chữa lành con và giúp con đi theo Chúa tiến về Giêrusalem với nhiều hứa hẹn đau khổ và vinh quang. Lạy Chúa, xin thương xót con. Amen.

Ghi nhớ: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy”.

 

Suy Niệm 8: Kinh Lạy Cha

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

Trong các kinh chúng ta đọc, có kinh Lạy cha là quan trọng và đủ ý nghĩa nhất của việc cầu nguyện. Trong kinh này, Chúa dạy chúng ta hai điểm:

  1. Cầu nguyện là cầu nguyện với chính Chúa chứ không ai khác.
  2. Cầu nguyện là tương giao với Chúa chứ không phải để thỏa mãn những nhu cầu tiêng tư.

Phân tích lời cầu nguyện mẫu này, chúng ta thấy có hai phần rõ rệt: phần đầu là tôn thờ Chúa, phần thứ hai là xin cho mỗi người.

Kinh lạy Cha cho chúng ta thấy hai chiều: chiều dọc thẳng lên là Thiên Chúa và chiều ngang là anh em cùng con một Thiên Chúa Cha.

Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta thấy một vị Thiên Chúa đầy yêu thương bằng một tên gọi là Cha. Trong gia đình còn gì đoàn tụ thân tình, hạnh phúc, uy quyền hơn chữ Cha.

Chữ Cha gợi lên sự gần gũi, tin tưởng, âu yếm, bao che, thương mến. Trước hết Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta thấy đối tượng của lời cầu xin là ai ? Thưa, là Thiên Chúa Cha, một người Cha gồm mọi tình phụ tử của trần gian. Một người Cha biết cả sợi tóc trên đầu, bông huệ ngoài đồng và chim trên trời (Mt 6,25t) bay lượn nhởn nhơ. Một người cha biết trước cả nhu cầu của con cái trước khi nó xin (Mt 6,32). Ngài đã dự bị sửa soạn sẵn tất cả, đến nỗi Ngài bảo chúng ta đừng lo gì cho ngày mai (Mt 6,34). Một người cha đã ban Ngôi con (Ga 3,16). Ban Chúa Thánh linh (Lc 11,13). Đó là một người cha thật tình vì con cái. Cho nên khi chúng ta cầu nguyện, là cần xác tín rằng chúng ta đang cầu nguyện với một người Cha tốt lành, luôn dọn phần tốt nhất cho con mình (Lc 10,42). Đấng mà chúng ta cầu xin không phải là một vị hung thần sẵn sàng giáng họa như cái kiểu “trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”. Ngài cũng không phải là vị phúc thần chuyên môn mở kho ban ơn khi ta biết nịnh hót. Vậy thì đối tượng của lời cầu nguyện là một người cha yêu thương.

Có thể anh chị em đã từng chứng kiến cảnh tâm sự một người con đối với cha mẹ chưa. Nhất là những trẻ lên ba hầu như lúc nào cũng có chuyện để hỏi, để nói. Đấy có lẽ là hình ảnh của chính chúng ta đứng trước Thiên Chúa Cha. Cho nên cầu nguyện là thưa chuyện với một người cha đầy hiểu biết chứ không phải có gì phải lo âu sợ hãi, mà trái lại rất thân tình. Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện với Thiên Chúa Cha ở trên trời là để cho chúng ta thấy rằng chúng ta thật là con cái Ngài và chúng ta có thể cầu nguyện với tất cả tin tưởng vui mừng, biết rằng cha chúng ta trên trời sẽ trả lời việc chúng ta cầu nguyện hôm nay.

Khi chúng ta cầu nguyện với Thiên Chúa Cha, “Lạy Cha chúng con ở trên trời” (c.9). Trời là nơi Chúa ngự. Trời diễn tả tính siêu việt, huyền nhiệm khôn tả, ở ngoài tầm tay của chúng ta. Trời là hạnh phúc, nơi Chúa ngự trị. Điều này hàm ý Chúa điều khiển muôn lòai muôn vật. Vậy nếu chúng ta gọi Thiên Chúa Cha ở trên trời mà quên đi Ngài có quyền trên muôn loài muôn vật và trên cả chính chúng ta, thì chúng ta trở thành nao núng buồn phiền. Giả sử chúng ta có một người cha có địa vị trong xã hội, chúng ta có hãnh diện không ? Ở đây chúng ta có một người cha ở trên trời thì sao ? Hãy nhớ rằng Ngài đang điều khiển mọi sự dù nhỏ nhặt đến đâu, nếu Ngài không muốn thì không thể nào xảy ra được đâu.

Phần thứ hai của Kinh lạy Cha dạy chúng ta cầu nguyện là cầu cho phần hồn trước, phần xác sau. Cho phần hồn, là cầu cho mình sống xứng đáng là Con trời, là biết tha thứ , biết thắng vượt chước cám dỗ mà về trời.

Hãy ý thức rằng chúng ta đang cầu xin với một Thiên Chúa Cha tốt lành đang dành phần cho con cái.

Tác phẩm “Con đường hành hương” kể câu chuyện như sau:

Một người kia đọc Thánh kinh thấy lời khuyên hãy cầu nguyện không ngừng. Ông không biết làm thế nào để có thể cầu nguyện không ngừng. Vì thế ông hành hương đến một tu viện và xin một tu sĩ chỉ dạy cho ông. Vị Tu sĩ mời người khách hành hương ở lại tu viện, trao cho ông một tràng chuỗi và dặn ông cứ lần chuỗi và đọc câu “lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Người này nghe lời làm theo, mỗi ngày vừa lần chuỗi vừa đọc không biết bao nhiêu lần câu đó, có đến cả trăm ngàn lần.

Một ngày kia vị Tu sĩ qua đời. Người khách hành hương khóc sướt mướt khi đưa vị Tu sĩ đến nơi an nghỉ cuối cùng. Sau đó ông rời tu viện tiếp tục cuộc hành hương, bởi vì vị Tu sĩ ấy vẫn chưa dạy cho ông thế nào là cầu nguyện không ngừng. Vừa đi, ông làm theo thói quen như vị Tu sĩ đã dạy. Khi ông hít vào, ông đọc “Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa” khi ông thở ra, ông đọc tiếp “ Xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Cứ thế không bao lâu lời cầu nguyện đã trở thành hơi thở của ông. Dù khi ăn, dù khi uống, dù khi nói năng, đi đứng. Mỗi hơi thở, mỗi nhịp đập của trái tim ông đều trở thành lời cầu nguyện. Và người khách hành hương chợt hiểu: “Bây giờ tôi đã hiểu thế nào là cầu nguyện không ngừng”.

Thao thức của một tập sinh:

Ngày kia một tập sinh đến hỏi Đức Viện Phụ cao niên của đan viện:

– Thưa Cha, xin Cha giúp con vài lời khuyên để con thực sự trở thành người của Chúa.

Vị Viện Phụ già trả lời:

– Con hãy vào phòng, đóng kín cử lại và cầu nguyện. Lời cầu nguyện sẽ dạy con mọi sự.

Thầy tập sinh trả lời:

– Thưa Cha, đâu là điều kiện chính giúp cầu nguyện đích thực ?

– Ô, dĩ nhiên, đó là bầu khí yêu thương. Ai cầu nguyện với tội lỗi và tâm tình thù hận trong lòng thì cũng giống như một người dọn thức ăn thịnh soạn trên một cái đĩa bẩn, hay như một người nói hay nhưng có hơi thở hôi thối.

Thầy tập sinh lại hỏi tiếp:

– Thưa Cha, con rất hay chia trí khi cầu nguyện. Làm sao để khỏi chia trí đây ?

Đức Viện Phụ đáp:

– Các chia trí cũng giống như con chim sẻ bay ngang trên trời. Không thể ngăn cản chúng bay qua mái nhà con ở. Nhưng con có thể ngăn cản không cho nó làm tổ trên mÿi nhà của con chứ ? Riêng đối với ngững tư tưởng xấu xa thì chúng giống như bọn ong bầu. Nếu con ngồi yên, chúng sẽ bay đi nơi khác. Nhưng nếu con càng động đậy, chúng sẽ càng bổ nhào đến hành hạ con.

Thầy tập sinh lại hỏi thêm:

-Tại sao khi cầu nguyện con lại hay bị chán nản ngã lòng, thưa cha ?

Bởi vì con chưa thấy đích điểm đời mình là gương mặt tuyệt vời của Thiên Chúa.

-Thưa Cha, cho con hỏi câu cuối cùng:

– Lời cầu nguyện có quan trọng thực không ? Nó có quan trọng hơn hành động không ?

– Quan trọng lắm chứ. Bằng chứng là ma quỷ hằng tìm mọi cách để quấy phá và khiến cho lời cầu nguyện trở nên nặng nề. Nó tìm mọi phương thế khiến cho chúng ta ươn lười không muốn cầu nguyện và làm cho chúng ta tin rằng cầu nguyện là vô ích.

 

Suy Niệm 9: Người mù sáng mắt

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Người mù sáng mắt.

Trình thuật người hành khất mù lòa được sáng mắt đã được thánh Marcô diễn tả thật rõ ràng và vô cùng sinh động, khiến chúng ta có cảm tưởng như được chứng kiến tận mắt sự kiện xảy ra. Chúa Giêsu, các môn đệ và đoàn lũ dân chúng đang theo Ngài rảo qua đường phố. Bên lề đường, một người hành khất mù lòa đang nhẫn nại nài xin của bố thí từ các khách bộ hành. Người hành khất ngồi đó, và với thời gian, có lẽ anh không còn hy vọng tìm được một phương thế chữa trị sự mù lòa của mình, anh buồn tủi chấp nhận định mệnh và sống bằng của bố thí từ những người giàu lòng bác ái.

Với một người sống trong hoàn cảnh đó, thì sự ồn ào xao động chung quanh có lẽ không làm cho anh ta bận tâm. Tuy nhiên, sự ồn ào xao động của buổi sáng hôm ấy có gì khác thường, khiến anh ta không thể không lưu ý. Anh hỏi thăm những người chung quanh, và khi được biết có Đức Giêsu thành Nazareth đang đi qua nơi ấy, anh cảm thấy như bừng lên sức sống và cất tiếng kêu gào át cả tiếng ồn ào của đám đông: “Lạy Giêsu Con vua Đavid, xin thương xót tôi” (Mc 10, 47). Lời kêu gào của anh nhẫn nại, tha thiết, đánh động lòng người, nhưng nhiều người chung quanh đã bảo anh im đi, có lẽ vì họ nghĩ rằng Chúa Giêsu trong sứ mệnh rao giảng của Ngài, Ngài phải thực hiện những việc vĩ đại hơn là quan tâm đến người hành khất mù lòa ngồi bên vệ đường.

Nhưng Chúa Giêsu cho gọi anh đến. Người hành khất mù lòa như nhận được một sức sống mãnh liệt, và dường như quên là mình đang mù lòa cần người dẫn dắt, anh vứt áo choàng sang một bên và chạy về phía Chúa Giêsu. Chúa Giêsu hỏi anh: “Anh muốn Tôi làm gì cho anh” (Mc 10, 51). Người mù đáp: “Lạy Thầy xin cho con được thấy” (Mc 10, 51). Chúa Giêsu trả lời: “Hãy đi, lòng tin của anh đã chữa anh” (Mc 10, 52). Người hành khất mù lòa được sáng mắt và đi theo Chúa.

  1. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại đời sống đức tin của chúng ta.

Đã bao lần qua nhiều phương nhiều cách, Chúa muốn gọi chúng ta như đã gọi người hành khất mù loà thuở xưa, nhưng hình như nhiều lần tiếng gọi ấy đã bị tắt lịm vì tiếng ồn ào của xã hội chung quanh. Chúa gọi, nhưng chúng ta đã không quảng đại đáp trả, chính vì thế chúng ta vẫn còn dẫm chân trong đống tội của sự đui mù thiêng liêng.

Người hành khất mù loà trong bài Tin Mừng hôm nay, khi vừa được biết cho gọi mình, đã mau mắn vất bỏ cái áo anh đang mang trên người, cái áo rất cần thiết cho một người sống trong vùng đất sa mạc, để chạy nhanh về phía Chúa. Việc anh làm như thế chứng tỏ niềm tin anh đặt vào Chúa rất mạnh. Chính Chúa đã xác nhận điều đó: “Lòng tin của anh đã cứu chữa anh” (Mc 10, 52).

Xét như thế thì chúng ta thấy niềm tin có một chỗ đứng rất quan trọng trong cuộc sống.

Abraham là một người dân quê ở thành Ur, thuộc xứ Kalđê. Một ngày nọ, Thiên Chúa nói với ông: “Hãy đi khỏi xứ sở ngươi, khỏi quê quán ngươi, khỏi nhà của cha ngươi, đến đất ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ cho ngươi thành một dân lớn …” (St 12, 1-2). Abraham ra đi. Đâu là đất Chúa hứa? Làm sao trở thành tổ phụ một dân lớn với một người vợ không con lại đã quá già? Bao nhiêu câu hỏi đã được đặt ra, nhưng Abraham cứ đi, lao mình vào nơi vô định. Khi đã sinh được một cậu con trai đầu lòng Thiên Chúa lại phán: “Ngươi hãy đem con ngươi, đứa con một ngươi yêu dấu là Isaac, mà đi tới đất Hôria và ở đó, hãy dâng nó làm của lễ thượng hiến cho Ta” (St 22, 2). Abraham, ruột đau như cắt vì quá yêu con, nhưng vẫn thắng lừa dắt con lên núi tế lễ Chúa.

Suốt đời ông là một thử thách không ngừng, nhưng ông hoàn toàn tin Chúa, sẵn sàng nghe Chúa mọi nơi, mọi lúc. Bởi thế, ông được Chúa gọi là “cha các kẻ tin” (Rm 4, 11).

Mẹ Têrêsa nói: “Biết đón nhận đau khổ trong đức tin, chúng ta sẽ có cơ hội san sẻ nỗi thống khổ của Đức Giêsu và bày tỏ tình yêu với Ngài.”

Ước gì trong từng giây phút, chúng ta luôn biết lắng nghe tiếng Chúa và đến với Ngài để được Ngài nâng đỡ trong cuộc sống thiêng liêng của chúng ta.

Lạy Chúa,

xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin

để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,

nơi khuôn mặt khốn khổ

của tất cả những người bị thử thách:

những kẻ đói không chỉ vì thiếu của ăn,

nhưng vì thiếu Lời Chúa;

những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,

nhưng còn vì thiếu sự bình an, sự thật,

công bằng và tình thương;

những kẻ vô gia cư,

không chỉ tìm kiếm một mái nhà,

nhưng còn tìm trái tim hiểu biết, yêu thương;

những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,

không chỉ trong thân xác,

nhưng cả trong tinh thần,

bằng cách thực thi lời hy vọng này:

“Điều các con làm cho

người bé mọn nhất trong anh em

là các con làm cho chính Ta”.

Mẹ Têrêxa Calcutta

 

 

THỨ SÁU TUẦN 8 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Mc 11, 11-26

 (Khi nghe dân chúng hoan hô), Chúa Giêsu vào thành Giê-rusalem, lên đền thờ và sau khi đã đưa mắt quan sát mọi sự, và lúc trời đã xế chiều, Người ra về Bêtania cùng với nhóm mười hai. Hôm sau, khi thầy trò rời bỏ Bêtania, Người thấy đói. Và khi thấy ở đàng xa có một cây vả nhiều lá, Người đến xem coi có trái nào không. Nhưng khi lại gần, Người chỉ thấy có lá thôi, vì không phải là mùa có trái. Người phán bảo cây vả rằng: “Cho đến muôn đời sẽ không còn ai ăn trái của mi nữa”. Và các môn đệ đã nghe Người nói.

Các ngài đến Giêrusalem. Và khi vào đền thờ, Chúa liền đuổi những người mua bán ở đó. Người xô đổ bàn của những người đổi tiền và ghế của những người bán chim câu. Người không để cho ai mang đồ vật đi ngang qua đền thờ. Người dạy bảo họ: “Nào chẳng có lời chép rằng: “Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của mọi dân tộc ư? Thế mà các ngươi đã biến thành hang trộm cướp”. Ðiều đó đến tai các trưởng tế và luật sĩ, họ liền tìm cách giết Người, vì họ sợ Người, bởi tất cả dân chúng say mê giáo lý của Người. Chiều đến, Người ra khỏi thành.

Sáng hôm sau, khi đi ngang qua, các ngài trông thấy cây vả đã chết khô tận rễ. Phêrô nhớ lại và thưa Chúa rằng: “Lạy Thầy, hãy coi, cây vả Thầy nguyền rủa đã chết khô rồi”. Chúa Giêsu đáp: “Hãy tin vào Thiên Chúa. Thầy bảo thật các con, nếu ai bảo núi kia: “Hãy dời đi và gieo mình xuống biển”, mà trong lòng không hồ nghi, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì người ấy sẽ được như ý. Vì vậy Thầy bảo các con: Tất cả những gì các con cầu xin, hãy tin rằng các con sẽ được, thì các con sẽ được điều đó. Và khi các con đang đứng cầu nguyện, nếu các con có điều gì bất thuận với ai, hãy tha thứ để Cha các con trên trời cũng tha cho các con. Nếu các con không tha thứ, thì Cha các con trên trời cũng không tha tội cho các con”.

 

Suy Niệm 1: Nhà cầu nguyện của mọi dân tộc

Suy niệm :

Khi thánh sử Máccô viết đoạn Tin Mừng này,

thì có thể Đền thờ ở Giêrusalem đã bị phá hủy bởi quân Rôma.

Ngôi đền thờ nguy nga này được vua Hêrôđê Cả trùng tu và nới rộng,

mất 84 năm mới hoàn thành, để rồi chỉ tồn tại được vỏn vẹn 6 năm.

Đức Giêsu đã lên Đền thờ này nhiều lần, vào các dịp lễ lớn.

Đây là lần cuối Ngài lên đây giữa tiếng tung hô của đám đông.

Khi chiều tà, Ngài và các môn đệ qua đêm ở làng Bêtania gần đó.

Hôm sau, trên đường từ Bêtania trở lại Đền thờ, Ngài thấy đói.

Trông thấy từ xa một cây vả xanh tốt, Ngài lại gần để tìm trái ăn.

Nhưng tiếc thay cây này chỉ có lá thôi, vì chưa đến mùa vả.

Vậy mà Đức Giêsu lại có vẻ nổi giận,

và nói: “Muôn đời sẽ chẳng còn ai ăn trái của mày nữa!”

Buổi sáng hôm sau, Thầy trò lại lên Đền thờ, đi ngang qua cây vả.

Mọi người thấy nó chết rồi, “chết khô tận rễ” (c. 20).

Phêrô cho rằng cây vả chết vì bị Thầy rủa (c. 21).

Chúng ta không hiểu tại sao Đức Giêsu lại rủa cây vả cho nó chết.

Nó có tội tình gì đâu, chỉ tại chưa đến mùa đó thôi!

Thánh sử Máccô đã đặt chuyện Đức Giêsu thanh tẩy Đền thờ

vào ngay giữa câu chuyện đầy kịch tính về cây vả.

Điều đó khiến chúng ta không hiểu chuyện cây vả theo nghĩa đen.

Đúng là cây vả chẳng mắc tội gì khi chưa đến mùa có trái.

Nhưng khi các nhà lãnh đạo Do Thái giáo cố ý từ khước Đức Giêsu,

thì họ mắc tội, như cây vả không trái.

Rốt cuộc cả họ và Đền thờ phải chịu số phận như cây vả héo khô.

Khi vào khu vực Đền thờ, Đức Giêsu giận dữ với chuyện buôn bán,

dù đây là chuyện buôn bán được phép,

ở một khu vực được phép, để phục vụ cho việc thờ tự.

Đức Giêsu đã làm một hành động rất khác thường,

đó là đuổi người buôn bán, lật bàn, xô ghế của họ (c. 15).

Thậm chí Ngài còn cấm người ta mang đồ đi qua Đền thờ (c. 16).

Chắc đã xảy ra một cuộc xô xát nhỏ, trong một thời gian ngắn.

Ngài hành động như người có quyền ở nơi thờ tự này.

Điều đó khiến các nhà lãnh đạo tôn giáo tìm cách giết Đức Giêsu.

Đối với Đức Giêsu, ngôi Đền thờ tráng lệ ở Giêrusalem

không còn là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc nữa (Is 56,7).

Vì giới lãnh đạo, nó đã không đạt mục tiêu Thiên Chúa muốn.

Như cây vả xanh lá, nhưng không trái, nó sẽ bị héo khô.

Ngày nay, dấu tích còn lại của ngôi Đền thờ xưa chỉ là một bức tường,

nơi người Do Thái đến than khóc.

Bài Tin Mừng hôm nay không gây sự thù ghét đối với người Do Thái.

Đúng hơn đây là một nhắc nhở nghiêm chỉnh của Đức Giêsu

đối với mọi đền thờ, nhà thờ của các Kitô hữu.

Phải làm sao để nơi thờ tự không trở thành nơi buôn bán kinh doanh.

Phải làm sao để nhà thờ thực sự là nơi cầu nguyện cho mọi người,

không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, quê mùa hay trí thức.

Phải làm sao để các ngôi thánh đường ngày nay của chúng ta

khỏi rơi vào số phận của Đền thờ Giêrusalem ngày xưa,

xanh lá nhưng không trái, nên bị chết khô.

 

Cầu nguyện :

Lạy Chúa Giêsu,

xin thương nhìn đến Hội Thánh

là đàn chiên của Chúa.

Xin ban cho Hội Thánh

sự hiệp nhất và yêu thương,

để làm chứng cho Chúa

giữa một thế giới đầy chia rẽ.

Xin cho Hội Thánh

không ngừng lớn lên như hạt lúa.

Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,

đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.

Ước gì Hội Thánh trở nên men

được vùi sâu trong khối bột loài người

để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.

Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp

để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.

Xin cho Hội Thánh

trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,

nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.

Cuối cùng xin cho chúng con

biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,

nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.

Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,

nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

Suy Niệm 2: PHỤC VỤ THIÊN CHÚA

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Dân Do thái là dân riêng được Thiên Chúa tuyển chọn. Để phục vụ Thiên Chúa. Để làm chứng về Thiên Chúa. Khi Dân Chúa không phục vụ Thiên Chúa. Họ bị biến chất. Và sẽ bị thay đổi.

Cây vả là một minh hoạ. Trong Kinh Thánh, cây vả và cây nho thường được dùng để chỉ Dân Chúa. Cây vả này không phục vụ Thiên Chúa. Không có quả khi Chúa đến tìm. Nên nó bị thay thế. Nó phải chết.

Đền thờ là một minh hoạ càng rõ nét hơn. Đền Thờ để phục vụ Thiên Chúa. Nhưng đã biến thành nơi phục vụ lợi nhuận của con người. Đó là hang trộm cướp. Vì con người cướp quyền Thiên Chúa. Vì thế nó phải được thanh tẩy. Đền thờ cũ bị thay thế. Đền thờ mới sẽ là thân thể Chúa Giê-su. Thân thể con người. Của lễ không còn phải là chiên, bò, bồ câu. Nhưng là chính Chúa Giê-su.

Con người để phục vụ Thiên Chúa. Những ai không phục vụ Thiên Chúa sẽ mau chóng tàn lụi. Những con người đánh mất căn tính. Như cây vả và đền thờ. Sẽ mau chóng tàn lụi. “Có những người không còn ai nhớ nữa. Họ qua đi như chẳng bao giờ có”. Còn những người kiên trì phục vụ Thiên Chúa. Chuyên chăm giữ vững giao ước, thực thi Lề Luật. Thì dòng dõi tồn tại. Và vinh quang chói sáng: “Các vị sau đây là những người đạo hạnh, công đức của các ngài không chìm vào quên lãng. Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại. Vinh quang các ngài sẽ chẳng phai mờ” (năm lẻ).

Có biến chất là vì những ích kỷ quy về bản thân luôn là một cơn cám dỗ lớn. Vì thế thư Phê-rô khuyên nhủ ta kiên trì phục vụ Thiên Chúa. Bằng tuân giữ điều răn Chúa truyền: Hãy yêu thương. Phục vụ. Đừng phí phạm ơn Chúa. “Ai có nói thì nói lời Thiên Chúa. Ai phục vụ, thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban. Như thế, trong mọi việc, chúng ta tôn vinh Thiên Chúa”. Để được như thế phải kiên trì vượt qua mọi cám dỗ thử thách. Như thế, “khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cũng được vui mừng hoan hỷ” (năm chẵn).

 

Suy Niệm 3: Ðền thờ tâm hồn

Thiên Chúa là tình yêu, nên nơi Ngài ở không thể có đố kỵ, hận thù, oán ghét. Thiên Chúa là sự thánh thiện, nên nơi Ngài ở không thể có những dâm bôn, chè chén, tục tằn. Thiên Chúa là sự thật, nên nơi Ngài ở không thể có gian manh, lọc lừa, tham lam và trộm cướp.

Chính vì không muốn để cho con người biến Ðền Thờ Thiên Chúa thành hang trộm cướp, mà theo thuật trình Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã tẩy uế Ðền Thờ. Ngài đuổi những kẻ buôn bán, lật bàn của những kẻ đổi bạc và xô ghế của những người bán bồ câu. Ngài bảo: “Nhà Ta được gọi là nhà cầu nguyện của các dân tộc, thế mà các ngươi đã biến thành hang trộm cướp”.

Ngày nay, có những ngôi thánh đường vì hậu quả của chiến tranh, hay vì lý do này lý do khác, đã trở nên hoang tàn, không còn được dùng làm nơi thờ phượng nữa. Cũng có những ngôi thánh đường nguy nga, đồ sộ, nhưng chẳng ai đến dự lễ cầu kinh nữa, mà chỉ để cho du khách đến tham quan như một di tích lịch sử, một kiến trúc nghệ thuật. Bên cạnh đó, tại những miền quê hẻo lánh, có những tín hữu nghèo muốn dựng lên một nhà nguyện đơn sơ để làm nơi đọc kinh cầu nguyện chung với nhau mà không sao làm được. Tuy nhiên, có một điều mà không mấy người tín hữu nghĩ tới, đó là chính tâm hồn của mỗi người là Ðền Thờ của Chúa Ba Ngôi.

Thật thế, nhờ Bí tích Rửa tội, tâm hồn người tín hữu đã trở thành Ðền thờ nơi Thiên Chúa ngự trị. Nhưng thay vì ý thức sự hiện diện sống động của Thiên Chúa trong tâm hồn để sống thân tình với Ngài, chúng ta lại đưa vào đó biết bao chuyện gian tham, lọc lừa, trộm cắp, mưu mô, hận thù, ghen ghét. Chúa Giêsu có lý để khiển trách chúng ta, như Ngài đã phẫn nộ với những kẻ buôn bán trong Ðền Thờ ngày xưa: “Nhà Ta là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi đã biến thành hang trộm cắp”.

Xin Chúa thanh tẩy tâm hồn chúng ta khỏi mọi vết nhơ tội lỗi, gian tham, lọc lừa, kiêu căng và ích kỷ, để tâm hồn chúng ta mãi mãi là Ðền Thờ của Thiên Chúa, và nhờ thế, Thiên Chúa sẽ mãi mãi ở với chúng ta từ nay và cho đến muôn đời.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Ít lá, nhiều trái

Hôm sau Thầy trò rời khỏi Bê-ta-ni-a, thì Đức Giêsu thấy đói. Trông thấy ở đàng xa có một cây vả tốt lá, Người đến xem có tìm được trái nào không. Nhưng khi lại gần Người không tìm được gì cả, chỉ thấy lá thôi, vì không phải là mùa vả. Người lên tiếng bảo cây vả: “Đời đời không còn ai ăn trái của mày nữa!” Các môn đệ đã nghe Người nói thế.

Thầy trò đến Giê-ru-sa-lem. Đức Giêsu vào đền thờ, Người bắt đầu đuổi kẻ đang mua bán trong đền thờ, lật bàn của những người đổi bạc và xô ghế của của những kẻ bán bồ câu. (Mc. 11, 12-15)

Bài Phúc âm hôm nay cho chúng ta có cái mà người ta gọi là một dụ ngôn thực sự, một kịch câm mang tính tiên tri. Các ngôn sứ kỳ cựu thời xưa vẫn thường hay làm những cử chỉ kịch cỡm, có vẻ chướng tai gai mắt cốt thu hút chú ý, và khiến người ta phải suy nghĩ nhiều hơn cả ngàn bài giảng thuyết. Chúa Giêsu họa hoằn lắm mới dùng lối này. Thế mà ở đây Người lại tỏ ra chơi trội. Người nguyền rủa một cây vả không có trái! (Lúc đó có phải là mùa vả không? Tác giả không nói đến điều đó. Dầu sao cử chỉ ấy là phi lý và khác thường. Người ta vẫn dựa vào câu chuyện tẩy uế đền thờ, tiếp theo ngay sau lời nguyền rủa kỳ lạ này để soi sáng và cho cử chỉ kia một ý nghĩa. Như ta biết, nơi Chúa Giêsu, những cơn nổi giận bừng bừng như thế thường ít xảy ra trong cuộc đời của Người, thế mà trong chương mười một này của thánh Maccô, chúng ta lại có đến những hai lần liên tiếp, hẳn không phải là không có lý do.

Phải tôn trọng Đền thờ Chúa và đừng làm hư những kế hoạch của Cha

Xét cho cùng cả hai hành động của Chúa, xua đuổi con buôn khỏi đền thờ cũng như phẫn nộ với cây vả không trái đều có vẻ phi lý phần nào. Bởi lẽ thời ấy người ta công nhận thói quen buôn bán ở trong đền thờ. Những người đổi tiền ở đó một cách nào đó là cần thiết, bởi vì đồng tiền chính thức mang hình và ký hiệu hoàng đế Rôma không được dùng trong phượng tự, và buộc phải đổi sang một đồng tiền không dơ. Còn bọn bán chiên bò, chim bồ câu ở đó để bán những lễ vật cần cho những khách hành hương đến dâng hi lễ.Thái độ giận dữ của Chúa có một tầm mức lớn hơn người ta tưởng, lón hơn nỗi bực tức do cây vả không trái, cũng như do con buôn đền thờ gây nên. Thực ra việc dùng vũ lực và giận dữ của Chúa ở ơây là một hành động tiên tri. Chúa muốn tỏ cho biết hy lễ trong đền thờ của giao ưỡc cũ đã hết thời, phải nhường chỗ cho một đền thờ khác, nơi sẽ lập giao ước mới. Chính ở nơi bản thân Người mà từ nay Thiên Chúa tỏ ra sự hiện diện ở giữa loài người. Chính Đền Thờ mới, Thân Thể của Đức Kitô và nhà của Cha là nơi mà chúng ta cần tránh buôn bán, và tránh làm dơ bẩn.

Ngoài ra cử chỉ giận dữ của Chúa còn có một ý nghĩa đặc biệt khác; ngụ ý rằng trước mặt Thiên Chúa thực là đáng ghê tởm tất cả những gì làm biến chất cứu cánh của người và vật, làm hư hoại kế hoạch của Chúa. Ai lại đã không có lần lợi dụng lòng tốt ngây ngô của một người để khai thác họ? Ai đó lại đã không ham hố thu tích những của cải mà lẽ ra phải được chia sẻ? Những người tham lam như thế cũng đáng phải nhận những làn roi của Chúa!

Như thế chúng ta phải tỏ lòng kính trọng biết bao đối với thân thể hy tế của giao ước mới (Thánh Thể), hy tế thay thế cho lễ vật của đền thờ ngày xưa! Chúng ta phải trân trọng biết bao thân thể mầu nhiệm mà Đức Kitô là đầu và ngày nay là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa loài người (Giáo hội)! Đó chính là đền thờ Thiên Chúa đã thiết lập, để nơi đây con người yêu mến nhau, tôn trọng nhau và chia sẻ cho nhau những của cải vật chất, tinh thần và thiêng liêng vậy.

 

Suy Niệm 5: TRẢ LẠI Ý NGHĨA ĐỀN THỜ (Mc 11, 11-25)

Khi nói đến Thiên Chúa, người ta nghĩ ngay đến bản chất của Ngài, đó là: Tình Yêu. Toàn bộ lịch sử cứu độ muốn nói lên phẩm tính đó nơi Thiên Chúa. Đến thời Đức Giêsu, từ lời nói đến hành động cũng đều nhằm diễn tả tính chân thực này.

Tuy nhiên, hôm nay, Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu lấy thừng làm roi, đánh đuổi những người buôn bán trong đền thờ và xô đổ bàn ghế của họ. Liệu cử chỉ này có bị mâu thuẫn với chính Đức Giêsu và lời dạy của Ngài trước đó không? Chúng ta cần trả lời ngay rằng: Không! Tại sao vậy?

Nếu Đức Giêsu làm lơ, thì họ sẽ hiểu sai mục đích của đền thờ và biến nó thành nơi buôn bán, gian tham, không đúng mục đích. Khi có buôn bán là sẽ có nhiều nguy cơ lọc lừa, trộm cướp…

Ngày nay cũng vậy, trong đời sống đức tin, nhiều người chỉ có vỏ mà không có chất lượng. Tức là chỉ có con người mà những phẩm tính tốt đẹp thì không có. Chỉ mang danh là Kitô hữu, còn làm chứng thì không, nên nhiều khi trong tâm hồn đủ thứ xấu xa tội lỗi!

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta rằng: ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, mỗi người là một đền thờ của Chúa Ba Ngôi. Đền thờ ấy phải là đền thờ sống động nhờ trong trắng, không gian tham, lọc lừa, trộm cắp, mưu mô, hận thù, ghen ghét.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa thanh tẩy linh hồn chúng con, để tấm lòng chúng con được sạch tội và trở nên trong trắng, ngõ hầu xứng đáng đón Chúa ngự vào trong tâm hồn mỗi ngày. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Dụ ngôn cây vả chết khô (Mc 11, 11-26)

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Bài Tin mừng hôm nay, thánh Marcô ghi lại cách tóm tắt nhiều sự kiện và lời dạy của Đức Giêsu: Ngài nguyền rủa cây vả không sinh trái, xua đuổi quân buôn bán ra khỏi đền thờ giáo huấn về sức mạnh của niềm tin, giá trị của lời cầu nguyện và lời mời gọi sống tha thứ để được tha thứ. Chúng ta chú trọng tới hai vấn đề là dụ ngôn cây vả và việc thanh tẩy đền thờ.

Bài Tin mừng kể lại hai câu chuyện có liên hệ với nhau và giải thích cho nhau. Đó là câu chuyện cây vả bị chúc dữ chết khô và câu chuyện xua đuổi những người buôn bán ở Đền thờ./Tại sao Đức Giêsu lại chúc dữ cây vả làm nó chết khô như vậy? Một lời chúc dữ thật kỳ lạ. Đối với Đức Giêsu, nếu chỉ nhằm thỏa mãn cơn đói, thì việc làm trên xem ra là cách phản ứng của một kẻ mất trí bất bình thường: nổi giận với một cây vào không thể sinh hoa trái./Đức Giêsu muốn làm một việc bí ẩn, được giải thích bởi câu chuyện xua đuổi những người buôn bán ở đền thờ liền sau đó. Nghĩa là Đức Giêsu không nhắm tới cây vả, nhưng là Đền thờ. Bởi vì Đền thờ đã không đáp lại sự trông chờ của Thiên Chúa, nó biến thành cái chợ, thành hang trộm cướp, nó khơi dậy sự phẫn nộ của Thiên Chúa và nó sẽ bị tàn phá. Như vậy, cây vả bị chúc dữ và chết khô là hình ảnh của đền thờ Giêrusalem sẽ bị tàn phá bình địa sau này (Lm. Phạm Văn Phượng, OP, Chia sẻ TM hằng ngày, tập 1, tr 81).

Để hiểu rõ hơn, cây vả và đền thờ là hai biểu tượng có liên hệ mật thiết với nhau. Chúng nói lên thực trạng đạo đức lúc bấy giờ của một dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn.

Dân Do thái là dân được Thiên Chúa tuyển chọn để đón chờ Lời hứa Cứu Thế, nhưng sau bao nhiêu phép lạ Chúa làm, bao nhiêu những hồng ân Chúa trao, tới lúc này lòng dạ của họ vẫn chẳng có gì thay đổi. Họ chẳng khác gì một cây vả bên ngoài rất xanh tươi, nhưng bên trong nó không còn khả năng sinh hoa kết trái. Cây vả không hoàn thành được nhiệm vụ của nó. Nó đáng nhận hình phạt bị chết khô./Đền thờ cũng vậy. Chức năng của Đền thờ là giúp người ta được gần gũi Chúa qua lời cầu nguyện, qua việc tạ ơn, qua việc tiếp xúc với Chúa. Nhưng Đền thờ đã không còn giữ được chức năng đó nữa. Đức Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ với ước mong để trả lại cho Đền thờ những chức năng phải có. Nhưng rồi công việc của Chúa cũng chẳng thành công. Và cuối cùng Đền thờ đã bị tàn phá vào năm 70. Các nhà chú giải Kinh thánh coi đây là những hình ảnh Chúa muốn dùng để “thức tỉnh” chúng ta. Người Kitô hữu chúng ta cũng vậy, nếu không cộng tác với ơn Chúa, để làm trổ sinh những hoa trái của đức tin và nếu cứ sống mãi trong cảnh tội lỗi như Đền thờ bị tục hóa, thì rồi cũng sẽ phải chung số phận như vậy.

Chính vì không muốn để con người biến Đền thờ Thiên Chúa thành hang trộm cướp mà Đức Giêsu đã tẩy uế Đền thờ. Ngài đuổi những kẻ buôn bán, lật bàn của những kẻ đổi tiền và xô ghế của những người bán bồ câu. Ngài bảo: “Nhà Ta được gọi là nhà cầu nguyện của các dân tộc, thế mà các ngươi đã biến thành hang trộm cướp”. Thật thế, nhờ Bí tích Rửa tội, tâm hồn người tín hữu đã trở thành Đền thờ nơi Thiên Chúa ngự trị. Nhưng thay vì ý thức sự hiện diện sống động của Thiên Chúa trong tâm hồn để sống thân tình với Ngài, chúng ta lại đưa vào đó biết bao chuyện gian tham, lừa lọc, trộm cắp, mưu mô, hận thù, ghen ghét. Đức Giêsu có lý để khiển trách chúng ta, như Ngài đã phẫn nộ với những kẻ buôn bán trong Đền thờ ngày xưa.

Qua bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng lưu ý chúng ta phải tôn trọng Nhà thờ là nơi tôn nghiêm, quy tụ các tín hữu, cử hành Phụng vụ Lời chúa và phụng vụ Thánh Thể, mọi người có chung một niềm tin, một lời cầu tôn vinh Thiên Chúa. Nhà thờ chính là Hội thánh thu nhỏ, không phải là ngôi nhà kín luỹ cao, trái lại phải mở rộng để đón tiếp mọi người, không phân biệt màu da sắc tộc, ngôn ngữ, tốt xấu, miễn là có thành tâm đến để gặp gỡ Thiên Chúa.

Truyện: Tâm sự của ông Mahatma Gandhi

Mahatma Gandhi, vị thánh của dân tộc Ấn độ, trong nhật ký tự thuật của mình, ông kể lại rằng: khi còn theo học ở Nam Phi, ông rất thích và say mê đọc Kinh thánh, đặc biệt là “Bài giảng trên núi”.

Ông xác tín rằng Kitô giáo chính là đạo để giải đáp cho hệ thống đẳng cấp đã gây thương tổn cho đất nước Ấn độ của ông từ bao thế kỷ. Ông thực sự nuôi ý định trở thành Kitô hữu.

Ngày kia, ông vào Nhà thờ để dự lễ và nghe giảng. Người ta chặn ông lại ở cửa Nhà thờ và nhẹ nhàng cho ông hay rằng: nếu ông muốn dự lễ, xin mời ông đến một Nhà thờ dành riêng cho người da đen.

Ông đã ra đi và không bao giờ trở lại Nhà thờ nữa.

 

Suy Niệm 7: ,,,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Tâm hồn ta là đền thờ Thiên Chúa ngự, nên phải giữ gìn thật trong sáng, không bị hoen ố bởi dục vọng xấu xa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa vào đền thờ Giêrusalem và chứng kiến cảnh hỗn độn bán buôn ồn ào. Chúa đã không để nhà Chúa biến thành sào huyệt trộm cướp. Chúa quả quyết: “Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện”. Chúa đuổi tất cả những kẻ buôn bán ra khỏi đền thờ. Chúa muốn những gì dành cho Thiên Chúa phải xứng đáng với Thiên Chúa.

Lạy Chúa, nhà thờ là trung tâm của cộng đồng giáo xứ. Mỗi khi đến nhà Chúa con mong được tận hưởng bầu khí trang nghiêm thánh thiện. Con quyết tâm góp phần mình, cả vật chất và tinh thần, để nhà Chúa luôn trở nên xứng đáng là nơi nguyện cầu, là điểm hẹn cho mọi người đến gặp gỡ Chúa. Ước gì từ nơi nhà thờ Giáo xứ, đời sống tâm linh của con được nuôi dưỡng và thăng tiến từng ngày.

Hôm nay, Chúa đến với tâm hồn con như một ngôi đền thánh đầy vẻ tôn nghiêm và thánh thiện. Đó là điều Chúa mong muốn và chờ đợi. Xin ban cho con lòng mến yêu tôn thờ để con biết dành phần tốt nhất trong cõi lòng dâng lên Chúa. Chúa biết con hơn chính bản thân con. Xin đừng để con tính toán cầu lợi và mặc cả với Chúa trong những lời cầu xin.

Lạy Chúa, mỗi ngày giờ, từng phút giây, đang có biết bao tâm hồn vươn cao hướng về Chúa. Con xin hợp lời ca tụng Chúa. Nhưng cũng có bao kẻ thờ ơ, lãnh đạm hoặc bôi bác, lợi dụng với lời cầu xin. Xin Chúa thanh luyện để con giữ được đền thánh phúc vinh trong tâm hồn. Con xin dâng tâm hồn con trong tay Chúa. Xin Chúa thánh hóa con. Amen.

Ghi nhớ: “Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của mọi dân tộc. Các ngươi hãy tin vào Thiên Chúa”.

 

Suy Niệm 8: ,,,,,

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

Miền Palestin hay trồng cây vả, cây nho, cây Oliva. Xin đừng lầm cây vả của Do Thái với cây sung của chúng ta. Cây vả của Do Thái: thấp, quả cây ăn ngon bổ, dùng làm bánh Gatô.

Hôm nay, Chúa Giêsu dùng hình ảnh cây vả bị chúc dữ, để lại cho chúng ta bài học riêng. Chúng ta biết là Chúa Giêsu đang lên Giêrusalem dự lễ Vượt qua, người Biệt phái càng tranh luận gay gắt với Chúa. Trước những chống đối cứng lòng ấy, Chúa Giêsu dùng một hình ảnh bóng bẩy. Số là hôm ấy lên Giêrusalem, Chúa thấy đói và đảo mắt nhìn lên cây vả không có trái, mà chỉ thấy cành lá xanh um (c.12). Thánh Máccô nói là chưa phải mùa quả vả (c.13). Thật ra, Chúa lên Giêrusalem vào đầu tháng 4 là lễ Vượt qua. Vào tháng tư, có thể nhìn thấy ít ra những quả nho nhỏ rồi, vào tháng hè quả chín. Nhưng Chúa Giêsu đã không tìm được một quả nào.

Cây vả là tượng trưng cho dân Do Thái được bàn tay yêu thương của Thiên Chúa quan phòng vun trồng trong đất hứa. Dân đó có sứ mệnh đón nhận Đấng Cứu Thế. Cây vả đó được săn sóc kỹ lưỡng bởi Maisen, các Quan án, Tiên tri… cây vả được chăm sóc bón tỉa bằng giới luật, bằng ơn huệ. Thân cây sần sùi tươi tốt sống qua bao nhiên biến cố của Ai Cập, nô lệ Babylon. Trở về đất hứa, họ cũng đã xây Đền thánh cử hành đại lễ, cũng có những lề luật về Sabát, ăn chay, cầu nguyện, việc lành. Nhưng tất cả trở thành thứ màn trình diễn mà trong lòng không nhắm hướng về Giavê, và cuối cùng Đấng Cứu Thế đến qua dân tộc Israel thì họ từ chối.

Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh cây vả được ươm trồng, đáng lẽ phải sinh hoa trái cho nhà nông, thì đã không được gì lại choán đất. Chúa đã nguyền rủa chúc dữ “Từ nay chẳng còn ai ăn trái cây mi” (c.14). Đấy là cây “trái cấm.” Kinh Thánh mô tả “Sáng sớm hôm sau cây vả đã chết khô đến tận gốc” (c.20). Các môn đệ ngạc nhiên, một phép lạ xảy ra dĩ nhiên làm ngạc nhiên. Nhưng Chúa Giêsu còn làm các ông ngạc nhiên hơn nữa, vì Ngài ban quyền năng cao hơn phép lạ đó. Đó là quyền năng của đức tin và của lời cầu nguyện. Phép lạ làm những chuyện hữu hình như “Cây cối héo tàn, chuyển núi dời non…” Nhưng lời cầu nguyện với đức tin sẽ làm Thiên Chúa “xúc động” mà làm như ý kẻ xin: “Tất cả những gì các ngươi cầu xin với lòng tin, thì sẽ được” (c.24).

Điều này không có nghĩa là khi chúng ta cầu nguyện có thể thay đổi chương trình của Thiên Chúa. Nhưng từ đời đời, Thiên Chúa đã biết đến lời cầu nguyện của chúng ta như thế và Ngài đã phác họa chi tiết chương trình cứu rỗi của Ngài. Cho nên đức tin và cầu nguyện cần hơn cả phép lạ vậy. Nếu không có đức tin và cầu nguyện thực sự thì giống như một thân cây xanh um và rồi chết khô héo úa ngày Chúa phán xét. Ngược lại, sống trong đức tin và cầu nguyện sẽ sinh thêm nhiều hoa trái, và bên ngoài thân cây có sù sì nhưng nhựa sống thật sự và âm thầm vì “Ai ở trong Ta sẽ sinh nhiều hoa trái” (Ga 15,5)

Cây chết khô là một lời cảnh báo nghiêm trọng là đời sống tín hữu phải luôn có hoa trái khi Chúa tới. Điều mà Chúa đòi không phải là hoa lá cành hay chỉ là những tư tưởng tốt, chưa đủ, mà là những việc tốt, những việc lành phúc đức, chứ không phải chỉ lời nói suông. Cho nên một người, một tâm hồn nhận nhiều ơn thánh mà không sinh hoa trái thiêng liêng thì càng bị án nặng nề. Phép lạ này chứng tỏ Chúa uy quyền toàn năng. Nhưng cũng nói lên giá trị của kinh nghiệm bằng lòng tin về phía con người chúng ta.

 

Suy Niệm 9: ,,,,,

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

Bài Tin Mừng hôm nay hơi dài và đề cập đến nhiều vấn đề khác nhau:

  1. Trước hết, là việc Chúa quở trách cây vả không trái và việc Ngài đuổi con buôn ra khỏi Đền thờ. Đây là hai hình ảnh có tính biểu tượng rất cao.

Hai biểu tượng này có liên mật thiết với nhau. Chúng nói lên thực trạng đạo đức lúc bấy giờ của một dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn.

Dân Do Thái là dân được Chúa tuyện chọn để đón chờ Lời hứa Cứu Thế, nhưng sau bao nhiêu phép lạ Chúa làm, bao nhiêu những hồng ân Chúa trao, tới lúc này lòng dạ của họ vẫn chẳng có gì thay đổi. Họ chẳng khác gì một cây vả bên ngoài rất xanh tươi nhưng bên trong nó không còn khả năng sinh hoa kết trái. Cây vả không hoàn thành được nhiệm vụ của nó. Nó đáng nhận hình phạt bị chết khô.

Đền thờ cũng vậy. Chức năng của Đền thờ là giúp người ta được gần gũi Chúa qua lời cầu nguyện, qua việc tạ ơn, qua việc tiếp xúc với Chúa. Nhưng Đền thờ đã không còn giữ được chức năng đó nữa. Chúa Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ với ước mong để trả lại cho Đền thờ những chức năng phải có. Nhưng rồi công việc của Chúa cũng chẳng thành công. Và cuối cùng Đền thờ đã bị tàn phá vào năm 70.

Các nhà chú giải Kinh Thánh coi đây là những hình ảnh Chúa muốn dùng để thức tỉnh chúng ta. Người Kitô hữu chúng ta cũng vậy, nếu không biết cộng tác với ơn Chúa, để làm trổ sinh những hoa trái của đức tin và nếu cứ sống mãi trong cảnh tội lỗi như Đền thờ bị tục hóa, thì rồi cũng sẽ phải chung số phận như vậy.

Trong một xưởng lắp ráp tàu thuyền ở Belford xứ Irlande, người ta chuẩn bị hạ thủy một con tàu xuyên đại dương với cái tên gọi thật uy nghiêm: TITANIC.

Người ta tin rằng chiếc tàu vĩ đại này sẽ ngạo nghễ vượt sóng và coi thường những bão tố của biển cả.

Rất nhiều thợ đang bận rộn vào việc hoàn tất con tàu to lớn này. Trong số những thợ này có khá nhiều kẻ nghịch đạo. Họ đã viết trên vỏ tàu đủ loại lời lộng ngôn và đùa nghịch bất kính, phạm thượng, nhất là để tỏ vẻ khinh miệt các bạn bè có tín ngưỡng của họ.

Trong số những câu họ đã viết, có câu: “Chính ông Kitô cũng không thể làm cho nó chìm được”. Còn rất nhiều câu khác tương tự như thế nữa, mặc dù bị nước sơn phủ lên, nhưng chẳng bao lâu lại lộ ra. Có một người Công giáo làm việc tại đây. Người này đã tận mắt thấy những câu viết phạm thượng ấy, nên anh đã viết cho cha mẹ của anh ở Dublin những dòng chữ này:

“Con nghĩ rằng chiếc tàu sẽ không thể nào đến Mỹ Châu được vì những câu nói lộng ngôn tràn đầy ở hai bên hông tàu”.

Cha mẹ anh cho đến bây giờ vẫn còn giữ lá thư này như kỷ niệm cuối cùng của con họ. Linh tính đau buồn của anh đã trở thành hiện thực. Chiếc tàu Titanic đã không đến được Mỹ quốc. Trong đêm tối, nó đụng phải đá ngầm và đã chìm xuống đáy biển cùng với hầu hết số hành khách đi trên chiếc tàu ấy.

  1. Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Anh em hãy tin vào Thiên Chúa.” (Mc 11, 22)

Bà mẹ kia có đứa con gái. Nhưng con bà đâm hư hỏng và đi làm chiêu đãi ở những hộp đêm. Lúc đầu bà buồn phiền và ngồi than thân trách phận, cho mình là vô phúc vì có một đứa con như thế. Nhưng rồi bà suy nghĩ lại, bà tự nhủ:

– Nếu thực sự tin Chúa, tin vào tình yêu ngài đối với mỗi con người, tin vào lòng quan phòng của ngài, thì tại sao ta lại không lên tiếng ca tụng Ngài dù trong bất cứ mọi hoàn cảnh nào. Vì nếu Ngài muốn thì cái gì cũng có thể cả.

Thế rồi từ đó trở đi, bà không còn buồn phiền mỗi khi nghĩ đến người con nữa, nhưng luôn lên tiếng ca khen Chúa. Lần kia, gặp người bạn tới chơi, bà nói với ông về đứa con gái của bà…

Ông này dò hỏi và biết cô con gái của bạn mình làm ở đâu. Biết được chỗ làm việc của người con gái, một lần kia ông đích thân đến quán snack bar nơi cô làm việc.

Đúng như dự tính, ông đã gặp người con gái ấy trong quán bar này. Lúc đầu khi gặp cô, xem ra cô hơi ngạc nhiên một chút. Nhưng rồi cố lấy lại bình tĩnh và hành xử như là không có gì xảy ra. Sau khi đã kêu hai ly nước, ông mời cô ngồi xuống bên cạnh mình. Ông nhìn cô bằng một cặp mắt cảm thông. Thay vì cô được nghe những lời xàm xỡ như bao lần, cô đã nghe được từ người đàn ông này những lời khác:

– Đức Kitô yêu cô lắm!

Nói xong, ông nhìn cô với một cặp mắt trìu mến rồi thanh toán những thứ cần thanh toán và lẳng lặng ra về.

Không bao lâu sau, người ta thấy người con gái đó bên cạnh mẹ mình tại nhà thờ với tất cả sự thanh thản của một tâm hồn đã được đổi mới.

Vâng! Một bông hồng có thể mọc lên từ một đống phân!

 

 

 

THỨ BẢY TUẦN 8 THƯỜNG NIÊN

 

Lời Chúa: Mc. 11, 27-33

Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ lại đến Giêrusalem. Và trong khi Chúa Giêsu đi lại trong đền thờ, thì những trưởng tế, luật sĩ và kỳ lão đến hỏi Người: “Ông lấy quyền nào mà làm sự đó? Và ai đã ban quyền cho ông để làm như vậy?”

Chúa Giêsu đáp: “Tôi sẽ hỏi các ông một câu thôi, hãy trả lời cho Tôi thì Tôi sẽ bảo cho các ông hay Tôi lấy quyền nào mà làm việc đó: Phép rửa của Gioan bởi trời hay bởi người ta? Hãy trả lời Tôi đi”. Họ liền bàn riêng với nhau rằng: “Nếu chúng ta trả lời “Bởi trời”, ông ấy sẽ nói: “Vậy sao các ông không tin Người?” Nhưng nếu chúng ta nói “Bởi người ta”, chúng ta sợ dân chúng, vì mọi người đều coi Gioan thật là một tiên tri.

Vậy họ thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Chúng tôi không biết”. Và Chúa Giêsu bảo họ: “Vậy thì tôi cũng không nói cho các ông biết bởi quyền phép nào Tôi làm sự đó”.

 

Suy Niệm 1: Chúng tôi không biết

Suy niệm :

“Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy

hay ai đã cho ông quyền làm các điều ấy?” (c. 28).

Ba giới chức cao nhất của Do Thái giáo

đã đặt câu hỏi như vậy với Đức Giêsu khi Ngài đi đi lại lại

trong Đền Thờ Giêrusalem vào những ngày cuối đời.

Ông lấy quyền nào mà dám đuổi những kẻ buôn bán ở đây?

Ông lấy quyền nào mà lật bàn của những người đổi tiền,

và xô đổ ghế của những người bán bồ câu? (c. 15).

Tất cả những người làm chuyện buôn bán

đều nhằm phục vụ cho nhu cầu tế tự của Đền Thờ.

Nếu không cho buôn bán ở đây thì người dân lấy gì mà dâng cúng?

Có phải ông định phá hoại các sinh hoạt ở Đền Thờ không?

Tại sao ông dám nói nơi Thánh này đã trở nên hang ổ của bọn cướp ?

Các thượng tế, kinh sư và kỳ mục muốn giết Đức Giêsu (c. 18).

Họ nghiêm chỉnh đến gặp Ngài và đòi Ngài phải trả lời câu hỏi của họ.

Họ muốn biết người nào đã cho Đức Giêsu quyền đó.

Đức Giêsu dùng phương pháp của các rabbi,

trả lời một câu hỏi bằng cách đặt ngược một câu hỏi khác.

“Tôi chỉ xin hỏi các ông một điều thôi.

Các ông trả lời đi, rồi tôi sẽ nói cho các ông biết

tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy” (c. 29).

Ngài đặt cho họ câu hỏi về nguồn gốc của phép rửa bởi Gioan:

“Phép rửa của ông Gioan là do Thiên Chúa hay do loài người?” (c. 30).

Câu hỏi tưởng như đơn giản này lập tức đưa họ vào thế kẹt.

Nếu trả lời phép rửa của Gioan là bởi Thiên Chúa

thì họ sẽ bị tố cáo vì đã không tin vào lời giảng của Gioan.

Hơn nữa khi tin vào Gioan, họ cũng phải tin vào Đức Giêsu,

Đấng đã được Gioan hết lòng khiêm cung làm chứng.

Nếu trả lời phép rửa của Gioan là bởi loài người

thì họ sẽ vấp phải sự chống đối từ phía dân chúng,

vì họ tin Gioan là một vị ngôn sứ đích thực.

Như thế câu hỏi của Đức Giêsu đã đưa họ vào thế tiến thoái lưỡng nan.

Câu hỏi của Ngài dồn họ vào thế phải trả lời:

“Chúng tôi không biết.” (c. 33).

Có thật họ không biết hay chỉ là né tránh sự thật?

Họ đã không tin Gioan, vì sợ tin Gioan sẽ phải tin cả Giêsu nữa.

Nhưng họ lại sợ không dám nói ra điều đó cho dân chúng biết.

Nỗi sợ bị mất uy tín, mất chỗ đứng, khiến họ trở nên câm lặng.

Câu hỏi của Đức Giê su đòi họ trở về với lòng mình

để tự tìm thấy câu trả lời cho câu hỏi của họ: “Ông lấy quyền nào?”

Quyền của Đức Giêsu là quyền năng của Thánh Thần Thiên Chúa.

Làm thế nào để chúng ta thoát khỏi thành kiến và nỗi sợ hãi

để có được sự tự do khi trao đổi với nhau?

Làm thế nào để chúng ta không tìm cách tránh né sự thật,

dù chấp nhận sự thật đòi chúng ta phải thay đổi tận căn và trả giá?

Làm thế nào để chúng ta can đảm nhận mình sai để lại bắt đầu?

 

Cầu nguyện :

Lạy Cha,

xin dạy chúng con biết cộng tác với nhau

trong việc xây dựng Nước Trời ở trần gian.

Xin cho chúng con đến với nhau

không chút thành kiến,

và tin tưởng vào thiện chí của nhau.

Khi cộng tác với nhau,

xin cho chúng con cảm thấy Cha hiện diện,

nhờ đó chúng con vượt qua

những tự ái nhỏ nhen,

những tham vọng ích kỷ

và những định kiến cằn cỗi.

Ước gì chúng con dám từ bỏ mình,

để tìm kiếm chân lý

ở mọi nơi và mọi người,

nhất là nơi những ai khác quan điểm.

Lạy Cha,

xin sai Thánh Thần đến trên chúng con,

để chúng con biết lắng nghe nhau bằng quả tim,

và hiểu nhau ngay trong những dị biệt.

Nhờ sống mầu nhiệm cộng tác,

xin cho chúng con được triển nở không ngừng

và Thánh Ý Cha được thể hiện trên mặt đất. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

Suy Niệm 2: TRUY TÌM KHÔN NGOAN

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Thượng tế, kinh sư và kỳ mục hỏi Chúa một câu hỏi. Chúa Giê-su trả lời bằng một câu hỏi khác. Theo triết học thì câu hỏi là một truy tìm khôn ngoan. Câu hỏi của các thượng tế hướng về quyền lợi. Đó là khôn ngoan theo trần gian. Vì Chúa Giê-su xua đuổi người buôn bán ra khỏi Đền Thờ. Giới thượng tế mất uy tín và lợi nhuận. Câu hỏi của Chúa Giê-su xoáy vào lương tâm. Hỏi về sự thật. Mở ra khôn ngoan theo Nước Trời. Họ không dám trả lời. Vì nếu trả lời theo lương tâm và sự thật thì họ mất uy tín và quyền lợi. Họ không tìm khôn ngoan. Họ tìm lợi nhuận. Nói đúng ra họ chọn khôn ngoan theo thế gian. Nên không nghe lời Chúa.

Giới kinh sư, thượng tế và kỳ mục không có niềm vui. Vì họ né tránh sự thật. Tuy họ không dám trả lời câu hỏi của Chúa Giê-su, nhưng câu hỏi vẫn còn đó. Chất vấn lương tâm họ. Đặt họ đối diện với sự thật. Vì họ không tìm sự khôn ngoan. Nên lương tâm họ ray rứt. Trái lại tác giả sách Huấn ca tha thiết tìm sự khôn ngoan. Nên tâm hồn ông bình an. Hạnh phúc. Và tin tưởng. “Như hoa tươi nở, tựa chùm nho chín, đức khôn ngoan làm hoan hỷ lòng tôi…Vì tôi đã cương quyết sống theo đức khôn ngoan, tôi hăng say tìm điều thiện, và sẽ không xấu hổ thẹn thùng”. Biết rằng đức khôn ngoan ở nơi Chúa, nên ông tha thiết cầu nguyện xin Chúa ban cho sự khôn ngoan. “Nơi thánh điện tôi hằng cầu xin, và cho đến mãn đời, tôi vẫn tìm kiếm đức khôn ngoan”. Khi tìm được ông tha thiết giữ gìn: “Trong đức khôn ngoan, hồn tôi đã phấn đấu, và chuyên cần tuân giữ Lề Luật”. Và ông tạ ơn Chúa ban cho ông sự khôn ngoan: “Trong đức khôn ngoan, tôi tiến lên mãi, và tôi sẽ tôn vinh Thiên Chúa, Đấng đã cho tôi được khôn ngoan”.

Thư Giu-đa rõ ràng hơn. Cho biết do dự là thiếu khôn ngoan. Sẽ dẫn đến hoả ngục. “Đối với những người do dự thì anh em phải thương xót; hãy lo cứu họ, kéo họ ra khỏi lửa thiêu”. Người khôn ngoan theo Nước Trời phải dứt khoát mạnh mẽ trung thành với một chọn lựa duy nhất: sống theo đức tin. Tin vào Chúa Giê-su. Cậy trông vào lòng thương xót của Chúa. Đó là khôn ngoan. Vì sẽ dẫn ta đến sự sống đời đời: “Anh em hãy xây dựng đời mình trên nền tảng đức tin rất thánh của anh em, hãy cầu nguyện nhờ Thánh Thần, hãy cố gắng sống mãi trong tình thương của Thiên Chúa, hãy chờ đợi lòng thương xót của đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, để được sống đời đời” (năm chẵn).

 

Suy Niệm 3: Chất vấn về quyền

Theo Tin Mừng Marcô, Chúa Giêsu đã bắt đầu tranh luận với những người Do thái không tin khi Chúa Giêsu lên Yêrusalem lần cuối cùng. Bầu không khí đối đầu giữa Chúa và các vị lãnh đạo Do thái khởi sự với biến cố Chúa đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi Ðền Thờ. Ngày hôm sau, khi Chúa và các môn đệ trở lại Ðền Thờ, các Thượng tế, Luật sĩ và Kỳ mục đến chất vấn Chúa: “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy?”. Tin Mừng hôm nay ghi lại cuộc tranh luận đầu tiên trong năm cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và các vị lãnh đạo Do thái, trước khi Chúa Giêsu bước vào cuộc tử nạn của Ngài.

Tinh thần chân thành và đối thoại vốn là tinh thần của Phúc Âm. Là con người hiếu hòa, Chúa Giêsu cũng tỏ ra chân thành và thích đối thoại. Tuy nhiên, khi những người đối thoại với Ngài tỏ ra gian manh, thì Chúa Giêsu lại giữ thái độ yên lặng, như khi Ngài đứng trước Caipha, Hêrôđê, Philatô. Nhưng trường hợp những kẻ đối thoại bắt bẻ điều gì, thì Chúa lại chứng tỏ sự trổi vượt của Ngài. Ngài cũng đáp lại bằng một phương thế khác, khi những người đối thoại muốn gây áp lực để buộc Chúa phải trả lời, như khi họ hỏi Chúa có nên nộp thuế cho hoàng đế Cesar không, hoặc có nên ném đá người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tính không?

Hôm nay, chúng ta chứng kiến một cảnh đối ngoại, nhưng thật ra đó chỉ là một cách gài bẫy để bắt bẻ Chúa: “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy?” Chúa Giêsu nhận thấy thái độ không thành thật của họ nên Ngài hỏi vặn lại: “Phép rửa của Gioan là do Trời hay do người ta?”. Cách thức trả lời của những kẻ chống đối Chúa cho thấy họ đã tìm ra giải đáp cho câu hỏi họ đặt ra. Họ không thể chối cãi sự kiện phép rửa của Gioan là từ Trời, do quyền của một vị Tiên tri. So sánh phép rửa của Gioan với những việc làm và những phép lạ của Chúa Giêsu mà họ đã chứng kiến, thì chắc chắn những phép lạ của Chúa hơn phép rửa của Gioan. Do đó, theo lý luận nghiêm chỉnh và thành thật, những kẻ chống đối Chúa phải biết Chúa đã lấy quyền từ đâu để làm các điều ấy.

Như thế, câu hỏi của Chúa Giêsu: “Phép rửa của Gioan là do Trời hay do người ta?” là câu hỏi để đánh thức lương tâm và kêu gọi đến sự thành thật nơi những kẻ chống đối Ngài. Chỉ những ai chấp nhận đi theo con đường sự thật với lòng chân thành, người đó mới vào được Nước Chúa và được cứu rỗi. Ðể có thể vào Nước Chúa, những kẻ chất vấn Chúa trong Tin Mừng hôm nay, cần phải canh tân đời sống, cần phải có lòng chân thành, lương tâm ngay chính và tinh thần phục thiện.

Chúng ta hãy nhìn về cuộc sống của mình và xét xem chúng ta đã sống thế nào? Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta nhận biết sự thật, khiêm tốn đón nhận và sống sự thật của Chúa cho đến cùng.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Suy Niệm 4: Thượng Hội Đồng chào thua

Đức Giêsu và các môn đệ lại vào Giê-ru-sa-lem. Người đang đi trong đền thờ, thì các thượng tế, kinh sư và kỳ mục đến cùng Người và hỏi: “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? Hay ai đã cho ông quyền đó để ông làm các điều ấy?” (Mc. 11, 27-28)

Việc tẩy uế đền thờ đến tai nhà chức trách tôn giáo Do thái, không phải chuyện chơi. Người ta cử một phái đoàn chính thức của Thượng hội đồng (gồm các trưởng tế, luật sĩ và trưởng lão) đến điều tra sự việc. Thoạt nhìn, cuộc điều tra có vẻ “lô-gích”. Chúa Giêsu qua hành động mới đây đã đòi cho mình có quyền đối với Nhà Chúa, còn đối với những người Do thái thì đây là một đòi hỏi ngạo mạn chưa từng có. Thực tế, những người đến điều tra đều là những quan tòa nặng óc thành kiến. Họ đến không phải để tìm biết một sự thật, mà là để gài bẫy. Chúa Giêsu trả lời không phải để lẩn tránh vấn đề, nhưng cốt lột cái mặt nạ che dấu tính xảo quyệt của họ: “Vây, phép rửa của ông Gioan là do Trời hay do người ta?” Sau khi cân nhắc ảnh hưởng lợi hại của câu trả lời, những người được sai đi ấy không dám bày tỏ ý kiến riêng, bởi lẽ biết sự thật về ông Gioan thì họ cho là điều ít quan trọng, điều quan trọng đối với họ là phải giữ thể diện. Bởi họ có thái độ như thế, nên Chúa Giêsu nghĩ có nói cho họ biết ý nghĩa thật về sứ mạng của Người thì cũng vô ích. Bởi Người đến không phải để thỏa mãn óc tò mò của con người. Người đến làm cuộc đổi thay những cuộc đời, và để có được sự đổi thay này, bước đầu của con người là phải mở rộng tâm hồn mình ra.

Chúa Giêsu không muốn mở những cuộc phỏng vấn

Kitô giáo không phải là một cuộc đọ tài giữa những kẻ tài trí như những đấu thủ quần vợt giao banh khéo léo và hiểm hóc. Người ta sẽ không tìm đưa ra những lý lẽ chứng minh chân lý đức tin cho những con người không muốn tin. Ai không tự mình khâm phục bản thân con người Đúc Giêsu, thì cũng đừng nghĩ rằng những lý luận hay ho sẽ làm cho người ấy chịu thuyết phục.

Nếu Chúa Giêsu không để cho người ta phỏng vấn hôm nay và giải thích quan niệm của Người về cuộc sống, về thế giới, Người cũng sẽ không bắt ai phải chịu phục Người, bởi lẽ không phải vì những lời giảng giải hay nói truyện của Người mà người ta gắn bó với Người, mà vì Người là ai, sống như thế nào và đã làm gì. Chúng ta không phải là những nhà kỹ thuật đã sáng nghĩ ra một mô hình sống cao hơn, chúng ta là những chứng nhân hèn mọn của AI ĐÓ đã sống đời mình như là Thiên Chúa, đã yêu thương con người đến chết vì con người, nên Thiên Chúa đã giải thoát Người khỏi sự chết và đã ban tặng Người “một Tên cao trọng hơn mọi tên”.

Chúng ta coi chừng đừng ỷ mình hiểu biết về Chúa mà thay đổi được lòng người, chính khi yêu thương mà chúng ta sẽ là những chứng nhân của Tình yêu.

 

Suy Niệm 5: AI HƠN AI? (Mc 11, 27-33)

Sau khi đánh đuổi con buôn trong đền thờ, Đức Giêsu bị các vị lãnh đạo Dothái đến chất vấn Ngài về nội dung việc đuổi dân chúng ra khỏi đền thờ. Đây cũng chính là một trong 5 cuộc tranh luận sôi nổi giữa Ngài với những người lãnh đạo Dothái trước khi chịu chết.

Khởi đi từ việc họ cất tiếng hỏi Đức Giêsu: “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy?”. Đây là câu hỏi ranh mãnh và đầy nguy hiểm. Nếu Đức Giêsu trả lời là Ngài tự ý lấy quyền của riêng mình mà làm vậy, thì họ ngay lập tức có lý để bắt Ngài vì những lời nói đầy ngông cuồng. Nếu Ngài nói là lấy quyền của Thiên Chúa thì họ cũng thừa cớ để loại trừ Ngài vì những lời nói lộng ngôn.

Tuy nhiên, tình thế được lật ngược khi Đức Giêsu đặt họ vào một thế bí khi thức tỉnh lương tâm bằng câu hỏi: “Theo ý các ông, thì công việc của Gioan Tẩy giả là theo ý người ta hay theo ý muốn của Thiên Chúa?”. Câu hỏi này đã đẩy họ vào đường cùng, khiến họ gặp phải một nan đề khó giải quyết, bởi lẽ, nếu trả lời là đến từ Thiên Chúa thì họ đoán trước có thể sẽ bị Đức Giêsu nói rằng: tại sao các ông lại chống? Hay nếu đến từ Thiên Chúa thì tại sao không tin Gioan đã làm chứng về Ngài? Và tại sao không công nhận Ngài là Mêsia? Còn nếu nói là đến từ con người thì chắc chắn họ bị dân chúng chống đối và phản loạn, bởi vì Gioan được coi như Ngôn Sứ và là chứng nhân. Đứng trước tình thế bí bách đó, họ chỉ còn biết thốt lên: chúng tôi không biết!

Khi sự thật lên ngôi thì những sự gian trá ranh mãnh phải lui về vị trí của chúng.

Trong xã hội hôm nay vẫn còn đó những người sống giả hình, man trá, tránh né hoặc trốn chạy sự thật. Khi không chấp nhận chân lý, thì họ chỉ còn sống trên sự tàn ác, độc địa, giã tâm khi bóp méo sự thật, bẻ cong ngòi bút để dồn anh chị em chúng ta vào chân tường.

Tuy nhiên, cũng như những nhà lãnh đạo Do thái thời bấy giờ. Nếu không dám đối diện với sự thật và nâng đỡ nhau trong chân lý, thì ắt sẽ lãnh nhận hậu quả là rơi vào trong tình trạng tuyệt vọng và đáng xấu hổ, lầm lũi ra về.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay sẽ đánh thức lương tâm của mỗi người, nếu chúng ta đang sống trong sự giả trá, thiếu chân thành và không phục thiện.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con biết sống đơn sơ, chân thành để gặp được Chúa và thuộc về Chúa để được sống đời đời. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: ,,,,,

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

NO NO NO NO

 

Suy Niệm 7: ,,,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Có nhiều người đến gặp Chúa Giêsu với nhiều mục đích khác nhau. Hôm nay, các thượng tế, các kinh sư, và các kỳ mục đến để bắt bẻ, gài bẫy Chúa. Chúng ta thường đến gặp Chúa với mục đích gì ?

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, khi gặp những người đối thoại muốn bắt bẻ điều chi, thì Chúa chứng tỏ sự trổi vượt của Chúa bằng sự im lặng, như khi Chúa đối diện với vua Hêrôđê, hoặc với quan Philatô. Bởi vì đạo Chúa không phải là cuộc đấu trí giữa những người thông minh khéo léo. Chúa cũng không đến để thỏa mãn tính tò mò của con người. Nhưng Chúa đến để thay đổi đời sống của nhân loại. Tuy nhiên, muốn đổi mới cuộc sống, con người cần mở rộng lòng mình để đón nhận chân lý.

Lạy Chúa, Chúa không chỉ hướng dẫn con bằng lời nói, nhưng trên hết, Chúa đã để lại mẫu gương sống động về tình yêu. Xin giúp con biến đổi bản thân mình bằng cách sống yêu thương, chứ không phải bằng sự hiểu biết lý thuyết về Thiên Chúa. Và xin loại khỏi con những thành kiến để con có thể chấp nhận tất cả mọi người với lòng yêu mến chân thật. Ước gì qua những lần gặp gỡ anh em, con biết biểu lộ tấm lòng chân thành, biết tôn trọng và yêu mến họ, vì tất cả mọi người đều được Chúa yêu thương. Con quyết tâm bắt tay anh em như một cử chỉ cảm thông yêu mến. Con dốc lòng sẽ nói lời dịu dàng để nối kết tình nghĩa anh em.

Lạy Chúa, những ai đi theo con đường sự thật với lòng chân thành, sẽ được vào Nước Chúa và mới được cứu rỗi. Chúa đã dạy con biết sự thật và muốn con khiêm tốn đón nhận sự thật ấy. Xin giúp con biết sống chân thành theo sự thật của Chúa cho đến cùng. Amen.

Ghi nhớ: “Ông lấy quyền nào làm sự đó ?”

 

Suy Niệm 8: ,,,,,

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

Theo Tin Mừng Máccô, Chúa Giêsu đã bắt đầu tranh luận với những người Do Thái không tin khi Chúa Giêsu lên Giêrusalem lần cuối cùng. Bầu không khí đối đầu giữa Chúa và các vị lãnh đạo Do Thái khởi sự với biến cố Chúa đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi Đền thờ. Ngày hôm sau, khi Chúa và các môn đệ trở lại Đền thờ, các Thượng tế, Luật sĩ và Kỳ mục đến chất vấn Chúa: “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy?” Tin Mừng hôm nay ghi lại cuộc tranh luận đầu tiên trong số năm cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và các vị lãnh đạo Do Thái, trước khi Chúa Giêsu bước vào cuộc tử nạn của Ngài

Tinh thần chân thành và đối thoại vốn là tinh thần của Phúc Âm. Là con người hiếu hòa, Chúa Giêsu cũng tỏ ra chân thành và thích đối thoại. Tuy nhiên, khi những người đối thoại với Ngài tỏ ra gian manh, thì Chúa Giêsu lại giữ thái độ yên lặng, như khi Ngài đứng trước Caipha, Hêrôđê, Philatô. Nhưng trường hợp những kẻ đối thoại bắt bẻ điều gì, thì Chúa lại chứng tỏ sự trổi vượt của Ngài. Ngài cũng đáp lại bằng một phương thế khác, khi những người đối thoại muốn gây áp lực để buộc Chúa phải trả lời, như khi họ hỏi Chúa có nên nộp thuế cho Hoàng đế César không hoặc có nên ném đá người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình không?

Hôm nay, chúng ta chứng kiến một cảnh đối thoại, nhưng thật ra đó chỉ là một cách gài bẫy để bắt bẻ Chúa: “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy?” Chúa Giêsu nhận thấy thái độ không thành thật của họ nên Ngài hỏi vặn lại: “Phép rửa của Gioan là do Trời hay do người ta?” Cách thức trả lời của những kẻ chống đối của Chúa cho thấy họ đã tìm ra giải đáp cho câu hỏi họ đặt ra. Họ không thể chối cãi sự kiện phép rửa của Gioan là từ Trời, do quyền của một vị Tiên tri. So sánh phép rửa của Gioan với những việc làm và những phép lạ của Chúa Giêsu mà họ đã chứng kiến, thì chắc chắn những phép lạ của Chúa hơn phép rửa của Gioan. Do đó, theo lý luận nghiêm chỉnh và và thành thật, những kẻ chống đối Chúa phải biết Chúa đã lấy quyền từ đâu để làm các điều ấy.

Như thế, câu hỏi của Chúa Giêsu: “Phép rửa của Gioan là do Trời hay do người ta?” là câu hỏi để đánh thức lương tâm và kêu gọi đến sự thành thật nơi những kẻ chống đối Ngài. Chỉ những ai chấp nhận đi theo con đường sự thật với lòng chân thành, người đó mới vào được Nước Chúa và được cứu rỗi. Để có thể vào Nước Chúa, những kẻ chất vấn Chúa trong Tin Mừng hôm nay, cần phải canh tân đời sống, cần phải có lòng chân thành, lương tâm ngay chính và tinh thần phục thiện.

Chúng ta hãy nhìn về cuộc sống của mình và xét xem chúng ta đã sống thế nào? Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta nhận biết sự thật, khiêm tốn đón nhận và sống sự thật của Chúa cho đến cùng.

 

Suy Niệm 9: ,,,,,

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Các thượng tế và Kinh sư dùng một câu hỏi hóc búa để gài bẫyChúa: Ông lấy quyền nào mà làm các chuyện ấy (tức là truyện Thanh tẩy Đền thờ).

* Nếu Chúa trả lời ngài lấy quyền của Thiên Chúa thì họ sẽ có đủ lý do để tố cáo và bắt giết Ngài, vì theo luật lệ của họ, ai xưng mình là Thiên Chúa thì đáng tội chết.

* Nếu Chúa nói ngài tự lấy quyền mình mà làm thì trước mắt họ Ngài là một người vô danh tiểu tốt mà dám chống lại hàng thượng tế và Kinh sư sao được, như thế ngài cũng mắc tội

Nhưng họ thật không ngờ là Chúa đã dùng ngay cái bẫy họ giăng để làm họ bị kẹt, không trả lời được. Chúa hỏi: “Tôi cũng xin hỏi các ông một điều thôi. Các ông trả lời đi, rồi tôi sẽ nói cho các ông biết, tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy? (Mc 11, 30) Họ không trả lời được. Chân họ đã vướng vào bẫy do chính mình bày ra. “Tôi cũng vậy, tôi cũng không nói cho các ông biết là tôi lấy quyền nào mà làm” (Mc 11, 33). Thế là huề cả làng.

  1. Vâng chúng ta hãy cố gắng mà đối xử tốt với nhau.

Người ta thường nói: ác giả ác báo. Đi đêm nhiều thế nào cũng có lúc gặp ma; cố tình làm điều ác, làm điều dữ thì sẽ có ngày bị trừng phạt. Đó là lẽ thường tình của cuộc sống.

Hẳn mỗi người chúng ta còn nhớ câu truyện giữa cò với cáo. Truyện thế này: Có một dạo cáo và cò chơi thân với nhau. Chúng rất hay thăm viếng nhau, chẳng khác gì hai người bạn thân. Một hôm cáo mời cò đến ăn cơm, và để xỏ bạn, cáo chỉ đặt trước mặt cò một chiếc dĩa trẹt. Với món ăn ở trong dĩa này, thì cáo có thể liếm sạch một cách dễ dàng, nhưng cò chỉ có thể nhúng ướt đầu cái mỏ dài của mình trong dĩa xúp và ăn xong vẫn thấy đói. “Xin lỗi”, cáo nói, “món xúp này có lẽ không hợp với bạn”.

Có cũng chẳng vừa, nó nói

– Thôi mà, đừng xin lỗi. Hy vọng rằng mình đã đến chơi với bạn thì bạn cũng ghé chơi với mình, mai kia đến chơi ăn cơm với mình nhé

Và đôi bạn thu xếp hẹn ngày cho cáo đến thăm cò. Lúc cáo đến, cả hai ngồi vào bàn ăn. Mâm cơm hôm đó chỉ có một cái bình, cổ dài, miệng hẹp, cáo không thể nào cho mồm vào được, chỉ ngồi đó mà liếm bên ngoài bình.

– Ăn như thế này, mình chẳng có gì phải xin lỗi, ác giả ác báo mà. Cò nói.

Ngược lại, khi chúng ta cố gắng ăn ngay ở lành thì niềm vui, ơn lộc sẽ đến với chúng ta.

Đây là câu chuyện từ Internet:

Hôm đó, tôi đến một tiệm hoa nhỏ để mua hoa. Sau khi nghe tôi kể tên một số loại hoa tôi định mua, cô gái bán hoa quay người vào trong phòng trữ hoa. Sau đó, tôi nghe thấy có tiếng nói chuyện thì thầm từ trong phòng vọng ra.

Tôi tự hỏi, không biết cô ta nói chuyện với ai vậy?

Không kiềm chế nổi sự tò mò, tôi gõ cửa hỏi cô ta:

– Cô đang nói chuyện với ai vậy?

Cô quay đầu mỉm cười, trả lời:

– Tôi đang nói chuyện với hoa của tôi.

Tôi vô cùng ngạc nhiên, hỏi lại:

– Nói chuyện với hoa của cô ư?

Bằng đôi tay mảnh mai đang bận rộn chọn những bông hoa cho tôi, cô đáp lại:

– Tôi trò chuyện với hoa của tôi. Nói với bông hoa này, mi nở tốt lắm, rực rỡ lắm, nhưng ta cũng không giữ nổi mi lại đâu. Rồi tôi nói với bông hoa kia, mi vội gì chứ, nụ hoa vẫn còn chặt như thế, một hai ngày nữa bán vẫn chưa muộn.

Tôi sững sờ đứng nghe. Sau khi từ biệt cô gái, trong lòng tôi tràn ngập cảm giác khó tả, bất giác tôi nhớ đến một câu chuyện khác.

Một tài xế lái xe buýt trên một tuyến đường ngoại ô. Ngày nào anh cũng vui vẻ lái xe trên con đường đầy cát bụi này. Cô nhân viên bán vé trêu anh:

– Chẳng ai được như anh, ngày nào cũng có hẹn.

Anh ấy hạnh phúc mỉm cười, hỏi:

– Ghen tị rồi phải không?

Hành khách đều đoán già đoán non, chắc là chàng trai này có người yêu ở vùng ngoại ô.

Chiếc xe buýt lắc lư tiến về phía trước trên con đường đầy ổ gà. Gần đến một thôn nhỏ, cô nhân viên bán vé phấn khích chỉ vào một chiếc ao trước mặt nói:

– Vẫn còn ở đó? Không sai một phút!

Người lái xe bấm còi, 3 tiếng ngắn, 1 tiếng dài giống như “ám hiệu”.

Hành khách ngẩng cổ lên nhìn: Trời ơi, hóa ra là một bầy ngỗng trắng! Nghe tiếng còi xe, chúng lập tức dang rộng đôi cánh tranh nhau chạy về phía chiếc xe, vừa chạy vừa vui sướng kêu lên, giống như những cô gái chờ đợi lâu ngày mới gặp được người yêu.

Chàng lái xe hò hẹn với những con ngỗng trắng, cô gái thì thầm to nhỏ với những cành hoa, khiến tôi hiểu được một điều: cuộc sống có thật nhiều niềm vui nếu ta biết trân trọng nó.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con trở nên những chứng nhân cho tình yêu Chúa giữa anh chị em xung quanh chúng con. Amen.