Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 9 Thường Niên

Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 9 Thường Niên

THỨ HAI TUẦN 9 THƯỜNG NIÊN.

THỨ BA TUẦN 9 THƯỜNG NIÊN.

THỨ TƯ TUẦN 9 THƯỜNG NIÊN.

THỨ NĂM TUẦN 9 THƯỜNG NIÊN.

THỨ SÁU TUẦN 9 THƯỜNG NIÊN.

THỨ BẢY TUẦN 9 THƯỜNG NIÊN.

THỨ HAI TUẦN 9 THƯỜNG NIÊN

Lời Chúa: Mc 12, 1-12

Khi ấy, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà nói với các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão rằng: “Có người trồng một vườn nho, rào dậu xung quanh, đào bồn đạp nho và xây một tháp, đoạn cho tá điền thuê vườn nho và trẩy đi phương xa.

“Ðến kỳ hạn, ông sai đầy tớ đến với tá điền thu phần hoa lợi vườn nho. Nhưng những người này bắt tên đầy tớ đánh đập và đuổi về tay không. Ông lại sai đầy tớ khác đến với họ. Người này cũng bị chúng đánh vào đầu và làm sỉ nhục. Nhưng người thứ ba thì bị chúng giết. Ông còn sai nhiều người khác nữa, nhưng kẻ thì bị chúng đánh đập, người thì bị chúng giết chết.

“Ông chỉ còn lại một cậu con trai yêu quý cuối cùng, ông cũng sai đến với họ, (vì) ông nghĩ rằng: “Chúng sẽ kiêng nể con trai ta”. Nhưng những tá điền nói với nhau rằng: “Người thừa tự đây rồi, nào ta hãy giết nó và cơ nghiệp sẽ về ta”. Ðoạn chúng bắt cậu giết đi và quăng xác ra ngoài vườn nho. Chủ vườn nho sẽ xử thế nào? Ông sẽ đến tiêu diệt bọn tá điền và giao vườn nho cho người khác. Các ông đã chẳng đọc đoạn Thánh Kinh này sao: “Tảng đá những người thợ xây loại ra, trở thành đá góc tường. Ðó là việc Chúa làm, thật lạ lùng trước mắt chúng ta”.

Họ tìm bắt Người, nhưng họ lại sợ dân chúng. Vì họ đã quá hiểu Người nói dụ ngôn đó ám chỉ họ. Rồi họ bỏ Người mà đi.

Suy Niệm 1: Tảng đá góc

Suy niệm:

Dụ ngôn Đức Giêsu kể trong bài Tin Mừng hôm nay làm ta khó chịu.

Chúng ta không chấp nhận được sự độc ác của những tá điền,

những người làm công cho ông chủ,

và có bổn phận phải nộp hoa lợi vườn nho cho ông khi đến mùa.

Tại sao họ lại đánh đập người đầy tớ đầu tiên do ông chủ sai đến?

Tại sao họ lại tiếp tục đánh đập và làm nhục người đầy tớ thứ hai?

Tại sao họ dám cả gan giết người thứ ba

và tiếp tục làm như thế với nhiều đầy tớ khác? (cc. 2-5).

Cuối cùng, ông chủ đã sai đến với các tá điền người con yêu dấu của mình,

người cuối cùng trong số những người được ông sai.

Ông nghĩ người con của ông sẽ có đủ uy tín để khiến các tá điền phải vị nể.

Nhưng đáng thương thay, cậu con thừa tự dấu yêu đã bị bắt,

bị giết và bị quăng xác ra ngoài vườn nho.

Chúng ta không hiểu được sự độc ác tàn nhẫn của các tá điền.

Nhưng chúng ta lại càng không hiểu được

sự cam chịu kiên trì và sự ngây thơ lạ lùng của ông chủ.

Tại sao ông lại không phản ứng mạnh mẽ ngay từ tội ác đầu tiên?

Tại sao ông lại thiếu cương quyết khiến cho nhiều đầy tớ,

và chính con yêu dấu của mình phải chết như vậy?

Dụ ngôn Đức Giêsu kể nhắm vào các nhà lãnh đạo Do thái giáo,

những thượng tế, kinh sư và kỳ mục (Mc 11,27; 12,12).

Các đầy tớ trong dụ ngôn là những ngôn sứ đã được sai đến với dân Ítraen.

Các tá điền chính là những nhà lãnh đạo dân Ítraen từ bao đời.

Người con yêu dấu chính là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa,

người đã được Thiên Chúa gọi là Con yêu dấu khi chịu phép rửa

và khi được biến hình (Mc 1, 11; 9, 7).

Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu báo trước cuộc khổ nạn và cái chết sắp đến

bởi tay các nhà lãnh đạo đang đứng trước mặt Ngài đây.

Thiên Chúa như ông chủ vườn nho đau khổ,

có sức chịu đựng vô bờ dù bao lần dân Ítraen quay lưng từ chối.

Nhưng cuối cùng ông sẽ tiêu diệt các tá điền và giao vườn nho cho người khác.

Như thế dụ ngôn này vẫn mang nét tươi,

vì mọi sự không chấm dứt với cái chết của người con.

Tảng đá bị thợ xây loại bỏ đã trở nên tảng đá góc (c. 10).

Đức Giêsu phục sinh chính là tảng đá góc cho một tòa nhà mới.

Đó là cộng đoàn mới gồm những kẻ tin vào Ngài,

thuộc cả dân Do thái và dân ngoại.

Cả một lịch sử cứu độ nằm trong một dụ ngôn, mới nhìn có vẻ buồn.

Nhưng nơi đây ta bắt gặp tình yêu Thiên Chúa làm chủ suốt dòng lịch sử.

Một tình yêu kiên nhẫn chịu đựng, có vẻ dại dột và ngây thơ.

Một tình yêu bị bẽ bàng và làm nhục qua cái chết của Người Con yêu dấu.

Nhưng cuối cùng tình yêu ấy đã chiến thắng vẻ vang nơi sự phục sinh,

và nơi công trình kỳ diệu là Giáo Hội (c.11).

Cầu nguyện :

Lạy Cha từ ái,

đây là niềm tin của con.

Con tin Cha là Tình yêu,

và mọi sự Cha làm đều vì yêu chúng con.

Cả những khi Cha mạnh tay cắt tỉa,

cả những khi Cha thinh lặng hay vắng mặt,

cả những khi Cha như chịu thua sức mạnh của ác nhân,

con vẫn tin Cha là Cha toàn năng nhân ái.

Con tin Cha không chịu thua con về lòng quảng đại,

chẳng để con thiệt thòi khi dám sống cho Cha.

Con tin rằng nơi lòng những người cứng cỏi nhất

cũng có một đốm lửa của sự thiện,

được vùi sâu dưới những lớp tro.

Chỉ một ngọn gió của tình yêu chân thành

cũng đủ làm đốm lửa ấy bừng lên rạng rỡ.

Con tin rằng chẳng có giọt nước mắt nào vô ích,

thế giới vẫn tồn tại nhờ hy sinh thầm lặng của bao người.

Con tin rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về Ánh sáng.

Sự Sống và Tình yêu sẽ chiếm ngự địa cầu.

Con tin rằng dòng lịch sử của loài người và vũ trụ

đang chuyển mình tiến về với Cha,

qua trung gian tuyệt vời của Chúa Giêsu

và sức tác động mãnh liệt của Thánh Thần.

Con tin rằng dần dần mỗi người sẽ gặp nhau,

vượt qua mọi tranh chấp, bất đồng,

mọi dị biệt, thành kiến,

để cùng nắm tay nhau đi qua sa mạc cuộc đời

mà về nhà Cha là nơi hạnh phúc viên mãn.

Lạy Cha, đó là niềm tin của con.

Xin Cha cho con dám sống niềm tin ấy. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

Suy Niệm 2: Mọi sự là của Chúa

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Mọi sự là của Chúa. Đó là chân lý nền tảng. Chúa tạo dựng con người từ hư vô. Chúa còn chăm sóc ân cần. Đó là hình ảnh cây nho và vườn nho mà Chúa dành hết tâm lực chăm chút. “Có người kia trồng được vườn nho; ông rào giậu chung quanh, đào bồn đạp nho và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi phương xa”. Chúa tạo dựng vũ trụ. Cho con người làm chủ. Để xây dựng phát triển. Nhưng con người không ý thức thân phận của mình. Muốn chiếm đoạt của Chúa. Muốn tự tung tự tác. Muốn giết chết Chúa. Để mình hoàn toàn làm chủ vũ trụ này. “Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và gia tài sẽ về tay ta”. Thật là sai lầm. Khi loại trừ Thiên Chúa thế giới sẽ thành hỗn độn. Con người sẽ bị tiêu diệt. “Ông sẽ tiêu diệt các tá điền, rồi giao vườn nho cho người khác”.

Tô-bít là người ý thức điều đó. Ông biết mọi sự là của Chúa ban. Nên ông luôn muốn chia sẻ với anh em. “Ngày lễ Ngũ Tuần…người ta bày bàn, dọn cho tôi nhiều món. Tôi nói với tô-bi-a, con tôi: “Con ơi, con hãy đi tìm trong số các anh em chúng ta bị đày ở Ni-ni-vê, một người nghèo hết lòng tưởng nhớ Theine Chúa, rồi dẫn người ấy về đây cùng dùng bữa với cha”. Nhận biết Chúa làm chủ vũ trụ và làm chủ đời mình. Ông luôn “ăn ở theo sự thật và lẽ ngay suốt mọi ngày đời tôi”. Tôn thờ Chúa hơn vua chúa trần gian. Giữ luật Chúa hơn luật trần gian. Nên ông lo chôn cất người chết, dù bị cấm đoán. Và có thể bị nguy đến tính mạng. Và bị láng giềng chế nhạo: “Hắn vẫn còn chưa sợ! Người ta truy nã để giết hắn về tội ấy và hắn đã trốn đi, thế mà hắn lại vẫn chôn cất người chết!” (năm lẻ).

Thánh Phê-rô khuyên nhủ ta hãy ý thức điều đó. Tất cả là của Chúa ban để giúp ta được hạnh phúc. “Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa”. Vì thế thánh nhân khuyên nhủ ta hãy biết phát triển những ơn Chúa ban: “Chính vì thế anh em hãy đem tất cả nhiệt tình, làm sao để khi đã có lòng tin thì có thêm đức độ, có đức độ lại thêm hiểu biết, có hiểu biết lại thêm tiết độ, có tiết độ lại thêm kiên nhẫn, có kiên nhẫn lại thêm đạo đức, có đạo đức lại thêm tình huynh đệ, có tình huynh đệ lại có thêm bác ái”. Có bác ái ta sẽ ở trong Chúa. Đó là hạnh phúc. Đó là đích điểm đời ta (năm chẵn).

Đừng loại trừ Chúa. Đừng giết chết Chúa. Vì sẽ làm cho đời ta héo úa tàn lụi. Hãy đón nhận Chúa. Hãy sống theo Lời Chúa. Thế giới sẽ an vui phát triển.

 

Suy Niệm 3: Ðá tảng góc tường

Tin Mừng hôm nay nói về vườn nho của Chúa được trao cho các tá điền để làm sinh lợi thêm những hoa trái mới. Vườn nho cũ là Israel đã được Thiên Chúa chọn làm dân riêng, nhưng những kẻ có trách nhiệm chăm sóc vườn nho ấy đã không chu toàn bổn phận của mình; còn vườn nho mới chính là Israel mới, tức Giáo Hội đã được Chúa Giêsu thiết lập và trao cho những tá điền mới. Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn các vị lãnh đạo Do thái thời đó hiểu rằng giai đoạn mới trong lịch sử cứu độ đã bắt đầu và không còn ngược lại được nữa; lòng độc ác của những tá điền không thể phá hủy chương trình hành động của Thiên Chúa, Ðấng nhân từ, kiên nhẫn, nhưng cũng rất công bằng và đòi hỏi sự cộng tác của con người.

Những chi tiết trong dụ ngôn vườn nho gợi lên những giai đoạn của lịch sử cứu độ Thiên Chúa thực hiện cho nhân loại. Cái chết của người con của ông chủ vườn nho thoạt xem ra là kết quả của lòng thù ghét của con người đối với Thiên Chúa. Như những tá điền muốn giết người con được sai đến để cướp vườn nho khỏi tay ông chủ, những kẻ thù nghịch Thiên Chúa cũng muốn loại bỏ Chúa Giêsu, Con Một Thiên Chúa, để tự do làm chủ vận mệnh nhân loại. Qua hình ảnh tảng đá xây đã trở nên đá tảng góc tường, Chúa Giêsu mở ra chìa khóa để con người có thể hiểu được ý nghĩa sâu xa liên hệ đến việc cứu chuộc của Ngài.

Chúa Giêsu Phục Sinh sau biến cố Vượt Qua của Ngài đã trở thành nền tảng cho vườn nho mới là Giáo Hội. Giáo Hội và mỗi thành phần Giáo Hội đều thuộc về Chúa Kitô. Mỗi người phải xây dựng và phát triển đời sống mình trên nền tảng duy nhất là Chúa Kitô. “Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”, đó là bí quyết của mỗi môn đệ Chúa Kitô ở mọi thời và mọi hoàn cảnh, đó là bí quyết duy nhất để Chúa Kitô trở thành đá tảng nâng đỡ đời sống người Kitô hữu.

Lời của Chúa hôm nay cảnh tỉnh chúng ta trước trách nhiệm phải làm sao để dung mạo của Chúa được chiếu tỏa trong đời sống chúng ta và trong Giáo Hội. Chúa Giêsu là Ðá Tảng góc tường, là nền tảng và là sức sống cho cuộc đời chúng ta, xin cho chúng ta đừng bao giờ lìa xa Chúa.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Suy Niệm 4: Dụ ngôn lớn lao

Đức Giêsu bắt đầu dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng: “Có người kia trồng được một vườn nho; ông rào giậu chung quanh, đào bồn đạp nho và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác rồi trẩy đi xa. Đến mùa, ông sai một đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi vườn nho mà họ phải nộp. Nhưng họ bắt người đầy tớ, đánh đập và đuổi về tay không.” (Mc. 12, 1-3)

Nếu chúng ta coi dụ ngôn những tá điền sát nhân là một câu truyện vĩ đại, một câu truyện rất vĩ đại có nhiều điều khó tin, thì đối với những người Do thái được nuôi dường trong văn hóa Kinh thánh, nó là một lời tiên tri trong sáng. Đối với chúng ta, vườn nho là vườn nho cho dù có rộng mênh mông đến thế nào, thì thái độ khờ khạo của ông chủ vườn nho cũng vượt xa giới hạn của vườn. Còn đối với những người đầy tớ cũng như người con trai cứ ngoan ngõan tới cho người ta lần lượt giết chết, thiết tưởng cũng cảm động, nếu như họ không phải là những người quá điên khùng. Đối với thính giả Do thái, dù là người ít thông thạo nhất về thể văn, thì vườn nho đáng thèm khát biết bao kia chính là Israel và họ chẳng cần phải giải thích chút nào mới nhận ra được các ngôn sứ là những người đầy tớ bị hành hạ và Đức Giêsu là người Con yêu dấu.

Những dụ ngôn rất thường là những chứng cứ Kinh thánh vốn không có gì bí ẩn đối với những người đương thời của Chúa Giêsu. Đó là tranh ảnh riêng của họ, không cần đến lời giải thích. Hiển nhiên khi chúng ta buộc phải soạn ra ít lời giải thích giá trị của những hình ảnh hay họa phẩm của ta, thì điều khó nói, khó diễn tả vẫn là nét truyền cảm toát ra từ tranh ảnh hay bức họa đó. Đó chính là trường hợp những dụ ngôn của Chúa Giêsu, những dụ ngôn đó là ngôn ngữ gia đình, là tiếng nói thân thương của họ, đang khi đối với chúng ta nó là những ẩn ngữ hay trò chơi tìm ô chữ vậy.

Chúa Giêsu với lai lịch của Người

Mục sư Bonhoeffer viết: “Ai muốn đi vào và cảm nghiệm quá vội vã và quá trực tiếp cái hồn của Tân ước, thì người đó, theo ý kiến tôi không phải là Kitô hữu…Người ta không thể cũng không nói ra được tiếng cuối cùng trước khi nói ra tiếng áp chót.” Để có thể cảm nhận được Chúa và sứ điệp của Người, ta phải nhận biết không những nguồn gốc thần linh của Người mà cả những gốc rễ nhân loại từ đó Người cũng hoàn toàn được sinh ra như được sinh ra từ Cha Người Đấng ngự trên trời. Cũng vậy, Cựu ước được Chúa mạc khải như Tân ước, và Cựu ước cũng là Lời Chúa như Phúc âm, thiết tưởng không phải là điều để ta không quan tâm.

Chúa Giêsu không phải từ trời rơi xuống, Người sinh ra trong một dân tộc, Người đã có những tổ tiên mà người ta gọi là các tổ phụ và các tiền hô là những ngôn sứ vậy.

Suy Niệm 5: YÊU THƯƠNG XÓA HẬN THÙ (Mc 12,1-12)

Vào thời Đức Giêsu, Dân Do thái đang bị đô hộ bởi đế quốc Lamã. Đất đai được chia thành nhiều vùng khác nhau. Chủ nhân của những vùng đất rộng lớn này chính là những người ngoại quốc.

Họ làm chủ đất đai, nhưng ít khi chính họ canh tác, nên thường cho nông dân là người Do thái thuê lại, hoặc cũng có thể họ trồng trọt, nhưng việc chăm sóc thì họ thuê. Đến mùa, những ông chủ chỉ đến để thu lợi nhuận từ chính những bàn tay lao động cực nhọc của những người làm công. Vì thế, những nông dân này căm thù sâu sắc đối với các chủ nhân ngoại quốc.

Khi sống trong thân phận nô lệ như vậy, cộng thêm sự kích động từ ngoại cảnh, nên những tá điền này sẵn sàng đang tay giết chết những người do ông chủ sai đến, bởi họ vẫn biết rằng pháp luật thừa nhận quyền sở hữu của những người chiếm giữ đất hoang.

Tuy nhiên, Đức Giêsu đã chỉ ra sự nông nổi, nhẹ dạ của họ khi chủ mưu giết ngay cả người thừa tự để hy vọng chiếm giữ đất đai của ông chủ, bởi lẽ ông chủ sẽ đến và lấy lại đất đai để trao lại cho người khác, khi đó, họ sẽ trắng tay.

Khi kể dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn vạch trần những âm mưu của giới lãnh đạo Dothái đang tìm mọi cách để giết Đức Giêsu; đồng thời Ngài muốn gửi đi một thông điệp căn bản, đó là: yêu thương sẽ xóa đi hận thù. Còn hận thù sẽ dẫn đến chết chóc, bởi sự hận thù chẳng khác gì cái hố chôn kẻ hận thù trước rồi mới chôn đối phương.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống yêu thương nhau. Khi sống yêu thương, chúng ta đã hành động như chính Thiên Chúa là nguồn tình yêu. Chỉ có tình yêu mới có thể biến thù thành bạn; cũng chỉ có tình yêu, chúng ta mới giúp nhau nên thánh ngang qua những yếu đuối, vụng về của thân phận con người. Hãy nhớ lời thánh vịnh 118 mà hôm nay Đức Giêsu đã lặp lại: “Tảng đá thợ xây loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường”.

Xin Chúa Giêsu ban cho chúng ta hiểu rằng: Cái chết của Chúa là hệ quả của một sự thù hằn, ghen ghét, nhưng ngang qua cái chết vì tình yêu, Chúa đã biến nó thành quà tặng quý giá dâng lên Thiên Chúa Cha và trao tặng cho con người.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa khơi lên ngọn lửa yêu mến nơi tâm hồn chúng con, để chúng con cùng nhau xây dựng tình thương, công bình và chân lý trong cuộc sống của mình. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 6: Tình yêu của Chúa nhẫn nại, bao la

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Đến muôn đời, Thiên Chúa là tình yêu. Vì yêu thương mà Người đã thực hiện chương trình cứu độ. Dù ta phá vỡ chương trình của Người, Người vẫn một lòng yêu thương và tiếp tục thực hiện những điều kỳ diệu.

Cầu nguyện: Lạy Cha, trong thực tế có lẽ không người cha nào lại làm như Chúa Giêsu kể trong dụ ngôn. Không người cha nào đủ kiên nhẫn và quá dại dột như vậy. Nhưng chính vì vậy mà con cảm nhận Cha yêu thương con vô cùng. Vì yêu thương con mà Cha đã ban cho con các tổ phụ, các tiên tri, và sau cùng là chính Chúa Giêsu, người Con Yêu Dấu của Cha. Con xin cảm tạ tình thương bao la ấy.

Lạy Cha, Chúa Giêsu muốn chứng minh cho con thấy rằng tình yêu thương của Cha thì nhẫn nại, bao la, và có thể nói là điên rồ vì yêu thương con người, cho dù tội ác của con người càng lúc càng gia tăng. Vâng, một bên là tình thương ngút ngàn, một bên là tội lỗi đầy tràn; một bên là lòng thương xót bao la, một bên là sự cố chấp gian tà.

Ôi lạy Cha, xin cho con biết cảm nhận tình yêu thương đầy nhẫn nại của Cha, để con quyết tâm từ bỏ tội lỗi. Xin cho con đừng bao giờ trở thành những tá điền sát nhân khát máu nữa, bởi mỗi lần con cố tình phạm tội, nhất là tội trọng, là con lại đóng đinh Chúa Giêsu một lần nữa trên thập giá. Xin Cha gìn giữ con khỏi sa chước cám dỗ. Con tin rằng tình yêu thương của Cha vẫn luôn luôn thắng sự cố chấp của con. Xin cho con biết tin vào tình thương ấy và đừng bao giờ để con cứng lòng. Amen.

Ghi nhớ: “Chúng bắt cậu con trai giết đi và quăng xác ra vườn nho”.

Suy Niệm 6: Tá điền vườn nho

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Một thầy dòng là thợ may cho cộng đoàn. Ngày kia, ông đau nặng và chờ chết. Ông nói với anh em: “Đưa cho tôi chìa khóa vào thiên đàng !”.

Anh em nhìn nhau bối rối. Họ không biết ông muốn nói gì. Nhưng ông chỉ lặp lại lời đề nghị: “Đưa cho tôi chìa khóa vào thiên đàng”. Cuối cùng, họ đưa cho ông chiếc kim may. Một nụ cười mãn nguyện làm gương mặt thầy già sáng lên khi liếc nhìn chiếc kim trong tay và nói: “Tôi làm việc mỗi ngày với chiếc kim này vì vinh quang Chúa. Bây giờ nó là chìa khóa mở cửa cho tôi vào thiên đàng”.

Suy niệm

Vườn nho là một trong những chủ đề phong phú nhất của Cựu ước. Nó thường được liên kết với chủ đề tình yêu và vườn nho trở nên biểu tượng của “dân Thiên Chúa” (x. Is 5,1-7; Gr 2,21; Ed 17,6; Hs 10,1; Tv 78,9-16). Ngôn sứ Isaia đã phác họa hình ảnh vườn nho được chăm sóc để làm nổi bật Thiên Chúa đã yêu thương, chăm sóc dân “tuyển chọn” rất ân cần chu đáo qua nhân vật chủ vườn nho: “Anh ra tay cuốc đất nhặt đá, giống nho quý đem trồng, giữa vườn anh xây một vọng gác, rồi khoét bồn đạp nho” (Is 5,2a). Người chủ quý vườn nho đến nỗi anh có thể làm tất cả cho sự trù phú của nho: “Có gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm?” (Is 5,4)…

Trong Tân ước, Chúa Giêsu tiếp tục phát triển hình ảnh vườn nho, cây nho như là biểu tượng của tình yêu Thiên Chúa, nho là hình ảnh sự liên kết thân mật, sức sống tình yêu với Ngài: “Thầy là cây nho, anh em là nhành, nhành nào liên kết với Thầy sẽ sinh hoa trái” (Ga 15,5) và vườn nho trở nên biểu tượng của nước Thiên Chúa …

Cách riêng trong dụ ngôn “Những tá điền bất lương và vườn nho”, Đức Giêsu chỉ đích danh các thượng tế và kỳ lão. Họ là những người được Thiên Chúa trao phó trách nhiệm chăm sóc vườn nho. Nhưng thay vì mang hoa lợi về cho chủ là Thiên Chúa, họ lại muốn chiếm đoạt hoa lợi ấy cho mình. Vì thế, những sứ giả được Thiên Chúa sai đến là các ngôn sứ đều bị họ giết chết. Ngay người con duy nhất của Thiên Chúa là Đức Giêsu cũng bị họ đóng đinh và treo Người trên cây thập giá. Vườn nho mà Thiên Chúa trao cho dân Israel, được trao lại cho mọi dân tộc và từ nay Thiên Chúa chăm sóc cho tất cả mọi dân nước: “Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho nước ấy sinh hoa lợi”. Trong Tân ước, mọi người, mọi dân tộc đều được mời gọi đi làm và ở trong vườn nho (x. Mt 20,1-16a). Dân nước này sẽ được làm thành bởi mọi kẻ sẽ sinh hoa trái của nước Trời, nghĩa là những kẻ khi tiếp nhận Người Con, sẽ tụ họp quanh Người để làm nên dân mới của Thiên Chúa (x. Rm 9,25; 1Pr 2,10).

Dụ ngôn “Những tá điền bất lương và vườn nho” có tính cách lịch sử: nghĩa là diễn tả những biến cố có thực, là những can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử dân Do Thái, và thái độ của dân Do Thái đối với những ngôn sứ Chúa sai đến với họ, thái độ của họ với chính Chúa. Dụ ngôn cũng mang tính cách tiên tri: Nơi con người thời đại đang và sẽ đến đối xử với Thiên Chúa và những tá điền vườn nho là hình ảnh của các giới lãnh đạo dân Do Thái nhưng cũng chỉ trực diện mỗi chúng ta ngày hôm nay, những người trong giao ước mới, được mời gọi đi làm vườn nho. Thế giới chúng ta đang sống chính là vườn nho trong dụ ngôn. Thiên Chúa là ông chủ vườn nho. Mỗi người chúng ta là những tá điền được Chúa trao phó trách nhiệm trông coi vườn nho và làm phát sinh hoa lợi. Những gì ta đang có chính là hoa lợi từ vườn nho.

Tự tước lấy hoa trái của Thiên Chúa, muốn mình định đoạt tất cả, loại Thiên Chúa trong cuộc đời mình, chính là hình ảnh những tá điền bất lương của ngày hôm nay, con người vẫn đang đi vào vết xe đổ của lịch sử: Vẫn đang diễn lại từng ngày, khi chúng ta chọn lựa cho mình một cách sống tự mình là chủ định đoạt “vườn nho” mà không cần biết Đấng làm chủ vườn nho, chúng ta muốn tước đoạt của “thừa tự” của Đấng làm Con Thiên Chúa. Chúng ta đang phác họa lại hình ảnh nguyên tổ trong vườn Địa đàng: Muốn lấy cái “biết” của Thiên Chúa qua hành động hái và ăn trái “hiểu biết” theo ý đồ của Satan, để có vinh quang bằng Đấng Tạo hóa. Nhưng sự “biết” không thấy đâu lại bị tước đoạt vườn Địa đàng được trao phó. Những tá điền vườn nho cũng vậy, khi giết con thừa tự, vườn nho không những không được hưởng, mà lại còn bị chủ vườn lấy quyền làm vườn giao phó cho các tá điền khác.

Hôm nay, tôi và bạn là những tá điền làm vườn nho được Thiên Chúa ký thác. Ước chi chúng ta luôn ý thức trách nhiệm mình là những tá điền chuyên chăm trong vườn nho của Chúa…

Tá điền cộng tác tạo dựng công trình vườn nho cho vinh quang Thiên Chúa….

Ý lực sống:

“Chúa đã ủy thác cho tôi vài công việc mà Ngài không ủy thác cho kẻ khác. Tôi có sứ mệnh của tôi. Có thể tôi không bao giờ biết được nó trong cuộc sống này nhưng trong cuộc sống mai hậu ắt tôi sẽ rõ” (Đức Hồng y J. H. Newmann).

Suy Niệm 7: Những tá điền hung ác

(Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Qua dụ ngôn tá điền hung ác, ta thấy Thiên Chúa hết sức yêu thương con người, mà dân tộc Israel được dùng làm điển hình. Người đã kêu gọi, tuyển chọn, bảo vệ, hướng dẫn… nghĩa là Người có cả một kế hoạch yêu thương. Khi con người thất tín, ngược đãi và chống lại Thiên Chúa, nghĩa là muốn phá đổ chương trình yêu thương, thì Thiên Chúa đã tìm đủ mọi cách, ngay cả chính Con Một yêu dấu của Người, Người cũng ban cho nhân loại. Phải chăng Thiên Chúa thất bại? Không, Thiên Chúa không thất bại. Đức Giêsu đã toàn thắng. Ngài đã phục sinh trong vinh quang. Dù con người thất tín, Thiên Chúa vẫn một mực thành tín. Đó chính là chiến thắng của Thiên Chúa.
  2. Đây là một ẩn dụ mà Đức Giêsu dùng để ám chỉ các nhà lãnh đạo tôn giáo Do thái. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa; vườn nho là dân Israel; các tá điền là các lãnh tụ ấy; tôi tớ được sai đi thu hoa lợi là các tiên tri; người con của ông chủ là Đức Giêsu. Thiên Chúa đã giao dân Israel cho các lãnh tụ Do thái chăm sóc, nhưng họ không chu toàn trách nhiệm. Các tiên tri nhiều lần được sai đến nhắc nhở họ, họ đã không nghe mà còn bách hại các vị ấy. Cuối cùng Thiên Chúa đã sai chính Con Một của mình đến, họ cũng không nghe và còn giết Người Con ấy. Bởi vậy Thiên Chúa đã truất quyền họ, Ngài sẽ ban Nước trời cho một dân khác là Giáo hội. Phần Đức Giêsu, tuy bị giết chết nhưng Ngài sẽ sống lại và làm nền tảng cho Giáo hội.
  3. Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn các vị lãnh đạo Do thái thời đó hiểu rằng: giai đoạn mới trong lịch sử cứu độ đã bắt đầu và không còn ngược lại được nữa; lòng độc ác của những tá điền không thể phá huỷ chương trình hành động của Thiên Chúa, Đấng nhân từ, kiên nhẫn, nhưng cũng rất công bằng và đòi hỏi sự cộng tác của con người.

Những chi tiết trong dụ ngôn vườn nho gợi lên những giai đoạn của lịch sử cứu độ Thiên Chúa thực hiện cho nhân loại. Cái chết của người con ông chủ vườn nho thoạt xem ra là kết quả lòng thù ghét của con người đối với Thiên Chúa. Như những tá điền muốn giết người con được sai đến, để cướp vườn nho khỏi tay ông chủ, những kẻ thù nghịch Thiên Chúa cũng muốn loại bỏ Đức Giêsu, Con Một Thiên Chúa, để tự do làm chủ vận mệnh nhân loại. Qua hình ảnh tảng đá góc tường, Đức Giêsu mở ra chìa khoá, để con người có thể hiểu được ý nghĩa sâu xa liên hệ đến việc cứu chuộc của Ngài.

  1. Bài học cho chúng ta: Giáo hội Công giáo, người Công giáo đã được Thiên Chúa tuyển chọn thay thế cho dân Do thái làm vườn nho cho Chúa và đóng hoa lợi cho Ngài. Chúng ta tin Thiên Chúa sẽ giữ gìn Giáo hội khỏi rơi vào vết xe cũ của dân Do thái. Nhưng từng cá nhân có thể trở thành những tá điền thất tín. Tức là trong một khuôn khổ hạn hẹp nào đó, bất cứ tín hữu nào giữ đạo một cách vụ lợi, hoặc không dám dấn thân để mang những hoa trái đức tin và lòng mến vào cuộc sống hằng ngày với hy vọng làm chứng cho Chúa Kitô và làm đẹp bộ mặt Giáo hội, thì sẽ là tín hữu có tiếng mà không có miếng.

Vì thế, cần có một cái nhìn, một quan điểm trung thực về Đức Kitô, về Giáo hội, về vai trò của mỗi Kitô hữu, nhờ đó chúng ta có thể sống đạo và hành đạo làm lợi vốn liếng đức tin và lòng mến Chúa trao cho chúng ta.

  1. Ngày nay, người ta thường nói: “Tiền là Tiên, là Phật”. Dưới ảnh hưởng của trào lưu tục hoá, con người hôm nay dường như chỉ tôn thờ vật chất và xem tiền tài là cứu cánh cuộc đời. Hậu quả là, chính việc tôn thờ này đã tạo ra một xã hội bất an. Con người trở nên ích kỷ, hận thù, ghen ghét và loại trừ lẫn nhau.

Áp dụng dụ ngôn này vào bản thân: Vườn nho mà Chúa trao cho tôi là những khả năng và phương tiện Ngài ban. Lẽ ra tôi phải dùng chúng để phục vụ người khác. Nhưng tôi có khuynh hướng giữ chúng làm của riêng cho mình. Tôi dùng chúng một cách ích kỷ, không phục vụ ai cả. Hãy coi chừng Chúa sẽ lấy lại vườn nho mà trao cho kẻ khác.

  1. Truyện: Hoàng đế Julianus

Vua Julianus hoàng đế cai trị Rôma từ năm 361 đến 363. Nhà vua là cháu hoàng đế Constantinô. Nhàvua là người Công giáo, nhưng lại không muốn sống đời hy sinh theo Chúa, không muốn cầu nguyện, không muốn tránh xa tội lỗi, nhưng chỉ muốn sống đời dâm đãng, bất công và không có lòng bác ái. Chính vì thế mà nhà vua đã bỏ đạo, rồi lại còn quay sang bắt bớ Giáo hội. Sau khi đã lên án xử tử cho Đức Giáo hoàng, nhà vua còn hỏi nhạo báng rằng: “Ông Giêsu thợ mộc đang làm gì ở xưởng thợ Nazareth?”

Đức Giáo hoàng đã khiêm tốn trả lời: “Tâu đức vua, Chúa Giêsu của tôi Ngài đang ở trên trời. Ngài đang đóng quan tài cho đức vua đó’’.

Chẳng bao lâu sau đó, vua Julianus đem quân đi giao chiến với quân Ba Tư, nhà vua bị một mũi tên của quân thù ghim thẳng vào trái tim. Nhà vua đã tức giận rút mũi tên đó ra, phi nó thẳng lên trời mà kêu lên rằng: “Hỡi ông Giêsu người xứ Nazareth, ông đã thắng tôi rồi”. Đoạn nhà vua tắt thở.

Suy Niệm 8: ,,,,,

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống…)

Đây là một ẩn dụ mà Chúa Giêsu dùng để ám chỉ các nhà lãnh đạo Tôn giáo Do Thái. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa, vườn nho là dân Israel, các tá điền là các lãnh tụ ấy, tôi tớ được sai được thu hoạch các hoa lợi là các ngôn sứ, người con của ông chủ là Chúa Giêsu. Thiên Chúa đã giao dân Israel cho các lãnh tụ Do Thái chăm sóc, nhưng họ không chu toàn trách nhiệm. Các ngôn sứ nhiều lần được sai đến nhắc nhở họ, họ đã không nghe mà còn bách hại các vị ấy. Cuối cùng Thiên Chúa sai chính Con Một của mình đến, họ cũng không nghe mà còn giết chết Người Con ấy. Bởi vậy Thiên Chúa truất quyền họ, Ngài ban Nước trời cho một dân khác là Giáo Hội. Phần Chúa Giêsu tuy bị giết chết nhưng Ngài sẽ sống lại và làm nền tảng cho Giáo Hội.

B- Suy gẫm (… nẩy mầm)

  1. Áp dụng ngụ ngôn này vào bản thân: Vườn nho mà Chúa giao cho tôi là những khả năng mà Ngài ban. Lẽ ra tôi phải dùng chúng để phục vụ người khác. Nhưng tôi có khuynh hướng giữ chúng làm của riêng cho mình. Tôi dùng chúng một cách ích kỉ. Không phục vụ ai cả. Hãy coi chừng Chúa sẽ lấy lại vườn nho mà trao cho người khác.
  2. Cặp vợ chồng nọ trúng số độc đắc. Bà con thân thuộc kéo đến nhận họ hàng, xin xỏ, vay mượn. Cuộc sống gia đình luôn bị xáo trộn. Ông chồng bàn với vợ dọn đi chỗ khác, đổi tên đổi họ không cho ai biết. Nhưng người vợ nói: dù đã đổi tên đổi họ nhưng nếu người ta biết mình có tiền thì người ta vẫn tìm đến quấy rầy. Người chồng bảo hãy dấu luôn số tiền và sống đạm bạc y như những người nghèo thực thụ. Hai người nhất trí làm y như vậy. Họ đến một nơi khác cất một túp lều tranh nghèo nàn, chôn dấu số tiền sống đạm bạc. Dần dần họ quên luôn mình có số tiền đó. Khi chết họ quên cả chối lại cho con cháu số tiền ấy. Thành ra trúng số mà cũng như không.

Nhận lãnh là để trao ban, có là để chia sẻ. Không trao ban, không chia sẻ thì ơn Chúa ban cũng giống như nén bạc bị chôn xuống đất. Nó không đem lại niềm vui mà chỉ gây nên lo lắng buồn phiền.

Lạy Chúa, xin cho con luôn nhớ rằng: “Cho thì có phúc hơn nhận lãnh”. Xin cho con hưởng được niềm vui khi trao ban và tiêu hao bản thân con mỗi ngày.

  1. “Có người kia trồng được một vườn nho, ông rào dậu xung quanh, đào bồn đạp nho và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác và trẩy đi xa. Đến mùa, ông sai đầy tớ đến để thu hoa lợi vườn nho mà họ phải nộp” (Mc 12,1-2)

Tôi là ai  ? Tôi có cái gì  ?

Tôi là một con người. Tôi có một thể xác, một tâm hồn. Tôi có lý trí, có tình cảm. Tôi có tình yêu, và quan trọng hơn là tôi được sống.

Thiên Chúa đã tạo nên hình hài này, trang bị cho nó những điều ấy, rồi Ngài trao nó cho tôi.

Vậy, tôi phải làm gì đây  ?

Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng con cho Chúa. xin hãy dùng con như ý Chúa muốn để sinh hoa lợi cho Ngài.

Suy Niệm 9: ,,,,,

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

Dụ ngôn chúng ta vừa nghe là dụ ngôn tương đối dễ cắt nghĩa. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Vườn nho là dân 1srael. Các tá điền là các lãnh tụ của dân. Tôi tớ được sai đi thu hoạch các hoa lợi là các ngôn sứ. Người con của ông chủ là Chúa Giêsu.

Thiên Chúa đã trao dân Israel cho các lãnh tụ của họ chăm sóc, nhưng họ đã không chu toàn trách nhiệm của mình. Các ngôn sứ nhiều lần được sai đến để nhắc nhở họ, nhưng không những họ đã không nghe mà còn bách hại các vị ấy: Tiên tri Êlia bị truy nã, phải trốn sang Ai Cập thất thểu ăn xin. Tiên tri Isaia đã bị cưa làm hai khúc. Tiên tri Giêrêmia bị cầm tù. Tiên tri Daniel bị tống vào hang sư tử. Tiên tri Giacaria bị sát hại giữa cung thánh và bàn thờ. Gioan Tẩy Giả bị chém đầu….

Cuối cùng, Thiên Chúa sai chính con một của mình đến, tưởng họ sẽ kính nể …. nhưng họ cũng không nghe mà còn giết chết luôn Người Con ấy. Chính vì thế mà Thiên Chúa đã truất quyền họ, rồi sau đó Người ban cho một dân khác là Giáo Hội.

Như vậy, chúng ta thấy Thiên Chúa đã kiên nhẫn nhưng không nhu nhược. Những kẻ chống lại Thiên Chúa có lúc đã tưởng mình chiến thắng, nhưng cuối cùng họ đã phải rước lấy thảm bại mà không thể trách Thiên Chúa được điều gì.

Trong sách các vua của Cựu Ước, chúng ta đọc được câu chuyện này: Hoàng tử của vua Hieroboam nước Israel bị đau nặng, vua liền nói với hoàng hậu rằng:

– Bà hãy cải trang giả dạng, đừng để người ta nhận ra bà là hoàng hậu, rồi đem theo mười ổ bánh mì, với bánh sữa và bình mật ong, đi gấp lên Silô, gặp tiên tri Abia, để hỏi cho biết số phận hoàng tử con chúng ta thế nào, sống hay chết.

Lúc ấy tiên tri Abia chẳng còn trông thấy gì, hai mắt đã lòa vì quá già. Nhưng Chúa phán dạy tiên tri Abia rằng:

– Này hoàng hậu Hieroboam sẽ tới hỏi han về đứa con trai đang bị đau nặng; lúc đến, nàng sẽ cải trang thành một người khác.

Do đó, khi tiên tri Abia vừa nghe có tiếng người bước qua cửa, liền hỏi ngay:

– Hoàng hậu Hieroboam đó phải không ? Xin mời vào, cớ sao phải giả dạng làm người khác làm gì ? Tôi có trách nhiệm báo hung tin cho bà hôm nay. Bà cứ về thưa cùng vua Hieroboam, Thiên Chúa là Chúa dân 1srael phán như sau: “Ta đã tôn ngươi lên giữa dân chúng. Ta đã đặt ngươi làm thủ lãnh Israel dân Ta. Ta đã xẻ đôi nước của gia đình Đavid mà trao cho ngươi. Nhưng ngươi đã không bắt chước Đavid tôi tớ, là tuân theo các mệnh lệnh của Ta. Trái lại, ngươi đã gây ra nhiều tội ác, lại còn thờ các thần ngoại bang mà bỏ Ta. Vì thế, nay Ta giáng họa trên gia đình Hieroboam, Ta sẽ trừ diệt nhà Hieroboam. Các người thuộc gia đình Hieroboam, nếu chết trong thành sẽ bị chó ăn thịt; nếu chết ngoài đồng, sẽ bị chim trời rúc rỉa. Thôi bà đứng dậy đi về đi, và khi về, bà vừa đặt chân tới cửa thị trấn, thì con trai của bà sẽ chết.

Và quả đúng như thế. Hoàng hậu Hieroboam về đến Thesa, vừa bước qua ngưỡng cửa, thì hoàng tử con bà chết liền, đúng như lời tiên tri Abia đã nói (1Cv 14,1).

  1. Đàng khác, nếu suy nghĩ xa hơn một chút nữa chúng ta sẽ thấy ý nghĩa còn thâm sâu hơn. Vườn nho chính là Giáo Hội. Thợ làm vườn nho sát nhân là những người Công giáo tội lỗi cố chấp đã làm khổ Giáo Hội, đã giết hại các tôi tớ đại diện Chúa.

Vua Julianus, hoàng đế cai trị nước Rôma từ năm 361 đến 363. Nhà vua là cháu hoàng đế Constantinô. Nhà vua là người Công giáo, nhưng lại không muốn sống đời hy sinh theo Chúa, không muốn cầu nguyện, không muốn tránh xa tội lỗi, nhưng chỉ muốn sống đời sống dâm đãng, bất công và không có lòng bác ái. Chính vì thế mà nhà vua đã bỏ đạo rồi lại còn quay sang bắt bớ Giáo Hội. Sau khi đã lên án xử tử cho Đức Giáo Hoàng, nhà vua còn hỏi nhạo báng rằng:

– Ông Giêsu thợ mộc đang làm gì ở xưởng thợ Nazareth ?

Đức Giáo Hoàng đã khiêm tốn thưa:

– Tâu đức vua, Chúa Giêsu của tôi ở trên trời, Ngài đang đóng quan tài cho đức vua.

Chẳng bao lâu sau đó, vua Julianus đem quân đi giao chiến với quân Ba-Tư, nhà vua bị một mũi tên của quân thù ghim thẳng vào trái tim. Nhà vua đã tức giận kéo mũi tên đó ra, lao lên trời mà kêu rằng: “Hỡi ông Giêsu người xứ Nazareth, ông đã thắng tôi rồi”. Đoạn nhà vua tắt thở.

Hãy nhớ, Thiên Chúa đã kiên nhẫn nhưng không nhu nhược.

Xin kết thúc bằng những lời trong Sách Huấn Ca

Kính sợ Đức Chúa đem lại vinh quang và tự hào

hân hoan và phấn khởi. (Hc 1,11)

Kính sợ Đức Chúa khiến tâm hồn sung sướng,

cho con người được hoan hỷ mừng vui

và an khang trường thọ. (Hc 1,12)

Ai kính sợ Đức Chúa sẽ thấy cuộc đời kết thúc tốt đẹp,

ngày lâm chung họ sẽ được hưởng phúc lành. (Hc 1,13)

THỨ BA TUẦN 9 THƯỜNG NIÊN

Lời Chúa: Mc. 12, 13-17

Khi ấy, người ta sai mấy người thuộc nhóm biệt phái và đảng Hêrôđê đến Chúa Giêsu để lập mưu bắt lỗi Người trong lời nói. Họ đến thưa Người rằng: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật không vị nể ai, vì Thầy chẳng xem diện mạo, một giảng dạy đường lối Thiên Chúa cách rất ngay thẳng. Vậy chúng tôi có nên nộp thuế cho Cêsarê không? Chúng tôi phải nộp hay là không?”

Nhưng Người biết họ giả hình, nên bảo rằng: “Sao các ông lại thử Ta? Hãy đưa Ta xem một đồng tiền”. Họ đưa cho Người một đồng tiền và Người hỏi: “Hình và ký hiệu này là của ai?” Họ thưa: “Của Cêsarê”.

Người liền bảo họ: “Vậy thì của Cêsarê, hãy trả cho Cêsarê; của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa”. Và họ rất đỗi kinh ngạc về Người.

Suy Niệm 1: Của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa

Suy niệm :

Nhóm Pharisêu và nhóm Hêrôđê không phải là hai nhóm hợp nhau.

Nhưng họ lại rất hợp nhất trong việc muốn trừ khử Đức Giêsu (Mc 3, 6).

Ngài đã từng nhắc các môn đệ đề phòng “men” của hai nhóm này (Mc 8, 15).

Trong bài Tin Mừng hôm nay, họ lại liên minh với nhau để giăng bẫy.

Trước khi đưa Đức Giêsu vào bẫy, họ đã lấy lòng bằng những lời ca ngợi.

Rồi cái bẫy được giăng ra, sắc như một con dao hai lưỡi.

“Có được phép nộp thuế cho Xêda hay không?” (c. 14).

Đã từng có những câu hỏi như thế.

“Có được phép chữa bệnh trong ngày sa bát không?” (Mt 12, 10).

“Có được phép rẫy vợ vì bất cứ lý do nào không?” (Mt 19, 3).

Được phép có nghĩa là không đi ngược với Luật Môsê.

Từ năm thứ sáu sau công nguyên,

khi Giuđê và Samari trở thành một tỉnh của đế quốc Rôma,

mỗi người dân Do thái phải nộp một thứ thuế thân cho những kẻ xâm lược.

Đã có những phong trào đứng lên chống lại thứ thuế này.

“Có được phép nộp thuế cho Xêda không?”

Nếu Đức Giêsu nói rõ là được phép nộp thì đụng đến lòng ái quốc của dân,

và cũng đụng đến nhóm Pharisêu là những người không chấp nhận

sự thống trị nhơ nhớp của ngoại bang trên phần đất của Thiên Chúa.

Nếu Ngài nói rõ là không được phép nộp thì Ngài sẽ gặp khó khăn với Rôma,

và sẽ đụng đến nhóm Hêrốt là nhóm lãnh đạo dựa dẫm vào thế của đế quốc.

Dĩ nhiên Đức Giêsu đã khôn ngoan không trực tiếp trả lời câu hỏi này.

Ngài không rơi vào bẫy, ngược lại, có thể nói, Ngài giăng một cái bẫy khác.

“Đem cho tôi một đồng bạc để tôi xem” (c. 15).

Đức Giêsu không mang trong mình thứ tiền này, dùng để nộp thuế cho Rôma.

Nhưng kẻ thù của Ngài thì mang, và đưa cho Ngài một đồng bạc.

Đồng bạc này mang hình của Xêda và mang dòng chữ:

“Tibêriô Xêda, con của Augúttô thần linh, Augúttô.”

Khi biết đó là đồng tiền bằng bạc của Xêda, Đức Giêsu đã nói:

“Những thứ của Xêda, hãy trả lại cho Xêda,

những thứ của Thiên Chúa, hãy trả lại cho Thiên Chúa” (c. 17).

Câu trả lời này đã làm họ sững sờ, không thể nào bắt bẻ được.

Đức Giêsu có vẻ không chống lại chuyện nộp thuế thân cho Xêda.

Nhưng Ngài quan tâm đến một chuyện quan trọng hơn nhiều.

Chuyện đối xử công bằng với Thiên Chúa.

Trả lại cho Thiên Chúa mọi sự thuộc về Thiên Chúa: đó là bổn phận.

Đồng tiền mang hình Xêda, nên chúng ta phải trả cho Xêda.

Còn chúng ta là người mang hình ảnh Thiên Chúa,

nên chúng ta phải dâng trả chính bản thân mình cho Thiên Chúa.

Tên của Giêsu đã được ghi khắc trong tim ta,

nên chúng ta không được quên mình đã thuộc trọn về Giêsu.

Còn bao điều trong đời ta thuộc về Thiên Chúa mà ta vẫn giữ cho mình!

Cầu nguyện :

Lạy Chúa,

xin nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu,

và trọn cả ý muốn của con,

cùng hết thảy những gì con có,

và những gì thuộc về con.

Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con,

lạy Chúa, nay con xin dâng lại cho Chúa.

Tất cả là của Chúa,

xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa.

Chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng.

Được như thế, con hoàn toàn mãn nguyện. Amen. (Kinh dâng hiến của thánh I-Nhã)

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.     

Suy Niệm 2: Trả cho Chúa

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Người ta thường trích dẫn Lời Chúa để phân biệt tôn giáo với chính trị. Thế quyền có toàn quyền ở trần gian. Thiên Chúa có quyền ở trên trời. Nhưng người ta rất thường quên rằng quyền lực trần gian chỉ có ở đời này. Thiên Chúa có quyền ở đời sau. Ở đời sau mọi quyền lực đều qui về một mình Thiên Chúa. Mọi người phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa. Chịu Thiên Chúa xét xử. Như thế mọi sự đều phải trả về cho Thiên Chúa. Như Chúa Giê-su cảnh báo Phi-la-tô: “Ông chẳng có quyền gì nếu từ trên không ban cho ông”. Càng ngày người ta càng muốn thoát ảnh hưởng của Chúa. Vua La mã thậm chí còn coi mình là thần thánh. Đã in trên đồng tiền nộp thuế là: Au-gút-tô Xê-da. Thần thánh Xê-da. Chúa Giê-su vạch rõ sự giả hình của nhóm Biệt phái. Theo Lề Luật cấm thờ ngẫu tượng. Thậm chí cấm khắc hình ảnh Thiên Chúa. Vậy mà nhóm Biệt phái này dám mang hình ảnh ngẫu tượng Xê-da trong túi. Họ ham tiền. Lại làm ra vẻ giữ luật Chúa. Chúa vạch trần sự giả hình của họ.

Tô-bít là người thực hành Lời Chúa. Ông biết mọi sự là của Chúa. Nên ông trả hết cho Chúa. Ông không sợ quyền lực thế gian. Dám lỗi luật vua chúa cấm chôn cất người chết. Để thực hành Lời Chúa dạy: chôn xác kẻ chết. Ông bất chấp nguy hiểm đến tính mạng. Bất chấp sự phản đối của hàng xóm, của thân nhân. Và của chính vợ ông. Ông tuyệt đối giữ sự công bằng. Bảo bà vợ: “Con dê nhỏ đó ở đâu ra vậy? Có phải của trộm cắp không? Đem trả lại cho chủ nó đi”. Với Thiên Chúa còn quyết liệt hơn. Tất cả là của Chúa. Phải trả cho Chúa (năm lẻ).

Thánh Phê-rô hướng đức tin của ta về ngày sau cùng. Tất cả phải trả cho Chúa. Đời này rồi sẽ qua đi mau chóng. “Ngày mà các tầng trời sẽ bị thiêu huỷ và ngũ hành sẽ chảy tan ra trong lửa hồn”. Rồi sẽ có “trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị”. Công lý tuyệt đối của Thiên Chúa. Trong khi chờ đợi ngày đó, đừng để mình bị đời này cám dỗ. Đừng để ảo ảnh đời này lừa dối. “Anh em hãy coi chừng kẻo bị những kẻ phạm pháp và lầm lạc lôi cuốn, mà không còn đứng vững nữa chăng”. Hãy kiên vững trong đức tin. Vì cuối cùng mọi sự thuộc về Chúa. “Xin kính dâng Người vinh quang, bây giờ và cho đến muôn đời. Amen” (năm chẵn).

 

Suy Niệm 3: Một qui luật sống

Tin Mừng hôm nay ghi lại một cuộc tranh luận khác giữa Chúa Giêsu và các vị lãnh đạo Do thái. Ở đây, chúng ta lại thấy hai nhóm liên kết lại, kể từ khi họ bắt hụt Chúa Giêsu khi Ngài rao giảng ở Capharnaum (3,6). Phái Hêrôđê ủng hộ Hêrôđê Antipa, thủ hiến xứ Galilê thì dựa vào thế lực của Rôma, còn nhóm Biệt phái cũng khá hòa hoãn với giới thống trị.

Thái độ sống giả hình là thái độ của những kẻ đóng kịch, cố gắng làm sao cho người khác thấy sự tốt nơi mình, mà thực ra mình không có. Những người Biệt phái và những người thuộc phái Hêrôđê là những kẻ giả hình, bởi vì họ làm ra vẻ muốn tìm biết sự thật, mà kỳ thực chỉ là để tìm dịp bắt bẻ Chúa. Họ đến với Chúa, khen Ngài là người chân thật, cứ theo sự thật mà giảng dạy đường lối của Thiên Chúa. Nhưng rất tiếc lời nói khéo léo của họ lại che đậy một thủ đoạn, một âm mưu trả thù. Ðó là đường lối của con người, nhất là của hạng người vụ lợi, ích kỷ, tham quyền.

Thật thế, sau khi giả vờ khen Chúa, họ liền chất vấn Ngài: “Có được phép nộp thuế cho César không?”. Vấn đề xem ra đơn giản, nhưng thực ra là một cạm bẫy. Theo họ, Chúa Giêsu là nhà cách mạng thuộc dòng tộc Ðavít, chắc hẳn Ngài sẽ bảo họ không nộp thuế cho César, và thế là sa bẫy họ, lúc đó, họ sẽ có lý do để bắt bớ, giải nộp và giết Ngài. Nhưng đối với Chúa Giêsu, cái bẫy của họ không có gì là nan giải, vì khôn ngoan của loài người chỉ là dại khờ trước mặt Thiên Chúa. Mặc dù biết rõ ý đồ của họ, Chúa Giêsu vẫn tỏ ra hết sức chân thật; Ngài còn nhân cơ hội này để đưa ra một bài học: Ngài bảo họ cho xem đồng tiền và sau khi được biết hình và dấu trên đồng tiền là của César, Ngài nói tiếp: “Của César, trả về César; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa”. Nói khác đi, một khi đã được hưởng nhờ ơn lộc của ai, thì phải đền ơn đúng nghĩa, họ đã nhờ bổng lộc của César, thì có bổn phận đền đáp cho César; nhưng Chúa cũng nhắc thêm bổn phận của con người đối với Thiên Chúa: con người đã nhận lãnh nhiều ơn huệ của Thiên Chúa, nên cũng phải đền đáp ơn Ngài. Chúa Giêsu nhìn nhận vai trò đúng đắn của của quyền bính trần thế: “Của César, trả về César”, nhưng Ngài thêm: “Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”. Chúa nhắc nhở rằng quyền bính trần thế không phải là quyền bính duy nhất trên con người, mà còn có quyền bính của Thiên Chúa nữa. Có những điều con người phải trả cho Thiên Chúa, vì con người đã được tạo dựng theo và giống hình ảnh Ngài; con người mắc nợ Thiên Chúa sự sống, nên con người buộc phải dâng hiến mạng sống cho Ngài và để Ngài chiếm chỗ ưu tiên trong cuộc sống của mình.

Xin Chúa soi sáng để chúng ta biết phân biệt điều gì thuộc César, điều gì thuộc Thiên Chúa, để chu toàn bổn phận đối với trần thế và đối với Thiên Chúa.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Suy Niệm 4: Của Xê-da

Họ cử mấy người Pha-ri-sêu và mấy người thuộc phe Hê-rô-đê đến cùng Người để gài bẫy cho Người lỡ lời. Những người này đến và nói: “Thưa Thầy chúng tôi biết Thầy là người chân thật, Thầy chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Vậy có được phép nộp thuế cho Xê-da không? chúng tôi phải nộp hay không phải nộp?” Nhưng Đức Giêsu biết họ giả hình, nên Người nói: “Tại sao các người lại thử Tôi? đem một quan tiền cho Tôi coi!” Đức Giêsu bảo họ: “Của Xê-da, trả về Xê-da; Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.” Và họ hết sức ngạc nhiên về Người. (Mc. 12, 13-15, 17)

Chúa không phán: “Của Xêda trả về Xêda miễn là nó phục tùng luật Chúa” nhưng “Của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” Chúng ta thường có khuynh hướng giảm thiểu vế đầu của câu và coi như chỉ mình Chúa là có quyền. Nghĩ Chúa xử sự như vậy là điều bất công. Ta phải chú ý, người ta không biểu dương những quyền lợi của Chúa bằng cách chối bỏ quyền lợi của con người. Những kẻ trong sạch của mọi thời đại không để cho mình hoen ố vì bàn tay lấy cớ rằng họ phụng sự Thiên Chúa thì cũng là những kẻ lừa dối như những kẻ nói quá trong chiều hướng kia vậy. Péguy đã có lý để mạ lị “những người nghĩ rằng mình yêu mến Chúa bởi vì họ không thương yêu ai cả.”

Dứt khoát mà nói, những quyền lợi của con người cũng quan trọng như những quyền lợi của Thiên Chúa và khẳng định như vậy không phải là phạm thượng. Trái lại, thừa nhận trong chốc lát rằng Người đòi hỏi ta phải dành cho Người một tình yêu khác biệt, thiết tưởng sẽ là khinh miệt Chúa. Người Kitô hữu không có một trái tim hai tầng. Những tội ác chống với nhân loại cũng ghê tởm như những tội chối đạo vậy. Có những lời Phúc âm bị quên đi tỉ như “Ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga. 4,20).

Lễ phong vương

Có một thời việc xức dầu cho các vua được coi như một bí tích. Những tranh cãi thần học nảy sinh từ một sự giải thích như vậy chẳng mấy quan trọng, có điều là đó là ý tưởng đẹp và nó bắt nguồn tư lòng ngưỡng mộ lớn lao đối với con người được tạo dựng để cai trị. Vả lại những quyền lón lao dành cho con người đều là những tiêu đề cao quý: quyền sống, quyền được đối xử công bình, quyền được yêu thương, bình đẳng…

Nếu Thiên Chúa đòi hỏi được yêu mến trên hết mọi sự, thì tuyệt nhiên không phải là con người được hưởng một nửa tình yêu đâu, mà vỏn vẹn chỉ có nghĩa là với tất cả khả năng yêu mến của ta dành cho Người. Những anh em ta, dù có tuyệt vời đến đâu, thì vẫn có giới hạn và tận cùng. Khi những người anh em ấy đã nhận được trọn tình yêu dành cho họ rồi, thì trái tim ta vẫn còn có khả năng vươn lên tới vô hạn.

Một trong những việc làm làm vẻ vang cho thời đại của ta là việc lập ra những hội nhân quyền. Ngày nào công việc của những hiệp hội hay liên minh này sẽ thành công, ngày ấy Nước Thiên Chúa sẽ ở giữa chúng ta.

Suy Niệm 5: GIAN DỐI KHÔNG CÓ TIẾNG NÓI CUỐI CÙNG (Mc 12, 13 – 17)

Ở đời người ta thường nói: “Thua keo này ta bày keo khác” để ám chỉ việc kiên trì trong suy tư hay hành động.

Hôm nay, những người Pharisêu đã không chịu thua Đức Giêsu, vì thế, họ đã tìm thêm dịp để hại Ngài. Không những vậy, họ còn kéo theo đồng minh là những người thuộc nhóm Hêrôđê nữa.

Câu chuyện được khởi đi từ một thái độ giả hình, nhằm che đậy sự gian xảo trong tâm hồn của những kẻ chuyên nghề nịnh hót. Họ không ngớt lời khen ngợi Đức Giêsu là người chân thật, công bằng trong cách giảng cũng như hành xử… Vì thế, nhân dịp này, họ đến để xin lời dạy khôn ngoan của Ngài về việc nộp thuế. Họ nói: “Có được phép nộp thuế cho César không?”. Đây lại là một trò chơi nguy hiểm mà họ giăng ra để gài bãy Đức Giêsu, và đây cũng là một thủ đoạn bỉ ổi nhằm trả thù Đức Giêsu vì những lần Ngài đã làm cho nhóm này bị lộ rõ chân tướng đê hèn của họ.

Đức Giêsu biết rõ đây là cái bẫy, nên Ngài rất bình thản hỏi ngược lại khi xin họ cho xem đồng tiền. Khi xem xong, Ngài hỏi: “Hình và danh hiệu này là của ai?”; họ đã nhanh nhảu trả lời: “Của César”.

Họ đưa ra cái bẫy này để xem Đức Giêsu xử trí ra sao? Họ thừa biết Ngài là con cháu thuộc dòng dõi Vua Đavít, thì mối thù dân tộc là không thể chấp nhận ngoại bang, vì thế, nếu Ngài nói không phải nộp thuế thì chắc chắn Đế Quốc sẽ xử Ngài. Còn nếu Ngài nói là phải nộp, thì dân chúng sẽ đứng lên tố cáo Ngài là tay sai cho địch, phản quốc, hại dân, và như một lẽ tất yếu, người dân không còn nghe theo những lời dạy dỗ của kẻ phản bội nữa!

Tuy nhiên, sự khôn ngoan của loài người lại trở nên ngu dại trước Thiên Chúa! Giải pháp đầy khôn ngoan của Đức Giêsu đã làm cho họ chưng hửng khi nói: “Của César, trả về César, của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa”.

Trong cuộc sống hôm nay vẫn còn đó những kẻ “đội trên, đạp dưới” để trục lợi hay che dấu những bỉ ổi, bất nhân ngầm sâu trong con người của họ. Những lời nói thật hay, những khen ngợi thật tuyệt vời, khiến cho đối phương bị thuyết phục và rồi thuận theo những chiêu thức ma ranh quỷ quyệt của họ mà làm nguy hại cho những người lương thiện.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết chu toàn trách vụ trần thế, nếu những điều đó là đúng với lương tâm Kitô giáo; luôn biết đền ơn những người làm ơn cho chúng ta, nhất là Thiên Chúa, Đấng luôn ban phát mọi ơn lành cho mình.

Không được sống hai mặt, giả tạo nhân đức để làm hại người khác, vì đây là đường lối của ma quỷ chứ không phải đến từ Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết khôn ngoan để lựa chọn những gì thuộc về Chúa và khước từ những gì thuộc về ma quỷ. Xin cho chúng con biết chu toàn bổn phận với Thiên Chúa và tha nhân. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 6: Nghĩa vụ công dân Nước Trời

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Là công dân một nước, người tín hữu phải chu toàn nghĩa vụ của người công dân. Còn nghĩa vụ đối với Thiên Chúa thuộc bình diện khác và có tính tuyệt đối.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, người ta gài bẫy để tìm cớ tố cáo Chúa tiếp tay với đế quốc phản lại dân tộc, hoặc để tố cáo Chúa chống lại hoàng đế. Nhưng Chúa đã cho thấy lập trường của Chúa: của Xê-da trả về Xê-da; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa. Con thấy Chúa là người của Thiên Chúa, nhưng đồng thời Chúa cũng thuộc về một quốc gia. Chúa yêu mến quê hương, Chúa tôn trọng luật pháp. Chúa nộp thuế như mọi người. Chúa không hề chống cự quan Phi-la-tô và vua Hê-rô-đê.

Lạy Chúa, suy gẫm những điều ấy, con lại cúi mình thẳm sâu trước mầu nhiệm Chúa làm người. Dù là Thiên Chúa, nhưng Chúa đã muốn giống con trong mọi sự. Con muốn học hỏi nơi Chúa lòng yêu mến quê hương và tôn trọng quyền bính hợp pháp. Xin Chúa giúp con ý thức nghĩa vụ đối với Thiên Chúa và đồng thời vẫn không quên nghĩa vụ của người công dân. Những nghĩa vụ chính đáng, những điều không trái với Tin Mừng, không trái với lương tâm Kitô hữu, xin dạy con nhận ra đó là ý Thiên Chúa và hăng say thi hành.

Lạy Chúa, xin giúp con sống đời chứng tá cho Tin Mừng giữa lòng dân tộc. Quê hương con còn nhiều điều xấu, nhiều người xấu, nhiều hoàn cảnh xấu. Xin Chúa giúp con là Kitô hữu biết tích cực dấn thân góp phần mình để quê hương con ngày càng tốt đẹp hơn.

Nhưng trước hết, xin Chúa giúp con luôn chu toàn nghĩa vụ đối với Thiên Chúa. Xin đừng để con quá mải mê với bổn phận ở đời mà quên mất Thiên Chúa, nhất là đừng bao giờ để con vì lợi lộc, địa vị ở đời mà bôi nhọ hoặc chối bỏ danh Kitô hữu. Xin giúp con yêu mến Thiên Chúa trong mọi sự và trên mọi sự. Amen.

Ghi nhớ : “Các ông hãy trả cho Cêsarê cái gì thuộc về Cêsarê, và trả cho Thiên Chúa cái gì thuộc về Thiên Chúa”.

Suy Niệm 7: Công dân và tín hữu

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Vua Henry VIII nước Anh đã kết hôn hợp thức với bà Catherine d’Aragon, nhưng ông xin Tòa Thánh Rôma hủy bỏ cuộc hôn nhân đó. Tòa Thánh đã từ chối. Henry liền tự mình giải quyết vấn đề và tái kết hôn. Thế là ông ta ra lệnh cho bạn bè và các chức sắc ký vào một văn bản tuyên bố đồng ý nhìn nhận hành động của ông là đứng đắn. Nhiều bạn bè của More đã ký vào, nhưng More thì từ chối. Henry yêu cầu More ký vào, nếu không sẽ bị bắt giam và xử tội tạo phản theo luật nhà nước. More vẫn khăng khăng từ chối. Ngài bị giằng co giữa hai bổn phận: Một đối với Chúa, một đối với Tổ quốc. Khi chúng xung đột nhau, thì More không còn chọn lựa nào ngoài sự trung tín với luật Chúa. (M. Link, Giảng lễ Chúa Nhật, năm A, tr. 305).

Suy niệm

Người biệt phái và pharisiêu luôn giữ đạo hình thức nên thường bị Đức Giêsu chỉnh sửa, đôi lúc lên án gay gắt vì sự cố chấp của họ (x. Mt 23,13-15.23.25.27-29; Mc 12,38-40; Lc 11,43-46.20,45-47). Mang trong mình nỗi hiềm khích đó, nên các biệt phái và kinh sư luôn tìm cách bắt bẻ Chúa Giêsu nhằm tìm sơ hở của Ngài để lên án và nếu được thì họ tố cáo bắt và giao nộp Chúa cho giới cầm quyền tôn giáo và chính trị như chúng ta thấy vụ án xét xử Chúa tại dinh Caipha và dinh Philatô sau này (x. Mt 26,57-68; Mc 14,53-64; Lc 22,54-55.63-71; Ga 18,13-14.19-24).

“Có nên nộp thuế cho Cêsarê không”, lời chất vấn Chúa Giêsu của biệt phái và kinh sư có ý đồ gài bẫy Ngài. Nếu Đức Giêsu trả lời là phải nộp thuế, người Do Thái sẽ cho Chúa Giêsu không có lòng yêu nước, ủng hộ và “đi đêm” với ngoại bang, là bán nước. Còn nếu trả lời không nộp thuế, họ sẽ tố cáo Chúa Giêsu chống lại quyền hành của người Rôma và quyền bính đế quốc sẽ “xử” Ngài. Trả lời có hay không đều rơi vào chiếc bẫy mà người biệt phái và kinh sư đã đặt sẵn cho Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu biết được lòng hiểm của họ, Ngài nói: “Sao các ông lại thử Ta  ? Hãy đưa Ta xem một đồng tiền”. Họ liền đưa cho Người một đồng bạc. Vì người Do Thái chỉ có quyền đúc tiền đồng, chứ không được đúc tiền bạc. Như vậy các đồng tiền của họ có giá trị nhỏ nên không được phép dùng để đóng thuế. Họ phải dùng đồng quan bạc của Rôma (theo Lm. PX. Vũ Phan Long), như thế đó là hành động tôn trong quyền bính của đế quốc.

“Của Cêsarê hãy trả cho Cêsarê, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa”. Quyền bính thế tục phục vụ lợi ích chung cho cộng đồng phải được tôn trọng. Chính quyền bính xây dựng, cai trị nhân gian xuất phát từ Thiên Chúa đã cho “con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất… và thống trị mặt đất” (St 1,28-29). Khi tham dự vào quyền bính chính trị để phục vụ nhân dân với cái tâm, chính là ca ngợi vinh quang Thiên Chúa, chia sẻ với quyền bính Ngài như Gandhi xác quyết: “Tôi làm chính trị vì tôi không thể tách rời cuộc sống với niềm tin của tôi. Vì tôi tin Thượng Đế nên tôi bước vào chính trị. Làm chính trị là cách tôi phụng sự Thượng Đế”.

Ðức Giêsu đã làm gương chu toàn bổn phận công dân, Ngài bảo Phêrô đóng thuế cho ông và cho Ngài (x. Mt 17,24-27). Chúng ta trong tư cách công dân có trách nhiệm thật lớn lao đóng góp thuế để giúp nền hành chính, để xây dựng đất nước. Nói về trách nhiệm này, thánh Phêrô viết: “Hãy vinh danh Thiên Chúa và tôn trọng vua” (1Pr 2,17). Tương tự thánh Phaolô cũng khuyên người tín hữu: “Mọi người phải tôn trọng nhà cầm quyền… Vậy hãy trả những gì anh chị em còn thiếu họ; hãy nộp thuế cá nhân và thuế bất động sản, và hãy tỏ lòng tôn trọng và vinh danh họ” (Rm 13,1.7). Sự tôn trọng quyền bính hợp pháp, luôn lo cho dân là nghĩa vụ của mọi công dân. Tuy nhiên, trước quyền bính vào tay của các nhà lãnh đạo ích kỷ độc tài, đục khoét của công, lèo lái vận mệnh của dân tộc đi vào vực thẳm. Phải từ chối vâng phục các uy quyền dân sự khi họ đòi hỏi những điều nghịch với lương tâm ngay chính, được biện minh bởi sự phân biệt giữa việc phục vụ Thiên Chúa và việc phục vụ cộng đồng chính trị… “Phải vâng phục Thiên Chúa hơn là vâng phục người ta” (Cv 5,29) (x. Giáo lý Công giáo, số 2242).

Nghĩa vụ công dân hoàn thành cho sự phát triển chung đều tỏ lộ vinh quang của Thiên Chúa…

Ý lực sống:

“Xin ban thần trí khôn ngoan xuống trên những kẻ mà nhân danh Ngài, chúng con đã ủy thác quyền cai trị… Trong thời thịnh vượng, xin đổ tràn xuống lòng chúng con niềm tri ân, và trong ngày gian truân, xin đừng để niềm tin của chúng con vào Ngài bị suy giảm…” (Thomas Jefferson).

Suy Niệm 8: Có nên nộp thuế chăng?

(Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Người Kitô hữu sống trên trần thế có hai nhiệm vụ song song: nhiệm vụ đối với Thiên Chúa và đối với Tổ quốc. Trên nguyên tắc, hai nhiệm vụ này độc lập với nhau, nhưng trong thực tế, khi thi hành những nhiệm vụ này, đôi lúc chúng ta gặp không ít khó khăn, đôi lúc làm cho chúng ta lo lắng. Câu hỏi được đặt ra là làm thế nào vừa phụng sự Thiên Chúa vừa phụng sự Tổ quốc mà không xung đột nhau? Làm sao có thể sống tốt đạo một cách hài hòa trong cuộc sống hằng ngày.
  2. Các biệt phái và những người cầm đầu dân Do thái liên kết với nhau, đã chất vấn và tìm cách bắt lẽ Chúa trong vấn đề tôn giáo. Họ đã thất bại. Nay họ định lập mưu, để buộc Người vào tội chính trị. Vì thế họ đã phỏng vấn Chúa về việc nộp thuế cho vua Rôma.

Có được phép nộp thuế cho César không?

Câu hỏi này giăng bẫy Chúa Giêsu là ở chỗ này:

– Nếu Người trả lời “có”, thì Người tự đặt mình về phía đối lập với quần chúng. Vì theo quan niệm của Do thái, thì đóng thuế cho đền thờ là một hành động tôn giáo: nhìn nhận chủ quyền của Thiên Chúa trên Israel. Còn César, vua dân Rôma, không thuộc dòng tộc Đavít, nên không có quyền gì của Thiên Chúa trên dân Người, như vậy hẳn là không phải đóng thuế cho César.

– Nếu trả lời “không” thì bè phái Hêrôđê sẽ tức khắc tố cáo Người làm cách mạng chống lại người Rôma. Và họ sẽ có cớ bắt Người.

  1. Nhưng đối với Chúa Giêsu, cái bẫy của họ không có gì nan giải, vì khôn ngoan của loài người chỉ là dại khờ trước mặt Thiên Chúa. Mặc dầu biết rõ ý đồ của họ, Chúa Giêsu vẫn tỏ ra hết sức chân thật, Ngài còn nhân cơ hội này để đưa ra một bài học: Ngài bảo họ cho xem đồng tiền và sau khi được biết hình và dấu trên đồng tiền là của César, Ngài nói tiếp: “Của César trả về cho César, của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa”.

Nói khác đi, một khi đã hưởng nhờ ân lộc của ai, thì phải đền ơn đúng nghĩa, họ đã nhờ bổng lộc của César, thì có bổn phận đền đáp cho César; nhưng Chúa cũng nhắc thêm bổn phận của con người đối với Thiên Chúa: con người đã nhận lãnh nhiều ân huệ của Thiên Chúa, nên cũng phải đền đáp ơn Ngài. Chúa Giêsu nhìn nhận vai trò đúng đắn của quyền bính trần thế: “Của César trả về César”, nhưng Ngài thêm: “Của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa”. Chúa nhắc nhở rằng quyền bính trần thế không phải là quyền bính duy nhất trên con người, mà còn có quyền bính của Thiên Chúa nữa. Có những điều con người phải trả cho Thiên Chúa, vì con người đã được tạo dựng theo và giống hình ảnh Ngài; con người mắc nợ Thiên Chúa sự sống, nên con người buộc phải dâng hiến mạng sống cho Ngài và để Ngài chiếm chỗ ưu tiên trong cuộc sống của mình (Mỗi ngày một tin vui).

  1. Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết chu toàn trách nhiệm trần thế, nếu những lời đó là đúng với lương tâm Kitô giáo; luôn biết đền ơn những người làm ơn lành cho chúng ta, nhất là Thiên Chúa, Đấng luôn ban phát mọi ơn lành cho mình.

Chúng ta hãy đặt ra câu hỏi cho chính mình: trong cuộc sống của tôi, những gì là “của César” (nghĩa là thuộc về vật chất, thế gian) và những gì là “của Thiên Chúa”. Tôi đã trả cho mỗi bên như thế nào? Có trả đủ không?

  1. Truyện: Có trả đủ không?

Ông Sam Jones là một nhà truyền đạo trứ danh bên Mỹ kể:

Ngày kia, có tín đồ than thở với ông rằng:

– Thưa ông, tôi đóng góp cho Hội thánh nặng quá!

– Bao nhiêu một năm? Ông Jones hỏi.

– Năm đồng một năm.

– Thế ông tin Chúa đã bao lâu?

– Đã bốn năm nay.

– Trước khi tin Chúa ông làm gì?

– Tôi nghiện rượu.

– Mỗi năm ông uống rượu hết bao nhiêu tiền?

– Chừng 250 đồng Mỹ kim.

– Khi ấy ông có đất ruộng gì không?

– Tôi phải mướn đất, cày bừa với một con bò.

– Bây giờ ông có gì không?

– Tôi có một khu ruộng tốt và một đôi ngựa cày.

Bấy giờ, ông Jones mới nghiêm nghị trách rằng:

– Trước đây, ông cho ma quỉ mỗi năm 250 đồng, để được cày ruộng thuê với một con bò, mà nay Đức Chúa Trời đã cứu ông, nay ông chỉ dâng cho Ngài năm đồng mỗi năm, để được cày ruộng riêng của mình với một đôi ngựa. Đúng ông là người bội bạc từ đầu đến bàn chân!

Vâng! Tất cả là hồng ân Chúa ban và phải trả lẽ với Chúa về những hồng ân Người uỷ thác. Chúng ta phải dùng ân huệ Chúa ban cho thật xứng đáng. Lòng tin nhắc nhở chúng ta rằng, chúng ta chỉ là môn đệ Chúa, là người có bổn phận chia sẻ hồng ân Chúa ban cho với người khác và sử dụng nó trong thời gian nào đó mà thôi.

Suy Niệm 9: ,,,,

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

Tin Mừng hôm nay ghi lại một cuộc tranh luận khác giữa Chúa Giêsu và các vị lãnh đạo Do Thái. Ở đây, chúng ta lại thấy hai nhóm liên kết lại, kể từ khi họ bắt hụt Chúa Giêsu khi Ngài rao giảng ở Capharanaum (3, 6). Phái Hêrôđê ủng hộ Hêrôđê Antipa, thủ hiến xứ Galilê thì dựa vào thế lực của Rôma, còn nhóm Biệt phái cũng khá hòa hoãn với giới thống trị.

Thái độ sống giả hình là thái độ của những kẻ đóng kịch, cố làm sao cho người khác thấy sự tốt nơi mình, mà thực ra mình không có. Những người Biệt phái và những người thuộc phái Hêrôđê là những kẻ giả hình, bởi vì họ làm ra vẻ muốn tìm biết sự thật, mà kỳ thực chỉ là để tìm dịp bắt bẻ Chúa. Họ đến với Chúa, khen Ngài là người chân thật, cứ theo sự thật mà giảng dạy đường lối của Thiên Chúa. Nhưng rất tiếc lời nói khéo léo của họ lại che đậy một thủ đoạn, một âm mưu trả thù. Đó là đường lối của con người, nhất là của hạng người vụ lợi, ích kỷ, tham quyền.

Thật thế, sau khi giả vờ khen Chúa, họ liều chất vấn Ngài: “Có được phép nộp thuế cho Xêda không?” Vấn đề xem ra đơn giản, nhưng thực ra là một cạm bẫy.

Theo họ, Chúa Giêsu là nhà cách mạng thuộc dòng Đavít, chắc hẳn Ngài không thể chấp nhận quyền bính ngoại xâm, và như vậy Ngài sẽ bảo họ không bắt bớ, giải nộp và giết Ngài. Nhưng đối với Chúa Giêsu, cái bẫy của họ không có gì nan giải, vì khôn ngoan của loài người chỉ là dại khờ trước mặt Thiên Chúa. Mặc dù biết rõ ý đồ của họ, Chúa Giêsu vẫn tỏ ra hết sức chân thật; Ngài còn nhân cơ hội này để đưa ra một bài học: Ngài bảo họ cho xem đồng tiền và sau khi được biết hình và dấu trên đồng tiền là của Xêda, Ngài nói tiếp: “Của Xêda, trả về Xêda, của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa.” Nói khác đi, một khi đã hưởng nhờ ơn lộc của ai, thì phải đền ơn đúng nghĩa, họ đã nhờ bổng lộc của Xêda, thì có bổn phận đền đáp cho Xêda, nhưng Chúa cũng nhắc thêm bổn phận của con người đối với Thiên Chúa; con người đã nhận lãnh nhiều ơn huệ của Thiên Chúa, nên cũng phải đền đáp ơn Ngài.

Chúa Giêsu nhìn nhận vai trò đúng đắn của quyền bính trần thế không phải là quyền bính duy nhất trên con người, mà còn có quyền bính của Thiên Chúa nữa. Có những điều con người phải trả cho Thiên Chúa, vì con người đã được tạo dựng theo và giống hình ảnh Ngài; con người mắc nợ Thiên Chúa sự sống, nên con người buộc phải dâng hiến mạng sống cho Ngài và để Ngài chiếm chỗ ưu tiên trong cuộc sống của mình.

Xin Chúa soi sáng để chúng ta biết phân biệt điều gì thuộc Xêda, điều gì thuộc Thiên Chúa, để chu toàn bổn phận đối với trần thế và đối với Thiên Chúa.

Suy Niệm 10: ,,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Những người Do Thái cử một số người Pharisêu đến hỏi để gài bẫy Chúa Giêsu. Câu hỏi của họ rất thâm độc: “Chúng tôi có phải nộp thuế cho Cêsar không ?” (Mc 12,14).

Câu trả lời của Chúa vừa khôn, vừa khéo, vừa rõ: “Của Cêsar hãy trả cho Cêsar, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa” (Mc 12,17)

Qua câu trả lời trên, Chúa Giêsu nhắc cho mọi người nguyên tắc: con người có hai bổn phận phải chu toàn: đó là bổn phận đối với trần thế, và bên cạnh đó còn một bổn phận khác quan trọng hơn đó là những bổn phận đối với Thiên Chúa.

  1. Vâng! Những người Pharisêu và đảng Hêrôđê đã dùng những lời lẽ rất tốt đẹp như những chiếc lá che trên những cái hố mà ở dưới họ đặt sẵn chiếc bẫy. Việc làm này chứng tỏ họ là những con người giả hình. Chúa Giêsu có lần đã ví họ như những nấm mồ bên ngoài quét vôi trắng xóa coi rất đẹp, nhưng bên trong thì đầy những xú uế thối tha bẩn thỉu.

Chúa rất ghét những con người giả hình như thế. Đối với Chúa thì con người phải biết sống trung thực với mình và với cả những người khác. Người trung thực là người sống thật với những gì mình có, không tô vẽ, không thêm bớt. Có sao nói vậy, có như thế nào sống như thế đó. Chỉ khi nào chúng ta biết sống như thế, thì cuộc sống mới trở nên tốt đẹp và mọi người mới có được cuộc sống an bình.

Một hôm, vua Vũ Đế nhà Hán nói với các quan rằng:

– Ta xem trong sách tướng có nói, người ta nhân trung dài một tấc thì sống lâu một trăm tuổi.

Đông Phương Sóc đứng bên phì cười. Các quan bắt lỗi là vô phép.

Đông Phương Sóc cất mũ, tạ rằng:

– Muôn tâu bệ hạ, kẻ hạ thần không dám cười bệ hạ, chỉ cười ông Bành Tổ mặt dài mà thôi.

 Vua hỏi:

– Sao lại cười ông Bành Tổ ?

 Đông Phương Sóc nói:

– Tục truyền ông Bành Tổ sống tám trăm tuổi. Nếu quả thực như câu trong sách tướng bệ hạ nói thì nhân trung ông dài tám tấc, mà nhân trung dài tám tẩc thì cái mặt ông ta dễ phải dài đến một trượng.

 Vua Vũ Đế nghe nói bật cười tha tội cho.

Hãy coi chừng kẻo chúng ta cũng vấp phải chứng giả dối, đối xử với nhau theo kiểu những lời nói đầu môi chóp lưỡi, những lời khen ngợi không thành thực, những câu nói gài bẫy hại người. Sống với những người như thế thật là nguy hiểm. Nếu tôi thật là như vậy thì tôi cũng thật nguy hiểm cho những người sống chung với tôi.

  1. Việc nộp thuế hằng năm cho Đền thờ Jêrusalem là một luật buộc cho tất cả những người Do Thái, phái nam từ hai mươi tuổi trở lên phải nộp thuế, cả khi người đó sinh sống ngoài lãnh thổ Israel và số tiền phải trả tương đương với số lương của hai ngày làm việc.

Thói quen đóng thuế là vào tháng ba trước khi mừng lễ Vượt Qua. Chúa Giêsu, với tư cách là con Thiên Chúa, thì Ngài phải được miễn nộp thuế Đền thờ. Vì theo luật Rôma đang có hiệu lực thời đó thì những thành phần của gia đình nhà vua, không phải nộp thuế. Tuy nhiên, để khỏi gây ra gương mù gương xấu, để khỏi làm gai mắt họ thì Chúa Giêsu đã nộp thuế. Cách hành xử của Chúa có thể là một bài học thiết thực cho mỗi người. Chúa Giêsu hành xử không theo tiêu chuẩn công bằng mà là bác ái, để khỏi gây ra gương mù gương xấu cho anh em. Chúa tuân giữ cả những điều nhỏ mà thật ra Chúa không buộc phải giữ.

  1. Trong cuộc sống của tôi, thử hỏi những gì là “của Cêsar” (nghĩa là thuộc về vật chất, thế gian) và những gì là “của Thiên Chúa”.

Ông Sam Jones là một nhà truyền đạo trứ danh bên Mỹ, ngày kia, có tín đồ than thở với ông rằng:

– Thưa ông, tôi đóng góp cho Hội Thánh nặng quá!

– Bao nhiêu một năm ? Ông Jones hỏi.

– Năm đồng một năm.

– Thế ông tin Chúa đã bao lâu ?

– Đã bốn năm nay.

– Trước khi tin Chúa ông làm gì ?

– Tôi nghiện rượu.

– Mỗi năm ông uống rượu hết bao nhiêu tiền ?

– Chừng 250 đồng mỹ kim.

– Khi ấy ông có đất ruộng gì không ?

– Tôi phải mướn đất, cày bừa với một con bò.

– Bây giờ ông có gì không ?

– Tôi có một khu ruộng tốt và một đôi ngựa cày.

Bấy giờ, ông Jones mới nghiêm nghị trách rằng:

– Trước đây, ông cho ma quỉ mỗi năm 250 đồng để được cày ruộng thuê với một con bò, mà nay Đức Chúa Trời đã cứu ông, nay ông chỉ dâng cho Ngài năm đồng mỗi năm để được cày ruộng riêng của mình với một đôi ngựa. Đúng ông là người bội bạc từ đỉnh đầu đến bàn chân! (NTS).

Vâng! Tất cả đều là hồng ân Chúa ban và phải trả lẽ với Chúa về những hồng ân Người ủy thác. Chúng ta phải dùng ân huệ Chúa ban cho thật xứng đáng. Lòng tin nhắc nhở chúng ta rằng, chúng ta chỉ là môn đệ Chúa, là người có bổn phận chia sẻ hồng ân Chúa ban cho với người khác và sử dụng nó trong thời gian nào đó mà thôi.

THỨ TƯ TUẦN 9 THƯỜNG NIÊN

Lời Chúa: Mc 12, 18-27

Khi ấy, có ít người phái Sađốc đến cùng Chúa Giêsu; phái này không tin có sự sống lại và họ hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, luật Môsê đã truyền cho chúng tôi thế này: Nếu ai có anh em chết đi, để lại một người vợ không con, thì hãy cưới lấy người vợ goá đó để gây dòng dõi cho anh em mình. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ rồi chết không con. Người thứ hai lấy người vợ goá và cũng chết không con, và người thứ ba cũng vậy, và cả bảy người không ai có con. Sau cùng người đàn bà ấy cũng chết. Vậy ngày sống lại, khi họ cùng sống lại, thì người đàn bà đó sẽ là vợ của người nào? Vì cả bảy anh em đã cưới người đó làm vợ”.

Giêsu trả lời rằng: “Các ông không hiểu biết Kinh Thánh, cũng chẳng hiểu biết quyền phép của Thiên Chúa, như vậy các ông chẳng lầm lắm sao? Bởi khi người chết sống lại, thì không lấy vợ lấy chồng, nhưng sống như các thiên thần ở trên trời.

Còn về sự kẻ chết sống lại, nào các ông đã chẳng đọc trong sách Môsê chỗ nói về bụi gai, lời Thiên Chúa phán cùng Môsê rằng: “Ta là Chúa Abraham, Chúa Isaac và Chúa Giacóp”. Người không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống. Vậy các ông thật lầm lạc”.

Suy Niệm 1: Thiên Chúa của kẻ sống

Suy niệm :

Khi được hỏi về cuộc sống mai hậu,

Đức Khổng Tử đã trả lời đại khái như sau:

chuyện đời này còn chưa nắm hết, nói gì đến chuyện đời sau.

Nhưng chuyện đời sau vẫn là thao thức muôn thuở của con người.

Con người muốn biết sau cuộc sống ngắn ngủi này, mình sẽ đi về đâu.

Đi mà không rõ đích đến thì sẽ đi lông bông vô định.

Tiếc là có người đã tin rằng chẳng có gì sau cái chết!

Nhóm Xađốc cũng thuộc hạng người trên.

Họ là những tư tế Do thái giáo bảo thủ, không chấp nhận các ý tưởng mới

như chuyện người chết sống lại hay sự hiện hữu của các thiên thần.

Trong Kinh Thánh, họ chỉ dựa vào Ngũ Thư, trong đó có sách Đệ nhị luật.

Sách này có nói đến chuyện một người trong họ hàng gần (Đnl 25, 5-10),

phải lấy bà vợ góa không con của anh em mình, để có người nối dõi.

Nhóm Xađốc đã đưa ra một trường hợp hãn hữu và buồn cười (cc. 20-23),

để cho thấy chuyện sống lại là vô lý, và Môsê cũng chẳng tin chuyện đó.

“Khi sống lại, bà ấy sẽ là vợ của ai? Vì cả bảy người đều đã lấy bà làm vợ.”

Đức Giêsu đã nặng lời chê các tư tế trong nhóm này (c. 24).

Họ đã hiểu cuộc sống đời sau như một thứ kéo dài cuộc sống hiện tại,

nơi đó người ta vẫn cưới vợ, lấy chồng, vẫn sinh con đẻ cái.

Đức Giêsu cho thấy một bộ mặt khác hẳn của đời sau.

Người được sống lại là người bước vào cuộc sống hoàn toàn mới.

Họ sống “như các thiên thần trên trời” (c. 25),

nghĩa là sống trọn vẹn cho việc phụng sự Thiên Chúa,

với một thân xác đã được biến đổi nên giống thân xác Đấng phục sinh.

Nhưng đừng hiểu thiên đàng là nơi mất đi sự ấm áp của tình người.

“Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (Lc 23, 43).

“Thầy đi dọn chỗ cho anh em, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14,3).

Tình yêu với Thầy Giêsu và những mối dây thân ái giữa người với người,

chẳng có gì bị phá vỡ, nhưng trở nên hoàn hảo vững bền.

Người ta sẽ không cưới hỏi hay sinh con,

nhưng tình nghĩa vợ chồng được nâng lên một bình diện mới.

Đức Giêsu trưng dẫn sách Xuất hành để minh chứng có sự sống lại.

Thiên Chúa nhận mình là Thiên Chúa của các tổ phụ Ítraen (Xh 3,15).

Mà người Do thái tin là Ngài không gắn mình với các anh hùng đã chết.

Vậy Abraham, Ixaác và Giacóp phải là những người đang sống,

nghĩa là những người đã chết và đã được phục sinh.

Chúng ta tuyên xưng có sự sống đời sau qua kinh Tin Kính.

Nhưng sống niềm tin ấy giữa thế giới vật chất và vô tín là điều không dễ.

Chỉ xin cho vất vả lo toan đời này không làm ta quên đời sau.

Cầu nguyện :

Lạy Chúa Giêsu,

giàu sang, danh vọng, khoái lạc

là những điều hấp dẫn chúng con.

Chúng trói buộc chúng con

và không cho chúng con tự do ngước lên cao

để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.

Xin giải phóng chúng con

khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,

nhờ cảm nghiệm được phần nào

sự phong phú của kho tàng trên trời.

Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi

bán tất cả những gì chúng con có,

để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.

Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng

trước những lời mời gọi của Chúa,

không bao giờ ngoảnh mặt

để tránh cái nhìn yêu thương

Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

Suy Niệm 2: Thiên Chúa sự sống

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Có hai luồng tư tưởng sai lầm. Không tin vào đời sau. Hoặc tin vào đời sau nhưng cho rằng đời sau cũng giống như đời này. Hôm nay Chúa Giê-su bài bác cả hai lập trường sai lầm ấy.

Có đời sau. Vì tại bụi gai cháy đỏ Thiên Chúa nói với Mô-sê: “Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, và Thiên Chúa của Gia-cóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống”. Thiên Chúa đang sống nên mới có thể truyện trò với Mô-sê. Và các tổ phụ cũng đang sống bên nên Thiên Chúa mới khẳng định Người là Thiên Chúa của họ.

Nhưng đời sau không còn giống như đời này. Chúa Giê-su minh định: “Quả vậy, khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời”.

Chúng ta có bằng chứng vững chắc. Vì Chúa Giê-su đã từ trời xuống. Và đã lên trời. Trở về với Chúa Cha. Người đã chiến đấu với thần chết. “Chính Đức Ki-tô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử”. Đó là niềm hy vọng vững chắc cho ta. Đó là đích điểm ta nhắm tới. Đó là con đường ta phải đi theo. Các thế lực ma quỉ thế gian luôn tìm cách lung lạc niềm tin đó. Nhưng thánh Phao-lô là người loan Tin Mừng Chúa Ki-tô phục sinh. Tin Mừng sự sống. Tin Mừng hy vọng cho nhân loại. Dù ngài phải chịu bắt bớ, đau khổ. Và chịu chết nữa. “Chính vì lý do ấy mà tôi phải chịu những đau khổ này; nhưng tôi không hổ thẹn, vì tôi biết tôi tin vào ai, và xác tín rằng: Người có đủ quyền năng bảo toàn giáo lý đã được giao phó cho tôi, mãi cho tới Ngày Người đến” (năm chẵn).

Chính vì niềm tin vào đời sau, nên những người công chính muốn thoát khỏi đời này. Vì thế gian là “thung lũng đầy nước mắt”. Chỉ khi về với Thiên Chúa ta mới được hạnh phúc thật. Tô-bít chịu nhiều đau khổ oan ức ở đời đã cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin truyền lệnh cho con được giải thoát khỏi số kiếp gian khổ này. Xin để con ra đi vào cõi đời đời”. Còn Xa-ra, quá đau khổ, nhưng không dám tự tử. Vì còn tin vào Chúa. Và vì yêu thương cha mẹ. Nhưng cô chỉ xin Chúa cho được chết đi: “Nên tốt hơn là tôi đừng thắt cổ tự tử, mà phải cầu xin Chúa cho tôi chết đi”(năm lẻ).

Xin cho con vững tin vào Chúa. Vào sự sống đời sau. Để con sống xứng đáng ở đời này. Nhưng không lưu luyến. Và không quá mê mải đời này.

 

Suy Niệm 3: Có sự sống lại

Tin Mừng hôm nay mô tả cuộc đụng độ đầu tiên giữa Chúa Giêsu và nhóm người Sađốc. Những người Sađốc thuộc về hàng tư tế quý tộc. Về mặt chính kiến, họ theo bọn xâm lược. Về mặt tôn giáo, họ rất bảo thủ. Ðối với họ, lề luật phải tuân theo chỉ có trong năm cuốn sách đầu tiên của Bộ Kinh Thánh. Họ phi bác mọi giáo thuyết xuất hiện sau này do các tiên tri và các bậc trí giả giảng dạy, chẳng hạn việc kẻ chết sống lại. Do đó chẳng có gì ngạc nhiên khi họ tấn công Chúa Giêsu về vấn đề này.

Thật thế, dựa vào niềm tin mà họ cho là đúng đắn, những người Sađốc bắt đầu hỏi Chúa Giêsu bằng bộ luật Môsê, theo đó khi người chồng chết, nếu người vợ anh ta chưa có con, thì người anh (hoặc em) chồng phải cưới bà này để nối dõi tông đường.

Họ đặt ra trường hợp một người đàn bà có bảy đời chồng, vào lúc sống lại, bà ấy sẽ là vợ của ai trong bảy người anh em vì tất cả đã lấy bà làm vợ? Những người Sađốc hỏi thế, không phải vì thành tâm tìm kiếm để sống theo sự thật, mà chỉ để đùa giỡn với sự thật mà thôi.

Chúa Giêsu biết rõ họ ngoan cố và cố ý thử thách Ngài, nhưng Ngài vẫn điềm tĩnh và chỉ cho họ thấy sự dốt nát lầm lẫn của họ: Thứ nhất, họ thiếu hiểu biết Kinh Thánh và quyền năng của Thiên Chúa; thứ hai, hoàn cảnh con người sau khi sống lại hoàn toàn thay đổi, không giống như lúc còn sống ở trần gian này. Chúa Giêsu nói rõ có sự sống lại, nhưng sở dĩ họ không tin là vì họ thiếu hiểu biết Kinh Thánh. Thật thế, trong sách Môsê, đoạn nói về bụi gai, Thiên Chúa phán: “Ta là Chúa của Abraham, Chúa của Isaac, Chúa của Yacob”, Ngài không là Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống. Hơn nữa, nếu Thiên Chúa đã phán một lời liền có mọi sự, chẳng lẽ Ngài không thể làm cho kẻ chết sống lại sao? Sự sống và sự chết đều do Thiên Chúa, vì thế sự sống lại cũng thuộc về Thiên Chúa. Lại nữa, khi sống lại từ cõi chết, thân xác con người được biến đổi hoàn toàn, nó sẽ giống như các thiên thần, giống như Chúa Kitô Phục Sinh, nên không còn phải chết và cũng chẳng phải dựng vợ gả chồng nữa.

Từ khi Chúa Giêsu mạc khải về sự thật này, biết bao người đã tin vào Thiên Chúa và đã sống trọn vẹn với niềm tin đó; biết bao người đã can đảm sống sự thật được mạc khải, dù phải hy sinh mạng sống, dù phải từ bỏ mọi danh lợi trần gian. Ðó là gương của những vị anh hùng tử đạo qua bao thế hệ nơi các dân tộc.

Nguyện xin Chúa soi lòng mở trí chúng ta hiểu biết và mộ mến Lời Chúa dạy trong sách Kinh Thánh, để chúng ta am tường các mầu nhiệm của Chúa và thực thi thánh ý Chúa. Xin cho chúng ta trân trọng sự sống, trau dồi cuộc sống tại thế tốt đẹp để được sống đời đời với Chúa.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Suy Niệm 4: Góa phụ của những người thuộc nhóm Sa-đốc

Quả vậy, khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời. Còn về vấn đề kẻ chết sống lại, các ông đã không đọc trong sách Mô-sê đoạn nói về bụi gai sao? Thiên Chúa phán với ông ấy thế nào? Người phán: “Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-sa-ác, và Thiên Chúa của Gia-cóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống. Các ông lầm to!” (Mc. 12, 25-27)

Lòng tin vào sự sống lại đến muộn màng trong Do thái giáo, nhưng vào thời Chúa Giêsu nói chung người ta đã chấp nhận và nhóm những người thuộc phe Xađốc không tin có sự sống lại chỉ là thiểu số. Theo họ thì linh hồn hư nát cùng với thân xác. Phần đông các thành viên nhóm này thuộc giới tư tế và được người ta coi như có tài trong những cuộc tranh cãi lắt léo, nếu không nói là rối rắm như mớ bòng bong, như trường hợp Phúc âm hôm nay, họ đặt ra một vấn đề có một không hai. Vấn đề có vẻ nực cười, nhưng không có ý giễu cợt đức tin. Vấn đề muốn cho thấy sự sống lại là điều khó và phi lý, vì tạo nên những hoàn cảnh phức tạp và khó gỡ ở bên kia thế giới, chẳng hạn như trường hợp người góa phụ của bảy đời chồng này sẽ không biết cuối cùng mình sẽ là vợ của ai trong số họ. Chắc chắn bà ta sẽ không có thể được hưởng niềm vui trọn vẹn, bởi vì trong dân Do thái, người ta coi niềm an vui phu thê là phần thưởng lớn lao. Câu trả lời của Chúa Giêsu phải được đặt trong bối cảnh này: “Khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời.” Nói cách khác, sự sống của những người đã sống lại không cùng bình diện và tầm vóc với sự sống ở đời này.

Người được phục sinh không phải là một xác chết được sống lại

Nỗi bận tâm của những người thuộc phe Xađốc ở thời nào cũng có, dẫu rằng ngày nay người ta diễn tả không y như trước. “Chúng ta sẽ sống với những người thân của chúng ta sao? Tuổi đời đời là bao nhiêu? Có sẽ thoát khỏi những dị hình dị tật, những khuyết điểm của ta không?” Bảng liệt kê sẽ có thể dài dài đến vô tận. Đã thấy có những người lên mặt mô phạm dám đưa ra những câu trả lời cho tất cả những âu lo này, đang khi tự khởi đầu người ta đã đặt vấn đề không đúng; chúng ta sẽ không phải là những xác chết được sống lại để sẽ tiếp tục sống trên trái đất được sửa sang lại, nhưng là những con người mới trong một thế giới mới.

Phải nhận rằng chính Chúa Giêsu không cho ta biết mấy về tình trạng những người đã được phục sinh. Kiểu nói “giống như các thiên thần trên trời” chỉ có ý nói đến một cách thức hiện hữu khác biệt mà thôi. Nếu Thiên Chúa đã cho là tốt việc giữ yên lặng gần như hoàn toàn về tình trạng của đời sống hưởng phúc mai sau, thì thiết tưởng con người vì không đủ tư cách nên cũng đừng nói gì về đời sống xã hội ở đời sau. Những người đã được tuyển chọn hưởng phúc kia có thăm viếng ta hay không, điều đó chẳng ai biết được hay sẽ biết.

Suy Niệm 5: SỐNG LẠI RỒI SẼ RA SAO? (Mc 12,18-27)

Đã có nhiều cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu và nhóm này hay nhóm khác, nhưng với nhóm Xađốc thì đây là lần đầu tiên. Những người này được liệt vào hàng quý tộc có tiếng là tử tế, nhưng lại theo ngoại xâm.

Họ rất bảo thủ trong lãnh vực tôn giáo. Vì thế, họ chỉ công nhận bộ Ngũ Thư mà thôi. Tất cả các cuốn sách khác đều bị bãi bỏ cả. Vì thế, những lời dạy của các ngôn sứ xuất hiện sau đó thì đều bị họ khước từ và không tin.

Như vậy, chúng ta không lạ gì khi họ chất vấn Đức Giêsu về sự sống lại.

Họ đứng lên hỏi Ngài về việc sự sống lại sau cõi chết khi đưa ra một ví dụ: có một người lấy vợ, rồi chết không con, theo luật, người em kế phải lấy tiếp người phụ nữ ấy để có con nối dòng. Tuy nhiên, cứ lần lượt như vậy cho đến người thứ 7 lấy cô ta mà cũng chết không con, cuối cùng, chính người đàn bà này cũng chết. Vậy sau này, khi sống lại thì cô ta sẽ là vợ của ai trong 7 người chồng đã từng cưới nàng làm vợ?

Khi hỏi như vậy, Đức Giêsu thừa biết ý đồ thâm độc của nhóm này, nên Ngài đã làm cho họ cứng họng!

Trước tiên, Đức Giêsu đã làm họ lúng túng khi chỉ dẫn cho biết sự am hiểu Kinh Thánh của họ quá hời hợt.

Thứ hai, Ngài mặc khải cho họ biết rằng: sự sống con người sau khi chết hoàn toàn khác với sự sống hiện tại. Nếu sự sống hiện tại con người có bổn phận truyền sinh để lưu truyền nòi giống, thì sự sống sau cái chết không còn chuyện đó. Vì vậy, họ đâu còn lấy vợ gả chồng nữa, bởi vì sự sống của họ đã đạt tới sự viên mãn.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tin tưởng vào Thiên Chúa cũng như sự sống thật đời sau. Cuộc sống đời đời là đích đến chứ không phải dừng lại ở nhu cầu thể xác như khi lưu trú nơi trần gian.

Chỉ có Thiên Chúa là chủ của sự chết lẫn sự sống, và chỉ trong Ngài, chúng ta mới được hạnh phúc đích thực.

Vì thế, hãy biết trân trọng nó và biết mua lấy Nước Hằng Sống bằng niềm tin, sự hy sinh và tinh thần dấn thân vì Nước Trời ngay trong cuộc sống thực tại trần thế này.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con lòng yêu mến Lời Chúa và tha thiết thực hành Lời Chúa trong cuộc sống hiện tại. Xin ban cho chúng con luôn biết tha thiết với những thực tại trên trời, nơi tràn đầy ân sủng, bình an và hạnh phúc vĩnh cửu. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 5: Thiên Chúa Hằng Sống

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống. Thiên Chúa dựng nên ta để sống, không những sống trong cuộc đời hiện tại, mà còn để sống mãi mãi sau khi sống lại.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa là Thiên Chúa Hằng Sống và là nguồn mạch sự sống. Con tạ ơn Chúa vì Chúa đã ban sự sống cho con. Không những con chỉ sống ngắn ngủi vài chục năm trên cõi đời này, mà con tin Chúa sẽ còn cho con được sống lại để sống mãi mãi bên Chúa.

Lạy Chúa, ai cũng muốn sống và khao khát được sống mãi. Chúng con lập gia đình là để có con cái nối dài sự sống của mình. Luật Mô-sê dạy em phải lấy vợ của anh đã chết mà không để lại con cái, cũng là để có con cái nối dài sự sống. Chúng con biết mình sẽ phải chết nhưng vẫn khao khát được kéo dài sự sống. Chúa là Thiên Chúa kẻ sống, chính Chúa đã đặt vào lòng con nỗi khao khát ấy, và chính Chúa đáp ứng nỗi khát vọng ấy bằng cách cho con sẽ được sống lại với Chúa Giêsu.

Lạy Chúa, con không muốn đời con chấm dứt với cái chết, nhưng trong đời sống thường ngày, con lại thường lao mình vào cái chết. Xin Chúa giúp con giữ gìn sức khoẻ thể xác bằng cách tránh ăn uống quá độ, tránh nghiện ngập say sưa hoặc chơi bời hưởng thụ. Con cũng xin Chúa cho mỗi người biết tôn trọng sự sống của những người già cả tật nguyền, nhất là sự sống của con người đang chờ ngày sinh ra.

Và trên hết, xin Chúa cho con biết quý trọng sự sống của linh hồn bằng cách giữ mình sạch tội, tuân giữ Lời Chúa và siêng năng rước Chúa Giêsu vào lòng. Như vậy, con tin rằng con sẽ được sống đời đời bên Chúa. Amen.

Ghi nhớ : “Người không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống”.

Suy Niệm 6: Thiên Chúa của kẻ sống

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Đại tá David Marcus bị chết trong trận chiến ở Israel tháng 6 năm 1948. Trong bóp (ví) của ông, người ta thấy một tấm thẻ ghi lại những lời thi vị hóa cái chết như sau:

“Tôi đang đứng trên bờ biển. Bên cạnh tôi con tàu đang trương buồm trắng phất phơ trong gió sớm hướng về đại dương. Con tàu trông thật đẹp và mạnh mẽ. Tôi đứng nhìn theo nó cho đến khi nó chỉ còn là một dải mây trắng nơi trời và nước hòa lẫn với nhau. Lúc đó có người đứng cạnh tôi thốt lên: “Kìa, con tàu biến mất rồi!” – Biến đi đâu  ? – Biến khỏi tầm mắt tôi, thế thôi! Nó vẫn là cột buồm, là vỏ tàu rộng lớn như lúc nó rời cạnh tôi và cũng vẫn đủ khả năng mang hàng hóa tươi sống đến nơi đã định. Kích thước con tàu chỉ giảm đi trong ánh nhìn của tôi chứ không phải nơi chính nó. Và ngay lúc đó tiếng người cạnh tôi vang lên: “Kìa! Nó biến mất rồi” thì lại có nhiều tiếng khác ở chân trời đằng kia vang lên đầy hoan hỉ: “Kìa! Nó đến rồi” Và đó chính là lúc chết (M. Link).

Suy niệm

Đối với Thiên Chúa mọi người đều luôn sống và sự chết trần gian chỉ là một sự chuyển tiếp… sang sự sống mới, tươi hơn, sáng hơn.

Nhóm Sađốc là những người có học thức, hầu hết là giàu có và có địa vị cao quý, nhóm này không tin có sự sống lại (x. Lc 20,27) chất vấn Chúa về sự Phục sinh. Họ trích sách Đệ Nhị Luật: “Khi anh em ở chung cùng nhau và một người của chúng chết đi mà không con, vợ của người chết sẽ không được thuộc về chồng khác ngoài nhà. Một anh em của chồng sẽ nhập phòng với nó và lấy nó làm vợ và giữ nghĩa anh em chồng với nó. Và con trai đầu lòng sinh ra sẽ lưu danh người anh em đã chết. Và như vậy tên nó sẽ không bị xoá khỏi Israel” (Đnl 25,5-6). Khi trích dẫn đoạn sách Đệ Nhị Luật trên và đã nhân số anh em ruột buộc phải lần lượt lấy người vợ goá đó, lên tới bảy người: “Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết. Người thứ hai, rồi người thứ ba đã lấy người vợ góa ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà không để lại đứa con nào. Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ!”. Sự việc được nêu ra có ý ép buộc Đức Giêsu phải từ chối tin vào sự sống lại mà họ đã chủ trương, để tránh tình trạng vô luân một vợ bảy chồng!.

Đức Kitô tuyên bố: “Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống”.

Nhóm Sađốc vốn là những vị học thức cao, họ dùng lý trí của mình dựa trên thực tại ở đời này để cắt nghĩa và phủ nhận sự tồn tại của Phục sinh. Họ dùng trí óc hạn hẹp mà họ vốn tự hào là trí thức, là lãnh đạo để giới hạn mầu nhiệm Phục sinh mà chính Ba Ngôi Thiên Chúa đồng tham dự để chuộc con người từ tội lỗi, từ cõi chết. Dù là những bậc uyên thâm, trí thức nhưng dựa trên sự lý luận giới hạn, họ đã đóng khuôn niềm tin trong cõi đời ngắn ngủi và không tin vào quyền năng của Thiên Chúa. Thật thế, chỉ nguyên sự kiện thân xác Phục sinh của Đức Kitô đã xuyên qua ngôi nhà đóng kín cửa đến với các Tông đồ (Ga 20,19-20), cho ta thấy thực tại Phục sinh không thể giải thích được bằng cách suy luận giới hạn của con người như nhóm Sađốc lý luận. Thực tại Phục sinh thế nào được Chúa Giêsu gói gọn bằng một giải thích: “Được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại” (Lc 20,36).

Nan giải về việc sống lại được đặt ra chính lúc Chúa Giêsu đang tiến lên Giêrusalem, nơi đó Ngài sẽ đi qua cái chết, mà những người Sađốc chủ trương chết là hết. Nhưng Ngài lên Giêrusalem không phải chỉ để chết, mà để được “rước lên trời” (Lc 9,51). Trong ba lần loan báo về cuộc thương khó, hai lần Đức Giêsu nói rất rõ Người sẽ bị giết nhưng ngày thứ ba Người sẽ trỗi dậy (Lc 9,22) và Người sẽ sống lại (Lc 18,33). Sự Phục sinh của Ðức Giêsu là trung tâm của thông điệp Kitô giáo – không có sự kiện này thì đức tin của chúng ta trống rỗng và lời rao giảng của chúng ta cũng trống rỗng (1Cr 15,13-14). Thánh Phaolô khẳng định rằng Ðức Kitô Phục sinh “mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1Cr 15,20).

Đặt trong mầu nhiệm Phục sinh, sự khẳng định của Chúa Giêsu về Thiên Chúa hằng sống trong hành trình tiến về Giêrusalem là giải đáp cho niềm tin sống lại. Niềm tin đó mà Đấng Hằng Sống đang bị chất vấn và bị ép công nhận quyền năng của sự chết: “chết là hết”. Chính trong lúc này, Đấng đó đang tiến về Giêrusalem để đi vào cõi chết, nhưng từ cõi chết Đấng Hằng Sống đó Phục sinh và mở đường cho tất cả nhân loại Phục sinh với Ngài như thánh Phaolô đã tuyên xưng: “Vì nếu chúng ta tin rằng Ðức Giêsu đã chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Ðức Giêsu, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Ðức Giêsu” (1Tx 4,14).

Ý lực sống:

“Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta sẽ không chết bao giờ,

cả những ai tin vào Người Con thì được sống muôn đời” (Ga 11,25-26).

Suy Niệm 7: Có sự sống lại chăng?

(Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Câu trả lời của Chúa Giêsu trước vấn nạn kẻ chết sống lại của nhóm Sađốc cho thấy, cái nhìn của họ về cuộc sống đời sau còn quá hạn hẹp. Họ không hiểu ý nghĩa của sự phục sinh hàm chứa trong câu Kinh thánh: Thiên Chúa là Chúa của các tổ phụ, Người là Thiên Chúa của kẻ sống. Nếu tin Thiên Chúa hằng hữu, thì phải tin con người có cuộc sống đời sau. Họ không chấp nhận sự kiện con người sẽ sống lại, vì họ không chịu tìm hiểu Kinh thánh.
  2. Tin mừng hôm nay mô tả cuộc đụng độ đầu tiên của Chúa Giêsu và nhóm Sađốc. Những người Sađốc thuộc về hàng tư tế quí tộc. Về mặt chính kiến, họ theo bọn xâm lược. Về mặt tôn giáo, họ rất bảo thủ. Đối với họ, lề luật phải tuân theo chỉ có trong năm cuốn sách đầu tiên của bộ Kinh thánh. Họ phi bác mọi giáo thuyết xuất hiện sau này do các tiên tri và các bậc trí giả giảng dạy, chẳng hạn việc kẻ chết sống lại. Do đó chẳng có gì ngạc nhiên, khi họ tấn công Chúa Giêsu về vấn đề này.
  3. Nhóm Sađốc đã tranh luận với Chúa Giêsu về sự sống lại. Để chế nhạo sự sống lại, nhóm Sađốc bịa ra câu chuyện tưởng tượng là có 7 anh em trai, người thứ nhất kết bạn, nhưng chết mà không trối hậu, người thứ hai lấy người góa phụ đó, rồi cũng chết không con, người thứ ba cũng vậy. Cả 7 người lấy người vợ góa đó đều chết cả và đều không có con, thế thì ngày sống lại, người góa phụ đó sẽ là vợ của ai?

Đáp lại, Chúa Giêsu đã mạc khải một chân lý tràn trề hy vọng: Sau cuộc sống trần gian chóng qua này con người sẽ được phục sinh, được biến đổi thành như các thiên thần và vẫn tiếp tục sống. Đó là nền tảng của giá trị con người. Giá trị ấy được Chúa Giêsu nêu bật khi nói: “Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống”.

Thiên Chúa muốn con người được sống và sống dồi dào, tức là được tham dự sự sống vĩnh cửu của Ngài. Sự sống ấy chính là lời đáp cho những khắc khoải, khát vọng không ngừng của con người. Chính vì thế mà sự sống lại trong ngày sau hết phải là sức đẩy của đức tin và niềm hy vọng Kitô giáo.

  1. Cuộc sống đời này chỉ là chuẩn bị cho cuộc sống đời sau, vốn là cuộc sống thật. Mà sống thật là sống “như các thiên thần”, nghĩa là không quan tâm gì khác ngoài yêu mến và phụng thờ Thiên Chúa. Thiên Chúa không để cho con người sống mãi trong cuộc sống tại thế này, bởi vì còn có một cuộc sống đáng quí hơn, đó là cuộc sống vĩnh cửu. Có những giá trị cao cả gấp bội phần so với sự sống, sức khỏe và mọi thứ của cải trên thế gian. Sống thật chính là dệt nên cuộc sống vĩnh cửu ấy qua từng khoảnh khắc trong cuộc sống tại thế.
  2. Kiểu nói “giống như các thiên thần” có ý khẳng định rằng: việc kẻ chết sống lại không phải là trở lại đời sống trần thế, nhưng là một sự tái tạo dựng, không thể tưởng tượng được, một biến đổi tận căn của hữu thể nhân linh. Giáo huấn này dạy về tình trạng của những kẻ sống lại được kết thúc bằng sự khẳng định: “Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại” (Lc 20,36), điều này làm cho họ sinh ra trong tình trạng thiên quốc, là tình trạng của các thiên thần (St 6,2).
  3. Truyện: Suy nghĩ của một bào thai

Một bác sĩ sản khoa nọ đã viết nên một câu chuyện rất hay.

Chuyện kể rằng: một lần nọ, bác sĩ ấy đã thử nói chuyện với một bào thai. Bác sĩ nói:

– Bào thai ơi, thời gian trong bụng mẹ chỉ là giai đoạn sửa soạn, cuộc đời thực sự sẽ đến sau này trên trần thế. Đó là một cuộc đời mà ngươi chưa biết và không thể tưởng tượng ra được.

Nghe vậy, bào thai phản ứng:

– Thôi ông đừng có nói chuyện mê tín dị đoan. Cuộc đời trong bụng mẹ tôi là cuộc đời duy nhất mà tôi biết được lúc này, ngoài ra không còn cuộc đời nào khác. Một cuộc sống ở nơi nào khác chỉ là điều bịa đặt của những kẻ cuồng tín.

Nhưng, suy nghĩ một hồi, bào thai tự thắc mắc:

– À, nhưng mà tôi sẽ có mắt ở trên mặt. Để làm chi nhỉ? Ở đây đâu có gì để nhìn? Tôi sẽ có chân, nhưng tôi không có đủ chỗ để duỗi người ra, vậy có chân để làm gì đây? Và tại sao tôi lại phải có tay? Có tay để cứ khoanh mãi như thế này mãi ư? Tay sẽ làm phiền tôi và mẹ tôi. Sự tăng trưởng của tôi trong lòng mẹ sẽ thật vô nghĩa, nếu như sau này không có một cuộc đời với ánh sáng, màu sắc và nhiều điều khác nữa để tôi nhìn ngắm. Không gian mà cuộc đời khác của tôi sẽ sống, chắc là vĩ đại lắm nhỉ? Chắc là tôi phải đi thật nhiều, nên tôi mới cần có đôi chân? Chắc là tôi phải làm việc nhiều và chiến đấu cam go lắm, nên tôi mới cần có đôi tay? Bác sĩ nói đúng đấy! Chắc chắn phải có một cuộc đời khác nữa trên trần thế ở bên ngoài bụng mẹ tôi.

Chắc chắn phải có một cuộc đời khác nữa trên trần thế ở bên ngoài bụng mẹ tôi! Vâng, chúng ta đang sống trong trần gian và niềm tin Chúa muốn dạy ta hôm nay là: Chắc chắn có một cuộc đời khác nữa sau cuộc sống trên trần thế này.

Suy Niệm 9: ,,,,

(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

Phân tích

  1. Những đối thủ mà hôm nay Chúa Giêsu phải gặp là những người Sađốc, giới Tư tế. Vì họ không tin có việc kẻ chết sống lại nên đặt ra câu chuyện: một phụ nữ lấy 7 anh em trai theo tục lệ “thế huynh, “ để cho thấy sống lại là một sự lố bịch.
  2. Trả lời họ Chúa Giêsu không những chứng minh có việc sống lại, mà còn cho biết cuộc sống sau khi sống lại sẽ như thế nào:

– Không giống như cuộc sống hiện tại, cho nên không cần lưu truyền nòi giống và bởi thế không cần có vợ chồng.

– Cuộc sống ấy “giống như các thiên thần”: Nghĩa là không quan tâm gì khác ngoài việc yêu mến và thờ phượng Thiên Chúa.

Suy gẫm

  1. Những người phái Sađốc tuy là tư tế nhưng không quan tâm đến những việc đạo đức cho bằng tới những đặc quyền đặc lợi của họ. Để bảo vệ những đặt quyền đặc lợi ấy, họ sẵn sàng ủng hộ bất cứ chế độ nào đang cầm quyền, cho dù đó là chính quyền đế quốc Rôma đang xâm lược đất nước họ.

Họ không tin sự sống lại và không tin đời sau là phải, bởi vì ai càng coi trọng đời này và những giá trị đời này thì càng coi nhẹ đời sau và các giá trị đời sau. Càng thiên về xác thịt thì càng yếu về tinh thần.

  1. Cuộc sống đời này chỉ là chuẩn bị cho cuộc sống đời sau, vốn là cuộc sống thật. Mà sống thật là sống “Như các thiên thần” nghĩa là không quan tâm gì khác ngoài việc yêu mến và phụng thờ Thiên Chúa. Xin Chúa giúp con càng ngày càng bớt sống cho vật chất thế gian, để thêm sống vì Chúa và cho Chúa.
  2. Thiên Chúa không để con người sống mãi mãi trong cuộc sống tại thế này, bởi vì còn có một cuộc sống đáng quý hơn, đó là cuộc sống vĩnh cửu. Có những giá trị cao cả gấp bội phần so với sự sống, sức khỏe và mọi thứ của cải trên thế gian. Sống thật tức là dệt nên cuộc sống vĩnh cửu ấy qua từng khoảnh khắc trong cuộc sống tại thế.

4.”Quả vậy khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng có lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời” (Mc 12, 25)

Lời Chúa hôm nay như choáng ngợp lòng con.

Con cảm thấy lòng mình mở ra cho vô hạn và bước đi trên con đường thênh thang, con đường một chiều dẫn đến sự sống, sự sống tràn đầy và mãi mãi.

Từ đó, con cảm nhận rằng: con bất toàn nhưng đời đời là nhịp nối đưa con đến hoàn thiện. Những cố gắng hôm nay sẽ theo con trên con đường đến đích. Những ước mơ nhỏ bé là mầm phóng cho những dự tính lớn lao. Những gặp gỡ yêu thương sẽ có ngày tái ngộ.

Lạy Chúa, xin cho niềm hy vọng ấy chiếu sáng cuộc đời con.

Suy Niệm 10: ,,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Tin Mừng kể lại nhiều lần, người Do Thái tìm cách gài bẫy Chúa Giêsu, nhưng họ đều gặp phải cảnh: gậy ông đập lưng ông. Hôm nay, họ lại tìm cách bày trò để gài bẫy Chúa một lần nữa. Theo bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, thì họ muốn chế nhạo Chúa về việc tin vào sự sống lại, tức là đụng đến tín điều Phục Sinh.

Để làm công việc này, họ bày ra một câu chuyện tuy khó xảy ra trong thực tế nhưng lại rất hợp lý về phương diện lý luận và luật pháp. Câu chuyện thế nào thì chúng ta đã được nghe.

Trong câu trả lời, Chúa Giêsu đã cho họ thấy hai điểm:

– Một là, quan niệm của họ về cuộc sống mai hậu còn quá thô sơ và không hiểu tí gì về quyền năng của Thiên Chúa: Chẳng phải vì không biết Kinh Thánh và quyền năng Thiên Chúa mà các ông lầm sao ? (Mc 12,24)

– Hai là họ không nhận ra được ý nghĩa của sự Phục Sinh được hàm chứa trong câu Thiên Chúa tự xưng mình là Thiên Chúa của các Tổ phụ: Ngài không phải là Thiên Chúa của kẻ chết nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống (Mc 12,27).

Và lại một lần nữa, Chúa bịt miệng họ một cách hết sức ngoạn mục.

Đây không phải là lần đầu tiên Chúa Giêsu bị nhạo cười. Người ta đã từng cho người là khùng, là điên, là bị quỉ ám. Mãi đến khi gần chết trên Thánh Giá mà quân lính hành hình Chúa vẫn còn nhạo cười Ngài: “Để xem ông Êlia có đến cứu hắn không! Nó đã cứu được kẻ khác mà nay lại không cứu được mình!” (Mt 15,31).

  1. Ngày nay, cũng chẳng khác gì ngày xưa. Cũng có một số người không tin vào sự tồn tại của chính mình ở đời sau. Họ đang sống như chỉ có đời này. Họ đang hưởng thụ không biết mệt mỏi. Họ sống như chỉ có một mình mình, không cần biết đến ai, không cần để ý xem tương lai mình sẽ ra sao… Thậm chí có lúc họ còn cho những người tin vào đời sống mai hậu là ngu dại.

Thế nhưng, thực tế có như vậy hay không thì mỗi người phải tự mình suy xét lại.

Người ta đã đọc thấy trên mộ của một người ở nghĩa trang: “Đây là nấm mồ của một người dại dột, đã sống mà không biết tại sao mình sống”.

Nhà triết học Diogenes ngày xưa đã viết: “Trong tất cả mọi sự, hãy nhìn đến cùng đích cuộc đời của mình”.

Một bác sĩ sản khoa nọ đã viết nên một câu chuyện rất hay. Chuyện kể rằng: Một lần nọ, bác sĩ ấy đã thử nói chuyện với một bào thai. Bác sĩ nói:

– Bào thai ơi, thời gian trong bụng mẹ chỉ là giai đoạn sửa soạn, cuộc đời thực sự sẽ đến sau này trên trần thế. Đó là một cuộc đời mà ngươi chưa biết và không thể tưởng tượng ra được.

Nghe vậy, bào thai phản ứng:

– Thôi ông đừng có nói chuyện mê tín dị đoan. Cuộc đời trong bụng mẹ tôi là cuộc đời duy nhất mà tôi biết được lúc này, ngoài ra không còn cuộc đời nào khác nữa. Một cuộc sống ở nơi nào khác chỉ là điều bịa đặt của những kẻ cuồng tín.

Nhưng, suy nghĩ một hồi, bào thai tự thắc mắc:

– À, nhưng mà tôi sẽ có mắt ở trên mặt. Để làm chi nhỉ ? Ở đây đâu có gì để nhìn ? Tôi sẽ có chân, nhưng tôi không có đủ chỗ để duỗi người ra, vậy có chân để làm gì đây ? Và tại sao tôi lại phải có tay ? Có tay để cứ khoanh mãi như thế này mãi ư ? Tay sẽ làm phiền tôi và mẹ tôi. Sự tăng trưởng của tôi trong lòng mẹ sẽ thật vô nghĩa, nếu như sau này không có một cuộc đời với ánh sáng, màu sắc và nhiều điều khác nữa để tôi nhìn ngắm. Không gian mà cuộc đời khác của tôi sẽ sống, chắc là vĩ đại lắm nhỉ ? Chắc là tôi phải đi thật nhiều nên tôi mới cần có đôi chân ? Chắc là tôi phải làm việc nhiều và chiến đấu cam go lắm, nên tôi mới cần có đôi tay ? Bác sĩ nói đúng đấy! Chắc chắn phải có một cuộc đời khác nữa trên trần thế ở bên ngoài bụng mẹ tôi.

Chắc chắn phải có một cuộc đời khác nữa trên trần thế ở bên ngoài bụng mẹ tôi.

Vâng, chúng ta đang sống trong trần gian và niềm tin Chúa muốn dạy chúng ta qua bài Tin Mừng hôm nay là: Chắc chắn có một cuộc đời khác nữa sau cuộc sống trên trần thế này.

Chúa đã từng nói: “Thầy đi để dọn chỗ cho các con” (Ga 14,2).

Như vậy, cuộc đời trên trần gian này không khác gì bào thai cũng đang sửa soạn cho một cuộc đời thực sự sẽ đến. Cuộc sống hôm nay của chúng ta cũng là chuẩn bị cho cuộc sống sau này trên Nước Trời. Cũng như mắt, chân và tay của bào thai chuẩn bị cho cuộc đời sắp đến, thì sự có mặt của mỗi người trên trần thế cũng đang chuẩn bị cho cuộc sống mai sau.

Thánh Phaolô: “Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”. (Cl 3,2)

Lạy Chúa, xin cho con được luôn hướng lòng lên Chúa. Amen.

THỨ NĂM TUẦN 9 THƯỜNG NIÊN

Lời Chúa: Mc 12, 28b-34

Khi ấy, có người trong nhóm Luật sĩ tiến đến Chúa Giêsu và hỏi Người rằng: “Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?”

Chúa Giêsu đáp: “Giới răn trọng nhất chính là: “Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Chúa, Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi”. Còn đây là giới răn thứ hai: “Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi”. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó”.

Luật sĩ thưa Người: “Thưa Thầy, đúng lắm! Thầy dạy phải lẽ khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nhất, và ngoài Người, chẳng có Chúa nào khác. Yêu mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh”.

Thấy người ấy tỏ ý kiến khôn ngoan, Chúa Giêsu bảo: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”. Và không ai dám hỏi Người thêm điều gì nữa.

Suy Niệm 1: Hai điều răn

Suy niệm :

Trong những ngày cuối tại Giêrusalem,

Đức Giêsu bị kéo vào những cuộc tranh luận với nhiều nhóm

về quyền, về chuyện nộp thuế, về sự sống lại (Mc 11, 27- 12, 27).

Ít có một cuộc đối thoại đúng nghĩa khi người ta chỉ muốn giăng bẫy,

và không thực sự muốn kiếm tìm chân lý.

Chính vì thế bài Tin Mừng hôm nay là một bất ngờ thú vị.

Một kinh sư nghe Đức Giêsu trả lời các đối thủ của mình

thì ông có cảm tình và muốn hỏi Ngài câu hỏi mà ông bận tâm.

“Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu ?” (c. 28).

Đức Giêsu thấy thiện tâm của ông, và Ngài đã trả lời nghiêm túc.

Ông kinh sư như reo lên khi nghe câu trả lời của Ngài.

“Thưa Thầy hay lắm, Thầy nói rất đúng.”

Câu trả lời của Đức Giêsu chạm đến điều dường như đã có nơi ông.

Ông thích thú lặp lại những lời Ngài đã nói (cc. 32-33).

Theo ông, những điều răn đó còn quý hơn hy lễ và lễ toàn thiêu (c. 33).

Đức Giêsu vui sướng khi đứng trước một vị kinh sư khôn ngoan và cởi mở.

Ngài nói với ông một câu mà chúng ta thèm muốn :

“Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” (c. 34).

Vị kinh sư hỏi Đức Giêsu về một điều răn đứng đầu.

Ngài đã trả lời tới hai điều răn (c. 31).

Hai điều răn này gắn kết với nhau chặt chẽ, nhưng vẫn là hai.

Cả hai đều đòi hỏi một thái độ, một chọn lựa diễn tả qua động từ “yêu”.

Yêu Thiên Chúa bằng tất cả con người mình

bằng trọn cả trái tim, linh hồn, trí khôn và sức lực,

và yêu tha nhân như yêu chính mình (cc. 29-31).

Tình yêu đối với tha nhân không thay thế được tình yêu đối với Thiên Chúa.

Tình yêu đối với Thiên Chúa như thanh dọc của thập giá

đỡ lấy thanh ngang là tình yêu tha nhân.

Sống trọn tình yêu là chấp nhận cả hai thanh gỗ làm nên cây thập giá.

Nếu lễ toàn thiêu đòi đốt hoàn toàn lễ vật, và hy lễ đòi giết chết con vật,

thì tình yêu đối với Chúa và tha nhân

cũng đòi thiêu rụi và giết chết cái tôi kiêu ngạo, ích kỷ của mình.

Chẳng thể nào yêu mà đòi giữ nguyên cái tôi khép kín.

Người Kitô hữu hôm nay cũng có thể hỏi Chúa câu hỏi tương tự :

Điều răn nào quan trọng hơn cả chi phối mọi lề luật trong Giáo Hội?

Chúa cũng sẽ giữ nguyên câu trả lời như ngày xưa.

Ngài vẫn tóm mọi điều răn và giới răn trong một động từ đơn giản: yêu.

Xin để tình yêu chiếm lấy trái tim của tôi, chi phối mọi chọn lựa,

và biến đời tôi thành tình yêu.

Cầu nguyện :

Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con,

nếu Hội Thánh được ví như một thân thể

gồm nhiều chi thể khác nhau,

thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu

một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất.

Đó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu.

Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động.

Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu,

thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng,

các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình…

Lạy Chúa Giêsu,

cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con,

ơn gọi của con chính là tình yêu.

Con đã tìm thấy

chỗ đứng của con trong Hội Thánh :

nơi Trái tim Hội Thánh, con sẽ là tình yêu,

và như thế con sẽ là tất cả,

vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh.

Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con,

mọi ước mơ của con được thực hiện. Amen.

(dựa theo lời của thánh Têrêxa)

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

Suy Niệm 2: Yêu mến

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Yêu mến là hạnh phúc. Ai cũng muốn. Cũng cần. Có rất nhiều. Nhưng sao cứ đau khổ. Đó là vì chưa biết yêu. Hôm nay Chúa dậy ta điều cơ bản nhất. Hãy yêu. Nhưng phải có thứ tự. Và có phương pháp.

Thứ tự. Phải yêu mến Thiên Chúa trên hết. Vì Thiên Chúa là tất cả. Là sự sống. Là tình yêu. Là hạnh phúc. Không có Thiên Chúa thì không có ta. Yêu sự sống của mình là điều rất tự nhiên. Và cần thiết. Chúa làm mọi cách cho ta được hạnh phúc. Yêu hạnh phúc của mình là quá chính xác. Thiên Chúa là Tình Yêu. Yêu trong Tình Yêu là đi đúng đường.

Phương pháp. Phải yêu mến “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực người”. Yêu sự sống, tình yêu và hạnh phúc. Đương nhiên phải làm hết sức lực, hết linh hồn, hết trí khôn. Thì mới mong đạt đến mục đích.

Thứ tự tiếp theo. Yêu tha nhân. Phương pháp. Như chính mình. Ai thực hiện sẽ đạt tới hạnh phúc.

Bảy người muốn cưới Xa-ra trước kia đều chết. Vì đã sai thứ tự và phương pháp. Họ không yêu mến Thiên Chúa. Cũng không yêu Xa-ra. Họ yêu chính mình. Theo thúc đẩy của dục vọng. Nên xa lìa Thiên Chúa. Rơi vào tay ma quỷ. Tô-bi-a và Xa-ra đã hiểu biết điều đó. Nên đến với nhau vì Chúa và vì tình yêu đích thực. Trước khi thành hôn, Tô-bi-a nói với Xa-ra: “Đứng lên, em! Chúng ta hãy cầu nguyện”. Và cả hai nguyện rằng: “Giờ đây, không phải vì lòng dục mà con lấy em con đây, nhưng vì lòng chân thành. Xin Chúa đoái thương con và em con”. Họ đã được Thiên Chúa chúc phúc (năm lẻ).

Sự sống, tình yêu và hạnh phúc của ta được biểu lộ trong cái chết và sự phục sinh của Chúa Giê-su Ki-tô. Người chết để cho ta được sống. Người chịu ghét bỏ để ta được yêu thương. Người chịu bất hạnh cho ta được hạnh phúc. Đó là Tin Mừng lớn lao cho ta. Thánh Phao-lô say mê và kiên quyết rao truyền Tin Mừng đó. Với niềm tin vững chắc: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người”. Ngài đã yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Ngài đã đạt đến sự sống, tình yêu và hạnh phúc (năm chẵn).

Lạy Chúa, xin dạy con yêu mến Chúa. Vì Chúa là sự sống, là tình yêu và là hạnh phúc của con.

 

Suy Niệm 3: Mối quan tâm hàng đầu

Văn hào Léon Tolstoi có kể câu chuyện như sau:

Hai người đàn ông nọ quyết tâm hành hương về Yêrusalem để dự Ðại lễ Phục Sinh ở đó. Một người đặt mối quan tâm hàng đầu là đích điểm của cuộc hành trình, vì thế ông cương quyết không dừng lại bất cứ nơi đâu, và trong suốt cuộc hành trình, tâm trí ông chỉ nghĩ đến thành thánh. Còn người thứ hai, trên mọi nẻo đường, nhìn thấy nhiều người cần được giúp đỡ và ông đã tốn nhiều tiền bạc và thời giờ, đến nỗi ông không đến được đích điểm như đã dự định; thế nhưng, một cái gì đó từ Thiên Chúa đến với tâm hồn ông mà người hành hương kia không nhận được, cũng như một cái gì đó từ Thiên Chúa qua đôi tay ông, ảnh hưởng cuộc đời của nhiều người mà người kia không có được qua những nghi lễ ông tham dự tại thành thánh kéo dài suốt mùa Phục Sinh.

Mối quan tâm hàng đầu là một danh từ thời đại. Nhà nước đặt mối quan tâm hàng đầu vào chính sách kinh tế; một học sinh đặt mối quan tâm hàng đầu vào đèn sách để thi đậu vào đại học… Ðâu là mối quan tâm hàng đầu của tôi, đó là câu hỏi hợp lý có thể áp dụng vào mọi sinh hoạt cuộc sống, nhưng thiết nghĩ quan trọng hơn cả là câu hỏi: Ðâu là mối quan tâm hàng đầu của tôi đối với cuộc sống của một người Kitô hữu?

Ðó cũng là vấn nạn mà một luật sĩ đặt ra cho Chúa trong Tin Mừng hôm nay, khi ông ta hỏi: “Thưa Thầy, trong các giới răn, giới răn nào đứng hàng đầu?” Câu trả lời của Chúa Giêsu rất rõ ràng và đơn sơ, giới răn đứng đầu, mối quan tâm hàng đầu của người Kitô hữu chính là tình yêu.

Nếu tình cờ chúng ta được một người nào đó đặt câu hỏi như trên, liệu chúng ta sẽ trả lời như thế nào? Chúng ta có phát biểu được câu trả lời tuyệt diệu, nghe êm tai và nêu bật giá trị cao đẹp của con người chúng ta không? Và thành thật với lương tâm, liệu câu trả lời đó có phản ánh chính cuộc sống chúng ta không, bởi lẽ khi cho một câu trả lời đúng, chúng ta có thể lừa dối người khác và tự lừa dối mình? Thành thật với lòng mình có lẽ nhiều người trong chúng ta sẽ phải ngạc nhiên khi khám phá ra rằng cho đến nay mối quan tâm hàng đầu của chúng ta là tiền bạc, sức khỏe, danh vọng.

Như vậy, điều trước tiên chúng ta phải làm để hoán cải và canh tân là thành thật thú nhận rằng cho đến nay chúng ta đã đặt sai mối quan tâm hàng đầu của cuộc sống, kể cả mối quan tâm hàng đầu trong cách thức chúng ta biểu lộ niềm tin qua việc đọc kinh, dự lễ, bởi vì những cách thức này thường được sử dụng như những phương thế giúp chúng ta giữ đạo, chứ không dẫn chúng ta đi xa hơn trong việc sống đạo, nhất là giúp chúng ta tìm gặp được Thiên Chúa và tha nhân.

Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta đổi hướng cuộc sống và đặt lại bậc thang giá trị của mối quan tâm hàng đầu của chúng ta. Xin cho tình yêu mến là nguồn mạch và sức mạnh để chúng ta thực sự gặp gỡ Thiên Chúa và yêu thương tha nhân như chính mình.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Suy Niệm 4: Giới luật yêu thương

Đức Giêsu trả lời: “Điều răn đứng đầu là: nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.” (Mc. 12, 29-31)

Chương mười hai Phúc âm thánh Maccô giống như cái thời gian một diễn giả khi thuyết trình xong dành cho thính giả đặt câu hỏi vậy. Có bao nhiêu quan điểm, có bấy nhiêu người đặt ra vấn đề; những bận tâm lo lắng của những người đặt câu hỏi thì đa dạng, còn quan niệm của Chúa lúc nào cũng vậy. Ông kinh sư vì muốn biết điều răn đứng đầu, nên khiến Chúa phải lặp đi lặp lại như một điệp khúc bằng tất cả đời sống cũng như trong lơì giảng dạy, lời “hãy yêu thương”.

Người ta thường nói sai rằng Chúa Giêsu là người đầu tiên dạy yêu mến người thân cận trái ngược với những người Do thái vốn dạy phải kính sợ Thiên Chúa và giữ đức công bình. Luật Cựu ước cũng là luật của tình yêu, bằng chứng là ở đây Chúa Giêsu trưng dẫn hai câu trong sách Nhị Luật. Nét đặc sắc của sứ điệp Kitô giáo là tình yêu đối với người thân cận là bí tích tình yêu của Thiên Chúa. Xưa nếu có vài người giải thích Luật cho rằng điều răn dạy yêu mến người thân cận chỉ giới hạn vào những người Ít-ra-en mà thôi, thì đa số vẫn chủ trương một tình yêu phổ quát. Ở đây cũng như ở bất cứ nơi nào, Chúa Giêsu không phá hủy Luật, Người làm cho Luật nên hoàn hảo.

Yêu thương những người không đáng yêu

Khác với con người, Thiên Chúa không trông mong gì chúng ta là những người dễ thương. Tình yêu của Chúa là tình yêu tạo nên tính dễ thương, và đó hẳn là điều Chúa muốn diễn tả khi dạy ta yêu thương những kẻ thù địch của ta.

Ta không yêu mến anh em ta như yêu những trái táo. Tình yêu Kitô giáo không phải là bộ phận rung làm cho trái tim hay thân xác ta rung động lên trước người hay vật nào đó hấp dẫn ta. Thứ tình yêu bản năng này chẳng có gì là phong phú, bởi lẽ đó không phải là tình yêu tự do.

Người ta sẽ nhận ra bạn yêu mến anh em bạn thực bằng một tình yêu phổ quát khi tình yêu ấy sẽ là tình yêu nhưng không, chẳng màng biết ơn, khi những người được yêu mến đó sẽ không phải là những kẻ dễ thương. Chúa Giêsu đã hiến mạng sống Người vì ta, đang khi ta là những tội nhân, giáo huấn của Chúa là thế đó. Yêu mến người khác dựa trên nền tảng là vẻ hấp dẫn, chẳng cần phải có điều răn, nhưng đúng là cần phải có Mạc khải của Chúa để ta nhận ra tình yêu nhưng không của Chúa đối với ta và Thần khí của Người ở trong ta để thực hiện tình yêu ấy.

Suy Niệm 5: MỐI QUAN TÂM HÀNG ĐẦU CỦA TÔI LÀ GÌ? (Mc 12,28-34)

Ngày nay, người ta thường hay nghe những lời lẽ như: sản phẩm này là tốt nhất; con người này là tốt nhất! Vậy mối quan tâm hàng đầu của bạn là gì…? Nói cách khác, với tư cách là người Công Giáo, mối quan tâm hàng đầu của đời sống Kitô hữu là gì?.

Đây chính là sự quan tâm và một vấn nạn mà người Luật Sĩ đã đặt ra cho Đức Giêsu trong hành trình đi tìm chân lý của ông.

Tin Mừng thuật lại: có một Luật Sĩ đến hỏi Đức Giêsu: “Thưa thầy, trong các giới răn, giới răn nào đứng hàng đầu?”. Đức Giêsu đã thấy được lòng tốt và nhất là sự khao khát của ông ta, nên Ngài đã mạc khải cho ông Luật Sĩ này ngay tức khắc khi nói cho ông biết về giới luật quan trọng nhất chính là: yêu mến Thiên Chúa trên hết và yêu thương người thân cận như chính mình.

Phản ứng của Luật Sĩ này là hết sức thán phục những lời dạy khôn ngoan của Đức Giêsu. Thật vậy, vì lòng chân thành đi tìm kiếm chân lý, lẽ sống, nên Đức Giêsu đã khen ngợi ông và nói cho ông biết: ông không còn xa Nước Thiên Chúa.

Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta bị kinh tế thị trường làm cho đời sống đức tin bị trao đảo. Nhiều khi chúng ta đặt bậc thang giá trị của mình dựa trên tiền bạc, chức quyền, danh vọng… Vì thế, đã biết bao lần chúng ta rơi vào tình trạng lập lờ, bắt cá hai tay, chỉ còn biết cái lợi trước mắt mà không hề nghĩ đến cuộc sống đời sau. Giới răn mến Chúa, yêu người là cái gì đó không được chúng ta quan tâm nếu không muốn nói là coi thường!

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay cật vấn lương tâm chúng ta về những chọn lựa bấy lâu nay! Đồng thời, mời gọi chúng ta hãy yêu mến và trung thành giữ Luật Chúa thì chúng ta sẽ được hạnh phúc. Mặt khác, khi giữ luật Chúa, chúng ta có một cuộc sống bình an, thanh thản và luôn biết yêu thương, tôn trọng nhau để cùng nhau xây dựng Nước Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết đặt lại bậc thang giá trị của cuộc đời, luôn biết tìm ý Chúa và giữ giới răn Chúa cho trọn. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 6: Mến Chúa và yêu người

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu đã liên kết luật mến Chúa và yêu người thành một giới răn duy nhất. Ngài kêu mời ta thực hành luật yêu thương ấy như một dấu hiệu đặc biệt của người con Thiên Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, có những lúc con đã lầm. Con lầm tưởng rằng làm thật nhiều các việc đạo đức là quan trọng nhất. Con lầm tưởng rằng hy sinh là quan trọng nhất, chu toàn lề luật là quan trọng nhất. Con cảm tạ Chúa, vì Chúa giúp con nhận ra tình yêu mới là quan trọng nhất.

Lạy Chúa, trước hết yêu mến Chúa phải trở thành căn bản của cuộc sống con. Vì yêu mến Chúa, con sống và làm việc. Vì yêu mến Chúa, con chu toàn những điều luật dạy. Vì yêu mến Chúa, con tham dự các nghi lễ, đọc kinh cầu nguyện. Vì yêu mến Chúa, con cũng yêu thương anh em con.

Lạy Chúa, yêu thương người khác cũng trở thành điểm sáng cho cuộc đời con. Một đốm sáng leo lét trong đêm tối, mỗi người có thể nhìn thấy. Một hành động yêu thương của con, dù âm thầm nhỏ bé, cũng sẽ sáng lên trong xã hội loài người. Con biết điều ấy, nhưng lạy Chúa, thực hành yêu thương như Chúa dạy đòi phải hy sinh thật nhiều. Xin tình yêu Chúa đong đầy trái tim con, để con đủ quảng đại cho đi lòng tha thứ. Xin tình yêu Chúa thắp sáng trái tim con, để con làm sáng lên những trái tim khác, khi cùng nhau sống bác ái yêu thương.

Lạy Chúa, cuộc sống con có vô vàn điều cần thực hiện, nhưng con xác tín rằng, điều quan trọng nhất là biết sống yêu thương: yêu Chúa và thương người. Xin dạy con sống được nét độc đáo ấy để con thực sự trở thành người con Chúa. Amen.

Ghi nhớ : “Thiên Chúa của ngươi là Thiên Chúa duy nhất và ngươi hãy kính mến Người”.

Suy Niệm 7: Cốt yếu của Luật Chúa

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Mẹ Têrêsa Calcutta kể: “Hôm ấy, một người lạ mặt đến nhà dòng, ông thấy một sơ vừa đem về một người hấp hối, nằm bên ống cống, mình mẩy dòi bọ rất hôi thối. Thế mà, sơ rất nương nhẹ nhặt từng con bọ với vẻ mặt vui tươi, thanh thản đầy thương mến…

Rồi người lạ đến gặp tôi nói: “Thưa mẹ, khi con đến đây với lòng đầy căm hờn của một người vô tín ngưỡng. Nhưng bây giờ con ra về với một tâm hồn hoàn toàn đổi mới. Con bắt đầu tin Chúa, bởi vì con đã chứng kiến tình yêu của Chúa được diễn tả một cách cụ thể qua hành động và qua cách Sơ ấy đối xử với người hấp hối bẩn thỉu kia. Bây giờ con tin thật Chúa là tình yêu. Không có tình yêu Chúa trong tâm hồn, không khi nào có đủ nghị lực để yêu tha nhân được”.

Suy niệm

Lệnh truyền yêu thương được khai mở trước đó trong cuộc đàm đạo giữa người kinh sư khôn ngoan và Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?”. Đức Giêsu trả lời: “… Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi… Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mc 12,30-31). Tóm lại, đó là mến Chúa, yêu người mà chúng ta đã được gieo vào tâm hồn mình khi bắt đầu có trí khôn qua các buổi học giáo lý.

Chuyện giới răn yêu thương là chuyện “xưa như trái đất” mà có lẽ chúng ta đều thuộc lòng quy tắc bất biến trong Công giáo về luật mến Chúa, yêu người và tâm trạng của chúng ta cũng hoàn toàn đồng ý như người thông luật: “Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ” (Mc 12,32-33). Chúa Giêsu khen ông trả lời khôn ngoan rồi nói: “Ông không còn xa nước Thiên Chúa đâu” (Mc 12,34). Tôi và bạn nắm vững quy luật của đạo Chúa, như người kinh sư “không xa nước Chúa đâu”. Có nghĩa là biết rõ, nhưng còn “hiểu và sống hay thực hành” thì tôi và bạn chưa thâm nhập trong tâm. Chính cái “hiểu và hành” là đưa chúng ta vào hiện diện trong nước Thiên Chúa.

Chúng ta thường hiểu cốt yếu của việc giữ đạo là tóm gọn trong việc đọc kinh, đi lễ, chịu các bí tích… Vì thế, đa số cố gắng thực hiện những điều ấy một cách toàn hảo. Nhưng thật ra, tất cả những việc đạo đức đó là phương tiện để giúp người Kitô hữu thực hiện được giới răn quan trọng nhất là “mến Chúa, yêu người”. Cái cốt yếu của Luật Chúa là hiểu và thực hành “mến Chúa, yêu người”. Chúng ta chưa để nguồn suối tình yêu chảy trong tim của mình, yêu Chúa quá ít và hời hợt, chỉ gói gọn trong nhà thờ.

Cuộc sống yêu Chúa phải đổi mới tận căn bằng suy ngẫm và hành động cụ thể: Mến Chúa với cả tâm hồn đơn sơ, chân thành thực thi các huấn lệnh của Người. Tất cả Lề Luật cô đọng trong một thái độ là yêu mến. Giữ luật nếu quên yêu mến có thể dẫn đến óc Lệ Luật như những biệt phái, kinh sư mà Đức Giêsu đã từng quở trách. Giữ Luật Chúa không phải vì sợ, không giữ tròn thì Người phạt, nhưng giữ Luật là để trở nên phương thế để bày tỏ tình yêu trong mọi tương quan giữa tôi, bạn và Thiên Chúa như Thánh Phaolô đã chia sẻ: “Yêu mến là chu toàn Lề Luật” (Rm 13,10). Yêu mến Chúa còn là sức mạnh để chúng ta sống và yên như Thánh vịnh đã kêu cầu: “Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con” (Tv 18,2).

Yêu mến Chúa là cũng yêu thương con người vì Thiên Chúa đang sống trong con người. Chính Chúa Giêsu đã tự đồng hoá mình với những người bé nhỏ, người đói, người khát, người bị tù đày… (x. Mt 25,31-46). Ai cho kẻ đói ăn, kẻ khát uống, kẻ rách rưới ăn mặc, thăm viếng kẻ tù đày là làm cho chính Chúa. Như vậy, yêu người đòi hỏi chúng ta một thái độ đức tin, nhìn nhận Chúa đang hiện diện nơi tha nhân, nơi những người anh em. Thái độ đức tin vượt lên trên ác cảm, hằn thù, ghen ghét… đi bước xa hơn như sách Lêvi truyền dạy: “Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình. Ta là Đức Chúa” (Lv 19,18). Thánh Gioan cũng nối kết rất tuyệt vời giữa mến Chúa, yêu người: “Ai bảo yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình là kẻ nói láo”. Xem ra đó là một tình yêu nhưng hai đối tượng. Vào ngày tận thế, chúng ta sẽ bị xét xử về tình yêu như Tin Mừng Matthêu nói về ngày phán xét (x. Mt 25,31-46).

Cái gì rồi cũng trôi qua. Cái gì rồi cũng phôi pha. Duy chỉ có tình yêu là tồn tại.

Ý lực sống:

“Muốn biết thế nào là tình yêu thì phải biết sống cho kẻ khác. Sống cho kẻ khác tức là yêu” (Godwin).

Suy Niệm 8: Điều răn trọng nhất

(Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Các câu hỏi của người luật sĩ trong bài Tin mừng là một vấn đề nan giải của người Do thái bấy giờ. Họ phân luật thành 613 điều khác nhau: 248 điều phải thi hành và 365 điều cấm. Vì giới luật quá nhiều nên họ không thể xác định được đâu là điều chính yếu và quan trọng nhất. Đức Giêsu đã cho họ câu trả lời thật xác đáng và đồng thời chứng tỏ Người là Chúa của Lề luật. Người cho biết tất cả các giới luật đều qui về giới răn duy nhất: mến Chúa – yêu người, hai điều này không thể tách rời nhau.

Con người là sinh vật có xã hội tính, tức là có nhu cầu sống chung với nhau. Tuy nhiên, vì con người còn có tự do, nên để sống chung hoà thuận, mỗi quốc gia hay tập thể cần có luật qui định các bổn phận và trách nhiệm của mỗi người, để không ai đụng chạm và làm mất lòng người khác.

  1. Thời Đức Giêsu, nước Do thái cũng có bộ luật gồm hàng trăm khoản luật khác nhau, và họ không biết điều nào là quan trọng nhất. Vì thế hôm nay, một luật sĩ hỏi Đức Giêsu một câu hỏi hóc búa: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào trọng nhất?” Đức Giêsu đã trả lời rằng, hai giới luật quan trọng nhất là yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như chính mình. Như vậy, cốt lõi của mọi điều luật là lòng yêu mến. Mến Chúa yêu người tuy là hai giới răn khác nhau, nhưng lại không thể tách biệt nhau.
  2. Như vậy, cốt cách của đạo chúng ta là “Mến Chúa – yêu người”. Nếu chúng ta muốn dùng một chữ thôi để diễn tả đạo Chúa qua Kinh thánh, thì không chữ nào thích hợp hơn là chữ ”yêu”, đó là yêu Chúa và yêu người. Tuy nhiên yêu Chúa, có thể nói: dễ hơn, vì Chúa dễ yêu lắm, ai yêu Chúa cũng được, và yêu Chúa hết lòng, hết sức. Còn yêu người? Khó hơn, nên chúng ta cần nói nhiều hơn về yêu người.

Nói về yêu người, chúng ta cũng đã nghe nói nhiều rồi, nhưng cũng chẳng bao giờ nói đủ, nghe đủ. Vì thế, chỉ xin nhắc lại một vài điều: Thứ nhất, yêu người là một trắc nghiệm không thể chối cãi được của tình yêu đối với Thiên Chúa, nghĩa là nếu chúng ta nói: chúng ta yêu Chúa lắm mà lại đối xử tệ với người khác, bất kể người đó là ai, chúng ta vẫn là người nói dối, và Chúa sẽ không nhận lòng yêu mến của chúng ta. Thánh Gioan nói: “Nếu ai nói tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối”.

Thứ hai, yêu người không phải chỉ là yêu thương theo tình cảm, bởi vì Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta phải yêu thương cả kẻ thù. Nếu chúng ta chỉ yêu thương những người yêu thương mình, quí mến mình, là chuyện bình thường, không cần gì phải nói.

Thứ ba, yêu người là sẵn sàng giúp đỡ họ bằng lời nói, thái độ, việc làm, tinh thần hay vật chất. Sau hết chúng ta hãy nhớ: tới ngày phán xét, chúng ta sẽ bị phán xét về tình yêu cụ thể này, tức tình yêu người, tình yêu thương anh em.

  1. Tình yêu là nền tảng cho đời sống đạo. Không thấy bóng dáng của tình yêu thì cuộc sống sẽ trở thành gánh nặng. Sống đạo là đi vào trong tương quan giao ước tình yêu, để sống với cả con tim, cả khối óc, cả cuộc đời. Tình yêu con người lấy tình yêu Thiên Chúa làm mẫu mực, vì thế, Chúa Giêsu đã nối kết điều răn yêu người thân cận với điều răn thứ nhất. Và ai là người thân cận với ta nhất nếu không phải là những người trong gia đình?
  2. Truyện: Yêu người bằng việc làm

 Một vị đạo sĩ kia kể rằng: ngày nọ, ông từ núi cao đầy băng tuyết đi xuống với một người Tây Tạng. Dọc đường ông gặp một người ngã quỵ trên băng tuyết, ông nói với người Tây Tạng đồng hành:

– Chúng ta mau lại kia giúp đỡ người gặp nạn đó!

Nhưng người Tây Tạng trả lời:

– Không ai bắt buộc chúng ta phải giúp đỡ kẻ khác, khi mà chính mạng sống của chính chúng ta cũng đang bị giá lạnh đe dọa.

Nhưng vị đạo sĩ trả lời:

– Dù chúng ta có phải chết vì lạnh đi nữa, thì chúng ta cũng chết vì đã giúp người khác, đó là điều vẫn tốt đẹp hơn.

Nói rồi vị đạo sĩ chạy lại vác người bị nạn lên vai và khệ nệ xuống núi, trong khi người Tây Tạng đã bỏ xuống trước từ nãy giờ. Đi được một quãng xa, vị đạo sĩ thấy người bạn đồng hành người Tây Tạng đang nằm dài trên tuyết bất động. Thì ra, anh ta mệt quá, ngồi nghỉ và bị lạnh cóng lúc nào không biết, còn vị đạo sĩ vì phải hết sức vác người bị nạn nên cơ thể nóng lên thêm, và do đó thoát chết lạnh.

Mẹ Têrêsa từng nói: “Hãy là hiện thân cho lòng nhân của Thượng Đế, bằng cách thể hiện trên nét mặt, trong ánh mắt, trong nụ cười và cả trong những lời chào nồng nhiệt của mình”.

Suy Niệm 9: ,,,,

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

Phân tích

  1. Đến lượt các luật sĩ tấn công Chúa Giêsu: “Trong các giới răn, giới răn nào là trọng nhất?” Đối với họ đây là một câu hỏi hóc búa, vì Cựu Ước ghi rất nhiều giới luật nhưng không cho biết giới luật nào trọng hơn giới luật nào. Nguyên việc thuộc hết các giới luật đã là chuyện rất khó, huống chi đánh giá và so sánh các luật đó.
  2. Nhưng Chúa Giêsu trả lời rất gọn gàng và rõ ràng: 2 giới luật trọng nhất đó là hết lòng yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân như chính mình.

Suy gẫm

  1. Về giới răn thứ nhất, tôi thuộc lòng, nhưng tôi chưa giữ đúng. Tôi phải xét mình lại, dựa trên từng chữ những Lời Chúa nói: “Hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng… hết linh hồn… hết trí khôn… và hết sức lực…”
  2. Và về giới răn thứ hai cũng thế: “Hãy yêu mến tha nhân như chính mình…”

3.”Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa là Đức Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi” (Mc 12, 30)

Khi sinh thời Thánh Micae Hồ Đình Hy (1808-1858) là một giáo dân đạo đức có lòng bác ái, kính sợ Thiên Chúa và là một vị quan thanh liêm, chính trực, được thăng đến hàng Tam phẩm trông coi mọi việc trong đền vua.

Trong triều, những vị quan bị Ngài ngăn cản làm điều bất chính, đã tố cáo Ngài với vua Tự Đức về tội theo đạo Gia Tô. Vì thế, Ngài bị đày ải, đòn vọt đau đớn vì đức tin.

Có những vị quan quý mến đức độ của Ngài, khuyên Ngài giả vờ chối đạo rồi tiếp tục sống đạo; nhưng Hồ Đình Hy cương quyết từ chối. Ngài đã đổ máu đào chết vì Chúa tại An Hòa, Huế.

Chúa ơi, nhiều lần con đã tôn thờ sự sống trần gian hơn là tôn thờ một Chúa, Chúa của con. Xin cho con biết yêu mến Thiên Chúa và làm chứng cho Chúa trong mọi suy nghĩ, lời nói, việc làm của con.

  1. Mối quan tâm hàng đầu là một danh từ của thời đại. Nhà nước đặt mối quan tâm hàng đầu vào chính sách kinh tế, một học sinh đặt mối quan tâm hàng đầu vào đèn sách để thi đậu vào đại học.. Đâu là mối quan tâm hàng đầu của tôi, đó là câu hỏi hợp lý có thể áp dụng vào mọi sinh hoạt cuộc sống, nhưng thiết nghĩ quan trọng hơn cả là câu hỏi: Đâu là mối quan tâm hàng đầu của tôi đối với cuộc sống của một người Kitô hữu?

Đó cũng là vấn nạn mà một Luật sĩ đặt ra cho Chúa trong Tin Mừng hôm nay, khi ông ta hỏi: “Thưa thầy, trong các giới răn, giới răn nào đứng hàng đầu?” Câu trả lời của Chúa Giêsu rất rõ ràng và đơn sơ, giới răn đứng hàng đầu, mối quan tâm hàng đầu của người Kitô hữu chính là tình yêu.

Nếu tình cờ chúng ta được một người nào đó đặt câu hỏi như trên, liệu chúng ta sẽ trả lời thế nào? Chúng ta có phát biểu được câu trả lời tuyệt diệu, nghe êm tai và nêu bật giá trị cao đẹp của con người chúng ta không? Và thành thật với lương tâm, liệu câu trả lời có phản ánh chính cuộc sống chúng ta không, bởi lẽ khi cho một câu trả lời đúng, chúng ta có thể lừa dối người khác, và tự dừa lối mình? Thành thật với lòng mình có lẽ nhiều người trong chúng ta sẽ phải ngạc nhiên khi khám phá ra rằng cho đến nay mối quan tâm hàng đầu của chúng ta là tiền bạc, sức khỏe, danh vọng.

Như vậy, điều trước tiên chúng ta phải làm để hoán cải và canh tân là thành thật thú nhận rằng cho đến nay chúng ta đã đặt sai mối quan tâm hàng đầu trong cách thức chúng ta biểu lộ niềm tin qua việc đọc kinh, dự lễ, bởi vì những cách thức này thường được sử dụng như những phương thế giúp chúng ta giữ đạo, nhất là giúp chúng ta tìm gặp được Thiên Chúa và tha nhân.

Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta đổi hướng cuộc sống và đặt lại bậc thang giá trị của những mối quan tâm hàng đầu của chúng ta. Xin cho tình yêu mến là nguồn mạch và sức mạnh để chúng ta thực sự gặp gỡ Thiên Chúa và yêu thương tha nhân như chính mình.

Suy Niệm 10: ,,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Hôm nay, đến lượt các luật sĩtấn công Chúa Giêsu: “Trong các giới răn, giới răn nào là trọng nhất ?” (Mc 12,28).Chúa Giêsu đã trả lời rất gọn gàng và rõ ràng: Hai giới luật quan trọng nhất đó là hết lòng yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân như chính mình.

Có nhiều người lương dân nhìn vào đạo Công giáo với rất nhiều thành kiến. Họ cho rằng, đạo Công giáo là một hệ thống những giới răn và kinh kệ dài dòng, mà phải mất cả đời mới có thể học thuộc và tuân giữ được. Quả thực, cách sống đạo của một số Kitô hữu hiện nay có thể làm cho nhiều người ngộ nhận như thế. Thực ra thì đạo của Chúa rất đơn giản. Đạo dạy cho người ta biết có một Thiên Chúa. Ngài là tình yêu. Ngài yêu thương mọi người. Và vì yêu thương, Ngài đã sai Con Một Ngài xuống trần để mặc khải cho con người về tình yêu của Ngài và mời gọi con người hãy sống yêu thương để được hạnh phúc thật. Tất cả mọi giới răn và lề luật của Chúa được tóm gọn trong hai chữ yêu thương ấy.

“Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng. Và hãy thương yêu đồng loại như chính mình ngươi. Toàn thể lề luật cùng các tiên tri đều qui về hai giới răn này”. (Mc 28,30-31).

Như vậy, Chúa Giêsu đã xác định cái cốt lõi của mười điều răn là: yêu mến. Mến Chúa yêu người, hai giới răn khác nhau, nhưng không thể tách biệt nhau: chối bỏ một giới răn này, cũng có nghĩa là chối bỏ giới răn kia. Về điểm này, thánh Gioan Tông đồ đã viết rất hay: “Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, thì đó là kẻ nói dối, vì kẻ không yêu mến người anh em nó thấy đó, tất không thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng nó không thấy” (1Ga 4,20).

  1. “Hãy yêu mến tha nhân như chính mình…” (Mc 12,33).

Một đôi vợ chồng nọ bán phở trên hè phố được một thời gian khá dài. Giá cả phải chăng cùng với nụ cười chân thành làm cho quán ăn của họ luôn tấp nập khách ra vào. Đến quán phở của họ nhiều lần, tôi phát hiện thấy sáng nào cũng có một cụ già ăn mặc rách rưới lặng lẽ đứng chờ ở một góc.

Nhìn thấy bà cụ đến, dù hai vợ chồng còn rất bận rộn với những việc đang dang dở, họ vẫn luôn mỉm cười nói với bà cụ:

– Bà chờ cháu một chút nhé, cháu sẽ làm ngay cho bà.

Một lát sau, vợ hoặc chồng họ nhanh nhẹn bỏ phở vào trong chiếc hộp giấy, múc nước phở bỏ vào trong túi “ny-lon”, buộc lại rồi đưa cho bà cụ, và luôn nhắc cụ cẩn thận kẻo bỏng tay. Bà cụ run rẩy đưa đôi tay gầy guộc ra nhận, rồi lặng lẽ quay người ra đi. Nhưng điều kỳ lạ là, dường như chưa lần nào tôi thấy bà cụ trả tiền.

Một hôm, vì không kìm nén nổi sự tò mò, tôi đã hỏi họ. Người vợ thở dài nói:

– Bà cụ ấy thật tội nghiệp, khó khăn lắm mới nuôi con cái khôn lớn. Vậy mà đến già lại không có chỗ nương tựa. Gia đình chúng tôi cũng không được dư giả gì. Giúp đỡ nhiều hơn thì chúng tôi không có khả năng, nhưng chỉ cần bà cụ đến là chúng tôi luôn đãi cụ một bát phở.

Trên nét mặt người phụ nữ trung niên ấy dường như lộ vẻ áy náy, dường như chị cảm thấy có lỗi khi chỉ giúp đỡ được bà cụ được như thế.

Tôi để ý và luôn nhận thấy vợ chồng họ đối xử lễ phép và tôn trọng bà cụ giống như những người khách hàng khác, không hề tỏ ra một chút coi thường hay ban ơn.

Sau này, trên phố xuất hiện khá nhiều quán phở, nhưng tôi chỉ thích đến quán phở của họ. Tôi thích ngồi trên chiếc ghế cũ kỹ, trong âm thanh náo nhiệt của đường phố, lặng lẽ nhìn hai vợ chồng họ chìa đôi bàn tay thô ráp, tặng cho một bà cụ còn nghèo túng hơn mình cả một tấm lòng yêu thương và nhân ái.

Bố thí cho người khác, có lẽ rất nhiều người dễ dàng làm được. Nhưng bố thí cho người khác với một thái độ chân thành và nhân ái, thì không phải ai cũng có thể làm được.

Mẹ Têrêsa từng nói: “Hãy là hiện thân cho lòng nhân ái của Thượng Đế bằng cách thể hiện trên nét mặt, trong ánh mắt, trong nụ cười và cả trong những lời chào nồng nhiệt của mình”.

Lạy Chúa,

xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin

để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,

nơi khuôn mặt khốn khổ

của tất cả những người bị thử thách:

những kẻ đói, không chỉ vì thiếu của ăn,

nhưng vì thiếu Lời Chúa ;

những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,

nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật,

công bằng và tình thương ;

những kẻ vô gia cư,

không chỉ tìm kiếm một mái nhà,

nhưng còn tìm một con tim hiểu biết, yêu thương ;

những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,

không chỉ trong thân xác,

nhưng còn trong tinh thần nữa,

bằng cách thực thi lời hy vọng này:

“Ðiều mà ngươi làm

cho người bé mọn nhất trong anh em

là làm cho chính Ta”. (Mẹ Têrêsa)

THỨ SÁU TUẦN 9 THƯỜNG NIÊN

Lời Chúa: Mc 12, 35-37

Khi ấy, Chúa Giêsu cất tiếng giảng dạy trong đền thờ rằng: “Sao các luật sĩ lại nói Ðấng Cứu Thế là con vua Ðavít? Vì chính Ðavít được Chúa Thánh Thần soi sáng đã nói: Thiên Chúa đã phán cùng Chúa tôi rằng: “Con hãy ngồi bên hữu Cha, cho đến khi Cha đặt các kẻ thù con làm bệ dưới chân con”. Chính Ðavít gọi Người là Chúa, thì sao Người lại có thể là Con Ðavít được?” Và đám dân chúng thích thú nghe Người nói.

Suy Niệm 1: Bên hữu Cha đây

Suy niệm:

Sau khi đã bị chất vấn về nhiều vấn đề bởi các nhà lãnh đạo tôn giáo,

bây giờ đến lượt Đức Giêsu đặt vấn đề với họ, cụ thể là các kinh sư.

Khung cảnh vẫn là Đền thờ với đám đông thính giả.

Có vẻ đây là một đám đông có cảm tình với Đức Giêsu (c. 37).

Câu chuyện khởi đi từ câu đầu tiên của thánh vịnh 110.

Thánh vịnh này là thánh vịnh được các kitô hữu sơ khai yêu thích,

và được trích dẫn nhiều lần trong các sách Tân Ước,

bởi lẽ họ nhận ra khuôn mặt của Đức Giêsu vinh quang trong đó.

Đối với các kinh sư, cũng như đối với Đức Giêsu,

thánh vịnh này được vua Đavít viết ra, dưới ơn linh hứng của Thánh Thần.

Ông viết về Đấng Mêsia được ĐỨC CHÚA cho toàn thắng.

“ĐỨC CHÚA phán cùng Chúa của tôi rằng : bên hữu Ta đây, con lên ngự trị,

để rồi bao địch thù Ta đặt làm bệ dưới chân con” (c.36).

Trong thánh vịnh này, Đavít đã gọi Đấng Mêsia một cách long trọng,

bằng tước hiệu “Chúa của tôi”.

Thế mà theo quan niệm của các kinh sư, Đấng Mêsia (còn gọi là Đấng Kitô)

là con vua Đavít, là người thuộc dòng dõi vua Đavít.

Câu hỏi Đức Giêsu đặt cho các kinh sư như sau :

Nếu Đavít gọi Đấng Mêsia là Chúa của tôi

thì làm sao Đấng Mêsia lại là Con của Đavít ?

Mới nghe câu hỏi của Đức Giêsu,

ta có cảm tưởng Ngài không nhìn nhận mình là Con vua Đavít.

Thật ra Ngài không bảo rằng Đấng Mêsia không thể là Con Đavít được.

Nhưng Ngài chỉ đặt một câu hỏi lơ lửng để mời họ suy nghĩ.

“Bởi đâu (pothen) mà Đấng Mêsia lại là con vua Đavít ?” (c. 37).

Bởi đâu Đấng Mêsia vừa là Con, vừa là Chúa của Đavít ?

Đối với kitô hữu chúng ta, mầu nhiệm này đã được hiển lộ.

Đức Giêsu là Con vua Đavít, thuộc dòng dõi Đavít theo xác thịt (Rm 1,3),

nhưng Ngài được siêu tôn làm Chúa nhờ trải qua cái chết thập giá,

nhờ sự hạ mình vâng phục, và nhờ được phục sinh.

“Chính vì thế Ngài được ban cho một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu,”

khiến mọi loài phải tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Chúa (Ph 2, 9-11).

Hôm nay chúng ta vẫn phải làm việc vất vả

để thế giới nhìn nhận quyền làm Chúa của Đức Giêsu Kitô.

Vì kẻ thù cuối cùng vẫn chưa bị khuất phục trọn vẹn (1 Cr 15, 25).

Chúng ta mong mọi sự quy phục Đức Kitô, để tất cả thuộc về Thiên Chúa.

Lời nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa đã yêu trái đất này,

Và đã sống trọn phận người ở đó.

Chúa đã nếm biết

Nỗi khổ đau và hạnh phúc,

Sự bi đát và cao cả của phận người.

Xin dạy chúng con biết đường lên trời,

Nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.

Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu,

Chúng con thấy mình được thêm sức mạnh

Để xây dựng trái đất này,

Và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.

Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa,

Xin cho những vất vảcủa cuộc sống ở đời

Không làm chúng con quên trời cao;

Và những vẻ đẹp của trần gian

Không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa.

Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con,

Mọi người thấy nước trời đang tỏ hiện.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Suy Niệm 2: Lời Chúa ứng nghiệm

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Khi trích dẫn Thánh vịnh 110, Chúa Giê-su cho biết Người có hai bản tính. Bản tính nhân loại, Người là con cháu thuộc dòng tộc Đa-vít. Bản tính Thiên Chúa, Người là Con Thiên Chúa. Và vương quyền Người trổi vượt Đa-vít. Không những Đa-vít phải gọi Người là Chúa Thượng. Mà Thiên Chúa Cha còn đặt cả vũ trụ dưới chân Người.

Đồng thời Chúa cũng cho biết Kinh Thánh đã được Thiên Chúa linh hứng. Đa-vít nói theo linh hứng của Thánh Thần. Nên tuy ông chưa hiểu. Mà sự thật đó ứng nghiệm. Các kinh sư là những người am tường Kinh Thánh đã không hiểu thấu Kinh Thánh. Trước những giải thích của Chúa Giê-su, không ai chối cãi được. Còn dân chúng thì vui mừng hoan hỷ. Vì Kinh Thánh mở ra những chân lý cao siêu.

Tuy nhiên Chúa Giê-su sẽ phải chịu đau khổ, chịu chết. Rồi mới được vinh quang. Người sẽ phải “thua kém các thiên thần một chút”. Rồi mới hiển trị trên thiên quốc.

Bất cứ ai thực hành Lời Chúa cũng đều trải qua đau khổ. Đó là điều gia đình Tô-bít cảm nghiệm. Ông phải chịu đau khổ nhục nhã một thời gian. Nhưng cuối cùng sẽ được Thiên Chúa yêu thương giải cứu. Nên khi được sáng mắt ông và “vợ ông, và mọi người quen biết đều tôn vinh Thiên Chúa. Bấy giờ, ông Tô-bít nói: “Lạy Đức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en, con xin chúc tụng Ngài vì Ngài đã sửa phạt con, nhưng cũng chính Ngài đã cứu thoát con; và này đây, con đang nhìn thấy Tô-bi-a, con trai của con” (năm lẻ).

Thánh Phao-lô cho biết ai phục vụ Chúa cũng phải đi vào con đường đau khổ. Chính Ngài đã gặp rất nhiều đau khổ: “Tại An-ti-ô-ki-a, I-cô-ni-ô, Lýt-ra, đã biết tôi chịu bắt bớ như thế nào. Nhưng Chúa đã giải thoát tôi khỏi tất cả. Vả lại, nhưng ai muốn sống đạo đức trong Đức Ki-tô Giê-su, đều sẽ bị bắt bớ”. Và ngài khuyên nhủ Ti-mô-thê hãy hoàn toàn tin vào Kinh Thánh. Vì Lời Chúa sẽ đem đến ơn cứu độ. Và có thể sử dụng trong mọi hoàn cảnh giúp người môn đệ hành xử: “Anh đã biết Sách Thánh, sách có thể dạy anh nên người khôn ngoan để được ơn cứu độ, nhờ lòng tin vào đức Ki-tô Giê-su. Tất cả những gì viết trong Sách thánh đều do Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục, để trở nên công chính. Nhờ vậy, người của Thiên Chúa nên thập toàn, và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành” (năm chẵn).

Tôi có yêu mến Lời Chúa. Tin tưởng Lời Chúa. Và có thực hành Lời Chúa?

 

Suy Niệm 3: Ðấng Kitô là Chúa

Cuộc đối đầu trực diện giữa Chúa Giêsu và các đối thủ qua đi với việc họ không còn chất vấn Ngài nữa. Lúc này, tác giả Marcô lại nhớ thêm một cảnh, trong đó chính Chúa Giêsu là người chất vấn. Marcô không xác định rõ kẻ bị hỏi, chỉ ở cuối đoạn ông mới cho biết đông đảo dân chúng lắng nghe Ngài cách thích thú.

Trong lần chất vấn này, Chúa Giêsu đề cập đến tước hiệu mà các luật sĩ gán cho Ngài: con vua Ðavít. Một truyền thống Do thái xa xưa vẫn cho rằng Ðấng Kitô phải thuộc dòng dõi vua Ðavít (2V 7,14-17). Người ta cũng thường gọi Chúa Giêsu là “con vua Ðavít” (x. 10,48; 11,10). Nhưng chắc chắn Chúa Giêsu không tự xưng mình bằng tước hiệu này, vì nó quá hàm hồ, Ngài muốn tránh xa quan niệm về Ðấng Kitô theo kiểu chính trị. Ngài trưng dẫn Thánh vịnh 110, theo đó Ðấng Kitô vừa là con vua Ðavít, vừa được Ðavít gọi bằng “Chúa tôi”. Chính Kinh Thánh đã gán cho Ðấng Kitô một phẩm tính cao cả hơn con vua Ðavít và gọi bằng tước hiệu “Chúa”. Sau biến cố Phục Sinh, các Kitô hữu đã sử dụng Thánh vịnh 110 để tìm ra các tước hiệu bao hàm trọn vẹn tính cách của Chúa Giêsu: họ tuyên xưng Ngài thực sự thuộc đẳng cấp thần thánh: Ngài đã sống lại và được Thiên Chúa phong làm “Chúa”. Ngài lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa (Cv 2,34-36).

Ðức Kitô là Thiên Chúa thật và cũng là người thật. Ðó là lòng tin kiên vững của Kitô giáo. Quá nhấn mạnh tới thiên tính mà bỏ quên nhân tính, hoặc ngược lại, đều là những sai lầm tai hại. Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật, như lời thánh Gioan: “Từ khởi thủy đã có Lời, và Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa”. Nhưng Lời đã thành xác phàm và sống giữa nhân loại để cứu độ con người và nâng con người lên địa vị con cái Thiên Chúa. Nói theo thánh Irênê: Thiên Chúa đã làm người để con người được trở thành Thiên Chúa.

Ước gì đó là niềm xác tín mà chúng ta mang trong lòng, diễn tả ra cuộc sống và sẵn sàng bảo vệ đến cùng.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Suy Niệm 4: Thánh Mác-cô hớn hở

Khi giảng trong đền thờ. Đức Giêsu lên tiếng hỏi: “Sao các kinh sư lại nói Đấng Kitô là con vua Đa-vít? Chính vua Đa-vít được Thánh Thần soi sáng đã nói:

Đức Chúa phán cùng Chúa Thượng tôi:

Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị,

Để rồi bao địch thù,

Cha sẽ đặt dưới chân Con.

Chính vua Đa-vít gọi Đấng Kitô là Chúa Thượng, thì do đâu Đức Kitô lại là con vua ấy được?” Đám người đông đảo nghe Đức Giêsu cách thích thú. (Mc. 12, 35-37)

Thánh Maccô có vẻ rất vui sướng dùng câu hỏi của Chúa Giêsu để kết thúc chương sách đầy những cuộc tranh cãi gay cấn này. Câu hỏi của Chúa không những là lời khẳng định thần tính của Người mà cũng là một kiệt tác “đốn ngã” trong môn võ hagada, môn karaté chính cống. Hai câu của Sách thánh bề ngoài có vẻ mâu thuẫn nhau, nhưng xét cho cùng lại chẳng có gì là mâu thúẫn cả. Hai câu đều đúng, nhưng nói tới những chủ đề khác nhau: con vua Davít theo dòng tộc, nên phải là đấng Mêsia được trông đợi, nhưng đồng thời cũng là Chúa thượng của chính Đavít, người được Thánh Thần soi sáng đã nói:

“Đức Chúa phán cùng Chúa Thượng tôi: bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt dưới chân Con”.

Có nghĩa là trong Truyền thống Do thái, Chúa Giêsu đã là Con Thiên Chúa theo quyền năng. Tiếc rằng chúng ta ít quen với những cuộc tranh biện thuộc loại này, tranh biện của các bậc kinh sư. Trong những cuộc tranh biện này, Chúa Giêsu tỏ ra trổi vượt. Tuy nó làm chúng ta ngạc nhiên, nhưng cũng giúp chúng ta thấy rằng Chúa quên mình để chiều theo những đòi hỏi của người đương thời. Qua cuộc tranh biện này và theo kiểu văn chương đông phương, chúng ta có ở đây lời tuyên bố sáng sủa và rành mạch về thần tính của Chúa Giêsu.

Tập trung vào Đức Kitô

Suốt một tiếng đồng hồ, sau khi đã giải thích rằng Chúa Giêsu là nhân vật mang trọn thân phận con người như ta có thể hình dung ra, một linh mục đã kết thúc bài nói truyện của mình rằng: “Dẫu sao ta cũng đừng quên rằng Chúa Giêsu cũng là Con Thiên Chúa”.

Thế kỷ ta sống đã khắc ghi vào tâm trí chúng ta cách nhìn này, không phải là không có lý bởi vì chúng ta đã đến muộn, nhưng phản ứng không phải là chối bỏ. Nói rằng Chúa Giêsu là siêu sao, là hippi, là nhà xã hội, cũng tốt thôi, nhưng nói Đúc Giêsu là Con Thiên Chúa nhập thể thì tôi càng thích hơn.

Điều làm nên cái tôi sâu xa của Đức Kitô, làm cho Người trở nên con người duy nhất và rất cần thiết cho mọi người sinh ra trên trần gian này, chính bởi Người là Thiên Chúa ở với chúng tôi. Sứ mệnh của Người không phải là phàm tục hóa vũ trụ, nhưng là lôi kéo vũ trụ đi vào dòng chảy tràn sự sống Thiên Chúa. Thiết tưởng chẳng cần ai phải suy tôn Người là bậc vĩ nhân, anh hùng, là những con người chúng ta sẽ luôn luôn có; Người đã đến trần gian này chỉ để đưa chúng ta nhập vào gia đình của Người mà thôi. Bởi ta chỉ muốn cho Người nên giống ta, nên như người của chúng ta, mà ta thường quên trở nên Người. Thế mà xem ra chính đó lại là lý do đưa Người đến với ta vậy.

Suy Niệm 5: HIỂU ĐÚNG VỀ ĐẤNG KITÔ (Mc 2, 35-37)

Trong các bài Tin Mừng trước, chúng ta thấy Đức Giêsu luôn bị chất vấn bởi các người Pharisêu, Kinh Sư, phe Hêrôđê, nhóm Sa Đốc… Nhưng hôm nay, thánh sử Máccô lại cho thấy một tình thế ngược lại. Chính Đức Giêsu là người đứng lên chất vấn họ.

Khởi đi từ chỗ Ngài đặt vấn nạn về thân thế, nguồn gốc của mình: các Kinh Sư bảo Đấng Kitô là con vua Đavít, thế thì tại sao vua Đavít lại gọi Đấng ấy là Chúa Thượng tôi? (x. Tv 110,1). Không ai trả lời được, vì thế đám đông dân chúng lấy làm thích thú!

Qua câu hỏi đó của Đức Giêsu, Ngài không phủ nhận thân thế, vai trò của mình. Ngài cũng không từ trối tước hiệu con Vua Đavít. Nhưng dần dần, Ngài muốn cho mọi người hiểu về một Đấng Kitô chịu đau khổ, là tôi tớ của Giavê chứ không phải là một Đấng Kitô với mũ mão cân đai và đứng lên để làm chính trị như họ vẫn lầm tưởng!

Chính sự hiểu nhầm và mong ước phiến diện về Đấng Kitô, nên họ không thể chấp nhận Đấng ấy nằm ngoài khuôn mẫu của sự uy nghi, lộng lẫy, đánh đông dẹp bắc, quyền lực phi thường… Vì thế, khi Đức Giêsu đến, Ngài sống nghèo khó, không nhà không cửa, dạy con người ta hướng thiện, bác ái, bao dung, tha thứ thì họ đã không thể chấp nhận, và lẽ đương nhiên, họ tìm cách loại bỏ vì coi đó như là cái gai trong mắt và hòn đá cản lối đi.

Trong cuộc sống hôm nay nơi con cái của Giáo Hội, vẫn không thiếu những con người đủ mọi tầng lớp, luôn thích một Giáo Hội quyền lực, giàu có, oai phong; thích một Giáo Hội được củng cố bằng quyền lực… Không những thế, mà nhiều người đã áp dụng quan điểm đó ngay trong suy tư, nơi hành vi và lối sống của mình.

Những lúc như thế, chúng ta hãy cẩn trọng vì đây không phải là đường lối của Thiên Chúa, mà là đường lối của những Pharisêu giả hình, của Luật Sĩ vụ luật, những Sa Đốc không niềm tin và phe Hêrôđê ham quyền…

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con hiểu được Lời Chúa dạy để biết sống điều Chúa muốn. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 6: Ánh sáng đức tin

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu là con vua Đa-vít vì thuộc về dòng tộc Đa-vít, nhưng đồng thời Người cũng là Chúa của Đa-vít. Phải có lòng tin mới thấy được Chúa Giêsu vừa là người thật, vừa là Thiên Chúa thật.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con thấy mỗi một người đều có chiều sâu kín ẩn mà mắt thường không thể nào nhận ra được. Giữa chúng con với nhau, hằng ngày chúng con nhìn thấy nhau và sát cánh bên nhau, nhưng chúng con cũng chẳng hiểu hết về nhau. Người Do Thái ngày xưa chỉ nhìn thấy Chúa là một người làng Na-da-rét bình thường, họ không nhận ra Chúa là Đấng Thiên Sai thuộc hoàng tộc Đa-vít, và lại càng không nhận ra Chúa là Chúa Đa-vít. Phần con, nếu không được Chúa mạc khải trong lời Tin Mừng, con cũng chẳng thấy được điều ấy.

Nhưng lạy Chúa, dù vậy, cho tới hôm nay con cũng không thấy được hết chiều sâu huyền nhiệm của Chúa. Chúa vẫn luôn vượt trên những điều con có thể thấy được hoặc hiểu được hay nói được về Chúa. Xin Chúa chiếu soi ánh sáng đức tin và dẫn dắt con ngày càng tiến sâu hơn vào mầu nhiệm của Chúa.

Xin Chúa mở lòng trí con để qua dòng đời biến chuyển, con thấy được Chúa là Thiên Chúa đang điều khiển thế giới. Xin mở lòng trí con để qua hình bánh rượu trong bí tích Thánh Thể, con thấy được Chúa phục sinh quyền năng đang ở với con. Xin mở lòng trí con để qua từng trang Phúc âm, con thấy được chính Chúa là Ngôi Lời đang công bố Tin Mừng yêu thương cho con. Và xin mở lòng trí con, để qua từng con người bé nhỏ thấp hèn, con thấy được chính Chúa nơi họ, nhờ đó con kính trọng họ, thông cảm và lắng nghe họ. Amen.

Ghi nhớ : “ Đám dân chúng thích thú nghe Người nói”.

Suy Niệm 6: Con vua Ðavít

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Đêm nọ, một thanh niên đến với nhóm học hỏi Lời Chúa.

– Hãy cho tôi biết tôi phải làm gì để được ơn cứu độ.

– Bạn chậm quá rồi, – Một người nói.

– Ồ, đừng nói thế. Tôi tha thiết mong được cứu độ. Tôi sẽ làm bất cứ việc gì, đi bất cứ nơi đâu để được như thế.

– Tôi không thể giúp bạn. Bạn đến trễ quá! Việc cứu độ của bạn đã được thực hiện cách nay hơn 2000 năm rồi, nơi Đức Kitô. Tất cả những gì bạn phải làm bây giờ là tiếp nhận ơn đó. Bạn chẳng thể làm gì xứng đáng với ơn cứu độ. Đó là món quà tặng không cho ai mở lòng tiếp nhận.

Suy niệm

Một truyền thống Do Thái xa xưa vẫn cho rằng Ðấng Kitô phải thuộc dòng dõi vua Ðavít (x. 2Sm7,12; Tv 89,30-37; Gr 23,5; 33,15-17). Người ta cũng thường gọi Chúa Giêsu là “Con vua Ðavít” (x. Mc 10,48; 11,10).

Chúa Giêsu là “Con vua Ðavít” là Ðấng Thiên Sai có hai nguồn gốc: Ngài là Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa, nguồn gốc thần linh nhưng đồng thời đã nhập thể làm người trong dòng tộc vua Ðavít. Theo nguồn gốc con người, lý lịch trần thế Chúa Giêsu là con vua Ðavít, thuộc dòng tộc vua Ðavít; nhưng Ngài là Thiên Chúa như lời thánh Gioan: “Từ khởi thủy đã có Lời, và Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa”. Ngài đến từ Thiên Chúa và mạc khải Thiên Chúa Cha như lời thánh Gioan tông đồ đã nói trong phần nhập đề của sách Phúc Âm thứ tư: “Không ai đã nhìn thấy được Thiên Chúa bao giờ. Nhưng Con Một Ngài là Thiên Chúa và là Ðấng hằng ở nơi cung lòng Thiên Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho ta biết mà thôi. Chúng ta hãy nâng tâm hồn lên để chúc tụng Chúa, chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến cứu rỗi chúng ta là Chúa Giêsu Kitô”. Cho nên, Đức Kitô là Thiên Chúa có trước vua Ðavít và đáng được vua Ðavít gọi là Chúa của mình. Đức Giêsu trưng dẫn Thánh vịnh:

“Bên hữu Cha đây, con lên ngự trị,

để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt làm bệ dưới chân con” (Tv 110,1).

Chính Kinh Thánh đã tôn vinh Ðấng Kitô với một phẩm tính cao cả hơn con vua Ðavít và gọi bằng tước hiệu “Chúa”. Sau biến cố Phục sinh, các Kitô hữu đã sử dụng Thánh vịnh 110 để tìm ra các tước hiệu bao hàm trọn vẹn tính cách của Chúa Giêsu: Họ tuyên xưng Ngài thực sự thuộc đẳng cấp thần thánh: Ngài đã sống lại và được Thiên Chúa phong làm “Chúa”. Ngài lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa (Cv 2,34-36).

Ý lực sống:

Tôn vinh Đức Kitô:

“Ngày đăng quang con nắm quyền thủ lãnh,

vẻ huy hoàng rực rỡ tựa thần linh.

Ngay trước lúc hừng đông xuất hiện,

tự lòng Cha, Cha đã sinh ra Con”. (Tv 110,3).

Suy Niệm 7: Đấng Kitô là Chúa

(Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Đức Giêsu không chối mình là con vua Đavít, vì theo bản tính nhân loại, Người xuất hiện từ dòng dõi Đavít. Nhưng ở đây, Đức Giêsu cho thấy, Người vượt xa hơn tước hiệu ấy, vì Người còn là Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế, nên vua Đavít lại phải gọi Người là Chúa. Điều đó cho thấy Đức Giêsu từ địa vị Thiên Chúa, Chúa các chúa, Người đã tự hạ, để chia sẻ kiếp người nhỏ bé thấp hèn, để cảm thông thực sự với những khốn khó và yếu đuối của chúng ta.
  2. Sau những câu hỏi mà các đối thủ đưa ra để cài bẫy, thì giờ đây, Đức Giêsu kết thúc cuộc tranh luận bằng cách tự đặt câu hỏi ngược lại về nguồn gốc của mình, cho các người luật sĩ và biệt phái.

Hôm nay Đức Giêsu đặt vấn đề với các luật sĩ về thần tính của Người: “Chính vua Đavít gọi Đấng Kitô là Chúa Thượng, thì Đấng Kitô lại là con vua ấy thế nào được?” Khi nói thế, Đức Giêsu muốn gợi mở cho họ biết rằng Người chỉ là con vua Đavít về phần xác, còn về phần thiêng liêng thì người là Con Thiên Chúa và là Chúa Thượng của vua Đavít.

Đức Kitô là Thiên Chúa thật và cũng là người thật. Đó là lòng tin kiên vững của Kitô giáo. Quá nhấn mạnh đến thiên tính mà bỏ quên nhân tính, hoặc ngược lại, đều là những sai lầm tai hại. Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật, như lời thánh Gioan: “Từ khởi thuỷ đã có Lời, và Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa”. Nhưng Lời đã thành xác phàm và sống giữa nhân loại, để cứu độ con người và nâng con người lên địa vị con cái Thiên Chúa. Nói theo thánh Irênê: “Thiên Chúa đã làm con người để con người được trở thành con Chúa”. Thật là vinh dự cho con người.

  1. Với tước hiệu là con vua Đavít như dân chúng đã xưng hô Người trong ngày lễ Lá khi Người vào đền thờ, hay người mù thành Giêricô cũng đã kêu lên: “Lạy Con Vua Đavít, xin thương xót con”. Đức Giêsu không bao giờ từ chối tước hiệu này, nhưng tước hiệu đó chưa diễn tả đủ về Người. Vì thế, để kiện toàn những lời đã hứa với Đavít, Đức Giêsu tuyên bố mình còn lớn hơn Đavít, Người là Chúa của Đavít. Đavít chỉ là một chủ chiên của dân Chúa, còn Đức Giêsu mới chính là chủ chiên thật, hiền lành, thí mạng sống cho cả Đavít. Rồi đây người ta sẽ thấy Đấng là con Đavít sẽ trở lại ngày phán xét.
  2. Nhìn ngắm Chúa Giêsu là Chúa của Đavít:

Chúa Giêsu là con vua Đavít, chúng ta có thể nhận thấy và kiểm chứng được, vì Chúa Giêsu đã trở nên người như mọi người chúng ta qua mầu nhiệm Nhập thể; nhưng Chúa Giêsu là Chúa của Đavít, chúng ta không thể nhìn thấy bằng con mắt xác thịt được mà chỉ nhìn thấy qua con mắt đức tin thôi.

Trước những dấu chỉ diễn tả các thực tại thuộc bình diện đức tin, chúng ta phải mở rộng con mắt đức tin để đón nhận. Điều này cũng đòi hỏi chúng ta phải vận dụng đức tin, cậy, mến để tham dự các việc phụng vụ nhất là phụng vụ bí tích.

  1. Trong cuộc sống hôm nay nơi con cái của Giáo hội, vẫn không thiếu những con người đủ mọi tầng lớp, luôn thích một Giáo hội quyền lực, giàu có, oai phong; thích một Giáo hội được củng cố bằng quyền lực… Không những thế, mà nhiều người đã áp dụng quan điểm đó ngay trong suy tư, nơi hành vi và lối sống của mình.

Những lúc như thế, chúng ta hãy cẩn trọng vì đây không phải là đường lối của Thiên Chúa, mà đường lối của những người luật sĩ giả hình, biệt phái vụ lợi và nhóm Sađốc không niềm tin và phe Hêrôđê ham quyền.

  1. Truyện: Đức Giêsu thật là Con Thiên Chúa

Ngày quân đội Liên Xô vào chiếm thủ đô Hungary, một viên sĩ quan trẻ dáng vẻ hung hãn, đầy tự đắc của kẻ chiến thắng đã đến gặp vị linh mục. Viên sĩ quan chỉ cây thánh giá treo trên tường và nói: “Ông biết không? Cái đó là sự dối trá của các linh mục bầy ra, để làm mê hoặc đám dân nghèo, và giúp những kẻ giàu dễ dàng kìm hãm họ trong cảnh ngu dốt. Bây giờ chỉ có ông với tôi. Ông hãy thú nhận với tôi rằng ông không bao giờ tin ông Giêsu là Con Thiên Chúa”.

Vị linh mục cười và từ tốn trả lời: “Ông bạn ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật”.

Viên sĩ quan quát lớn: “Ông đừng có lừa dối tôi, cũng đừng diễu cợt tôi!” Nói thế rồi anh ta rút súng ra, chĩa vào đầu linh mục và hăm dọa: “Nếu ông không nhận rằng đó chỉ là sự dối trá, thì tôi bắn ông chết”.

Vị linh mục điềm tĩnh trả lời: “Tôi không thể nói như thế, vì không đúng. Đức Giêsu thật là Con Thiên Chúa”.

Nghe thế, viên sĩ quan vất súng xuống nền nhà, chạy đến ôm chầm lấy vị linh mục. Anh ta vừa khóc vừa nói: “Đúng thế! Tôi cũng tin như vậy. Nhưng tôi không thể tin rằng có người dám chết vì đức tin, cho tới hôm nay. Tôi xin cám ơn ngài. Ngài đã củng cố lòng tin của tôi. Ngài đã chứng minh cho tôi thấy rằng vẫn có người dám chết cho Đức Kitô”.

Suy Niệm 8: ,,,,

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Phân tích (Hạt giống…)

Bây giờ đến lượt Chúa Giêsu đặt vấn đề cho các luật sĩ

Họ nói Chúa Giêsu là con vua Đavid. Thế tại sao Đavid lại gọi Đấng Messia bằng Chúa ?(Tv 110).

Như thế chứng tỏ Chúa Giêsu chỉ là con Vua Đavid về phần xác. Còn về phần thiêng liêng thì Ngài là con Thiên Chúa và là Chúa của Vua Đavid.

  1. Suy gẫm (…nẩy mầm)
  2. “Con của Vua Đavid” cũng là một tước hiệu gọi Đấng Messia. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không thích xưng mình bằng tước hiệu này, vì nó đễ gợi lên trong đầu óc người ta một quan niệm lệch lạc về một Đấng Messia cao sang uy quyền. Ngài thích xưng mình là “con người” hơn. Sở dĩ hôm nay Ngài dùng tước hiệu “Con Vua Đavid” là chỉ vì Ngài muốn mở trí cho các luật sĩ hiểu Ngài là ai thôi.

Chúa Giêsu dạy tôi bài học khiêm tốn. Tôi có nhiều tư cách, nhiều “tước hiệu”, thí dụ người ta có thể gọi tôi bằng em, bằng anh, bằng chú, bằng thầy…vv. Nhưng tôi thích được gọi bằng những tước hiệu “nặng ký” hơn.

  1. “Chính Vua Đavid gọi Đấng Kitô là Chúa thượng thì do đâu Đấng Kitô lại còn là con Vua ấy được ?” (Mc 12, 37)

Nằm nghỉ dưới bóng cây táo, hợt cơn gió thoảng đung đưa làm rơi quả táo chín đỏ. Newton tự hỏi: “Ồ sao quả táo không bay lên mà lại rơi xuống ?” Khám phá thú vị này đã là tiền đề cho những suy nghĩ về luật trọng lực của Newton.

Đức Giêsu cũng làm đám đông thích thú khi mở ra cho họ khám phá một điều tưởng chừng tất quen thuộc. Đức Kitô không chỉ thuộc dòng dõi Đavid, nhưng Ngài còn là Thiên Chúa của Đavid nữa.

Lối đặt vấn đề của Chúa Giêsu thật hấp dẫn và đầy thuyết phục. Ngài làm tôi ngạc nhiên và thúc đẩy tôi phải khám phá. Một lần nữa, tôi thốt lên: “Đức Giêsu Ngài là ai ?”

Lạy Chúa Giêsu, con đã nhận Ngài là Chúa của con. Con đã nghe biết nhiều về Ngài. Xin cho con đừng dừng ở lại những giáo thuyết, nhưng mỗi ngày biết khám phá ra khuôn mặt của Đức Kitô sống động, mới lạ qua Lời Ngài và trong cuộc sống” (Hosanna).

Suy Niệm 9: Vấn đề thần tính của Chúa.

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Hôm qua, các luật sĩ đặt vấn đề với Chúa về giới răn quan trọng nhất. Hôm nay, đến lượt Chúa Giêsu đặt vấn đềvới họ. Vấn đề Chúa đặt ra cho họ hôm nay là vấn đề thần tính của Chúa.

Họ nói Chúa Giêsu là con vua Đavid. Thế tại sao Đavid lại gọi Đấng Messia bằng Chúa ? (Tv 110)

Khi nói như thế, Chúa muốn chứng tỏ rằng, Ngài chỉ là con Vua Đavid về phần xác, còn về phần thiêng liêng thì Ngài là Con Thiên Chúa và là Chúa của Vua Đavid.

“Con của Vua Đavid” là một tước hiệu để gọi Đấng Messia. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không thích xưng mình với tước hiệu này, vì nó dễ gợi lên một quan niệm lệch lạc trong đầu óc người ta về một Đấng Messia cao sang uy quyền. Ngài thích xưng mình là Con Người hơn. Sở dĩ hôm nay Ngài dùng tước hiệu “Con Vua Đavid” là chỉ vì Ngài muốn mở trí cho các luật sĩ hiểu Ngài là ai thôi.

Chúng ta biết vua Đavid là vị vua rất nổi tiếng mà dân Do Thái kính phục và hãnh diện. Vua Đavid là một con người đại lượng, đã không trừng phạt Saolê dù ông có thể (1Sm 24,26). Ông hoàn toàn vâng theo thánh ý Thiên Chúa (2Sm 15,25). Ông viết các thánh vịnh. Ông còn là một nhạc sĩ, là nhà kiến trúc vẽ đồ án đền thánh (2Sm 23,1; 1Sm 22,28). Quả thực, nhìn lại cuộc đời của ông, người ta thấy ông có một số lầm lỗi. Nhưng cách chung ông là một vị vua sáng giá. Người Do Thái quan niệm rằng, làm vua theo dòng họ Đavid là cao trọng nhất. Cho nên nói rằng, Đấng Cứu Thế xuất thân từ nhà Đavid, là tôn vinh giá trị cao nhất của Ngài. Hơn thế nữa Ngài còn là Chúa của Đavid.

Kinh Thánh đã nhiều lần minh chứng và gọi Chúa Giêsu là con vua Đavid (Mt 1,1). Dân chúng đã từng xưng tụng Chúa là con vua Đavid trong ngày Lễ Lá (Mt 21,9). Người mù thành Giêrikhô cũng đã kêu lên “Lạy Con Vua Đavid, xin thương xót tôi” (Mc 10,48).

Đức Kitô đã không bao giờ từ chối tước hiệu này, nhưng tước hiệu đó chưa diễn tả đủ về Ngài. Vì thế, để kiện toàn những lời đã hứa với Đavid, Chúa Giêsu tuyên bố mình còn lớn hơn Đavid, Ngài là Chúa của Đavid (Mt 22,42-45). Đavid chỉ là một chủ chiên của dân Chúa (Ez 34,23t), Chúa Giêsu mới là chủ chiên thật, hiền lành thí mạng sống cho cả Đavid nữa. Rồi đây, người ta sẽ thấy Đấng là con Đavid sẽ trở lại ngày phán xét (Xh 22,16).

Như vậy, vấn đề được Chúa đặt ra ngày hôm nay là “Chính vua Đavid gọi Đấng Kitô là Chúa thượng thì do đâu Đấng Kitô lại còn là con vua ấy được ?” (Mc 12,37). Thật là một câu hỏi dễ trả lời nếu như người ta tin nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa nhưng điều này những người Do Thái chưa thể vươn tới. Chính vì thế mà họ không tìm ra được câu trả lời.

  1. Còn chúng ta, chúng ta đã biết và tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Uớc gì niềm tin của chúng ta luôn vững mạnh để chúng ta biết sống thật can đảm trên con đường đi theo Ngài.

Ngày quân đội Liên Xô tràn vào chiếm thủ đô Hungary, một viên sĩ quan trẻ dáng vẻ hung hãn đầy tự đắc của kẻ chiến thắng đã đến gặp vị mục sư.

Viên sĩ quan chỉ cây Thánh Giá treo trên tường và nói:

– Ông biết không ? Cái đó là sự dối trá do các mục sư bày ra để làm mê hoặc đám dân nghèo, giúp cho những kẻ giàu dễ dàng kìm hãm họ trong cảnh ngu dốt. Bấy giờ chỉ có ông với tôi. Ông hãy thú nhận với tôi rằng, ông không hề bao giờ tin ông Giêsu là Con Thiên Chúa.

Vị mục sư cười và trả lời:

– Ông bạn ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật.

Viên sĩ quan quát lớn:

– Ông đừng có lừa dối tôi, cũng đừng diễu cợt tôi!

Nói thế rồi anh ta rút súng ra chĩa vào vị mục sư và hăm dọa:

– Nếu ông không nhận rằng, đó chỉ là sự dối trá, thì tôi bắn ông!

Vị mục sư điềm tĩnh trả lại:

– Tôi không thể nói như vậy, vì không đúng. Đức Giêsu thật là Con Thiên Chúa.

Nghe thế, viên sĩ quan liền bỏ khẩu súng xuống sàn nhà, chạy lại ôm chầm lấy vị mục sư vừa khóc vừa nói:

– Đúng thế, đúng thế! Tôi cũng tin như vậy. Nhưng tôi không thể tin rằng, có người dám chết vì đức tin, cho tới khi chính tôi khám phá ra điều này. Tôi xin cám ơn ngài. Ngài đã củng cố lòng tin của tôi. Ngài đã chứng minh cho tôi thấy rằng, vẫn có người dám chết cho Đức Kitô.

Lạy Chúa Giêsu, con đã nhận Ngài là Chúa của con. Con đã được học, được nghe, được người ta thuyết giảng rất nhiều về Ngài. Xin cho con đừng bao giờ dừng lại ở những giáo thuyết, những diễn tả bằng ngôn từ, nhưng mỗi ngày biết khám phá ra khuôn mặt sống động của Chúa cũng như sự mới lạ qua Lời Ngài trong cuộc sống chúng con đang sống hôm nay. (Hosanna).

THỨ BẢY TUẦN 9 THƯỜNG NIÊN

Lời Chúa: Mc 12, 38-44

Khi ấy, Chúa Giêsu nói cùng dân chúng trong khi giảng dạy rằng: “Các ngươi hãy coi chừng bọn luật sĩ. Họ thích đi lại trong bộ áo thụng, ưa được bái chào ngoài công trường, chiếm những ghế nhất trong hội đường và trong đám tiệc. Họ giả bộ đọc những kinh dài để nuốt hết tài sản của các bà goá: Họ sẽ bị kết án nghiêm nhặt hơn”.

Chúa Giêsu ngồi đối diện với hòm tiền, quan sát dân chúng bỏ tiền vào hòm, và có lắm người giàu bỏ nhiều tiền.

Chợt có một bà goá nghèo đến bỏ hai đồng tiền là một phần tư xu. Người liền gọi các môn đệ và bảo: “Thầy nói thật với các con: Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bá goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết. Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống”.

Suy Niệm 1: Tất cả những gì bà có

Suy niệm:

Bài Tin Mừng hôm nay đặt bên nhau hai hình ảnh trái ngược.

Một bên là các kinh sư, một bên là một bà góa.

Chúng ta được mời gọi nhìn cách hành xử bên ngoài của họ,

từ đó thấy được thái độ nội tâm của mỗi bên.

Các kinh sư thuộc về giới lãnh đạo cấp cao của Do-thái giáo.

Trong một xã hội được chi phối toàn diện bởi Luật Môsê,

thì những người giỏi Luật như các kinh sư đóng vai trò rất quan trọng.

Họ có nhiều uy tín và ảnh hưởng trên đời sống tinh thần của dân.

Chính vì thế không lạ gì nếu có một số kinh sư đã vấp ngã.

Một người vừa có tri thức, vừa có quyền lực, dễ bị vấp vào thói háo danh.

Đức Giêsu nêu lên một vài nét chấm phá về họ.

Trong hội đường, nơi công cộng hay đám tiệc,

họ thích mặc áo thụng, thích được chào, thích chỗ cao.

Nói chung, họ thích mình trở nên trung tâm chú ý của người khác.

Hiểu biết của họ về Lời Chúa sau bao năm học tập

lại trở nên phương tiện để họ tìm vinh danh cho mình thay vì cho Chúa.

Tệ hơn nữa, họ lại mang bộ mặt đạo đức khi giả vờ đọc kinh dài.

Với uy tín và sự giả hình khéo léo, họ nuốt chửng nhà của các bà góa.

Ngược với hình ảnh của một vị kinh sư cao trọng, quyền uy

là chuyện một bà góa nghèo bỏ tiền vào hòm dâng cúng.

Đức Giêsu cố ý ngồi gần để quan sát người giàu kẻ nghèo bỏ tiền.

Ngài muốn dạy các môn đệ một bài học lớn khi gọi họ lại

và khẳng định rằng bà góa này đã bỏ nhiều hơn mọi người khác,

mặc dù bà chỉ bỏ vào thùng số tiền rất nhỏ.

Nhưng cái rất nhỏ này lại là tất cả những gì bà có, tất cả của nuôi thân.

Hẳn các môn đệ ngỡ ngàng vì cách đánh giá ấy của Thầy,

cũng là cách đánh giá con người của Thiên Chúa.

Ngài đánh giá theo tấm lòng, chứ không theo lễ vật.

Ngài không mãn nguyện với của dư thừa, nhưng Ngài đòi tất cả.

Tất cả của bà góa là hai đồng kẽm, thuộc đơn vị tiền tệ thấp nhất.

Hóa ra người túng thiếu cũng có thể dâng chính cái nghèo của mình.

Một kinh sư có học thức, có vai vế và bề ngoài có vẻ đạo đức

khác với bà góa cô thân cô thế và túng nghèo,

ở chỗ ông quay vào mình, loay hoay với tiếng tăm và lợi nhuận của mình.

Còn bà thì quay về phía Thiên Chúa,

với thái độ quảng đại, tin tưởng, phó thác và liều lĩnh.

Chúng ta ai cũng có hai đồng kẽm.

Đừng mặc cảm khi phải bỏ đồng tiền nhỏ nhoi vào hòm tiền,

nếu quả thực chúng ta chỉ có hai đồng kẽm.

Lời nguyện:

Lạy Chúa,

xin cho con quả tim của Chúa.

Xin cho con đừng khép lại trên chính mình,

nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa

vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường

để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.

Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen,

mọi trả thù ti tiện.

Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,

không một biến cố nào làm xáo trộn,

không một đam mê nào khuấy động hồn con.

Xin cho con đừng quá vui khi thành công,

cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.

Xin cho quả tim con đủ lớn

để yêu người con không ưa.

Xin cho vòng tay con luôn rộng mở

để có thể ôm cả những người thù ghét con.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Suy Niệm 2: Thẩm phán chí công

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúa “ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao”. Và Chúa phán xét: “Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết”. Chúa không nhìn bề ngoài. Nhưng nhìn trong tâm hồn. Chúa phê phán những người sống bề ngoài nhưng không có nội tâm. “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng…Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn”.

Chúa vẫn luôn quan sát đời sống chúng ta. Và sẽ thưởng phạt đúng với công việc. Tổng lãnh Thiên thần Ra-pha-en đã cho Tô-bít biết điều đó. “Hãy biết rằng khi ông và cô Xa-ra cầu nguyện, chính tôi đã tiến dâng những lời cầu nguyện đó lên trước nhan vinh hiển của Đức Chúa, để xin Chúa nhớ đến hai người; tôi cũng làm như vậy khi ông chôn cất người chết. Và khi ông không ngại trỗi dậy, bỏ dở bữa ăn để đi chôn cất người chết, bấy giờ tôi được sai đến bên ông để thử thách ông. Thiên Chúa cũng sai tôi chữa lành cho ông và cô Xa-ra, con dâu ông”. Sở dĩ Tô-bít và Xa-ra được Chúa thương như vậy. vì họ sống chân thật, nghèo khổ mà vẫn bố thí. Khó khăn mà vẫn cầu nguyện. Như Ra-pha-en cho biết: “Cầu nguyện kèm theo đời sống chân thật, bố thì đi đôi với đời sống công chính, thì tốt hơn có của mà ở bất công; làm phúc bố thí thì đẹp hơn là tích trữ vàng bạc” (năm lẻ).

Nhưng quan trọng hơn Chúa là Thẩm Phán chí công ở đời sau. Đời sau mới quyết định số phận vĩnh cửu. Hạnh phúc đích thực. Vì thế thánh Phao-lô chấp nhận chịu thiệt thòi, mất mát, kể cả hi sinh mạng sống, để được Chúa thưởng ở đời sau: “Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi… Giờ đây, tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy”. Và thánh nhân khuyên nhủ người con Ti-mô-thê-ô cũng hãy kiên trì phục vụ Chúa như ngài. Để cũng được thưởng như ngài: “Trước mặt Thiên Chúa và Đức Ki-tô Giê-su, Đấng sẽ phán xét kẻ sống và kẻ chết, Đấng sẽ xuất hiện và nắm vương quyền, tôi tha thiết khuyên anh: hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (năm chẵn).

Hãy luôn sống trước Nhan Chúa, dưới ánh mắt của Chúa. Chúa thấu suốt tâm hồn. Sẽ thưởng phạt chính xác. Đời này không có công lý. Ta chấp nhận thiệt thòi vì Chúa. Rồi Chúa sẽ trả lại cho ta.

Suy Niệm 3: Tín thác vào Chúa

Một văn sĩ Mỹ kể lại giai thoại như sau:

Hôm đó là Chúa Nhật, ông đi tham dự buổi nói chuyện của một nhà truyền giáo. Nhà truyền giáo nói năng rất hùng hồn, những nỗi thống khổ của người dân bản xứ mà nhà truyền giáo kể lại đã khiến cử tọa cảm động sâu xa. Văn sĩ kể về mình thế này: Khi nhà truyền giáo kêu gọi sự giúp đỡ, tôi định bỏ vào giỏ một đôla; nhưng giọng nói của ông cảm động đến độ tôi định tăng lên năm đôla, và ngay cả ký một chi phiếu. Thế rồi, nhà truyền giáo tiếp tục phóng đại nỗi thống khổ của người bản xứ; ông cứ nói mãi, nói mãi, đến nỗi mọi người không còn muốn nghe nữa. Tự nhiên tôi có ý định rút lại việc ký ngân phiếu, rồi từ từ giảm xuống năm rồi còn một đôla, và cuối cùng khi nhà truyền giáo chấm dứt bài thuyết trình và cái giỏ tiền được chuyền đến tay tôi, thì tôi chỉ bỏ vào đó có mười xu.

Giai thoại trên đây có thể gợi cho chúng ta thái độ cầu nguyện của các luật sĩ và biệt phái mà Chúa Giêsu đã không ngừng lên án. Họ nới rộng thẻ kinh và làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Thái độ cầu nguyện này phát xuất từ một quan niệm có tính cách bùa chú về Thiên Chúa. Họ tưởng rằng Thiên Chúa là một vị Thần mà người ta có thể hối lộ hoặc kích thích lòng quảng đại bằng những việc đạo đức của họ. Họ áp dụng cho Thiên Chúa sự tính toán hơn thiệt dựa trên sự công bình: có vay có trả, có qua có lại của con người. Chính quan niệm ấy đã khiến nhiều người xem sự giàu sang phú quý là một chúc lành của Thiên Chúa, còn tai họa rủi ro là một trừng phạt vì tội lỗi; từ đó người ta tự phụ về những công đức của mình và khinh bỉ những người nghèo hèn và những người tội lỗi.

Chúa Giêsu đến để mạc khải cho con người một Thiên Chúa khác biệt. Thiên Chúa của Chúa Giêsu là Thiên Chúa yêu thương mọi người, ngay cả và nhất là những người kém may mắn nhất trong xã hội. Thiên Chúa của Chúa Giêsu là Thiên Chúa mà người ta không thể giới hạn vào một số công thức bùa chú. Thiên Chúa mà lòng quảng đại vượt trên mọi tính toán cân lường của con người.

Mạc khải cho chúng ta một Thiên Chúa như thế, Chúa Giêsu muốn chỉ cho chúng ta một thái độ đúng đắn phải có, đó là lòng tín thác tuyệt đối vào tình yêu của Thiên Chúa. Lòng tín thác ấy luôn luôn mời gọi chúng ta nhìn vào mọi biến cố cuộc sống với tất cả tin tưởng lạc quan. Khi có một cánh cửa nào đó trong căn nhà của cuộc sống chúng ta bị đóng lại, thì Thiên Chúa lại mở ra những cánh cửa khác. Thiên Chúa không bao giờ bỏ cuộc và bỏ rơi chúng ta; ngay cả khi đứng trước tội lỗi chúng ta, Ngài cũng không thất vọng, nhưng vẫn luôn luôn tìm một lối thoát tốt đẹp hơn cho chúng ta.

Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu không thể đo lường, tính toán. Xin cho từng tâm tư và suy nghĩ của chúng ta là một lời tri ân cảm tạ Chúa vì xác tín rằng bàn tay quan phòng của Chúa đang làm những điều kỳ diệu cho chúng ta.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Suy Niệm 4: Những đồng xu nhỏ của bà góa nghèo

Đức Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho đền thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao. Có lắm người giầu bỏ thật nhiều tiền. Cũng có một bà góa nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng bạc Rô-ma. Đức Giêsu liền gọi các môn đệ lại và nói: “Thầy bảo thật anh em: bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết.” (Mc. 12, 41-43)

Chính sau khi đã nặng lời chỉ trích các ông kinh sư luật sĩ vì họ kiêu ngạo và bất công, mà Chúa Giêsu tán dương lòng quảng đại của một bà góa nghèo. Rõ ràng là ý Chúa muốn dùng câu chuyện nhỏ này để tạo nên một nét tương phản hùng hồn với tính phô trương giả hình của các kinh sư, luật sĩ. Tuy nhiên sẽ là lầm lạc khi đưa ra kết luận rằng, trong tâm trí của Đức Kitô, những người nghèo nhất thiết là những người quảng đại, còn những người giầu có thì không thiếu những kẻ bủn xỉn; ta có thể đưa ra biết bao nhiêu gương tốt xấu về phía này cũng như về phía kia. Người ta không phân chia thế giới thành hai loại người: những người nghèo tốt và những kẻ giầu xấu; xác định lập trường quá đơn giản như vậy quả là một sự trái lẽ và nếu ta lại gán cho Chúa cũng có lập trường như vậy thì quá bất công.

Những kẻ bênh vực cho cảnh bần hàn đã hoài công xử dụng những lý chứng trên đây. Giả như có ai cho họ nhiều đồ, thì họ vẫn cứ thích nhận, hơn là nhận món quà ít oi bé nhỏ của những người túng thiếu, mặc dầu họ đã rào trước đón sau khi nói với bạn rằng của cho không quan trọng cho bằng tấm lòng người cho. Dầu sao, ai mà không cảm động khi thấy một người nghèo đã chắt chiu bòn hết tiền nhà để nâng đỡ một người khốn khổ hơn mình..

Đàng sau cái dư thừa  

Vượt qua bức tường của cái dư thừa, khó hơn là vượt qua bức tường âm thanh. Khi cho cái bạn thừa rồi, cái bạn không cần đến, bạn vẫn được xếp vào hàng người lương thiện; Chắc hẳn, người ta không thể trách móc bạn điều gì, nhưng bạn đừng hy vọng người ta khen bạn. Bạn chỉ bước vào lãnh vực của tình yêu, chỉ chiếm được con tim khi bạn đi xa hơn, khi cho cái thiết thân của bạn, khi cho chính bản thân mình, khi bạn dấn thân. Vì thế bạn có nhiều hay chẳng có gì, điều ấy chẳng mấy quan trọng; điều quan trọng là bạn có một trái tim biết yêu.

Điều Chúa Giêsu lặp đi lặp lại cho chúng ta bằng vô vàn thí dụ, chính là Nước Trời là của những ai hiến mạng sống mình cho tha nhân, chứ không phải là của những ai quăng đi những miếng bánh thừa.

Khi đạt tới việc chia sẻ cái cần thiết, con người không còn phân chia thành kẻ giầu, người nghèo nữa; họ bình đẳng với nhau. Thực ra những trái tim của con người, tim nào cũng đập, chỉ có môi trường là thay đổi thôi. Khi trần trụi, đó chính là lúc con người tỏ ra ích kỷ hay quảng đại đấy.

Suy Niệm 5: ĐÂU LÀ GIÀU TRƯỚC MẶT THIÊN CHÚA? (Mc 12, 38-44)

Sống giả hình trong sự hào nhoáng bề ngoài là thứ mà con người luôn sử dụng và không ngừng trang điểm cho nó. Bởi xuất phát từ lối suy nghĩ rằng: nhờ những chuyện hình thức bên ngoài, nó sẽ che lấp sự xấu xa bên trong. Tuy nhiên, đây chỉ là điều vô lý và hão huyền khi đối diện với những chân lý Tin Mừng.

Hôm nay thánh Máccô trình thuật việc được Đức Giêsu vạch trần sự giả tạo của những Kinh Sư khi kể cho họ nghe câu chuyện lên đền thờ cầu nguyện.

Những người Kinh Sư luôn coi họ là người đạo đức, thánh thiện hơn mọi người khác. Sự tốt lành của họ được biểu hiện qua việc: nới rộng thẻ kinh và làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Không những thế, họ còn mong muốn người ta thưởng cho mình những tiếng tốt và kính trọng khi đi ra đường bằng việc chào hỏi nơi công cộng…

Như thế, đối tượng bị họ khinh bỉ chính là người nghèo và tội lỗi… Thế nhưng, Đức Giêsu đã chỉnh sửa quan niệm sai lầm đó bằng việc khen ngợi một bà góa nghèo bỏ có hai xu vào đền thờ. Trong khi đó chê bác việc người giàu bỏ nhiều tiền nhưng lại là tiền dư thừa của họ chứ không phải như bà góa bỏ trọn vẹn những gì bà có.

Trong xã hội hôm nay, người giàu thường được tôn trọng. Chân lý thuộc về kẻ có quyền, có tiền. Người nghèo luôn nắm phần thua thiệt! Tuy nhiên, trước mặt Thiên Chúa thì hoàn toàn khác. Người giàu trước mặt Thiên Chúa là sự khiêm nhường thẳm sâu. Kẻ nghèo chính là người kiêu ngạo.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết sống đạo thực tâm. Luôn có một cái tâm sáng, để những việc làm của mình được trong sạch. Cần có một kinh nghiệm về tình yêu của Thiên Chúa, đồng thời sống trong tình yêu đó nơi những mối tương quan thì tốt hơn là những hình thức phô trương bên ngoài.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con biết yêu mến Chúa bằng tình yêu chân thành. Xin cho chúng con biết sống đạo với tâm hồn đơn sơ, tin tưởng, phó thác và yêu mến thay cho những sự giả tạo, man trá bề ngoài. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 6: Thiên Chúa đánh giá

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Thiên Chúa khoan nhân đánh giá chính tấm lòng mỗi người. Giá trị của việc làm không tùy thuộc số lượng nhiều hay ít, nhưng tùy thuộc tấm lòng thành.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, loài người ai cũng muốn được tiếng khen. Tiếng khen như một lời động viên, tiếp sức cho con cố gắng. Điều đó tự nó là tốt. Tuy thế, nếu làm việc chỉ vì tiếng khen, thì việc đó trước mắt Chúa là vô giá trị.

Chúa khen người đàn bà góa nghèo khó đã dâng cúng vào đền thờ nhiều hơn hết mọi người vì Chúa nhìn thấy tấm lòng thành của bà. Bà được khen không phải vì bà bỏ nhiều tiền, cũng không phải vì bà nghèo. Bà được khen vì bà gói được trọn tấm lòng của bà trong món quà nhỏ bé đó mà dâng cho Chúa. Chúa khen tấm lòng của bà. Những người trước đó không được Chúa khen vì tấm lòng của họ dâng Chúa được ít lắm. Họ chưa sống hết lòng vì Chúa và cho Chúa.

Lạy Chúa, con biết rằng lạm dụng việc lành phúc đức để cầu danh chính là xử bất công với Chúa. Xét lại bản thân con có thể đôi lần làm việc chỉ vì mua danh cho mình. Rất nhiều khi con làm việc vừa vì tin mến Chúa mà cũng lại vừa vì tiếng khen. Con vẫn còn để cho lòng ham danh theo tính tự nhiên ảnh hưởng đến những việc lành phúc đức của con. Do vậy, của lễ con dâng chưa trọn vẹn là cho Chúa mà còn là cho con.

Xin Chúa thanh luyện ý hướng con. Xin cho con biết làm cả những việc tốt âm thầm, vì đó là những dịp giúp con sống trọn vẹn cho Chúa.

Xin nâng đỡ con, để con đừng nản lòng bất mãn khi một việc tốt con làm mà lại bị hiểu lầm chê bai. Amen.

Ghi nhớ : “Bà goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết”.

Suy Niệm 7: Tôn thờ Thiên Chúa với con tim chân thành

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Bà góa ở Sarépta chỉ còn một chút bột, một chút dầu để mẹ con cùng ăn một bữa ăn cuối cùng cho đỡ đói, rồi cùng nhau chấp nhận chết đói. Thế nhưng, bà đã quảng đại sẵn sàng nhường và chia phần ăn của mẹ con bà cho ngôn sứ Êlia, người của Thiên Chúa. Cử chỉ yêu thương, rộng lượng của bà đã gặp được lòng thương xót, quảng đại của Thiên Chúa. Suốt mùa hạn hán ở xứ sở, quê nhà, hũ bột của bà không bao giờ cạn và dầu trong bình nhà bà không bao giờ vơi (x. 1V 17,10-16).

Suy niệm

Ðức Giêsu đưa ra hai hình ảnh đối nghịch: Các kinh sư, biệt phái với sự mưu mô xảo quyệt được che đậy bằng một lớp vỏ bọc đạo đức bên ngoài. Bà góa nghèo với sự chân thành.

Trong xã hội Do Thái, người góa sống như những chiếc bóng giữa lòng xã hội: Yên lặng và nghèo đói. Người góa thì hay bị bóc lột, bị các kinh sư nuốt hết gia tài như Chúa Giêsu đã từng nói trong Tin Mừng Maccô (x. Mc 12,40)

Bà goá trong đoạn Tin Mừng Marcô hôm nay cũng giống như bà góa Sarépta. Bà nghèo của, nhưng giàu lòng, bà ít tiền, nhưng quảng đại. “Chỉ có hai xu” nhưng chất chứa một sự cố gắng và lòng quảng đại. Do vậy, tuy lễ vật của bà nhỏ bé nhưng được Chúa ngợi khen đó là của lễ trên hết vì bà đã bỏ hai đồng xu nhỏ là cả gia tài để bà sống và nó có giá trị hơn vàng bạc, ngọc ngà, châu báu của những người giàu có dư tiền, lắm của.

Chiêm ngưỡng thái độ và tấm lòng quảng đại của hai bà góa, tôi cùng bạn soi chiếu vào cuộc đời của mình. Các bà góa đã chân thành, đã hết mình trong tương giao với Thiên Chúa và tha nhân. Bà góa ở Sarépta đã hết lòng chia sẻ với ngôn sứ Êlia cho chúng ta thấy một hình ảnh mẫu mực về mối tương quan nhân văn với tha nhân, chúng ta có chân thành và cư xử hết mình với tha nhân hay chỉ “bánh ít đi, bánh quy lại”, hoặc chỉ giữ vẻ thân thiện bề ngoài, nhưng trong lòng chất chứa một sự tính toán thiệt hơn…, và trong mọi mối quan hệ, chúng ta chỉ đánh giá qua bề ngoài, dựa vào tiền của để xác định tiêu chuẩn ngôi thứ trong xã hội như chúng ta đã từng nghe: “Tiền là Tiên, là Phật… Tiền là hết ý” mà quên đi tính chân thành, chia sẻ mộc mạc với nhau.

Bà góa bỏ hai xu vào đền thờ gợi cho tôi và bạn suy xét lại một tương quan giữa chúng ta với Thiên Chúa: Tôn thờ Ngài với một con tim chân thành. Mỗi khi dâng lễ vật qua thánh lễ, chúng ta có đến vì lòng thành hay chỉ vì câu nệ giữ luật. Chúng ta luôn tâm niệm rằng mọi lễ vật tuy nhỏ bé, bất xứng như việc đóng góp vào nhà Chúa, xây dựng cộng đoàn, chia sẻ với người nghèo… nhưng chúng ta làm với tất cả sự chân thành, phó thác thì tấm lòng vàng đó của chúng ta sẽ gặp được lòng yêu thương vô biên của Thiên Chúa, dù thân phận thế nào, ngay cả trong thân phận bất xứng với cả tấm lòng thành, chúng ta sẽ thành của lễ vô giá.

Thật thế, mọi lễ vật dâng lên cho Thiên Chúa cũng đều xuất phát từ con tim đơn sơ, chân thành.

Ý lực sống:

“Sự chân thành như là viên kim cương được hình thành trong trái tim” (Ngạn ngữ cổ).

Suy Niệm 8: Đồng xu của bà góa nghèo

(Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Trong bài Tin mừng hôm có hai hình ảnh đối chọi nhau:

– Hình ảnh của các luật sĩ: rất cao trọng, vinh dự với áo thụng, chức quyền, được người ta bái chào, được ngồi những chỗ nhất. Thế nhưng đó chỉ là cái vỏ, che đậy bên trong là một tâm hồn kiêu căng, tham lam, ức hiếp kẻ yếu đuối.

– Hình ảnh một bà goá nghèo: nghèo tiền nhưng rất giàu lòng. Bà đã dâng số tiền nhỏ mọn với thái độ âm thầm và quảng đại. Như thế, giá trị của việc dâng cúng hay bất cứ việc gì khác không tuỳ thuộc số lượng, hay kết quả bên ngoài, nhưng hệ tại ở lòng thành và cách sống của mỗi người.

  1. Hôm ấy Chúa Giêsu cùng với các môn đệ vào đền thờ Giêrusalem, và ngồi nghỉ chân ở khu vực dành cho phụ nữ. Tại đây Chúa gặp một tấm lòng tốt của một góa phụ dâng cúng hai đồng Lenta vào hòm tiền đền thờ. Đồng Lenta là đồng tiền nhỏ nhất của những người nghèo thời ấy thường có. Bà ta bỏ vào hòm tiền với cả tấm lòng, vì bà đã hy sinh cả phần cuối cùng để sinh sống.

Chúa Giêsu ca tụng lòng tốt của bà, vì bà đã cho trong yêu thương. Càng cho nhiều thì là dấu càng thương yêu nhiều. Cho tất cả là dấu tình yêu thương không bờ bến. Người đàn bà goá không phải chỉ cho phần dư thừa đã dành dụm được, mà cho chính nguồn sống ít ỏi của bà. Như vậy, người đàn bà này vừa cho một cách quảng đại vừa một cách vui vẻ tận đáy lòng nữa.

  1. Một tác giả nào đó đã nói: “Trái tim không phải là một món hàng để mua bán, mà là một món quà để trao tặng”. Một trái tim không biết trao tặng là một trái tim chết.

Sự giàu có và nghèo nàn có thể phân biệt con người thành giai cấp thứ bậc. Có người tiền rừng bạc biển, có người nghèo rớt mồng tơi. Nhưng mỗi người chỉ có một quả tim, và quả tim đó lẽ ra phải giống nhau, bởi vì người ta không thể cần lường được quả tim. Do đó, quà tặng xuất phát từ quả tim đều vô giá. Giá trị của món quà không hệ tại ở số lượng tiền của, mà ở quả tim được gói ghém trong món quà. Chúa Giêsu hôm nay đã nhìn thấy quả tim mà bà goá đã gói ghém trong món quà ấy.

  1. Người Kitô hữu được tham dự chức tư tế vương giả của Đức Kitô, và cung cách vương giả của Đức Kitô chính là lòng quảng đại, biểu hiệu một tâm hồn liên kết với tình yêu Thiên Chúa.

Hôm nay Đức Giêsu dạy một điều rất lạ mà rất hay: có khi nhiều mà là ít, như số tiền dư thừa mà những người giàu có bỏ ra; có khi ít mà là nhiều, như một phần tư xu của bà goá nghèo. Nhiều không phải ở của bỏ ra mà là ở tấm lòng và hy sinh.

  1. Câu chuyện Tin mừng hôm nay cho ta biết: lòng yêu thương có giá trị cao là do tấm lòng, chứ không phải là hình thức bên ngoài. Giá trị của đồ vật trao tặng không quí bằng tấm lòng, tức là giá trị của quà tặng không tùy thuộc ở số lượng của vật chất, mà chính là tấm lòng của con người. Hiểu như thế chúng ta mới thấy dù nghèo hèn đến đâu, ai cũng có một cái gì đó để trao ban: một nụ cười nhân ái, một lời nói cảm thông, một cử chỉ tha thứ, một chút quà nhỏ chia sẻ… đều có giá trị to lớn trước Thiên Chúa và trong tình yêu thương đối với nhau.
  2. Truyện: Vật khinh nhưng hình trọng

Tổng thống Wilson Hoa Kỳ người đã đưa nước Mỹ can thiệp vào thế chiến thứ nhất, và là người rất trân trọng đối với những kỷ niệm nhỏ bé của mình.

Một lần kia, ông và phu nhân cùng nhiều nhân vật cao cấp trong chính phủ dừng lại tại một thành phố tiểu bang Montana. Cảnh sát làm hàng rào không cho bất cứ ai đến gần vị tổng thống. Thế nhưng không hiểu thế nào mà có hai cậu bé đã chui lọt hàng rào, để đến gần chỗ ngồi của tổng thống. Hai cậu bé ngắm nhìn một cách say sưa vị nguyên thuỷ quốc gia.

Một cậu đã tặng cho ông lá cờ nhỏ bé của nước Mỹ đang cầm trong tay. Cảnh sát cố tình ngăn cản, nhưng bà Wilson, phu nhân của tổng thống đã đưa tay đón lấy lá cờ và nhiệt tình cám ơn em. Cậu bé kia cảm thấy buồn vì không có gì dâng tặng tổng thống. Em cố moi trong túi quần và cuối cùng lôi ra được một đồng xu nhỏ, em sung sướng vô cùng, vì chính tổng thống đã chìa tay đón nhận món quà của em.

Năm năm sau, tổng thống Wilson qua đời. Khi bà Wilson xếp lại các đồ quen thuộc của chồng, mở chiếc ví, bà nhận ra ngay đồng xu nhỏ mà cậu bé đã tặng chồng bà cách đây 5 năm. Ông Wilson quí đồng xu nhỏ ấy đến độ đi đâu ông cũng mang nó trong mình.

print