Các Bài Suy Niệm Từ 26-31/12

print

Các Bài Suy Niệm Từ 26-31/12

 

Ngày 26/12 – Lễ Thánh Stêphanô Tử Ðạo.

Ngày 27/12 – Lễ Thánh Gioan Tông Ðồ.

Ngày 28/12 – Lễ kính các Thánh Anh Hài

Ngày 29/12 – Tuần Bát Nhật Giáng Sinh (Lc 2, 22-35)

Ngày 30/12 – Tuần Bát Nhật Giáng Sinh (Lc 2, 36-40)

Ngày 31/12 – Tuần Bát Nhật Giáng Sinh (Ga 1,1-18)

 

Ngày 26/12 – Lễ Thánh Stêphanô Tử Ðạo

 

LỜI CHÚA: Mt 10,17-22

Ngày ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng:

“Chúng con hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp chúng con cho công nghị, họ sẽ đánh đòn chúng con nơi hội đường. Vì Ta, chúng con sẽ bị điệu đến trước vua quan, để làm chứng trước mặt họ và các dân.

Nhưng khi người ta nộp chúng con, chúng con chớ lo lắng phải nói sao và nói gì, vì không phải chúng con nói, nhưng là Thánh Thần của Chúa Cha chúng con sẽ nói thay cho.

Anh sẽ nộp em cho người ta giết, cha sẽ nộp con, con cái chống đối cha mẹ và làm cha mẹ phải chết.

Vì Ta, chúng con sẽ bị mọi người ghét bỏ, nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, sẽ được cứu rỗi.

 

Suy niệm 1: Xin nhận lấy hồn con

Giáo Hội mừng kính lễ thánh Têphanô vào ngay sau lễ Giáng Sinh.

Ngài đã chết như chứng nhân đầu tiên cho Chúa Giêsu.

Người làm chứng đã trở thành người tử đạo.

Stêphanô là một phó tế đầy đức tin và Thánh Thần (Cv 6, 5),

đầy ân sủng và quyền năng, làm được những điềm thiêng dấu lạ (c. 8).

Ông gặp sự chống đối từ một số người Do Thái gốc Hy Lạp (c. 9).

Nhưng họ không địch nổi sự khôn ngoan và Thần Khí nơi ông.

Ông đã bị bắt, bị đem ra xử trước Thượng Hội Đồng (c. 12).

Stêphanô đã giảng một bài dài về dòng lịch sử cứu độ (Cv 7).

Chính bài giảng này đã khiến họ tức điên lên chống lại ông.

Khi đứng trước Thượng Hội Đồng Do Thái giáo,

khuôn mặt của Stêphanô giống như thiên thần (Lc 6, 15).

Ông nhìn lên trời, thấy trời mở ra và thấy vinh quang Thiên Chúa.

Nhưng hình tượng quan trọng ông thấy là Đức Giêsu.

Ngài đang đứng ở bên hữu Thiên Chúa, ở vị trí danh dự (c. 56).

Ông đã tuyên xưng trước mặt mọi người điều mình vừa thấy.

“Tôi thấy Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa. ”

Stêphanô gọi Đức Giêsu là Con Người,

một lối nói Đức Giêsu vẫn hay dùng để nói về bản thân.

Tuyên xưng của ông bị coi là xúc phạm đến Thiên Chúa.

Những người nghe đã xông vào, lôi ông đi và ném đá ông ở ngoài thành.

Stêphanô bị ném đá vì tội nói phạm thượng (cc. 57-58).

Thật ra ông đã chỉ làm chứng về Đấng Công Chính là Đức Giêsu (c. 52).

Cái chết tử đạo của Stêphanô được thánh Luca kể lại

với những nét giống với cái chết trước đó của Đức Giêsu.

Cái chết của ông là cái chết an hòa và bao dung.

Như Đức Giêsu trên thập giá, ông chết khi ông đang cầu nguyện.

Đức Giêsu đã kêu lên Thiên Chúa, Đấng mà Ngài âu yếm gọi là Cha:

“Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23, 46).

Khi cận kề với cái chết, Stêphanô cũng cầu xin với Đấng ông vừa thấy:

“Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con” (c. 59).

Ông gọi Đức Giêsu phục sinh là Chúa và ông trao đời ông cho Ngài,

như Ngài đã trao đời Ngài trong Cha.

Như Đức Giêsu, Stêphanô đã kêu một tiếng lớn trước khi chết,

Ông chết trong tư thế quỳ, đống đá đè trên người ông và vùi lấp ông.

Ông chết trong tư thế cầu nguyện cho kẻ giết mình.

“Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này” (c. 60).

Bầu khí xử án Stêphanô là bầu khí của Ba Ngôi.

Có sự hiện diện của Thiên Chúa, của Chúa Giêsu và Thánh Thần.

Thánh Thần giúp chúng ta làm chứng về Chúa Giêsu cho thế giới.

Ơn gọi Kitô hữu bao giờ cũng đòi chúng ta lội ngược dòng.

Ngược dòng với thế gian, với những cám dỗ đến từ chính lòng mình.

Không chỉ trao linh hồn ta vào tay Chúa lúc ta gần chết,

chúng ta phải trao đời ta vào mỗi buổi sáng và trong suốt hôm nay.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu, nhiều bạn trẻ đã không ngần ngại

chọn những cầu thủ bóng đá, những tài tử điện ảnh

làm thần tượng cho đời mình.

Hôm nay Chúa cũng muốn biết chúng con chọn ai,

và chúng con thật sự đắn đo trước khi chọn Chúa.

Bởi chúng con biết rằng chọn Chúa là lội ngược dòng,

theo Chúa là bước vào con đường hẹp:

con đường nghèo khó và khiêm nhu,

con đường từ bỏ và phục vụ.

Hôm nay, chúng con chọn Chúa

không phải vì Chúa giàu có, tài năng hay nổi tiếng,

nhưng vì Chúa là Thiên Chúa làm người.

Chẳng ai đáng chúng con yêu mến bằng Chúa.

Chẳng ai hoàn hảo như Chúa.

Ước gì chúng con can đảm chọn Chúa nhiều lần trong ngày,

qua những chọn lựa nhỏ bé,

để Chúa chiếm lấy toàn bộ cuộc sống chúng con,

và để chúng con thông hiệp vào toàn bộ cuộc sống của Chúa. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

 

Suy Niệm 2: TRIỀU THIÊN

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Tê-pha-nô là triều thiên. Ngài là triều thiên của người môn đệ. Được vinh dự tôn kính ngay sau ngày lễ Chúa Giáng Sinh. Không chỉ vì là vị tử đạo đầu tiên trong Hội Thánh. Nhưng còn vì ngài nên giống Chúa Giê-su. Nên một với Chúa Giê-su. Và vì thế trở thành vị chứng nhân cho Nước Trời.

Tê-pha-nô là triều thiên của người môn đệ. Vì ngài theo sát Chúa Giê-su. Hoàn toàn từ bỏ mình. Vác thánh giá mình mà theo Chúa. Như Chúa truyền dạy. Ngài kết hợp mật thiết với Chúa. Và nhất là đã đồng hoá với Chúa. Chịu chết như Chúa. Và trong giờ chết ngài ăn nói cư xử y hệt Chúa. Như Chúa ngài phó thác linh hồn khi kêu lên: “Lạy Chúa Giê-su, xin nhận lấy hồn con”. Như Chúa ngài xin tha thứ cho kẻ giết mình: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này”. Phải kết hợp chặt chẽ với Chúa Giê-su nên trong giờ phút nguy nan nhất lời nói và hành động bộc phát ra như trong lòng đã ấp ủ sâu xa.

Tê-pha-nô là triều thiên của các chứng nhân. Vì ngài không chỉ làm chứng bằng lời nói. Nhưng còn bằng chính đời sống. Ngay lúc bị xử tử ngài làm chứng rằng: “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và con Người đứng bên hữu Thiên Chúa”. Thật là một bằng chứng hùng hồn. Chân thực và sống động. Ngài chẳng màng gì đến thân xác trần gian đang bị hành hạ đau đớn. Ngài chỉ hướng về trời. “Ông đăm đăm nhìn trời”. Và thấy vinh quang Thiên Chúa đã làm quên đi những đau khổ đang hành hạ. Đó là bằng chứng trung thực nhất.

Ngài đã thực hiện đúng lời Chúa: “Anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho các dân ngoại”. Và còn hơn nữa: “Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì: thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em”. Quả thật, Tê-pha-nô đầy tràn Thánh Thần nên “họ không địch nổi lời lẽ khôn ngoan mà Thần Khí đã ban cho ông”.

Ngài quả thật là triều thiên của Chúa ban cho nhân loại. Xin triều thiên ngài chiếu sáng tâm hồn con. Để con được trở nên môn đệ đích thực. Và làm chứng cho Nước Trời trong thế giới tục hoá ngày càng mạnh này.

 

Suy Niệm 3: Cuộc Tử Ðạo Tiên Khởi Của Thánh Stêphanô

Hôm nay lễ kính thánh Stêphanô, vị tử đạo tiên khởi của Giáo Hội. Giữa bầu khí an bình hân hoan của Mùa Giáng Sinh mà mừng kính một vị tử đạo thì xem ra không bình thường, vì sự tử đạo thường gợi lên máu đào và chết chóc. Nhưng chắc chắn Giáo Hội đã có một lý do rất đặc biệt để mừng lễ của vị tử đạo tiên khởi này vào ngay sau Lễ Giáng Sinh.

Trong lá thư gởi cho các thiếu nhi khắp thế giới được ký vào ngày 3/10/1995, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II xem ra muốn giải thích cho chúng ta cái lý do sâu xa ấy. Ngài viết cho các em thiếu như nhi sau: “Những ngày tiếp theo ngày sinh của Chúa Giêsu cũng là đến ngày lễ theo truyền thống của Cựu Ước, tám ngày sau đó Hài Nhi đã được đặt tên, tên của Ngài là Giêsu”.

Sau bốn mươi ngày chúng ta tưởng niệm việc Ngài được dâng hiến trong đền thờ giống như bất cứ đứa con trai đầu lòng nào của Israel. Trong dịp này, một cuộc gặp gỡ phi thường đã diễn ra, vừa cùng với Hài Nhi đến trong đền thờ, Mẹ Maria đã gặp cụ già Simêon. Cụ đã bồng Hài Nhi Giêsu trên tay và tiên báo như sau: “Lạy Chúa, giờ đây xin để tôi tớ Chúa được ra đi bình an theo như lời Chúa hứa, vì chính tôi tớ Chúa đã thấy ơn cứu độ mà Ngài đã chuẩn bị trước mặt muôn dân. Ðó là ánh sáng soi cho dân ngoại, là vinh quang của Israel dân Ngài”. Sau đó ông nói với Mẹ Maria: “Con Trẻ này sẽ là duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy, Con Trẻ là dấu hiệu bị người đời chống đối, và chính là một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Bà. Ngõ hầu những ý nghĩ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra”.

Như vậy, ngay từ những ngày đầu của cuộc đời Chúa Giêsu, chúng ta đã nghe được lời tiên báo về cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, và cũng ám chỉ đến cuộc tử đạo của Maria, Mẹ Ngài. Ngày thứ Sáu Tuần Thánh, Mẹ sẽ đứng thinh lặng bên Thập Giá của Con Mẹ. Cũng thế, không bao lâu sau khi Chúa Giêsu được sinh hạ thì Hài Nhi Giêsu đã phải đương đầu với một mối đe dọa trầm trọng. Ông vua hung bạo Hêrôđê sẽ ra lệnh tàn sát tất cả các trẻ em dưới hai tuổi. Và vì lý do này, Chúa Giêsu sẽ phải bị bắt buộc cùng với cha mẹ trốn sang Ai Cập.

Chắc hẳn tất cả chúng con đã biết các biến cố gắn liền với việc sinh hạ của Chúa Giêsu. Cha mẹ chúng con, các linh mục, các giáo lý viên và những biến cố ấy, và cùng với toàn thể Giáo Hội, mỗi người trong chúng con sống lại một cách thiêng liêng trong biến cố ấy trong Mùa Giáng Sinh. Như vậy, chúng con đã biết những khía cạnh bi thảm trong thời thơ ấu của Chúa Giêsu.

Sống lại một cách thiêng liêng những biến cố bi thảm trong thời thơ ấu của Chúa Giêsu, đó không phải là những lời nhắn nhủ mà Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II gởi riêng cho các em thiếu nhi. Vì qua các em, Ngài cũng mời gọi tất cả mọi người sống một cách thiêng liêng cuộc tử nạn của Chúa Giêsu ngay trong chính mầu nhiệm Giáng Sinh.

Mầu nhiệm Giáng Sinh gắn liền với mầu nhiệm Tử Nạn Thập Giá của Ngài. Hài Nhi nằm trong máng cỏ nghèo hèn, cuộc tử nạn đã được báo trước, có lẽ đó là lý do tại sao ngay ngày thứ nhất của tuần bát nhật Giáng Sinh, Giáo Hội mừng kính vị thánh Tử Ðạo tiên khởi là thánh Stêphanô.

Thật thế, Tin Mừng hôm nay nhắc nhở cho chúng ta về mầu nhiệm tử nạn được tiếp diễn trong lịch sử Giáo Hội. Trong ánh sáng của mầu nhiệm Giáng Sinh. Phải chăng chúng ta không được mời gọi để nhận ra bóng đêm của mầu nhiệm tử nạn? Bóng Thánh Giá phải chăng đã không chập chờn phủ xuống trên máng cỏ của Hài Nhi Giêsu? Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ ôn lại những bi thảm trong thời thơ ấu của Ngài. Khi tưởng niệm việc tử đạo vị thánh tiên khởi của Giáo Hội, chúng ta hẳn phải được nhắc nhở về số phận ơn gọi làm Kitô hữu của chúng ta, đó là bước theo Chúa Giêsu qua từng giai đoạn của cuộc sống Ngài, và như Ngài, như vị tử đạo tiên khởi của Giáo Hội đã vạch ra cách sống kiên trung cho đến cùng trong sứ mệnh làm chứng cho Chúa.

Ước gì niềm vui Giáng Sinh củng cố chúng ta trong những cố gắng theo Chúa Giêsu, sẵn sàng đón nhận và đương đầu với những thử thách bách hại mà Thiên Chúa an bài gởi đến cho chúng ta, như Ngài đã loan báo trước: “Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người thù ghét”.

(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)

 

Suy Niệm 4: MUỐN ĐƯỢC CHÚA BÌNH AN, PHẢI ĐƯƠNG ĐẦU VỚI NHIỀU ĐỐI KHÁNG.

Chúng ta mới mừng lễ Chúa Giáng Sinh ngày hôm qua, dân Chúa tiếp tục phụ họa tiếng hát thiên thần: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,14). Lời ca này như còn đang văng vẳng bên tai, thế mà ngày hôm sau (26/12), Phó tế Stêphanô là mẫu người sống hết lòng tin theo Chúa Giêsu, thì bình an chẳng đến với ông, trái lại bị nhiều người căm phẩn, họ hùa nhau ném đá cho chết, đó là mẫu người được hưởng sự bình an Chúa Giáng Sinh ban đấy ư? Đúng thế, Chúa Giêsu đã nói với những môn đệ đi theo Ngài: “Thầy ban bình an chúng con không như thế gian ban” (Ga 14,27). Do đó, những kẻ ước mơ thứ bình an “rẻ tiền” để hưởng thụ, thì Chúa Giêsu dạy: “Đừng tưởng Ta đến đem bình an trên mặt đất, ta đến không phải đem bình an, mà là đem gươm giáo. Ta đến gây chia rẽ ngay nơi những người trong cùng một gia đình, và kẻ thù của người ta lại là người  nhà của mình” (Mt 10,34-36). Quả thật, những người Do Thái cùng gọi Thiên Chúa là Cha, cùng tôn thờ Ngài theo Luật Môsê hướng dẫn để tin vào Chúa Giêsu là Đấng cứu độ duy nhất (x Gl 3,24), thì chính những người này lại đối nghịch với ông Stêphanô, vì ông đã chia rẽ niềm tin của họ. Đó là lý do họ quyết liệt loại trừ ông khỏi mặt đất.

Chúng ta còn nhớ ngày Đức Giêsu bị xét xử, ông Philatô không muốn nhúng tay vào tội ác giết Ngài, nên ông nói với người Do Thái: “Các ông cứ đem xử theo Luật của các ông”, thì người Do Thái lại trả lời: “Chúng tôi không có phép lên án xử tử ai” (Ga 18,31). Người Do Thái trả lời cho ông Phi-la-tô như thế, là vì vào thời ấy, Do-thái đang bị đặt dưới ách thống trị Roma, quyền bính Roma không cho phép người Do Thái lên án xử tử ai, dù Luật Do Thái cho phép họ ném đá kẻ nào phạm đến Luật Môsê. Thế mà tại sao những người Do Thái lại tự quyền ném đá ông Stê-pha-nô? Thưa vì vào năm 36, tổng trấn Phi-la-tô đang cai trị miền Giu-đa, ông bị hoàng đế triệu về Roma, mãi đến năm 37 Roma mới đặt tổng trấn Marxili cai trị miền Giuđa, như thế người Do Thái lợi dụng lúc không có ai điều hành pháp luật, họ đã ném đá Stêphanô cho chết ! Sự cố này đã làm ứng nghiệm Lời Chúa Giê-su nói: “Kẻ thù là người nhà của mình” (Mt 10,36). Khi Phó tế Stêphanô bị “người nhà” ném đá, tâm tư ông giống hệt Chúa Giêsu, lúc sắp chết ông hướng tâm hồn về đồi Golgotha, chiêm ngưỡng Đức Giêsu bị treo trên thập giá, và ông bắt chước Ngài cầu nguyện cho kẻ hại mình: “Lạy Chúa Giêsu, xin đoái  nhận hồn con, và xin Chúa đừng chấp tội kẻ hại con” (Lc 23,34-46 = Cv 7,59-60). Như thế nội dung lời cầu nguyện của ông Stêphanô giống hệt nội dung lời cầu nguyện của Đức Giêsu trên thập giá, chỉ khác một điều là ông đã đảo lộn thứ tự lời cầu: Đức Giêsu thì cầu nguyện cho kẻ hại mình trước, sau đó mới phó dâng linh hồn cho Chúa Cha, xem ra như Ngài muốn yêu sách: Nếu Cha không tha tội cho kẻ hại Con, thì Con không dám dâng hồn Con cho Cha ; Còn ông còn Stêphanô, vì là phàm nhân nên cần được Thiên Chúa cứu độ mình trước, ông mới có khả năng cứu được người khác, nên ông đã cầu nguyện: Xin Chúa đón nhận lấy hồncon trước, sau đó ông mới xin Chúa tha tội cho kẻ giết ông. Chính nhờ ông Stêphanô biết cầu nguyện cho kẻ hại mình, ông đã thực hành đúng Lời Đức Giêsu đã dạy: “Hãy yêu mến thù địch và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,44). Sống như thế mới được đồng danh với Chúa Giêsu vì cùng là Con Đấng Tối Cao (x Lc 1,32 = Lc 6,35). Nhờ ông Stêphanô cầu nguyện cho những kẻ giết mình, nhất là cầu cho Saulô, kẻ ôm áo động viên những người Do Thái ném đá ông (x Cv 7,58: Bài đọc). Hiệu quả lời cầu nguyện ấy là Chúa biến “sói Saulô” thành “bồ câu Phaolô” đem Tin Mừng bình an đến cho muôn dân. Đó mới thực là phúc bình an Chúa ban cho ai biết dùng “gươm” chân lý để chiến đấu. Bởi vậy trong giờ Kinh Phụng Vụ buổi Sáng kính thánh Stêphanô, Hội Thánh đã đặt vào miệng chúng ta lời Thánh vịnh: “Thanh gươm hai lưỡi (Lời Chúa) cầm chắc trong tay, để trả thù muôn nước và trừng trị chư dân, để xiềng chân vua chúa (kẻ ác), và xích cổ vương hầu, để thi hành án phạt, Chúa đã viết từ xưa, đó là niềm vinh dự cho những kẻ trung hiếu với Người” (Tv 149,6-9).    

Để sống niềm tin vào Chúa Kitô như ông Stêphanô, chúng ta phải cầu nguyện: “Trong tay Ngài, lạy Chúa, con xin phó thác hồn con, xin Ngài nên như núi đá cho con trú ẩn, như thành trì để cứu độ con. Xin giải thoát con khỏi tay địch thù, khỏi người bách hại con” (Tv 31/30, 3. 4. 6a. 16bc: Đáp ca).

 

Suy Niệm 5: TIN VÀO CHÚA KITÔ LÀ HY VỌNG NƠI NGÀY CÁNH CHUNG.

Trong mùa Vọng, người Kitô hữu ai cũng thích nghe lời ngôn sứ Isaia tiên báo về thời đại Thiên Chúa ra tay cứu độ loài người thoát khỏi mọi sự dữ: “Sói sống chung với chiên, trẻ con thọc tay vào hang rắn lục…” (Is 11,1-4: Bài đọc). Có nghĩa là vào thời Con Thiên Chúa làm  người, kẻ ác không còn làm hại người lành, sự thiện thắng sự dữ, hoặc kẻ ác, người lành vẫn sống chung hòa bình, nhờ Đấng Cứu Thế đến như Mục Tử chăn dắt con chiên thuộc ràn của Ngài. Thế mà Đấng ấy đã đến trần gian gần 40 năm rồi, và Ngài đã đánh gục tử thần, sống lại vinh hiển ; rồi về Trời dọn chỗ cho những kẻ đi chung đường phục vụ với Ngài (x 1Ga 2,6), và tiếp tục tuôn đổ bình an xuống cho loài người Chúa thương. Vậy tại sao Chúa lại để cho “sói Saulô” vẫn ăn thịt “chiên Stêphanô”, và rắn lục là các đầu mục Do Thái vẫn cắn chết “trẻ thơ Stê-pha-nô” ?

Thắc mắc này chỉ có thể trả lời vào ngày cánh chung, vì ngày ấy mới thấy “sói Saulô” và “chiên Stêphanô” sống chung với nhau. Khi ấy “sói Saulo” và “chiên Stêphano” có thể đùa giỡn với nhau.

Hãy hình dung:

Stêphanô vừa thấy Phaolô tới cửa Thiên Đàng, ông Stêphanô lên tiếng thưa với Chúa:

– Lạy Chúa, tên này xưa kia động viên người ta ném đá con, nay hắn lại vào đây, chắc rồi hắn sẽ lại kích động cả các thần thánh ném đá Chúa không chừng ?

Ông Phaolô cũng không vừa, ông kêu cầu tới Chúa:

– Lạy Chúa, Ngài dạy phải tha thứ cho kẻ thù mình tới 70 lần 7 mỗi ngày, thế mà anh Stêphanô này được vào Thiên Đàng trước con mà  tâm hồn vẫn còn chấp nhất tìm cách trả thù kẻ đã  hại mình kìa.

Lúc ấy, hẳn Chúa Giêsu lên tiếng can thiệp:

– Thôi mà hai anh em con đừng chọc ghẹo nhau nữa.

Thế là hai ông ôm nhau khóc bởi qua vui mừng: Nhờ Stêphanô đã cầu nguyện cho Saulô mà Chúa xuất hiện đón lấy hồn Stêphanô ; còn Saulô  được Stêphanô cầu nguyện mà ông trở nên Tông Đồ xuất sắc không thua các Tông Đồ thượng đẳng (x 2Cr 11,5), nay cùng nhau được sum họp trên Thiên Đàng hưởng phúc vinh với Chúa.

Vậy hai ông Stêphanô và Phaolô đã minh họa “sói – chiên” sống chung với nhau trong bình an vô tận với Chúa.

Linh mục Giuse Đinh Quang Thịnh

 

Suy Niệm 6: VINH DỰ LỚN LAO LÀ ĐƯỢC CHẾT VÌ CHÚA (Mt 10,17-22)

Xét theo góc độ con người thì khi chúng ta nghe bài Tin Mừng hôm nay, hẳn mỗi người cảm thấy buồn buồn! Buồn bởi vì niềm vui mừng, hân hoan của cả thế giới đón chào Chúa Giáng Sinh chưa hết, thì hôm nay, lời Đức Giêsu làm chúng ta không khỏi ngỡ ngàng cho những ai bước vào sứ mạng làm môn đệ của Đức Giêsu, Ngài phán: “Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy”.

Lời loan báo của Đức Giêsu đi ngược hẳn với các nhà lãnh đạo thế gian. Thật vậy, khi muốn chiêu mộ ai, người đời thường đưa ra những lời đường mật, an ủi, họ đưa dẫn chúng ta đi trên con đường đầy hoa thơm, và hứa hẹn những sự dễ dãi. . . cho người mà họ muốn chiêu dụ. . . Nhưng làm môn đệ của Đức Giêsu thì khác hẳn: những thử thách, đau thương và đôi khi cả chính cái chết là là những quà tặng mà người môn đệ sẽ nhận được trong cuộc đời sứ vụ của mình.

Kinh nghiệm cho thấy, trải qua biết bao thế hệ, hàng hàng, lớp lớp những môn đệ của Đức Giêsu khắp năm châu đã phải đón nhận những hệ quả tang thương đó. Tuy nhiên, những đau khổ đó không thể làm chùn chân bước của các môn đệ. Lớp này ngã xuống, lớp kia đứng lên, đến nỗi những người gây ra những tội ác đó cũng phải ngỡ ngàng và không hiểu nổi! Tuy nhiên, đối với chúng ta là những Kitô hữu, chúng ta hiểu được nguyên lý đó, vì: “Hạt lúa cuộc đời phải mục nát đi thì mới sinh được nhiều bông hạt khác”; hay “Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh ra các tín hữu”. Đây là nguyên lý bất hủ và trường tồn vĩnh viễn nơi những người con của Chúa. Vì thế, không ai và không có gì có thể dập tắt được tình yêu của những người “say men Giêsu”.

Hôm nay, phụng vụ Giáo Hội mừng kính lễ thánh Têphanô, ngài là một người can đảm, anh hùng hào kiệt. Chắc hẳn, thánh nhân đã cảm nghiệm được sâu xa nguyên lý của hạt lúa trong thân phận tự hủy. Bởi lẽ, sự hào hùng, can trường mới làm toát lên đặc tính của những người thuộc về Đức Kitô là: không bao giờ và không thể chấp nhận thỏa hiệp với sự dữ, sự tội. Vì thế, thánh nhân đã xuất sắc trong khi thi hành sứ vụ, bởi vì ngài được tình yêu Đức Kitô nung đốt tâm hồn. Thánh Têphanô xứng đáng lãnh nhận lời khen ngợi của Kinh Thánh: ngài là người “đầy lòng tin và đầy Thánh Thần”. Quả thật, ngài đã hăng say rao giảng về Đức Giêsu, và sẵn sàng đón nhận chính cái chết để làm chứng về Đấng mà mình loan báo.

Thánh Têphanô đã thay đổi thế cuộc, vì lúc ban đầu là một phiên tòa ghê rợn với bản án tử hình khủng khiếp với trò ném đá đến chết bị cáo; cảnh náo động bao trùm phiên tòa bất chính này, nhưng bị cáo hôm nay thì khác hẳn, và chính lúc mọi người thi hành án thì ngài lại cảm thấy bình an, thanh thoát, nhẹ nhàng và tràn đầy hy vọng. Khung cảnh này đã làm đảo ngược tình thế, và cáo trạng mà người ta gán ghép cho Têphanô giờ đây lại chất vấn lương tâm họ, khiến họ cảm thấy bất an và lo sợ.

Trong xã hội ngày nay, nhiều người trong chúng ta còn ái ngại, dè dặt khi loan báo về sự thật mà Giáo Huấn của Đức Giêsu cũng như Giáo Hội mời gọi. Có khi vì cảm thấy sợ hãi, liên lụy đến tính mạng mà im hơi lặng tiếng để cho qua cầu; hoặc cũng có thể rơi vào tình trạng như đức Hồng Y Thuận đã nói: họ là những hạng người: “Sợ tiếng chửi và ăn mày tiếng khen”, nên khi không có lợi cho bản thân là họ sẵn sàng trở thành kẻ nịnh thần để cho xong chuyện. . .

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta can đảm, trung thành làm chứng cho Chúa dẫu có gặp phải thử thách gian truân. Noi gương thánh Têpphanô, sống chết vì sứ vụ, miễn sao sự thật được loan báo và Đức Kitô được tin nhận.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con khi mừng kỷ niệm ngày Chúa giáng trần, thì cũng hiểu được sứ vụ của Chúa trong tương lai và trách nhiệm của người môn đệ khi bước theo Chúa trên con đường đó. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 7: Thánh Têphanô Tử đạo (Mt 10,16-22)

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1 Theo bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết: các ông sẽ bị người ta ganh ghét, bách hại. Họ sẽ tố cáo và sẽ nộp các ông cho vua quan. Có khi cả người thân trong gia đình cũng tố cáo giết hại nhau.

Đó là dịp may để các ông làm chứng cho Chúa. Lúc đó, Chúa Thấn Thần sẽ soi sáng cho các ông ăn nói khôn ngoan. Và ai bền đỗ theo Chúa đến cùng thì được cứu rỗi.

Thánh Têphanô được phúc chết vì Chúa trước hết. Như thế, Chúa muốn cho chúng ta biết: môn đệ phải gặp khó khăn  bách hại mới xứng với Thầy, sống chết như Người. . .

  1. Thánh Têphanô là một trong bảy phó tế trong Giáo hội tiên khởi. Nhiệm vụ của Ngài là quản lý tài sản của Giáo hội và thường đi thăm các tín hữu trong các hang toại đạo. Ngài là người tử đạo đầu tiên của Giáo hội Công giáo. Ngài đã đi theo đúng đường lối hy sinh anh dũng của Chúa Giêsu, và do đó,  được hưởng ơn cứu chuộc bằng chính máu đào đổ ra để minh chứng cho tình yêu.

Hôm qua chúng ta mừng kính Sinh nhật của Đấng Cứu Thế sinh ra cho trần gian. Hôm nay chúng ta lại mừng ngày sinh vào Nước Trời của thánh Têphanô vị tử đạo tiên khởi của Giáo hội đã sống một đời sống đau khổ khải hoàn, nay về trời.

  1. Bài Tin Mừng hôm nay ghi lại những lời Đức Giêsu loan báo cho các Tông đồ về những sự bách hại trên đường truyền giáo của các ông.

Câu mở đầu: “Này, Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói. . . ” (Mt 10,16) kết thúc những lời Đức Giêsu huấn thị khi sai các Tông đồ đi thực tập truyền giáo, đồng thời cũng là câu cảnh giác các Tông đồ trước những sự nguy hiểm trên bước đường truyền giáo.

Tuy nhiên, Đức Giêsu cũng yên ủi và khích lệ các ông, vì bị bách hại là số phận thường tình của người môn đệ, vì chỉ có thế, Nước Trời mới đến được trần gian này. Nhưng giữa những cuộc bách hại, người môn đệ có được hai lý do để hãnh diện và an ủi mình:

– Một là mình vì Thầy mà bị bách hại.

– Hai là bách hại lại là dịp  để đưa lời chứng hùng hồn của mình ra trước Hội đồng Do thái, vua chúa quan quyền ngoại giáo về Thầy.

  1. Cái chết của thánh Têphanô là mở đầu cho cuộc bách hại trong Giáo hội. Chúng ta gọi những người được chết vì Chúa là các “người tử đạo”.  Hai chữ ‘Tử đạo” chúng ta quen dùng ngày nay có nguyên ngữ Hy Lạp là Martus nghĩa là làm chứng. Người tử đạo là người làm chứng cho Chúa bằng chính những đau khổ và cái chết của mình. Bởi đó trong đoạn Tin Mừng này, khi báo trước những sự bách hại, Đức Giêsu nói: “Chúng con sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy, để làm chứng. . . ”
  2. Những cuộc bách hại các Kitô hữu chắc chắn sẽ xẩy đến, nhưng đó là dịp tốt để họ làm chứng cho Đức Kitô trước mặt mọi người. Cái chết làm chứng của thánh Têphanô và các thánh Tử đạo làm ứng nghiệm những lời Chúa nói. Cuộc bách hại vì danh Chúa Kitô có thể xẩy ra ngay trong gia đình, giữa những người thân thuộc, là thành viên trong gia đình , có khi tôi phải chịu thiệt thòi, bất công, chỉ vì muốn sống theo thánh ý Chúa. Tôi có dám coi đó là cơ hội tốt để làm chứng cho Chúa không ?
  3. Trong cuộc Tử đạo của thánh Têphanô, chúng ta thấy Ngài có một thái độ hết sức đáng khâm phục, đó là biết tha thứ cho kẻ hành hạ mình. Sách Công vụ Tông đồ còn ghi lại: Họ ném đá Têphanô đang lúc ông cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con”. Rồi ông quì xuống kêu lớn tiếng: “ Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này”. Nói thế rồi, ông an nghỉ (Cv 5,59-60).

Thánh Têphanô là người chứng thứ nhất tái hiện sự tha thứ mà Chúa Giêsu  đã thực hiện trên thánh giá. “Lấy ân báo oán” là phương châm hành động của thánh Têphanô. Không có cách trả thù nào cao quí hơn bằng yêu thương, tha thứ cho chính kẻ thù. Lấy bạo động để tiêu diệt bạo động, con người chỉ đổ thêm dầu vào ngọn lửa hận thù và kích thích thêm bạo động mà thôi, chỉ có tình thương, chỉ có lòng tha thứ mới có thể tiêu diệt được hận thù. Têphanô đã làm như Chúa Giêsu đã làm: “Trên Thập giá, Chúa đã tiêu diệt sự hận thù” (Ep 2,16).

  1. Truyện: Tình yêu thắng hận thù.

Một binh sĩ người Anh đã viết cho một người mẹ Đức như sau: “Là một quân nhân của một lực lượng được chỉ định tấn công vào một ngôi làng ở Pháp, phận sự trong quân ngũ đã khiến tôi giết chết con bà. Tôi là một tín hữu Kitô giáo, và vì lẽ đó, tôi thành khẩn xin bà hãy tha thứ cho tôi. Tôi hy vọng là một ngày kia, khi chiến tranh chấm dứt, tôi có thể đích thân đến gặp bà”.

Mấy tháng sau, khi bà mẹ người lính Đức hay tin con bà tử trận, bà mới nhận được bức thư trên đây, và bà đã trả lời như sau cho người lính Anh:

 “Tận thâm tâm, tôi đã tha thứ cho anh, mặc dù anh đã giết chết người con yêu dấu của tôi. Tôi tha thứ cho anh, bởi vì cũng như anh, tôi là một tín hữu Kitô. Nếu anh và tôi đều sống sót sau cuộc chiến, tôi hy vọng anh có thể sang Đức để thăm tôi, và mặc dù chỉ trong thời gian ngắn ngủi, anh có thể thế chỗ cho con tôi, đứa con mà anh đã giết chết”.

Điểm đáng chú ý nhất trong hai bức thư trên, là lời tuyên xưng: “Tôi là một tín hữu Kitô”, và với niềm tin cả anh lính người Anh và bà mẹ người Đức đã để cho Lời Chúa tách họ ra khỏi vòng luẩn quẩn của bạo lực: “Mắt đền mắt, răng đền răng”, và đưa họ vào con đường yêu thương.

 

Suy Niệm 8: THÁNH STÊPHANÔ

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dặn dò các môn đệ ba điều:

– Số phận những người theo Chúa là chịu bắt bớ như Ngài: Họ sẽ nộp anh em cho Hội Đồng. Nhưng trong những thử thách đó, người môn đệ cảm thấy được an ủi, vì đó là dịp làm chứng cho Thầy. Sau này sách Công vụ còn nói: Các Tông đồ hân hoan vì cảm thấy xứng đáng chịu khổ vìChúa Kitô.

– Chúa Thánh Thần sẽ đồng hành với họ trong những cuộc bắt bớ và sẽ dạy họ phải nói gì trước những kẻ bắt bớ. Lý lẽ hùng hồn của Stêphanô đã minh chứng điều đó.

– Lời dặn thứ ba là nhiều khi chính những người thân thuộc sẽ bắt bớ họ, cũng như Chúa Giêsu đã chịu đồng bào mình lên án chết: Anh sẽ nộp em, cha nộp con cho ngươi ta giết.

Khi suy gẫm những lời dặn đò của Chúa hôm nay, tôi có cảm tưởng Chúa cũng đang dặn dò chúng ta như vậy:

 – Người tông đồ nhiều khi bị hiểu lầm, bị bách hại. Đó là số phận chung của những người theo Chúa.

– Nhưng trong những thử thách của đời sống đức tin, dựa vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần, chúng ta vui mừng vì có dịp làm chứng cho Chúa.

– Và chúng ta đừng lấy làm lạ, nhiều khi những người làm khổ chúng ta, bách hại chúng ta không là ai khác mà lại chính là những người thân của chúng ta, vì hiểu lầm không biết hay vì ác ý. Chính Chúa Giêsu cũng đã bị môn đệ thân tín là Giuda bán đứng.

  1. Mừng lễ thánh Stêphanô, vị tử đạo tiên khởi của Giáo Hội hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta noi gương ngài. Ngài là một vị phó tế của cộng đoàn Jêrusalem (Cv 6,5) một người được mô tả là đầy Thánh Thần. Ngài được trao phó làm việc bác ái trong cộng đoàn, nhưng sách Công Vụ cho thấy là các phó tế vẫn tham dự vào việc giảng dạy và bênh vực đức tin. Trước khi chịu chết, Stêphanô đã giảng một bài thật dài và thật hùng hồn, tóm tắt lịch sử ơn cứu độ để minh chứng và qui trách nhiệm cái chết của Chúa Giêsu cho các Thượng tế, luật sĩ và Pharisiêu. Và cũng vì lời giảng dạy đó mà Stêphanô phải chịu ném đá chết.

Cuộc tử đạo của Stêphanô được diễn ra theo mô hình của cuộc khổ nạn của Chúa Kitô: người ta cũng xách động dân chúng làm chứng gian chống lại ông; ông đối chất với Thượng tế có uy quyền trước mặt mọi người. (Cv 6,15). Ông nhìn thấy Con Người tức là Chúa Giêsu bên hữu Chúa Cha (7,55). Ông cầu xin ơn tha thứ cho những kẻ giết ông (7,60). Cuộc thương khó của thánh Stêphanô giống hệt cuộc thương khó của Chúa Giêsu.

Trong quang cảnh này có nhiều điều đáng  ghi nhận về Stêphanô:

a/ Chúng ta thấy được bí quyết lòng can đảm của ông. Vượt trên những gì người ta có thể làm hại ông, ông đã thấy Chúa của ông đang chờ đợi để đón tiếp ông. Ông thấy cái chết của người tử đạo là cánh cửa mở ra, đưa ông đến với Chúa Cứu Thế.

b/ Chúng ta thấy Stêphanô đã có những cách ứng xử thật giống Chúa Giêsu. Như Chúa Giêsu đã cầu nguyện xin Thiên Chúa tha tội cho kẻ giết Ngài, thì Stêphanô cũng làm y như vậy.

Trong lời cầu nguyện của thánh lễ hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta noi gương thánh Stêphanô yêu thương cả kẻ thù.

Một binh sĩ người Anh đã viết cho một người mẹ Đức như sau: “Là một quân nhân của một lực lượng được chỉ định tấn công vào một ngôi làng ở Pháp, phận sự trong quân ngũ đã khiến tôi giết con bà. Tôi là một tín hữu Kitô giáo, và vì lẽ đó, tôi thành khẩn xin bà hãy tha thứ cho tôi. Tôi hy vọng là một ngày kia, khi chiến tranh chấm dứt, tôi có thể đích thân đến gặp bà!”

Mấy tháng sau, khi bà mẹ người lính Đức hay tin con bà tử trận, bà mới nhận được bức thư trên đây, và bà đã trả lời như sau cho người lính Anh:

“Tận thâm tâm, tôi đã tha thứ cho anh, mặc dù anh đã giết chết người con yêu dấu của tôi. Tôi tha thứ cho anh, bởi vì cũng như anh, tôi là một tín hữu Kitô. Nếu anh và tôi đều được sống sót sau cuộc chiến, tôi hy vọng anh có thể sang Đức để thăm tôi, và mặc dù chỉ trong thời gian ngắn ngủi, anh có thể thế chỗ cho con tôi, đứa con mà anh đã giết chết”.

Điểm đáng chú ý nhất trong hai bức thư trên, là lời tuyên xưng: “Tôi là một tín hữu Kitô”, và với niềm tin xác tín này, cả anh lính người Anh và bà Mẹ người Đức đã không để cho chiến tranh lôi kéo mình vào trong trận chiến của ghen ghét và hận thù. Trái lại, họ đã để cho giáo huấn của Đức Giêsu tách họ ra khỏi vòng luẩn quẩn của bạo lực: “Mắt đền mắt, răng đền răng”, và đưa họ vào con đường yêu thương, hoà giải: “Các con hãy yêu thương những kẻ thù địch của các con, hãy làm ơn cho những kẻ ghét các con và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ, vu khống các con. ” (Mt 5,44). Amen.

 

Suy Niệm 6: ,,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu tiên báo sự bách hại. Tin theo Chúa, chúng ta sẽ bị người đời đối kháng. Nhưng ta không được sợ hãi, vì Chúa Thánh Thần hằng hoạt động trong ta.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, ý định của Chúa khi Chúa đến trần gian là để con được trở nên con người sống cho Thiên Chúa, không thuộc về thế gian. Và như thế con sẽ gặp cảnh bị ghét bỏ. Có những lúc vì sống theo Lời Chúa, con bị thế gian cười chê. Con cũng có thể bị mất nhiều quyền lợi chỉ vì con thuộc về Chúa. Ngay trong gia đình có thể con còn bị cả người nhà ghét bỏ nữa.

Cuộc đời của con theo Chúa là cuộc đời chết cho chính mình. Con sẽ luôn nhìn lên Chúa để sống. Con cũng sẽ luôn nhìn lên thánh giá để noi gương. Thánh Tê-pha-nô hôm nay Giáo hội mừng kính quả là gương chói ngời cho con. Con cũng được diễm phúc như Ngài: con đã là một người thuộc về Chúa. Con đã được diễm phúc mang danh là Kitô. Thánh Tê-pha-nô đã bị chống đối. Ngài đã bị khổ đau. Và Ngài đã thể hiện cuộc sống theo Tin mừng. Xin cho con được sống chết cho Nước Trời như Ngài, bất chấp chống đối hiềm thù.

Lạy Chúa, xưa Chúa đã tuyên báo cho con biết về sự bách hại vì đạo mà con sẽ nhận lãnh trong suốt cuộc đời theo Chúa. Từ thế gian, từ gia đình, đều có những sự dấy lên ghì con sống khác Chúa. Xin Chúa giúp con luôn. Xin Chúa trợ giúp con liên tục để con được mạnh sức và khôn ngoan sống theo gương Chúa như thánh Tê-pha-nô đã sống. Xin cho con được kiên trì dâng hiến khi gặp những khó khăn vì Tin mừng và sẵn sàng yêu thương tha thứ cho mọi người gây khó dễ cho con. Cả khi họ làm hại con, xin cho con được biết thương yêu và cầu nguyện cho họ nữa. Amen.

Ghi nhớ: “Không phải chúng con nói, nhưng là Thánh Thần của Chúa Cha”.

 

Suy Niệm 7: ,,,,

(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)

Phân tích

Chúa Giêsu tiên báo những cuộc bách hại đối với các môn đệ Ngài:

– Bách hại do những nhà cầm quyền thù nghịch với Chúa. Nhưng đó là dịp để ta làm chứng cho Chúa.

– Bách hại do chính những người thân của mình (cha mẹ, anh em, con cái) vì họ không đồng quan điểm đức tin với mình. Nhưng hãy kiên trì, vì “ai bền chí đến cùng thì sẽ được cứu thoát. ”

Suy gẫm

  1. Hai chữ tử đạo chúng ta quen dùng ngày nay có nguyên ngữ Hy Lạp là Martus nghĩa là làm chứng. Người tử đạo là người làm chứng cho Chúa bằng chính những đau khổ và cái chết của mình. Bởi đó trong đoạn Tin mừng này, khi báo trước những sự bách hại, Chúa Giêsu nói “Chúng con sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy, để làm chứng. . . ”
  2. Thánh là ai ? Ngày kia một em bé theo mẹ đi chợ. Từ nhà đến chợ, hai mẹ con đi qua một thánh đường nguy nga. Em bé ngước nhìn thánh đường rồi đưa tay chỉ mẹ và nói: “Mẹ xem kìa, những cửa kính màu bám đầy bụi, trông chả đẹp tí nào. ”

Bà mẹ không nói gì, nhưng lại nắm tay con dẫn vào bên trong thánh đường. Từ bên trong thánh đường nhìn ra, những cửa kính dơ bẩn xấu xí lại trở nên sáng chói và rực rỡ nhiều màu sắc tuyệt đẹp. Em bé ngạc nhiên mở to mắt nhìn. Em thích thú đặc biệt khi ngắm nhìn 4 vị thánh trên cửa kính sau bàn thờ đang rực rỡ chói lòa nhờ ánh mặt trời chiếu thẳng qua.

Vài ngày sau, trong một lớp giáo lý, tình cờ cô giáo hỏi: “Các em có biết vị thánh là ai không ?” Trước câu hỏi bất ngờ, cả lớp đều thinh lặng, chỉ có em bé được mẹ dẫn vào nhà thờ hôm trước giơ tay xin trả lời. Em nói: “Thưa cô, vị thánh là người được ánh sáng mặt trời chiếu qua. ”

Stêphanô là một vị thánh vì ngài đã phản ánh Chúa Giêsu, nhất là qua cái chết của ngài. Bài đọc I (Cv 6,8-10 7,54-60) tường thuật ngài chết giống Chúa Giêsu: cũng phó linh hồn trong tay Chúa (c. 59) và cũng cầu xin ơn tha thứ cho những kẻ hại mình (c. 60).

  1. “Vì danh Thầy các con sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền đỗ đến cùng thì sẽ được cứu thoát” (Mt 10,22)

Một người bạn hỏi tôi: “Bạn có thấy anh ấy đã làm điều xấu xa đó không ?” Dù thấy nhưng tôi đã trả lời không, vì anh ấy là con của thầy hiệu phó, và vì tôi không muốn bị liên luỵ. Điều này làm tôi ray rứt. Tôi cảm thấy xấu hổ vì đã nhát đảm không dám nói lên sự thật.

Thánh Stêphanô đã hy sinh mạng sống để làm chứng cho sự thật. Còn tôi hôm nay chưa phải hy sinh đến mạng sống mà đã chối quanh, thì thử hỏi làm sao dám bênh vực và đấu tranh cho sự thật ?

Cầu nguyện:

Lạy Chúa, có những lúc con đã sống hèn yếu như vậy. Xin cho con cảm nghiệm được sự bình an và niềm hạnh phúc của người biết làm chứng cho sự thật.

 

Suy Niệm 8: ,,,,

(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

 

 

Suy Niệm 8: ,,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dặn dò các môn đệ ba điều: – Số phận những người theo Chúa là chịu bắt bớ như Ngài: Họ sẽ nộp anh em cho Hội Đồng. Nhưng trong những thử thách đó, người môn đệ cảm thấy được an ủi, vì đó là dịp làm chứng cho Thầy. Sau này sách Công vụ còn nói: Các Tông đồ hân hoan vì cảm thấy xứng đáng chịu khổ vì Chúa Kitô.

– Chúa Thánh Thần sẽ đồng hành với họ trong những cuộc bắt bớ và sẽ dạy họ phải nói gì trước những kẻ bắt bớ. Lý lẽ hùng hồn của Stêphanô đã minh chứng điều đó.

– Lời dặn thứ ba là nhiều khi chính những người thân thuộc sẽ bắt bớ họ, cũng như Chúa Giêsu đã chịu đồng bào mình lên án chết: Anh sẽ nộp em, cha nộp con cho ngươi ta giết.

Khi suy gẫm những lời dặn đò của Chúa hôm nay, tôi có cảm tưởng Chúa cũng đang dặn dò chúng ta như vậy:

– Người tông đồ nhiều khi bị hiểu lầm, bị bách hại. Đó là số phận chung của những người theo Chúa. – Nhưng trong những thử thách của đời sống đức tin, dựa vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần, chúng ta vui mừng vì có dịp làm chứng cho Chúa.

– Và chúng ta đừng lấy làm lạ, nhiều khi những người làm khổ chúng ta, bách hại chúng ta không là ai khác mà lại chính là những người thân của chúng ta, vì hiểu lầm không biết hay vì ác ý. Chính Chúa Giêsu cũng đã bị môn đệ thân tín là Giuda bán đứng.

  1. Mừng lễ thánh Stêphanô, vị tử đạo tiên khởi của Giáo Hội hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta noi gương ngài. Ngài là một vị phó tế của cộng đoàn Jêrusalem (Cv 6,5) một người được mô tả là đầy Thánh Thần. Ngài được trao phó làm việc bác ái trong cộng đoàn, nhưng sách Công Vụ cho thấy là các phó tế vẫn tham dự vào việc giảng dạy và bênh vực đức tin. Trước khi chịu chết, Stêphanô đã giảng một bài thật dài và thật hùng hồn, tóm tắt lịch sử ơn cứu độ để minh chứng và qui trách nhiệm cái chết của Chúa Giêsu cho các Thượng tế, luật sĩ và Pharisiêu. Và cũng vì lời giảng dạy đó mà Stêphanô phải chịu ném đá chết.

Cuộc tử đạo của Stêphanô được diễn ra theo mô hình của cuộc khổ nạn của Chúa Kitô: người ta cũng xách động dân chúng làm chứng gian chống lại ông; ông đối chất với Thượng tế có uy quyền trước mặt mọi người (Cv 6,15). Ông nhìn thấy Con Người tức là Chúa Giêsu bên hữu Chúa Cha (7,55). Ông cầu xin ơn tha thứ cho những kẻ giết ông (7,60). Cuộc thương khó của thánh Stêphanô giống hệt cuộc thương khó của Chúa Giêsu.

Trong quang cảnh này có nhiều điều đáng ghi nhận về Stêphanô:

a/ Chúng ta thấy được bí quyết lòng can đảm của ông. Vượt trên những gì người ta có thể làm hại ông, ông đã thấy Chúa của ông đang chờ đợi để đón tiếp ông. Ông thấy cái chết của người tử đạo là cánh cửa mở ra, đưa ông đến với Chúa Cứu Thế.

b/ Chúng ta thấy Stêphanô đã có những cách ứng xử thật giống Chúa Giêsu. Như Chúa Giêsu đã cầu nguyện xin Thiên Chúa tha tội cho kẻ giết Ngài, thì Stêphanô cũng làm y như vậy. Trong lời cầu nguyện của thánh lễ hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta noi gương thánh Stêphanô yêu thương cả kẻ thù. Một binh sĩ người Anh đã viết cho một người mẹ Đức như sau: “Là một quân nhân của một lực lượng được chỉ định tấn công vào một ngôi làng ở Pháp, phận sự trong quân ngũ đã khiến tôi giết con bà. Tôi là một tín hữu Kitô giáo, và vì lẽ đó, tôi thành khẩn xin bà hãy tha thứ cho tôi. Tôi hy vọng là một ngày kia, khi chiến tranh chấm dứt, tôi có thể đích thân đến gặp bà!”

Mấy tháng sau, khi bà mẹ người lính Đức hay tin con bà tử trận, bà mới nhận được bức thư trên đây, và bà đã trả lời như sau cho người lính Anh: “Tận thâm tâm, tôi đã tha thứ cho anh, mặc dù anh đã giết chết người con yêu dấu của tôi. Tôi tha thứ cho anh, bởi vì cũng như anh, tôi là một tín hữu Kitô. Nếu anh và tôi đều được sống sót sau cuộc chiến, tôi hy vọng anh có thể sang Đức để thăm tôi, và mặc dù chỉ trong thời gian ngắn ngủi, anh có thể thế chỗ cho con tôi, đứa con mà anh đã giết chết”.

Điểm đáng chú ý nhất trong hai bức thư trên, là lời tuyên xưng: “Tôi là một tín hữu Kitô”, và với niềm tin xác tín này, cả anh lính người Anh và bà Mẹ người Đức đã không để cho chiến tranh lôi kéo mình vào trong trận chiến của ghen ghét và hận thù. Trái lại, họ đã để cho giáo huấn của Đức Giêsu tách họ ra khỏi vòng luẩn quẩn của bạo lực: “Mắt đền mắt, răng đền răng”, và đưa họ vào con đường yêu thương, hoà giải: “Các con hãy yêu thương những kẻ thù địch của các con, hãy làm ơn cho những kẻ ghét các con và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ, vu khống các con” (Mt 5,44). Amen.

 

 

Ngày 27/12 – Lễ Thánh Gioan Tông Ðồ

 

 

LỜI CHÚA: Ga 20, 2-8

Ngày thứ nhất trong tuần, Maria Mađalêna chạy đến gặp Simon Phêrô và môn đệ kia mà Chúa Giêsu yêu, bà nói: “Người ta đã lấy xác Chúa khỏi mộ rồi, chúng tôi không biết họ để đâu”.

Bấy giờ Phêrô ra đi với môn đệ kia đến mộ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô và đến mộ trước ông. Cúi nhìn vào, người môn đệ đó thấy tấm khăn liệm xác hãy còn, nhưng không vào. Bấy giờ Simon Phêrô theo sau cũng đến, và đi vào trong mộ, thấy khăn liệm xác còn đó, và khăn che mặt để trên phía đầu Người, không để chung với khăn liệm xác, nhưng đã cuốn riêng để vào một chỗ.

Bấy giờ môn đệ đã đến trước cũng vào; ông đã thấy và đã tin.

 

Suy Niệm 1: Ông đã thấy và đã tin

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Niềm vui phục sinh khởi sự bằng thái độ hốt hoảng.

Tảng đá che cửa mộ đã bị ai đó lăn ra.

Xác của Thầy đặt bên trong đã biến mất.

Thật là chuyện kinh khủng đối với bà Maria Macđala!

Bà đã đi thăm mộ lúc trời còn tối.

Có lẽ cả đêm trước bà không chợp mắt được,

chỉ mong cho chóng sáng để lên đường.

Ai có thể hiểu được trái tim của bà?

Tình yêu đã khiến bà đứng dưới chân thập giá (Ga 19,25)

và tham dự cuộc mai táng Thầy Giêsu (Mt 27,61).

Bây giờ tình yêu ấy lại thúc đẩy bà ra mộ trước tiên,

trước cả người môn đệ được Ðức Giêsu thương mến…

Maria hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ.

Bà nghĩ chắc có kẻ đã ăn cắp xác Thầy.

Vấn đề duy nhất làm bà âu lo khắc khoải,

đó là họ đang để Người ở đâu (Ga 20,2. 13. 15).

Bà cần biết chỗ đó, để lấy ngay xác về.

Maria chẳng nghĩ gì đến chuyện Chúa phục sinh,

bà chỉ mong tìm lại xác của Thầy đã chết.

Maria chạy về để kéo theo Phêrô và Gioan chạy đến mộ,

những bước chân hối hả vội vàng.

Chỉ có ngôi mộ trống và những băng vải đặt ở đó,

còn khăn che đầu thì được cuốn lại, xếp riêng.

Thấy mọi điều đó, Gioan tin rằng Thầy đã phục sinh.

Chẳng ai ăn cắp xác mà để lại gọn ghẽ khăn vải liệm.

Chúng ta cần có lòng mến thiết tha của bà Maria Macđala,

nhưng cũng cần có sự nhạy cảm để tin như Gioan.

Khi tin, người ta khám phá ra ý nghĩa của các biến cố:

ý nghĩa của cái chết bi đát trên núi sọ,

ý nghĩa của ngôi mộ trống và tấm khăn xếp gọn gàng.

Chúng ta cần có lòng tin

để khỏi rơi vào sự thất vọng hay hốt hoảng,

trước những thất bại, đổ vỡ mất mát trong cuộc đời.

Ðời chúng ta lắm khi giống ngôi mộ trống trải.

Những gì chúng ta yêu quý nay chẳng còn.

Chúng ta đôn đáo kiếm tìm điều đã mất,

trong nước mắt đau khổ như bà Maria (Ga 20,11)

Nhưng nếu xác Ðức Giêsu cứ nằm yên trong mồ,

để cho bà Maria đến thăm viếng,

thì làm gì có chuyện Chúa phục sinh?

Phiến đá cửa mộ không giữ được Ngài,

những băng vải không ngăn được Ngài ra đi.

Sự sống bật dậy từ tro tàn của cái chết.

Ánh sáng bừng lên từ bóng tối mịt mù.

Tình yêu thắng trận khi tưởng như bị hận thù nuốt chửng.

Niềm vui phục sinh là quà tặng bất ngờ cho Maria.

Bà sẽ chẳng bao giờ tìm thấy xác Thầy trong mộ đâu,

nhưng bà sẽ gặp chính Ðấng Phục Sinh ở ngoài mộ đá.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa phục sinh,

vì Chúa đã phục sinh

nên con thấy mình chẳng còn gì phải sợ.

Vì Chúa đã phục sinh

nên con được tự do bay cao,

không bị nỗi sợ hãi của phận người chi phối,

sợ thất bại, sợ khổ đau,

sợ nhục nhã và cái chết lúc tuổi đời dang dở.

Vì Chúa đã phục sinh

nên con hiểu cái liều của người Kitô hữu

là cái liều chín chắn và có cơ sở.

Cái liều của những nữ tu phục vụ ở trại phong.

Cái liều của cha Kolbê chết thay cho người khác.

Cái liều của bậc cha ông đã hiến mình vì Đạo.

Sự phục sinh của Chúa là một lời mời gọi

mang một sức thu hút mãnh liệt

khiến con đổi cái nhìn về cuộc đời:

nhìn tất cả từ trên cao

để nhận ra giá trị thực sự của từng thụ tạo.

Sự phục sinh của Chúa

giúp con dám sống tận tình hơn

với Chúa và với mọi người.

Và con hiểu mình chẳng mất gì,

nhưng lại được tất cả. Amen.

 

Suy Niệm 2: Người môn đệ Chúa yêu

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Ta đoán “người môn đệ Chúa yêu” là thánh Gio-an. Vì chỉ thấy danh xưng này trong Tin mừng Gio-an.

Chắc chắn ai cũng được Chúa yêu. Có điều không cảm nhận được. Hoặc không nói ra. Đáng lẽ Phê-rô phải xưng mình là người được Chúa yêu hơn cả. Vì ông đã lỗi lầm và được tha thứ. Như lời Chúa dạy: “Ai được tha nhiều thì yêu mến nhiều”. Cả Giu-đa, nếu ăn năn trở lại, cũng có thể xưng mình là người môn đệ được Chúa yêu. Nhưng chỉ có Gio-an xưng mình là “người môn đệ được Chúa yêu”. Vì ông là người có nhiều tình cảm nên cảm nhận được một cách rõ ràng và sâu xa. Và ông có tài diễn tả. Và ông muốn cho mọi người biết rằng ai cũng được Chúa yêu. Ai cũng có thể xưng mình là “người môn đệ được Chúa yêu”.

Tình yêu có trí nhớ rất sắc bén. Yêu ai ta nhớ từng lời nói, thái độ, cử chỉ. Thánh Gio-an nhớ rất kỹ những lời nói việc làm của Chúa Giê-su. Chẳng hạn về ngày đầu tiên gặp gỡ. Thánh nhân ghi nhớ từng chi tiết. Cả thời giờ: “Lúc đó khoảng giờ thứ mười” (Ga 1,35-39). Nên nhớ, hơn nửa thế kỷ sau, thánh Gio-an mới viết Tin mừng. thế mà vẫn ghi nhớ từng chi tiết. Chắc chắn đó là một kỷ niệm khắc sâu trong tâm hồn.

Tình yêu có trực giác rất mạnh. Dễ nhận ra những dấu vết của người yêu. Việc thánh Gio-an bén nhậy tin Chúa phục sinh sau khi nhìn ngôi mộ trống là một trực giác của tình yêu. Nhìn khăn liệm và khăn che mặt xếp đặt gọn gàng Ngài nhận ra ngay dấu vết của Chúa. Cũng như ngài là người đầu tiên nhận ra Chúa Giê-su phục sinh bên bờ hồ sau mẻ cá lạ. Mẻ cá lạ chỉ có thể do Chúa. Và gợi lại những mẻ cá khi Người chưa chịu khổ nạn.

Tình yêu đi vào hiệp thông sâu xa. Hiệp thông khiến tình yêu thành cụ thể và sống động. Thánh Gio-an thấy tận mắt, sờ tận tay Lời Thiên Chúa. “Điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống”. Chạm được vào Lời là có mối thân tình rất sâu xa. Nên được “hiệp thông với Chúa Cha và với Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người”.

Nếu tôi ghi nhớ tất cả những gì Chúa làm cho tôi. Nếu tôi đủ nhậy bén. Tôi sẽ đi vào hiệp thông với Chúa. Và sẽ nhận biết tôi là “người môn đệ Chúa yêu”. Khi đó tôi sẽ vô cùng hạnh phúc.

 

Suy Niệm 3: Chạy đến mồ

Thông thường mỗi dịp Giáng sinh, các trẻ em thuộc hầu hết các nước thế giới đều nhận được quà của ông già Noel. Thế nhưng năm vừa qua tại một số trường tiểu học nọ, ông già Noel đã đảo lộn truyền thống: thay vì mang quà cáp đến cho các em, ông đến với bàn tay trống rỗng, thay vì tặng quà cho các thiếu nhi, ông lại là người nhận quà từ tay các em để rồi chuyển cho các thiếu nhi tại nhiều nơi khác.

Hình ảnh ông già Noel với đôi bàn tay trống không có thể gợi lên cho chúng ta vài suy nghĩ khi kính nhớ thánh Gioan Tông đồ trong tuần bát nhật Giáng sinh. Tin mừng hôm nay cũng nói đến một sự trống rỗng, đó là sự trống rỗng của ngôi mộ. Được Maria Madalena thông tin, Phêrô và Gioan đã vội vã chạy ra mồ, hai người không còn thấy xác Chúa trong ngôi mộ nữa, nhưng nhìn thấy cảnh tượng ấy, Goan đã tuyên bố: “ông đã thấy và đã tin”. Niềm tin đã bừng dậy từ một sự trống rỗng, đó là sứ điệp Gioan muốn gửi đến chúng ta, nhất là trong những ngày này khi chúng ta chiêm ngắm Hài nhi Giêsu nằm trong máng cỏ. Bên kia những hoa đèn và trưng bày lộng lẫy của Mùa Giáng sinh, có lẽ chúng ta phải nhìn thấy cái thiết yếu trong những biểu tượng của lễ Giáng sinh. Cái thiết yếu ấy là gì, nếu không phải là một Hài nhi nằm trong máng cỏ; cái thiết yếu ấy là gì, nếu không phải là cảnh trơ trụi nghèo nàn trống rỗng trong đó Ngôi Hai Thiên Chúa đã giáng sinh.

Ngôi mộ trống mà Gioan đã nhìn thấy hay máng cỏ trơ trụi nghèo nàn của Hài nhi Giêsu, cả hai cảnh tượng đều có chung một ý nghĩa; Thiên Chúa đến với con người qua những cái nhỏ bé, tầm thường và ngay cả những mất mát của cuộc sống. Đức tin luôn là một bước nhảy vượt qua cái trống rỗng ấy, hay đúng hơn đức tin là một cái nhìn xuyên suốt qua cái trống rỗng ấy.

Chúng ta hãy chiêm ngắm Hài nhi Giêsu nghèo nàn trơ trụi trong máng cỏ. Qua cảnh nghèo nàn ấy, niềm tin nói với chúng ta rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến hoá thân làm người để là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Qua cảnh nghèo nàn trơ trụi ấy, niềm tin nói với chúng ta rằng mỗi người sinh ra trên cõi đời này dù khốn khổ đến đâu cũng đều có một phẩm giá cao cả vì là hình ảnh của Thiên Chúa. Qua cảnh nghèo nàn trơ trụi ấy, niềm tin cũng nói với chúng ta rằng chúng ta đã trở nên giàu có thật sự. Và cái giàu có ấy chính là biết mở rộng đôi bàn tay để trao ban.

 

Suy Niệm 4: Lòng mến giúp dễ dàng nhận ra Chúa

Theo truyền thống, phong tục Việt Nam, thì khi có người thân qua đời, sau khi đã lo liệu việc chôn cất xong, khoảng hôm sau hay những ngày kế tiếp…tùy mỗi nơi, họ thường hay có tục ra nghĩa địa viếng mộ để bày tỏ niềm thương tiếc, nhớ nhung người đã khuất.

Ngày xưa tại đất nước Palestine cũng có phong tục đó. Tuy nhiên, họ để ba ngày mới ra viếng mộ. Vì vậy, chúng ta không lạ gì khi thấy sự kiện Maria Mađalêna ra viếng mộ Chúa từ tờ mờ sáng. Bà đến sớm là vì nóng lòng chờ đợi từng giây phút để được đến với Chúa.

Tuy nhiên, điều mà Maria Mađalêna ngỡ ngàng là thấy phiến đá lấp cửa mồ đã được lăn ra khỏi mộ…và khi nhìn vào thì không thấy xác Chúa đâu cả…Trong tâm trí của bà lúc này là: đã có ai đó lấy cắp xác Chúa…???

Sau đó, Maria Mađalêna vội về nhà báo tin cho các Tông đồ biết sự việc lạ lùng này…Gioan và Tông đồ trưởng Phêrô đã chạy đến mộ để phục kích tận mặt xem thực hư thế nào. Khi tới nơi, Tông đồ trưởng chỉ thấy ngỡ ngàng và chưa thể đoán được sự việc ra sao! Nhưng Tông đồ Gioan thì biết, ông đã thấy và đã tin, vì ngài nhớ lại lời Đức Giêsu đã loan báo trước đó là: “ngày thứ ba sẽ sống lại…”.

Điều mà chúng ta cần khám phá nội dung tiềm ẩn hay chủ đạo trong bài Tin Mừng hôm nay chính là hai chữ: “Lòng mến”. Vì yêu mến Chúa tha thiết, nên Maria Mađalêna  đã đến mồ từ tảng sáng của ngày thứ nhất trong tuần. Vì yêu, nên Tông đồ Gioan cũng nhận ra Chúa đã sống lại một cách chắc chắn. Ngài cũng là người đầu tiên hiểu và tin vào việc này. Sau này chúng ta còn thấy Gioan đã nhận ra Chúa trước tiên trên bãi biển trước hết…

Như vậy, chính tình yêu đã nối kết lòng với lòng. Tình yêu đã lý giải những chuyện phi thường và mầu nhiệm cách dễ dàng. Ngôn ngữ tình yêu là ngôn ngữ của tấm lòng…

Vậy Gioan là ai? Thưa ngài là một trong những người con ông Dêbêđê, có thể ngài là bà con họ hàng với Đức Giêsu, là em của Giacôbê, làm nghề đánh cá trên biển. Ngài cũng là một trong ba Tông đồ được Đức Giêsu tỏ mình cách đặc biệt trong cuộc thần hiện trên núi Tabor. Và, ngài còn là một con người được biết đến với tính khí nóng nảy, tham vọng, nhưng cũng là người dũng cảm.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy: tình yêu là ngôn ngữ không lời để hiểu và đi vào mối tương quan thân tình với Thiên Chúa. Chỉ có tình yêu, chúng ta mới có thể hiểu được những điều kín nhiệm trong mầu nhiệm cứu chuộc của Thiên Chúa. Cũng chỉ có tình yêu mới lý giải được những nghịch lý của Tin Mừng. Như vậy, nhờ tình yêu mà chúng ta thêm sự trung tín, can đảm, trung thành.

Mừng lễ thánh Gioan Tông đồ hôm nay, chúng ta hãy noi gương ngài: yêu mến Thiên Chúa tha thiết; sẵn sàng sống chết để làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa trong cuộc đời của mình; hãy yêu rồi làm gì thì làm. Chỉ có tình yêu mới làm cho những việc chúng ta nói và làm có giá trị mà thôi …

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con cháy lửa yêu mến Chúa như thánh Gioan khi xưa. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 5: Lễ Kính Thánh Gioan Tông Ðồ

(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)

Thông thường người ta đi chứ không chạy, người ta chỉ chạy khi có một xúc động mạnh thúc đẩy. Có nhiền nguyên nhân gây nên xúc động: Có thể xúc động vì sợ hãi, kẻ thù đang đuổi bắt sau lưng thì chẳng ai mà lại không chạy, hay tai họa sắp giáng xuống thì không cần bảo người ta cũng tìm đường thoát thân. Xúc động còn do một sự lôi cuốn thôi thúc như đang rảo bước nhưng bất chợt có điều lạ xảy ra trước mặt thì các bước chân đều rầm rập chạy tới cho kịp để xem điều lạ ấy. Và xúc động hơn là khi nghe tin người thân yêu đang gặp tai nạn hay nguy hiểm, nếu ở xa thì bằng mọi giá phải quay về cho kịp thời, nếu ở gần thì tức tốc chạy đến nơi.

Trình thuật Tin Mừng hôm nay cũng nói về hai cuộc chạy đua của hai Tông Ðồ Gioan và Phêrô. Tại sao họ lại chạy mà không đi? Ðiều gì đã buộc họ chạy như thế? Các Tông Ðồ khi đến mồ thấy mất xác Chúa Giêsu, bà Maria Madalena đã chạy đi báo tin cho các môn đệ. Nhận được tin này, Phêrô và Gioan vội vã chạy đến mồ, cả hai đều chạy, nhưng Gioan chạy đến trước. Hẳn là vì sức thanh niên trai tráng mà Gioan có thể chạy nhanh hơn. Tuy nhiên, không đơn thuần như thế nhưng còn có một động lực khác buộc ông phải chạy nhanh, đó là vì lòng yêu mến. Ðể được nhìn thấy Thầy đã sống lại, tất cả các môn đệ đều nao nức bàng hoàng, nhưng sự bàng hoàng mang nhiều cường độ sắc thái khác nhau, và dù sao đi nữa người được gọi là môn đệ yêu dấu thì sự bàng hoàng phải lên đến tột độ. Sự bàng hoàng đã làm ông quên mất người bên cạnh, chỉ khi đến mồ ông mới sực nhớ ra và ông đã nhường bước cho Phêrô.

Chỉ một thoáng diễn tả của đoạn Tin Mừng trên, chúng ta cũng thấy được lòng mến của Thánh Gioan Tông Ðồ đối với Chúa Giêsu như thế nào. Tin Mừng không nói lý do tại sao có sự mến yêu đặc biệt này mà chỉ thuật lại diễn tiến.

Từ bước đầu, Gioan cũng được kêu gọi như bao nhiêu người khác, đang vá lưới cùng với anh và cha là Giêbêđê thì hai anh em được kêu gọi trở thành kẻ chài lưới người. Hai người đã từ giã cha mà đi theo Ngài. Ông cũng không phải là kẻ ôn nhu nhưng là kẻ nóng nảy và được biệt danh là con của “sấm sét” được gán cho hai anh em khi hai người xin lửa bởi trời thiêu đốt dân thành Samaria, vì họ không chịu tiếp đón Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã quở trách hai ông và có lẽ nhờ vào lời quở trách này mà Gioan biết nhìn vào Chúa Giêsu hơn, vì Ngài là Ðấng đến để cứu chữa chứ không phải để trừng phạt. Càng nhìn vào Chúa Giêsu, Gioan lại càng yêu mến Ngài hơn. Nhưng rồi sau khi đã thưa được trước chén đắng Ngài trao cho thì Gioan đã sẵn sàng cất bước theo Ngài trên con đường tử nạn. Dù rằng lúc này quanh ông chỉ còn đầy những khuôn mặt sát khí muốn giết chết cả Thầy lẫn trò, nhưng Gioan vẫn kiên trung theo Thầy dù các bạn đồng môn đã bỏ trốn và người anh cả Phêrô đã chối Thầy.

Nhờ lòng kiên trung này mà Gioan đã được thay mặt cho cả nhân loại và cho Chúa Giêsu. Thay mặt nhân loại khi ông được gọi là “con của Mẹ”, và thay mặt cho Chúa Giêsu khi ông lãnh nhận trách nhiệm săn sóc cho Mẹ “Gioan đón nhận Bà về nhà mình”. Và cứ thế mà tình yêu chuyển lướt vào nơi ông, làm cho ông chỉ có một lòng khăng khít sống mật thiết với Chúa, sẵn sàng bước theo Thầy mình đến cùng trong cuộc sống của mình.

Sau khi xác Chúa được táng trong mồ, lòng thánh nhân còn luôn hướng về đó. Vừa nghe tin xác Thầy bị mất, ông liền vội vã chạy đến mồ, ông đã thấy và ông đã tin. Trong lúc các môn đệ khác còn nghi ngờ vì tình yêu đã tạo một mối liên kết vô hình, không đòi hỏi nhiều diễn tả. Thoạt nghe tiếng Ngài gọi ở trên bờ hồ Tibéria, ông đã nhận ra Ngài. Tuy nhiên, Phêrô nhanh nhẹn nhận ra Thầy mình, và ông liền nhảy xuống biển nhưng Phêrô lại không nhạy cảm bằng Gioan.

Trong ngày mừng kính thánh Gioan Tông Ðồ hôm nay, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta biết hun đúc tình yêu của mình đối với Chúa Giêsu, để rồi chúng ta cũng sẽ nhạy cảm trước những tiếng gọi của Ngài. Ðặc biệt trong mùa Giáng Sinh này, lúc Vua tình yêu đang giáng hạ trong máng cỏ nghèo hèn. Ước gì chúng ta sẽ nghe tiếng gọi của Ngài, và đến quì chầu bên máng cỏ để chiêm ngắm Vua Tình Yêu. Vì càng chiêm ngắm chúng ta sẽ càng yêu mến Ngài, càng học biết được sự hiền lành và khiêm nhượng của Ngài.

 

Suy Niệm 6: Thánh Gioan Tông đồ

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Thánh Gioan Tông đồ cho chúng ta biết: Bà Maria Madalena từ sáng sớm đã ra thăm mộ Chúa Giêsu. Bà không thấy xác Chúa thì hoảng hốt chạy về báo cho thánh Phêrô và thánh Gioan. Hai ông liền chạy đến mộ. Các ông thấy khăn liệm và khăn che mặt Chúa còn đó, mà xác Người đâu mất? Nhưng thánh Gioan tin chắc là Chúa đã sống lại, vì theo Thánh Kinh: thì Người phải sống lại từ cõi chết.
  2. Gioan quê ở Bethsaiđa, được Chúa gọi làm môn đệ cùng với anh là Giacôbê đang vá lưới với cha. Ông là môn đệ độc thân, được Chúa Giêsu yêu các riêng, được tham dự vào các biến cố quan trọng của Thầy  như: Biến hình trên núi Tabôrê, trong vườn Cây Dầu  trước khi Chúa bị bắt, đứng dưới cây Thập giá Chúa cùng với Mẹ Ngài, chứng kiến những giờ phút cuối cùng của Chúa Giêsu, là nhân chứng về ngôi mộ trống và về sự hiện diện của Đấng Phục Sinh.

Gioan sẽ phải chịu sự bắt bớ thời hoàng đế Nêrông, đã bị bỏ vào vạc dầu sôi ở cửa Latinh, nhưng ông thoát chết kỳ lạ, sau đó bị khổ lưu đầy tại đảo Patmos. Ông là vị Tông đồ duy nhất không phải đổ máu đào như các Tông đồ khác.

  1. Tông đồ Gioan là “môn đệ được Chúa Giêsu thương mến” (x. Ga13,23), người đã ngã đầu và ngực Chúa trong bữa Tiệc ly như là biểu tượng của tình yêu gắn bó với Thầy. Thánh Augustinô đã nhìn thấy  mối gắn bó tình yêu này như sau: “Từ trong lồng ngực Chúa, Gioan đã tìm thấy nguồn suối ban cho chúng ta thứ nước không còn khát và sự hiểu biết”.

Thật thế, Gioan được ở gần bên Chúa, gắn bó và chứng kiến những việc Chúa làm. Sống và cảm nghiệm tình yêu của Thầy, ông đã ghi chép lại diễn từ tình yêu của Thầy (x. Ga 14-15) mà chỉ có ghi nhận  nơi Tin Mừng Gioan, vì thế được gọi là con người của tình yêu.

  1. Xem ra Gioan là con người hiền lành, dễ thương, nhưng thực sự ông là một con người xông xáo, nhiều tham vọng. Chúa Giêsu đã đặt cho ông một cái tên cúng cơm là Boanet, nghĩa là con của sấm sét. Giacôbê và Gioan là những người hết sức độc đoán và bất khoan dung, tính tình nóng nảy. Có lần họ đã muốn tiêu diệt cà một làng Samaria chỉ vì dân làng này không chịu tiếp đón đoàn của Chúa khi Chúa phải đi qua đó. Có lần cùng với Giacôbê và qua bà mẹ họ đã công khai xin được ngồi bên phải bên trái Chúa trong Nước của Ngài. Tin Mừng còn cho chúng ta biết chính Phêrôvà Gioan là những người được trao cho việc thu xếp bữa ăn tối cuối cùng.
  2. “Ông đã thấy và đã tin (Ga 20,8).

Đây là sự kiện mà bài Tin Mừng hôm nay, “người môn đệ được Chúa yêu” chạy ra mộ, thấy ngôi mộ trống và đã tin.

Nhiều người chú giải rằng, Gioan nhường Phêrô vào mộ trước là vì ông nhận quyền “bề trên” của Phêrô. Giải thích như thế có lẽ không chính xác lắm, bởi lẽ, lúc này Chúa Giêsu chưa trao quyền cho Phêrô, mà phải chờ lúc hiện ra sau này với các môn đệ (x. Ga 21,15-19). Tuy nhiên, điều quan trọng ở đây không phải là chuyện ai trước ai sau, mà là nền tảng đức tin của chúng ta, như “môn đệ được Chúa yêu đã thấy và ĐÃ TIN”. Như vậy, chủ đích của đoạn Tin Mừng hôm nay, trong ngôn ngữ biểu tượng, “người môn đệ Chúa yêu” là hình ảnh Giáo hội chứng kiến sự kiện ngôi mộ trống, chứng kiến những chứng tích và ĐÃ TIN. Đó là Đức tin muôn đời không lay chuyển của Kitô hữu chúng ta (cf Hiền Lâm).

  1. Người môn đệ được Chúa yêu mến nói về mình: “Ông đã thấy và đã tin”. Ông đã thấy bằng trái tim và đã tin bằng tình yêu. Phải chăng người môn đệ muốn quả quyết rằng: bằng tình yêu, người ta có thể đi từ chỗ thấy những dấu chỉ bên ngoài, đến chỗ tin vào Chúa Phục Sinh vô hình? Vậy, thánh Gioan đã thấy và đã tin nhờ đâu? Nhờ thánh nhân là môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến. Chính tình yêu giúp chúng ta nhạy cảm, tiến sâu vào các mầu nhiệm của Chúa.
  2. Truyện: Hãy yêu thương nhau.

Chính thánh Hiêrônimô đã kể lại câu chuyện về mấy lời cuối cùng của Gioan. Lúc ông hấp hối, các môn đệ hỏi ông còn gì để trối lại với họ không?

 Ông bảo: – Hỡi các con bé bỏng của ta, hãy yêu mến lẫn nhau.

Ông lặp đi lặp lại nhiều lần, họ lại hỏi ông có phải đó là tất cả những gì ông muốn nói với họ không?

Ông đáp: – Như thế là đủ, vì đó là mệnh lệnh của Chúa.

 

Suy Niệm 7: Người môn đệ Đức Giêsu thương mến

(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)

  1. Hạt giống…

Đoạn Tin Mừng này cho chúng ta biết đôi nét về thánh Gioan:

– Ngài tự xưng mình là “người môn đệ Đức Giêsu thương mến”. Điều này đúng một cách khách quan (vì Chúa Giêsu thương mến ngài thật), và cũng đúng cách chủ quan (ngài biết Chúa Giêsu thương mình). Khía cạnh chủ quan này rất quan trọng.

– Dù biết mình được Chúa Giêsu thương mến, nhưng ngài vẫn tôn trọng Phêrô là trưởng nhóm 12, cho nên tuy vì trẻ nên chạy tới mồ trước, ngài vẫn nhường cho Phêrô vào trước.

– Lòng yêu mến Chúa đã giúp ngài sớm nhận ra ý nghĩa dấu chỉ ngôi mồ trống: “Ông đã thấy và đã tin”. Nói cách khác, đức mến hỗ trợ cho đức tin.

B…. nẩy mầm.

  1. “Tin Mừng hôm nay nói đến một sự trống rỗng. Được Maria Mađalêna thông tin, Phêrô và Gioan đã vội vã chạy ra mồ. Hai người không còn thấy xác Chúa Giêsu trong ngôi mồ nữa. Nhưng nhìn thấy cảnh tượng đó, Gioan đã tuyên bố “Ông đã thấy và đã tin”. Niềm tin đã bừng dậy từ một sự trống rỗng. Đó là sứ điệp Gioan muốn gởi đến chúng ta, nhất là trong những ngày này khi chúng ta chiêm ngắm Hài nhi Giêsu nằm trong máng cỏ. Bên kia những hoa đèn và trưng bày lộng lẫy của mùa Giáng sinh, có lẽ chúng ta phải nhìn thấy cái thiết yếu trong những biểu tượng của lễ Giáng sinh. Cái thiết yếu ấy là gì nếu không phải là một Hài nhi nằm trong máng cỏ? Cái thiết yếu ấy là gì nếu không phải là cảnh trơ trụi nghèo nàn trống rỗng trong đó Hài nhi Giêsu đã giáng sinh? Ngôi mộ trống mà Gioan đã nhìn thấy hay máng cỏ trơ trụi nghèo nàn của Hài nhi Giêsu, cả hai cảnh tượng đều có chung một ý nghĩa: Thiên Chúa đến với con người qua những cái nhỏ bé tầm thường và ngay cả những mất mát của cuộc sống. Đức tin luôn là một bước nhảy vượt qua cái trống rỗng ấy, hay đúng hơn đức tin là một cái nhìn xuyên suốt qua cái trống rỗng ấy” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”)
  2. Một cuộc đối thoại giữa hai người yêu nhau:

– Em có bằng lòng lấy anh không?

– Bằng lòng.

– Chúng ta chỉ mới quen nhau mấy tháng. Em chỉ nghe anh nói thôi chứ chưa có dịp “kiểm tra” lý lịch và quá khứ của anh. Sao em tin anh thế?

– Vì em yêu anh!

Tình yêu hỗ trợ cho niềm tin.

  1. “Bà Maria Magđala chạy về tìm và báo tin cho hai ông Phêrô và Gioan: Người ta đã lấy mất Chúa rồi. Người không còn trong mộ nữa, chẳng biết họ để Người ở đâu”. Cả hai liền chạy ra mộ” (Ga 20,2-3)

Hồi tôi còn học ở Cao đẳng Sư phạm Đồng nai, có người bạn hỏi tôi: “Bạn là người công giáo phải không?” Tôi tự hào trả lời: “Đúng vậy”. Nhưng khi bạn ấy yêu cầu tôi cho biết đôi điều về đạo thì tôi đã bối rối và chỉ trả lời cách chiếu lệ. Từ ấy tôi đã nhận ra rằng mình là người công giáo nhưng rất hời hợt; đối với Chúa còn lạnh nhạt hơn… Tôi đã tìm học hỏi về Chúa, nhất là dành nhiều thời gian để cầu nguyện và sống với Chúa. Như Maria Magđala và như hai môn đệ Phêrô và Gioan, tôi muốn tin và yêu Chúa hết lòng.

Lạy Chúa, Chúa biết rõ mọi sự, Chúa biết con yêu mến Chúa. Xin nâng đỡ tình yêu của con. (Epphata)

 

Suy Niệm 8: ,,,,

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: “Phúc cho ai có lòng trong sạch vì họ sẽ đựơc nhìn thấy Thiên Chúa”. Mối phúc ấy hôm nay được thể hiện nơi Thánh Gioan Tông đồ. Thật vậy, nhờ đồng trinh, Thánh Gioan có diễm phúc nhận ra mầu nhiệm Phục Sinh sớm hơn các tông đồ khác.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, khoa học kỹ thuật càng văn minh tiến bộ thì đời sống con người càng dễ bị tục hoá, người ta càng dễ đánh mất sự nhạy bén của thế giới linh thiêng, với những giá trị tâm linh. Đã có một thời người ta đả kích đời sống độc thân và đức đồng trinh. Người ta bảo như thế là đi ngược với bản năng, trái với luật tự nhiên. Người ta bảo như thế là làm cho con tim bị khô héo, làm cho tình cảm bị cằn cỗi, làm cho con người trở nên bất bình thường. Nhưng lạy Chúa, thực tế lại cho con thấy khác hẳn. Thánh Gioan hôm nay là một điển hình. Nhìn sự kiện mồ trống, Thánh Gioan đã đọc ngay được rằng: Chúa đã sống lại. Rồi khi Chúa hiện ra bảo thả lưới bên hữu thuyền thì chính Thánh Gioan cũng là người đầu tiên nhận ra Chúa. Vâng lạy Chúa, đức đồng trinh đã giúp Thánh Gioan mở mắt linh hồn nhìn rõ hơn người khác.

Khi nhìn lại hơn 2000 năm lịch sử Kitô giáo, con nhìn thấy biết bao đóng góp của những người đồng trinh. Nhờ đức đồng trinh, tâm hồn tự do hơn, dễ dàng tận hiến cho Chúa và các linh hồn hơn. Con cầu nguyện cho Giáo hội có nhiều người biết quý trọng bậc độc thân và đức trinh khiết. Con cầu nguyện cho xứ đạo con có nhiều người được ơn gọi sống đời tận hiến để phục vụ Chúa và các linh hồn.

Con cầu nguyện cho gia đình con dù sống giữa các mối liên hệ gia đình, dù sống giữa thế giới văn minh vật chất hưởng thụ, vẫn biết sống trong trắng, để nhờ đó nhận ra sự hiện diện của Chúa và vươn lên tới những giá trị tâm linh cao cả. Amen.

Ghi nhớ: “Môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô và đến mộ trước ông”.

 

Suy Niệm 9: ,,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Gioan là ai ?

Gioan là con thứ của ông Dêbêđê, làm chủ một thuyền đánh cá trên biển Galilê. Mẹ ông là bà Salômê, dường như bà là chị em với Đức Maria. Cùng với anh là Giacôbê, Gioan vâng theo lời kêu gọi của Chúa Giêsu và đi theo Ngài. Ông là một trong những môn đệ thân tín của Chúa Giêsu, vì trong danh sách các môn đệ Chúa luôn luôn khởi đầu bằng tên Phêrô, Giacôbê và Gioan.Về tính tình, rõ ràng ông là một người xông xáo, nhiều tham vọng. Chúa Giêsu đặt cho ông một cái tên cúng cơm: Boanet. Tên này có nghĩa là con của sấm sét. Giacôbê và Gioan là những người hết sức độc đoán và bất khoan dung, tính tình nóng nảy. Có lần họ đã muốn tiêu diệt cả một làng người Samaria chỉ vì dân làng này không chịu tiếp đón đoàn của Chúa khi Chúa phải đi qua đó. Ông cũng là người có nhiều tham vọng. Có lần cùng với Giacôbê và qua bà mẹ, đã công khai xin được ngồi bên phải bên trái Chúa trong Nước của Ngài. Tin Mừng còn cho chúng ta biết chính Phêrô và Gioan là những người được trao cho việc thu xếp bữa ăn tối cuối cùng.2. Trong sách công vụ, Gioan xuất hiện như bạn đồng hành của Phêrô. Ông cùng đi với Phêrô lúc Phêrô chữa người què tại Cửa Đẹp. Cũng cùng với Phêrô, ông bị kéo ra Tòa Công Luận và đã dũng cảm đối diện với các nhà cầm quyền Do Thái khiến họ phải kinh ngạc. Cùng với Phêrô, ông đã đi từ Jêrusalem đến Samaria để chăm sóc công tác mà Philipphê đã làm. Gioan là con người phức tạp. Ông là một trong các lãnh tụ của mười hai tông đồ, là một trong các môn đệ thân tín nhất của Chúa Giêsu. Ông là một người nóng tính, nhiều tham vọng, bất khoan dung, nhưng cũng rất dũng cảm.

Chúng ta có thể biết thêm về Gioan nhờ những câu chuyện được kể trong Hội Thánh đầu tiên. Eusêbiô cho biết, ông bị đày sang đảo Patmos dưới thời trị vì của Domitianô. Eusêbiô đã thuật lại một câu chuyện độc đáo về Gioan mà ông được nghe Clêmentê kể lại. Khi Gioan làm Giám mục tại Tiểu Á, ông đến thăm một cộng đoàn gần Êphêsô. Nhìn thấy trong đám tín hữu có một thanh niên cao lớn, khôi ngô, ông quay sang vị giáo sĩ đang phụ trách cộng đoàn ấy và nói:- Tôi trao chàng thanh niên này cho ông lo lắng chăm sóc. Tôi yêu cầu cộng đoàn làm chứng là tôi đã giao cho ông.

Vị giáo sĩ liền đem chàng thanh niên này về nhà chăm sóc dạy dỗ cho đến ngày chàng được chịu Rửa tội gia nhập đạo. Nhưng chẳng bao lâu sau đó, chàng thanh niên này bị bạn xấu lôi kéo vào con đường tội lỗi. Cuối cùng, anh ta đã trở thành lãnh chúa của một đảng cướp. Ít lâu sau Gioan trở lại thăm cộng đoàn, ông bảo vị giáo sĩ:

– Hãy trả lại cho tôi chàng thanh niên mà tôi và Chúa đã trao cho ông với cộng đoàn mà ông phụ trách.

Lúc đầu, vị giáo sĩ kia chẳng hiểu Gioan muốn nói gì. Gioan nói tiếp:- Tôi hỏi về linh hồn của chàng thanh niên mà tôi đã giao phó cho ông đó.

Vị giáo sĩ đáp:- Than ôi, cậu ta đã chết rồi. Gioan ngạc nhiên hỏi:- Chết rồi à ?

Vị giáo sĩ tiếp:

– Cậu ta đã chết đối với Chúa. Cậu ta đã bỏ Chúa. Sau khi phạm tội trọng, cậu ta đã bỏ thành phố trốn lên núi, và bây giờ là một tướng cướp ở trên núi.

Gioan lập tức lên núi, ông cố tình để cho bọn cướp bắt. Chúng điệu ông đến trước mặt tên lãnh chúa của mình. Nhìn thấy Gioan, anh ta xấu hổ, bỏ chạy cốt ý để tránh mặt ông. Thế nhưng, mặc dầu đã cao tuổi, Gioan vẫn đuổi theo chàng ta. Ông kêu to:- Con ơi, con nỡ chạy trốn cha sao ? Cha đã cao tuổi và yếu lắm rồi, hãy thương cha, con ơi! Đừng sợ! Con vẫn còn hi vọng để được cứu. Cha sẽ đứng với con trước mặt Chúa Giêsu Cứu Thế. Nếu cần, cha sẽ vui lòng chịu chết thay cho con như Ngài đã chịu chết thay cho cha. Hãy đứng lại, hãy đứng lại, hãy tin cha! Chính Chúa Cứu Thế đã sai cha đến cùng con đây. Tiếng gọi làm nát lòng chàng thanh niên. Anh ta dừng lại, vứt bỏ khí giới và khóc. Hai người xuống núi, chàng thanh niên được đưa trở về với Hội Thánh, trở lại cùng Chúa Giêsu. Ở đây, chúng ta thấy tình yêu thương và lòng can đảm của Gioan vẫn hành động.

Chính thánh Hirônêmô đã kể lại câu chuyện về mấy lời cuối cùng của Gioan. Lúc ông hấp hối, các môn đệ hỏi ông còn gì để trối lại cho họ không. Ông bảo: “Hỡi các con bé bỏng của ta, hãy yêu mến lẫn nhau”. Ông lặp đi lặp lại nhiều lần, họ lại hỏi ông phải đó là tất cả những gì ông muốn nói hay không, ông đáp: “Như thế là đủ, vì đó là mệnh lệnh của Chúa”.

Gioan sống rất lâu, đến độ có tiếng đồn ông sẽ sống cho đến lúc Chúa Giêsu trở lại. Gioan sống để làm chứng nhân cho Chúa. Chúng ta cũng xin Chúa cho chúng ta trở thành chứng nhân cho Ngài.

 

Ngày 28/12 – Lễ kính các Thánh Anh Hài

 

LỜI CHÚA: Mt 2, 13-18

Khi các đạo sĩ ra đi, thiên thần Chúa hiện ra với ông Giuse trong lúc ngủ và bảo ông: “Hãy thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và ở đó cho tới khi tôi báo lại ông, vì Hêrođê sắp sửa tìm kiếm Hài Nhi để sát hại Người”. Ông thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ Người lên đường trốn sang Ai-cập đang lúc ban đêm. Ông ở lại đó cho tới khi Hêrođê băng hà, hầu làm trọn điều Chúa dùng miệng tiên tri mà phán rằng: “Ta gọi con Ta ra khỏi Ai-cập”.

Bấy giờ Hêrođê thấy mình bị các đạo sĩ đánh lừa, nên nổi cơn thịnh nộ và sai quân đi giết tất cả con trẻ ở Bêlem và vùng phụ cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo thời gian vua đã cặn kẽ hỏi các đạo sĩ. Thế là ứng nghiệm lời tiên tri Giêrêmia đã nói: Tại Rama, người ta nghe tiếng khóc than nức nở, đó là tiếng bà Rakhel than khóc con mình, bà không chịu cho người ta an ủi bà, vì các con bà không còn nữa.

 

Suy Niệm 1: Khóc thương con mình

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Trong tuần Bát Nhật Giáng Sinh, một thời gian rất vui,

chúng ta cũng nhớ đến cái chết của các Thánh Anh Hài.

Không rõ đã có bao nhiêu trẻ thơ bị giết bởi vua Hêrôđê Cả.

Vị vua này điên cuồng bảo vệ ngôi báu nên đã giết nhiều người,

trong số đó có người vợ Do Thái và ba con trai của ông.

Đối với ông, việc sát hại trẻ thơ ở Belem chỉ là chuyện nhỏ.

Trước khi giết các bé trai ở Belem, vua đã muốn giết Hài Nhi Giêsu.

Nhưng Thiên Chúa có cách bảo vệ cho Con của Ngài.

Giuse vẫn là người đứng mũi chịu sào trong cơn nguy khó.

Sứ thần báo mộng cho ông, để ông đưa Hài Nhi và Mẹ trốn qua Ai Cập.

Khi được báo, ông đã trỗi dậy giữa đêm khuya và lên đường.

Cuộc trốn chạy vội vã trong đêm với những lo sợ, thiếu thốn, vất vả.

Ngay từ khi chào đời, Đức Giêsu đã bị đe dọa, phải sống xa quê nhà.

Đấng đem đến ơn cứu độ lại cần được cứu.

Đau khổ và thập giá đã có mặt ngay từ khi Vầng Dương ló rạng.

Biết Hài Nhi Giêsu đã trốn thoát, vua Hêrôđê nổi cơn thịnh nộ,

vì thấy mình bị mắc lừa bởi các nhà Đạo sĩ.

Ông bực tức ra lệnh giết các bé trai dưới hai tuổi ở Belem.

Tiếng khóc của trẻ thơ và của các bà mẹ vang lên như oán than.

Có ai còn nghe tiếng hát cao vút của các thiên thần?

Cái chết của Các Thánh Anh Hài là cái chết đặc biệt,

cái chết của những nạn nhân bé bỏng, vô tội, chưa có ý thức và tự do.

Cái chết của những người chưa biết nói, chưa có lòng tin vào Giêsu.

Nhưng đây là cái chết vì Đức Giêsu, nên thực sự là cái chết tử đạo.

Có bao nhiêu cái chết như thế trên thế giới mỗi ngày.

Cái chết không tự nguyện, không tiếng nói phản kháng.

Cái chết làm bằng chứng về một giá trị quan trọng bị chối bỏ.

Cái chết ấy có thể đưa người ta về với Giêsu.

Thế giới hôm nay vẫn có bao trẻ thơ chết vì bị giết.

Có những trẻ thơ chết trong lòng mẹ,

chết vì nghèo đói, vì chiến tranh, vì bệnh tật.

Có những trẻ em phải nghỉ học để đi làm, bị bóc lột bởi chủ nhân.

Có những em bị lạm dụng, bị bỏ rơi, tuổi thơ bị cướp mất.

Nơi những em này, ta thấy hình bóng của Các Thánh Anh Hài,

và thấy cả khuôn mặt của Hài Nhi Giêsu ngây thơ.

Xúc phạm đến trẻ thơ là xúc phạm đến chính Thiên Chúa.

Thánh Giuse và Mẹ Maria đã bảo vệ Hài Nhi Giêsu an toàn tại Ai Cập.

Ai sẽ bảo vệ những trẻ em hôm nay khỏi bao tấn công của cái xấu?

Ai sẽ làm gương sáng để các em còn hy vọng?

Vẫn có những tiếng khóc của các bà mẹ, vì con bị giựt khỏi tay mình.

Lễ Giáng Sinh và lễ các Thánh Anh Hài là lễ của trẻ thơ.

Chăm sóc cho trẻ thơ hiện tại là cách xây dựng tốt nhất cho tương lai.

Xin Chúa cho chúng ta dám làm một điều gì đó cho các em.

 

Cầu nguyện:

Lạy Cha nhân ái, từ trời cao,

xin Cha nhìn xuống

những gia đình sống trên mặt đất

trong những khu ổ chuột tồi tàn

hay biệt thự sang trọng.

Xin thương nhìn đến

những gia đình thiếu vắng tình yêu

hay thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu,

những gia đình buồn bã vì vắng tiếng cười trẻ thơ

hay vất vả âu lo vì đàn con nheo nhóc.

Xin Cha nâng đỡ những gia đình đã thành hỏa ngục

vì chứa đầy dối trá, ích kỷ, dửng dưng.

Lạy Cha, xin nhìn đến những trẻ em trên thế giới,

những trẻ em cần sự chăm sóc và tình thương

những trẻ em bị lạm dụng, bóc lột, buôn bán,

những trẻ em lạc lõng bơ vơ, không được đến trường,

những trẻ em bị đánh cắp tuổi thơ và trở nên hư hỏng.

Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ

từng gia đình là hình ảnh của thánh Gia Thất,

từng trẻ em là hình ảnh của Con Cha thuở ấu thơ.

Xin Cha sai Thánh Thần Tình Yêu

đem đến hạnh phúc cho mỗi gia đình;

nhưng xin cũng nhắc cho chúng con nhớ

hạnh phúc luôn ở trong tầm tay

của từng người chúng con. Amen.

 

Suy Niệm 2: Đi trong ánh sáng

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Thánh Gio-an đưa ra một cách nói khác của Thiên Chúa là tình yêu. Đó là định nghĩa: “Thiên Chúa là ánh sáng”. Con Chúa giáng trần chiếu ánh sáng vào trần gian. Từ đó có cuộc chiến khốc liệt giữa ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng yêu thương rực rỡ đem lại an bình. Đem lại hiệp thông. Nhưng bóng tối là thù hận ghen ghét. Là chia rẽ bất hoà. Là gian tham độc ác. Là đàn áp bất công. Khi ánh sáng đến bóng tối run sợ. Sợ vì bóng tối bị phá tan. Sợ vì những ám muội bị phơi trần.

Hê-rô-đê tượng trưng cho bóng tối. Ham hố quyền lực. Tìm đủ cách để có quyền lực. Có quyền lực rồi tìm mọi cách để bảo vệ ngai vàng. Ông hoàn toàn thuộc về bóng tối. Bóng tối thống trị ông. Đời ông chìm ngập trong bóng tối. Không còn lương tri. Không có trái tim. Nói dối để gài bẫy ba nhà đạo sĩ. Giết hàng loạt trẻ em vô tội. Bóng tối tàn ác hiểm độc. Và nhất thời ta tưởng như bóng tối đã che lấp được ánh sáng. Hận thù tràn ngập thế giới.

Ánh sáng ban đầu quá yếu ớt. Như Chúa Giê-su “sơ sinh bọc tã, nằm trên máng cỏ”. Như các trẻ em bị giết chết oan ức. Như các bà mẹ chỉ biết khóc tức tưởi. Như dân làng chỉ biết nhẫn nhục chịu đựng. Nhưng ánh sáng càng lúc càng sáng lên mạnh mẽ. Sáng lên trong lương tri để nhận biết đâu là lẽ phải. Sáng lên trong trái tim để biết tình yêu là lẽ sống. Với thời gian những cái chết vô tội trở thành lời buộc tội cường quyền. Những tiếng khóc tức tưởi trở thành bản án cho lương tâm. Những nhẫn nhục âm thầm trở thành lực lượng tái thiết thế giới.

Các thánh Anh Hài không hiểu vì sao mình bị giết. Nhưng giờ đây chúng ta hiểu. Các ngài bị giết vì liên hệ với Chúa Giê-su. Bị giết vì Chúa. Các ngài được hiệp thông với Chúa. Các ngài đi trong ánh sáng. Trở thành lực lượng xây dựng thế giới. Thức tỉnh lương tri. Rung động trái tim. Khơi nguồn hiệp thông.

Ba Vua đã theo đường khác mà về. Không đi về đường của Hê-rô-đê. Gặp Chúa rồi các ngài giã từ con đường đi vào bóng tối. Để đi vào con đường ánh sáng.

Cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối còn kéo dài và khốc liệt. Chúng ta cần sức mạnh của Chúa để có thể đi vào con đường ánh sáng. Để chiếu lên ánh sáng. Để yêu thương và sự sống tràn ngập địa cầu.

 

Suy Niệm 3: Lễ Kính Các Thánh Anh Hài

(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)

“Dù một chấm một phẩy trong Kinh Thánh

cũng không bỏ qua cho đến khi tất cả được nên trọn”.

Không cần phải đưa Hài Nhi ra khỏi Ai Cập, chỉ cần đi xa vài làng mạc thành phố thôi cũng đủ để thoát khỏi bàn tay sát hại của Hêrôđê, hoặc có thể khiến cho ba đạo sĩ không đi ngang qua lối ấy để vua Hêrôđê không biết. Thế nhưng để ứng nghiệm lời tiên tri như đã chép mà Chúa đã làm như vậy. Từ đó chúng ta nhớ lại đoạn Phúc Âm Chúa Giêsu đã nói: “Ai tuân giữ và dạy người khác thực hành những điều nhỏ mọn nhất trong luật Chúa thì sẽ là kẻ lớn nhất trong Nước Trời”.

Chúng ta đừng hiểu theo nghĩa đen như những người biệt phái và luật sĩ ngày xưa, nhưng phải đem tinh thần của lề luật vượt lên trên hết tất cả mọi điều luật. Ðó là tình yêu khoan dung bao la tha thứ của Thiên Chúa đối với những người ăn năn hối cải quay trở về với người Cha nhân từ.

Hôm nay lễ kính các thánh Anh Hài Tử Ðạo, chúng ta nói qua về vấn đề có tội và vô tội. “Nhân vô thập toàn”, không ai là hoàn toàn cả: “Tinh thần thì hăng hái, xác thịt thì nặng nề”. Nhóm người cổ Hy Lạp ngày xưa cùng thời với Platon, Aristote cho thân xác là tù ngục của linh hồn là thế. Cho nên nếu chúng ta nói: “Tôi là người vô tội” thì coi chừng tôi đang lừa dối tôi đấy. Thánh Phaolô đã cảnh tỉnh chúng ta: “Khi anh em tin rằng, anh em mạnh mẽ đứng vững, anh em hãy coi chừng kẻo ngã đấy”.

Trong bài Thánh Thư hôm nay, thánh Gioan Tông Ðồ có viết thêm: “Nếu chúng tôi nói rằng chúng tôi không phạm tội thì chúng tôi là kẻ kêu Ðức Giêsu Kitô là kẻ nói dối và lời của Ngài không có ở trong chúng tôi”. Vì sao? Vì Ðức Kitô đến để chuộc tội cho nhân loại tội lỗi, trong đó có mỗi người trong chúng ta. Thánh Gioan còn nói rõ hơn nữa: “Chính Ðức Kitô là của lễ đền tội chúng ta, không nguyên đền tội chúng ta mà thôi nhưng còn đền tội cho cả thế gian nữa”. Như thế không ai trong chúng ta là kẻ vô tội.

Lúc mới sinh ra, con người đã mang lấy tội Tổ Tông ngoại trừ Ðức Kitô là Thiên Chúa làm người, ngoại trừ Mẹ Maria được ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội, và như Gioan Tẩy Giả được Mẹ Maria mang Chúa đến viếng thăm, dù đang ở trong bụng mẹ cũng đã nhảy mừng và thoát khỏi tội Tổ Tông, còn tất cả chúng ta đều mắc tội Tổ Tông.

Khi lớn lên tới tuổi khôn là tuổi nhận biết, phân biệt được hành vi việc làm của mình, Giáo Hội xác định là bảy tuổi, tức là chúng ta bắt đầu tới tuổi khôn, bắt đầu thêm tội mình nữa. Có một thánh nhân đã thú nhận: “Trong một ngày hai mươi bốn tiếng đồng hồ, không khỏi có năm phút sai lỗi”. Tội nặng hay nhẹ tùy hai yếu tố quan trọng sau đây:

  1. Lý do bởi luật buộc là nặng.
  2. Do sự chú ý cố tình sai phạm khi biết đó là tội trọng.

Vậy phạm một tội trọng cũng không phải là chuyện dễ, vì phải gồm có hai yếu tố trên.

Con người tuy mang lấy bản tính yếu đuối hay sa ngã, chán nản, mỏng dòn nhưng con người được Thiên Chúa biết và thông cảm cho. Nếu trong một ngày, người anh em con phạm tội đến con và nói với con rằng: “Tôi hối hận” thì con cũng phải tha thứ cho anh em con bảy lần không?” Chúa Giêsu trả lời: “Thầy không bảo con phải tha bảy lần, nhưng là bảy mươi lần bảy, nghĩa là phải tha thứ luôn luôn”.

Vì nếu chúng ta tính được tới bảy mươi lần bảy thì chúng ta đã trở thành máy móc, trở thành thói quen quán tính tha tội cho người anh em của mình mãi. Chúa đã dạy chúng ta như thế, phương chi lòng Chúa càng phải bao dung tha thứ biết bao nhiêu lần. Tội hay vô tội, vấn đề đó không quan trọng, quan trọng của vấn đề là có lòng thống hối ăn năn hay không? Ðược tha nhiều sẽ mến Chúa nhiều hơn, như Maria Madalena trong Phúc Âm đã xức dầu thơm chân Chúa, như Phanxicô Xaviê, Augustinô chẳng hạn. Từ đó, con người đam mê trong trụy lạc thời còn trai trẻ được Thiên Chúa cho giác ngộ để dấn thân theo tiếng Chúa gọi và trở nên những vị thánh nổi tiếng lừng danh trong Giáo Hội.

Lạy Chúa, trong ngày lễ kính các Thánh Anh Hài hôm nay, xin cho mỗi người chúng con ý thức được vấn đề tội lỗi và tình thương của Chúa để chúng con sống đẹp lòng Chúa hơn trong giây phút hiện tại. Amen.

 

Suy Niệm 4: Tàn sát các hài nhi

Lễ Giáng sinh trước tiên là lễ của Nhi đồng. Như Đức Gioan Phaolô II đã viết trong thư gửi các thiếu nhi trên thế giới nhân năm quốc tế gia đình: “Những gì đã xảy ra cho Hài nhi Giêsu ở Belem cũng xảy ra cho các trẻ em trên khắp thế giới. Có biết bao trẻ em đang là nạn nhân của đói khổ, của chiến tranh, đang bị cha mẹ bỏ rơi, đang sống cảnh màn trời chiếu đất, đang đau khổ vì biết bao hình thức bạo động và gây hấn của người lớn”.

Để có một vài con số cụ thể, chúng ta chỉ cần lắng nghe báo cáo của tổ chức Nhi đồng quốc tế (UNICEF) về tình trạng trẻ em trên thế giới năm 1995 như sau: “Trong những thập niên cuối của thế kỷ 20 đang có khoảng 2 triệu trẻ em chết vì chiến tranh, từ 4 đến 5 triệu tật nguyền, hơn 5 triệu sống trong các trại tị nạn, trên 12 triệu sống cảnh không nhà không cửa”. Bản báo cáo ước tính cần phải có ít nhất 34 tỉ Mỹ kim mới có thể đảm bảo các nhu cầu về dinh dưỡng, sức khoẻ, giáo dục cho các trẻ em trên khắp thế giới.

Vài con số trên đây đặt chúng ta trước một trong những thảm trạng của thời đại, đó là sự chà đạp hay chối bỏ quyền của trẻ em. Qui ước của Liên hiệp quốc về quyền của trẻ em đã được 167 quốc gia ký tên chuẩn nhận, thế nhưng trong thực tế bao khốn khổ mà trẻ em tại những nước nghèo đang trải qua lại là một chối bỏ quyền của trẻ em. Thảm trạng đã xảy ra cho trẻ em Do thái thời Chúa Giêsu sinh ra, ngày nay cũng đang tiếp diễn trên khắp thế giới. Vấn đề trẻ em là một vấn đề chiến lược của thế giới, vấn đề trẻ em là vấn đè chính sách của quốc gia, những nhà lãnh đạo thế giới và những nhà cầm quyền trong một quốc gia phải chịu trách nhiệm trước nhân loại và dân tộc mình về thảm trạng của các thiếu nhi.

Tuy nhiên, chính những người Kitô hữu cũng cần phải ý thức rằng với tư cách là cha mẹ, là anh chị, là người thân trong gia đình, tất cả chúng ta đều là những người trước tiên có trách nhiệm đối với con em chúng ta. Thánh Giuse và Đức Maria đã lặn lội đưa Hài nhi trốn sang Ai cập, đó là điển hình của những bậc cha mẹ có trách nhiệm đối với sự sống còn của con cái. Sống cho con cái, giáo dục chúng nên người, đó là trách nhiệm hàng đầu của bậc cha mẹ.

Nguyện xin Hài nhi Giêsu mà chúng ta chiêm ngắm trong máng cỏ soi sáng hướng dẫn chúng ta trong trọng trách dưỡng dục con cái. Xin Ngài đánh động chúng ta trước thảm cảnh của biết bao trẻ em đang lâm cảnh khốn khổ chung quanh chúng ta và ban cho chúng ta tấm lòng quảng đại để góp phần xoa dịu thương đau của dân tộc mà chính các thiếu nhi phải gánh chịu.

 

Suy Niệm 5: Quyền trẻ em có còn được tôn trọng?

“Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”. Đây là quy luật mà ai cũng phải biết.

Tuy nhiên, có một sự thật đau buồn về tình trạng cuộc sống của các trẻ em hiện nay: theo thống kê của các tổ chức quốc tế, ngày nay có hàng triệu triệu trẻ em chết vì chiến tranh, tật nguyền; hay sống trong hoàn cảnh thiếu thốn tại các trại tỵ nạn và nơi các đường phố, gầm cầu… Biết bao trẻ em thất học, không được đến trường. Tệ hơn nữa là có quá nhiều trẻ em chết dưới bàn tay của chính các bậc làm cha mẹ khi họ quyết định phá thai…!

Tất cả đều do sự chểnh mảng, thiếu quan tâm, vô nhân và chối bỏ quyền của các trẻ em nơi những nhà lãnh đạo, các tổ chức và ngay cả các bậc làm cha mẹ trong các gia đình…

Thảm trạng đau buồn hiện nay của thế giới về các trẻ em cũng chính là đại họa mà các thánh Anh Hài thời Đức Giêsu phải chịu dưới sự tàn độc, ích kỷ, ghen tương của vua Hêrôđê.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy đứng lên, tùy khả năng và trách nhiệm của mỗi người, hãy bảo vệ quyền trẻ em. Không ai được phép đứng nhìn những thảm trạng bi đát mà các trẻ em đang phải hứng chịu do nạn buôn bán, bóc lột, lạm dụng và vô lương tâm của người lớn gây nên…

Hãy ý thức vai trò và trách nhiện cao cả của thiên chức làm cha làm mẹ trong các gia đình, không bao giờ chúng ta cho phép mình có quyền trên sự sống sự chết của các trẻ em, dù các em mới là bào thai. Nên nhớ quyền đó thuộc về Thiên Chúa và không ai được phép cướp quyền của Người. Thiên Chúa luôn muốn cho con người được hạnh phúc và được sống dồi dào. Chính vì lý do đó mà Ngài đã giáng sinh để cứu chuộc con người.

Hình ảnh thánh Giuse và Đức Maria vội vã trong đêm đem Hài Nhi trốn sang Aicập đủ cho chúng ta thấy trách nhiệm của các ngài với Đức Giêsu.

Vì vậy, khi mừng lễ các thánh Anh Hài, chúng ta không gợi lại một thảm trạng buồn, nhưng đây là cơ hội để chúng ta học được bài học về tinh thần trách nhiệm, sống hết mình vì con cái như Đức  Mẹ và thánh Giuse. Mặt khác, đây cũng chính là dịp để chúng ta hồi tâm nhằm nhận ra sự hờ hững, thiếu trách nhiệm trong việc nuôi nấng và giáo dục con cái. Hơn nữa, nếu có ai đó trong cộng đoàn đã một lần phá thai hay cổ vũ, tiếp tay cho tội ác tầy trời này, thì đây là thời thuận tiện để chúng ta nhận ra hình ảnh Hêrôđê ác độc qua hành vi mất nhân tính của mình để sám hối và xin ơn tha thứ cũng như biến đổi.

Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, xin Chúa ban cho chúng con biết ý thức vai trò và trách vụ phải có đối với các trẻ em. Xin Chúa gìn giữ và bảo vệ các trẻ em thoát khỏi những nanh vuốt của những Hêrôđê thời hiện đại khi họ khước từ quyền trẻ em.

Xin Chúa cũng ban cho có nhiều tổ chức từ thiện, nhiều tấm lòng quảng đại ra tay cứu giúp các trẻ em nhằm xoa dịu những đau thương mà các trẻ em phải gánh chịu trong xã hội hiện nay. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Những vị thánh âm thầm vô danh

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Các Thánh Anh Hài là những vị thánh đã chết vì Đức Kitô mà không hay biết mình chết vì Đạo. Các Ngài là kiểu mẫu của rất nhiều vị thánh âm thầm vô danh, trong đó có chúng ta.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, Giáo hội Việt Nam chúng con có 117 vị tử đạo được nêu danh tánh, gốc gác, được Đức Giáo Hoàng tôn phong lên bậc Hiển thánh cho cả thế giới tôn kính noi gương. Nhưng quê hương chúng con có cả hàng trăm nghìn vị khác cũng đã chết vì đạo mà chẳng được ai biết rõ danh tánh. Đó cũng là thân phận của đa số chúng con.

Chúng con là những người cha lam lũ, chúng con là những người mẹ tất bật suốt ngày, chúng con là những người trẻ ăn chưa no, lo chưa tới. Công việc của chúng con rất tầm thường. Hằng ngày chúng con phải vì Chúa mà vác thánh giá và chấp nhận hy sinh. Nhưng chúng con là những người vô danh không được ai biết đến, không được ai nhắc nhở. Dù vậy lạy Chúa, trong ánh sáng của mầu nhiệm Giáng Sinh, Chúa mời gọi chúng con nhìn vào những giá trị của những hy sinh âm thầm từng ngày. Xin cho chúng con hiểu được ý nghĩa và giá trị của cuộc sống hy sinh, âm thầm, độc điệu hàng ngày. Xin cho chúng con nhìn thấy Con Chúa trong dáng vẻ yếu ớt bé bỏng của một Hài Nhi nằm trong máng cỏ. Xin cho chúng con nhìn ra Đấng Cứu Độ trong dáng vẻ của một người dân quê làng Na-da-rét vô danh bé nhỏ.

Lạy Chúa, ơn thánh đã làm cho phận liễu yếu thơ nhi của các thánh Anh Hài trở nên chứng tá và cột trụ của đức tin Giáo Hội. Xin cho con hiểu được rằng bản thân con, một Kitô hữu bé nhỏ tài hèn, cũng là một thành phần của Hội Thánh và cũng có thể góp phần tích cực để xây dựng Hội Thánh. Amen.

Ghi nhớ: “Hêrôđê giết hết các con trẻ ở Bêlem”.

 

Suy Niệm 7: Chúa Giêsu là Môsê mới

(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)

Phân tích

Đoạn này viết theo văn thể Midrash nhằm cho thấy Chúa Giêsu là Môsê mới:

– Ngày xưa ở Ai Cập, một bạo vương đã tàn sát các trẻ sơ sinh Do Thái, nhưng trẻ Môsê đã được Thiên Chúa che chở, sau này chính Môsê đã đưa dân Chúa ra khỏi Ai Cập và tiến vào Đất Hứa.

– Ngày nay, Hêrôđê cũng tàn sát các hài nhi, nhưng Chúa Giêsu đã thoát chết. Ngài sẽ dẫn Dân Mới (Giáo Hội) thoát ách nô lệ tội lỗi và tiến vào Đất Hứa thực sự.

Suy gẫm

  1. Trong thư gởi các thiếu nhi thế giới ngày 3/12/1994 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II viết: “Những ngày tiếp theo ngày sinh của Chúa Giêsu cũng là những ngày lễ (… ). Ngay từ những ngày đầu sau khi sinh hạ, Hài Nhi Giêsu đã phải đương đầu với một đe dọa trầm trọng: bạo vương Hêrôđê ra lệnh tàn sát các trẻ thơ dưới hai tuổi, và vì lý do này Chúa Giêsu bị bắt buộc cùng với cha mẹ trốn sang Ai Cập… ” Mầu nhiệm giáng sinh gắn liền với mầu nhiệm tử nạn. Trong Hài Nhi nằm trong máng cỏ nghèo hèn, cuộc tử nạn đã được báo trước… Trong ánh sáng của mầu nhiệm giáng sinh, phải chăng chúng ta không được mời gọi nhận ra bóng đêm của mầu nhiệm tử nạn? Bóng Thập Giá phải chăng đã không phủ trên máng cỏ của Hài Nhi Giêsu?
  2. Vấn đề đau khổ, nhất là đau khổ của kẻ vô tội, đặc biệt là đau khổ của những trẻ thơ, đã là một thắc mắc khó hiểu đối với nhiều người. Chuyện các Thánh Anh Hài chịu chết giúp ta bớt thắc mắc giá trị cái chết của các em. Cái chết ấy góp phần vào việc thực hiện kế hoạch Thiên Chúa cứu độ muôn người. Tấm gương này mời ta hãy nhìn đau khổ theo con mắt của Chúa.
  3. Con sâu trong tảng đá: Một hôm Đức Ala gọi một Thiên Sứ đến và truyền lệnh: “Ngươi hãy xuống trần gian để đưa về đây người đàn bà góa có 4 đứa con thơ. ” Thiên sứ ra đi, gặp ngay người đàn bà góa đang cho đứa con nhỏ nhất bú. Ngài nhìn người đàn bà với 4 đứa con dại, rồi lại lên Đức Ala để tha thiết nài xin rút lại lệnh truyền. Làm sao có thể nhẫn tâm tách lìa người mẹ khỏi những đứa con thơ ấy? Nhưng lời van xin của Thiên Sứ chẳng mảy may đánh động được Đức Ala. Cuối cùng Thiên Sứ đành phải vâng lệnh Đức Ala mà cướp người mẹ góa khỏi bầy con thơ và đưa về trời.

Hoàn thành công tác, nhưng xem chừng vị Thiên Sứ lại có vẻ buồn. Phải, làm sao vui được trước cảnh chia ly giữa mẹ và con? Thấy Thiên Sứ buồn, Đức Ala gọi đến và đưa vào sa mạc. Ngài chỉ cho thấy một tảng đá lớn và bảo đập nó ra. Tảng đá vừa vỡ đôi, Thiên Sứ ngạc nhiên vô cùng, vì từ trong tảng đá một con sâu nhỏ từ từ bò ra. Chợt hiểu được ý nghĩa của sự kiện ấy, vị Thiên Sứ bỗng thốt lên: “Ôi lạy Đấng Tối Cao, mầu nhiệm thay công cuộc sáng tạo của Ngài. Với sự khôn ngoan thượng trí và tình yêu vô biên, Ngài đã không bỏ mặc một tạo vật bé nhỏ như con sâu kia, thì hẳn Ngài cũng sẽ không quên được 4 đứa trẻ mồ côi là con cái của Ngài. ”

  1. Bạn xét đoán Chúa chỉ vì không thể thấy kế hoạch của Ngài vì những đau khổ của bạn, giống như con chuột chui vào cây đàn piano gặm nhấm dây đàn làm nhạc sĩ rối loạn khi biểu diễn bản nhạc của Chopin hoặc Beethoven. Với trí óc nhỏ bé, chuột nghĩ rằng nó đâu làm gì, nhưng cả vũ trụ bị đảo lộn. Khi xét đoán kế hoạch của Chúa theo quan điểm của ta, phải chăng sự thể cũng như vậy?

Tương tự, con nhện cuốn tơ trên một xà sắt, sẽ bất mãn khi cây xà được chuyển đi xây một cây cầu. Nó chẳng bao giờ nghĩ rằng kế hoạch của một kỹ sư có giá trị hơn tơ của nó…

  1. “Vua Hêrôđê thấy mình bị các nhà chiêm tinh đánh lừa thì đùng đùng nổi giận, nên sai người đi giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và toàn vùng lân cận từ hai tuổi trở xuống” (Mt 2,16)

Chẳng bao lâu sau tiếng đàn ca xướng hát của các thiên thần trong đêm Chúa Giáng Sinh là tiếng khóc than rền rĩ của những bà mẹ mất con trong cuộc sát hại con trẻ ở Bêlem của Hêrôđê. Chẳng lẽ việc Chúa ra đời lại là nguyên nhân gây ra cái chết của trẻ thơ vô tội? Không, Thiên Chúa đã tạo dựng con người và ban cho con người tự do. Hêrôđê có tự do, và ông đã lạm dụng tự do để sát hại trẻ thơ, hầu trút cơn giận dữ và thoả lòng ghen tị. Tôi cũng có tự do, và tự do của tôi đã được sử dụng để vun đắp sự sống hay để huỷ diệt?

Cầu nguyện: Lạy Chúa, thế giới con đang sống còn đầy những thảm họa do con người đã lạm dụng tự do của mình. Xin cho con biết sử dụng tự do để làm vinh danh Chúa hơn và mang lại niềm vui hạnh phúc cho mọi người.

 

Suy Niệm 8: Các thánh Anh Hài

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Ba nhà chiêm tinh thờ lạy Chúa Hài Đồng xong thì ra về. Chúa liền sai Thiên thần đến báo tin cho thánh Giuse đem Hài nhi và Mẹ Người trốn sang Ai Cập vì vua Hêrôđê đang tìm giết Người.

Vua Hêrôđê trông mãi không thấy ba nhà chiêm tinh trở lại cho biết Hài Nhi Giêsu sinh ra ở đâu thì tức giận, sai quân lính đi giết hết  các trẻ mới sinh từ hai tuổi trở xuống, ở làng Belem và các làng lân cận. Ông ta đinh ninh khi giết hết các trẻ như thế thì giết được Hài Nhi Giêsu để bảo vệ ngôi vua của ông ta. Như thế, đúng theo lời tiên tri Giêrêmia đã báo trước: Ở Rama, người ta than khóc thảm thiết vì con mình đã bị giết.

  1. Trong thư gửi các thiếu nhi thế giới ngày 3/12/1994 Đức Gioan Phaolô II viết: “Những ngày tiếp theo ngày sinh của Chúa Giêsu cũng là những ngày lễ (… ) Ngay từ những ngày đầu sau khi sinh hạ, Hài Nhi Giêsu đã phải đương đầu với một đe dọa trầm trọng: bạo vương Hêrôđê ra lệnh tàn sát các trẻ thơ dưới hai tuổi, và vì lý do này Chúa Giêsu bị bắt buộc cùng với cha mẹ trốn sang Ai cập… ” Mầu nhiệm giáng sinh gắn liền với mầu nhiệm tử nạn. Trong hài nhi nằm trong máng cỏ nghèo hèn, cuộc tử nạn đã được báo trước… Trong ánh sáng của mầu nhiệm giáng sinh, phải chăng chúng ta không được mời gọi nhận ra bóng đêm của mầu nhiệm tử nạn? Bóng thập giá phải chăng đã không phủ trên máng cỏ của Hài Nhi Giêsu? (Mỗi ngày một tin vui).
  2. Con Thiên Chúa làm người ở giữa chúng ta, trở thành niềm vui mừng cho người này và nỗi buồn bực của người kia. Tùy tâm trạng mỗi người. Các trẻ thơ bị Hêrôđê giết, báo trước cái chết của Đấng sẽ đổ máu ra cứu chuộc loài người. Cái chết của các thánh Anh Hài đã thành lời chứng tuyệt hảo cho Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Vấn đề đau khổ, nhất là đau khổ của kẻ vô tội, đặc biệt là đau khổ của những trẻ thơ, đã là một thắc mắc thấy được giá trị của cái chết của các em. Cái chết ấy góp phần vào việc thực hiện kế hoạch Thiên Chúa cứu độ muôn người. Tấm gương này mời ta  hãy nhìn đau khổ theo con mắt của Chúa.
  3. Hiện nay trên toàn thế giới đang xẩy ra một cuộc thảm sát đẫm máu. Liên hiệp quốc đã tiết lộ rằng: đã có từ 45 đến 55 tiệu sinh mạng con người bị thủ tiêu mỗi năm trước khi chào đời. Chỉ trong có 5 năm, con số phá thai đã tăng lên gấp đôi, do chính luật pháp nhiều quốc gia  đã chính thức cho phép phá thai… Khi giết chết một đứa trẻ còn trong thai, chúng ta không thể lấy bất cứ một đứa trẻ nào khác  trên thế giới  để thay thế được. Biết đâu, đó sẽ là một nhà bác học, một vị thiên tài, hoặc chỉ là một con người bình dị.

Như trường hợp sau đây: người cha mắc bệnh giang mai, mẹ bị lao phổi với một hoàn cảnh rất bi đát: đứa con đầu lòng bị mù, đứa thứ hai mới sinh ra đã chết, đứa thứ ba bị điếc và câm. Đứa thứ tư sớm bị lao phổi. Bây giờ bà mẹ lại mang thai một đứa nữa. Vậy mà, thai nhi ấy đã không bị giết đi. Em đã được sinh ra là người con thứ năm của gia đình, đó chính là Ludwig Beethoven nhạc sĩ thiên tài, tác giả của 9 bản symphonie bất hủ của mọi thời đại.

  1. Có biết bao nhiêu người đang âm thầm đau khổ và hy sinh cầu nguyện  mà không thể thấy được kết quả  của lời cầu nguyện. Có biết bao người âm thầm phục vụ tha nhân cách này cách khác mà không hề được đền đáp hoặc nhắc nhớ.

Trong ánh sáng của mầu nhiệm Giáng sinh, chúng ta được mời gọi để tìm thấy giá trị của những hy sinh âm thầm từng ngày. Sự thinh lặng bé nhỏ của Hài Nhi Giêsu trong hang đá Be Lem, 30 năm âm thầm của Ngài tại Nagiarét: đó là ý nghĩa của cuộc sống phiền toái, độc điệu mỗi ngày mà Hài Nhi Giêsu mời gọi ta  nhận ra giá trị của cuộc sống.

Những đau khổ, những mất mát, khiến chúng ta  nghi ngờ tình yêu của Ngài ư? Hãy xác tín rằng Ngài đang nhìn thấy và cảm thông với từng nỗi khốn khổ của ta, và tình yêu mầu nhiệm của Ngài đang nhào nặn để biến những đắng cay chua xót ấy thành ân phúc cho ta.

  1. Truyện: Con sâu trong tảng đá.

Một hôm, Đức Ala gọi một thiên sứ đến và truyền lệnh: “Ngươi hãy xuống trần gian để đưa về đây người đàn bà góa có bốn đứa con thơ”.

Thiên sứ ra đi. Ngài gặp ngay người đàn bà góa đang cho đứa con nhỏ nhất bú. Ngài nhìn người đàn bà với bốn đứa con dại, rồi lại lên Đức Ala để tha thiết như xin rút lại lệnh truyền. Làm sao có thể nhẫn tâm tách biệt người mẹ khỏi những đứa con thơ ấy? Nhưng ánh mắt van xin của sứ thần chẳng mảy may đánh động được Đức Ala. Cuối cùng, sứ thần đành phải vâng lệnh Đức Ala mà cướp người mẹ góa khỏi bầy con thơ và đem về trời.

Hoàn thành công tác, nhưng xem chừng vị sứ thần lại có vẻ buồn. Phải, vui làm sao được  trước cảnh chia ly giữa mẹ và con. Thấy sứ thần buồn, Đức Ala mới gọi đến và đưa vào giữa sa mạc. Ngài chỉ cho sứ thần thấy một tảng đá lớn và bảo đập nó ra.

Tảng đá vừa vỡ đôi, sứ thần ngạc nhiên vô cùng, vì trong lòng tảng đá một con sâu nhỏ từ từ bò ra. Chợt hiểu được ý nghĩa của sự kiện ấy, sứ thần bỗng thốt lên:

 “Ôi lạy Đấng Tối Cao, mầu nhiệm thay công việc sáng tạo của Ngài. Với sự khôn ngoan thượng trí và tình yêu vô biên, Ngài đã không bỏ mặc một tạo vật bé nhỏ như con sâu kia, thì hẳn Ngài cũng sẽ không quên được bốn đứa trẻ mồ côi là con cái của Ngài”. (Trích D. Wahrheit, Món quà Giáng sinh, tr 307-308).

 

Suy Niệm 9: Đắng cay và đau khổ luôn có giá trị

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Lịch sử cho chúng ta biết rằng, Hêrôđê là một bậc thầy trong nghệ thuật ám sát. Vừa lên ngôi ông đã thủ tiêu các thành viên trong Tòa Án Tối Cao của người Do Thái. Sau đó ông tàn sát các nhân viên trong tòa án mà không cần suy tính trước. Về sau ông lại giết vợ là Mariamne và mẹ nàng là Alexandra. Ông giết luôn con trưởng là Antipater, hai con trai thứ là Alexandre và Aristobolus. Ông cũng đã sắp đặt trước để khi ông lâm chung thì cuộc tàn sát các nhân sĩ tại thành Jêrusalem sẽ được thực hiện. Vì thế Hêrôđê không thể nào lặng lẽ chấp nhận một ấu vương nào đó mới ra đời. Ông đã cẩn thận tra hỏi các nhà thông thái về thời điểm ngôi sao xuất hiện và đã quỉ quyệt suy tính tuổi của Hài Nhi thánh để trù tính biện pháp sát nhân và bây giờ ông mau chóng thi hành kế hoạch man rợ của mình. Ông truyền lệnh giết tất cả bé trai từ hai tuổi trở xuống tại thành Bêlem và các vùng phụ cận. Có điểm cần lưu ý, Bêlem không phải là một thành phố lớn và số bé trai dưới hai tuổi không quá 20-30 hài nhi. Chúng ta không nên nghĩ đến con số hàng trăm em. Thế nhưng, việc này cũng không khiến tội ác của Hêrôđê kém phần khủng khiếp.
  2. Trong thư gởi các thiếu nhi thế giới ngày 3/12/1994 Đức Gioan Phaolô II viết: “Những ngày tiếp theo ngày sinh của Chúa Giêsu cũng là những ngày lễ”. Vâng! Ngay từ những ngày đầu sau khi sinh hạ, Hài nhi Giêsu đã phải đương đầu với một đe dọa trầm trọng: bạo vương Hêrôđê ra lệnh tàn sát các trẻ thơ dưới hai tuổi, và vì lý do này Chúa Giêsu bị bắt buộc cùng với cha mẹ trốn sang Ai Cập…” Như vậy, chúng ta thấy mầu nhiệm Giáng sinh đã được gắn liền với mầu nhiệm tử nạn ngay từ lúc Chúa Giêsu mới chỉ là một hài nhi.
  3. Chính từ biến cố này mà chúng ta hiểu được một phần nào về vấn đề đau khổ, đau khổ của những kẻ vô tội, đặc biệt là đau khổ của những trẻ thơ. Việc các thánh Anh Hài chịu chết hé mở cho chúng ta thấy một phần nào giá trị của những cái chết. Cái chết của các thánh anh hài đã góp phần vào việc thực hiện kế hoạch Thiên Chúa cứu độ muôn người.

Người ta kể rằng: Một hôm Đức Ala gọi một thiên sứ đến và truyền lệnh: “Ngươi hãy xuống trần gian và đưa về đây cho Ta người đàn bà góa có 4 đứa con thơ”. Thiên sứ ra đi, gặp ngay người đàn bà góa đang cho đứa con nhỏ nhất bú. Ngài nhìn người đàn bà với 4 đứa con còn non dại, rồi trở lại với Đức Ala và tha thiết nài xin Người rút lại lệnh truyền. Làm sao có thể nhẫn tâm tách lìa người mẹ khỏi những đứa con thơ ấy? Nhưng lời van xin của sứ thần chẳng đánh động được Đức Ala. Cuối cùng, sứ thần đành phải vâng lệnh Đức Ala mà cướp người mẹ góa khỏi bầy con thơ và đưa về trời. Hoàn thành công tác xong, nhưng xem chừng vị thiên sứ lại có vẻ buồn. Phải, làm sao vui được trước cảnh chia ly giữa mẹ và con? Thấy sứ thần buồn, Đức Ala gọi đến và đưa vào sa mạc. Ngài chỉ cho sứ thần thấy một tảng đá lớn và bảo đập nó ra. Tảng đá vừa vỡ đôi, thì sứ thần hết sức ngạc nhiên, vì từ trong tảng đá đó có một con sâu nhỏ từ từ bò ra. Chợt hiểu được ý nghĩa của sự kiện ấy, sứ thần bỗng thốt lên:- Ôi lạy Đấng Tối Cao, mầu nhiệm thay công cuộc sáng tạo của Ngài. Với sự khôn ngoan thượng trí và tình yêu vô biên, Ngài đã không bỏ mặc một tạo vật bé nhỏ như con sâu kia, thì hẳn Ngài cũng sẽ không quên được 4 đứa trẻ mồ côi là con cái của Ngài. (Trích “Món quà giáng sinh”)

  1. Vâng, sẽ thật là khó hiểu khi chúng ta thấy các em bé vô tội Bêlem phải chết cách oan ức như thế! Phải chờ cho đến ngày chiến thắng Phục Sinh, chúng ta mới có thể hiểu được giá trị những cái chết của các em bé sơ sinh này: chết vì Chúa thì sẽ được sống với Người. Phải, nếu không có biến cố Phục Sinh thì cái chết của các em bé Bêlem hôm nay, cũng như cuộc sống đầy đau khổ của chúng ta thật phi lý, vô nghĩa. Và cuộc đời Chúa Giêsu chỉ là một thất bại đắng cay mà thôi.

Như vậy, từ cuộc tử đạo của Các Thánh Anh Hài, chúng ta có thể rút ra được một bài học quý giá này: trong đức tin, những đắng cay và đau khổ luôn có giá trị của nó. Nếu cái chết của Các Thánh Anh Hài xem ra khó hiểu, thì cuộc đời của chúng ta cũng có những cái khó hiểu: sao Chúa lại chọn một người như tôi nhỉ? Sao Chúa lại thương một người như tôi? Chỉ có tình thương của Chúa mới biết được điều đó.

Lạy Chúa, thế giới con đang sống còn đầy những thảm họa do con người đã lạm dụng tự do của mình. Xin cho con biết sử dụng tự do để làm vinh danh Chúa và mang lại niềm vui hạnh phúc cho mọi người.

 

Ngày 29/12 – Tuần Bát Nhật Giáng Sinh (Lc 2, 22-35)

 

LỜI CHÚA: Lc 2, 22-35

Khi mãn thời hạn thanh tẩy theo Luật Môsê, ông bà đem Chúa Giêsu lên thành Giêrusalem, để dâng cho Chúa, như đã viết trong lề luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là của thánh, dâng cho Thiên Chúa”, và việc dâng lễ vật như đã nói trong lề luật Chúa là “một cặp chim gáy, hoặc hai bồ câu con”.

Và lúc đó tại Giêrusalem có một người tên là Simêon, là người công chính và có lòng kính sợ, đang mong đợi niềm an ủi Israel, có Thánh Thần ở trong ông. Ông được Thánh Thần mách bảo là sẽ không thấy giờ chết đến, trước khi thấy Ðấng Kitô của Chúa. Ðược Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ. Khi cha mẹ bồng trẻ Giêsu đến để thi hành cho Người các nghi thức theo luật dạy, thì ông ẵm lấy Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng: “Lạy Chúa, bây giờ Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an, theo như lời Chúa. Vì chính mắt con đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là ánh sáng đã chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa”.

Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà, và nói với Maria mẹ Người rằng: “Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà, để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ”.

 

Suy Niệm 1: Ơn cứu độ cho muôn dân

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Luật lệ thường làm người ta cảm thấy gò bó, mất tự do.

Người Do Thái phải giữ Luật Chúa đã ban cho Môsê.

Con trai thì phải được cắt bì và đặt tên tám ngày sau khi sinh (Lc 2,21).

Con trai đầu lòng thuộc quyền sở hữu của Thiên Chúa (Xh 13,1-2),

nên cha mẹ phải nộp năm sê-ken bạc cho tư tế

để chuộc lại con cho mình (Ds 3,47-48).

Người phụ nữ sau khi sinh con, bị coi là nhơ uế (Lv 12, 2-8),

phải ở nhà, không được đụng đến vật thánh hay vào Đền thờ.

Bốn mươi ngày sau khi sinh con trai, bà cần làm lễ thanh tẩy.

Bà phải dâng cho Đền thờ một con chiên một tuổi làm lễ toàn thiêu,

và một con chim gáy hay bồ câu để làm lễ tạ tội.

Nếu nghèo, bà chỉ cần dâng một cặp bồ câu non hay chim gáy là đủ.

Giuse và Maria đã vui vẻ giữ những luật này,

dù ngày nay đối với chúng ta, chúng thật là khó hiểu và khó chấp nhận.

Hãy nhìn ngắm đôi vợ chồng nghèo lên Giêrusalem.

Họ đã vượt một quãng đường xa, với đứa con mới hơn tháng tuổi.

Maria chịu thanh tẩy, dù bà biết mình đã cưu mang Đấng Thánh.

Bà đã dâng lễ vật đơn sơ của một người nghèo (c. 24).

Dù Luật không buộc, ông bà cũng đem Con lên Đền thờ để dâng.

Họ muốn con mình thuộc trọn về Thiên Chúa (x. 1 Sm 1, 22).

Ông bà đã không đòi hỏi một đặc ân hay miễn trừ nào.

Giữ Luật là cách họ thể hiện tình yêu đối với Chúa.

Có ai nhận ra đôi vợ chồng với đứa con nhỏ này là ai không?

Có, một người công chính và sùng đạo tên là Simêon.

Thánh Thần hằng ngự trên ông (c. 25),

và nói cho ông biết ông sẽ thấy Đức Kitô trước khi lìa đời (c. 26).

Chính Thánh Thần thúc đẩy ông lên Đền thờ vào lúc này (c. 27).

Bỗng nhiên ông thấy mầu nhiệm lớn lao đang tỏa sáng,

nơi Hài Nhi bé nhỏ, con của đôi vợ chồng nghèo.

Mọi mong chờ lâu nay của ông được đền đáp.

Các mục đồng đã nhận ra Đức Kitô nơi bé thơ quấn tã, nằm máng cỏ,

còn Simêon nhận ra Ngài nơi em bé được bồng ẵm bởi đôi vợ chồng.

Ông đã bồng Hài Nhi trong vòng tay, ngất ngây vì hạnh phúc.

Môi ông bật lên lời chúc tụng của người sẵn sàng nhắm mắt ra đi.

Ơn cứu độ cho muôn dân đã đến đây rồi (cc. 30-31).

Hài Nhi bé nhỏ này là Ánh sáng cho muôn dân,

là Vinh quang cho Dân Ítraen của Đức Chúa (c. 32).

Để nhận ra Chúa trong cuộc sống buồn tẻ hay sôi động hàng ngày,

cần có sự gần gũi thân thiết với Thánh Thần như ông Simêon.

Thánh Thần như trò chuyện, mách bảo, thôi thúc ông từ bên trong.

Thánh Thần soi sáng để ông nhận ra điều lớn lao mắt phàm không thấy.

Nhưng để nghe được sự mách bảo thầm kín của Thánh Thần,

chúng ta cũng phải có sự thánh thiện và lòng khát khao như ông Simêon.

Chẳng còn mơ ước gì ngoài việc được gặp mặt Đức Kitô qua cuộc sống.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

xin cho con nhìn thấy sự hiện diện của Chúa

ở bên con dưới muôn ngàn dáng vẻ.

Chúa hiện diện lặng lẽ

như tấm bánh nơi nhà Tạm,

nhưng Chúa cũng ở nơi những ai nghèo khổ,

những người sống không ra người.

Chúa hiện diện sống động nơi vị linh mục,

nhưng Chúa cũng có mặt ở nơi hai, ba người

gặp gỡ nhau để chia sẻ Lời Chúa.

Chúa hiện diện nơi Giáo Hội

gồm những con người yếu đuối, bất toàn,

và Chúa cũng ở rất sâu

trong lòng từng kitô hữu.

Lạy Chúa Giêsu,

xin cho con thấy Chúa

đang tạo dựng cả vu trụ

và đang đưa dòng lịch sử này về với Chúa.

Xin cho con gặp Chúa nơi bất cứ ai là người

vì họ có cùng khuôn mặt với Chúa.

Xin cho con khám phá ra

Chúa đang hẹn gặp con

nơi mọi biến cố buồn vui của đời thường.

Ước gì con thấy Chúa ở khắp nơi,

thấy đâu đâu cũng là nhà của Chúa.

Và ước gì con đừng bỏ lỡ bao cơ hội gặp Chúa

trên bước đường đời của con. Amen.

 

Suy Niệm 2: Ánh sáng muôn dân

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Cụ già Simeon nhìn thấy Chúa Giêsu xuất hiện như ánh sáng soi đường. Đó chính là ánh sáng tình yêu và sự sống soi vào đêm tối bất hòa chết chóc của nhân loại. Không phải tình yêu nói suông nhưng tình yêu cụ thể bày tỏ bằng việc làm.

Tình yêu đối với Thiên Chúa được bày tỏ qua việc tuân giữ điều răn của Người. Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse không buộc phải giữ luật Môse dâng con đầu lòng cho Thiên Chúa. Nhưng các ngài đã khiêm nhường và vâng lời tuân giữ để tỏ lòng hiếu thảo với Đức Chúa Cha. Chúa Giêsu đến không phải để bãi bỏ lề luật nhưng để kiện toàn. Người Do thái tuân thủ lề luật vì sợ hãi, nên giữ luật cặn kẽ với tinh thần nô lệ. Chúa Giêsu đã kiện toàn lề luật bằng cách tuân giữ lề luật vì lòng yêu mến đối với Đức Chúa Cha, giữ trọn vẹn trong tinh thần tự do của người con hiếu thảo. Đó là tình yêu tuyệt hảo vì được minh chứng bằng hành động. Đó là cách giữ luật tuyệt hảo vì được thực thi với tình yêu.

Tình yêu đối với tha nhân được bày tỏ qua việc tuân giữ điều răn mới của: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Chúa Giêsu đến chiếu lên làn ánh sáng mới chan hòa yêu thương soi đường cho nhân loại. Từ nay sáng tối phân minh, thiện ác tách bạch. Ai ghen ghét vẫn còn bị giam cầm trong bóng tối sự chết. Ai yêu thương sẽ được hưởng ánh sáng ban sự sống. Ai ghen ghét sẽ bị bóng tối phủ lấp, không thấy đường đi và vĩnh viễn bị lầm lạc. Ai yêu thương sẽ được ánh sáng soi dẫn, sẽ “ở lại trong Chúa Giêsu, đi trên con đường của Chúa Giêsu”, “là con đường dẫn đến Sự Thật và Sự Sống”.

Tình yêu chính là con đường sáng. Con đường dẫn đến sự thật và sự sống. Chúa Giê-su chính là đường đi. Ta hãy đi theo Người. Đi trong tình yêu. Ta sẽ góp phần chiếu ánh sáng vào thế giới. Ánh sáng ban sự sống. Ánh sáng ban hoà bình.

Lạy Chúa Giêsu Bé Thơ, con chiêm ngưỡng hình ảnh đẹp đẽ của Chúa được dâng trong Đền Thờ. Xin cho con được noi gương Chúa có lòng hiếu thảo yêu mến Đức Chúa Cha, vui vẻ tự nguyện giữ trọn vẹn luật Chúa. Xin cho con biết yêu mến anh em thật lòng, để không còn một bóng tối nào che phủ tâm hồn con, để con hoàn toàn sống trong ánh sáng tình yêu của Chúa.

 

Suy Niệm 3: Dâng Chúa vào Đền thờ

Một đêm khuya nọ, tại một vùng quê hẻo lánh bên Anh quốc, một cậu bé đang hấp hối và người mẹ goá phải đi bộ cả chục cây số để tìm bác sĩ. Nhìn dáng vẻ quê mùa nghèo nàn của người đàn bà, ông bác sĩ không tỏ ra mấy sốt sắng: có nên mất giờ cho thằng bé đó không? Lại nữa nếu cứu sống nó thì lớn lên nó cũng tiếp tục kiếp nông dân cùng khổ như cha ông nó mà thôi. Ông bác sĩ định từ chối. Thế nhưng bị lương tâm nghề nghiệp cắn rứt, cuối cùng ông đã đến chữa bệnh cho đứa bé. Sau này đứa bé đó đã trở thành một trong những nhà chính trị lỗi lạc nhất của nước Anh.

Người Mỹ thường nói: “Mỗi đứa trẻ sinh ra đều có thể là một tổng thống tương lai của Hoa Kỳ”. Quả thực mỗi đứa trẻ sinh ra đều mang lại hy vọng cho người lớn. Với cái nhìn đức tin thì niềm hy vọng ấy lại càng lớn lao hơn. Đó là cái nhìn của cụ già Simêon về Hài Nhi Giêsu. Nơi Hài nhi Giêsu, cụ đã nhận ra ánh sáng soi đường cho dân ngoại, vinh quang của Israel Dân Chúa. Thế nhưng ánh sáng và vinh quang ấy được tỏ lộ xuyên qua tăm tối của Thập giá và khổ đau.

Đó cũng là cái nhìn chúng ta phải có khi chiêm ngắm Hài nhi trong máng cỏ. Trong Hài nhi bé nhỏ, chúng ta nhìn thấy Đấng cứu độ trần gian; trong cảnh nghèo hèn tăm tối của máng cỏ, chúng ta nhận ra hào quang sáng chói của Ngôi Hai Thiên Chúa.

Xuyên qua cái bé nhỏ tâm thường nhận ra những giá trị siêu việt, xuyên qua tăm tối của thất bại khổ đau nhận ra ánh sáng hy vọng, đó là cái nhìn đích thực của niềm tin. Chúng ta cũng cần có cái nhìn như thế trong cách giao tiếp với tha nhân: nơi những con người nghèo hèn thấp kém trong xã hội, chúng ta luôn được mời gọi nhận ra hình ảnh Thiên Chúa và phẩm giá cao cả của nhân vị. Chúng ta cũng được mời gọi nhìn vào cuộc sống hằng ngày với cái nhìn ấy: từng phút giây của cuộc sống độc điệu âm thầm mỗi ngày đều là hạt giống của sự sống vĩnh cửu; thất bại mất mát, khổ đau cũng là khởi đầu của những ân phúc dồi dào mà Thiên Chúa luôn có thể ban tặng con người.

Nguyện xin Hài nhi Giêsu củng cố chúng ta trong niềm tin ấy. Nguyện xin Đức Maria, người mà một lưỡi gươm sẽ đâm thấu qua tâm hồn nhưng vẫn luôn tin tưởng cậy trông, phù trợ chúng ta trong cuộc lữ hành đầy gian nan thử thách này.

 

Suy Niệm 4: Hạnh phúc cho người được gặp Chúa

Ngày nay, những gia đình Công Giáo thường mang con mình đến nhà thờ xin cho bé được lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, để gia nhập Giáo Hội, tham dự vào đoàn dân những người tin Chúa.

Khi xưa, thời Đức Giêsu cũng vậy, khi được tám ngày, cha mẹ Ngài bồng Hài Nhi Giêsu đến đền thờ để dâng cho Thiên Chúa.

Đức Giêsu là Thiên Chúa tối cao. Tuy nhiên, trong ngày trọng đại này, chúng ta không thấy có những người sang giàu, quyền chức, nhưng chỉ có những người bé mọn hiện diện! Kinh Thánh cho hay, những người đón chào và diễm phúc được gặp Đức Giêsu trong ngày này không ai khác ngoài ông Simêon và bà Anna. Họ là những người bình thường, đơn sơ, nghèo khó. . . là những người nghèo của Giavê, nhưng tâm hồn thánh thoát, nên đã được gặp Chúa của bình an.

Mặt khác, chúng ta còn nhận thấy nơi Đức Maria và thánh Giuse một tấm gương khiêm tốn, trung thành với luật. Thật vậy, các ngài thừa biết được Hài Nhi Giêsu này là Con Thiên Chúa, và các ngài đang được đặc ân lớn lao là chăm sóc Đấng Cứu Độ trần gian. Như vậy, xét theo lẽ thường, các ngài có quyền từ trối việc giữ luật này, bởi vì Đức Giêsu chính là trọng tâm của luật. Nhưng không, các ngài đã khiêm tốn, tuân hành lề luật của Thiên Chúa cách yêu mến, không tìm đặc lợi cho mình chỉ vì có uy thế. . .

Ngày nay, nhiều người hay nhân danh chức quyền, công trạng hay giàu có để xin miễn chuẩn cho mình những việc bổn phận với Giáo Hội, xã hội. . . Tuy nhiên, khi làm như thế, chúng ta quên mất một điều là phần thưởng mai hậu của chúng ta đã bị đóng lại, vì hẳn nhiên chúng ta đã được nguồn lợi rồi! Tệ hơn nữa là khi chúng ta muốn được miễn chuẩn việc bổn phận mà không được đáp ứng, nhiều người đã có những lời lẽ tiêu cực, chỉ trích trong sự kiêu ngạo. . . và như thế, những sự quảng đại chia sẻ cách này hay cách khác trước đó của chúng ta đã đứng lên tố cáo và như bản án vạch trần hình thức vụ lợi, thực dụng của chúng ta thuần túy chứ không phải vì lòng yêu mến Chúa!

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: trước tiên, nhìn vào Đức Mẹ và thánh Giuse, không tìm những đặc ân miễn chuẩn cho mình, nhưng các ngài đã thi hành, chu toàn bổn phận cách yêu mến. Thứ đến, noi gương ông Simêon và bà Anna, sống khiêm tốn, chân thành, đơn sơ để được Thiên Chúa mặc khải những điều kín nhiệm.

Cuối cùng, khi được diễm phúc gặp Chúa, chúng ta hãy có tâm tình tạ ơn, chúc tụng Thiên Chúa như những người nghèo của Thiên Chúa trong đền thờ khi xưa.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con biết noi gương Mẹ Maria và thánh Giuse trong việc yêu mến và tuân giữ luật Chúa. Xin cho đời sống của cụ già Simêon và Anna là nguồn gợi hứng cho chúng con trong việc thờ phượng Chúa. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 5: Cụ già Simêon gặp Chúa

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Cụ già Si-mê-on khao khát được gặp Đấng Cứu Thế. Được ôm Chúa Giêsu vào lòng, cụ cảm thấy mãn nguyện và sẵn sàng ra đi về với Thiên Chúa. Hạnh phúc cao cả nhất của đời người là được gặp Chúa và đón nhận Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, cụ già Si-mê-on đã đi gần trọn một cuộc đời, từng trải qua những vui buồn sướng khổ, từng tận hưởng hân hoan hạnh phúc. Nhưng cuộc sống đời này dù có hấp dẫn đến đâu cũng không làm cho cụ được thỏa mãn. Cụ vẫn cảm thấy thiếu, chỉ biết trông đợi Chúa là niềm an ủi duy nhất của đời cụ. Còn gì sung sướng hơn là được gặp Chúa, còn gì hạnh phúc hơn là được bồng ẵm Chúa trên tay. Bấy nhiêu dù chỉ là một khoảnh khắc ngắn ngủi, cũng đủ làm cho cụ mãn nguyện hơn cả một đời người đã đi qua. Cụ sẵn sàng ra đi trong bình an, không còn điều gì để luyến tiếc.

Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa vì Chúa cho con hạnh phúc hơn cụ Si-mê-on rất nhiều. Hằng ngày Chúa cho con được gặp Chúa trong niềm tin, được ôm Chúa vào lòng qua bí tích Thánh Thể, Chúa đồng hành với con mọi nơi mọi lúc. Xin Chúa giúp con cảm nhận hồng ân cao cả này. Cuộc đời này nhiều cám dỗ mời mọc, lắm thứ lôi cuốn hấp dẫn, nhưng lạy Chúa, đó chỉ là những niềm vui giả tạo, những hạnh phúc chóng qua. Tất cả chỉ để lại trong con một sự chán ngấy và càng khơi sâu niềm khát vọng trong con. Chỉ có Chúa mới là niềm hạnh phúc chân thật và lẽ sống của con. Xin Chúa đừng để con lạc đường.

Hôm nay con cầu xin cho những người lớn tuổi, xin Chúa cho các cụ được mãn nguyện trong niềm vui gặp Chúa, được sống tuổi già hạnh phúc và về với Chúa trong bình an. Amen.

Ghi nhớ: “Ánh sáng đã chiếu soi các lương dân”.

 

Suy Niệm 6: Cụ già Simêon chúc tụng Chúa

(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)

Phân tích

Đoạn Kinh Thánh này gồm 2 phần:

Phần thứ nhất nói về nghi lễ thanh tẩy và phần thứ hai là lời tiên tri của ông Simêon.

  1. Thánh Giuse, Đức Maria và Chúa Giêsu lên Đền thờ Giêrusalem để chu toàn 2 bổn phận của lề luật: Thanh tẩy cho Đức Maria sau khi sinh con; dâng Chúa Giêsu là con trai đầu lòng cho Thiên Chúa. Câu chuyện cho thấy các Ngài tuân giữ lề luật rất chu đáo; đồng thời những lễ vật các Ngài dâng chứng tỏ các Ngài thuộc gia đình nghèo khó.
  2. Trong dịp này Thánh Gia đã gặp được cụ Simêon. Cụ được Thánh Thần soi sáng cho biết trẻ Giêsu chính là Đấng Messia, cho nên toại nguyện vì gặp được Ngài. Lời tiên tri của Simêon gồm 2 phần:
  3. Phần đầu nói về Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai và là Đấng Cứu Thế. Lời tiên tri của cụ già Simêon khiến Đức Maria và Thánh Giuse ngỡ ngàng và kinh ngạc. Như thế, Mẹ Maria dần dần đi vào toàn thể mầu nhiệm cứu chuôc.
  4. Phần thứ hai cụ già Simêon đặc biệt nói với Mẹ Maria, mẹ của Hài Nhi, vì số phận của mẹ và con liên kết mật thiết đặc biệt. Lời tiên tri cho Mẹ biết trước: Con Mẹ là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế nhưng không được mọi người tin nhận. Do đó, Hài Nhi là dấu hiệu mâu thuẫn, là đá vấp ngã (Is 8,14). Con Mẹ sẽ phải khổ nhục do sự mâu thuẫn đó.

Suy gẫm

  1. Tiến dâng Chúa Giêsu cho Chúa Cha

– Nghi lễ dâng con trai đầu lòng có mục đích nhắc lại rằng, mọi con trai đầu lòng thuộc về Thiên Chúa. Ngôi Hai nhập thể muốn chứng tỏ mình là Con của Chúa Cha.

Mỗi Kitô hữu được thuộc về Thiên Chúa, trở thành con Thiên Chúa qua Bí tích Rửa tội. Là Kitô hữu, chúng ta phải ý thức được diễm phúc làm con Thiên Chúa để cảm tạ bằng cách thờ phượng Thiên Chúa hết mình, và sống xứng đáng với phẩm giá đó bằng cách thánh hoá bản thân mỗi ngày.

– Việc dâng Đức Giêsu vào Đền thờ mang ý nghĩa: Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, lần đầu tiên đi vào nhà của Ngài, thế nhưng, không một ai thuộc giới lãnh đạo Giêrusalem, không một ai trong hàng tư tế, luật sĩ ra đón chào. Ngược lại, kẻ chào đón Vua của mình chỉ là ông Simêon, bà Anna, những kẻ thuộc nhóm “những người nghèo của Giavê”. Ngày diễm phúc vĩ đại đến với thành thánh, thì chỉ có hai con người thấp kém, tầm thường, bị quên lãng trước mặt xã hội được ơn nhận biết diễm phúc đó.

Chỉ những ai có tâm hồn đơn sơ nghèo khó, khiêm nhường và thanh thoát mới dễ đón nhận ơn soi sáng của Chúa để thực thi ý Ngài và nhận ra diễm phúc của mình.

  1. Nhìn vào Đức Mẹ và Thánh Giuse

Hai ông bà được diễm phúc làm Mẹ Thiên Chúa và làm cha nuôi Đức Giêsu, nhưng không tìm đặc ân riêng cho mình, vẫn khiêm nhường tuân giữ luật: thanh tẩy và dâng Con vào Đền thờ.

Noi gương hai Đấng, chúng ta không nên tìm đặc ân, miễn chước cho mình những bổn phận đối với xã hội, cộng đoàn, gia đình và tha nhân, nhưng phải khiêm nhường, đơn sơ và tuân giữ mọi lề luật cua.

  1. Nhìn vào ông Simêon

Sau khi đã nhận ra Hài Nhi Giêsu là Đấng Cứu Thế, ông đã thốt lên bài ca chúc tụng:

– Tạ ơn Chúa đã cho ông trông thấy và bồng ẵm Đấng Cứu Thế trên tay;

– Tạ ơn Chúa đã sai Vị Cứu Tinh làm đèn soi cho thiên hạ và làm vinh danh cho nòi giống;

Sau đó, ông Simêon chúc phúc cho Hài Nhi và báo trước những đau khổ mà Người và Mẹ Người sẽ phải chịu.

Ông Simêon mới được nhìn thấy và ẵm Chúa vào lòng mà ông đã cảm nghiệm được diễm phúc lớn lao như vậy; huống chi chúng ta được rước Chúa vào lòng khi hiệp lễ thì diễm phúc biết mấy! Nhưng chúng ta có biết cảm tạ Chúa sau khi rước Chúa vào lòng Không?

  1. Cha Mẹ Hài Nhi ngạc nhiên, không phải vì những lời ông Simêon nói về Con Trẻ, nhưng vì thấy Thiên Chúa cũng cho những người xa lạ biết về Con Trẻ như vậy.

Khi thấy người khác, kể cả những người xa lạ được những ơn lành, được thành công trong đời sống, trong nghề nghiệp… chúng ta phải có tấm lòng rộng rãi để nhận ra ơn Chúa ban cho họ và hiệp thông với họ để tạ ơn Thiên Chúa.

  1. Việc Đức Mẹ đem Hài Nhi vào đền thờ để làm nghi lễ thanh tẩy nhắc nhở chúng ta rằng, Mẹ là loài thụ tạo tinh ròng nhất trong nhân loại thế mà Mẹ đã vâng lời, tuân theo luật thanh tẩy của Môsê. Đó là mẫu gương cho chúng ta, những con người đầy tội lỗi, chúng chúng ta hãy nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình và nài xin Chúa thanh tẩy chúng ta.
  2. Cụ già Simêon đã trông mong cả một đời mới được nhìn thấy Đấng Cứu Thế. Đó cũng là mẫu gương cậy trông và trung tín. Ai trung thành cậy trông như ông Simêon không bao giờ uổng công. Ông Simêon đã ẵm bế Hài Nhi, ẵm bế “Ánh Sáng muôn dân”, ẵm bế “vinh quang Israen”, là nắm chắc ơn cứu rỗi của mình. Ông Simêon biết chắc như thế nên ông thưa: “Lạy Chúa giờ đây xin cho tôi tớ Chúa ra đi bình an. ”

Ước gì vào giây phút cuối đời, mỗi người chúng ta cũng thưa được với Chúa: “Lạy Chúa, xin cho tôi tớ Chúa ra đi bình an” như một bảo chứng của lòng trung thành, trông cậy vào Chúa.

 

Suy Niệm 7: Dâng con trong Đền thờ

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Đến ngày theo luật định, thánh Giuse và Đức Maria bồng Chúa Hài Nhi đến đền thờ Giêrusalem để dâng cho Đức Chúa Cha. Ở đó có ông Simêon là người công chính. Ông được Chúa Thánh Thần soi sáng nên nhận biết Chúa Giêsu và cất tiếng khen ngợi Chúa, vì Chúa đã thương cho Đấng Cứu Thế đến cứu chuộc dân Người; đồng thời ông cũng cho Đức Maria biết: Mẹ phải chịu nhiều đau khổ vì Chúa Hài Nhi.

Mẹ Maria và thánh Giuse dâng Chúa Hài Nhi  trong đền thánh để tuân giữ luật thời đó. Và việc dâng hiến này báo trước Chúa Giêsu tự dâng hiến đời Người chịu chết trên khổ giá để cứu độ loài người.

  1. Đức Giêsu là “con trai đầu lòng” (x. Lc 2,7), theo luật Maisen: “Mọi con trai đầu lòng phải được dâng hiến lên Thiên Chúa”, như chúng ta đọc thấy trong Cựu ước: “Đức Chúa phán với Maisen: “Hãy thánh hiến cho Ta mọi con so, mọi con đầu lòng trong số con cái Israel, dù là người hay là thú vật: nó thuộc về Ta”(Xh 13,1-2). Vì thế, Đức Mẹ và thánh Giuse dâng hiến Hài nhi Giêsu cho Thiên Chúa trong Đền thờ.

Từ nay cuộc đời Hài Nhi hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Ngài đã được dâng và cũng tự hiến dâng, để Thiên Chúa toàn quyền xử dụng trên Ngài  trong sứ mạng nhập thể cứu độ: Dâng trọn vẹn trên đỉnh cao Thập Tự.

Người Kitô hữu được dâng cho Thiên Chúa qua bí tích Rửa tội để trở thành con cái Thiên Chúa. Là Kitô hữu, chúng ta ý thức được diễm phúc làm con Thiên Chúa để cảm tạ bằng cách thờ phượng Thiên Chúa hết mình, và sống xứng đáng với phẩm giá đó bằng cách  thánh hóa bản thân mỗi ngày.

  1. Chúng ta nhận thấy: hai ông bà đang được diễm phúc làm mẹ Thiên Chúa và làm cha nuôi Đức Giêsu, nhưng không tìm đặc ân riêng cho mình, vẫn khiêm nhường tuân giữ lề luật: thanh tẩy và dâng con vào Đền thờ.  Noi gương hai Đấng: người Kitô hữu  không nên tìm đặc ân gì để miễn chước cho mình những bổn phận đối với xã hội, cộng đoàn, gia đình và tha nhân, nhưng phải khiêm nhường đơn sơ và nhiệt tình tuân giữ mọi lề luật chính đáng.

Đối với các bậc cha mẹ Kitô hữu, con cái là quà tặng của Thiên Chúa. Để bầy tỏ lòng trân trọng quà tặng quí báu đó, các bậc cha mẹ tiến dâng con cái của mình cho Thiên Chúa. Tiến dâng bằng cách nuôi dạy con cái theo ý Chúa; giúp con cái đón nhận và nuôi dưỡng đức tin, giúp con cái hướng tình yêu về Thiên Chúa.

  1. Cụ già Simêon nói với Đức Maria: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng” (Lc 2,34).

Cụ Simêon trong tư cách là tiên tri tiên báo rằng con trẻ sẽ trở nên dấu cho người ta chống đối. Lời tiên tri được ngỏ cho Đức Maria để nói về sứ mạng cứu độ của Hài Nhi trong tương lai và sự mật thiết hiệp nhất trong công cuộc cứu độ  của người con trong vai trò cộng tác: “Phần Bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà” (Lc 2,35). Maria không hiểu lời cụ Simêon mang ý nghĩa gì, nhưng khắc ghi nghiền ngẫm trong lòng và xin Thiên Chúa ban cho được thêm can đảm, Maria cũng chịu đau khổ thương khó như Con Mẹ, nhất là tại Núi Sọ hiến tế con Mẹ trên Thập giá.

Đức Giêsu cũng đã đến để yêu thương, cứu giúp mọi người. Ngài vốn là Thiên Chúa cao sang nhưng đã trở nên thấp hèn để nâng đỡ con người lên. Nhưng cuối cùng Ngài đã bị con người đóng đinh thập giá, bỏ mặc trong cái chết đau đớn và tủi nhục.

Xin Mẹ Maria giúp chúng ta theo gương Mẹ tiếp bước theo Chúa trên con đường yêu thương, dẫu có bị người đời chống báng hay từ chối.

  1. Truyện: Lời cầu xin tốt đẹp.

Có người coi như mình bị thất bại, vì Chúa không nhận lời cầu xin của mình. Có vẻ nản lòng. Nhưng một ngày kia, đang khi cầu nguyện Chúa soi sáng cho người ấy hãy vững tin và đặt tất cả niềm tin phó thác vào Chúa.  Họ đã sáng tác được lời cầu nguyện sau đây:

Lạy Chúa, con cầu xin ơn mạnh mẽ để thành đạt, thì Chúa làm cho con ra yếu ớt để biết vâng lời, khiêm hạ.

Con cầu xin có sức khỏe để thực hiện những công trình lớn lao, thì Chúa lại bắt con bị tàn tật và chỉ làm được những việc tốt nho nhỏ.

Con cầu xin được giầu sang để sống một cuộc đời sung sướng, thì Chúa lại bắt con nghèo nàn để học biết thế nào là khôn ngoan.

Con cầu xin có được uy quyền để mọi người phải kính nể, thì Chúa lại cho con sự thấp hèn để con biết cần đến Chúa.

Con cầu xin cho có được tất cả để tận hưởng cuộc đời, thì Chúa lại cho con cả một cuộc đời để được hưởng mọi sự.

Con xin gì cũng chẳng được theo ý con muốn, nhưng những điều con đáng phải mơ ước mà con không hề biết thốt lên lời cầu xin, thì Chúa lại đã ban cho con thật dư đầy từ lâu.

Lạy Chúa, hóa ra con lại là người có phúc hơn hết trên đời này. Bởi con đã nhận được ơn phúc Chúa vô vàn.

 

Suy Niệm 8: Khao khát gặp Chúa

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Qua câu chuyện trên đây chúng ta thấy muốn gặp Chúa thì người ta phải có điều kiện nào. Phải nói điều kiện đầu tiên là phải có lòng khao khát.

Trong kho tàng văn chương Ấn giáo, có một câu chuyện sau đây:

Một đệ tử đến thưa vị linh sư của mình:

– Thưa thầy, con muốn gặp Chúa.

Vị linh sư chỉ đáp trả bằng một cái mỉm cười thinh lặng.

Ngày hôm sau người môn sinh trở lại và bày tỏ cùng một ước muốn. Vị linh sư cũng chỉ mỉm cười và tiếp tục giữ thinh lặng.

Rồi một ngày đẹp trời, ông dẫn người đệ tử đến dòng sông. Thầy trò cùng dầm xuống nước. Chờ cho người đệ tử cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong dòng nước mát. Bất thần vị linh sư túm lấy cổ anh và dìm xuống nước một hồi lâu. Người thanh niên cố gắng vùng vẫy để ngóc đầu lên khỏi mặt nước.

Bấy giờ vị linh sư mới hỏi anh:

– Khi bị dìm xuống nước như thế, con cảm thấy cần điều gì nhất?

Không chút suy nghĩ, người đệ tử đáp ngay:

– Thưa, con cần không khí để thở.

Lúc bấy giờ vị linh sư mới giải thích:

– Con có cảm thấy ước ao được gặp Chúa như vậy không? Nếu con khao khát Chúa như vậy con sẽ gặp được Ngài tức khắc. Ngược lại, nếu con không có ước muốn ấy, thì cho dù có vận dụng hết cả tài năng và sức lực, con cũng sẽ chẳng bao giờ gặp được Ngài.

Cả cuộc đời cụ Simêon chỉ mong ước khao khát có một điều: Được gặp Chúa. Đây là một khát vọng rất lớn và hôm nay thì cụ đã được mãn nguyện. Chúng ta thấy cụ sung sướng đến mức độ như thế nào! Sung sướng đến mức độ không còn tha thiết gì với cuộc sống trên đời nữa. Lý do, bởi vì cụ đã được thấy Đấng Cứu Thế và biết rằng, thời đại Cứu Thế đã khai mở.

“Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa,

xin để tôi tớ này được an bình ra đi.

Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ

Chúa đã dành sẵn cho muôn dân:

Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,

là vinh quang của Israel dân Ngài. ” (Lc 2,29-32)

  1. “Ông Simêon nói với bà Maria: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng. ” (Lc 2,34)

Như vậy theo lời tiên tri của cụ già Simêon, thì Đức Giêsu sẽ là một dấu gây chia rẽ: kẻ thì theo, người thì chống đối; kẻ theo thì đứng lên, người chống thì té ngã. Cụ đã nói rất đúng. Ngay trong chính bản thân tôi, có khi tôi theo Chúa nhưng cũng có khi tôi không muốn theo Ngài. Lý do rất dễ hiểu bởi vì không phải lúc nào Chúa cũng làm thỏa mãn mọi ước nguyện của tôi. Nhưng kinh nghiệm dạy cho tôi rằng: Khi biết đi theo Chúa tôi sẽ vững bước trên đường đời. Ngược lại, khi không cùng đi với Chúa, cuộc đời tôi sẽ bơ vơ và rất dễ vấp ngã.

Đây là một bằng chứng:

Roy Cam Parisella, bị bại liệt phải ngồi xe lăn. Hằng ngày cô vẫn phải đến Trung Tâm Vật Lý Trị Liệu vốn là một cơ sở tôn giáo để được chăm sóc. Lần nào cô cũng thấy có một số người thường dừng lại trước một tấm bảng đồng được gắn ở tường ngay trong phòng tiếp nhận bệnh nhân. Một buổi chiều kia, cô cũng dừng xe lăn, tò mò nhìn lên và thấy cả một bài cầu nguyện được khắc ở trên tấm bảng đó. Cô đọc một cách hết sức chậm rãi. Bỗng cô cảm thấy một niềm phấn khởi trào dâng lên từ tận đáy tâm hồn bấy lâu nay đã tuyệt vọng vì âu sầu tủi nhục của cô.

Đây là lời cầu nguyện ấy:

Lạy Chúa,

Con cầu xin ơn mạnh mẽ để thành đạt trong cuộc đời,

thì Chúa lại làm cho con ra yếu ớt để biết vâng lời khiêm hạ,

Con cầu xin có sức khỏe để mong thực hiện những công trình lớn lao,

thì Chúa lại bắt con chịu tàn tật và chỉ làm được những việc tốt lành nho nhỏ.

Con cầu xin được giàu sang để sống một cuộc đời sung sướng thoải mái,

thì Chúa lại bắt con nghèo nàn để học biết thế nào là khôn ngoan.

Con cầu xin được có uy quyền để mọi người phải kính nể ca ngợi con,

thì Chúa lại cho con sự thấp hèn để con biết cần đến Chúa.

Con cầu xin cho có được tất cả để tận hưởng cuộc đời,

thì Chúa lại cho con cả một cuộc đời để được hưởng mọi sự.

Con xin gì cũng chẳng được theo ý con muốn.

Nếu chỉ dừng lại ở đây thì quả cuộc đời là một bế tắc, nhưng Parisella đã biết nhìn xa hơn khi cô đọc thêm những lời cầu nguyện ở cuối bài. Những lời đó như thế này:

Nhưng những điều con đáng phải mơ ước

mà con không hề biết thốt lên lời cầu xin;

thì Chúa lại đã ban cho con thật dư đầy từ lâu.

Lạy Chúa,

Hóa ra, con lại là người có phúc hơn hết trên đời này.

Bởi con đã nhận được ơn phúc Chúa vô vàn.

(PARADOXES OF PRAYERS)

Ngày 30/12 – Tuần Bát Nhật Giáng Sinh (Lc 2, 36-40)

 

 

LỜI CHÚA: Lc 2, 36-40

Khi ấy, có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên. Mãn thời trinh nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm. Rồi thủ tiết cho đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel.

Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người.

 

Suy Niệm 1: Ngày càng lớn lên

(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S. J.)

Khi viết sách Tin Mừng, thánh Luca thích nêu bật vai trò của phụ nữ,

vì trong xã hội Ítraen thời xưa, việc lãnh đạo chủ yếu do đàn ông.

Luca hay đặt sóng đôi những câu chuyện về các nhân vật nam và nữ.

Sau trình thuật sứ thần Gabrien truyền tin cho ông Dacaria,

thì đến trình thuật sứ thần truyền tin cho Đức Mẹ.

Sau sự xuất hiện của ông già Simêon nói tiên tri về Hài Nhi,

thì bà Anna cũng được giới thiệu minh nhiên như một nữ ngôn sứ.

Làm ngôn sứ đâu phải là đặc quyền dành cho phái nam!

Khuôn mặt của Simêon và Anna có những nét giống nhau.

Cả hai đều là những người tuổi cao và đạo hạnh.

Đời sống của họ gắn bó với Đền thờ.

Riêng cuộc đời của cụ bà Anna thì thật đáng phục.

Cụ xuất giá được bảy năm thì ở góa, nay cụ đã tám mươi tư.

Giả như cụ lấy chồng vào năm mười lăm tuổi,

thì hẳn cụ đã sống trong cảnh góa bụa hơn sáu mươi năm.

Một thời gian dài không có chỗ dựa vững chắc của người chồng.

Nhưng cụ Anna lại tìm thấy một chỗ dựa khác, vững hơn.

Đó là Thiên Chúa mà cụ đêm ngày thờ phượng (c. 37).

Đó là Đền thờ mà cụ coi như nhà của mình.

Đời sống của một góa phụ trẻ, lúc mới ngoài hai mươi, thật không dễ.

Ăn chay cầu nguyện là cách để cụ làm chủ bản thân và thắng cám dỗ.

Simêon và Anna đều là những người cao tuổi đã và đang chờ.

Họ sống để chờ những lời Chúa hứa được thành tựu,

sống để chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem (c. 38).

Anna có biết hôm nay nỗi đợi chờ của cụ được đáp ứng không?

Với trực giác của một ngôn sứ, cụ nhận ra ngay vị Cứu tinh bé nhỏ

đang được bồng ẵm trên tay của đôi vợ chồng nghèo.

Như xuất thần, cụ nói về Hài Nhi cho những người chung quanh.

Không phải chờ nữa, vì ơn cứu chuộc mong mỏi từ lâu nay đã đến.

Thiên Chúa đã giữ trọn lời hứa của Ngài.

Chúng ta đang mừng Lễ Giáng sinh, mừng Con Thiên Chúa làm người.

Chúng ta có ít thời gian để suy niệm về thời gian của Ngài ở Nadarét.

Hơn ba mươi năm để Hài Nhi từ từ lớn lên, trở nên người trưởng thành.

Làm người là chấp nhận lớn lên mỗi ngày một chút về mọi mặt.

Thân xác của cậu Giêsu trở nên mạnh mẽ, trí tuệ cậu đầy khôn ngoan,

và về mặt tâm linh, ân lộc của Thiên Chúa ở trên cậu (c. 40).

Hài Nhi Giêsu đã lớn lên một cách quân bình

để thành Thầy Giêsu đi rao giảng vào lúc ngoài ba mươi.

Con Thiên Chúa cũng phải chăm chỉ học làm người,

qua tha nhân và kinh nghiệm, qua lao động và thách đố trong cuộc sống.

Ngài chia sẻ phận người long đong của chúng ta,

nên Ngài hiểu gánh nặng của phận người.

Xin được học nơi Nadarét về chia sẻ và phục vụ, về tha thứ và yêu thương.

Xin được trở nên người có khả năng dám sống và chết cho người khác.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa,

xin cho con luôn vui tươi.

dù có phải lo âu và thống khổ,

xin cho con đừng bao giờ khép lại với chính mình;

nhưng biết nghĩ đến những người quanh con,

những người – cũng như con –

đang cần một người bạn.

Nếu như con nên yếu đuối,

thì xin cho con biết yêu thương và sáng suốt hơn,

thông cảm và nhân từ hơn.

Nếu bàn tay con run rẩy,

thì xin giúp con luôn biết mở ra và cho đi.

Khi lâm tử,

xin cho con biết đón nhận khổ đau và bệnh tật

như một lời kinh.

Ước chi con sẽ chết trong khiêm hạ và tín thác,

như một lời xin vâng cuối cùng.

Và con về nhà Chúa,

để dự tiệc yêu thương muôn đời. Amen.

 

Suy Niệm 2: Lớn lên trong Chúa

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Sức mạnh của thế gian thật khủng khiếp. Nó hấp dẫn. Nó thúc đẩy. Nó chiếm đoạt. Nó thống trị. Nó giống như con thú dữ vồ lấy, cắn xé, ngấu nghiến và tàn phá con người. Nó là sức mạnh tàn phá. Nhưng ai chạy đuổi theo nó cuối cùng chỉ thấy hư vô. Như thánh Gio-an dậy: “Mọi sự trong thế gian như dục vọng của tính xác thịt, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình có của, tất cả những cái đó không phát xuất từ Chúa Cha, nhưng phát xuất từ thế gian; mà thế gian đang qua đi, cùng với dục vọng của nó”.

Trái lại sức mạnh của Thiên Chúa thật nhẹ nhàng. Khởi đầu rất mong manh. Như trẻ thơ sơ sinh. Rất yếu ớt. Rất bé nhỏ. Nhưng cứ lớn mãi. Như Chúa Giê-su “ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa”.

Tiên tri An-na làm chứng về điều đó. Sau 7 năm sống đời hôn nhân ngoài đời, bà càng nhận rõ sự phù du của thế gian. Bà gắn bó với Chúa và với đền thờ suốt cuộc đời. Chuyên chăm hãm mình, ăn chay, cầu nguyện. Từ bỏ cả những gì cần thiết ở đời như việc ăn uống, vui chơi, giải trí. Bà siêu thoát trần gian. Vì bà tìm được niềm vui trong Chúa. Thân xác bà nhỏ bé đi. Nhưng tâm hồn bà lớn mạnh. Bà được mặc khải cho biết khi Chúa Cứu Thế xuất hiện. Vì thế khi Chúa Giê-su được dâng vào đển thờ, lập tức bà nhận ra. “Bà tiến lại gần, cảm tạ Thiên Chúa”. Cảm nghiệm về Chúa quá rõ ràng và phong phú, nên bà, một phụ nữ nghèo nàn tầm thường, có thể “nói về Hài Nhi cho hết thảy những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc giê-ru-sa-lem”.

Chúa Giê-su chính là mẫu hình lý tưởng của con người. Chúa phát triển mọi mặt. Về thân xác khoẻ mạnh. Để có thể làm việc đêm ngày không ngừng nghỉ. Để có thể chịu cực hình thâu đêm. Sáng vẫn còn vác thánh giá đi lên Núi Sọ. Về trí tuệ thông minh. Kẻ thù nhiều lần gài bẫy. Nhưng không bắt bẻ được điều gì. Trái lại mọi người say mê lời giảng dạy của Chúa. Và Chúa hỏi những câu không ai trả lời được. Đặc biệt về đức hạnh. Không ai chê trách được điều gì. Kẻ thù rình rập đêm ngày. Đến nỗi tuốt một bông lúa họ cũng biết. Vậy mà không tìm được tội nào để kết án Chúa. Chỉ trong Thiên Chúa con người mới có thể phát triển quân bình mọi mặt đến mức thập toàn như thế.

Xin cho con siêu thoát thế gian. Tìm về bên Chúa. Để con được lớn lên trong Chúa.

 

Suy Niệm 3: Lời Tiên Báo Về Chúa Hài Nhi

(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)

Vào một mùa Giáng Sinh nọ, trước giờ đi lễ, vị chủ nông trại đang ngồi thưởng thức nhạc Giáng Sinh, bỗng đâu cả đàn ngỗng của ông tụ lại trước sân nháo nhác tìm chỗ trú. Chúng vừa đói, vừa lạnh, lông cánh rối bời. Tất cả người làm đều đã nghỉ cả, người chủ cũng đều sắp đóng cửa để về thành phố dự Thánh Lễ. Bởi vậy ông bèn ra lùa đàn ngỗng về chuồng, nhưng chúng không biết ông nên dù cho gào thét khàn cả tiếng, chạy ngược chạy xuôi, đã rời cả đôi chân mà ông vẫn không đem được một con nào về chuồng. Thấy vậy ông thầm ước với mình: “Ước gì tôi được làm ngỗng trong chốc lát, để tôi có thể dùng tiếng loài ngỗng mà nói cho chúng hiểu ước muốn của tôi và cho chúng biết đâu là chốn hiểm nguy, đâu là nơi an toàn”. Bỗng chốc, ông đã thành một con ngỗng đứng giữa bầy như ước nguyện.

Có thể chúng ta sẽ là phi lý khi thấy người biến thành ngỗng. Thế nhưng, có một điều khác còn phi lý hơn nữa mà Giáo Hội đang mời gọi chúng ta chiêm ngắm, đó là hang đá Belem, nơi Thiên Chúa Vua Cả trời đất giành lấy thân phận làm người, sinh ra trong hang bò lừa máng cỏ. Ngài làm người để rồi Ngài sẽ dùng ngôn ngữ của loài người mà chỉ dạy cho con người lối về quê thật.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh sử Luca thuật lại cho chúng ta một trong những điều con người được nhận lãnh nhờ vào hành động phi lý ấy. Là Ngôi Hai Thiên Chúa thì Chúa Giêsu đâu cần phải được hiến dâng cho Thiên Chúa theo luật Môisê, thế nhưng ngài vẫn tuân giữ nghi lễ này, vì Ngài muốn giống con người trong hết mọi sự ngoại trừ tội lỗi. Ngài giống con người để con người không còn phải e ngại khi đến với Ngài cũng như hiểu được lời mời gọi của Ngài. Nếu trước đây, Ngài đã sinh ra trong chuồng bò là để cho mọi người có thể đến với Ngài, không phân biệt giàu sang hay nghèo khổ, có địa vị hay chỉ là dân đen. Các trẻ chăn chiên được mời gọi, ba nhà đạo sĩ Phương Ðông được chỉ lối, tất cả đến với Ngài và đã tìm được nguồn vui.

Hôm nay, Ngài vào Ðền Thánh bằng nghi lễ thanh tẩy và hiến dâng. Thật ra chỉ có con người tội lỗi mới cần thanh tẩy, chỉ có loài thụ tạo mới cần hiến dâng. Vậy mà Chúa Giêsu Ngài vẫn chấp nhận tất cả để nên như một cơ hội quí báu cho tiên tri Siméon và Anna gặp Ngài. Niềm vui bấy lâu mong đợi, giờ đây Siméon đã đạt được như ý nguyện, giờ đây ông có thể ra đi bình an không còn gì phải tiếc nuối.

Siméon và Anna là tiêu biểu cho nhóm những người nghèo của Giavê. Họ ăn chay cầu nguyện, sống nghèo khổ để canh thức trông chờ Ðấng Cứu Thế, dù cho cuộc sống có đầy dẫy những lạc thú thì vẫn không quyến dũ được họ cho bằng niềm vui cứu chuộc họ đang trông chờ.

Thời gian chờ đợi luôn là thời gian dài dẵng lê thê và nếu dành cả một đời để trông ngóng đợi chờ thì không khỏi bị coi là phi lý điên rồ. Chắc chắn Siméon và Anna cũng bị gán cho nhãn hiệu này. Tuy nhiên, Thiên Chúa lại cần đến sự phi lý điên rồ ấy, vì Ngài cũng đã từng hành động như vậy. Một Ðấng Tạo Hóa mà lại hóa thân làm một thụ tạo. Một người Chủ uy quyền mà lại nhận thân phận tôi tớ. Siméon và Anna đã chấp nhận con đường này và Thiên Chúa đã đáp lời họ.

Thế nhưng, khi hưởng niềm vui bất diệt ấy, họ lại chỉ không dành hết cho mình nhưng còn mau mắn chia sẻ với người khác. Bà Anna đã nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel, vì thế bà được coi là nữ tiên tri, dù rằng suốt cuộc sống bà cũng chẳng làm một điều gì như các tiên tri ở Israel.

Vị tiên tri là gì nếu không phải là kẻ truyền rao Thiên Chúa, truyền rao ơn cứu độ. Như vậy, chúng ta có thể gọi bà Anna là mẫu mực cho người tín hữu trong cuộc sống và hành động. Bà đã can đảm và chấp nhận một cuộc sống thiếu thốn trong chay tịnh và cầu nguyện, cũng như luôn hy vọng đợi chờ, dù cho sự việc chẳng biết bao giờ mới xảy ra và khi đã đón nhận hồng ân thì lại sẵn sàng truyền rao chia sẻ cho kẻ khác. Hồng ân bà nhận được hôm nay luôn là một chứng từ thôi thúc tín hữu thêm lòng cậy trông, vì Thiên Chúa sẽ không chê bỏ những ai đặt hết hy vọng vào Ngài.

Trong mùa Giáng Sinh, mùa kỷ niệm một biến cố phi lý mà con người không thể hiểu thấu. Ước mong rằng mỗi người trong chúng ta biết bắt chước như bà Anna là sẵn sàng đón nhận những đau khổ, những phi lý về ơn cứu độ và nhất là luôn nhớ sứ mệnh tiên tri đã được trao ban từ ngày lãnh nhận bí tích Rửa Tội, để rồi ta có thể bắt chước thánh Phaolô mà nói được như Ngài: “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Ðức Kitô”. Amen.

 

Suy Niệm 4: Mẫu người thánh thiện

Bầu khí tưng bừng của Mùa Giáng sinh dễ làm chúng ta quên đi một sự kiện quan trọng đó là Con Thiên Chúa đã đến thế gian một cách hết sức nhẹ nhàng, êm thắm. Ngài không đến để phút chốc làm đảo lộn tất cả nhịp sống bình thường của con người, nhưng chỉ tế nhị thay đổi từ từ cõi lòng và đời sống mỗi người bằng tình thương dịu dàng của Ngài.

Bài Tin mừng hôm nay gợi lên cho ta một mẫu người thánh thiện nơi bà Anna. Tác giả Tin mừng theo thánh Luca gọi bà là một tiên tri, nhưng theo ý kiến các nhà chú giải thì bà chỉ là một người đơn sơ bé nhỏ thuộc về nhóm những người nghèo của Yavê, những kẻ ưu tiên được hưởng lời hứa và ơn cứu độ của Thiên Chúa. Bà chỉ xuất hiên một lần trong biến cố dâng Chúa vào Đền thờ. Dung mạo bà được mô tả bằng những chi tiết đơn sơ nhưng thật quan trọng: bà đã được 84 tuổi đời, goá bụa nghèo khó, trung thành với những bổn phận đạo đức, sống nơi đền

Bài Tin mừng hôm nay gợi lên cho ta một mẫu người thánh thiện nơi bà Anna. Tác giả Tim mừng theo thánh Luca gọi bà là một tiên tri, nhưng theo ý kiến các nhà chú giải thì bà chỉ là một người đơn sơ bé nhỏ thuộc về nhóm những người nghèo của Yavê, những kẻ ưu tiên được hưởng lời hứa và ơn cứu độ của Thiên Chúa. Bà chỉ xuất hiên một lần trong biến cố dâng Chúa vào Đền thờ. Dung mạo bà được mô tả bằng những chi tiết đơn sơ nhưng thật quan trọng: bà đã được 84 tuổi đời, goá bụa nghèo khó, trung thành với những bổn phận đạo đức, sống nơi Đền thờ, phụng sự Thiên Chúa ngày đêm trong kinh nguyện và trong chay tịnh. Thật khó mà sống được như thế nếu không cố gắng cộng tác với ơn Chúa. Bà tin tưởng vào lời hứa cứu độ của Thiên Chúa sẽ thực hiện và cuối cùng đã được nhìn thấy Đấng Cứu Chuộc nơi Hài nhi Giêsu.

Mỗi người chúng ta có thể noi gương bà Anna sống kết hiệp với Chúa trong cầu nguyện và chay tịnh, nghĩa là sông đời khổ hạnh, để có thể nhìn thấy hành động của Thiên Chúa trong lịch sử nói chung và trong chính đời sống mỗi người chúng ta nói riêng. Không phải sự khôn ngoan thông thái làm cho con người gặp được Thiên Chúa  và lãnh nhận ơn cứu rỗi của Ngài, nhưng chỉ những tâm hồn đơn sơ như các mục đồng, như bà Anna mới lắng nghe được lời mời gọi đến gặp Chúa.

Chiêm ngắm Hài nhi Giêsu trong máng cỏ, chúng ta hãy xin Ngài ban cho ánh sáng và sức mạnh hầu diệt trừ mọi ảnh hưởng của thế gian và chân thành phụng sự Chúa trong khiêm tốn và yêu mến.

 

Suy Niệm 5: Cần trở về với nội tâm

Chúng ta vừa đón mừng Đại Lễ Giáng Sinh với những tổ chức sinh hoạt rầm rộ và những trang hoàng hoành tráng bên ngoài làm toát lên vẻ huy hoàng, cao trọng của biến cố có một không hai trong lịch sử cứu độ qua việc Con Thiên Chúa xuống thế làm người.

Tuy nhiên, những sinh hoạt bên ngoài đó đôi khi làm cho chúng ta quên đi ý nghĩa và giá trị tinh thần của ngày lễ. Hơn nữa, chính Con Thiên Chúa giáng sinh trong cảnh nghèo nàn, nhẹ nhàng, êm đềm chứ không phải rầm rộ bên ngoài … Sự kiện Đức Giêsu giáng sinh thời đó rất âm thầm và Ngài muốn trở thành một người bình thường như mọi người.

Như vậy, muốn có được một mùa Giáng Sinh ý nghĩa và lắng đọng, có lẽ chúng ta phải trở về với cuộc sống nội tâm sâu xa thì mới đi được vào luồng tình yêu của Thiên Chúa, qua đó, sứ điệp giáng sinh mà Con Thiên Chúa mang đến cho nhân loại, trong đó có chúng ta mới thực sự có ý nghĩa trên và trong cuộc đời của mỗi người … Nếu không có yếu tố đó, đại lễ Giáng Sinh chỉ thuần túy là một lễ hội với những sự sầm uất bề ngoài.

Tin Mừng hôm nay trình thuật cho chúng ta biết mẫu gương của một bà quả phụ đã sống điều đó trong cuộc đời của bà. Quả thật, bà là người nghèo của Thiên Chúa, bà chẳng có gì để dâng cho Chúa cả, bà chỉ có tấm lòng và đời sống lương thiện cũng như đạo đức.

Kinh Thánh diễn tả bà hết sức đơn sơ như: bà đã được 84 tuổi, goá bụa nghèo khó, trung thành với những bổn phận đạo đức, sống nơi đền thờ, phụng sự Thiên Chúa ngày đêm trong kinh nguyện và trong chay tịnh.

Qua cuộc đời của bà, chúng ta thấy toát lên một điều, đó là: bà đã lấy Chúa làm trung tâm của cuộc đời mình, cho nên, mọi sinh hoạt đều hướng về Cái Tâm đó. Muốn đi vào tương quan với Thiên Chúa cách thân tình như vậy, hẳn bà phải có tình yêu thúc đẩy.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta, mỗi lần chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu bọc tã nằm trong máng cỏ, chúng ta hãy có tâm tình đơn sơ như bà Anna. Sống tinh thần khó nghèo, phó thác để cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa cho nhân loại qua việc trao ban Đức Giêsu, quà tặng vô giá cho chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa đã nêu gương cho chúng con về tinh thần nghèo khó. Chỉ những ai có được tinh thần như thế, mới được gọi là con Thiên Chúa thực sự. Xin Chúa ban ơn cho mỗi chúng con biết noi gương bà Anna trong bài Tin Mừng hôm nay, ngõ hầu được sống trong tình yêu của Chúa. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Gặp Chúa trong cuộc sống bình dị đơn sơ

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Con Thiên Chúa đã giáng trần trong khiêm cung và khó nghèo, không phô trương và hào nhoáng. Vì vậy chỉ những tâm hồn nhỏ bé đơn sơ, thành kính chay tịnh và âm thầm cầu nguyện như bà tiên tri Anna mới dễ dàng gặp Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, bầu khí vui nhộn của lễ Giáng sinh ngày nay, với những hang đá rực rỡ, sang trọng và ánh đèn mầu hiện đại, dễ làm cho con quên rằng cách đây hơn 2000 năm, Chúa đã đến với con người âm thầm và khiêm nhu. Chúa đến chỉ vì yêu thương, mà tình yêu chân thật thì đi đôi với sự tế nhị, kín đáo, và thâm trầm.

Xin Chúa cho con biết noi gương bà tiên tri Anna, suốt cuộc đời âm thầm liên lỉ cầu nguyện, để con có thể gặp gỡ và chúc tụng Chúa. Xin cho con hiểu được rằng con không thể tìm gặp Chúa trong sự ồn ào náo động của những lo toan vật chất hay những đam mê trần tục, mà chỉ được gặp Chúa trong kinh nguyện hằng ngày, trong cuộc sống bình dị đơn sơ.

Lạy Chúa, xin cho con hiểu rằng: để chuẩn bị cho ba năm công khai giảng đạo, Chúa đã sống ẩn dật trong ba mươi năm tại Na-da-rét. Xin cho con như hạt giống nhỏ dần dần lớn lên, như nắm men từ từ làm dậy cả khối bột, để con biết chu toàn cách phi thường những công việc bổn phận tầm thường hằng ngày.

Và xin cho con được nên giống Chúa, với tháng năm dần dần trưởng thành, được nên dũng mạnh, khôn ngoan và tràn đầy ân sủng của Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Bà đã nói về Người với tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel”.

 

Suy Niệm 7: Sống kết hiệp với Chúa như bà Anna

(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)

Bầu khí tưng bừng của Mùa Giáng Sinh dễ làm chúng ta quên đi một sự kiện quan trọng đó là Con Thiên Chúa đã đến thế gian một cách hết sức nhẹ nhàng, êm thắm. Ngài không đến để phút chốc làm đảo lộn tất cả nhịp sống bình thường của con người, nhưng chỉ tế nhị thay đổi từ từ cõi lòng và đời sống mỗi người bằng tình thương dịu dàng của Ngài.

Bài Tin mừng hôm nay gợi lên cho ta một mẫu người thánh thiện nơi bà Anna. Tác giả Tin mừng theo thánh Luca gọi bà là một tiên tri, nhưng theo ý kiến các nhà chú giải thì bà chỉ là một người đơn sơ bé nhỏ thuộc về nhóm những người nghèo của Giavê, những kẻ ưu tiên được hưởng lời hứa và ơn cứu độ của Thiên Chúa. Bà chỉ xuất hiện một lần trong biến cố dâng Chúa vào Đền thờ. Dung mạo bà được mô tả bằng những chi tiết đơn sơ nhưng thật quan trọng: bà đã được 84 tuổi đời, goá bụa nghèo khó, trung thành với những bổn phận đạo đức, sống nơi Đền thờ, phụng sự Thiên Chúa ngày đêm trong kinh nguyện và trong chay tịnh. Thật khó mà sống được như thế nếu không cố gắng cộng tác với ơn Chúa.

Bà tin tưởng vào lời hứa cứu độ của Thiên Chúa sẽ thực hiện và cuối cùng đã được nhìn thấy Đấng Cứu Chuộc nơi Hài nhi Giêsu.

Mỗi người chúng ta có thể noi gương bà Anna sống kết hiệp với Chúa trong cầu nguyện và chay tịnh, nghĩa là sống đời khổ hạnh, để có thể nhìn thấy hành động của Thiên Chúa trong lịch sử nói chung và trong chính đời sống mỗi ngừơi chúng ta nói riêng. Không phải sự khôn ngoan thông thái làm cho con người gặp được Thiên Chúa và lãnh nhận ơn cứu rỗi của Ngài, nhưng chỉ những tâm hồn đơn sơ như các mục đồng, như bà Anna mới lắng nghe được lời mời gọi đến gặp Chúa.

Chiêm ngắm Hài nhi Giêsu trong máng cỏ, chúng ta hãy xin Ngài ban cho ánh sáng và sức mạnh hầu diệt trừ mọi ảnh hưởng của thế gian và chân thành phụng sự Chúa trong khiêm tốn và yêu mến.

 

Suy Niệm 8: Đức Giêsu sống ẩn dật

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Bài Tin Mừng ghi lại việc bà Anna nói tiên tri về Hài Nhi Giêsu cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa đến cứu chuộc.

Lúc thánh Giuse và Đức Maria dâng Chúa Hài Nhi trong Đền thờ, cũng có bà tiên tri Anna ở đó.  Bà sống trong đền thờ, ăn chay cầu nguyện và phụng sự Chúa đêm ngày. Bà thấy trẻ Giêsu thì chúc tụng và giới thiệu cho mọi người. Còn thánh Giuse và Đức Maria, sau khi làm xong mọi việc theo luật dạy thì đem Chúa Giêsu về nhà. Người càng lớn thì càng thêm mạnh mẽ, khôn ngoan và đầy ân sủng.

  1. Bà Anna hôm nay quan trọng vì bà là một tiên tri, đã báo cho mọi người biết con trẻ Giêsu là Đấng mọi người mong đợi, nay đã đến.

Bà là một quả phụ già nua với tuổi đời trên 80. Với xã hội bà chỉ là một người góa bụa nghèo nàn, vô tích sự. Nhưng trước  mặt Chúa bà có giá trị vì bà không rời bỏ Đền thờ, hằng ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa.

Bà quả là mẫu gương cho tất cả những ai đang sống trong phận nhỏ: nghèo hèn, bệnh tật, dốt nát, vô tích sự đối với xã hội. Vì những người phận nhỏ này Chúa cần dùng đến để hiệp thông với Chúa trong việc ăn chay, cầu nguyện và phụng thờ Thiên Chúa; đồng thời Chúa còn dùng đến để cộng tác vào công việc loan báo Chúa cho tha nhân bằng chứng tích của đời sống, bằng lời nói và việc làm.

  1. “Còn Hài Nhi, ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ơn nghĩa cùng Thiên Chúa” (Lc 2,40).

Trong gia đình, Hài nhi Giêsu cần được giáo dục về mọi phương diện để thành người: nuôi dưỡng sức khỏe thể lý, củng cố sự vững mạnh tâm lý, phát triển trí khôn, lớn lên trong ơn nghĩa Chúa. Vì thế, trong gia đình Thánh gia, mặc dù là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người, Chúa Giêsu vẫn hoàn toàn chu toàn bổn phận với Chúa Cha trong tư cách là Con Thiên Chúa (x. Lc 2,49) và chu toàn bổn phận là con  trong một gia đình khi sống đời khiêm hạ và hằng vâng phục Mẹ Maria và thánh Giuse. Người ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, vả hằng được ơn nghĩa cùng Thiên Chúa (x Lc2,40).

Như vậy, noi gương Chúa Giêsu, trong phận làm con, chúng ta có bổn phận hiếu kính cha mẹ mình. Sự hiếu kính đó không phải chỉ là điều hợp với lẽ phải, hợp với khao khát chính đáng của con người, nhưng còn là điều đẹp ý Chúa. Bởi lẽ Thiên Chúa muốn con cái thờ cha kính mẹ (x Đnl 5,16). Bởi lòng hiếu thảo của con cái là quà tặng đẹp nhất dâng cho cha mẹ và được Chúa chúc lành.

  1. “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà Cha con sao” (Lc 2,49)?

Sau mười hai năm dưỡng dục, Đức Maria và thánh Giuse dẫn người con Giêsu nay đã lớn khôn lên Giêrusalem “trình làng”. Bổn phận làm cha làm mẹ khiến hai Đấng chạy đôn chạy đáo tìm kiếm khi thất lạc cậu con. Nỗi lo lắng ấy được bù đắp khi tìm thấy con mình ngồi giữa các thầy thông thái, vừa đáp vừa hỏi thật khôn ngoan. Dù đã chu toàn trách nhiệm, hai đấng vẫn không khỏi ngỡ ngàng trước câu trả lời khó hiểu của con mình: ”Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà Cha Con sao”? Thì ra bổn phận làm cha mẹ không chỉ là chăm sóc dạy dỗ con về phương diện tư nhiên, xã hội mà còn hướng dẫn cho con cái nhận biết, đáp lại ơn gọi và sứ mạng Chúa dành cho chúng nữa; cha mẹ không chỉ dưỡng dục con thành người mà còn phải giúp con mình  lớn lên thành con cái Chúa.

  1. Qua biến cố Giáng sinh, Thiên Chúa đã trao cho nhân loại một viên ngọc vô cùng quí giá, là Chúa Giêsu, để nhờ đó mà nhân loại được sống. Thế nhưng thử hỏi có được bao nhiêu người trong nhân loại đã giơ tay ra để đón lấy viên ngọc quí đó. Thánh sử Gioan, trong bài tiền ngôn Tin Mừng của Ngài, Ngài đã đau xót nói lên rằng: ”Người ở giữa thế gian, nhưng thế gian lại không nhận biết Ngài (Ga 1,10). Và còn hơn thế nữa: ”Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận Người” (Ga 1,11).

Chính vì thế “Ngài đã đến, nhưng Ngài lại phải ra đi”.

Tại sao nhân loại đã có thái độ như vậy ? Thưa, chỉ vì nhân loại chưa nhận biết  giá trị của viên ngọc quí Giêsu. Chính vì thế mà nhiều người đã đi chọn cho mình những viên ngọc giả hiệu là danh vọng, lạc thú, giầu sang, chức quyền thay vì chọn viên ngọc thật, vô cùng qui giá là Chúa Giêsu.

  1. Truyện: Chọn viên ngọc quí.

Người ta kể rằng có một chàng thanh niên đến xin thọ giáo với một sư tổ về ngọc thạch. Sau khi đã chấp nhận người môn sinh, vị sư tổ trao cho chàng một viên ngọc thạch quí giá, và bảo chàng hãy nắm thật chặt lấy nó ở trong tay. Thế rồi ông nói thao thao với người môn sinh về triết lý nhân sinh, về thiên văn địa lý. Sau hơn một giờ đồng hồ, ông bảo người môn sinh trả lại ông viên ngọc thạch, rồi cho chàng về nhà.

Hôm sau, chàng thanh niên đó trở lại, và cái cảnh hôm trước lại tái diễn. Thế rồi ngày này qua ngày khác, tháng nọ qua tháng kia, không có một điều gì khác lạ.

Nhưng rồi một hôm vị sư tổ bảo chàng nhắm mắt lại, rồi trao cho chàng một viên đá thay vì một viên ngọc như mọi khi, và cũng bảo chàng nắm tay lại.

Vừa nắm bàn tay lại chàng thanh niên nói: – Thưa thầy, đây không phải là viên bảo ngọc.

Vị tổ sư về ngọc thạch reo lên: – Khá lắm, khá lắm, thế là con đã thành tài rồi đó.

Sống trong cuộc sống, chúng ta phải tập cho mình biết nhạy bén với những dấu chỉ dù nó thật nhỏ bé, chúng ta mới có thể nhận ra những điều kỳ diệu Chúa làm cho chúng ta.

 

Suy Niệm 9: Dùng cuộc sống làm lễ dâng tiến Chúa

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Bà Anna đã đến tuổi “tri thiên mệnh” nên bà biết phải theo đuổi những gì cần thiết cho cuộc sống của mình. Đó là việc cầu nguyện, tu thân tích đức và mong chờ ơn cứu độ. Đây quả là một thái độ rất khôn ngoan trước mặt Chúa.

Người ta kể lại rằng, có một chàng thanh niên đến xin thọ giáo với một vị sư tổ chuyên về ngọc thạch. Sau khi chấp nhận anh ta làm môn sinh, vị sư tổ đã trao cho anh ta một viên ngọc thạch quí giá, và bảo anh hãy nắm chặt lấy nó ở trong tay. Sau đó thay vì những giáo huấn về nghề nghiệp, ông lại thao thao bất tuyệt nói với người đệ tử của ông về triết lý nhân sinh, về thiên văn địa lý. Ông nói cả hơn một giờ đồng hồ như thế rồi ông bảo người môn đệ trả lại cho ông viên ngọc thạch đó rồi cho chàng về nhà.

Hôm sau, chàng thanh niên đó lại trở lại, và cái cảnh hôm trước lại tái diễn. Thế rồi ngày này qua ngày khác, tháng nọ qua tháng kia, không có một điều gì khác lạ cả.

Bỗng một hôm vị sư tổ bảo chàng thanh niên đó nhắm mắt lại, rồi thay vì một viên ngọc như mọi khi, ông trao lại cho chàng một viên đá và cũng bảo chàng nắm tay lại.

Vừa nắm bàn tay lại chàng thanh niên nói:

– Thưa Thầy, đây không phải là viên bảo ngọc.

Vị sư tổ về ngọc thạch reo lên:

– Khá lắm, khá lắm, thế là con đã thành tài rồi đó.

Vâng! Chúng ta vừa mừng kính mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa Giáng Sinh làm người, lấy tên là Giêsu.

Qua biến cố Giáng Sinh, Thiên Chúa đã trao cho nhân loại một viên ngọc vô cùng quí giá, là Chúa Giêsu, để nhờ đó mà nhân loại được sống.

Thế nhưng thử hỏi có được bao nhiêu người trong nhân loại đã giơ tay ra để đón nhận lấy viên ngọc quí đó. Thánh Sử Gioan, trong bài tiền ngôn Tin Mừng của Ngài, Ngài đã đau xót nói lên rằng: “Người ở giữa thế gian, nhưng thế gian lại không nhận biết Ngài” (Ga 1,10). Và còn hơn thế nữa: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận Người” (Ga 1,11).

Chính vì thế “Ngài đã đến, nhưng Ngài lại phải ra đi”.

Tại sao nhân loại đã có thái độ thờ ơ như vậy?

Thưa chỉ vì nhân loại chưa nhận biết được giá trị của viên ngọc quí Giêsu. Chính vì thế mà nhiều người đã đi chọn cho mình những viên ngọc giả hiệu là danh vọng, lạc thú, giàu sang, chức quyền thay vì chọn viên ngọc thật, vô cùng quí giá là Chúa Giêsu.

  1. Nhưng có một người trong loài người đã biết được giá trị của viên ngọc Giêsu và đã chọn viên ngọc đó. Đó là bà Anna mà Tin Mừng hôm nay nhắc đến.

Thánh sử Luca cho biết về bà rằng: “Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được 7 năm, rồi ở goá, cho đến nay đã 84 tuổi”. (Lc 2,36-37)

Trong Thánh Kinh, người góa bụa được đồng nghĩa với người nghèo. Như thế ở đây, bà Anna không những nghèo, mà lại còn già nữa, vì bà đã 84 tuổi.

Thế nhưng, con người khốn khổ đó đã sáng suốt và chọn lựa đúng. Thánh sử viết: “Bà không rời bỏ Đền thờ, những ăn chay, cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa”. (Lc 2,37)

Thì ra bà đã biến đổi cuộc đời mà nhiều người có thể cho là vô tích sự, trở thành một của lễ hy sinh dâng lên cho Thiên Chúa. Lý do khiến cho bà: “không rời bỏ Đền thờ, những ăn chay cầu nguyện” chỉ là vì bà thấy được giá trị của việc chọn Chúa. Với bà, Chúa là một viên ngọc vô giá.

Và khi đã chiếm hữu được viên ngọc đó rồi, một niềm vui tràn ngập tâm hồn bà, khiến bà quên đi thân phận góa bụa, già nua, để chỉ nghĩ đến một việc là phụng thờ Chúa. Và khi cơ hội đến, bà đã không ngần ngại nói “về Hài Nhi cho những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Jêrusalem” (Ga 2,38).

Bà Anna mà Tin Mừng hôm nay nói đến phải trở thành một mẫu gương sống động cho chúng ta, đặc biệt là cho những người nghèo khổ, già nua bệnh tật.

Đừng bao giờ chúng ta nghĩ rằng, cuộc đời vô tích sự của chúng ta là vô giá trị trước mặt Thiên Chúa, mà chúng ta phải nghĩ rằng, chúng ta có thể làm cho nó trở nên vô giá trước mặt Chúa, nếu chúng ta biết chọn Chúa, nếu chúng ta biết biến nó thành một của lễ hy sinh, bằng một đời sống kết hợp với Chúa trong chay tịnh và cầu nguyện.

Đây chính là điều mà Thánh Gioan đã căn dặn chúng ta trong bài đọc I: “Các con đừng yêu mến thế gian và những điều thuộc về thế gian” (1Ga 12,17) mà phải yêu mến Thiên Chúa và những điều thuộc về Người.

Trong Thánh lễ hôm nay chúng ta hãy cầu xin Chúa mọi người chúng ta biết dùng chính cuộc sống của mình, dù cuộc đời đó giàu hay nghèo, sung sướng hay khổ đau, trẻ trung hay già cả . v. v … làm của lễ dâng lên cho Thiên Chúa. Như thế là chúng ta đã chọn Chúa. Và nếu chúng ta đã chọn Chúa, thì Chúa cũng sẽ chọn chúng ta.

 

 

Ngày 31/12 – Tuần Bát Nhật Giáng Sinh (Ga 1,1-18)

 

LỜI CHÚA: Ga 1, 1-18

Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thuỷ. Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng.

Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đã đến nhằm việc chứng minh, để ông chứng minh về sự sáng, hầu cho mọi người nhờ ông mà tin. Chính ông không phải là sự sáng, nhưng đến để chứng minh về sự sáng. Vẫn có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo và thế gian đã không nhận biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra.

Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý. Gioan làm chứng về Người khi tuyên xưng rằng: “Ðây là Ðấng tôi tiên báo. Người đến sau tôi, nhưng xuất hiện trước tôi, vì Người có trước tôi”. Chính do sự sung mãn Người mà chúng ta hết thảy tiếp nhận ơn này tới ơn khác. Bởi vì Chúa ban Lề luật qua Môsê, nhưng ơn thánh và chân lý thì ban qua Ðức Giêsu Kitô. Không ai nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng chính Con Một Chúa, Ðấng ngự trong Chúa Cha, sẽ mạc khải cho chúng ta.

 

Suy Niệm 1: Ngôi Lời đã thành người

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Ông Soren Kierkegaard, một triết gia người Đan Mạch, kể chuyện sau.

Một vị vua bỗng dưng đem lòng thương cô thôn nữ nghèo.

Ông tin rằng mình có thể dùng quyền vua để cưới cô ấy làm vợ.

Nhưng ông lại sợ cô lấy ông chỉ vì nể phục chứ không yêu.

Như thế tương quan giữa hai người không được trọn vẹn.

Sau khi suy nghĩ, ông thấy chỉ có cách là thực sự từ bỏ ngai vàng,

trở thành một anh nông dân nghèo, và bày tỏ tình yêu mình cho cô.

Vị vua biết làm thế là liều lĩnh, vì ông có thể mất cả cô lẫn ngôi báu.

Cô có thể chê chàng nông dân, hay chê quyết định dại dột của vị vua.

Nhưng nhà vua vẫn dám liều, vì ông quá yêu cô thôn nữ,

và ông muốn đây là một mối tình thực sự.

Câu chuyện cảm động trên đây đưa ta vào chuyện tình

đã xảy ra giữa Ngôi Lời Thiên Chúa và nhân loại.

Ngôi Lời còn cao trọng hơn vị vua kia bội phần.

Ngài là Thiên Chúa Con Một, dựng nên vạn vật (cc. 3. 18).

Ngài là Đấng duy nhất thấy Thiên Chúa và ở trong lòng Thiên Chúa,

nên chỉ Ngài mới có thể bày tỏ Thiên Chúa cho nhân loại (c. 18).

Ngài tràn đầy ân sủng và sự thật, sự sống và ánh sáng (cc. 3. 14).

Tất cả những điều ấy là quà tặng của Ngôi Lời cho con người.

Nhưng quà tặng lớn lao và bất ngờ nhất làm ta ngỡ ngàng, reo vui,

đó là biến cố Ngôi Lời trở nên người phàm và ở giữa chúng ta (c. 14).

Con Thiên Chúa trở nên con của loài người và mang tên Giêsu (c. 17).

Ngài mang khuôn mặt của ta, đứng chung một dòng tiến hóa với ta.

Ngài dựng lều trên trái đất, một hành tinh bé xíu nhưng tuyệt vời,

vì đã được ghi dấu chân Con Thiên Chúa.

Ông Luther viết: “Ngài đã ăn, uống, ngủ, thức;

Ngài đã cảm thấy chán nản, biết buồn, biết vui.

Ngài khóc, cười, đói, khát; Ngài đổ mồ hôi; Ngài vất vả, cầu nguyện,

đến nỗi giữa Ngài với ta không có dị biệt nào, tuyệt nhiên không,

ngoại trừ Ngài là Thiên Chúa và Ngài vô tội. ”

Khác với vị vua không muốn làm vua nữa để thành nông dân,

Ngôi Lời khi thành người vẫn là Con Thiên Chúa dưới dạng tự hủy.

Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật.

Nếu Ngài chỉ là một con người hay một bậc vĩ nhân,

thì Ngài chỉ đáng ta kính trọng chứ không phụng thờ.

Nếu Ngài chỉ là một Thiên Chúa đội lốt người, chứ không là người thật,

thì Ngài không thể cứu độ và thần hóa con người.

Lễ Giáng sinh là lễ hội của mọi người trên mặt đất

vì Con Thiên Chúa đã muốn chia sẻ phận người của chúng ta.

Ngài đã đến với thế giới này như nhà của Ngài (cc. 9. 11).

Chỉ cần nhận biết, tin vào Ngài, đưa Ngài vào nhà (cc. 10-12)

là chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa.

Hơn hai ngàn năm đã trôi qua, Đức Giêsu vẫn đứng ngoài để chờ.

Có ai mở cửa cho Ngài không? (Kh 3, 20).

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa,

Chúa đã muốn trở nên con của loài người,

con của trái đất, con của một dân tộc.

Chúa vẫn yêu mến dân tộc của Chúa

dù họ từ khước Tin Mừng

và đóng đinh Chúa vào thập giá.

Xin cho chúng con biết yêu mến quê hương,

một quê hương còn nghèo nàn lạc hậu

sau những năm dài chiến tranh,

một quê hương đang mở ra trước thế giới

nhưng lại muốn giữ gìn bản sắc dân tộc

và bảo vệ nền đạo lý của cha ông.

Xin cho chúng con đừng nhắm mắt ngủ yên

trong sự an toàn và tiện nghi vật chất,

nhưng biết trăn trở trước nỗi khổ đau,

và làm một điều gì đó thật cụ thể

cho những đồng bào quanh chúng con.

Ước gì chúng con biết phục vụ đất nước

bằng khối óc, quả tim và đôi tay.

Và ước gì chúng con biết khiêm tốn

cộng tác với muôn người thiện chí. Amen.

 

Suy Niệm 2: Lịch sử tình yêu Thiên Chúa

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Ngày cuối cùng của năm cũ, thánh Gioan mời ta ngược về khởi thủy. Đến ngọn nguồn của lịch sử. Đến lịch sử của Thiên Chúa. Đó là lịch sử tình yêu.

Lịch sử khởi nguồn từ tình yêu Thiên Chúa. Ba Ngôi Thiên Chúa hiệp thông trong tình yêu. Ba Ngôi không ngừng hướng về nhau trong một chuyển động tình yêu liên lỉ và phong phú từ đời đời: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời, Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa”.

Từ đó phát sinh lịch sử tình yêu sáng tạo. Tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi tràn trào ra trong sáng tạo muôn loài. Sự sống chính là ánh sáng chói lọi đẹp đẽ nhất phát xuất từ Thiên Chúa: “Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành…Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại”.

Nhưng buồn thay lịch sử bị hoen ố vì tình yêu bị phản bội: “thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người”. Thật đáng buồn. Thánh Gioan cho biết đó là những Phản-Kitô, chẳng phải ai xa lạ, chính là người trong nhà, cùng một nguồn cội yêu thương: “Chúng xuất thân từ hàng ngũ chúng ta, nhưng không phải là người của chúng ta”. Vì chúng đã thay lòng đổi dạ. Đó là tình yêu giả dối, phản bội.

Tuy nhiên Thiên Chúa vẫn tiếp tục với lịch sử cứu chuộc bằng cách gửi Con Một yêu dấu đến ở với loài người. “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Lời tức là những tinh túy nhất của một con người. Lời chính là người. Vì thế Ngôi Lời chính là Thiên Chúa yêu thương đến giữa loài người.

Và Thiên Chúa lại tiếp tục yêu thương bằng lịch sử ân sủng tuôn đổ dư tràn trên nhân loại qua Con Một yêu dấu: “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác”.

Thật lạ lùng tình yêu của Thiên Chúa. Với Con Chúa giáng trần, Chúa muốn sinh ra một nhân loại mới, “được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, nhưng do bởi Thiên Chúa”.

Với con người mới sống theo ơn Chúa Thánh Thần, ta sẽ mở lòng đón nhận Thiên Chúa. Ta sẽ hoàn toàn sống cho tình yêu. Và năm mới sẽ lại tiếp tục với lịch sử tình yêu của Thiên Chúa trong đời ta.

 

Suy Niệm 3: Ngôi Lời Ðã Hóa Thành Nhục Thể

Khởi đầu Tin Mừng của thánh Gioan đã cho chúng ta thấy xuất xứ của Ðức Giêsu Kitô bởi Thiên Chúa mà ra. Ðức Giêsu Kitô được sinh ra không do xác thịt, cũng không bởi ý muốn của người đàn ông kết hợp với người đàn bà, nhưng bởi Thiên Chúa. Cho nên Ðức Maria đã thắc mắc với thiên thần Gabriel: “Chuyện ấy xảy ra thế nào được vì tôi không biết đến người nam”. Thiên thần Gabriel đã giải thích cho Ðức Maria: “Chúa Thánh Thần đến với Trinh Nữ và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao phủ Trinh Nữ. Vì thế, Ðấng Trinh Nữ sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa”.

Vậy, Ðức Kitô sinh ra bởi quyền phép Thiên Chúa và được gọi là Ngôi Hai Thiên Chúa Nhập Thể, Ngài mặc lấy thân xác con người như chúng ta và như Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu với các môn đệ của ông: “Ðây Chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xóa tội trần gian” và ông cũng làm chứng bằng lời nói sau đây: “Ðây là Ðấng tôi tiên báo, Người đến sau tôi nhưng xuất hiện trước tôi, vì Người có trước tôi”.

Theo lẽ thường bà chị họ của Ðức Maria là Elizabeth mang thai Gioan Tẩy Giả trước sáu tháng, thì Gioan được nhìn nhận là sinh ra trước Chúa Giêsu. Nhưng Gioan Tẩy Giả lại nói: “Ngài có trước tôi”, nghĩa là Gioan muốn nói lên bản tính Thiên Chúa của Ðức Giêsu Kitô.

Như vậy qua đoạn Tin Mừng này, Gioan Tẩy Giả muốn dẫn chứng cho chúng ta con người của Chúa Giêsu Kitô có hai bản tính:

– Bản tính Thiên Chúa.

– Bản tính nhân loại.

Xét theo bản tính Thiên Chúa: thì từ nguyên thủy đã có Ngài, Ngài vẫn ở với Thiên Chúa và Ngài vẫn là Thiên Chúa. Vì Chúa Giêsu là Thiên Chúa cho nên mọi vật đều được Người làm nên, và nếu không có Người thì không có vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Nơi Ngài có sự sống và chính Người là Thiên Chúa.

Theo bản tính nhân loại: Chúa Giêsu đã được sinh ra ở làng quê Belem bé nhỏ, nước Do Thái do một Trinh Nữ tên là Maria và một dưỡng phụ là Giuse. Chúa Giêsu đã sống ẩn dật ba mươi năm ở Nazareth, ba năm đi rao giảng nước Thiên Chúa rồi cũng bị bắt bớ, đánh đập và chết trên Thập Giá, an táng trong huyệt đá như mọi người đều biết.

Trong cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu, Ngài luôn luôn nhắc nhở đến sứ mệnh là phải chu toàn công việc Cha Ngài ủy thác, Ngài luôn luôn đề cao sự kết hợp mật thiết giữa Ngài với Chúa Cha và cả hai cùng làm việc không ngừng. Ngài cũng nhắc đến Chúa Thánh Thần sẽ được sai đến để tiếp tục công việc cứu rỗi của Ngài ở trần gian cho đến khi Ngài lại đến.

Chúa Giêsu đem ơn cứu rỗi đến cho nhân loại, vì trước Chúa Giêsu, chưa có ai nhận được ơn cứu rỗi kể từ lúc Adam và Evà phạm tội. Vì thế, bài Tin Mừng hôm nay đề cập đến sự sung mãn của Chúa Giêsu mà hết thảy chúng ta được tiếp nhận từ ơn này tới ơn khác. Bởi vì Chúa ban lề luật qua Môisen, nhưng ơn thánh và chân lý thì được ban qua Ðức Giêsu Kitô.

Qua bài Tin Mừng hôm nay, thánh sử đã giúp chúng ta thêm niềm tin vào Ðức Kitô là Con Thiên Chúa, là Ngôi Hai Thiên Chúa đã đến làm người để đem ơn cứu rỗi đến cho nhân loại tội lỗi.

Lạy Chúa, trong Mùa Giáng Sinh năm nay, xin Chúa cho mỗi người chúng con thêm vững niềm tin để chúng con xác tín mạnh mẽ hơn: Ngôi Hai Thiên Chúa Nhập Thể đem tình thương tha thứ vô biên đến cho mỗi người chúng con. Xin cho chúng con sống thực sự với mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Hai Thiên Chúa làm người ở với chúng con. Amen.

(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)

 

Suy Niệm 4: Ánh sáng cho nhân loại

Mỗi dịp cuối năm, tạp chí Time có thói quen chọn một nhân vật làm người nổi bật của năm. Người được chọn cho năm 1994 là Đức Gioan Phaolô II. Trong số ra cuối năm, tạp chí Time đã đưa ra lý do chọn lựa này như sau:

“Đức Giáo Hoàng không cảm thấy bối rối về lối sống đê hèn đang lan tràn khắp nơi. Cách đây 2 tuần, ngài đã giải thích với tạp chí Time rằng: cuốn sách bán chạy của ngài và đường lối ngoại giao không mấy được ưa thích của ngài đều có cùng một trọng tâm triết lý, đó là qui về sự thánh thiện của con người, và ngài nói thêm: “Giáo Hoàng phải là một sức mạnh tinh thần”. Trong một năm mà nhiều người than phiền về sự suy đồi của những giá trị luân lý hoặc bào chữa cho những hành động xấu, thì Đức Gioan Phaolô II đã cố gắng đề ra cái nhìn của ngài về cuộc sống tốt đẹp và thôi thúc thế giới sống theo cuộc sống đó. Chính vì sự can đảm đó, ngài được chọn làm người của năm”.

Nhận định trên của tạp chí Time về Đức Gioan Phaolô II hoàn toàn phù hợp với cái nhìn của ngài trong tác phẩm “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng”. Như tựa đề mà Đức thánh cha chọn cho tác phẩm này đã có thể gợi lên: Hy vọng là sứ điệp mà ngài muốn nhắn gửi cho cả nhân loại trong giai đoạn này. Xuyên suốt qua cuốn sách, ngài không ngừng lặp lại câu nói ngài đã gióng lên tại quảng trường Phêrô khi được bầu làm Giáo Hoàng: “Đừng sợ, hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô”. Thiết tưởng đó phải là ý tưởng hướng dẫn những suy tư của chúng ta trong ngày cuối năm này.

Nhìn lại một năm qua với bao biến động đã xẩy ra cho thế giới, cho Giáo Hội, cho dân tộc, cho gia đình, cho chính bản thân, ai trong chúng ta cũng dễ bị cám dỗ buông xuôi theo đà chán nản thất vọng. Chính trong tâm trạng này mà chúng ta cần lắng nghe lời kêu gọi của Đức thánh cha: “Đừng sợ. Hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô!” Quả thật, Chúa Kitô đang gõ cửa tâm hồn của từng người. 2000 năm qua, như thánh Gioan đã viết trong lời tựa Tin mừng của ngài: “Chúa Kitô là ánh sáng nhân loại đang chìm ngập trong u tối của chiến tranh, hận thù chết chóc, 2000 năm qua, hận thù và chiến tranh vẫn còn đó. Nhưng nhìn chung vào lịch sử của 2000 năm qua, không ai chối cãi được rằng ánh sáng của Chuá Kitô đã thực sự chiếu dọi vào trong tăm tối. Nói như Đức Gioan Phaolo 2 mãi mãi con người sẽ không bao giời có thể loại bỏ được Chúa Kitô ra khỏi lịch sử của mình. “Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể và cư ngụ giữa chúng ta” Mãi mãi Chúa Kitô luôn có mặt trong lịch sử con người. Đó chính là niềm hy vọng của các Kitô hữu: Chúa Kitô đang có mặt trong cuộc sống chúng ta. Với Ngài thì cho dù sóng gió có bao phủ, chúng ta không có gì để sợ hãi. Với Ngài thì cho dù tăm tối có phủ kín, chúng ta vẫn còn thấy ánh sáng để tiến bước, với Ngài thì cho dù thử thách thất bại có ngập tràn, chúng ta vẫn tiếp tục hy vọng.

Đó phải là tâm tình của chúng ta trong giờ phút này khi nhìn lại đất nước, gia đình, Giáo Hội, bản thân trong năm qua. Chúng ta hãy dâng lên Chúa niềm cảm mến tri ân và tin tưởng cậy trông của chúng ta.

 

Suy Niệm 5: Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ

Theo lẽ tự nhiên, cuối năm, người ta thường hay ngồi lại để tính sổ, thanh toán với nhau những điều cần thiết.

Trong đời sống đức tin, chúng ta cũng cần phải ngồi lại để tính sổ với Chúa về những điều mình đã làm được, cũng như những điều mình chưa làm được, để tạ ơn và tạ lỗi; để chúc tụng và phó dâng. . .

Ngồi lại để suy nghĩ về ơn Chúa. Có lẽ đây là dịp để mỗi người cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa đã ủ ấp trên cuộc đời chúng ta quá nhiều! Tuy nhiên, tình yêu đó có được chúng ta khám phá và làm lan tỏa ra với người khác hay không? Đây là điều chúng ta phải suy nghĩ. . . !

Mặt khác, thái độ tạ ơn phải luôn thường trực trong tâm hồn chúng ta, bởi vì: vui buồn, sướng khổ đều có Chúa đồng hành. Thành công, thất bại không nằm ngoài thánh ý Thiên Chúa. Chúa luôn yêu thương chúng ta ngay cả khi chúng ta là kẻ phản bội.

Tình yêu đó được ví như gà mẹ ấp ủ con dưới cánh, như người mẹ bao bọc che chở con mình. Cả những lúc ta đau buồn thất vọng, thì tình yêu đó càng quyết liệt, thắm thiết hơn. Lúc đó, Ngài thường vác chúng ta lên vai để chúng ta được an toàn.

Khi nhìn về quá khứ, chúng ta thấy tình yêu của Chúa tràn ngập trên chúng ta. Còn nhìn về viễn cảnh tương lai, chúng ta phó thác cho Chúa tất cả, vì: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Ngài, Ngài sẽ ra tay”.

Mong sao, mỗi người chúng ta có được niềm tin vào tình thương của Chúa vì Ngài luôn lo lắng cho chúng ta.

Quả thật, người có niềm tin thì luôn cảm thấy: “Có Chúa chăn giữ tôi, tôi sẽ chẳng thiếu gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người để tôi vào nghỉ. Bên dòng nước trong lành, dẫn tôi về bổ sức”.

Và:

“Dầu qua trong thung lũng âm u, tôi sợ gì nguy hại, vì có Chúa ở cùng, côn trượng Ngài sẵn đó, tôi vững dạ an tâm”.

Lạy Chúa, một năm đã qua và năm mới đang đến. Chúng con xin tạ ơn Chúa vì những ơn lành Chúa đã ban cho chúng con. Chúng con cũng xin tạ lỗi với Chúa vì những bất xứng chúng con đã vô tình, tệ bạc mà quên ơn Chúa. Giờ đây, chúng con xin dâng năm sống mới lên Chúa, để xin Chúa tiếp tục yêu thương, gìn giữ và chúc lành cho chúng con. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy Niệm 6: Ngôi Lời làm người ở giữa nhân loại

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Ngôi Lời đến làm người ở giữa nhân loại. Người đem cho ta sự sống, ánh sáng, ân sủng và sự thật. Ai đón nhận Người thì được làm con Thiên Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con thờ lạy Chúa là Thiên Chúa của con. Chúa nằm trong máng cỏ nhỏ bé lặng lẽ, nhưng Chúa là Thiên Chúa đã tạo dựng và ban sự sống cho muôn loài. Chính Chúa đã cho con sinh ra làm người và còn ban sự sống thần linh cho con. Dù nhân loại tội lỗi, Chúa vẫn không bỏ rơi chúng con. Chúa đã đoái thương đến sống giữa chúng con, đồng hành với chúng con trên mọi nẻo đường của cuộc sống hằng ngày, để dìu dắt chúng con về với Chúa Cha. Chúa thương chúng con lầm lạc, nên Chúa đem đến cho chúng con ánh sáng và sự thật. Chúa thương chúng con yếu đuối trong phận tội lỗi chết chóc nên Chúa đem đến cho chúng con ân sủng và sự sống. Chúa ban ơn cứu độ để chúng con được làm con cái Chúa Cha.

Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa. Xin Chúa giúp con biết đón nhận Chúa vào cuộc đời mình. Chúa đến với con, coi con là người nhà của Chúa, nhưng con đã không biết đón nhận Chúa. Có nhiều lúc con mải mê với cuộc sống trần gian và cậy dựa vào sức mình. Con không nhận ra rằng đời con cần có Chúa, nhưng Chúa vẫn biết con cần Chúa. Tình thương và ân sủng Chúa bao trùm những năm tháng đời con. Xin Chúa nói to vào tai con để con nghe ra rằng con không thể sống nếu con xa rời tình thương cứu độ của Chúa.

Con cầu nguyện cho thế giới hôm nay biết nhận ra mình cần đến Chúa. Trần gian muốn gạt bỏ Chúa ra ngoài, nhưng bóng tối không thể diệt được ánh sáng. Xin Chúa cho mọi người biết đón nhận Chúa để được sống trong ơn cứu độ. Amen.

Ghi nhớ: “Ngôi Lời đã làm người”.

 

Suy Niệm 7: Đức Giêsu là “Lời” của Thiên Chúa

(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)

Phân tích

Các chuyên viên Thánh Kinh đã gọi đoạn này là quyển Tin mừng Thứ Tư tóm lược vì chứa đựng dưới dạng súc tích tất cả những chủ đề chính của tác phẩm như: Chúa Giêsu là Lời, Sự Sống, Sự Sáng, Làm chứng, Sự thật. . .

  1. Đức Giêsu là “Lời” của Thiên Chúa, tiền hữu và hằng hữu (c 1-2)
  2. Ngài là Đấng Tạo hóa (c 3a)
  3. Ngài là sự sống và sự sáng (cc 3b-5)
  4. Gioan Tiền hô là người làm chứng cho Chúa Giêsu (c 6-8)
  5. Chúa Giêsu là sự thật (c 9)
  6. Ngài đến ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Ngài mà có. Nhưng thế gian đã không nhận Ngài (c 10-18)

Suy gẫm

  1. “Lời đã trở thành nhục thể. ” Trong những thế kỷ đầu, có những lạc thuyết không chấp nhận việc Thiên Chúa Nhập Thể vì cho rằng thể xác là xấu xa không đáng cho Thiên Chúa nhập vào. Nhưng Con Thiên Chúa đã thực sự Nhập Thể, chứng tỏ thân xác chúng ta không xấu xa, chứng tỏ lòng Ngài quá thương chúng ta, và còn cho biết từ nay Thiên Chúa muốn gặp gỡ chúng ta qua thực tại nhân tính với tất cả những yếu đuối hèn hạ của nó. Hệ luận của Mầu Nhiệm Nhập Thể này là từ nay ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa khi gặp gỡ con người, ta có thể yêu mến Thiên Chúa khi yêu mến con người. . .
  2. “Ánh sáng chiếu trong bóng tối và bóng tối đã không tiêu diệt được ánh sáng”: Nói một cách triết lý, Tối chỉ là thiếu Sáng, cho nên khi nào Sáng đến thì Tối phải tan. Chỉ một ngọn nến nhỏ được đưa vào một gian phòng mênh mông cũng đủ đuổi bóng tối ra khỏi gian phòng. Suy rộng ra, Ác chỉ là thiếu Thiện, cho nên Ác không thể nào thắng Thiện, ngược lại Thiện thắng Ác là điều tất yếu. Ngôi Hai đã nhập thế và nhập thể, ai đón nhận Ngài vào lòng mình thì chắc chắn sẽ đẩy lùi bóng tối và sự ác khỏi lòng mình. Bởi thế, trong quyển sách “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng,” Đức Gioan Phaolô II luôn lặp đi lặp lại lời kêu gọi đầy lạc quan: “Đừng sợ. Hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô. ”
  3. Một đêm kia, trên một đường phố vắng vẻ, Bóng Tối ngồi co ro, buồn bã. Từ một xó nọ loé lên một Tia Sáng, rất nhỏ và rất yếu, nhưng là một tia sáng, phát ra từ một cây nến nhỏ mà ai đó đã cắm ở đấy. Một người khách đi qua nhìn thấy cây nến nhỏ và nói:

– Sao mi lại chiếu sáng trong cái xó kẹt này ? Thiếu gì chỗ khác, mi đến đó mà chiếu sáng thì sẽ hữu ích hơn nhiều.

– Tại sao hả, cây nến trả lời. Tôi chiếu sáng bởi vì tôi là cây nến. Tôi có chiếu sáng thì tôi mới là cây nến. Vả lại tôi chiếu sáng đâu phải chỉ để cho người ta thấy mà còn để cho tôi vui, vui vì được làm Tia sáng, vui vì được chiếu sáng.

Bóng Tối nghe thế rất bực bội. Nó nhào tới phủ lên Tia sáng mong làm cho Tia sáng bị tắt. Nhưng chẳng những Tia sáng không tắt, trái lại Bóng Tối còn bị rách nát ra.

 

Suy Niệm 8: Ngôi Lời nhập thể

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Theo bài tự ngôn của thánh Gioan, Chúa Giêsu là Ngôi Lời, là tiếng nói của Chúa Cha. Ngay từ đầu, Người vẫn ở với Chúa Cha. Người là sự sáng soi thế gian. Chính thánh Gioan đã làm chứng cho Người. Người đã đến trong thế gian, nhưng thế gian không tiếp nhận Người. Ai tiếp nhận Người thì Người cho được làm con Thiên Chúa.

Hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ nghèo hèn là Thiên Chúa, là tiếng nói tình thương  Chúa Cha gửi đến cho loài người, để cứu rỗi mọi người. Chúng ta chỉ hiểu được mầu nhiệm nhập thể khi chúng ta biết Thiên Chúa là tình yêu. . . Nhờ Ngôi Lời nhập thể, chúng ta mới được sống và sống nên con cái sự sáng, vì Chúa Cứu Thế là sự sống và là sự sáng thế gian.

  1. Thánh  Gioan làm chứng: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm”. Đây là một mầu nhiệm vĩ đại vì Ngài đã trở nên xác thịt và cũng mang nhịp đập của trái tim nhân loại như thánh Francois de Sales nói: “Ngài là vị Thiên Chúa có trái tim nhân loại”. Nơi Ngài, sự sống mới xuất hiện cho sự tác thành nhân loại mới: “Điều được tạo thành ở nơi Người là sự sống và sự sống là ánh sáng cho nhân loại”.  Đấng Cứu Thế đang được sinh ra, “Ngài ở giữa chúng ta”, và như Gioan đã nói: “Những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1,12).
  2. Một lần nữa, thánh Gioan chiêm ngắm mầu nhiệm nhập thể đã diễn tả bằng câu rất ngắn: “Và Ngôi Lời đã thành xác phạm”, nghĩa là đã trở thành một người như mọi người. Người đã sống giữa chúng ta, đã nói thứ ngôn ngữ của xứ sở và thời đại của Người.

Nhờ đó, Người muốn nói với con người rằng sự sống của con người là một giá trị thánh thiêng bất khả di nhượng, bất khả xâm phạm; mỗi người sinh ra trên thế gian này dù có xấu xa thấp hèn đến đâu cũng đều được đóng ấn tình yêu Thiên Chúa, cũng đều là hình ảnh của Thiên Chúa, cũng đều là con cái Thiên Chúa. Bởi ai tin vào Người thì Ngài cho họ quyền làm con Thiên Chúa.  Như vậy, mỗi người chỉ có thể hiện hữu khi tháp nhập với Ngôi Lời là sự sống, chỉ nên tốt lành khi bước đi trong ánh sáng của Ngôi Lời là Ánh Sáng thật, và chỉ trở thành con Thiên Chúa khi tin và tiếp nhận Ngôi Lời vào trong tâm hồn và đời sống mỗi người (Mỗi ngày một tin vui).

  1. Mầu nhiệm Nhập Thể không chỉ là Thiên Chúa làm người. Nhưng còn là chính con người được ơn trở về trong cung lòng Thiên Chúa, vốn đã bị xa lìa bởi tội nguyên tổ. Với sự kiện Ngôi Lời nhập thể, chúng ta trở về với tình thương bao la của Thiên Chúa như thánh Phaolô đã chia sẻ: “Ân sủng của Thiên Chúa, Đấng Cứu độ chúng ta, đã xuất hiện cho mọi người” (Tt 2,11). Vì thế văn sĩ Origène đã nói đến sự nên Thánh của con người qua Ngôi Lời nhập thể: “Khi đi vào trong nhân loại, Người đã xây dựng sự hiệp thông với tất cả thụ tạo. Người mang sự Thánh đến cho tất cả”. Thiên Chúa làm người chia sẻ cuộc sống với cuộc sống  con người và truyền thông cho con người có được khả năng tham dự và chia sẻ cuộc sống Ngôi Lời  trong Ba Ngôi, như chính đời sống Thiên Chúa (R. Veritas).
  2. Thánh Gioan làm chứng rằng: Ngôi Lời Thiên Chúa mặc xác thịt người phàm và đã ở giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang của Con Một Thiên Chúa Cha, đầy ân sủng và chân lý làm chứng về Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế ra đời làm người để cứu chuộc nhân loại.

Sứ mạng của gia đình Kitô hữu là làm chứng cho Chúa Giêsu luôn hiện diện. Bằng cách nào? Theo gương Gioan làm chứng về Người khi tuyên xưng rằng: Đây là Đấng tôi loan báo. Người đến sau tôi, nhưng đã có trước tôi, vì Người trổi vượt hơn tôi, bằng lời nói và hành động. Gia đình Kitô hữu sẽ là chứng nhân của sự sáng, nếu biết nói cho nhau về Lời Chúa, giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác và sống theo Lời Chúa.

  1. Truyện: Thiên Chúa nhập cuộc.

Khi Thiên Chúa làm người thì sống như mọi người chúng ta, chỉ trừ tội lỗi thôi. Chúng ta sống thế nào thì Người sống như vậy, hết sức hòa đồng. Câu truyện sau đây nói lên khía cạnh đó:

Một vị quan lớn mở tiệc mời nhiều người đến dự. Tất cả các người được mời đều  ăn mặc sang trọng và dùng xe đi đến. Trong số ấy có một người khách già. Rủi thay vì già yếu nên ông cụ này  khi xuống  xe  đã trượt chân té vào vũng nước bùn. Những khách khác thấy vậy cười nhạo ông. Xấu hổ và cảm thấy mình không xứng đáng, ông quyết định quay về. Gia nhân nài nỉ cách mấy ông cũng không chịu ở lại dự tiệc.

Khi đó vị quan chủ tiệc bước ra sân, đi tới chỗ vũng nước đó, rồi cũng cố tình té ngã vào vũng nước. Thế là quần áo của ông quan cũng dơ dáy y như cụ già kia. Mọi người chung quanh chẳng ai dám cười nhạo nữa. Sau đó vị quan lớn cầm tay ông cụ đưa vào phòng tiệc. Ông cụ chẳng còn lý do nào để chối từ nữa (Góp nhặt).

 

Suy Niệm 9: Ngôi Lời là sự sống và Ánh sáng

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Có rất nhiều điều chúng ta có thể dùng làm để tài để suy niệm trong bài Tin Mừng hôm nay, nhưng trong giới hạn của một bài suy gẫm hằng ngày, tôi xin dừng lại hai ý: Ngôi Lời là sự sống và Ánh sáng.

  1. Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành. Điều được tạo thành nơi Người là sự sống. (Ga 1,3-4)

Sự sống là một mầu nhiệm. Sự sống bắt nguồn từ Thiên Chúa.

Trên trần nhà nguyện Sixtina trong nội thành Vatican, danh họa Michel Angelo đã vẽ một bức tranh nổi tiếng về việc sáng tạo con người. Trong bức tranh này, người ta thấy Thiên Chúa từ trên một đám mây như cố gắng đưa ngón tay trỏ của Ngài về phía Adam. Và từ bên dưới, con người Adam như còn yếu đuối cũng cố gắng đưa bàn tay của mình hướng về phía Thiên Chúa: Chỉ một chút nữa là một ngón tay của Adam có thể chạm vào ngón tay Thiên Chúa. Bức tranh cố ý để một khoảng cách rất nhỏ giữa bàn tay sáng tạo của Thiên Chúa và ngón tay trỏ của con người Adam. Tất cả các du khách khi viếng thăm ngôi nhà nguyện này đều chú mục vào bức tranh và hầu như mọi người đều nhận ra rằng sự sáng tạo của Thiên Chúa sẽ xóa bỏ khoảng cách đó khi Thiên Chúa thổi hơi sự sống vào trong con người của Adam.

Vâng! Sự sống của con người là do Thiên Chúa ban cho. Và khi tạo dựng nên vũ trụ, Thiên Chúa đã nhắm đến sự sống, và khi tạo dựng sự sống, Thiên Chúa nhắm đến việc tạo dựng con người, một con người giống hình ảnh Thiên Chúa.

Khi phạm tội, con người đã đánh mất đi sự sống thần linh của mình, và Ngôi Lời lại xuống thế làm người, để những ai đến với Người tìm lại được sự sống ấy. Chính trong Ngôi Lời mà ta có sự sống, vì thế muốn có sự sống thì ta phải đến với Lời của Thiên Chúa, tiếp xúc với Lời Chúa. Lời Chúa đã làm cho kẻ bệnh tật được lành, kẻ chết sống lại, và chỉ có Lời Chúa mới làm cho ta có sự sống thật mà thôi.

Sau 300 Đạo Chúa bị cấm ở Nhật Bản và sau nhiều thập niên Đạo bị cấm ở Trung Quốc, các nhà truyền giáo đã hết sức ngạc nhiên trở lại các nơi này. Các ngài đã tìm thấy một đức tin vẫn sống động nơi các Kitô hữu. Hỏi ra các ngài mới biết: Trong thời gian đạo Chúa bị cấm, vì thiếu các linh mục giảng Lời Chúa, các Kitô hữu đã dùng sách Tin Mừng để dạy cho con cháu họ. Chính Lời Chúa đã giúp họ duy trì được đức tin. Họ vẫn có được sự sống đức tin mạnh mẽ nhờ Lời của Chúa. Thật là một điều kỳ diệu.

  1. Sự sống là ánh sáng cho nhân loại.

Nếu sự sống của mọi loài trên mặt đất phải cần đến ánh sáng mặt trời để tồn tại và phát triển thì Lời Chúa cũng cần cho sự sống đức tin như thế.

Một câu chuyện nhỏ từ Internet: Một hôm, tôi và con trai cùng trồng đậu. Vì thời tiết nóng bức, lũ chuột hoành hành, nên tôi vùi hạt đậu sâu xuống đất. Vài ngày sau, tôi dắt con trai ra xem. Khi bới đất lên, tôi thấy rất nhiều hạt đậu đã nảy mầm, phía trên mỗi hạt đậu nhú lên hai chiếc lá non màu vàng. Những sinh mệnh yếu ớt đang lớn lên từng giây từng phút trong khoảng trống dưới đất. Chẳng bao lâu nữa, chúng sẽ ngoi lên khỏi mặt đất.

Con trai ngạc nhiên hỏi tôi:

– Mẹ ơi, những mầm cây này cũng có mắt hay sao mẹ?

Tôi trả lời:

– Chúng không có mắt đâu con.

Vậy tại sao chúng lại biết vươn lên khỏi mặt đất mà không đâm xuống dưới.

– Bởi vì chúng muốn tìm kiếm ánh sáng. Không có ánh sáng chúng sẽ chết.

– Mẹ ơi, nếu không có ánh sáng, con người chúng ta có chết không?

Con trai tôi lại hỏi tôi.

– Chắc chắn là thế rồi, nhưng tôi không dám trả lời như thế mà chỉ nói với nó:

– Con yên tâm đi, không bao giờ thiếu ánh sáng đâu.

Vâng! Ánh sáng không hề thiếu và ánh sáng không thể thiếu. Vì nếu thiếu ánh sáng, mọi loài sẽ không thế tồn tại trên cõi đời này.

Mẹ Têrêsa bảo: “Chúa Giêsu đã đến như là ánh sáng của thế gian”

Và  mẹ còn viết rất hay như sau:

“Với tôi, Chúa Giêsu là tất cả:

Chúa Giêsu là sức sống tôi muốn sống;

Ngài là ánh sáng tôi muốn chiếu tỏa;

Ngài là đường tôi đi về nhà Cha,

Là tình yêu tôi muốn tỏ tình,

Là niềm vui tôi muốn chia sẻ,

Là hạt giống an bình, tôi gieo rắc. “

Xin được kết thúc bằng lời cầu nguyện của Đức Hồng Y Roger Etchegaray

Lạy Chúa,

xin chiếu tỏa trên con ánh sáng của Chúa

và dạy con bước đi ngay trong đêm tối

cũng như giữa ban ngày.

Xin truyền cho con sức mạnh của Người.

Ứớc gì những cánh tay rã rời

vì thất bại của con tìm lại được sức trẻ

để gieo trồng hàng ngàn cây xanh cho một thế giới mới.

Ước gì mồ hôi con pha lẫn mồ hôi của Chúa trong Vườn Cây Dầu.

Ước gì máu con hòa lẫn với Máu Chúa

trên Núi Sọ để tưới gội cho mảnh đất

đã bị khô cằn vì bất công và ích kỷ.