Đức ái đích thức – Chúa Nhật 15 Thường niên – Năm C

Khi nói đến lời của một ai là chúng ta nói đến chính con người đó. Khi tôn trọng và quý mến người nào, thì chúng ta cũng tôn trọng quý mến lời dạy và gương sáng của người ấy. Một nhân vật càng uy tín bao nhiêu thì lời nói của người ấy càng được lắng nghe và đón nhận. Cũng vậy, khi nói đến Lời Chúa hoặc Luật Chúa, là chúng ta nói chính Thiên Chúa, Đấng quyền năng và yêu thương mỗi người và tất cả chúng ta.
Hai chữ “lề luật” dễ gợi cho chúng ta liên tưởng tới những ràng buộc, hạn chế và gây phiền toái cho con người. Tuy vậy, những điều được quy định trong dân luật cũng như trong Giáo Luật đều nhằm giúp ổn định trật tự cuộc sống, bảo vệ công ích và giúp thăng tiến con người. Một người công dân tuân giữ luật pháp sẽ góp phần làm cho quốc gia phồn thịnh. Một người tín hữu tuân giữ luật Giáo Hội sẽ góp phần làm cho đức tin thăng tiến nơi bản thân và cộng đoàn.
Lề Luật của Chúa không giống như những bộ luật dân sự, là luật chỉ nhằm quy định những gì bên ngoài con người, và chỉ nhằm duy trì trật tự xã hội. Ông Môi-sen nói với dân: “Lời Chúa rất gần anh em, ngay trong miệng, trong lòng anh em, để anh em đem ra thực hành. Theo giáo huấn của ông Môi-sen, Lề Luật và Lời của Chúa phải thấm nhập vào chính con người của những ai tin Chúa, đồng thời trở thành động cơ cho mọi hoạt động, mọi gợi ý cho tư tưởng. Cũng trong tinh thần này, mà những người Do Thái đạo đức thường khởi đầu ngày mới bằng kinh cầu nguyện được gọi là “Shema Israel”: ” Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em.” (Đnl. 6, 4-5). Lời kinh này giúp người tín hữu luôn ý thức sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời, và họ cố gắng tìm cách sống đẹp lòng Người.
Nếu dân tộc Do Thái trong Cựu ước sống theo Luật ông Môi-sen, là luật bằng văn tự, thì Đức Giê-su Ki-tô chính là hiện thân của Lề Luật, là sự sống động của lề luật, và là con đường để con người có thể đến gần với Thiên Chúa thông qua việc yêu thương và vâng phục. Nói thế không có nghĩa Chúa Giê-su đến để hủy bỏ luật cũ, như chính Người đã khẳng định: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Lề Luật hay các Ngôn sứ, Thầy không đến để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17).
Qua dụ ngôn người Sa-ma-ri-a nhân hậu, Chúa Giê-su khẳng định tính mới mẻ trong giáo huấn của Người: Những người đi qua người bị nạn trước hết là một tư tế, rồi thầy Lê-vi. Xin lưu ý hai người này là những người Do Thái đạo đức và học hành uyên thâm, nhưng họ đã làm ngơ trước người bị nạn. Trong khi đó, người Sa-ma-ri-a là một người ngoại, cũng là một dân tộc bị người Do Thái mang mối thù truyền kiếp qua nhiều thế hệ. Người này cũng chẳng học hành uyên thâm và không mang chức vụ danh nghĩa nào. Ấy vậy, mà ông đã cứu giúp người gặp nặn. Mối quan tâm của thầy tư về và Lê-vi là khái niệm về sự thanh sạch và sự tuân giữ tỉ mỉ Lề Luật ông Môi-sen. Mối quan tâm của người Sa-ma-ri-a là con người trong cơn hoạn nạn, bất kể đó là ai. Trong dụ ngôn, Chúa Giê-su khéo léo dùng những hình ảnh tương phản giữa các nhân vật: người thông luật thì thiếu bác ái; người chẳng hiểu gì về luật, thì lại có lòng cảm thương. Qua câu chuyện này, Chúa Giê-su muốn nêu bật ý nghĩa mới mẻ của đức yêu thương mà Người giảng dạy. Đó là đức bác ái đích thực. Bởi lẽ con người ta chỉ được hạnh phúc khi làm cho người khác được hạnh phúc. Sự chu đáo của người Sa-ma-ri-a, hứa sẽ trả tiền thêm khi quay về, làm nổi bật lòng nhân hậu của ông. Dụ ngôn này là lời mời gọi những người Do Thái có mặt hãy nhìn đức ái với một khía cạnh khác.
Người thông luật đặt câu hỏi với Chúa Giê-su, là muốn thử Người. Những điều ông chờ đợi từ câu hỏi của Chúa, đơn giản chỉ là những nguyên tắc ghi sẵn trên sách vở, hoặc những điều mà các luật sĩ rao giảng hằng ngày. Việc người thông luật trả lời làu làu những nguyên tắc này cho thấy ông muốn tỏ mình là người thông thạo khôn ngoan. Chúa Giê-su không bằng lòng với những khuôn sáo lý thuyết, mà Người mời gọi con người hãy thực hành đức yêu thương. Câu nói cuối cùng của Chúa, vừa gợi mở một bài học sâu sắc, vừa giúp chúng ta nhìn lại bản thân để xem xét cách ứng xử của mình: “Ông hãy đi và hãy làm như vậy”. Tác giả Lu-ca không cho biết thêm người ấy phản ứng thế nào sau câu nói của Chúa. Có thể Lu-ca muốn mỗi chúng ta đều nhận ra mình nơi nhân vật người thông luật đó.
Chúa Giê-su không chỉ là người dạy về lề luật mà còn là tấm gương để mọi người noi theo. Bằng cách sống theo lời dạy của Người, người tín hữu có thể thể hiện tình yêu thương và sự vâng phục đối với Thiên Chúa, từ đó sống một cuộc đời ý nghĩa và đẹp lòng Ngài. Những gì được Thánh Phao-lô viết trong Thánh thi ca ngợi đã nêu rõ vai trò của Đức Giê-su trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Người là đích điểm cuộc đời của chúng ta. Nhờ máu Người mà chúng ta được thanh tẩy mọi tội lỗi. Nhờ sự chết và phục sinh của Người mà chúng ta được trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa, được Thiên Chúa yêu thương với tình yêu khôn tả mà Ngài đã dành cho người Con Một yêu dấu (Bài đọc II).
Lề Luật của Chúa Giê-su tóm gọn trong hai chữ “yêu thương”. Thánh Phao-lô khẳng định: “Đã yêu thương thì không làm hại đồng loại. Yêu thương là chu toàn Lề Luật” (Rm 13,10). Thánh Gio-an tông đồ nói: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm”. Người Sa-ma-ri-a đã làm như thế.
Xin Chúa đánh động con tim chúng ta, để biết cảm thương những anh chị em thiệt phận khó nghèo.
+TGM Giu-se Vũ Văn Thiên