Giáo Lý Hôn Nhân – Ủy Ban Giáo Lý HĐGMVN – Bài 3

print

Bài 3. Giáo luật về Bí tích Hôn phối

“Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10,9).

 

Hôn nhân không chỉ liên quan đến hai vợ chồng mà còn liên quan đến một phạm vi rộng lớn hơn, từ họ hàng hai bên cho đến xã hội, bởi vì gia đình là tế bào căn bản của xã hội. Gia đình có êm ấm thì xã hội mới ổn định và bền vững.

Vì mang tính xã hội, nên hôn nhân cần được pháp luật chứng nhận và bảo vệ. Tại Việt Nam, về mặt dân sự ta có luật “Hôn nhân và Gia đình” được Quốc Hội thông qua ngày 09.6.2000, gồm 110 điều. Còn về mặt tôn giáo, trong bộ luật của Hội Thánh, được gọi là giáo luật, ban hành ngày 25.01.1983, có 111 khoản về hôn nhân.

Luật của Hội Thánh chỉ ràng buộc đối với người Công giáo[1]. Khi đưa ra những luật này, Hội Thánh nhắm giúp con cái mình xây dựng một cuộc sống hôn nhân và gia đình bền vững, hạnh phúc, thánh thiện, thể hiện ơn gọi hôn nhân và gia đình như ý Thiên Chúa muốn.

  1. Điều kiện cử hành bí tích Hôn phối

Để Bí tích Hôn phối thành sự, cần những điều kiện sau:
– Phải là một người nam và một người nữ, đã rửa tội[2].
– Hai người có tự do để kết hôn. Tự do ở đây có nghĩa là:
. Không bị ép buộc
. Không bị ngăn trở bởi luật tự nhiên hoặc luật Hội Thánh[3].
– Phải bày tỏ sự ưng thuận kết hôn của mình.
– Cử hành theo thể thức của Hội Thánh[4].

  1. Các ngăn trở Hôn phối

Ngăn trở hôn phối là tình trạng hay hoàn cảnh làm cho cuộc hôn phối không thành sự hoặc bất hợp pháp.

Để có thể kết hôn thành sự, cả hai phải trong tình trạng tự do, không bị ngăn trở nào theo luật tự nhiên hoặc luật Hội Thánh. Những ngăn trở thuộc luật tự nhiên dựa trên hôn nhân như một định chế tự nhiên, chúng chi phối mọi người. Những ngăn trở thuộc luật Hội Thánh dựa trên bản chất bí tích của hôn nhân, cũng như trên mối liên hệ của hôn nhân với cộng đồng tín hữu, chỉ chi phối người Công giáo mà thôi.

Các ngăn trở hôn phối gồm có:

2.1. Ngăn trở do chưa đủ tuổi để kết hôn

Để kết hôn thành sự, nam phải đủ 16 tuổi, nữ phải đủ 14 tuổi[5]. Tuy nhiên, Hội Đồng Giám mục của mỗi quốc gia có quyền quy định tuổi cao hơn để kết hôn hợp pháp[6]. Tại Việt Nam, nam phải từ 20 tuổi trở lên, nữ 18 tuổi trở lên, theo như Luật Hôn nhân và Gia đình điều 9.

2.2. Ngăn trở do bất lực

Một trong hai người trước khi kết hôn đã mắc chứng bất lực, không thể chữa trị được[7]. Bất lực khác với vô sinh. Bất lực là không thể giao hợp. Còn vô sinh là không thể có con. Việc vô sinh không phải là một ngăn trở hôn phối[8].

2.3. Ngăn trở do đã kết hôn

Một trong hai người còn bị ràng buộc bởi dây Hôn phối trước[9]. Ngăn trở này chỉ chấm dứt khi:
– Người phối ngẫu chết[10].
– Hôn nhân thành sự nhưng chưa hoàn hợp, được Đức Giáo Hoàng đoạn tiêu vì lý do chính đáng[11].
– Hôn nhân giữa hai người chưa rửa tội được đoạn tiêu do đặc ân Phaolô nhằm bảo vệ đức tin của bên lãnh nhận phép Rửa tội, do chính sự kiện là bên được rửa tội lập hôn nhân mới, và bên không được rửa tội muốn phân ly[12].

2.4. Ngăn trở do khác biệt tôn giáo

Một bên Công giáo, còn một bên không Công giáo[13].

2.5. Ngăn trở do chức thánh

Những người đã chịu chức thánh không thể kết hôn thành sự[14]. Những người có chức thánh gồm: Giám mục, linh mục và phó tế.

2.6. Ngăn trở do khấn dòng

Những người chính thức thuộc về một dòng tu bằng lời khấn công khai sẽ vĩnh viễn sống khiết tịnh (hay còn gọi là khấn trọn đời, vĩnh khấn) không thể kết hôn thành sự[15].

2.7. Ngăn trở do bắt cóc

Hôn nhân bất thành đối với trường hợp bắt cóc người nữ để lấy cô ta[16].

2.8. Ngăn trở do tội mưu sát phối ngẫu

– Giết vợ hay giết chồng mình (kể cả âm mưu hoặc đồng loã) để lấy người khác.
– Giết vợ hay giết chồng của người phối ngẫu (kể cả âm mưu hoặc đồng loã) để lấy họ[17].

2.9. Ngăn trở do họ máu (huyết tộc)

– Theo hàng dọc: hôn nhân bất thành giữa mọi người trong họ máu hàng dọc[18].
– Theo hàng ngang: hôn nhân bất thành cho tới hết 4 bậc[19].

2.10. Ngăn trở do họ kết bạn

Hôn thuộc theo hàng dọc dù ở cấp nào cũng tiêu huỷ hôn phối[20]. Ví dụ, giữa cha chồng với con dâu, chàng rể với mẹ vợ. Tuy nhiên, theo hàng ngang thì không bị ngăn trở. Ví dụ: anh chồng có thể lấy em dâu, vợ chết có thể lấy em vợ.

2.11. Ngăn trở do công hạnh

Hay còn gọi là ngăn trở liêm sỉ. Ngăn trở này phát sinh do cuộc hôn phối bất thành sau khi đã có sống chung, hoặc do tư hôn công nhiên hay công khai. Ngăn trở này tiêu hủy hôn nhân giữa người nam với các người họ máu của người nữ bậc một hàng dọc, và ngược lại[21]. Chẳng hạn: nếu anh X đã từng chung chạ với cô Y, thì không thể lấy mẹ hoặc con riêng của cô Y; và cô Y cũng không thể lấy cha hoặc con riêng của anh X.

2.12. Ngăn trở do pháp tộc

Những người có họ hàng thân thuộc pháp lý do nghĩa dưỡng, ở hàng dọc hoặc hai bậc hàng ngang, không thể kết hôn với nhau thành sự[22]. Ngăn trở này làm hôn nhân bất thành giữa: con nuôi với cha mẹ nuôi; con nuôi với cha mẹ hoặc con cháu ruột của cha mẹ nuôi; hai con nuôi của cùng một cha mẹ nuôi.

  1. Chuẩn ngăn trở

Nếu mắc phải một trong các ngăn trở trên, dù hai người có lấy nhau, hôn phối vẫn không thành. Đó chỉ là một sự chung chạ bất hợp pháp mà thôi. Để kết hôn thành sự và hợp pháp, cần phải xin phép chuẩn. Tuy nhiên, không phải ngăn trở nào Hội Thánh cũng có thể miễn chuẩn được.

Đối với những ngăn trở thuộc luật tự nhiên, Hội Thánh không có quyền miễn chuẩn. Đó là những ngăn trở:

– Do bất lực[23].
– Do đã kết hôn[24].
– Do có họ máu hàng dọc[25].
– Do có họ máu hai bậc hàng ngang[26].

Đối với những ngăn trở chỉ do luật Hội Thánh mà thôi thì Hội Thánh có quyền miễn chuẩn, và khi được miễn chuẩn thì cuộc hôn nhân thành sự.

Các ngăn trở Hội Thánh có thể miễn chuẩn khi có lý do chính đáng:
– Về tuổi tối thiểu.
– Về họ máu ba bậc trở đi theo hàng ngang: bà con và anh em họ.
– Về họ kết bạn.
– Về tội ác (tội mưu sát phối ngẫu)
– Về chức thánh.
– Về lời khấn.
– Về công hạnh.
– Về khác tôn giáo.

Riêng đối với các cuộc hôn nhân khác tôn giáo, sở dĩ Hội Thánh dè dặt và thận trọng chỉ vì yêu thương con cái. Muốn gia đình hạnh phúc, vợ chồng phải hoà hợp. Tín ngưỡng là một vấn đề quan trọng. Nếu có sự khác biệt thì dễ xảy ra xung khắc, đe doạ sự hoà hợp, nhất là đối với việc giáo dục con cái. Tuy nhiên, cũng vì tôn trọng tự do, Hội Thánh không cấm đoán. Hội Thánh hy vọng lòng đạo đức của bên này sẽ thánh hoá bên kia[27].

  1. Sự ưng thuận kết hôn

Hội Thánh coi việc hai người bày tỏ sự ưng thuận kết hôn là yếu tố cần thiết “làm nên hôn nhân”. Thiếu sự ưng thuận này thì hôn nhân không thành[28].

“Sự ưng thuận kết hôn là hành vi nhân linh – nghĩa là hành vi của con người có ý thức và tự do -, trong đó hai vợ chồng tự hiến cho nhau và đón nhận nhau: “Anh nhận em làm vợ”; “Em nhận anh làm chồng”. Sự ưng thuận này nối kết hai vợ chồng lại với nhau và được thể hiện trọn vẹn khi hai người “trở nên một xương một thịt” (x. St 2,24; Mc 10,8; Ep 5,31)[29]”. Bởi vậy, “sự ưng thuận này phải là một hành vi ý chí của mỗi bên kết hôn, không bị cưỡng bức vì bạo lực hay quá sợ hãi do một nguyên cớ bên ngoài. Không một quyền hành nào của loài người có thể thay thế sự ưng thuận này. Nếu thiếu sự tự do này, cuộc hôn nhân sẽ không thành[30]”.

Thiếu sự tự do ưng thuận thực sự giữa hai bên, khi:
– Không có đủ trí khôn[31].
– Thiếu trầm trọng trí phán đoán về những quyền lợi và nghĩa vụ chính yếu của hôn nhân[32]
– Vì bị tâm thần không thể đảm nhận những nghĩa vụ chính yếu của hôn nhân[33].
– Vô tri: Không biết hôn nhân là gì[34].
– Lầm lẫn về người, hoặc về phẩm cách của người phối ngẫu[35].
– Lường gạt[36]. Khi chủ ý lừa dối về sự có hay không một phẩm cách của mình, nhằm đạt được sự ưng thuận của bên kia. Phẩm cách này quan trọng đến nỗi sau này khi khám phá ra thì đời sống hôn nhân có thể bị tác hại trầm trọng.
– Giả vờ ưng thuận, nhưng thực sự không muốn[37].
– Ưng thuận với điều kiện về tương lai. Đặt điều kiện về tương lai thì hôn nhân bất thành[38]
– Ưng thuận vì bạo lực hoặc vì sợ hãi[39].
. Bạo lực: nếu bị người khác dùng sức mạnh để cưỡng ép ưng thuận kết hôn thì sự ưng thuận đó vô hiệu.
.
Sợ hãi: sự sợ hãi có thể làm cho hôn nhân vô hiệu khi hội đủ 3 đặc tính sau:
a. Sợ hãi có tính cách trầm trọng chứ không phải vu vơ.
b. Sợ hãi do nguyên nhân ngoại tại, nghĩa là do một người khác gây ra chứ không phải do chính đương sự.
c. Sự sợ hãi có tính cách tất định, nghĩa là không có cách nào khác để thoát khỏi sự đe dọa ngoại trừ ưng thuận kết hôn.

  1. Thể thức hôn phối

Để Hôn nhân thành sự, đôi hôn phối cần phải cử hành theo thể thức của Hội Thánh: Hôn nhân chỉ thành sự khi được kết ước trước mặt vị chứng hôn có thẩm quyền: hoặc cha xứ, hoặc một linh mục, hay phó tế được một trong hai vị trên ủy quyền, cùng với hai người làm chứng[40].

Linh mục (hay phó tế) chứng giám nghi thức Hôn phối, nhân danh Hội Thánh nhận lời ưng thuận của đôi hôn phối và chúc lành cho họ. Sự hiện diện của thừa tác viên Hội Thánh và của những người làm chứng cho thấy rõ hôn nhân là một bậc sống trong Hội Thánh[41].

Ngoài ra, còn phải cử hành tại nhà thờ giáo xứ, nơi một trong hai người kết hôn có chỗ thường trú, hoặc tạm trú một tháng. Nếu muốn cử hành nơi khác, phải có phép của Đấng Bản quyền sở tại hoặc cha xứ.[42]

GHI NHỚ :

1. H. Để Bí tích Hôn phối thành sự phải có những điều kiện nào?

T. Phải có bốn điều kiện này:
– Một là một nam một nữ đã rửa tội.
– Hai là có tự do kết hôn, không bị ép buộc cũng không bị ngăn trở bởi luật tự nhiên hoặc luật Hội Thánh
– Ba là phải bày tỏ sự ưng thuận kết hôn.
– Bốn là cử hành theo thể thức của Hội Thánh.

2. H. Ngăn trở hôn phối là gì?

Ngăn trở hôn phối là những hoàn cảnh hoặc trường hợp làm cho cuộc phôn phối không thành sự hoặc bất hợp pháp.

3. H. Có bao nhiêu ngăn trở hôn phối?

Có 12 ngăn trở sau đây:
– Một là chưa đủ tuổi kết hôn
– Hai là bất lực, không thể sinh hoạt vợ chồng.
– Ba là còn bị ràng buộc bởi hôn phối trước.
– Bốn là khác tôn giáo.
– Năm là chức thánh.
– Sáu là khấn dòng.
– Bảy là bắt cóc.
– Tám là tội mưu sát phối ngẫu.
– Chín là có họ máu.
– Mười là có họ kết bạn.
– Mười một là công hạnh.
– Mười hai là pháp tộc.

4. H. Khi mắc ngăn trở thì phải làm gì?

Phải xin phép chuẩn. Tuy nhiên, có những ngăn trở Hội Thánh cũng không thể miễn chuẩn được, đó là các trường hợp:
– Một là bất lực,
– Hai là còn bị ràng buộc bởi hôn phối trước.
– Ba là có họ máu theo hàng dọc.
– Bốn là có họ máu hai bậc theo hàng ngang.

5. H. Vì sao sự ưng thuận kết hôn là yếu tố cần thiết làm nên hôn nhân?

Vì sự ưng thuận này nối kết hai vợ chồng lại với nhau và được thể hiện trọn vẹn khi hai người “trở nên một xương một thịt”. Không một quyền hành nào của loài người có thể thay thế sự ưng thuận này. Thiếu sự tự do này, cuộc hôn nhân sẽ không thành.

6. H. Những trường hợp nào thiếu sự tự do ưng thuận kết hôn?

Những trường hợp sau đây:
– Một là không có đủ trí khôn.
– Hai là thiếu trầm trọng trí phán đoán về những quyền lợi và nghĩa vụ chính yếu của hôn nhân.
– Ba là vì tâm thần không thể đảm nhận những nghĩa vụ chính yếu của hôn nhân.
– Bốn là vô tri, không biết hôn nhân là gì.
– Năm là lầm lẫn về người, hoặc về phẩm cách của người phối ngẫu.
– Sáu là lường gạt.
– Bảy là giả vờ ưng thuận, nhưng thực sự không muốn.
– Tám là ưng thuận với điều kiện về tương lai.
– Chín là ưng thuận vì bạo lực hoặc vì sợ hãi.

GỢI Ý SUY NGHĨ :

Vì sao Hội Thánh lại có những điều luật về Hôn nhân? Đâu là mục đích của những điều luật đó?
2. Vì sao trong việc lập gia đình, Hội Thánh nhấn mạnh khía cạnh tự do ưng thuận?
3. Phải chăng Hội Thánh có thể miễn chuẩn mọi ngăn trở hôn phối? Tại sao?

CẦU NGUYỆN :

Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa, vì Chúa hằng yêu thương chúng con. Xưa kia Chúa đã ban lề luật cho dân Israel, để giúp họ sống trung thành với giao ước, xứng đáng là dân Chúa. Chúa đã mời gọi chúng con bước vào đời sống hôn nhân và gia đình, để làm chứng cho tình yêu của Chúa, và Chúa đã ban cho chúng con Hội Thánh, để hướng dẫn chúng con. Xin giúp chúng con biết nghe theo lời giáo huấn của Hội Thánh, để cùng nhau xây dựng một gia đình hạnh phúc như ý Chúa muốn. Amen.

[1] x. GL 11; 1059; 1075 §2
[2] GLHT 1625; x. GL 1055
[3] GLHT 1625
[4] GL 1108
[5] GL 1083 §1
[6] GL 1083 §2; xem thêm GL 1071 §1, 20 và 60; 1072
[7] GL 1084 §1
[8] x. GL 1084 §3
[9] GL 1085 §1
[10] GL 1141
[11] GL 1142
[12] GL 1143
[13] GL 1086; 1124-1125
[14] GL 1087
[15] GL 1088
[16] GL 1089
[17] GL 1090
[18] GL 1091,1; x. Luật HN và GĐ điều 10 §3
[19] GL 1091 § 2
[20] GL 1092
[21] GL 1093
[22] GL 1094
[23] GL 1084
[24] GL 1085; 1141
[25] GL 1078 §3
[26] GL 1078 §3
[27] x. 1 Cr 7,14; GL 1124-1129
[28] GLHT 1626
[29] GLHT 1627; x. GL 1057 §2
[30] GLHT 1628
[31] GL 1095
[32] GL 1095 §2
[33] GL 1095 § 3
[34] GL 1096
[35] GL 1097, 1098
[36] GL 1098
[37] GL 1101
[38] GL 1102
[39] GL 1103
[40] GL 1108
[41] GLHT 1630
[42] GL 1115; 1118