Hiệp Sống Tin Mừng Tam Nhật Thánh

print

HIỆP SỐNG TIN MỪNG

THỨ NĂM TUẦN THÁNH – THÁNH LỄ TIỆC LY

Xh 12,1-8.11-14 ; 1 Cr 11,23-26 ; Ga 13,1-15

DẤU HIỆU CỦA MỘT TÌNH YÊU TỘT ĐỈNH

  1. Thế nào là một tình yêu tột đỉnh:

Ngày nọ, một đôi vợ chồng bướm tranh cãi nhau. Con nào cũng cho rằng tình yêu của mình nhiều hơn bạn kia không ai chịu thua ai. Sau cùng để xác định hơn thua, bướm đực đề nghị: “Ngoài vườn có một cây hoa hồng mỗi sáng đều có nở một bông hồng rất đẹp. Vậy sáng mai chúng ta sẽ thi nhau xem: ai sẽ đến ngồi vào trong bông hoa hồng trước, khi nó vừa nở ra sẽ chứng tỏ mình có tình yêu nhiều hơn”. Bướm cái gật đầu đồng ý.

Hôm sau, ngay từ sáng sớm bướm đực đã bay đến đứng chờ ngay bên bông hoa sắp nở, chờ khi nó vừa nở ra là chú sẽ chui vào trước bướm cái. Có điều khi sắp tới lúc hoa nở mà vẫn chưa thấy bướm cái xuất hiện. Rồi cuối cùng thì cũng tới lúc hoa nở, chú bướm liền nhanh chân chui vào. Nhưng chú rất ngạc nhiên khi thấy bướm cái đã có mặt trong bông hoa rồi. Có điều khi nhìn kỹ thì chú thấy bướm cái đã bị chết khô. Thì ra để nắm chắc phần thắng, bướm cái đã bay đến cây hoa hồng ngay từ tối hôm trước. Cô bướm đã chui qua kẽ hở vào ngồi trong bông hoa. Cô định sáng sớm hôm sau khi hoa nở và gặp bướm đực cô sẽ chứng tỏ tình yêu cô dành cho chú thật lớn lao. Nhưng chẳng may cô lại bị chết ngạt trong bông hoa khi nó chưa nở !

Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy tình yêu của bướm cái dành cho bướm đực thật tuyệt vời. Đối với loài người chúng ta cũng vậy: tình yêu thật cần thiết để chúng ta được sống vui tươi hạnh phúc. Khi có tình yêu người ta sẽ cảm thấy cuộc đời thật đáng sống. Khi tình yêu biến mất thì cuộc sống cũng bị chìm trong nỗi buồn chán cô đơn và tuyệt vọng.

  1. Đức Giê-su đã làm gì để chứng tỏ tình yêu tột đỉnh dành cho chúng ta ?:

Phụng Vụ Thứ Năm Tuần Thánh hôm nay cũng nhắc nhở mỗi người chúng ta về tình yêu cao cả của Chúa Giê-su dành cho chúng ta. Đức Giê-su đã thể hiện tình yêu tột đỉnh khi sẵn sàng quỳ gối rửa chân hầu hạ môn đệ để dạy các ông bài học khiêm nhường phục vụ; Sẵn sàng trở thành của ăn của uống thiêng liêng nuôi dưỡng đức tin của chúng ta qua việc thiết lập bí tích Thánh Thể trong bữa Tiệc Ly. Còn các tín hữu chúng ta sẽ làm gì để đáp lại tình thương vô biên của Chúa Giê-su, nhất là trong những ngày Tam Nhật Thánh và trong mùa Phục Sinh sắp tới ?

  1. Lời cầu quyết tâm:

Lạy Chúa Giêsu. Chúa đã yêu thương chúng con bằng một tình yêu tột đỉnh, thể hiện qua hành động khiêm tốn rửa chân cho môn đệ và sau đó thiết lập bí tích Thánh Thể để trở thành lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng đức tin của chúng con. Xin gia tăng lòng tin yêu trong chúng con, để chúng con noi gương Chúa quan tâm đến người chung quanh, sẵn sàng phục vụ cộng đoàn, nhất là thăm viếng những người nghèo đói bệnh tật và đau khổ bất hạnh gần bên chúng con, hầu chúng con trở thành dấu chỉ môn đệ đích thực của Chúa.- Amen.

 

HIỆP SỐNG TIN MỪNG

THỨ SÁU TUẦN THÁNH

Is 52,13-53,12; Dt 4,14-16;5,7-9; Ga 18,1-19,42

CHẤP NHẬN HY SINH CHỊU CHẾT TRÊN THẬP G VÌ YÊU THƯƠNG

  1. CHÚA GIÊ-SU – ĐẤNG GIÀU LÒNG TỪ BI THƯƠNG XÓT:

Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha có một tượng thánh giá rất đặc biệt: Chúa Giêsu chịu đóng đinh có một tay trái và hai chân, tay phải rời khỏi lỗ đinh và đưa ra phía trước trong tư thế như đang ban phép lành. Chuyện kể rằng, một lần, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Đối với một tội nhân phạm quá nhiều tội như anh ta, vị linh mục tỏ thái độ nghiêm khắc với anh. Nhưng chứng nào vẫn tật đó. Ra khỏi tòa giải tội được ít ngày, anh ta lại sa ngã tái phạm. Sau nhiều lần như thế, cuối cùng, vị linh mục đành nói với anh: “Tôi không muốn anh tiếp tục sa đi ngã lại như thế nữa. Đây là lần cuối cùng tôi tha tội cho anh”.

Hối nhân ra khỏi tòa giải tội mà lòng trĩu nặng u buồn đau khổ. Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội, và lần này cũng lại xưng những tội y như những lần trước. Vị linh mục dứt khóat nói: “Anh đừng có đùa với Chúa, lần này tôi không tha nữa!” Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị linh mục cùng hối nhân đều nghe có tiếng thì thầm phía trên đầu mình. Từ cây thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu như được rời ra khỏi lỗ đinh như đang ban phép lành cho hối nhân. Vị linh mục nghe được tiếng Chúa nói với mình rằng: “Ta chứ không phải con đã đổ máu ra đền tội thay cho người này”.

Kể từ đó, bàn tay phải của bức tượng Chúa Giêsu chịu nạn không còn gắn vào cây thánh giá nữa, nhưng luôn trong tư thế đang ban phép lành, như đang mời gọi: “Hãy trở về với Ta, các ngươi sẽ nhận được ơn tha thứ tội lỗi”.

Hôm nay, Chiên Vượt Qua của chúng ta là Đức Ki-tô đã chịu hiến tế, Hội Thánh nhìn ngắm và kính thờ Thánh Giá của Chúa Giê-su. Hội Thánh tưởng niệm mình đã được sinh ra từ cạnh sườn của Chúa Kitô Đấng đã bị lưỡi đòng đâm thâu trên cây thập giá, và dâng lời cầu xin cho mọi người được hưởng ơn cứu độ của Chúa.

  1. NOI GƯƠNG CHÚA THỂ HIỆN TÌNH THƯƠNG CỤ THỂ ĐỐI VỚI THA NHÂN:

– Một em bé gái 5 tuổi mồ côi cha mẹ sống chung với bà ngoại. Hai bà cháu sống trên một căn gác xép tồi tàn nóng bức. Bà hằng ngày phải đi bán vé số và thu lượm ve chai bán lấy tiền thuê phòng trọ và nuôi hai bà cháu. Rồi vào một đêm nọ, căn gác của hai bà cháu tự nhiên bị hỏa hoạn do bất cẩn, bà ngoại bị té ngã xuống cầu thang gác và bị bất tỉnh khi ngọn lửa cháy lan ra cả nhà. Láng giềng có người đã vội gọi điện tới sở cứu hỏa gần đó, còn nói chung mọi người chỉ biết đứng nhìn ngọn lửa cháy bao trùm toàn bộ ngôi nhà. Bỗng một bé gái xuất hiện bên trong cửa sổ của căn gác và đang la khóc kêu cứu. Nhưng đội cứu hỏa lại chưa tới và không ai trong đám đông dám liều vào trong căn nhà đang cháy leo lên gác cứu đứa bé. Thình lình, một người đàn ông xuất hiện vác theo một chiếc thang trên vai. Ông vội leo lên ban công và đạp cửa vào trong nhà và sau đó ông trở ra tay ôm theo cô bé rồi leo xuống cầu thang. Ông trao bé gái lại cho một bà trong đám đông rồi biến mất. Mấy ngày sau, ông trưởng khu phố đã mở một cuộc họp để tìm cha mẹ nuôi cho bé gái mồ côi. Một cô giáo giơ tay xung phong nhận nuôi em bé và hứa sẽ dạy dỗ em nên người tốt. Nhiều người khác cũng giơ tay với cùng ý muốn nhận để nuôi em. Cuối cùng một đại gia tay đeo nhẫn vàng lớn đã đứng lên phát biểu: “Tôi xin nhận làm cha mẹ nuôi của em bé này và hứa sẽ cho em mọi thứ tốt đẹp và sự giàu có mà tôi đang có”. Còn em bé gái chỉ biết im lặng và dáo dác nhìn quanh như đang chờ đợi một ai đó lên tiếng. Cuối cùng, khi sắp hết giờ, ông trưởng khu phố chủ trì buổi họp hỏi: “Còn ai muốn nói điều gì nữa không ?” Bấy giờ, từ cuối hội trường, một người đàn ông từ từ tiến lên. Ông đến gần đứa bé và dang hai tay ra trước bé. Mọi người đều thấy rõ các vết cháy nám trên hai cánh tay của ông. Còn bé gái vừa nhìn thấy ông đã vội kêu lên: “Đây chính là người đã cứu con khỏi đám cháy đêm trước”. Rồi em chạy tới bá lấy cổ ông, áp mặt vào vai ông và thổn thức khóc và ngước mắt nhìn ông mỉm cười sung sướng với hai giọt lệ lăn trên đôi má của em.

– Câu chuyện trên cho chúng ta thấy: Tình yêu không chỉ bằng lời nói suông, mà phải bằng việc làm. Thật vậy, một diễn giả dù có nói thao thao bất tuyệt về tình yêu thương cũng không thuyết phục được người nghe bằng một cử chỉ thân thương của một bà mẹ đang nâng niu đứa con yêu trong vòng tay của mình, hoặc bằng một cử chỉ thân thương giữa đôi vợ chồng trẻ dành cho nhau… Đây cũng chính là cách diễn tả tình thương của Chúa Giê-su đối với chúng ta. Người đã hy sinh chịu chết đau thương trên cây thập giá để chứng tỏ tình yêu tột đỉnh dành cho chúng ta như Người đã phán: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).

  1. LỜI CẦU QUYẾT TÂM:

Lạy Chúa Giêsu. Chúa đã yêu thương chúng con vô cùng, nên đã hy sinh chịu chết trên thập giá để đền tội thay cho chúng con. Chúa cũng mời gọi chúng con: “Ai muốn theo tôi hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo tôi” (Mc 8,34). Xin gia tăng lòng tin yêu trong chúng con, để chúng con cũng biết xả thân yêu thương mọi người, nhất là yêu thương phục vụ những người nghèo đói bệnh tật và đau khổ, hầu người đời nhìn thấy các việc lành chúng con làm, mà ngợi khen Chúa Cha trên trời và quyết tâm đi theo Chúa để sau này cũng được tham phần vào hạnh phúc muôn đời với chúng con.- Amen.

 

HIỆP SỐNG TIN MỪNG

LỄ VỌNG PHỤC SINH

St 1,1-2,2 ; Xh 14,15-15,1a ; Is 54,5-14

Ed 36,16-17a.18-28 ; Rm 6,3-11 ; Lc 24,1-12

 CÙNG CHẾT ĐỂ CÙNG SỐNG LẠI VỚI CHÚA

I.HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Lc 24,1-12

(1) Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mộ, mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn. (2) Họ thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ. (3) Nhưng khi bước vào, họ không thấy thi hài Chúa Giê-su đâu cả. (4) Họ còn đang phân vân, thì kìa hai người đàn ông y phục sáng chói, đứng bên họ. (5) Đang lúc các bà sợ hãi cúi gầm xuống đất, thì hai người kia nói: “Sao các bà lại tìm Người sống ở giữa kẻ chết? (6) Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi. Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Ga-li-lê, (7) là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại. (8) Bấy giờ các bà nhớ lại những điều Đức Giê-su đã nói. (9) Khi từ mộ trở về, các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy. (10) Mấy bà nói đây là bà Ma-ri-a Mác-đa-la, và bà Ma-ri-a mẹ ông Gia-cô-bê. Các bà khác cùng đi với mấy bà này cũng nói với các Tông đồ như vậy. (11) Nhưng các ông cho là chuyện lẩn thẩn, nên chẳng tin. (12) Dầu vậy, ông Phê-rô cũng đứng lên chạy ra mộ. Nhưng khi cúi nhìn, ông chỉ thấy những khăn liệm thôi. Ông trở về nhà, rất đỗi ngạc nhiên về những sự việc đã xảy ra.

  1. Ý CHÍNH: Bài Tin mừng hôm nay tường thuật biến cố Phục Sinh của Đức Giê-su theo thứ tự như sau:

– Sự kiện mồ trống: Ngày từ sáng sớm ngày thứ nhất, mấy người phụ nữ đã đi ra mộ để xức dầu thơm cho Đức Giê-su. Tới nơi, họ thấy tảng đá che ngoài cửa mộ đã được lăn sang một bên, nhưng không thấy xác Thầy trong mộ.

– Sứ điệp Phục sinh: Họ đang thắc mắc thì có hai thiên sứ hiện ra cho biết Đức Giê-su không còn ở trong mộ của kẻ chết nữa, nhưng đã sống lại, đúng như Người đã nói tại Ga-li-lê.

– Tông đồ cứng tin: Các bà vội trở về báo tin cho Nhóm Mười Một những điều mới xảy ra. Nhưng các ông không tin và coi là chuyện lẩn thẩn.

– Phê-rô kiểm chứng: Tuy vậy, để biết rõ thực hư, Phê-rô cũng chạy ra mộ và đã thấy những khăn liệm còn để lại. Ông trở về nhà và rất ngạc nhiên về những sự việc vừa xảy ra.

  1. CHÚ THÍCH:             

C 1-3: + Ngày thứ Nhất trong tuần: Từ ngày Đức Giê-su phục sinh, ngày thứ Nhất hôm nay sẽ trở thành ngày Hưu lễ của Ki-tô giáo, thay cho ngày thứ Bảy (Sa-bát) của Do Thái giáo, và gọi là Chúa nhật nghĩa là Ngày của Chúa. + Các bà đi ra mộ: Các bà này gồm bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Gio-an-na, và bà Ma-ri-a mẹ ông Gia-cô-bê và mấy bà khác nữa (x. Lc 24,10). + Mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn: Khi ra thăm mộ, các bà đem theo dầu thơm để hoàn tất việc mai táng Chúa Giê-su, đã được ông Giô-sép A-ri-ma-thê vội vã thực hiện vào chiều thứ Sáu trước ngày Sa-bát (x. Mc 15,42.47). + Họ không thấy thi hài Chúa Giê-su đâu cả: Đây là lần thứ nhất Tin mừng Lu-ca dùng từ “Chúa Giê-su” để nhấn mạnh tước hiệu mới của Người là “Chúa”. Về sau sách Công vụ sẽ nhiều lần dùng từ này để gọi Đức Giê-su (x. Cv 1,21; 8,16; 15,11).

C 4-5: + Phân vân: Vì không thấy thi hài Đức Giê-su trong mộ nên các bà phân vân lo lắng không biết người ta đã đem xác Thầy đi đâu (x. Ga 20,2). + Hai người đàn ông y phục sáng chói đứng bên họ: Sau này các bà khẳng định đó là hai vị thiên thần (x. Lc 24,23). + “Người sống”: Giờ đây Đức Giê-su trở thành “Người sống”, đúng như Lời Người đã nói (Ga 11,25).

C 6-7: + Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi: Thiên thần bảo cho các bà biết về mầu nhiệm Đức Ki-tô đã từ cõi chết sống lại (x. Rm 6,9). Từ đây Người mở ra một con đường sống cho những kẻ đã an giấc ngàn thu (x.1 Cr 15,20-26). + Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Ga-li-lê: Đối với Lu-ca, toàn bộ mầu nhiệm vượt qua phải được hoàn tất tại Giêrusalem (x. Lc 9,51), để Giêrusalem trở thành nơi xuất phát thông điệp ban ơn cứu độ (x. Lc 24,49). Do đó, trong sách Công Vụ Tông Đồ của Lu-ca, các Tông đồ đã được Đức Giê-su Phục Sinh trao cho sứ vụ làm chứng nhân cho Người bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem (x. Cv 1,8).

C 12: + Phê-rô cũng đứng lên chạy ra mộ: Dù không tin Thầy sống lại, nhưng Phê-rô cũng đi kiểm chứng thực hư. Kết quả ông chỉ nhìn thấy khăn liệm (x. Lc 24,12a). Còn Tin mừng Gio-an thì thuật lại cuộc chạy đua ra mộ giữa hai Tông đồ Phê-rô và Gio-an (x. Ga 20,3-4).

  1. HỎI ĐÁP:

HỎI 1: Đức Giê-su đã được môn đệ liệm xác theo phong tục Do thái ra sao?

Đáp: Việc liệm xác Đức Giê-su được thực hiện theo phong tục Do thái gồm các công đoạn như sau: Trước hết là tắm xác, nghĩa là lau chùi các vết máu cùng các vết nhơ khác trên cơ thể Người. Sau đó Đức Giê-su được đặt trên một tấm khăn vải trắng, rồi được bôi một loại dầu thơm đắt tiền (x Ga 12,3-7), được chế biến từ nhựa cây cam tùng được gọi là mộc dược. Dầu thơm được bôi trên toàn thân Người nhiều lần cho ngấm dần vào da thịt để bảo quản xác khỏi bị hư hoại trong một thời gian dài. Rồi xác Người được quấn lại bằng băng vải từ đầu đến chân (x. Ga 19,40). Cuối cùng xác Người được môn đệ an táng trong một ngôi mộ mới đục sâu trong đá và các ông làm một phiến đá lớn làm cửa che kín phía ngoài mộ (x. Ga 19,41-42).

HỎI 2: Tại sao các môn đệ lại phải vội vã an táng Đức Giê-su?

ĐÁP: Sở dĩ có việc mai táng vội vã là do Luật Mô-sê qui định: cấm mai táng vào ngày Sa-bát, và xác tử tội đang bị treo trên thập giá phải được hạ xuống trước khi mặt trời lặn (x. Đnl 21,22-23). Đức Giê-su chết lúc 3 giờ chiều áp ngày Sa-bát, nên thời gian còn lại từ 3 đến 6 giờ là quá ngắn, không đủ để làm đủ các công đọan của việc mai táng, nên các môn đệ phải làm cách vội vã cho kịp thời gian Luật cho phép.

HỎI 3: Sự phục sinh của Chúa Giê-su có giống sự phục sinh của các người đã chết và được Người cho sống lại không?

ĐÁP:

Sự Phục sinh của Đức Giê-su không phải là được hồi sinh trở về với cuộc sống trước khi chết, giống như các trường hợp của chàng thanh niên con trai bà goá thành Na-im, bé gái 12 tuổi mới chết đang nằm trên giường, hay như ông La-da-rô bạn thân của đức Giê-su đã chết chôn trong mồ 4 ngày, được Người cho sống lại. Cả ba trường hợp này, người chết đều sống lại, nhưng sự sống lại này chỉ là trở lại với đời sống cũ trước khi chết. Nghĩa là họ vẫn còn nằm dưới quyền lực của sự chết, và về sau đến một ngày nào đó họ vẫn phải chịu chung số phận của mọi người “là cát bụi sẽ về với cát bụi”.

Trường hợp phục sinh của Chúa Giê-su lại hoàn toàn khác hẳn. Quả thực, Người đã chết, nhưng Ngài đã phục sinh, nghĩa là Người hoàn toàn chiến thắng sự chết, Người không sống lại để sống thêm một thời gian rồi chết lại. Sống lại đối với Chúa Giê-su nghĩa là từ đây Người đón nhận sự sống mới sung mãn đến độ sự chết không thể chi phối được Người nữa; cũng như không một định luật tự nhiên nào có thể chi phối được Người nữa. Cụ thể là vào buổi chiều ngày Thứ Nhất trong tuần sau khi từ cõi chết sống lại, Đức Giê-su đã đến với các môn đệ trong khi cửa phòng đóng kín vì sợ người Do thái. Đức Giê-su đã nói chuyện với họ, ăn uống trước mặt họ. Một vài người trong bọn còn được sờ vào vết đinh ở bàn tay bàn chân và vết đâm ở cạnh sườn Người, giống như sờ một người đang sống chứ không phải bóng ma người chết. Đó chính là sự sống lại mà các môn đệ Đức Giê-su đều cảm nghiệm được mỗi lần Người hiện ra với họ.

II.SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: “Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi” (Lc 24,5-6).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) PHIM “CHIẾC CẦU SÔNG QUAI”: SỰ HỒI SINH TINH THẦN

Cuốn phim “Chiếc cầu sông Quai” kể về một câu chuyện đã xảy ra trong thời Đệ Nhị Thế Chiến. Trong khi giao chiến, một số quân nhân đồng minh đã bị quân Nhật bắt làm tù binh, và được mang tới vùng biên giới giữa Miến Điện và Thái Lan, để làm công việc lao động khổ sai: Cuộc sống ở trại tù này rất khắc nghiệt: Mỗi ngày tù binh phải làm công việc xẻ đá để làm đường trên cầu sông Quai, dưới cái nắng nóng giống như bên lò lửa. Họ bị bọn cai tù Nhật đối xử tàn tệ và đến lượt họ lại biến thành những kẻ độc ác, đối xử với bạn tù bằng luật rừng, trộm cắp đồ ăn, nghi kỵ đánh lộn và chém giết nhau, nhất là sẵn sàng chỉ điểm cho bọn cai tù khi có ai muốn vượt ngục …

Nhưng rồi trong số tù nhân trên có hai người là bạn thân đã hình thành một nhóm người. Thay vì dùng thời gian nghỉ để bài bạc thì đã họp nhau chia sẻ Lời Chúa. Nhờ nhóm học hỏi Kinh Thánh này, mà các bạn tù đã dần dần khám phá ra có Đức Ki-tô đang hiện diện giữa họ. Từ đó, các tù nhân không còn nghĩ mình là nạn nhân của một cuộc chiến dã man tàn khốc, không còn làm tay sai chỉ điểm cho kẻ thù, không còn trộm cắp lấy của nhau… thay vào đó đối xử với nhau bằng tình huynh đệ, thể hiện qua việc cầu nguyện với nhau và quan tâm giúp đỡ lẫn nhau. Từ đó trong trai tù, bầu khí vui tươi đã dần dần thay thế cho bầu khí ngột ngạt căng thẳng trước đó. Sự biến đổi trong trại tù “cầu sông Quai” chính là một phép lạ, khiến các tù nhân tin tưởng đoàn kết giúp đỡ nhau thay vì nghi kỵ thù ghét làm hại lẫn nhau. Sự biến đổi này là sự sống lại về mặt tinh thần, giống như mầu nhiệm Đức Giê-su đã từ cõi chết trỗi dậy.

2) TẦM QUAN TRỌNG CỦA MẦU NHIỆM PHỤC SINH:

Một cuốn phim tựa đề “Thế giới chìm trong bóng tối” trình bày câu chuyện về một nhà khảo cổ danh tiếng đứng đầu một cuộc khai quật khoa học tại Mồ Thánh Chúa ở Giê-ru-sa-lem.

Ngọn đồi Gol-go-tha đã được các nhà khảo cổ cẩn thận đào bới, vì Tin Mừng Gio-an thuật lại  thân xác Đức Giê-su đã được an táng trong một ngôi mộ, cạnh nơi Người bị hành hình thập giá. Sau nhiều ngày đào bới cẩn thận, ngày nọ nhà khảo cổ chủ nhiệm công trình tuyên bố: “Chúng tôi đã tìm thấy xác ông Giê-su”. Sau đó ông ta tổ chức một cuộc họp báo quy tụ hàng trăm ký giả các nơi để trình bày kết quả cuộc đào bới của đoàn khảo cổ do ông lãnh đạo. Ông đã đưa ra trước mặt mọi người một cái xác người đã bị khô đét, tay chân người này có dấu đinh bị đâm thủng, cạnh sườn có vết lưỡi đòng đâm thâu và những vết máu còn in trên tấm khăn liệm.

Cuốn phim quay lại cảnh nhiều người im lặng theo dõi bài thuyết trình của nhà khảo cố. Tình cờ có một phụ nữ hét to: “Đây đúng là một sự thật hiển nhiên không thể chối cãi: Ông Giê-su thực sự đã bị đóng đinh, đã chết và được mai táng trong mồ như lời thánh kinh đã ghi nhận”. Nhà khảo cổ liền xác nhận: “Vâng đúng thế. Ông Giê-su đã bị đóng đinh, đã chết và được môn đệ an táng trong mồ. Nhưng làm gì có chuyện sống lại, bởi vì xác của ông ta vẫn còn nằm đây, mà chúng tôi đã tìm thấy được”.

Sau đó cuốn phim mô tả về hậu quả của cuộc tìm thấy xác Đức Giê-su:

– Không ai còn mừng lễ Phục Sinh nữa.

– Một linh mục đã tắt đèn cạnh Nhà Chầu, cất Mình Thánh Chúa đi và đóng cửa nhà thờ.

– Chuông các thánh đường đều im tiếng.

– Các nữ tu cởi khăn trùm đầu.

– Thánh giá tại nhiều nơi đã bị hạ xuống.

– Các ngọn nến Phục Sinh tại các nhà thờ bị tắt ngủm.

– Thế giới chìm trong một màn đêm u tối dày đặc.

Cuốn phim kết thúc với cảnh nhà khảo cổ đang hấp hối trên giường bệnh. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông ta đã phải thú nhận: “Tôi đã đánh lừa cả thế giới. Chính tôi đã làm giả xác Đức Giê-su và bí mật đặt xác khác vào trong mộ một vài năm trước khi khởi sự công cuộc đào bới này”.

Sau lời tuyên bố đó là cảnh hàng ngàn người đã tuôn đến viếng Mồ Thánh ở Giê-ru-sa-lem như vẫn xảy ra hàng năm vào Tuần Thánh. Những ngọn nến Phục Sinh lại được thắp sáng và các tín hữu lũ lượt đốt những ngọn nến cháy sáng niềm hy vọng đến khắp hang cùng ngõ hẻm để soi sáng những con đường tăm tối. Chuông các nhà thờ lại tiếp tục ngân vang báo tin Chúa Giê-su đã Phục Sinh và mọi người đều vui mừng ca hát: “Sự sống đã chiến thắng thần chết. Thập giá đã chiến thắng địa nguc. Al-lê-lui-a!”.

  1. THẢO LUẬN: Khi tuyên xưng đức tin: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy”, các tín hữu phải sống thế nào trong xã hội hôm nay, để chứng tỏ niềm tin về một thế giới mới và một cuộc sống vĩnh hằng đời sau? 
  2. SUY NIỆM:

1) VỀ SỰ CỨNG TIN CỦA CÁC MÔN ĐỆ VÀO MẦU NHIỆM PHỤC SINH:

 – Các môn đệ không phải là những người dễ tin: Tin mừng Mátthêu thuật lại lời tiên báo của Đức Giê-su với các môn đệ ít ngày trước cuộc khổ nạn (x. Mt 16,21). Ông Phê-rô chỉ quan tâm đến cuộc thương khó mà ông cho là sự thất bại, nên yêu cầu Thầy đừng chấp nhận như vậy. Ông không chú ý đến lời Thầy: “Ngày thứ ba Người sẽ sống lại”. Các tông đồ khác tuy có nghe Thầy nói sẽ từ cõi chết sống lại, nhưng cũng không muốn tin. Do đó, khi vừa thấy Thầy bị bắt, các ông kẻ thì bỏ Thầy chạy trốn, kẻ chối không biết Thầy, kẻ trở về làng cũ và không muốn theo Thầy nữa…

– Còn các đầu mục Do thái còn cẩn trọng hơn: Họ đã nghe Đức Giê-su nói đến việc đến ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại, nên sau khi Người đã chết và được các môn đệ mai táng trong mồ, họ đã yêu cầu Phi-la-tô cho lính canh mồ để tránh việc Người sống lại.

2) TIẾN TRÌNH TIN VÀO MẦU NHIỆM PHỤC SINH CỦA CÁC MÔN ĐỆ:

– Về phần các môn đệ: do không tin Thầy sẽ từ cõi chết sống lại, nên khi nghe bà Ma-đa-le-na báo tin xác Thầy không còn trong mộ, hai môn đệ Phê-rô và Gio-an bán tín bán nghi đã chạy đua ra mồ kiểm tra thực hư. Hai ông đều quan sát thấy các khăn liệm còn đó nhưng xác Thầy biến mất! Riêng Gio-an thì liên kết sự kiện khăn liệm kèm theo mồ trống đã đạt đến đức tin.

– Các môn đệ khác đặc biệt Tô-ma, sau khi được Chúa Phục Sinh hiện ra nhiều lần để chứng minh Người đã sống lại bằng việc ăn uống, cho xem và sờ vào các vết thương ở tay chân và cạnh sườn, rồi được nghe Người giảng mầu nhiệm phục sinh phù hợp với lời Kinh Thánh đã chép, liên kết với cử chỉ bẻ bánh… thì các ông mới tin vào mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giê-su. Nhất là sau khi đón nhận được Ơn Thánh Thần vào lễ Ngũ Tuần, các ông mới thực sự xác tín để hăng say đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng vào mầu nhiệm “Đức Giê-su đã sống lại từ trong cõi chết” và sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho lời rao giảng ấy.

3) MẦU NHIỆM PHỤC SINH LÀ CUỘC VƯỢT QUA THỜI TÂN ƯỚC:

– Lễ “Vượt qua”: nhắc lại công cuộc ngày xưa Đức Chúa đã giải phóng con cháu Gia-cóp khỏi ách nô lệ cho dân Ai-cập, vượt qua Biển Đỏ cách lạ lùng và cuối cùng vượt qua sa mạc kéo dài 40 năm để về đến Miền Đất được Đức Chúa hứa ban cho tổ phụ Áp-ra-ham và dòng dõi đến muôn đời. Sự giải thoát nói trên được gọi là mầu nhiệm Vượt Qua, và lễ Vượt Qua được cử hành bằng bữa tiệc chiên tại tư gia vào ngày 14 tháng Ni-san hằng năm.

– Ngày nay: các tín hữu được Hội Thánh mời gọi vượt qua bản thân để sống hướng thượng nhân ái qua việc chay tịnh, lãnh nhận các phép bí tích, cầu nguyện và làm việc bác ái cụ thể, chia sẻ cơm áo vật chất cho tha nhân.

4) SỐNG MẦU NHIỆM VƯỢT QUA GIỮA ĐỜI THƯỜNG:

– Trong Mùa Chay, Chúa muốn chúng ta “vượt qua” những ham muốn, những toan tính đời thường để đón nhận tha nhân và sống hòa hợp với mọi người. Thánh Phao-lô dạy phải mừng lễ Vượt qua này như sau: “Đức Ki-tô đã chịu hiến tế làm chiên vượt qua của chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ” (1 Cr 5,7a-8).

– Hôm nay, Hội Thánh mời gọi chúng ta phải chết đi cho con người cũ, cùng với những thói hư tật xấu như: ích kỷ, ganh ghét, gian tham, hướng chiều theo các đam mê bất chính… để nhờ ơn Thánh Thần tái tạo, trở thành một người mới luôn biết quên mình nghĩ đến người khác, sống bao dung nhân hậu, công chính và khiêm tốn phục vụ tha nhân vô vụ lợi… Có như vậy, việc mừng lễ Phục Sinh mới thực sự mang lại niềm vui và hy vọng được phục sinh với Chúa Giê-su trong cuộc sống vĩnh hằng ở đời sau.

  1. LỜI CẦU:

LẠY CHÚA PHỤC SINH. Xin giúp chúng con biết tôn trọng tha nhân, hợp tác với nhau và với mọi người thiện chí để tiêu diệt các sự gian ác tội lỗi, đẩy lùi văn hóa sự chết là những tệ nạn xã hội như sì-ke, ma tuý, mại dâm, cờ bạc, say sỉn, cướp bóc, lừa đảo, thù hận làm hại kẻ khác… Xin cho chúng con quyết tâm xóa sạch những điều bất chính ra khỏi con người chúng con, khỏi gia đình và khu xóm chúng con. Nhờ đó, mọi người sẽ được sống chan hòa yêu thương nhau, cùng nhau kiến tạo một “Trời Mới Đất Mới”, nơi không còn nước mắt, không còn khổ đau và chết chóc… nhưng là một Thiên đàng đầy tình yêu thương và hưởng hạnh phúc viên mãn.

  1. X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

LM ĐAN VINH – HHTM