Iraq: Tổng quan về Giáo hội và các cộng đồng Kitô của đất nước này.

print

Iraq: Tổng quan về Giáo hội và các cộng đồng Kitô của đất nước này.

 Lisa Zengarini

Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ thực hiện chuyến tông du đầu tiên của một vị Giáo Hoàng đến Iraq từ ngày 5 đến ngày 8 tháng Ba. Chúng tôi xin trình bày một cái nhìn tổng thể về các cộng đồng Kitô Giáo cổ xưa và đa dạng của quốc gia này, hoàn cảnh và những thách đố họ phải đối diện.

Kitô Giáo đã có mặt ở Iraq từ những thời kỳ đầu tiên, như sách Công vụ Tông đồ đã làm chứng. Nguồn gốc của Kitô Giáo tại quốc gia này bắt nguồn từ việc rao giảng của Thánh Tôma Tông đồ và các môn đệ của ngài là Addai và Mari vào thế kỷ thứ nhất sau Chúa Giáng Sinh, kéo dài đến Đông Á. Do đó, theo Kinh Thánh và lịch sử, Iraq là một vùng đất quan trọng đối với tất cả Kitô hữu, những người đã đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử của Iraq.

Lịch sử bị ngược đãi và phân biệt đối xử

Cộng đồng Kitô Giáo Iraq, ngày nay bao gồm người Chanđê, người Assyriô, người Armenia, người Latinh, người Melkite, Chính thống giáo và người Tin lành, đã bị đánh dấu bởi sự đàn áp và phân biệt đối xử kể từ khi Hồi giáo xuất hiện và thậm chí sau khi Iraq độc lập. Dưới chế độ thế tục của Saddam Hussein, các Kitô hữu đã tìm ra một phương thức cho phép Giáo hội thực hiện các hoạt động của mình, cũng như trong lĩnh vực bác ái. Tuy nhiên, vào thời điểm đó – đặc biệt là sau khi các cuộc chiến tranh liên tiếp bắt đầu vào những năm 1980 – ngày càng nhiều người các tín hữu Kitô Iraq bắt đầu di cư thành lập một số cộng đồng ở nước ngoài.

Những con số lao dốc. Cuộc di cư sau năm 2003 và giữa năm 2014 và 2017

Cuộc di cư lớn nhất xảy ra sau cuộc can thiệp quân sự do Hoa Kỳ dẫn đầu vào năm 2003, do mất an ninh, bạo lực và các cuộc tấn công và đặc biệt từ năm 2014 đến năm 2017, sau khi quân khủng bố Hồi Giáo IS thành lập “Nhà nước Hồi giáo” ở phía bắc Iraq.

Trước Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ hai, các tín hữu Kitô Iraq ước tính có từ 1 đến 1.4 triệu (khoảng 6% dân số). Kể từ đó, dân số Kitô Giáo đã giảm xuống chỉ còn 300,000 đến 400,000, theo ước tính gần đây nhất của tổ chức tổ chức Trợ Giúp Các Giáo Hội Đau Khổ, gọi tắt là ACN.

Từ năm 2003 đến tháng 3 năm 2015, khoảng 1,200 Kitô hữu đã bị giết, bao gồm Đức Tổng Giám Mục Paulos Rahho của tổng giáo phận Mosul nghi lễ Chanđê, người bị sát hại vào năm 2008, 5 linh mục và 48 anh chị em giáo dân bị thánh chiến Hồi Giáo xả súng thảm sát ở Nhà thờ Đức Mẹ Giải Thoát ở Baghdad vào ngày 31 tháng 10 năm 2010 và 62 nhà thờ bị hư hại hoặc phá hủy.

Việc IS chiếm đóng vùng đồng bằng Ninivê, vốn là cái nôi của Kitô Giáo vùng Lưỡng Hà, đã khiến khu vực này của người Kitô Giáo bị xóa sổ theo đúng nghĩa đen. Hơn 100,000 người đã bị buộc phải rời bỏ nhà cửa của họ cùng với các nhóm thiểu số bị bách hại khác như người Yazidi. Nhiều gia đình trong số này đã tìm thấy nơi ẩn náu trong vùng Kurdistan ở Iraq, cụ thể là ở Ankawa, là khu Kitô Giáo của Erbil, hay trong các trại tị nạn ở Jordan, Syria, Thổ Nhĩ Kỳ và Libăng, hoặc xin tị nạn ở Âu Châu và các nước khác. Trong những năm gần đây, ít nhất 55,000 Kitô hữu Iraq cũng đã rời Kurdistan. Nhiều nhà thờ và tài sản của Kitô hữu cũng bị phá hủy hoặc hư hại nghiêm trọng. Một phần quan trọng của di sản lịch sử Kitô Giáo đã được Đức Tổng Giám Mục Najib Mikhael Moussa của tổng giáo phận Mosul nghi lễ Chanđê cứu khỏi bị phá hủy. Ngài đã lưu giữ hơn 800 bản thảo lịch sử và vì điều này, vào năm 2020, ngài đã được Liên minh Châu Âu trao tặng Giải thưởng Sakharov.

Tình trạng bất an và chủ nghĩa bè phái là mối đe dọa liên tục đối với những Kitô hữu ở Iraq

Sau thất bại quân sự của Nhà nước Hồi Giáo ở Iraq vào năm 2017, các Kitô hữu Iraq đã dần dần bắt đầu quay trở lại vùng đồng bằng Ninivê, với sự giúp đỡ của Giáo hội hoàn vũ và đặc biệt là của tổ chức tổ chức Trợ Giúp Các Giáo Hội Đau Khổ. Ngày nay, gần 45% Kitô hữu của Ninivê đã trở về nhà của họ, trong khi 80% các nhà thờ ở đồng bằng Ninivê đang trong quá trình xây dựng lại, ngoại trừ Mosul, do các vấn đề về giấy tờ hành chính.

Cho đến nay, khoảng 57% các ngôi nhà bị hư hại của các gia đình Kitô hữu trong vùng và nằm trong kế hoạch tái thiết đã được sửa chữa, 35% trong số đó với sự hỗ trợ tài chính của ACN. Tổ chức này cũng đã tạo điều kiện thành lập Ủy ban Tái thiết Ninivê với mục đích khuyến khích các Kitô hữu quay trở lại cộng đồng của họ và bảo đảm cho họ cũng như các nhóm thiểu số khác được bảo vệ.

Tuy nhiên, tình trạng thiếu an ninh và các cuộc quấy rối, đe dọa và các hành động quấy rối liên tục của dân quân địa phương và các nhóm thù địch tiếp tục đe dọa cộng đồng Kitô hữu Iraq, đặc biệt là ở khu vực này. Điều này đã được xác nhận bởi Báo cáo “Cuộc sống sau ISIS: Những thách thức mới đối với Kitô Giáo ở Iraq”, được công bố vào mùa thu năm 2020 bởi ACN, và “Open Doors”, một tổ chức Kitô giúp đỡ những Kitô hữu bị đàn áp trên khắp thế giới. Open Doors cũng đã quảng bá sáng kiến “Trung tâm Hy vọng” ở Iraq.

Khát vọng có đầy đủ quyền công dân ở một Iraq hòa bình và đa nguyên

Tình trạng mất an ninh, bất ổn chính trị, chủ nghĩa bè phái, còn được đi kèm với nạn tham nhũng và khủng hoảng kinh tế, vốn đã trở nên tồi tệ hơn với đại dịch COVID-19, tiếp tục ngăn trở các Kitô hữu quay trở lại hoặc ở lại đất nước mình. Để bảo đảm tương lai của họ ở một Iraq thống nhất và không có thánh chiến, trên hết họ cần được công nhận quyền công dân đầy đủ của mình. Đây là lý do tại sao các Giáo Hội Kitô từ lâu đã khăng khăng đòi một Hiến pháp thế tục và một vai trò tích cực hơn trong đời sống chính trị và xã hội Iraq. Bản Hiến Pháp được thông qua năm 2005 chính thức bảo đảm việc tôn trọng tự do tôn giáo, nhưng Điều 2 lại thực sự xác định Hồi giáo là quốc giáo chính thức và là căn cứ chính yếu để hình thành luật pháp. Hồi giáo tiếp tục là một tôn giáo đặc quyền trong hệ thống Iraq gây bất lợi cho các nhóm thiểu số.

Đức Thượng Phụ Louis Raphaël Sako của Công Giáo nghi lễ Chanđê đã nhiều lần nêu vấn đề này, nhấn mạnh tầm quan trọng của một cuộc đối thoại cởi mở giữa tất cả các bên liên quan để xây dựng một Nhà nước đa nguyên và mạnh mẽ, tôn trọng mọi công dân, bất kể tôn giáo và dân tộc của họ. Điều này cũng được nhắc lại tại Thượng Hội Đồng cuối cùng của Giáo hội Chanđê vào tháng 8 năm 2019, kêu gọi một Nhà nước dựa trên “bình đẳng, công lý, luật pháp” công nhận sự đại diện công bằng cho các Kitô hữu trong các cơ quan chính phủ.

Các Giáo hội Iraq đã tìm thấy sự hỗ trợ về những vấn đề này từ Thủ tướng Mustafa al-Kadhimi. Kể từ khi lên nắm quyền vào ngày 7 tháng 5 năm 2020, ông al-Kadhimi đã nhiều lần bày tỏ mong muốn ngăn chặn cuộc di cư của những người theo Kitô Giáo và lôi kéo họ vào việc xây dựng lại đất nước, nhấn mạnh rằng họ đại diện cho một thành phần quan trọng của xã hội Iraq. Những lời này đã được đi kèm với hành động. Một cử chỉ quan trọng là Quốc hội Iraq gần đây đã tiến hành công nhận Giáng sinh là một ngày lễ chung trên toàn quốc trên cơ sở cố định. Gần đây hơn, ngay cả thủ lĩnh người Shiite là ông Muqtada al Sadr, người đứng đầu Đảng Sadrist đầy quyền lực, đã thể hiện sự sẵn sàng đối thoại với cộng đồng Kitô Giáo Iraq, bằng cách trả lại những tài sản bị các nhóm Shiite đánh cắp trong nhiều năm qua cho chủ sở hữu hợp pháp của họ.

Mối quan tâm của Tòa thánh đối với các Kitô hữu ở Iraq

Hoàn cảnh của các Kitô hữu ở Iraq luôn được Tòa thánh quan tâm đặc biệt, nhất là kể từ sau cuộc Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ hai năm 2003, mà Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kịch liệt phản đối, như ngài đã làm vào năm 1991. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 16 tháng Ba, 2003, vị Thánh Giáo Hoàng Ba Lan đã cảnh báo về “những hậu quả to lớn mà một hoạt động quân sự tầm mức quốc tế sẽ gây ra cho người dân Iraq và cho sự cân bằng trong khu vực Trung Đông, và cho các hành động cực đoan có thể xuất phát từ đó”. Đức Giáo Hoàng hoàn toàn nhận thức được những hậu quả mà cuộc xung đột vũ trang lần thứ hai này sẽ gây ra đối với các cộng đồng Kitô Giáo ở Iraq và khắp khu vực.

Việc thành lập Nhà nước Hồi giáo ở Iraq và Syria vào năm 2014 càng khiến tình hình của họ thêm trầm trọng. Trong bối cảnh này, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã không ngừng nói lên sự gần gũi của mình “với những người Iraq thân yêu”. Mối quan tâm này đã được tái khẳng định bởi Đức Hồng Y Pietro Parolin, nhân chuyến công du tới quốc gia này vào tháng 12 năm 2018. Trong chuyến thăm của mình, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh đã nhấn mạnh về tầm quan trọng của việc vượt qua hận thù và bày tỏ lòng biết ơn của Giáo hội đối với chứng tá Kitô của người Iraq mà – ngài nói – đã trở thành “một tấm gương sống động cho tất cả các Kitô hữu trên thế giới”.

Vào ngày 10 tháng 6 năm 2019, trong cuộc họp mặt của các Cơ quan Viện trợ cho các Giáo Hội Đông phương, gọi tắt là ROACO, khi bày tỏ mong muốn đến thăm Iraq vào năm 2020, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc lại hy vọng rằng Iraq “có thể đối mặt với tương lai thông qua việc theo đuổi lợi ích chung một cách hòa bình và được chia sẻ từ phía tất cả các thành phần của xã hội, bao gồm cả tôn giáo”

Tầm quan trọng của việc duy trì sự hiện diện lịch sử của các tín đồ Kitô Giáo ở quốc gia này và nhu cầu bảo đảm an ninh cho họ và một vị trí trong tương lai của Iraq một lần nữa được nhấn mạnh nhân chuyến thăm chính thức Vatican lần thứ hai của Tổng thống Barham Salih, vào ngày 25 tháng Giêng, 2020, tập trung vào những thách thức mà đất nước phải đối mặt và tầm quan trọng của việc thúc đẩy ổn định và quá trình tái thiết.

Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh về sự cần thiết phải bảo vệ “sự hiện diện của Kitô Giáo” ở Iraq và trong toàn bộ khu vực trong cuộc họp trực tuyến về cuộc khủng hoảng nhân đạo ở Syria và Iraq do Bộ Dịch Vụ Phát Triển Nhân Bản Toàn Diện của Tòa Thánh tổ chức với hàng chục tổ chức phi chính phủ và Công Giáo, vào ngày 10 tháng 12 năm 2020. “Chúng ta phải làm việc để bảo đảm rằng sự hiện diện của Kitô hữu ở những vùng đất này tiếp tục là những gì nó đã luôn là: một dấu chỉ của hòa bình, tiến bộ, phát triển và hòa giải giữa các dân tộc”, Đức Giáo Hoàng đã đưa ra lập trường trên trong một thông điệp video kêu gọi cộng đồng quốc tế khuyến khích sự trở lại của các cộng đồng bị phân tán vì chiến tranh.

Trong bối cảnh đó, việc công bố vào ngày 7 tháng 12 năm 2020 về hành trình tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô đã được Giáo hội Iraq nhiệt liệt hoan nghênh. Chuyến đi của Đức Giáo Hoàng sẽ diễn ra 21 năm sau khi Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bày tỏ mơ ước được đến thăm quốc gia này, nhân dịp hành hương Năm Thánh 2000 của ngài theo bước chân của Tổ Phụ Abraham, Môisê, Chúa Giêsu và Thánh Phaolô. Chuyến đi đã bị hủy bỏ do tình hình chính trị ở Iraq.

Các con số thống kê về quốc gia Iraq

Theo thống kê vào tháng 7, 2020, Iraq có 39,650,000 dân trên một diện tích là 438,317 km2 trong đó có 950 km2 là lãnh hải, xếp thứ 60 trên thế giới. 69.36% dân số sống trong các thành thị và 30.64% sống trong các vùng nông thôn. Tỉ lệ người nhập cư ước tính 1.0% dân số.

Mức độ tham nhũng của các công chức trong bộ máy công quyền (Level of Public Corruption) đứng hàng 166. Để so sánh, các quốc gia có mức độ tham nhũng của các công chức trong bộ máy công quyền cao nhất thế giới, tức là xếp hạng 176 là Bắc Hàn, Yemen, Nam Sudan, và Somalia. Việt Nam đứng hàng 117. Trung Quốc xếp thứ 87.

Trung bình một phụ nữ Iraq có từ 4 đến 5 đứa con.

Số trẻ em không sống quá 5 tuổi lên đến 3.20%

Tuổi thọ trung bình 70 tuổi.

Tỷ lệ biết đọc biết viết là 79.25%

Số người dùng Internet chiếm 11%

Bình quân thu nhập đầu người là 6,500 Mỹ Kim.

Các con số thống kê về Giáo Hội Iraq

Tại Iraq, chúng ta có các Giáo Hội Công Giáo nghi lễ Latinh, Chanđê, Armenia, Syria, và Melkite. Các Giáo Hội Công Giáo nghi lễ Chanđê, Armenia, Syria, và Melkite đều hiệp thông trọn vẹn với Tòa Thánh.

Tổng cộng tại Iraq có 17 giáo phận và tổng giáo phận, trong đó có một tổng giáo phận Công Giáo Latinh ở Baghdad, 10 giáo phận và tổng giáo phận theo nghi lễ Chanđê, bốn giáo phận theo nghi lễ Syria, một giáo phận nghi lễ Armenia, và một giáo phận theo nghi lễ Melkite.

Tổng giáo phận Công Giáo Latinh ở Baghdad do Đức Tổng Giám Mục Jean Benjamin Sleiman, 74 tuổi cai quản bao gồm 3 giáo xứ, với 11 linh mục dòng, 11 linh mục triều, 171 nữ tu và 13 nam tu sĩ không có chức linh mục. Tổng cộng có khoảng 2,500 người Công Giáo.

Theo niên giám 2019 trong đó tính chung tất cả các nghi lễ, tổng cộng có 145 linh mục, 345 nữ tu, 124 giáo xứ. Giáo Hội điều hành 8 bệnh viện Công Giáo.