Nhật Ký Truyền Giáo – Lm Piô Ngô Phúc Hậu

Nhật Ký Truyền Giáo

 Lm. Piô Ngô Phúc Hậu

Nguồn: www.tiengnoigiaodan.net

* Ngày Sinh: 9-5-1936

* Nơi Sinh : Hiền Quan, Phú Thọ, Giáo Phận Hưng Hoá

* 1955-1961: ĐCV Thánh Tôma và học viện Lê Bảo Tịnh

* 1961-1964: ĐCV Thánh Giuse , Sàigòn

* Thụ phong linh mục: 10-05-64 tại Cần Thơ

* 1967-1971: Giám Đốc Trung Học Cần Thơ

* 1971-1975: Truyền giáo Tại Năm Căn, Cà Mau

* 1979-1994: Chánh xứ Bảo Lộc, Cà Mau

* 1994- : Chánh xứ Cái Rắn, Cà Mau

Linh Mục Ngô Phúc Hậu, được người dân miền Cà Mau tặng cho biệt danh là “Anh Tám Hậu.” Suốt 42 năm qua, linh mục Ngô Phúc Hậu đã đi rao giảng Tin Mừng cho những con người thật thà miền Tây, bao gồm cả miền nam của sông Hậu Giang, từ Cà Mau trở xuống với những địa danh nghe thật lạ tai như : Cái Rắn, Cái Nước, Đồng Cùng, Chà Là, Bà Hính, Cái Keo, Năm Căn (Hàm Rồng), quanh quẩn trong vùng sông Bẩy Hạp. Linh mục đã sống với giáo dân của ngài trong những cơn bĩ cực nhất của cuộc đời qua sự tàn phá tàn nhẫn của cơn bão số 5 (Linda) gần cuối năm 1997.

 

Những mẩu chuyện tuy nhỏ nhưng đã đặt ra rất nhiều vấn đề quan trọng cho người tín hữu, giáo dân cũng như giáo sĩ, phải suy nghĩ:

 

* Linh Mục Của Ai

* Vatican II

* Canh Tân Giáo Hội từ dưới lên trên

* Chòi thờ và Nhà thờ

* Vai trò Giáo Dân trong việc truyền giáo

* Vai trò của người phụ nữ trong Giáo Hội

* Công Bằng Xã Hội

* Hội Nhập Văn Hoá

* Thờ cúng tổ tiên

* Cây roi của mục vụ

* Ăn chay và kiêng thịt

* Cộng đồng cơ bản

* Những căn bản của đạo lý

 

  1. GIÁO XỨ CAPHÁCNAUM… 3
  2. ANH EM… 6
  3. NHỚ VỀ NĂM CĂN.. 9
  4. ĐI TÌM THỢ GẶT. 13
  5. HOÀ NHẬP VÀO MÔI TRƯỜNG TRUYỀN GIÁO.. 16
  6. NGƯỜI HÀNH KHẤT. 19
  7. TIN MỪNG BỐ THÍ HAY TIN MỪNG GIẢI PHÓNG.. 22
  8. ĐỨC PHẬT MẾN YÊU.. 25
  9. NGÀY HƯU LỄ VÌ CON NGƯỜI. 29
  10. TẢN MẠN VỀ VATICANÔ II. 31
  11. CÔNG BẰNG XÃ HỘI. 33
  12. PHÁT TRIỂN DÂN SINH.. 36
  13. BÀ NĂM… 39
  14. CHỊ CHÍN.. 42
  15. PHỤ NỮ.. 46
  16. ĐÁM TANG BÀ NĂM… 49
  17. HẠT GIỐNG ÂM THẦM… 52
  18. CỘNG ĐỒNG CƠ BẢN.. 54
  19. NHỮNG CÁI TẾT TRONG ĐỜI TRUYỀN GIÁO.. 58
  20. TỪ NGỮ NHÀ ĐẠO.. 61
  21. KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO.. 67
  22. LÒNG BAO DUNG.. 70
  23. CÂY ROI TRONG MỤC VỤ.. 73
  24. CÚNG CƠM… 75
  25. MÚA LỬA, DỊ ĐOAN CHĂNG ?. 78
  26. NHÀ THỜ.. 81
  27. NGẮM ĐỨC GIÊSU.. 84
  28. CÁI RẮN CỦA TÔI. 87
  29. TRÁI SẦU RIÊNG.. 91
  30. HỘI NHẬP VĂN HÓA.. 94
  31. NHỮNG KHOẢNG TRỐNG CÒN LẠI. 96
  32. HIỆN DIỆN VÀ LOAN BÁO.. 99
  33. ĐI. 102
  34. BUỒN VUI CÁI RẮN.. 103
  35. ĐI TÌM CHIÊN.. 106
  36. NHỮNG KỶ NIỆM VỀ LOÀI CHÓ.. 110
  37. RĂNG ĐEN.. 113
  38. BUỒN.. 116
  39. KIÊNG THỊT VÀ ĂN CHAY.. 120
  40. KHÔNG NGỜ.. 123
  41. Ở CUỐI ĐƯỜNG HẦM… 127
  42. ĐỔI MỚI. 135
  43. ĐI LANG THANG.. 139
  44. NHƯ CHUYỆN TIẾU LÂM… 143
  45. GIÓ TỪ ĐÂU ĐẾN ?. 146
  46. NƯỚC TRỜI GIỐNG NHƯ TRÁI MẮM… 149
  47. CƠN BÃO SỐ 5. 152
  48. SAU CƠN BÃO SỐ 5. 157
  49. AGAPÊ : ĂN VÌ YÊU, ĂN ĐỂ YÊU…. 168
  50. SAU MỘT CUỘC GẶP GỠ.. 171
  51. ĐỌC THÁNH KINH.. 173
  52. LINH MỤC CỦA AI. 176
  53. ÁO NHÀ TU.. 178
  54. NGƯỜI BIỆT PHÁI CẦU NGUYỆN.. 182
  55. LÒNG KHIÊM TỐN LÀ CHỨNG TÁ TIN MỪNG.. 185
  56. ĐẾN VỚI NGƯỜI NGHÈO.. 188
  1. GIÁO XỨ CAPHÁCNAUM

Cần Thơ, …. 1970

Chủ đề tĩnh tâm Giáo phận năm nay là truyền giáo. Đức Giám mục hô hào đẩy mạnh phong trào truyền giáo. Phương pháp truyền giáo là phát triển Dân Sinh, Dân Trí và Dân Đạo…. Bất ngờ ngài nói với anh em một câu của một vị thừa sai nào đó:

“Linh mục Việt Nam chỉ có tài coi sóc họ đạo, chứ không biết gầy dựng họ đạo”.

Vì tự ái dân tộc, mình giơ tay và đứng bật lên như m­ột cái lò xo :

– Thưa Đức cha, không phải linh mục VN không biết gầy dựng họ đạo, nhưng vì chưa có “Bài sai”(Văn thư bổ nhiệm một linh mục do Đức Giám Mục ấn ký) của Đức cha.

Mình hung hăng chừng nào thì Đức Giám mục bình tĩnh chừng ấy. Với giọng trầm buồn, ngài thủng thẳng trả lời :

– Tôi biết đi truyền giáo thì thiếu thốn và cực khổ nhiều lắm, nên không nỡ tâm sai các cha đi. Cha nào tình nguyện thì tôi mới dám. Vậy cha nào tình nguyện thì giơ tay lên.

Mình đếm được sáu cánh tay giơ thật cao và thật thẳng : Hai cha già, hai cha sồn sồn, và hai cha trẻ. Đức Giám mục cười và khôi hài :

– Các cha đi truyền giáo thì bỏ họ đạo, bỏ chủng viện, bỏ trường học cho ai ?

Cả hội trường cười hì một cái. Thế là đánh trống bỏ dùi. Vấn đề truyền giáo chỉ được nêu lên như một sự gợi ý và thăm dò. Rồi đây, sau tuần tĩnh tâm, ai nấy lại trở về với họ đạo của mình và tiếp tục rao giảng Tin Mừng cho ng­ười đã nghe. Tuyệt nhiên không nghĩ gì, không làm gì cho người lương dân, những người chưa bao giờ được nghe Tin Mừng.

Viết đến đây, mình liên tưởng đến Đức Giêsu khi Ngài đến rao giảng tại Caphácnaum. Sau khi được nghe giảng và chứng kiến nhiều phép lạ, dân thành Caphácnaum nảy ra một sáng kiến

– Xin Thầy ở lại với chúng tôi, đừng đi đâu nữa.

Câu nói của họ hàm nhiều ý nghĩa :

  1. Vì quá thương, họ muốn Chúa ở lại với họ. Họ không muốn Chúa lúc nào cũng đầm đìa mồ hôi, ăn không trọn bữa, ngủ không đầy giấc, do các chuyến đi liên tục. Họ muốn có một “ngôi nhà xứ” có đủ tiện nghi cho Chúa sử dụng. Họ sẽ kiếm cho Chúa một bà bếp nấu ăn thật giỏi, có thể đó là mẹ vợ của Simon.
  1. Họ muốn gởi gắm sự nghiệp của mình vào sự nghiệp của Chúa. Caphácnaum sẽ là trung tâm rao giảng, trung tâm trị bệnh. Caphácnaum sẽ trở thành thủ đô của nước “Israel mới” . Sự nghiệp của Chúa sẽ gắn liền với sự nghiệp vẻ vang của Caphácnaum.

“Xin Thầy ở lại với chúng tôi, đừng đi đâu nữa !” . Ôi thương quá là thương ! Nghe mà nẫu cả ruột ! Đó là một chước cám dỗ, chước cám dỗ dễ thương vô cùng. Để đối phó, Chúa đã khẳng định :

– Ta còn phải loan báo Tin Mừng cho các thành khác nữa. Chính vì thế mà Ta được sai đến. Sau đó Chúa đã đi thật, và đi mãi.

Chúa ơi, Chúa đã giã từ Caphácnaum để đi loan báo Tin Mừng, còn chúng con thì đã chui vào đó để “Ngồi Họ” . Quả vậy, Giáo hội của Chúa có một truyền thống yêu thương giáo xứ. Con cái của Chúa quây quần bên nhau thành một xóm đạo. Bản thân con đã được sinh ra và lớn lên trong một xóm đạo như thế. Giáo xứ nơi con sinh trưởng có một ngôi thánh đường nguy nga. Nhà thờ có tháp cao. Sáng, trưa, chiều chuông từ trên tháp cao ấy đổ hồi vang tới tận xóm ngoại, và vọng lại từ những đồi cọ xa mịt mù.

Cha xứ của chúng con sống trong nhà xứ có lũy tre dày bao bọc xung quanh, có cổng gỗ lim đóng im ỉm, mà bọn nhí chúng con chẳng bao giờ dám bén mảng tới. Cha xứ của chúng con rất yêu thương giáo dân. Hằng năm, ngài chỉ vắng mặt đúng một tuần lễ để đi cấm phòng theo lệnh Đức Giám mục.

Ngài đã rửa tội cho hằng ba thế hệ trong giáo xứ. Ngài đã cho con xưng tội và rước lễ lần đầu. Ngài đã mời Đức Giám mục đến để chúng con được lãnh bí tích Thêm sức.

Hễ ai đau yếu mà mời ngài đến xức dầu, thì dù ngày hay đêm, ngài cũng xăng xái đi liền. Nếu có ai qua đời thì ngài đến tận nhà cử hành nghi lễ tẩm liệm, đến tận nhà để rước xác về nhà thờ làm lễ quy lăng, rồi ngài tiễn chân ra tới phần mộ và làm phép huyệt. Ngài chỉ ra về khi đã ném xuống đó một nắm đất như một cử chỉ tiễn biệt.

Tháng Năm nào ngài cũng tổ chức dâng hoa và kiệu hoa liên họ. Giáo xứ bập bùng ánh đèn.

Mùa Chay thì ngắm nguyện. Lễ Phục sinh và Lễ Các Thánh thì thi kinh bổn. Tiếng trống thi đánh thì thùng suốt ngày. Giáo xứ tưng bừng như đại hội.

Đến tháng hè, các thầy trường lý đoán, các chú trường Latinh về tổ chức kịch tuồng. Nào tuồng “Thánh Alêxù”ø, nào tuồng “Thánh Antôn ẩn tu”. Giáo xứ rộn lên niềm phấn khởi.

Cha xứ và giáo dân chúng con gắn bó với nhau khắng khít hơn cả xương sườn của Ađam gắn bó với da thịt của Eva, đến mức độ quyền phép của Đức Giám mục cũng không phân ly được. Bởi thế, khi con nứt mắt ra thì Cha xứ của con đã ở đó. Và bây giờ, khi con ngồi viết những dòng này thì ngài cũng vẫn còn ở đó, bình chân như vại.

Xóm đạo của chúng con chỉ cách xóm ngoại bằng một con đường đất nhỏ hẹp đến mức độ hai con trâu đi ngược chiều phải cọ sườn vào nhau. Vậy mà hai xóm có hai nền văn hóa khác nhau như hai dân tộc, như hai quốc gia :

– Bên kia có mái chùa cong cong. Bên này có ngọn tháp cao nghều nghệu.

– Bên kia có tiếng chuông chùa rỉ rả ngân nga. Bên này có tiếng chuông thánh đường binh boong dồn dập.

– Bên kia người ngoại gọi là “Huê Hồng”, thì bên này người đạo gọi là “Hoa Hồng” .

Làng tôi thờ bà Thiều Hoa, nên người ngoại tránh tên húy của bà mà đổi Hoa thành Huê. Người đạo thì không chia sẻ tục lệ ấy. Theo truyền tụng của làng tôi, bà Thiều Hoa là tướng của hai Bà Trưng. Sau khi hai bà tự vẫn tại Hát Giang, quân kháng chiến bị tan rã, bà Thiều Hoa về làng tôi sống ẩn dật bằng nghề may vá. Bà rất yêu trẻ em, nên bà lấy vải vụn cột thành trái bóng cho trẻ em chơi. Từ đó, làng tôi có môn đánh phết.

– Bên kia người ngoại gọi là con cua, thì bên này người đạo gọi là con căng-xe (Từ “cua” ở làng tôi có thêm một nghĩa tục, nên các Cố Tây bắt giáo dân gọi con cua là con căng-xe (Cancer trong tiếng Latinh).

– Nhí xóm đạo và nhí xóm ngoại lâu lâu lại tổ chức choảng nhau một lần.

Bởi vậy từ ngày có trí khôn cho tới bây giờ, con chưa thấy một người ngoại nào theo đạo của Chúa. Chẳng bao giờ con thấy cha xứ than phiền về điều đó. Đức Giám mục cũng chẳng bao giờ phiền trách ngài về điều đó.

Tin Mừng của Chúa đã vón cục lại trong giáo xứ. Giáo xứ là cái ghetto quản thúc Tin Mừng. Nó là cái pháo đài ngạo nghễ để biến chúng con thành những người tự cao tự đại trước mắt người lương dân.

Lạy Chúa, đến bao giờ chúng con mới nói được với giáo xứ lời này :

“Chúng tôi còn phải đi loan báo Tin Mừng tại các thành khác nữa. Chính vì thế mà chúng tôi đã được sai đến”.

  

  1. ANH EM

Cần Thơ, … 1971

Reng… Reng…

– Alô, nhà thờ Chánh Tòa tôi nghe.

– Cha Hậu đó phải không ?

– Thưa Đức cha, vâng.

– Cha lên Tòa Giám mục gặp tôi ngay bây giờ.

– Dạ.

Cầu thang Tòa Giám Mục làm bằng đá mài màu xanh trông thật mát mắt. Nhưng sao lòng mình chẳng dịu mát chút nào. Mình bước lên thật chậm như muốn níu kéo thời gian lại. Mình rón rén đến trước cửa phòng Đức Giám mục và gõ thật nhẹ. Hôm nay lần đầu tiên mình phải đối diện với Đức Giám mục. Chuyện gì sẽ xảy ra ? Chuyện vui thì chắc không phải, còn chuyện buồn thì là chuyện gì, tại sao ?

Có tiếng dép lê trên nền gạch bông, cánh cửa mở toang. Đức Giám mục cười vui vẻ :

– Ờ, Cha Hậu, ngồi xuống đây. Thuốc đây, cha hút đi. Cha hút thuốc lào thì thuốc này nhằm nhò gì.

Ngài đẩy cho mình gói Bastos xanh rồi e hèm lấy giọng. Thấy ngài cởi mở, nhịp tim mình bắt đầu trở lại bình thường.

– Cha xin đi truyền giáo thì tôi cho cha được toại nguyện. Có hai nơi tôi chọn làm thí điểm truyền giáo : một là Cái Tắc , hai là Năm Căn . Cha muốn đi nơi nào tùy ý cha.

Cái Tắc thì mình biết, vì chỉ ở cách nhà thờ Chánh Tòa 16 cây số và ở ngay bên quốc lộ. Còn Năm Căn thì mình không biết nó ở đâu. Máu anh hùng và máu giang hồ bốc lên ngùn ngụt. Mình trả lời ngay :

– Thưa Đức cha, con xin đi Năm Căn, nhưng thưa Đức cha, Năm Căn ở đâu ?

– Tôi cũng chưa biết, mới chỉ thấy nó trên bản đồ, cha ra ngoài này mà xem.

Ngài đưa mình ra coi cái bản đồ lớn bằng cái chiếu đôi, dựng ở ngoài hành lang. Ngài cúi xuống miền cực Nam, lấy ngón tay gí vào một vòng tròn nhỏ :

– Nó đây này. Tôi được báo cáo cho biết ở đây rất đông dân cư. Dân chúng rất nghèo và thất học. Cha xuống đó xem tình hình thế nào rồi mới tính được.

Hai cha con trở lại phòng khách. Lần dầu tiên mình được ngồi nói chuyện tâm tình với Đức Giám mục. Gói thuốc Bastos cứ vơi dần đi, còn tình cha con thì lại cứ cao đầy lên. Đức Giám mục kể chuyện đời mình, đời chủng sinh, đời linh mục, đời làm nhà giáo, đời làm Giám mục…

Năm Căn, đêm 19-10-1971

Giấc ngủ bị cắt đứt và chấm dứt bởi một giấc mơ.

Mình mơ thấy mẹ đang dúi vào tay mình một nắm tiền lẻ. Bà nhìn mình không nói một lời. Mẹ mình nghèo lắm. Thân hình bà tiều tụy và bé nhỏ. Cứ mỗi lần tựu trường, bà lại dúi vào tay mình một số tiền lẻ như thế. Có lẽ bà ki cóp cả năm trời mới có được ngần ấy tiền. Bà xấu hổ vì số tiền ấy quá nhỏ bé so với lòng thương lớn lao mà bà vẫn dành cho mình, một đứa con mà bà đã đặt nhiều kỳ vọng nhất.

Hình ảnh tiều tụy và bé nhỏ của mẹ, thái độ rụt rè đầy mặc cảm tự ti của bà làm mình khóc òa lên. Thế là giấc mơ chấm dứt. Nhưng dòng nước mắt lại tiếp tục trào ra, trào ra mãi không ngưng.

Có lẽ mình đã quên khóc từ trên hai chục năm rồi. Mình vẫn tự hào về điều đó. Thế mà hôm nay mình lại khóc và khóc quá chừng. Phải chăng cuộc đời của mình đã chuyển hướng ? Mình quen sống với lý trí và ý chí. Hôm nay con người mình đã nhão ra và buông theo tình cảm. Quả thế, khi đến với Năm Căn, mình đã tự nguyện chọn phần nhỏ nhất, hiên ngang húc đầu vào mọi thiếu thốn và thử thách. Nhưng từ ít lâu nay, con tim mình bắt đầu nhỏ lại, ti tiện và hẹp hòi. Mình bắt đầu so đo và phân bì với anh em về đời sống vật chất :

+ Nào là người ta có nhà cao cửa rộng, còn mình thì chỉ có túp lều lúp chúp.

+ Nào là người ta được ăn uống đầy đủ, còn mình thì cứ hát mãi cái điệp khúc “khô kèo chấm nước tương”.

+ Nào là người ta có đủ thứ ngân quỹ. Lộ phí đi tĩnh tâm hằng năm cũng được trích từ quỹ nhà xứ, còn mình thì cứ “trăm dâu đổ đầu tằm”, từ một viên thuốc cảm cho tới cái mùng, cái chiếu đều lấy từ trong túi rách mà ra.

+ Nào là người ta ở ngay trung tâm thành phố, muốn mua sách báo thì chỉ 5 phút sau là có, còn mình thì cả tháng trời mới có được một tờ báo cũ mèm.

+ Nào là ban đêm người ta ngồi coi tivi tỉnh bơ, còn mình thì phải đứng ngắm ánh hỏa châu, nơm nớp lo sợ.

+ Nào là người ta thì được giáo dân cung phụng đủ thứ : từ món “đết-xe” ngọt lịm trên bàn ăn, cho tới chiếc xe “ếch-bà” chạy phom phom trên xa lộ, còn mình thì phải đi xin từng lon gạo để nuôi cán bộ truyền giáo. Ôi lon gạo truyền giáo, mi đày đọa ta biết bao nhiêu !

Bây giờ mình mới hiểu thấm thía câu nói của Đức Giám mục : “Tôi không dám sai các cha đi truyền giáo, vì cuộc đời truyền giáo gian khổ lắm” . Mình không sợ gian khổ, nhưng mình không ngờ rằng gian khổ đang gặm nhấm đời mình và đang biến mình trở thành con người ti tiện và hẹp hòi. Mình thoáng nảy ra ý nghĩ “đào ngũ”, thì bỗng có tiếng ú ớ ở trong mùng bên cạnh. Mình lấy đèn pin rọi sang, thì Mai, người bạn đồng hành của mình đang cụ cựa trở mình, rồi lại chìm vào giấc ngủ yên lành.

Mai là người bạn đồng hành bất đắc dĩ. Mình còn nhớ cuộc đối thoại hôm ấy ở Tòa Giám mục. Đức cha Quang nói :

-Tôi cho cha chọn bất cứ Cha nào hợp tánh với cha để đi truyền giáo ở Năm Căn.

– Thưa Đức cha, con biết đi Năm Căn là phiêu lưu lắm, xin Đức cha cho con đi một mình để thử xem sao đã.

– Không được. Phải có hai cha mới được.

– Vậy thì xin Đức cha cho con cha Mai. Con thấy cha Mai hiền, có thể hợp với con. Nhưng thưa Đức cha, cha Mai mắc bệnh bao tử.

Mình quí mến Mai, một người anh em linh mục hiền hòa và trầm tĩnh. Nhưng mình lại không muốn Mai đi với mình, sợ rằng mình sẽ trở thành kẻ mang bất hạnh đến cho anh em. Mình cố tình khai bệnh bao tử của Mai để dồn Đức cha vào chân tường mà cho mình “đơn thương độc mã”. Thế nhưng Đức cha vẫn liều mạng cho Mai đi Năm Căn với mình. Bây giờ thì Mai đang ở đó, đang ngủ yên lành, còn mình thì đang manh nha tư tưởng “đào ngũ”.

Mai mến,

Tôi xin lỗi anh, bởi tại tôi mà anh phải sống khốn khổ giữa mảnh đất “khỉ không dám ho, cò không dám gáy” này ! Nhưng tôi xin cám ơn anh bởi anh đang là đề tài suy nghĩ lớn cho tôi. Để hiểu thế nào là giá trị của sự hiện diện của anh, tôi tự đặt câu hỏi : “Nếu không có anh, thì tôi sẽ ra sao ? “.

Đức Giêsu, Thầy Chí Thánh của chúng ta đã sai từng hai người lên đường truyền giáo. Chắc hẳn Thầy của chúng ta nhắm nhiều mục đích khác nhau :

1- Hai người cùng rao giảng một lời, lời ấy là sự thật. Đó là luật và luật ấy đã đi vào văn hóa dân tộc Do Thái.

2- Hai người cùng làm một việc, việc ấy là việc của tập thể. Giáo hội là một tập thể. Giáo hội là phổ quát. Nếu chỉ có một người lập giáo điểm, người ấy sẽ múa gậy rừng hoang, sẽ biến giáo điểm thành tư hữu, hay ít nhất người ấy sẽ có cảm tưởng mình là mọi sự. Như vậy Giáo hội mà người ấy xây dựng sẽ đánh mất tính phổ quát là một đặc tính quan trọng của Giáo hội.

Mai mến ,

Nếu không có anh, tôi sẽ là anh hùng cát cứ một cõi; tôi sẽ độc đoán; tôi sẽ biến giáo điểm thành tôi và tôi thành giáo điểm. Như thế thì còn gì là truyền giáo.

3- Sách Chiến quốc nói : “Khi hai người cùng lo một việc, họ sẽ yêu nhau; khi hai người cùng hưởng một quyền lợi, họ sẽ ghét nhau”. Anh và tôi cùng chia nhau kiếp sống gian khổ, cùng chia nhau trách nhiệm nặng nề. Gian khổ ấy và trách nhiệm ấy bỗng trở nên êm ái hơn, nhẹ nhàng hơn. Còn quyền lợi thì chúng ta chẳng có để mà giành giật, để mà ghét nhau.

Mai mến,

Nếu không có anh ở đây, liệu tôi có đủ sức tiếp tục sứ mạng mà Chúa Thánh Thần trao phó hay không ? Nếu không thấy anh nằm ở đó, đang thở đều đều trong một giấc ngủ yên lành, liệu tôi có đủ can đảm để bỏ đi cái ý nghĩ “đào ngũ” vừa mới manh nha không ? Thấy anh trong giáo điểm, tôi cảm thấy yên tâm. Thấy anh ở đó, lòng tôi vơi đi bao nỗi phiền muộn giày vò. Thấy anh ở đây, dòng nước mắt tủi hận không còn tuôn trào nữa.

Đêm nay tôi thao thức không ngủ, nhưng đêm mai tôi sẽ ngủ một giấc thật ngon, bởi vì tôi biết rằng anh vẫn ở đó, ở ngay bên cạnh tôi…

Mai mến,

Trời gần sáng rồi. Anh có biết không, nước thủy triều đã tràn vào nhà chúng ta. Đôi dép của anh, đôi dép của tôi đều đã theo nhau trôi dạt về một góc. Lát nữa khi anh thức dậy, anh sẽ ngẩn ngơ vì mất dép; anh sẽ bàng hoàng vì phải lội bì bõm ngay trong nhà của chúng ta. Nhưng cả hai chúng ta sẽ hưởng một trận cười giòn giã, để đón chào một ngày mới.

  

  1. NHỚ VỀ NĂM CĂN

Cái Keo, … 1973

Hôm nay mình đi thăm bà con để tìm hiểu “nhân tình thế thái” . Vợ chồng anh M. đóng một cái đáy nho nhỏ sát mí bờ sông. Họ đến đây với hai bàn tay trắng. Họ vay tiền để sắm dụng cụ làm ăn.

– Anh chị vay bao nhiêu để đóng cái đáy này ?

– Mười ngàn. Cái đáy nhỏ xíu à. Mỗi ngày kiếm được chừng một ngàn, đủ sống qua ngày.

– Người ta cho anh đóng tiền lời một tháng bao nhiêu ?

– Cứ mỗi ngày đưa cho người ta ba trăm đồng.

– Mỗi ngày ba trăm đồng. Ba mươi ngày thành ra chín ngàn đồng. Như vậy là anh chị chịu lời chín mươi phân một tháng. Chưa từng có trên thế giới !

Trên đường trở về nhà, mình băn khoăn suy nghĩ về vấn đề xã hội tại miền cuối Việt này. Tại sao chủ nợ lại đang tâm cho vay ăn lời chín mươi phân ? Và tại sao chủ nợ siết cổ như vậy, mà con nợ vẫn sống tỉnh queo ?

Mình phân tích sự kiện theo phương pháp kinh viện : TẠI SAO ? BỞI ĐÂU ? ĐỂ LÀM GÌ ? … và cuối cùng mình khám phá được bí ẩn này như sau :

1- Ở Năm Căn dễ sống lắm. Xách cái xuồng đi quăng chài chừng ba tiếng đồng hồ cũng kiếm được vài chục ký tôm. Chỉ cần một cái xuồng be bảy vô rừng bắt vọp, ốc len, ba khía… cũng dư sức nuôi năm miệng ăn. Với mười ngàn đồng tiền vốn mà mỗi ngày kiếm được trên dưới một ngàn đồng. Như vậy có nghĩa là: một vốn đẻ ra ba lời / 1 tháng. Nói cách khác, đó là doanh nghiệp có lãi suất ba trăm phần trăm / 1 tháng.

2- Cho vay lấy lời chín mươi phân chưa phải là bóc lột, vì để có được số lời đó chủ nợ phải đi đòi ba mươi lần mỗi tháng. Nhiều khi phải năn nỉ ỉ ôi. Lắm lúc phải chửi thô tục mới thấy tiền từ trong túi con nợ lòi ra. Mà tiền công chửi thì vô giá ! Ấy là chưa kể con nợ có thể trốn đi trước khi thanh toán số tiền vốn. Họ chỉ để lại một cơ ngơi gồm : cái chòi rách và cái chổi cùn… Công bằng xã hội ơi! Thế nào là bóc lột? Thế nào là công bằng?

——————————————————————————–

Năm Căn, …. 1976

Hôm nay mình trở lại Năm Căn cùng với một lô những ông bạn tò mò. Trước hết chúng mình đến thăm ông Tư Đức. Giáo điểm Năm Căn đã đóng cửa được một năm rồi, mà trên vách ván nhà ông Tư vẫn còn những câu Phúc Âm in đậm nét phấn. Hạt giống Tin Mừng đã gieo xuống mảnh đất này từ năm năm qua, hôm nay vẫn còn đó, bất chấp nắng hạn. Nhưng rồi ngày mai, ngày mốt, và nếu thời gian cứ chồng chất, thì số phận của hạt giống sẽ ra sao ? Mình gởi gắm Năm Căn cho Chúa Thánh Thần.

Buổi chiều, tụi mình vô thăm rẫy. Dưa hấu và dưa hấu. Vô nhà nào cũng thấy một mâm dưa hấu.

– Ăn đi ông cha! Ăn hết mới được về.

– Chắc tôi chết quá!

– Còn một nồi cháo vịt nữa. Thấy bóng ông cha ở bên đó, thì bên này tôi bắt đầu mần vịt. Gặp ông cha, tôi mừng hết biết. Tưởng không bao giờ còn gặp lại ông nữa.

Chỉ trong vòng ba tiếng đồng hồ, tụi mình phải thanh toán hết ba nồi cháo vịt và hằng chục mâm dưa hấu. Người Năm Căn như thế đó. Ăn cho “chết” để có tình. Uống cho “chết” để làm anh em. Chất phác, cuồng nhiệt, và dễ thương.

——————————————————————————–

Cái Rắn,… 25-11-1995

Sáng nay mình đi làm lễ giỗ ở Rạch Ruộng. Chiều về đi làm lễ giáp tuần cho bà Năm Hơn. Lễ xong mình ở lại tâm tình với tang quyến. Chuyện buồn quá !

Bà Năm Hơn đi thăm con ở Năm Căn. Hai giờ khuya ngày 20-11-1995 bà giục con đưa bà ra vàm Ông Do để đón tàu về Cái Rắn.

– Còn sớm quá mẹ ạ!

– Vừa rồi đấy !

Mẹ con giằng co một hồi. Chiếc xuống be mười đưa bà Năm ra vàm, theo nhịp chèo uể oải của đứa con gái đang hờn dỗi. Đêm 27, ánh sao mờ nhạt khiến đêm đã tối lại càng tối hơn. Nước ròng chảy siết, đổ ra vàm cuồn cuộn như thác.

– Tới vàm rồi. Mẹ ngồi vững nghe. Nước đạp dữ lắm đó. Chỗ này có nhiều người chết chìm…. Chúa ơi ! Xuồng tấp vô hàng đáy rồi mẹ ơi !… Bớ bà con ơi !… Mẹ ơi !… Mẹ ơi !…

Bà Năm lặng lẽ chìm xuống dòng sông lạnh. Tiếng con bà gào lên thảm thiết xé toạc màn đêm yên tĩnh. Vài chục ánh đèn pin lóe lên một cách tuyệt vọng. Ba giờ ba mươi sáng ngày 20-11-1995.

– Bốn mươi tám giờ nữa xác mới nổi lên. Sông Cửa Lớn dữ dằn lắm, chẳng mò được đâu. Đành chờ thôi. Một người đàn ông đứng tuổi góp ý chắc nịch như thế.

Những bàn chân to bè và thô nhám lặng lẽ rời khỏi căn trại đáy. Vàm Ông Do chỉ còn lại đêm tối rùng rợn và tiếng khóc tuyệt vọng …

Sau câu chuyện buồn, người ta thi nhau ca tụng tấm lòng vàng của người Năm Căn :

– Bà con vàm Ông Do quyên được 590.000 đồng. Châm xăng cho người ta đi kiếm xác hai ngày hết 200.000 đồng. Còn dư 390.000 đồng đưa cho thân nhân đem về Cái Rắn.

Chủ hàng đáy nấu cơm nuôi những người đi kiếm xác. Đãi cơm luôn cả thân nhân ở trên này xuống. Việc của mình mà người ta lo hết trơn.

Dân chính ấp Hàng Vịnh và Chữ Thập đỏ thị trấn Năm Căn đứng ra lo giùm mình từ đầu đến cuối. Nào là bổ người đi kiếm xác. Nào là quyên tiền… Họ tốt thiệt tình !

Nếu một sự cố tương tự xảy ra ở Cái Rắn này, thì nhắm chừng họ đạo Cái Rắn có thể làm được như bà con ở Năm Căn không ? Mình hỏi thử mọi người như thế. Người ta chỉ cười trừ. Thảo nào ngày xưa Chúa đã phải thốt lên những lời cay đắng :

“Tôi chưa thấy một niềm tin nào như thế trong dân tộc Ít-ra-en”.

“Tại sao chỉ có một người này trở lại tôn vinh Thiên Chúa ? Mà người này lại là người ngoại ?”

Bị xúc động bởi những tấm lòng vàng ấy, mình bèn viết một lá thư ngỏ gửi về mảnh đất Năm Căn yêu dấu.

Năm Căn yêu dấu ơi !

Ta biết Năm Căn từ đầu năm 197. Nhưng mãi tới ngày 24-5 năm ấy ta mới thực sự đặt chân lên đất Năm Căn. Ta yêu Năm Căn từ thuở ấy. Nhưng Năm Căn lúc ấy còn xơ xác lắm. Một nhạc sĩ nào đó đã sáng tác tại chỗ một bài ca lấy tựa đề “Năm Căn, nơi lưu đày”. Anh chàng nghệ sĩ ôm cây đàn ghi-ta, đu đưa cái đầu trọc lóc, than khóc cho thân phận éo le của mình. Anh than khóc vào đúng một đêm Noel. Đêm Noel năm ấy không bừng sáng dưới ánh đèn muôn sắc, mà chập chờn dưới ánh hỏa châu giăng mắc.

Cũng đúng thôi, vì Năm Căn lúc ấy là Năm Căn của thời chiến. Chiến tranh siết lấy Năm Căn như một sợi dây thòng lọng. Rừng Năm Căn bị cày lên bởi pháo 41 và 105. Đước Năm Căn bị phang xơ xác bởi đại liên 50 và 60. Người Năm Căn nghèo te tua như cánh rừng bị bỏ thuốc khai quang. Nhưng ta vẫn yêu Năm Căn và muốn mãi mãi là người Năm Căn …

Thế rồi ngày 14-6-1975, ta phải miễn cưỡng giã từ Năm Căn với bao nhiêu là thương tiếc. Thân xác ra đi, nhưng lòng ta vẫn ở đó. Ta đã thấy rừng đước Năm Căn biến thành rẫy bí, rẫy khoai… bạt ngàn. Rồi ta lại thấy rẫy rừng biến thành vuông tôm mênh mông. Ta đã thấy Năm Căn giàu lên như diều gặp gió với những tiệm vàng và tiệm đồng hồ san sát bên nhau, với những cô gái vàng đeo đỏ người. Ta cũng đã thấy những tháng ngày chợ Năm Căn ế ẩm như nồi cháo thiu, vì tôm chết và chết không ngừng. Hôm nay, sau cái chết của bà Năm Hơn, lòng ta lại rộn lên lòng thương mến Năm Căn. Ta muốn đến tận vàm Ông Do để nói lên lòng biết ơn và cảm mến đối với nhân dân, chính quyền và Chi Hội Chữ Thập đỏ Năm Căn. Ta muốn siết tay người chủ hàng đáy có tấm lòng nhân ái còn lớn hơn cả dòng sông Cửa Lớn.

Năm Căn ơi ! Hẹn ngày tái ngộ nhé !

  1. ĐI TÌM THỢ GẶT

Cần Thơ, … 1973

Hôm nay mình ghé dòng Mến Thánh Giá Sóc Trăng. Chị Bề Trên đón tiếp mình một cách niềm nở như đón một người chiến sĩ chiến thắng trở về. Chị luôn miệng ca tụng thành tích truyền giáo tại Năm Căn, và chị cũng mơ ước được đi truyền giáo. Mình mở cờ trong bụng : “Thế nào cá cũng cắn câu”.

Công tác truyền giáo ở Năm Căn cứ mọc lên như nấm. Tôi mới mở thêm một giáo điểm. Nhưng còn thiếu cán bộ. Hiện nay đã có các chị Bác ái Vinh Sơn, dòng Ba Nam, Tu hội Tận hiến, Thừa sai Lái Thiêu, Tu sĩ Truyền giáo, sinh viên Đại Chủng Viện, nhưng vẫn không đủ. Lúa chín thì nhiều quá lẽ, mà thợ gặt thì ít xịt. Vậy xin chị cho Dòng Mến Thánh giá góp mặt với tụi tôi.

– Cha muốn xin mấy chị ?

– Càng nhiều càng tốt. Tối thiểu là hai.

– Thưa cha, xin cha thông cảm. Dòng chúng con còn ít người lắm. Vả lại các em còn non nớt quá, chúng con không dám cho các em đi xa. Hiện nay Khúc Tréo là địa điểm xa nhất rồi.

– Nếu năm nay không được, thì năm tới vậy nhé !

– Thưa cha, năm năm nữa cũng chưa được.

Mình hiểu ý “năm năm nữa” có nghĩa là “chẳng bao giờ”.

Thái độ niềm nở và nụ cười tươi như hoa của chị Bề trên bây giờ chỉ còn là nỗi tuyệt vọng. Mình cáo từ ra về, tiu nghỉu như con mèo bị cắt tai. Phía sau lưng mình dường như nụ cười của chị Bề trên vẫn còn đang nở. Người phụ nữ nào cũng có lòng mẹ. Lòng mẹ nào cũng bao la như biển Thái Bình. Họ nâng con như trứng, hứng con như hoa. Con họ lớn cồ cồ ra rồi, mà họ vẫn tưởng nó còn là con nít.

Mình nhớ lại một buổi sáng nọ, Chúa tập trung 72 đệ tử trước mặt, để đọc lệnh lên đường. Họ chưa được đào tạo. Chính Chúa cũng phải xác nhận rằng : “Thầy sai chúng con đi như những con chiên đi vào giữa bầy muông sói”. Dù thế Ngài vẫn sai họ lên đường bởi lẽ có Chúa và “nghề dạy nghề”. Nghĩ vậy thôi, chứ mình cũng biết rằng chẳng có bề trên nào dám làm như vậy.

——————————————————————————–

Năm Căn, … 1973

Mình nhận được lá thư của một vị Bề trên. Thư như sau :

Cha Hậu mến,

Cám ơn cha có lòng tín nhiệm xin dòng chúng tôi cộng tác với cha trong công tác truyền giáo ở Năm Căn. Chúng tôi không có sẵn người, nhưng tiện đây có hai em dự tu có thiện chí, có trình độ tú tài, xin gởi đến Năm Căn để học nghề với cha. Xin cha nhiệt tình giúp đỡ hai em…

Trình độ tú tài, có thiện chí, có nguyện vọng đi tu. Mình lại đang thiếu người. Thế là buồn ngủ gặp được chiếu manh. Còn hơn thế nữa : Mèo mù vớ được cá rán. Mình gởi hai em về ngay Đồng Cùng, một giáo điểm vừa được thành lập.

——————————————————————————–

Đồng Cùng, … 1973

Mình ghé Đồng Cùng xem giáo điểm tiến hành ra sao. Thầy Nam báo cáo là mọi sự tốt đẹp. Học sinh đông và ngoan. Tương quan với phụ huynh và địa phương là tốt, nhưng có một điều đang gây xôn xao, đó là hai cô giáo mới của giáo điểm đang gây ra một đống chuyện ghen tương, lườm lườm, nguýt nguýt. Mình nghĩ bụng, nếu trái bom này nổ ra, thì hai cô giáo của mình chỉ là nạn nhân hơn là nguyên nhân. Họ là món ăn lạ trên một mâm cơm bình thường.

Thôi được, để mình chuyển hai cô này về Năm Căn, ngừa bệnh hơn là trị bệnh.

——————————————————————————–

 

Năm Căn, … 1974

Một người đàn bà dự tòng đến than phiền :

– Thày B. uống rượu với thanh niên. Say xỉn quá coi không được cha ơi !

– Cám ơn, tôi sẽ kiểm điểm việc này. Nhờ bà con cũng khuyên lơn các thày giùm tôi. Cũng chỉ là vui với đám trẻ thôi. Nhưng đôi khi quá trớn làm mất tư cách.

Chúa ơi, lúa chín thì nhiều, thợ gặt thì ít, mà còn say xỉn như thế này, thì chuột chim ăn hết mất. Ở đây công việc truyền giáo đầy gian khổ, thiếu tiện nghi, thiếu an ninh xã hội, thiếu người… bây giờ lại thiếu cả đạo đức nữa !

——————————————————————————–

Năm Căn, … 1974

Chiều nay mình ngồi tâm sự với anh em giáo điểm Đồng Cùng. Công việc truyền giáo ở đây rất khả quan. Cán bộ phụ trách tới ba địa điểm. Nhiều người hứa theo đạo. Uy tín của trường học lên rất cao. Cán bộ cũng chấp nhận thiếu thốn một cách vui vẻ. Vài chuyện hờn dỗi vụn vặt không đáng kể.

Lương Quang Chung, một người anh em rất nhiệt thành và chân tình đã ném cho mình một câu nói không cần gọt giũa :

– Việc nào của cha con cũng chịu thua hết, nhưng có một cái con không chịu được, đó là cha tuyển chọn cán bộ ẩu vô cùng.

Mình im lặng suy nghĩ. Chắc hẳn có một số khuôn mặt cán bộ truyền giáo gây cho Lương Quang Chung nhiều nỗi thất vọng. Mình chỉ buồn tiếc. nhưng không hối hận. Niên khóa 74-75 này có gần 50 cán bộ gồm : đại chủng sinh, nam nữ tu sĩ, một số giáo dân, một dự tòng.

Chủng sinh và tu sĩ do Đức Giám mục và Bề trên Dòng gởi đến, mình không cần tuyển lựa. Đó là của trời cho rồi. Giáo dân thì toàn là cô giáo. Hầu hết được gởi nhờ Nữ tử Bác ái dạy cắt may, gia chánh và đồng thời nhờ các xơ xem khoang khoáy giùm. Một số khác do các cha sở giới thiệu có “đính kèm ghi chú”.

Nghĩ thế, mình yên tâm, vì không thể làm hơn được.

Tuy nhiên vẫn phải rà lại Phúa Âm để xem Đức Giêsu đã tuyển chọn, đào tạo và sử dụng cán bộ thế nào ?

1- Tiêu chuẩn.

Người ta thường có hai tiêu chuẩn căn bản để chọn cán bộ, đó là tài và đức. Tiêu chuẩn của Chúa thì hoàn toàn bí mật, chỉ một mình Máccô bật mí được một tí, một tí thôi : “Ngài gọi đến với mình những người Ngài muốn” . Nhưng tại sao Ngài muốn ?Chúa biết!

Nếu xét về tài đức thì mình chỉ thấy : Nathanael “người Israel chân chính không hề gian dối” , Philíp và Anrê năng nổ và nhiều xã hội tính; Gioan có óc quan sát tuyệt vời; còn Phêrô thì nông nổi và thiếu lập trường; Mátthêu mang theo một lý lịch đen, người thu thuế, người bị vạ tuyệt thông cách ly; Tôma thiếu xã hội tính, co quắp và gàn dở; Giuđa Ixcariốt thì “trời ơi đất hỡi”, một tên ăn cắp, một tên phản trắc.

2- Đào tạo.

Chúa không có trường lớp. Tất cả chỉ là “đời dạy đời”, “nghề dạy nghề”. Chúa không có thời giờ bao nhiêu để dạy, nhiều khi thiếu cả thời giờ để ăn uống và nghỉ ngơi, khiến thân nhân muốn lôi Chúa về (Mc 3,20-21). Những buổi tối Chúa đi cầu nguyện thì môn đệ ngủ, kể cả trên núi biến hình, thậm chí kể cả trong v­ườn Cây Dầu. Môn đệ Chúa không biết ăn chay, không biết cầu nguyện, thua cả môn đệ của Gioan Tẩy giả (Lc 11,1).

3- Sử dụng.

Chúa sai các tông đồ “lên đường” ngay khi hành trang của họ còn lép kẹp. “Thầy sai chúng con đi như những con chiên đi vào giữa bầy muông sói” . Tác phong họ vẫn còn thấp, nên vì họ mà Chúa thường bị mắng vốn : “Biệt phái ăn chay, môn đệ Gioan ăn chay. còn môn đệ của Thầy thì…” . Ngay trong phòng tiệc ly họ vẫn còn nhen nhúm giành địa vị cao thấp trong Nước của Chúa, Nước mà họ vẫn hiểu theo nghĩa trần tục.

4- Kết quả.

Trên đường truyền giáo họ vẫn thu lượm kết quả hết sức khả quan, khiến Chúa phải thốt lên : “Ta thấy Satan sa xuống như một lằn chớp” (Lc 10,18). Nhưng đó là kết quả về công việc truyền giáo, còn về người truyền giáo thì Chúa không thành công bao nhiêu.

– Nhóm 12 thì mất đứt 8,3%.

– Nhóm 72 thì kể như tan rã hoàn toàn (Ga 6,66). Dường như chỉ còn sót lại 5,5% đó là Giuse và Mátthia trong Cv 1,21-23, Clôpas và bạn đồng hành đi Emmau.

Chúa ơi, anh em bảo con là tuyển chọn cán bộ ẩu vô cùng. Bây giờ rà lại hai nhóm môn đệ của Chúa, đặc biệt là nhìn lại Giuđa Ixcariốt, con thấy Chúa cũng… vô cùng. Vậy xin mời Chúa đến nói chuyện và trả lời cho anh em của con.

  1. HOÀ NHẬP VÀO MÔI TRƯỜNG TRUYỀN GIÁO

Năm Căn, … 1973

Sáng nay mình đến Chà Là để tìm manh mối lập một giáo điểm. Chà Là được coi như một trung tâm giao lưu quan trọng. Tàu đò từ Cà mau đi về hướng Nam và ngược lại đều ghé qua đây. Mình nhờ một ông chủ tàu đò liên lạc mời một số thân hào nhân sĩ đến tọa đàm tại một quán giải khát.

Trước mặt mình là một cử tọa trên dưới 50 tuổi. Mọi ánh mắt nhìn về mình. Không ai quen thân. Mình tự giới thiệu là một linh mục truyền giáo rất say mê làm nghề giáo. Mình ngỏ ý muốn mở một trườngï học và muốn trình bày giáo lý của đạo Công giáo. Cuối cùng mình xin mọi người góp ý. Không ai nói một lời nào. Mình bị hẫng. Bầu khí im lặng trở nên trơ trẽn và lố bịch.

Mình ghé tai nói nhỏ với ông chủ tàu đò, người quen duy nhất. Ông bưng đến một ly cối rượu đế. Mình nâng cao ly đế và ngỏ lời :

– Lần đầu tiên tôi được hân hạnh gặp mặt quý vị. Để ghi nhớ ngày này, tôi xin được phép uống với quý vị một ly rượu làm quen.

Mình uống một miếng nhỏ, rồi chuyền ly rượu theo kim đồng hồ. Hơn 30 người uống cạn một ly. Bầu khí vẫn im lặng một cách lạnh lùng.

Mình lại ghé tai ông chủ tàu đò. Lại một ly cối rượu đế nữa và lại quay theo vòng kim đồng hồ.

Ánh mắt mọi người bỗng trở nên thân thiện. Nhiều cánh tay giơ lên xin phát biểu ý kiến.

Buổi tọa đàm kết thúc. Cử tọa mời mình đi thăm một miếng đất mà họ đề nghị là nên cất trường tại đó. Thế là giáo điểm Chà Là bắt đầu thành hình.

Rượu ơi ! Mi làm tan nát cuộc đời, nhưng mi cũng làm hoan hỉ lòng người. Cám ơn mi, vì nhờ mi mà giáo điểm Chà Là đang có thời cơ ra chào đời.

——————————————————————————–

Ban Mê Thuột, …1973

Mình đến thăm ông bạn Y.Xuăn tại Buôn Kpung, cùng với một số anh em truyền giáo Năm Căn. Y.Xuăn bê ra một vò rượu cần. Mọi người nhìn nhau bỡ ngỡ. Uống hay không uống ? Uống thế nào ? Sạch hay dơ ? Say hay không ?

Cuối cùng thì mọi người đều vui vẻ vít cần xuống làm một hơi, vì đó là lịch sự, là tình anh em.

Cũng trên vùng đất này mình được nghe người ta kể về chuyện truyền giáo. Có vài người sắc tộc Rađê và Bana được phong chức linh mục. Nhưng sau đó không thấy có người sắc tộc nào được phong chức nữa. Người ta đồn rằng Đức Giám mục Kontum hối hận vì đã phong chức linh mục cho người sắc tộc, bởi sau khi thụ phong linh mục, các ngài trở về buôn, lại tiếp tục đóng khố và uống rượu cần như mọi người. Tin đồn còn cho biết ngài thề sẽ chỉ phong chức linh mục cho những người sắc tộc được nuôi dạy từ lớp vườn trẻ.

Nếu quả tin đồn ấy là đúng, thì mình tự hỏi :

1- Đóng khố và uống rượu cần giữa các sắc tộc miền cao này có nghịch với ơn gọi và chức năng linh mục không ?

2- Quyết tâm đào tạo ơn gọi linh mục cho miền cao nguyên bằng cách nâng trình độ văn hóa ứng sinh linh mục tới mức độ không còn đóng khố và uống rượu cần, thì là nhân danh văn hóa hay nhân danh Tin Mừng ?

Quả thật các vị thừa sai nước ngoài đã cống hiến cho sự nghiệp truyền giáo trên mảnh đất này bằng biết bao mồ hôi nước mắt và máu đào. Sự hy sinh của các ngài thật là lớn lao. Thế nhưng phương pháp truyền giáo của các ngài vẫn không lớn lao ngang với tầm cỡ của sự hy sinh.

Rồi mình tự nghĩ, trong sự nghiệp truyền giáo của mình đã có và sẽ còn có bao nhiêu thiếu sót, bao nhiêu lỗi lầm ?

——————————————————————————–

Bến Bọng, … 4-1975

Sáng nay mình tản bộ trên mảnh sân nhỏ. Mình đi tới đi lui và lần hạt. Cứ mỗi lần tới đầu sân rồi quay gót, thì đám nhí đứng rình ở gốc dừa lại cười hí hí… Một lát sau bà chủ nhà hỏi vọng ra:

– Anh Tám làm gì mà cứ đi tới đi lui hoài vậy ?

– Tôi đọc kinh, chị ạ.

– Đọc kinh thì vô nhà ngồi mà đọc, ai lại đi tới đi lui kỳ vậy ?

Thầy của mình vẫn vừa đọc sách nguyện, vừa đi tới đi lui trên hành lang dài hun hút. Thầy của mình cũng vừa lần hạt vừa đi dạo trên sân chủng viện. Mình cũng vẫn làm như thế. Đó là hình ảnh quen thuộc mà không một linh mục, một tu sĩ, hoặc một tín hữu nào lấy làm lạ. Bỗng hình ảnh thân thuộc ấy hôm nay lại trở thành trò cười cho trẻ nít và cho bà chủ nhà, người đang có nhiệm vụ quản lý mình.

Mình còn nhớ cách đây ít bữa bà chủ nhà tâm sự với mình:

– Tôi thấy đạo của anh cái gì cũng hay, mà có một cái tôi không chịu, đó là đi vệ sinh cũng đọc kinh.

Thì ra một lần nào đó bà thấy một người công giáo đi vệ sinh vào giờ ngọ. Đúng lúc đó, thì bỗng nghe tiếng chuông “nhật một” từ xa vọng lại….

Vừa đi dạo vừa cầu nguyện, vừa đi vệ sinh vừa đọc kinh, thì có gì là xấu ? Nhưng trình bày Tin Mừng như thế cho người dân ở đây thì có phải là hội nhập văn hóa không ? Mình cảm thấy lúng túng, bèn viết một lá thư ngỏ gởi Thánh Phaolô, vị tông đồ dân ngoại.

Bố kính mến,

Con đang thơ thẩn truyền giáo trên một diện tích thật nhỏ. Con tự ví mình như một con chim cu đang gáy cúc cu trong một cái lồng bít bùng. Chỉ trong một diện tích nhỏ mọn như thế mà con đã cảm thấy lúng túng vô cùng. Tiếng gáy cúc cu của con bỗng trở nên lạc điệu một cách buồn cười.

Con cảm thấy con giống bố quá chừng. Những ngày ấy bố phải trốn khỏi xứ Makêđônia, để một mình thơ thẩn ở Atêna. Bố đi dạo phố. Bố ngứa mắt vì phải thấy các pho tượng dựng lên khắp nơi trên các đường phố. Bố là người Do Thái, bố là người biệt phái, bố ghét ảnh tượng như tà ma. Bố không hòa nhập được vào tâm hồn của người Atêna. Atêna là trung tâm nghệ thuật. Người Atêna say mê nghệ thuật, nghệ thuật hiện thực. Cái làm cho họ say mê, thì lại làm bố nổi giận (Cv 17,16). Bố bóp trán suy nghĩ, bố vận dụng triết học để quật ngã bọn trí thức đa thần trên đồi Arêôpagô. Nhưng kết quả hôm đó chỉ là một kỷ niệm buồn (Cv 17,32-34). Con hiểu bố và xin chia sẻ với bố trong chuyến đi bất đắc dĩ này. Bố là con chim gáy lạc điệu trong cái lồng Atêna. Con mừng vì bố thất bại. Chỉ khi thất bại, thì bố mới giống con, gần gũi và thân thương với con. Những thành công của bố chỉ làm con nản lòng và thất vọng. Con thật lòng nói thế. Bố đừng giận con nhé.

Con của bố.

P.H.

  

  1. NGƯỜI HÀNH KHẤT

Cà Mau, 15-7….

Mình bắt tay giã từ Mai.

– Kỳ này mình đi lâu mới về, anh quán xuyến mọi chuyện nhé.

– Gần hết gạo rồi, anh mua thêm cho một tạ, gởi tàu đò đem về giùm. Anh mua gạo ngon ngon một chút. Thức ăn kém quá, gạo xấu nuốt không trôi… Mai vừa nói, vừa cười, vừa lấy hai tay xoa bụng. Đó là tập tính của anh.

Ra tới Cà Mau, mình ghé ngay tiệm gạo :

– Gạo hạt dài, bao nhiêu một tạ, chị ?

– Tám ngàn.

– Còn gạo hạt tròn ?

– Năm ngàn.

Gạo hạt dài là gạo mà Mai nói là “ngon ngon một chút”, còn gạo hạt tròn là “gạo xấu nuốt không trôi” . Mình cầm mớ tiền trong tay đếm qua đếm lại, tính tới tính lui. Mua gạo ngon thì thiếu tiền xe. Mua gạo xấu thì tội nghiệp anh chị em trong giáo điểm. Cuối cùng mình buột miệng nói với chủ tiệm :

– Chị bán cho tôi một tạ gạo hạt tròn.

——————————————————————————–

Sài Gòn, 16-7…

Đêm qua mình trằn trọc khó ngủ. Vào phút sám hối trước giờ kinh tối, tạ gạo hạt tròn làm lương tâm mình ray rứt. Mình đã không mua cho anh chị em được một tạ gạo ngon. Giờ này tạ gạo hạt tròn đã tới giáo điểm rồi, Mai sẽ nghĩ gì về mình ? Một người anh keo kiệt, tàn nhẫn ? Một người anh bất lực ? “Thức ăn kém quá, gạo xấu nuốt không trôi”. Mai nói rất đúng. Có những bữa ăn chỉ đơn độc một đĩa cá đối kho, hoặc một tô cá kèo kho. Tuyệt nhiên không có một cọng rau xanh ! Mình vẫn hãnh diện về cuộc sống khó nghèo. Nhưng sự nghèo khó hôm nay đã trở thành nỗi tủi nhục của riêng mình.

Mình chưa bao giờ ngửa tay xin tiền ai và mình cũng chỉ nhận tiền giúp đỡ từ tay những người thân nhất. Giờ này mình lại quyết tâm đi ăn xin, ăn xin cho giáo điểm. Ăn xin là nhục, nhưng để anh chị em trong giáo điểm sống cực quá, mình còn thấy nhục hơn. “Thức ăn kém quá, gạo xấu nuốt không trôi”…

Bỗng trong đầu mình lóe lên một hào quang. Đó là lời tâm sự của Đức Phaolô VI trong một lá thư truyền giáo mà mình còn nhớ gần như nguyên văn :

“Hàng Giám mục chúng tôi không xấu hổ khi phải ngửa tay xin anh chị em giúp đỡ cho công việc truyền giáo. Đức Giêsu, Thầy của chúng ta đã từng mượn cái thuyền của Simon để ngồi giảng, mượn con lừa ở Bétphagiê để vào Giêrusalem, mượn căn nhà của bà Maria để làm phòng tiệc ly. Và cuối cùng, Ngài đã được an táng trong ngôi mộ của một người bạn”.

Đang như con gà bị cắt tiết, mình giãy giụa rồi đứng vùng lên một cách hiên ngang. Mình sẽ chìa tay xin bất cứ ai và bất cứ nơi nào, không hề xấu hổ, không hề tủi nhục. Truyền giáo là bổn phận của mọi người. Giúp đỡ vật chất cho người truyền giáo cũng là bổn phận của mọi người. Mình sẽ làm ng­ười hành khất, người hành khất hiên ngang tạo thời cơ thuận lợi để mọi người tham gia vào công tác truyền giáo. Người­ xin và người cho đều là thợ gặt trên cánh đồng truyền giáo.

——————————————————————————-

Sài Gòn, 17-7…

Kế hoạch hành khất để phát triển công tác truyền giáo tại Năm Căn đang sôi sục trong tim. Mình nghĩ ngay đến một ông giám đốc ở đầu đường Pasteur. Sáng nay mình đi thẳng tới đó. Trước mắt mình là một tòa nhà nhiều tầng. Ông giám đốc đang đứng nói chuyện với ai đó ở một góc sân. Ông cao lớn và lực lưỡng. Cả con người của ông toát ra uy quyền và giàu sang. Mình không quen ông, nhưng lại biết rất nhiều về ông, qua các bạn bè của ông. Mình đon đả chào :

– Chào ông Bảy.

– Cha có chuyện gì thế ?

– Con đi truyền giáo ở Năm Căn thiếu thốn về mọi phương diện. Con đến xin ông Bảy giúp đỡ.

– Cha muốn tôi giúp cái gì ?

– Giáo điểm chúng con đã chia thành nhiều nhóm, mỗi nhóm cần có một cái xuồng máy để di chuyển. Vậy xin ông Bảy giúp chúng con một máy Kohler 7.

Ông giám đốc nhún vai một cái theo kiểu Tây phương, rồi đi vào hành lang và biến mất trong tòa nhà đồ sộ. Còn mình thì đứng trơ ra đó. Hụt hẫng…

Lá thư ngỏ gửi thầy Bùi Châu Thi.

Thầy kính mến,

Hôm nay noi gương Đức Phaolô VI, con hiên ngang chìa tay xin tiền bố thí để làm công tác truyền giáo. Nhưng con bị “nhún vai” một cách tàn nhẫn. Chính vì thế mà con nhớ lời thầy đã dạy chúng con khi chúng con còn mài đũng quần trên ghế chủng viện. Thầy dạy rằng :”Các giáo xứ giàu phải chia sẻ tài nguyên cho các giáo xứ nghèo. Nhưng trong thực tế ng­ười giàu ít khi nào chịu mở hầu bao. Người giàu luôn luôn từ chối một cách khéo léo rằng :”Sông to thì gió cả”, nghĩa là giáo xứ lớn và giàu thì lại có trăm công nghìn việc phải làm. Thế là vẫn có sự chênh lệch giữa giáo xứ giàu và giáo xứ nghèo, ngay trong lòng của Giáo hội”.

Vâng, đúng thế. Cái ông giám đốc của tòa nhà đồ sộ kia cũng đang có trăm công nghìn việc phải làm. Việc của ông là những việc lớn có tầm cỡ quốc tế. Cái máy Kohler nhỏ mọn của giáo điểm chỉ làm nát chuyện của ông. Ông từ chối là phải. Con chẳng phiền trách gì.

Thầy kính mến,

Con gửi về thầy mấy dòng tâm sự trên để thầy thương cảm cho những đứa học trò đang đưa lưng ra chịu đòn, để thực thi những bài dạy của thầy về Công giáo Tiến hành thưở xưa.

——————————————————————————–

Năm Căn, 15- 8 …

Hôm qua mình ghé Hòa Thành. Cha sở ôm mình vào lòng và niềm nở giới thiệu mình với giáo dân. Ngài khoe rằng mỗi ngày hai lần ngài kêu gọi giáo dân Hòa Thành cầu nguyện cho Năm Căn. Ngài còn khoe thêm rằng mỗi tháng Hòa Thành sẽ gởi cho Năm Căn vài tạ gạo. Đó là kết quả của chương trình “lon gạo truyền giáo”. Mỗi tháng một lần, Hội đồng Giáo xứ đi thu gom “lon gạo truyền giáo” trong các gia đình, đóng bao rồi gởi tàu đò đem về Năm Căn.

Từ nay Năm Căn không sợ thiếu gạo nữa, nhưng gạo truyền giáo là loại hầm bà lằng : gạo trắng có, gạo đỏ có, gạo hạt dài có, gạo hạt tròn cũng có… Tất cả đều pha trộn vào nhau một cách hổ lốn. “Thức ăn kém quá, gạo xấu nuốt không trôi”. Nhưng nó là tình yêu, là trách nhiệm của muôn người. Nó cũng là số phận của người truyền giáo : phải sống nghèo để sống khiêm tốn và chấp nhận thử thách. Mình chẳng mơ ước gì hơn nữa.

——————————————————————————–

Cần Thơ, 20-10…

Hôm nay Đức Giám mục trao cho mình năm ngàn đồng. Ngài cho biết đó là món quà của một cụ già ở Sàigòn nhờ chuyển cho Năm Căn. Cầm năm ngàn đồng trong tay mình sực nhớ đến tạ gạo hạt tròn trị giá đúng năm ngàn đồng. Từ đây mình nghiệm ra rằng :

1- Người rao giảng Tin Mừng phải sống nhờ Tin Mừng… Phải sẵn sàng chìa tay xin sự trợ giúp của mọi người từ mọi nơi. Sống nhờ Tin Mừng không phải là ăn bám mà là công bằng giao hoán, là mở đường để Giáo hội có tính phổ quát.

2- Ân nhân của các giáo điểm thường là những tâm hồn bé nhỏ đơn sơ, giàu thiện chí, nhưng không giàu về vật chất.

3- Sự yểm trợ cho giáo điểm luôn luôn chỉ vừa đủ và thường là thiếu một chút.

4- Người truyền giáo phải luôn luôn chấp nhận sự thiếu thốn một chút này. Nếu có nhiều tiện nghi vật chất thì người truyền giáo phải cảnh giác vì có thể họ bắt đầu đi lầm đường rồi.

  1. TIN MỪNG BỐ THÍ HAY TIN MỪNG GIẢI PHÓNG

Năm Căn, … 1973

Mình chui vào căn lều của bà Hai. Gia đình bốn khẩu. Ông Hai chỉ còn làm được một việc duy nhất là chuốt đũa. Đứa con trai lớn thì mắc bệnh tâm thần, may mà hắn không đập phá. Cái đầu của hắn thì không làm việc, nhưng do luật bù trừ, cái bao tử của hắn thì lại làm việc tối ngày. Nguồn sống của gia đình là đôi tay gầy của bà Hai cùng với thằng con trai chừng 15 tuổi. Phương tiện làm ăn là một cái búa, một cái cưa và một cái xuồng be chín. Nghề duy nhất là vô rừng đốn củi trộm.

Mình nhìn quanh quất, chả thấy có món đồ nào có giá trị hơn hai cái thùng đạn 81 ly. Chắc hẳn mùng mền, quần áo và chén đĩa đều nằm gọn trong đó. Và chỉ có thế thôi. Mình làm một cuộc phỏng vấn nhỏ.

– Mỗi ngày bà Hai kiếm được mấy thước củi ?

– Một thước

Đơn vị đo củi theo dân địa phương :

– 1 thước củi miếng = ¼ m3

– 1 thước củi lò = ½ m3

– 1 xì te = 1m3

– Tại sao không ráng làm lấy ba, bốn thước ?

– Cái xuồng be chín nhỏ tí xíu mà sông nước thì như thế kia !

Đơn vị đo trọng tải theo dân địa phương :

– Xuồng be 7 có trọng tải chừng 100 Kg

– Xuồng be 9 có trọng tải chừng 300 Kg

– Xuồng be 10 có trọng tải chừng 400 Kg

– Xuồng be 10 kèm có trọng tải trên 400 Kg

– Bà bán cái xuồng be chín đi. Tôi mượn cho bà năm ngàn đồng. Thế là bà có được một cái xuồng be mười kèm. Mỗi ngày bà sẽ có bốn thước củi, nghĩa là bà sẽ giàu gấp bốn lần. Mỗi ngày bà để dành lấy hai trăm đồng. Sau hai mươi lăm ngày bà sẽ trả xong món nợ năm ngàn. Từ đó cái xuồng be mười là của bà. Cứ mỗi ngày làm được bốn thước củi, ăn một thước, để dành ba thước. Năm thứ nhất bà sẽ xây nhà tường. Năm thứ hai bà sẽ xây hồ nước, đóng giếng. Năm thứ ba bà sẽ có giường hộp, tivi. Tôi tính vậy được không bà Hai ?

– Được. Ông Cha giúp tôi, tôi cám ơn. Mắt bà Hai sáng lên, miệng bà Hai toét ra, khoe hai hàm răng đen thủi đen thui.

——————————————————————————–

Năm Căn, … 1973

Hôm nay mình lại chui vào căn lều của bà Hai. Ông Hai ngồi chuốt đũa ở cửa. Hai mẹ con bà Hai đang cưa củi ở bên bờ sông. Thấy mình, bà chạy vào nhà, đon đả :

– Ông cố mạnh giỏi hả ông cố ?

– Bà Hai lúc này giàu chưa ? Có để dành mỗi ngày 200 đồng để trả nợ không ?

– Sao cứ thiếu hoài, ông cố ơi !

Thế là kế hoạch giúp dân làm giàu của mình bị vỡ rồi. Theo cuộc điều tra chớp nhoáng, mình được biết như sau :

+ Từ ngày có cái xuồng be mười kèm, hai mẹ con bà Hai quả thật có làm thêm mỗi chuyến được ba thước củi, nghĩa là bà giàu thêm gấp bốn lần. Nói một cách kinh tế học. thì nền kinh tế gia đình bà Hai tăng 400%. Tuyệt vời !

+ Nhưng cũng từ ngày đó, ông Hai và hai thằng con trai không thèm hút thuốc gò nữa. Trong mỗi túi áo đều thấp thoáng một gói Ruby Queen màu đỏ tươi rói.

+ Cũng từ ngày ấy, những em bé bán bánh cam và bán cà rem đều bị bà Hai bắt giam một cách thật dễ thương : ”Ngồi đây mầy, tao cấm mầy không đi đâu hết. Chừng nào tao ăn chán, mầy mới được đi”.

+ Và một ngày kia, anh thợ rừng xách tòn ten một con kỳ đà đi qua trước căn lều của bà Hai, bỗng giật mình vì một tiếng hét bất ngờ :

-“Vô mầy” .

– Mấy ký ?

– Ba ký.

– Tao mua luôn. Ở lại nhậu với tao nghe mầy. Hôm nay uống la de cho bảnh. Tao không ưa uống đế, hôi miệng lắm.

+ Làm được một xuồng củi bán lấy tiền, ăn xài cho hết rồi má con bà Hai mới lại vô rừng. Ấy là chưa kể nếu động rừng, hoặc gặp “kỳ đà cản mũi” thì bà Hai nghỉ tiếp luôn một tuần. Những ngày “tiên khồng” ấy, bà sẵn sàng ăn vay với lãi suất không tính toán : Hai mươi phân, năm mươi phân, thậm chí chín mươi phân… bà cũng chẳng quan tâm. Cái xuồng be mười kèm là một bảo đảm có uy tín nhất. Vẫn bánh cam và cà rem ì xèo. Vẫn Ruby Queen rực rỡ.

——————————————————————————–

Cà Mau, … 1979

Có tiếng chuông reo. Mình mở cửa. Một bà già đen đúa và

rách rưới mừng rỡ nắm lấy tay mình hôn chùn chụt.

– Ông cố mạnh giỏi hả ông cố ? Gặp ông cố con mừng hết biết. Hồi ở Năm Căn con nợ ông cố năm ngàn đồng. Không biết đến bao giờ con mới trả được.

– À ! Bà Hai đó hả ? Thôi bà ơi, tôi cho bà luôn đấy. Tôi muốn giúp bà làm giàu mà bà không chịu. Không ai bóc lột bà, mà bà tự bóc lột.

Mình nói với giọng chua cay, không phải vì mình mắc trả giùm cái món “nợ” năm ngàn đồng, mà vì ước mơ giúp người nghèo làm giàu thì lại bị chính người nghèo phản bội. Bà Hai đứng trước mặt mình nghèo hơn lần mình gặp bà ở Năm Căn. Bà đến đây để xin quần áo, xin gạo và xin tiền.

– Ông cố có quần áo cũ cho con xin một bộ, cho thằng khùng nó mặc.

– Ông cố có tiền cho con vài ngàn mua thuốc cho thằng khùng.

– Ông cố cho con ít lon gạo để con nấu cháo cho thằng khùng ăn.

Ông Hai chết rồi. Thằng con đi làm củi ngày xưa đã có vợ và ra riêng. Bà Hai đi hành khất để nuôi miệng và nuôi thằng con khùng. Thằng khùng bây giờ chỉ còn nằm một chỗ chờ chết. Bà Hai đã xuống tới vực thẳm của sự nghèo khó. Bà Hai đã và đang là gánh nặng đè trên vai mình. Trước hết mình đã phải trả cái món nợ năm ngàn đồng mà mình đã vay giùm bà. Bây giờ thì bà Hai đã biết mình ở đây, bà sẽ đến viếng thăm dài dài, mà mình thì không thể từ chối bà được. Bà không còn cách nào khác để sống. Người nghèo cũng là gánh nặng ghê gớm cho Giáo hội. Nhưng Tin Mừng bố thí hay Tin Mừng giải phóng người nghèo ? Câu hỏi này làm mình nhức óc. Giáo hội đã từng bố thí rất nhiều cho người nghèo. Nhiều họ đạo đã được thành lập vì Giáo hội đã cấp đất cho người nghèo. Người nghèo theo đạo để có ruộng. Nhưng ngày nay, những họ đạo ấy đang sinh hoạt ra sao ? Bạn của mình cho biết : Cứ đi dài dài theo bờ con kênh, chỗ nào thấy toàn nhà lá, thì đó là xóm đạo.

Vậy trên đường truyền giáo mình có nên bố thí không ? Bố thí thế nào ? Bố thí cái gì ? Một điều chắc chắn là người nghèo phải được giải phóng khỏi cái nghèo, cái dốt. cái lười… Nhưng bằng cách nào ? Câu hỏi quả là quá khó đối với mình. Nhưng có lẽ cũng là quá khó đối với mọi người.

  

  1. ĐỨC PHẬT MẾN YÊU

Cần Thơ, … 1965

Legio Mariae mời mình đi kẻ liệt. Kẻ liệt là một bà già trên tám mươi tuổi. Bà xin được rửa tội. Mình hỏi bà về một số điểm giáo lý gọi là “những điều cần kíp”.

Rửa tội xong, bà ngước mắt nhìn mình một cách thành khẩn.

– Cha ơi, tôi theo đạo Phật từ nhỏ. Tôi thương Đức Phật quá. Bây giờ tôi theo Chúa, cha cho tôi giữ bàn thờ Đức Phật nha !

Mới 29 tuổi đời và một tuổi mục tử, mình thấy bối rối trước một yêu cầu như thế. Bỗng mình nhớ đến thầy Luca Huy. Thầy Luca Huy dạy mình rằng : “Phải tôn trọng đạo Phật, phải kính trọng Đức Phật” . Chính thầy Huy cũng có một tượng Phật để trên bàn viết. Bà cụ năn nỉ :

– Đức Phật tốt lắm cha ạ. Tôi thương Ngài lắm.

– Tôi đề nghị với bà thế nầy : Chúa thì để trong lồng kiếng, còn Đức Phật là hiền nhân thì để ở kế bên Chúa. Bà chịu không ?

– Tôi chịu vậy đó.

– Bà cứ thương Đức Phật đi. Tôi cũng thương Ngài nữa.

——————————————————————————–

Cần Thơ, …1965

Hôm nay mình lên Tòa Giám mục.

– Thưa Đức cha, hôm qua con rửa tội cho một bà cụ đạo Phật. Bà xin giữ bàn thờ Phật. Con biểu bà để tượng Chúa trong lồng kiếng ở chỗ quan trọng nhất trong nhà, còn tượng Phật thì để ở kế bên. Bà tin Chúa là Đấng cao cả, nhưng bà thương Đức Phật quá.

– Được lắm ! Cha có sáng kiến hay.

Mình ra về, tâm hồn nhẹ phơi phới.

——————————————————————————–

Núi Sam, … 1969

Mình cùng với lớp đệ tứ lên cắm trại ở Núi Sam. Núi Sam vừa hùng vĩ vừa huyền bí. Thầy trò leo trèo thỏa thích. Chụp hình lia lịa, và viếng Chùa. Ni sư thì hiền như cây cỏ, học trò mình thì nghịch như ma. Chùa chiền đang yên tĩnh bỗng rộn lên như hội chợ. Các ni sư không giận hờn, không xua đuổi. Dường như các ngài thương mến học trò của mình hơn cả chính mình. Các ngài mỉm cười độ lượng trước những trò chơi quỷ quái của chúng. Chùa chiền là thế : thiên nhiên yên tĩnh; tâm hồn yên tĩnh. Đăng sơn chán thì hạ sơn. Hạ sơn để dâng thánh lễ. Dâng thánh lễ ở đâu ? Mình vô chính điện.

– Thưa Đại đức, trong chùa có chỗ nào thuận tiện, Đại đức cho tôi mượn chừng nửa giờ để tôi dâng thánh lễ được không ?

– Ở đây thì không tiện. Ở ngoài cổng có một phòng khách rộng lắm, linh mục có thể ở đó và dâng lễ tự nhiên. Chùa cho mượn bàn để làm bàn thờ. Đèn của chùa, hoa của chùa, chuông của chùa, chỉ có mình là của Chúa.

Lần đầu tiên trong đời, mình dâng thánh lễ trong khuôn viên nhà chùa. Chúa ngự ở đây và chắc chắn Chúa yêu thương nơi này. Từ phòng khách mình giang tay cầu nguyện, mắt nhìn lên cao như­ng vẫn lo ra nhìn về chính điện. Ở đó tượng Phật to lớn ngồi thiền giữa rừng hương nhang, yên tĩnh, thân thương.

——————————————————————————-

Cần Thơ, …

Mình đang bước vội trên lề đường Nguyễn Trãi. Một chiếc Jeep ôm sát lề, thắng két một cái.

– Linh mục đi đâu đây ?

– Tôi về Cầu Xéo.

– Lên đây, tôi đưa về đó cho.

Đại đức Thích T.N., một ông sư trẻ trung và ồn ào. Như tụi mình, cũng cắm trại, cũng nhảy cò cò, cũng thụt dầu… Ông mời mình một điếu Salem. Cay cay, the the. Mình hỏi cùng với khói Salem.

– Đại đức ơi, hỏi chơi nhé, bên chùa còn cấm sát sanh không ?

– Còn chớ, giáo lý căn bản đấy.

– Đùa thêm tí nữa nhé. Nếu Đại đức làm Bộ Trưởng Bộ Y tế thì Đại đức có ra lệnh cấm sát trùng không ? Nếu Đại đức làm Bộ Trưởng Bộ Nông nghiệp thì có cấm xịt thuốc rầy nâu không ? Tất cả đều là sát sanh đấy.

– Hì… hì… cái đó mới kẹt đấy.

Tương quan giữa mình và Thích T.N. là thế : chân tình cởi mở và đôi khi cũng tếu ra trò. Ông mặc áo nâu, mình mặc áo đen. Nhưng cả hai phục vụ giới trẻ trong môi trường học đường. Mình thích đi bộ, còn ông thì thích lái xe Jeep. Hễ cứ gặp nhau thì mình lại lên ngồi xe Jeep với ông, lại phì phà Salem với ông. Khác linh đạo nhưng cùng là người.

——————————————————————————–

Đầm Dơi, … 1974

Lần đầu tiên mình đi Đầm Dơi để từ đó tìm đường đi Bàu Sen. Trời đã xế mà Đầm Dơi thì chưa thấy đâu. Đường mòn cỏ mọc lấp cả lối đi. Mình bắt đầu cảm thấy ớn lạnh. Không biết đêm nay mình sẽ ngủ ở phương nao ?

Phía bên phải ẩn hiện một ngôi chùa, chùa Phật giáo Tịnh Độ. Thấy ngôi chùa thấp thoáng sau vườn cây, lòng mình ấm hẳn lại. Mình vẫn đi, đi về Đầm Dơi nhưng vẫn tự nhủ : nếu không tìm thấy Đầm Dơi, mình sẽ trở lại ngôi chùa này xin cơm ăn và xin chỗ ngủ. Chùa nào cũng thế : chan chứa tình người.

Có một người nào đó nói nhỏ bên tai mình : ”Đêm hôm lỡ đường, vô nhà thờ thì chưa biết thế nào, chứ vô chùa thì chắc chắn có cơm chay và cả một bộ ván để ngủ”. Câu nói làm mình nghẹt thở, nhưng dường như cũng có thế thật. Còn tại sao, thì phải lý giải lâu dài.

——————————————————————————–

Cà Mau, 20-7-1975

Sau buổi thuyết trình của ông Chủ tịch Mặt trận Tỉnh, mình ra hành lang đứng hóng mát. Ở đó đã có một bóng áo nâu : Đại đức Thích T.M. Lưng dài vai rộng, Đại đức T.M. giống như bố mình ngày xưa. Bởi thế dù mới sơ ngộ, mà mình đã cảm thấy gần gũi và thân thương. Mình đứng sát bên Đại đức, trao đổi và tâm tình.

… Từ buổi nói chuyện ấy mình khẳng định rằng Lời Chúa không bao giờ bị xiềng xích. Mình ghi ơn Đại đức Thích T.M. như một bậc thầy.

——————————————————————————–

Cái Rắn, 14-1-1995

Sáng nay mình ghé thăm bà Hai Chiếu. Bà đã 88 tuổi rồi mà trí khôn vẫn còn minh mẫn, vẫn còn nói chuyện khôi hài. Mình hỏi bà đủ chuyện, kể cả chuyện thời con gái của bà. Bà kể: – “Hồi ông tôi cưới tôi, ba ghe đi đón dâu lận. Má tôi cho tôi một con gà mái. Nó đẻ 12 trứng, nở 11 con. Thấy mà ham”.

– Ủa tại sao 12 trứng mà nở có 11, bà Hai ?

– Cái trứng đó không có trống mà.

– Vậy thì vứt bỏ phải không ?

– Chừng nào ? Luộc ăn chớ.

Thấy bà Hai vui tính quá, mình tấn công thêm :

– Ban đêm bà Hai ngủ được nhiều không ?

– Ngủ ít thôi.

– Không ngủ được thì bà Hai làm gì ?

– Niệm kinh cho con cháu, cho bá tánh. Niệm một trăm, niệm hai trăm, niệm ba trăm.

– Thế bà Hai có niệm cho cha sở Cái Rắn không ?

– Niệm chung cho bá tánh là được rồi.

– Không được đâu, bà Hai phải niệm riêng cho tôi một chục hoặc năm chục gì cũng được.

– Mô Phật một, mô Phật hai… mô Phật năm mươi.

– Cám ơn bà Hai nhá.

– Thêm cho cháu năm chục nữa. Mô Phật một, mô Phật hai… mô Phật năm mươi.

Bà Hai còn muốn niệm thêm nữa cho mình. Mình vội cắt ngang.

– Bà Hai sợ chết không ?

– Không !

– Chết rồi bà Hai đi đâu ?

– Biết đâu à.

– Bà Hai về với Chúa. Bà Hai nhớ cầu nguyện cho tôi với.

– Mô Phật một, mô Phật hai…

  1. NGÀY HƯU LỄ VÌ CON NGƯỜI

Năm Căn, 16-8-1971

Ông Chín Kiểu năm nay đã ngót nghoét bảy mươi. Ông mở quán nước ngay trước giáo điểm. Cứ sau mỗi giờ dạy học, mình lại đến đây nói chuyện dông dài với ông. Tuy là chuyện dông dài nhưng lại xoáy vòng trôn ốc. Hôm nay đường trôn ốc đã kết thúc, mình đi thẳng vào vấn đề.

– Nghe nói ông Chín có đạo phải không ?

– Ừa, hồi nhỏ tôi theo đạo Chúa như cha. Nhưng tôi bỏ xưng tội mấy chục năm nay rồi.

– Vậy thì Chúa nhật tới này tôi mời ông Chín đi lễ nghe.

Câu nói của mình như một tiếng sét làm rung chuyển trời đất. Ông Chín khóc hụ lên. Hai dòng lệ chảy xối xả. Hai môi giật giật như người động kinh. Mình hoảng sợ ngồi chết trân. Năm phút sau, ông Chín lấy lại bình tĩnh và kể chuyện :

“Cha tôi đạo dòng, bỏ Hòa Thành xuống Cái Keo làm ăn. Con cái sinh ra đều lấy vợ chồng ngoại. Cha sở Hòa Thành phạt cha tôi không cho xưng tội rước lễ. Đến khi già yếu, biết mình không còn sống bao lâu nữa, ổng chèo xuồng 30 cây số từ đây lên tới Hòa Thành chầu chực suốt tuần thánh, năn nỉ xin xưng tội rước lễ mà không được. Ổng đành chèo xuồng trở về. Ổng buồn rồi ổng chết. Cha tôi chết không được chôn trong đất thánh”.

Nói đến đây ông lại khóc hụ lên một lần nữa. Ông mếu máo nói với giọng hằn học :

“Cha tôi có làm điều gì thất đức đâu mà Hội thánh đang tâm đày đọa ổng đến độ già rồi mà vẫn còn bị xua đuổi, chết rồi mà vẫn còn ghét bỏ…”

Bầu khí ngộp thở. Mình cáo từ ra về, lòng buồn man mác.

——————————————————————————–

Năm Căn, ngày 17-8-1971

Hôm nay mình đến thăm ông Chín Kiểu, hy vọng xoa dịu nỗi đau của ông. Nhưng trên cổ ông đã xuất hiện hình Đức Phật sáng chói. Thế là xong ! Lối vào đời ông đã bị kéo dây chì gai rồi !

Ổng đeo ảnh Phật để quyết liệt từ chối trở về với Chúa. Ổng đeo ảnh Phật để cảnh cáo mình : ”Từ nay đừng khuyên tôi trở lại đạo nữa…”

Sau mấy chục năm bị nỗi đau cắn xé, hôm nay ông Chín đã xổ ra được. Giờ này có lẽ ông đang ngủ ngon. Trong giấc mơ những ngón tay ông đang mân mê ảnh Đức Phật từ bi. Còn mình thì giờ này vẫn chưa ngủ được. Một nỗi đau rấm rứt vừa xuất hiện và có lẽ nó sẽ cắn xé lương tâm của mình suốt đời.

Mình lan man nghĩ đến chuyện xưa. Tại giáo điểm nọ, bà Năm khuyến khích chồng con theo đạo, còn bà thì cứ khất lần. Mình dồn bà vào chân tường, nên bà đành tiết lộ nỗi lòng thầm kín. Bà kể :

“Hồi tôi còn bé, trong xóm tôi người ta theo đạo nhiều lắm. Ông cha Tây dạy : Theo đạo thì phải dẹp bàn thờ ông bà. Sau ngày rửa tội linh đình, ổng đi thăm các gia đình đạo mới. Tới một gia đình nọ, vừa tới cửa là ông dậm chân bẹt bẹt, miệng la hét : Tại sao chưa dẹp cái bàn thờ kia ? Ổng nhất định không bước chân qua ngưỡng cửa cho tới khi cái bàn thờ ông bà bị khiêng bỏ ra ngoài sân…”.

Câu chuyện bà Năm kể còn dài lắm. Nhưng vừa nhớ đến chỗ cái bàn thờ bị khiêng bỏ ra ngoài, mình cảm thấy có cái gì đăng đắng ở miệng, nghèn nghẹn ở cổ. Bây giờ mình mới hiểu được nỗi lòng của ông Chín. Ông Chín là người con có hiếu. Vì thương cha, ông hận Giáo hội. Cha sở Hòa Thành tôn trọng luật lệ, nhưng không tôn trọng tình cảm của con người. Chỉ có ông Chín mới hiểu được rằng cha ông không thể không cưới vợ ngoại cho con và gả con cho người ngoại, bởi lẽ cha ông sống cô thân giữa một vùng chỉ có người ngoại. Cũng chỉ có ông Chín mới thấy được cái tủi hận của một ông lão già gần đất xa trời mà không được xưng tội rước lễ. Chỉ có ông Chín mới cảm thấy cái đau đớn khi bị từ chối không được chôn cha mình trong đất thánh, nơi mà cha ông hằng mong ước.

Cha sở sau khi quyết liệt từ chối không cho ông lão già xưng tội rước lễ thì lòng vẫn an vui. Và sau khi quyết liệt từ chối không cho ông lão già chôn trong đất thánh, thì lương tâm vẫn bình thản. Đó là luật, luật của Hội thánh.

Mình cay đắng tự hỏi : ”Luật vị luật hay luật vị nhân sinh ? Con người vì ngày hưu lễ. hay ngày hưu lễ vì con người ? “

Đường lối mục vụ ấy có nên tồn tại nữa không ? Và các nhà truyền giáo có quyền áp đặt một thứ mục vụ như thế trên các tân tòng không ?

  1. TẢN MẠN VỀ VATICANÔ II

Sài Gòn, … 1962

Hôm nay Chủng viện Sàigòn đón tiếp Đức cha Trần Văn Thiện mới từ Rôma về và xin ngài kể chuyện Công đồng. Chuyện ngài kể nóng hổi như viên gạch mới ra lò. Nhưng điều mình thích thú lại là chuyện bên lề Công đồng. Chuyện kể như sau :

“Các nghị phụ thuyết trình bằng tiếng Latinh. Văn chương Latinh của các nghị phụ thì xuýt xoát như nhau. Nhưng giọng Latinh của các ngài thì trời ơi đất hỡi. Nhất là khi các nghị phụ Mỹ thuyết trình, thì chỉ có Chúa nghe thôi. Vả lại mình đã có bản dịch tiếng Pháp cầm trong tay rồi, nên nghe hay không nghe cũng được. Ngồi lâu buồn ngủ, tôi xuống phòng giải khát được thiết lập ngay bên dưới những hàng ghế bậc thang. Không ngờ lại gặp một Đức cha người Pêru cũng vừa “cúp cua” xuống đây.

Tôi đến nói chuyện với ngài. Ngài nói tiếng Tây Ban Nha,

tôi không hiểu. Tôi nói tiếng Pháp, ngài không hiểu. Chúng tôi đành nói chuyện bằng tiếng Latinh, tiếng Latinh ba cọc ba đồng, nhưng cũng hiểu được nhau :

– Địa phận của Đức cha có bao nhiêu dân ?

– Một triệu rưỡi.

– Trong số đó có bao nhiêu giáo dân ?

– Thì một triệu rưỡi chứ còn gì. 100% mà !

– Thế địa phận Đức cha có bao nhiêu linh mục ?

– Mười ba, cộng với tôi là mười bốn.

– ? !

Tình hình Công giáo ở Mỹ châu Latinh là như thế đó. Phải có Công đồng để làm lại mọi sự”.

Gần một nửa dân số Công giáo thế giới nằm trong vùng Mỹ châu Latinh. Nhưng đạo ở đó èo uột như thế đấy. Có cần phải trở về quá khứ để duyệt lại phương pháp truyền giáo ở đó không nhỉ ?

——————————————————————————–

Hà Nội,… 1993

Hôm nay mình vô chủng viện Hà Nội. Tình cờ gặp lại cha Chí từ Sàigòn mới ra. Hồi còn học ở trường Hồ Ngọc Cẩn, cha Chí ngồi dưới mình một lớp. Gần bốn chục năm xa cách hôm nay gặp lại nhau, biết để đâu cho hết chuyện tâm sự. Chuyện nọ xọ chuyện kia. Loanh quanh một hồi, rồi đến chuyện Công đồng. Cha Chí kể :

“Hôm ấy là một ngày mùa đông. Mùa đông bên ấy lạnh lắm, nên cửa kính đóng im ỉm. Đóng cửa kính, thì căn phòng ấm áp, nhưng… hôi lắm. Và hôm ấy Đức Gioan 23 đang tiếp kiến một vị Hồng y. Đức Giáo Hoàng ngỏ ý muốn mở Công đồng, Công đồng Vaticanô II. Đức Hồng y sửng sốt hỏi :

– Đức Thánh Cha mở Công đồng để làm chi vậy ?

– Để làm chi hả ? Đây này… (Đức Giáo Hoàng đứng dậy ra mở cửa sổ cho không khí trong sạch tràn vào). Đấy, thấy chưa ? Ngộp quá rồi mà !…”

Không biết cha Chí kể chuyện thật hay chuyện tiếu lâm, nhưng chắc chắn là Giáo hội phải canh tân và đó là mục tiêu của Vaticanô II. Nhưng Vaticanô II bế mạc 30 năm rồi mà dường như công việc canh tân vẫn chưa đạt tiêu chuẩn. Tại sao ? Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trả lời dứt khoát trong Thông điệp “Sứ vụ Đấng Cứu độ”.

“Sứ vụ truyền giáo canh tân Giáo hội, tăng cường niềm tin và căn tính người Kitô hữu, đem lại diệu cảm mới và những động lực mới. Niềm tin càng mạnh khi đem chia sẻ” (SVĐCĐ, 2). Từ đó mình xác tín rằng : nếu Giáo hội không đến với muôn dân, thì Giáo hội không thể canh tân được; hoặc mọi công tác canh tân sẽ trở nên vô hiệu. Nếu không đến với muôn dân, Giáo hội sẽ mãi mãi là căn phòng mùa đông, cửa kính đóng im ỉm.

  1. CÔNG BẰNG XÃ HỘI

Sài Gòn, …

Hôm qua mình nhận được điện tín báo : “Lên gấp” . Mình chạy vội ra bến Thợ nhuộm nhờ chị Bảy Thanh dẫn đi mua giùm một vé tốc hành Cà Mau – Sàigòn.

– Hết vé rồi chị Bảy ạ. Tụi em chỉ bán có 11 vé thôi. Chị dẫn ông cha qua bên kia cầu. Bên đó bán 11 vé, may ra thì còn.

– Còn có cái may nào khác nữa không ? Mình hỏi thêm ngụ ý : nếu thêm tiền thì sao ?

– Hết phương rồi ông cha ơi. Mỗi tối chỉ có hai chuyến “phôca” thôi.

Mình lủi thủi qua bên kia cầu, để thử vận.

– Còn vé đi Sài Gòn không chị ?

– Hết rồi chú. Chú cứ ngồi uống nước đi. May ra có người bỏ cuộc chăng.

Mình kêu một ly cà phê đá và ngồi chờ vận may ngàn năm một thuở. Có thể vận may đi Sàigòn thì không có, mà chỉ có vận may bán được thêm một ly cà phê. Nếu thế thì mình bị gạt rồi…

Một lát sau có một chú thanh niên loóc toóc từ trên dốc cầu đi xuống, hành trang gọn nhẹ với một cái túi lép kẹp vắt trên vai.

– Ê, hết chỗ rồi mày !

– Hết sao được. Chị hứa dành cho em vé số 22 mà.

– Mày thì có việc gì cần đâu. Mai đi cũng được.

– Không chơi. Chị hứa thì chị phải giữ lời.

– Tao nói rồi mà. Hết vé. Mai hẵng đi.

Anh chàng thanh niên tiu nghỉu quay gót. Khi hắn đã đi thật xa, chị chủ quán quay lại phía mình, đon đả :

– Cha! Con bẻ chỉa thằng đó để lấy vé cho cha đó. Con là người ngoại, nhưng con biết cha từ hôm đám tang ông Năm Phần. Hồi nãy con làm bộ kêu cha bằng chú, cha thông cảm nhá. Xe sắp qua rồi đó.

Hai mươi giờ rưỡi, chiếc FK vượt cầu và dừng lại ở phía bên kia đường. Mình vội vàng xách túi đồ đi theo chị chủ quán.

– Ê, mày xuống dưới kia, nhường chỗ cho ông cha… Cô gái đang ngồi ghế số 5 ngoan ngoãn đi xuống ghế số 22.

Xe lăn bánh.

Mình vẫy tay chào chị chủ quán. Lòng khấp khởi mừng. “Nhất thân, nhì thế” là vậy đấy…

Bây giờ thì mình đang ở Sàigòn rồi. Cái vui của hôm qua đã tàn lụi. Bây giờ thì lương tâm cắn rứt quá chừng. Chỉ vì mình, mà chị chủ quán cà phê đã hai lần vi phạm luật công bằng xã hội. Vì mình, mà anh chàng thanh niên phải tiu nghỉu ra về. Vì mình, mà cô gái đang ung dung ngồi ghế số 5 phải rút xuống ghế chót để chịu xe dằn xe lắc. Lẽ ra mình phải chống lại bất công thì mình đã im lặng đồng lõa. Mình đã xây dựng niềm vui trên nỗi khổ của người khác. Mình không chống bất công, chỉ vì mình là người được hưởng lợi ích của bất công…

——————————————————————————–

Cần Thơ, …

Tin từ Tòa Giám mục : Đức cha Nguyễn Kim Điền phát biểu tại Thượng Hội đồng Giám mục ở Rôma : ”Đã có nhiều Giám mục tử đạo vì đức tin. Nhưng chưa có Giám mục nào tử đạo vì công bằng xã hội” .

Ừ, có lẽ như thế thật. Tại sao ?

Có lẽ vì các ngài chưa bao giờ là nạn nhân của bất công, nên không phải đấu tranh chống bất công. Vì không phải là nạn nhân của bất công nên không bén nhạy trước nỗi thống khổ của những người chịu đựng bất công. Các ngài yêu thương và giúp đỡ người bị đàn áp, nhưng không tích cực đến mức độ đứng hẳn về phía họ và chịu đổ máu vì họ.

Mình dám suy nghĩ như thế chỉ vì mình “suy bụng ta ra bụng người” mà thôi. Một lần kia mình chứng kiến cảnh tranh chấp giữa hai thằng cu tí. Hai đứa được mẹ cho một tô chè với lời dặn thằng anh : ”Chia đều cho em nghe con” . Thằng anh láu cá tuyên bố :

– Tao lấy cái tăm đặt ở giữa tô. Mày múc bên đó. Tao múc bên này. Thế là đều. Đồng ý chưa ?

– Đồng ý.

Hai anh em cùng múc, múc trong khu vực của mình. Nhưng thằng anh múc nhiều hơn. Chè bên phía thằng em chảy qua phía thằng anh. Khi thằng em khám phá được cái trò bịp bợm của thằng anh, thì đã quá trễ, chỉ còn biết khóc, khóc nức nở, khóc hậm hực. Còn mình thì cười một cách thích thú. Mình không chia sẻ cảnh bất công của thằng em và không can thiệp, chỉ vì mình không hề là nạn nhân của thằng anh láu cá. Đời là thế đấy !

——————————————————————————–

Cái Răng, …

Hôm nay mình ghé chủng viện Cái Răng. Phòng đầu tiên mà mình bấm chuông là phòng cha giáo Chương. Cha giáo đang duyệt phim.

– Cha Piô coi phim Les Missions chưa ?

-Về phim ảnh thì mình “dốt đặc cán mai, dài cán thón”. Bác tóm tắt giùm em coi. Hết sức vắn tắt thôi.

– Phim mô tả cảnh thực dân da trắng tấn công các bộ lạc da đỏ. Các nhà truyền giáo thì có hai thái độ :

+ Thái độ một : đứng hẳn về phía người da đỏ, cầm vũ khí chống lại thực dân.

+ Thái độ hai: khước từ bạo lực, chỉ rao giảng và cầu nguyện.

Nhưng cuối cùng thì thực dân tấn công và tiêu diệt tất cả. Hàng Giám mục địa phương báo cáo về Tòa Thánh như sau :

“Hàng giáo sĩ của chúng tôi đã đứng ra bênh vực người da đỏ, chống lại thực dân. Có người dùng bạo lực, có người dùng lời cầu nguyện. Cả hai đều đã chết. Họ đã chết, nhưng dường như họ vẫn sống. Còn chúng tôi, hàng Giám mục thì vẫn còn đang sống. Chúng tôi đang sống, nhưng dường như chúng tôi đã chết” .

Nội dung chuyện phim cùng với giọng truyền cảm của cha giáo Chương làm mình bị xúc động. Có lẽ mình còn phải suy nghĩ về đề tài này nhiều năm nữa.

——————————————————————————–

Cà Mau, …

Hôm nay trong bài giảng tĩnh tâm hạt Minh Hải, Cha Triều nhắc đến cái chết của Đức cha Oscar Romero, Tổng Giám mục El Salvador. Ngài bị ám sát ngay trong thánh lễ sau một bài giảng chống bất công. Ngài đòi chính quyền phải chia tài nguyên tổ quốc cho nhân dân, vì hầu hết đất đai của tổ quốc là tư hữu của những người quyền thế. 90% nhân dân chỉ là người đi làm mướn.

Hôm nay mình mới được nghe nói đến tên Oscar Romero và cái chết của ngài. Phải chăng đây là của lễ đầu mùa mà hàng giáo phẩm Công giáo dâng lên Chúa : một vị Giám mục tử dạo vì công bằng xã hội. Phải chăng ước nguyện của Đức cha Nguyễn Kim Điền hôm nay đã thành hiện thực. Và dường như những vị tử đạo vì công bằng xã hội đang nở rộ trên khắp các lục địa !

  1. PHÁT TRIỂN DÂN SINH

Cái Rắn, ngày 1-11-1994

Hôm nay mình đi thăm bà con lương giáo trong xóm nhà thờ. Thăm được 27 gia đình. Đến nhà cuối cùng thì mình ăn cơm trưa. Ông chủ nhà nói thẳng thừng thế này :

– Giáo dân nghèo cha không lo, cha lo xây cầu cho Nhà nước. Cha mà xây cầu cho Nhà nước, thì giáo dân sẽ không chịu đóng góp gì đâu.

– Tôi xây cầu cho dân chứ đâu phải xây cầu cho Nhà nước.

– Nhưng việc đó là việc của Nhà nước.

– Vậy thì tôi xây cầu để tôi đi. Tôi đi thăm bà con thì phải có cầu.

Có lẽ người dân nghĩ rằng Giáo hội có nhiệm vụ đem cơm áo đến cho người nghèo. Sự thật thì :

+ Giáo hội chẳng có khả năng đó, vì 3/4 dân số trên thế giới là nghèo, một con số quá lớn so với túi tiền của Giáo hội.

+ Giáo hội không có nhiệm vụ trực tiếp đem cơm áo đến cho người nghèo. Nhiệm vụ chính của Giáo hội là loan báo Đức Giêsu Kitô. Chỉ trong Đức Kitô mới có sự giải phóng thật sự.

Vả lại phát triển không có nghĩa là đem cơm áo phát cho người nghèo, mà là giúp người nghèo có điều kiện thoát được cảnh nghèo. Họ đạo Cái Rắn này ngày xưa có tới hơn 200 hécta ruộng. Ruộng được chia ra cho giáo dân canh tác và nạp tô cho nhà chung. Mấy chục năm rồi mà chỉ có năm gia đình có nhà tường. Họ đã nghèo, đang nghèo và sẽ còn nghèo, chỉ vì họ không tự giải phóng mình mà cứ trông chờ Giáo hội.

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 15-1-1995

Buổi họp Hiền mẫu hôm nay chỉ có chừng 200 bà mà đa số là ng­ười lương. Các bà người lương đến để nghe ông cha giảng về đời sống vợ chồng và về vấn đề giáo dục con cái. Sau buổi họp có một bà già hỏi :

– Nghe người ta nói : ai theo đạo thì ông cha cho hai triệu. Cái đó có không ?

– Nếu ai theo đạo mà cho tôi hai triệu, thì tôi cám ơn. Còn chờ tôi cho hai triệu thì chắc là không. Ai theo đạo vì tiền, thì làm nhục cho đạo. Cũng như ai dùng tiền để mua tình yêu, thì làm nhục cho tình yêu.

Người Công giáo vẫn tuyên truyền với nhau rằng : “Ông cha thiếu gì tiền” . Bây giờ tư tưởng ấy đã lan sang người lương. Có một số người sẵn sàng theo đạo, vì họ nghĩ rằng các linh mục sẽ giúp đỡ họ về vật chất.

Mình hốt hoảng thật sự, khi có người theo đạo vì tiền. Mình xấu hổ thật sự, khi người ta nghĩ rằng mình có nhiều tiền.

Khi người ta theo đạo vì tiền, thì họ bắt đầu thờ Mammon và ít hy vọng họ quay đầu trở về với Chúa. Trên đồi Bétxaiđa, sau phép lạ hóa bánh, dân chúng muốn tôn Chúa làm vua. Ngài trốn lên núi một mình. Thấy dân chúng đói thì hóa bánh cho họ ăn, nhưng sau đó Chúa rất buồn vì quần chúng hiểu sai ơn cứu độ. Việc từ thiện thì phải làm, nhưng làm xong thì đau khổ. Đôi khi chính việc từ thiện lại làm sai lệch sứ mạng truyền giáo. Đức Gioan-Phaolô II một mặt vẫn ca tụng công tác phát triển của các thừa sai, nhưng mặt khác ngài vẫn cảnh giác các thừa sai, để đừng có ai theo đạo chỉ vì được giúp đỡ về vật chất.

——————————————————————————–

Cà Mau, …

Hôm nay mình đi làm phép nhà cho vợ chồng nhà M-B. Anh chồng là người ngoại trở lại. Hai vợ chồng chạy mánh. Con

đường Sàigòn-Cà Mau, Châu Đốc-Cà Mau, thậm chí Nam Vang -Cà Mau đối với họ đã trở thành quen thân như đường mòn trong xóm nhỏ. Mới ba mươi tuổi đời mà đã xây được một căn nhà hai tầng trị giá trên 300 triệu đồng.

Trong bữa liên hoan tân gia, mình ngồi chung bàn với ba của M. Ba hắn khoe :

– “Nó làm ăn khá là nhờ cha Diệp. Đi chuyến nào nó cũng vái cha Diệp và tạ ơn cha Diệp”.

Thật ra thì nó vái tứ phương thiên hạ! Bà Chúa xứ ở Núi Sam, bà Mã Châu ở phường 2, Bà Quan Âm ở phường 5, Đức Mẹ ở Bình Triệu. Tất cả thần thánh đều là công cụ để đạt tới mục tiêu là lợi nhuận. Hắn làm ăn có lương thiện không ? Một người bạn của hắn đã phát biểu :

-”Nó bốc lên lẹ quá khiến phải nghi ngờ về cách làm ăn của nó” .

Có một điều chắc chắn là hắn ít đi lễ và càng rất ít xưng tội rước lễ.

Phải công nhận rằng hắn rất đầy đủ về vật chất, nhưng lại rất nghèo về tinh thần. Phát triển như vậy là không đồng bộ, không toàn diện. Có lẽ vì thế mà Hội đồng Giám mục Mỹ châu Latinh tại Puebla đã tuyên bố rằng : rao giảng Đức Giêsu là phát triển đầy đủ nhất và đúng đắn nhất. Đã biết bao lần lương tâm mình cứ bị dằn vặt giữa một bên là phát triển kinh tế và một bên là rao giảng Tin Mừng. Rao giảng Tin Mừng cho người nghèo mà không giúp được họ về vật chất thì không yên tâm. Giúp họ về vật chất, thì chẳng được bao nhiêu mà cũng không chấm dứt được tình trạng nghèo của họ.

Nhưng rồi mình cũng đành tự an ủi, vì có lần Đức cha Bùi Tuần vỗ vai mình và tâm sự: “Tôi chia sẻ với cha trong công tác phục vụ người nghèo. Tôi thấy các bài nhật ký truyền giáo của cha đều hướng về người nghèo. Tôi cũng đã giúp người nghèo, nhưng chưa bao giờ thành công”.

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 7-1-1995

Hôm nay đội khoan huyện Trần Văn Thời hoàn thành bốn cây nước cho bà con kinh Giữa. Vì hảo ý và cũng vì quyền lợi trong tương lai, đội khoan chịu giảm giá một cây nước từ triệu tám xuống triệu bảy. Tổng chi là sáu triệu tám. Gia đình nào được đón nhận cây nước, thì chịu tiền nấu cơm cho thợ và tráng xi măng xung quanh. Mình cũng còn dự tính mỗi năm xin mỗi gia đình hưởng thụ n­ước miễn phí này đóng góp năm ngàn đồng để giúp người nghèo trong xóm. Chưa tuyên bố nhưng chắc là được.

Thanh toán xong món tiền sáu triệu tám, mình xuống xuồng đi Cái Cấm mừng xuân non cha Mười. Cha Mười le lưỡi :

– Anh Tám bạo thật, chưa có tiền mà đã dám đóng giếng cho dân.

– Đó là món nợ phải trả cho câu nói “Ông cố xài nước mưa, còn mình thì uống nước đìa”. Dốc hết các món chi khác như xuồng, tủ sách, tủ quần áo và mượn thêm bốn triệu để xoa dịu lương tâm. Chịu chơi, thì phải chịu chết. Cho thì tốt hơn nhận. Niềm vui của mình là được thấy bà con có nước giếng xài trong dịp Tết.

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 23-1-1995

Hôm nay có mấy ông Hội đồng Giáo xứ đến để cắm chà giữ cá đìa. Mình hỏi :

– Đóng xong bốn cái giếng, dư luận bà con thế nào ?

– Thì cũng có người kêu ca, phân bì : “Tại sao không đóng ở nhà tôi mà lại đóng ở nhà ông M., nhà tôi nghèo hơn mà”.

– Thì tôi đã nói rồi, ai phân bì, kể cả mắng mỏ thì cứ đến tôi. Có lẽ phải đóng cho mỗi nhà một cái giếng thì mới hết kêu ca.

– Chính quyền cũng nói : ”Phân bì sao được. Không lẽ lại đóng cho mỗi nhà một cây. Của đâu mà nhiều dữ vậy” .

Đúng là làm phước phải tội. Lại một vấn đề làm ray rứt lương tâm. Không đóng giếng cho bà con, thì tội nghiệp. Đóng giếng rồi, thì lại có người nói ra nói vô:

– “Cha thương mà thương không đồng” .

Đành vậy. Âu cũng là số phận.

  1. BÀ NĂM

Ô Môn, mùa hè 1963

Mình xách môbylét đi một đường, vừa đi vừa liếc, lòng thầm cầu nguyện để Chúa chọn cho người truyền giáo một nơi dừng chân. Tự nhiên lòng mình thấy ấm hẳn lên khi nhác thấy một căn nhà lá có trồng cây lựu ở phía trước. Trái lựu to bằng nắm tay đang đánh đu theo gió. Như một phản xạ, mình lái môbylét vào tới hàng ba, làm bộ ngắm nghía cây lựu.

Bà chủ nhà, nét mặt hiền từ, mái tóc muối tiêu, nghe tiếng xe nổ và tắt máy vội vàng chạy ra.

– Thầy kiếm ai đó ?

– Chào bác. Cây lựu dễ thương quá, cho tôi ngắm một tí.

– Thì vô trong nhà uống nước đã.

– Bác thứ mấy để tôi xưng hô cho dễ.

– Tôi thứ năm. Thứ của ông nhà tôi.

– Thế bác trai đi đâu rồi, bà Năm ?

– Ông tôi mất từ lâu rồi.

– Bây giờ bà Năm ở với ai ?

– Có hai bà cháu à. Thầy ở đâu mà vô đây ?

– Tôi ở Ô Môn vô đây dạy giáo lý. Sáng vô, chiều về. Đi tới đi lui thấy bất tiện quá. Tôi muốn ở lại đây luôn, mà chưa kiếm được chỗ nào ở cho thuận lợi.

– Thì thầy ở đây với tôi. Nhà rộng rinh à. Thầy ở đây thì cũng như con cháu trong nhà chứ gì.

– Thế bà Năm theo đạo nào ?

– Tôi chẳng theo đạo nào hết. Thờ ông bà vậy thôi.

– Cám ơn Chúa. Cám ơn bà Năm. Vậy ngày mai tôi vô ở luôn nhá.

– Ừa .

——————————————————————————-

Định Môn, … 1963

Mình ở đây được một tuần lễ rồi. Nhà bà Năm vắng như một cái am. Thằng cháu trai của bà thì đi chơi xóm. Mình thì đi dạy giáo lý từ nhà này qua nhà khác. Bà Năm thì lúi cúi tối ngày với mấy liếp vườn. Tối về, mình chui vô mùng ngồi xếp bằng đọc kinh tối. Còn bà Năm thì thắp nhang lâm râm khấn vái. Bà Năm thì ít mồm, còn mình thì ít miệng. Chẳng ai nói với ai lời nào. Thời gian cứ thế mà trôi đi. Âm thầm và lặng lẽ… Còn Chúa Thánh Thần thì lại thích hoạt động trong sự im lặng.

——————————————————————————–

Định Môn, … 1963

Tối nay mình dạy giáo lý tại nhà ông Sáu Đền. Ông Sáu Đền có một bầy con chưa rửa tội. Bà Sáu Đền bây giờ mới chịu học giáo lý để hợp thức hóa hôn phối với ông Sáu. Bà con trong xóm đến nghe lỏm, ngồi đầy hết hai bộ ván. Còn bà Năm thì xách theo cái ghế đẩu đến ngồi ở hàng ba, khi ẩn khi hiện, thập thò như con thòi lòi dưới gốc dừa nước. Không biết bà có bắt được cái giọng “huế” của mình chăng ? Không biết bà có tin Chúa chăng ? Nhưng có một điều chắc chắn là tối nay bà Năm không còn ít mồm nữa. Bà bắt đầu hỏi chuyện, chuyện giáo lý.

– Tôi thấy thầy giảng về Chúa. Cái gì của Chúa tôi cũng chịu hết, mà có một điều này là tôi không chịu. Thầy giải thích được cho tôi thì tôi theo đạo liền.

– Điều gì thế bà Năm ?

– Thầy nói : Chúa yêu thương người ta vô cùng, vậy tại sao Chúa để cho các bà mẹ sanh con cực khổ như thế : chín tháng cưu mang, sanh con rứt ruột, ba năm bú mớm… Tại sao Chúa không để đàn bà sanh con dễ dàng như con gà : đẻ xong là kêu quác quác, cục te, cục tác… rồi đi bươi như không có đau đớn gì?

– Bà Năm suy nghĩ hay quá. Vậy tôi xin tạm giải thích nhá. Chúa cho má bà Năm sanh ra bà Năm dễ như con vịt cũng được. Nhưng tôi sợ rằng nếu mẹ sanh con không đau đớn, không cực khổ thì tình mẫu tử có thể giảm sút. Nếu mẹ không khổ vì con, thì e rằng con sẽ ít hiếu thảo. Cụ thể là nếu má bà Năm sanh bà Năm như gà đẻ trứng, thì chắc chắn má không thương bà Năm nhiều đâu, mà bà Năm cũng chẳng hiếu thảo với má như thế đâu. Người ta thí nghiệm chích thuốc cho một con bò sanh con không đau, thế là khi con bê đòi bú, mẹ nó đá không cho bú. Vậy thay vì buồn Chúa, bà Năm phải cám ơn Chúa mới phải.

Bà Năm có vẻ thấm ý. Mình tấn công luôn :

– Bây giờ bà Năm chịu vô đạo chưa ?

– Thủng thẳng, để tôi còn suy nghĩ.

——————————————————————————-

Ô Môn, … 1963

Mình đã kết thúc một tháng truyền giáo ở Định Môn và giã từ bà Năm vào sáng hôm nay. Còn bà Năm thì đã giã từ mình vào tối hôm qua.

Tối hôm qua. sau giờ giáo lý ở nhà ông Sáu Đền, mình về nhà bà Năm để chui vô mùng, ngồi xếp bằng đọc kinh tối như thường lệ. Nhưng người ở đâu mà đông thế ? Có lẽ bà Năm cúng cơm cho ông Năm, mình nghĩ bụng vậy. Bà Năm bưng ra hai mâm cháo vịt đặt trên hai bộ ván, rồi bà long trọng tuyên bố lý do :

– Ngày mai ông thầy đi rồi. Từ ngày ông thầy đến ở đây với tôi chưa ăn với tôi bữa cơm nào. Hôm nay tôi đãi ông thầy nồi cháo vịt. Bà con ăn cháo để từ giã ông thầy.

Mình ngẩn tò te. Quả thật, bà Năm ít miệng và kín miệng quá. Nấu cháo vịt đãi mình mà mình không hề hay biết gì. Bây giờ mình đứng xớ rớ chẳng biết đáp từ ra sao. Chỉ biết nói một lời :

– ”Cám ơn bà Năm, cám ơn bà con” , rồi kéo giò lên bộ ngựa húp cháo với bà con. Thì ra ngày đến cũng như ngày đi : một người ít mồm, một người ít miệng với căn nhà lặng lẽ, bên cạnh cây lựu có một trái cô đơn, lặng lẽ đánh đu với gió.

——————————————————————————–

Sài Gòn, … 1964

Hôm nay cha sở Ô Môn viết thư báo tin : ”Bà Năm đã được rửa tội và hiện đang giữ đạo thật sốt sắng. Tạ ơn Chúa. Bà Năm nhắc thầy nhiều lắm. Kỳ hè này thầy nhớ tặng quà cho bà”.

Mình ôn lại tất cả mọi kỷ niệm về bà Năm với một tấm lòng biết ơn và cảm mến. Bà Năm hiền như củ khoai, lặng lẽ như con sò, cần cù như con kiến. Xóm giềng ai cũng thương. Điều đặc biệt là bà rất thương bà Năm lớn. Ông Năm chết đi để lại hai bà vợ, bà Năm lớn và bà Năm nhỏ. Hai bà ở hai căn nhà liền ranh. Bà Năm lớn sắc sảo với cặp mắt long lanh và đôi môi mỏng tanh. Bà Năm nhỏ thì hiền từ với đôi môi hơi dày. Bà Năm lớn có vẻ tự cao tự đại. Bà Năm nhỏ thì khiêm tốn hiền hòa. Họ chẳng cãi nhau, chẳng nói xấu nhau bao giờ. Nồi chè nồi cháo bên này đều được san sớt sang bên kia. Không biết bà Năm lớn có theo đạo như bà Năm nhỏ không nhỉ ?

——————————————————————————–

Ô Môn, … 1964

Hôm nay mình vô Định Môn thăm bà Năm nhỏ. Mình tặng cho bà một chuỗi hột tuyệt đẹp. Hôm nay mình mới thấy bà Năm cười hết cỡ. Cái môi dày của bà được kéo mỏng ra. Bà nhí nhảnh hỏi ngay :

– Thầy có cho bà Năm lớn một chuỗi không ?

– Tôi chỉ có một chuỗi tặng bà Năm thôi.

– Vậy thì tôi hổng nhận đâu. Hai chị em tôi phải đồng đều. Tôi theo đạo, bà Năm lớn cũng theo đạo. Tôi có chuỗi hột, thì bà Năm lớn cũng phải có.

Mình tiu nghỉu bỏ chuỗi hạt vào túi và định bụng đi Sàigòn mua một chuỗi nữa để tặng đồng đều cho hai bà vợ của một người đã chết. Quả thật trên đời có nhiều chuyện lạ.

Chuyện lạ thứ nhất :

Là hai bà vợ không ghen nhau mà yêu nhau như chị em ruột.

Chuyện lạ thứ hai :

Là Thánh Thần lợi dụng chế độ đa thê để ban đức tin theo kiểu hốt hụi.

Quả thật Chúa Thánh Thần là “Đấng sửa lại mọi sự trong ngoài chúng tôi” . Người muốn thổi đâu thì thổi. Người đến từ đâu : không biết; Người sẽ đi đâu : không biết. Chỉ biết một điều là có Ngài và Ngài là chủ chốt của sự nghiệp truyền giáo.

  1. CHỊ CHÍN

Bến Bọng, ngày 28-1-1975

Chín giờ đêm hôm qua (giờ Sàigòn) mình đặt chân vô nhà chị Chín. Người dẫn đường nói nhỏ gì đó với chị Chín ở phía sau nhà… Chị Chín ra gặp mình, tay cầm đèn bánh ú. Chị liếc nhìn mình một cái rồi chỉ cho mình cái bộ ván :

– Anh ngủ ở đây. Chị nói gọn lỏn có bấy nhiêu, rồi vô nhà trong. Mình căng mùng. Phòng trong, ánh đèn còn le lói. Phòng ngoài, chỉ còn một cọng nhang với một đốm đỏ.

Mình chưa nhắm mắt được, vì còn phải lượng định tình hình đang diễn tiến một cách thật hồi hộp. Nghe động tĩnh bên trong, mình hiểu phòng trong có hai người : người con trai chỉ nằm cách mình một tấm vách bằng lá buông; còn chị Chín thì nằm cách đó chừng năm mét, ngay sau bàn thờ. Như vậy có nghĩa là chị Chín ở giá nuôi con. Cây nhang còn đốm đỏ kia là hương hồn của anh Chín.

Sáng nay mình còn đang ngồi thẫn thờ trên bộ ván, thằng con trai tên Phong còn đang ngủ nướng ở bên kia tấm vách lá, thì chị Chín xăm xăm đến trước mặt mình. Chị vào đề một cách đột ngột :

– Anh đừng nói với người ta là tôi không nói chuyện với anh. Tôi là đàn bà giá, còn anh là ng?ời tu hành.

Nói xong chị đi thẳng vào phía trong, ra cửa sau, rồi biến đi đâu mất. Mình chẳng hiểu gì cả. “Người ta” là ai ? Phải chăng “người ta” muốn chị Chín quen thân với mình mà chị thì từ chối, nhưng lại sợ “người ta” biết ? Lạ thật, suốt ngày hôm nay mình không hề thấy bóng chị Chín, ngoài hai lần chị bưng mâm cơm ra để trên bộ ván, chỗ mình ngủ. Mình chỉ thoáng thấy cái lưng của chị và sau đó là tiếng chị vọng ra từ phía nhà trong :

– Anh Tám ăn cơm với thằng Phong. Tôi ăn sau.

——————————————————————————–

Bến Bọng, …5-1975

Chị Chín đi chơi Cà Mau và mới về hôm qua. Mình đứng nói chuyện với Phong, thằng con trai của chị. Nó sắp đi bộ đội, nên muốn nói chuyện với mình thật nhiều. Ba của Phong hy sinh từ hồi Phong lên năm. Năm nay Phong 18 tuổi. Như vậy là chị Chín đã ở góa được 13 năm. Bỗng mình phát giác có một tấm ảnh 6×9 mới toanh cài trên vách. Đó là một người phụ nữ nông thôn có nước da “mai-liên”. Mình hỏi Phong :

– Hình ai vậy ?

– Má tôi mà anh không nhìn ra sao ?

– Má cậu chụp hồi nào vậy ?

– Má tôi mới đi Cà Mau chụp nè.

Mình xấu hổ quá chừng, vì mình ở đậu nhà chị Chín đã trên ba tháng rồi, mà vẫn chưa nhìn rõ mặt của chị. Chị cố tình tránh mặt mình. Mình ở trước sân, thì chị ở sau vườn. Mình ở nhà ngoài, thì chị ở nhà trong. Ngoài giờ ra đồng, thì chị thường đi xóm. Những ngày đầu chị bưng cơm ra nhà ngoài, rồi vô nhà trong nói vọng ra :

-“Anh Tám ăn cơm đi”. Những ngày kế đó, thì chị chỉ nói vọng ra :

-“Có cơm rồi, anh Tám vô bưng ra mà ăn”.

Những ngày đầu mùa mưa, chị ra đồng làm cỏ đám mạ, mình tự nấu cơm lấy mà ăn. Mấy ngày hai mẹ con chị đi Cà Mau, thì mình vừa nấu cơm cho mình, vừa nấu cháo cho heo. Các buổi tối, chị thường đi chơi xóm thật khuya và chỉ về vào lúc mình đã yên giấc.

Quả thật có một cái gì đó không bình thường chút nào giữa bà chủ nhà và người khách không mời mà đến.

– Năm nay anh Tám mấy mươi rồi, bỗng Phong hỏi mình ?

– Mấy mươi hả ? Con chuột, ba mươi chín tuổi.

– Má tôi tuổi trâu. Vậy là anh hơn má tôi một tuổi.

Phong có ý nghĩ gì khi so sánh tuổi chuột với tuổi trâu, tuổi của mình với tuổi của má hắn. Không lẽ hắn lại muốn có một người cha ghẻ, một điều cực kỳ nghịch tâm lý. Hay có ai đó đã mớm cho hắn ý tưởng ấy ?

——————————————————————————–

Bến Bọng, …5-1975

Sáng nay, thầy Đức lén đến thăm mình và nói lên một chút ưu tư cộng với thương mến :

– Chị Chín giận bố và nói xấu bố.

– Có chuyện gì thế ?

– Chị Chín nói : “Đi làm cỏ đám mạ về mệt muốn chết, muốn nằm võng nghỉ một chút, mà thằng Tám Hậu nó cứ nằm ở đó hoài”.

Mình buồn nhói một cái. Cái võng căng chéo trên bộ ván mà chị Chín đã chỉ cho mình từ hôm mình đến đây. Võng và giường gắn bó với nhau. Mình vẫn thường ngồi trên võng, thả chân xuống giường, kê sách trên đùi mà đọc, kê sổ trên đùi mà viết. Bỗng dưng mình mang mặc cảm xâm lăng hạnh phúc của người chủ nhà.

Không một lời nhận xét, mình xách túi đồ dời sang bộ ván đối diện, để trả cái võng cho người chủ nhà mệt mỏi. Lòng nặng trĩu phiền muộn. Những ngày sống ở đây bỗng trở nên nặng nề quá chừng.

——————————————————————————–

Bến Bọng, …5-1975

Anh Năm Hoạch, người bạn chí cốt của mình đã khẳng định ý muốn của anh như sau :

– Tôi kiên quyết đấu tranh để tôi và anh Tám đổi chỗ cho nhau. Anh Tám qua bên chị Năm. Còn tôi thì từ đó qua bên chị Chín. Bên chị Năm vui hơn, ăn uống thoải mái. Mấy thằng con trai chị Năm đi bắt lịch, gài chuột, bữa nào cũng có thịt nhậu lai rai. Còn tôi ở với chị Chín thì chỉ như hai chị em thôi.

– Tôi biết anh thương tôi, nên mới quyết tâm như thế, nhưng mà không được đâu. Ông Hai đã nói với tôi thế này : “Anh Tám là người thích làm việc trí thức, nên ở bên chị Chín thuận lợi hơn. Nhà chị Chín không có con nít. Vả lại ở đây vắng vẻ, tu hành cũng thuận lợi”

Anh Năm Hoạch nhìn mình bằng ánh mắt thương cảm và phiền trách. Anh cay cú vì thấy mình không chịu đấu tranh để đổi chỗ ở. Ở nhà chị Chín thì ăn uống khắc khổ thật. Có bữa chỉ ăn cơm chan nước dừa mà thôi. Nhưng không vì thế mà hoán chuyển chỗ ở. Mình thấy thế là hèn.

——————————————————————————–

Bến Bọng, …3-1975

11 giờ đêm hôm qua, có tiếng nhừa nhựa của một người đàn ông đi nhậu về.

– Má thằng Phong có còn thức đó không ?

– Anh có quyền gì mà kêu tôi là má thằng Phong. Đồ mắc dịch !

Người đàn ông bước đi trong bóng tối nhạt nhòa, miệng cứ lải nhải câu điệp khúc : “Má thằng Phong ơi ! Má thằng Phong à!” . Nằm trong mùng, mình vẫn tưởng tượng được hình ảnh của người đàn ông ấy : mặt to bè và đỏ gay, cái lưng rộng rinh như tấm phản, mùi rượu phả ra nồng nặc quyện lấy bộ râu muối tiêu mọc lởm chởm.

Phải chăng những câu chuyện nhăng nhít ấy vẫn thường diễn ra vào giờ phút yên tĩnh này. Là người đàn bà góa không có nhan sắc, chị Chín là trái cây vừa tầm tay hái, ai hái cũng được. Nhưng chị lại không để cho ai hái. Chị cứ gào lên :”đồ mắc dịch”, thế là xong. Trong xóm không ai nói xấu chị về chuyện ấy. Mình cảm phục người đàn bà nông thôn chất phác, nhưng giàu nghị lực này. Phải chăng Chúa đã an bài như thế, để hôm nay mình có được một chỗ dựa an toàn ?

——————————————————————————–

Năm Căn, ngày 12-6-1975

Sáng nay ông Mười Thăng cho biết mình sẽ chấm dứt những ngày ăn chực nằm chờ. “Chúng tôi bắt các anh chị vì nghi vấn chính trị. Điều tra thấy không có thì cho về…” Cũng tình cờ chiếc xuồng tam bản từ Năm Căn đến thăm mình, trong xuồng có một chục trái khóm và một nồi thịt cầy. Chị Chín được mời liên hoan với tụi này. Chị vui vẻ nói cười với mọi người và chúc mình mạnh giỏi.

Sau bữa cơm liên hoan và trước khi chia tay, năm ông thầy “quỷ sứ” của mình bưng một mâm khóm đến trước mặt chị Chín, tất cả cùng khúm núm. Út Niệm đại diện anh em khoanh tay thưa:

– Thưa má Chín, chúng con xin cám ơn má Chín đã có công nuôi nấng cha chúng con trong suốt bốn năm tháng qua…

Chị Chín cười như nắc nẻ, mắng yêu :

– Đồ quỷ sứ, mày dám cáp đôi cáp lứa cho cha mày hả?

Mọi người cười hề hà. Còn mình thì ngượng chín cả người. Thì ra xung quanh căn nhà lá này vẫn có những cặp mắt dòm ngó và chờ đợi một tin vui, một tin khôi hài, một tin tuyệt vọng. Chỉ có mình thì cứ tỉnh bơ như con vịt xiêm.

——————————————————————————–

Cà Mau, …6-1975 .

Hôm nay mình mới có giờ để tâm sự với anh Năm Hoạch một cách sâu sắc.

– Anh Năm nè. Hồi đó tại sao anh cay cú đòi đổi chỗ ở với mình vậy ?

– Tôi lo quá, vì thường thường anh Tám ngủ ở cái giường bên kia, bỗng thấy anh Tám đổi sang cái giường bên này, mà giường bên này chỉ cách giường chị Chín có một tấm vách lá buông.

– Như vậy thì anh Năm đánh giá mình hơi thấp đấy.

– Biết đâu đấy, anh hùng thấm mệt thì sao ?

Anh Năm Hoạch cười khằng khặc, cần cổ gật gù như con vịt trống đang đùa với con vịt mái. Anh sung sướng vì những lo âu dồn nén trong đầu anh nay đã qua. Cái cười của anh là cái cười đắc thắng.

  

  1. PHỤ NỮ

Cà Mau, …

Hôm nay mình đọc xong cuốn “Mùa gió chướng” của Nguyễn Quang Sáng. Mình thích Nguyễn Quang Sáng vì ông luôn luôn tìm được lý do để vui cười ngay cả khi đang đứng bên bờ vực thẳm của sự chết : cô du kích không sợ súng Mỹ, nhưng lại hết hồn khi thấy con đỉa; cô cán bộ giao liên nhảy xuống đìa để tránh trực thăng Mỹ, nhưng lại không chịu hụp xuống nước, hoặc chui vào bờ bụi, vì cô tiếc cái mớ tóc mới chải dầu dừa… Nhưng mình nhớ để đời câu nói sau dây của Nguyễn Quang Sáng : ”Đàn bà như sao trên trời…”

Sao trên trời thì vừa dày vừa sáng. Nhưng nó chỉ thật dày và thật sáng vào những đêm thật tối trời. Người đàn bà cũng vậy: họ chỉ ra tay anh hùng khi gia đình và đất nước lâm nguy. Thôi thì thượng vàng hạ cám, cái gì họ cũng làm được. Họ có thể buôn vàng, buôn đô la, rồi lại bán thịt, bán cá, ngồi quạt chuối nướng, ngồi bán ốc, bán bún… Trong khi đó các đấng mày râu chỉ biết thượng vàng mà không thể hạ cám.

Ừ, mà thế thật. Vào thời Tự Đức, khi các linh mục chui lủi trong vách kép, thì các chị Mến Thánh Giá vẫn đem thư của giám mục đến các họ đạo. Và hôm nay tại họ đạo của mình: mình đào mương, bà phước cũng đào mương; mình đi gặt, bà phước cũng đi gặt. Nhưng khi bà phước ngồi bán bún riêu và quạt bánh đa, thì mình giơ tay đầu hàng… Vậy mình phải nghĩ thế nào về vai trò của phụ nữ trong Giáo hội hôm nay ?

——————————————————————————–

Cà Mau, … 1994

Hôm nay một ông bạn không cùng tín ngưỡng đã đến thăm

mình. Không cùng tín ngưỡng, nhưng lại rất thân, đến mức độ có thể xưng hô bằng “cậu, tớ”. Anh thắc mắc đủ điều : nào là “Tại sao linh mục không có vợ”. “Tại sao phụ nữ không làm linh mục?” … Anh kết luận :

– Như vậy là trong Giáo hội sẽ không có bình đẳng nam nữ, bao lâu phụ nữ chưa được làm linh mục.

– Theo tôi nghĩ thì vấn đề là : người phụ nữ có nên làm linh mục hay không, chứ không phải là người phụ nữ có được làm linh mục hay không ? Chính vì thế mà người phụ nữ Việt Nam không hề than phiền khi Nhà nước không đòi hỏi họ phải thi hành nghĩa vụ quân sự như nam giới. Nên quan niệm chức linh mục là một nhiệm vụ hơn là một vinh dự. Mỗi người, mỗi phái chỉ nên lãnh những trách nhiệm hợp với khuynh hướng và khả năng của mình.

– Anh nói có lý, nhưng tôi vẫn chưa hài lòng.

– Chính tôi cũng đã hài lòng đâu, bởi vấn đề phụ nữ là vấn đề của thời đại, đâu có giản dị như thế.

– Như vậy là đánh trống bỏ dùi hả ?

– Không phải tôi bỏ dùi, mà dùi gãy rồi !

Thế là xong. Câu chuyện chuyển hướng sang đề tài đời thường.

——————————————————————————-

 

Sơn Tây, … 1993

Vũ Tất kể cho mình nghe :

– “Các bà Hơmông truyền giáo hăng say lắm. Cứ hết mùa gặt các bà lại đeo gùi lên vai, rồi đi bộ từ Yên Bái qua Sơn La, từ Sơn La qua Lai Châu. Các bà coi cánh đàn ông chẳng ra gì cả. Các bà ấy bảo chồng thế này : Các ông ở nhà để chúng tôi đi truyền giáo cho. Đàn bà chúng tôi thì ăn ít, nói nhiều. Còn đàn ông thì nào ăn, nào uống, nào hút. Ăn, uống, hút cũng hết giờ rồi, còn truyền giáo cái gì nữa…”

– Mình thấy các bà Hơmông nói hay thật. Họ tự thú là đàn bà nói nhiều, nhưng lại biết hướng tật nói nhiều ấy sang sứ vụ truyền giáo.

– Họ tố cáo đàn ông cũng đúng luôn. Đàn ông Hơmông có cái tật hút thuốc phiện. Có người sạt nghiệp vì hút thuốc phiện đấy.

——————————————————————————–

Hiền Quan, …1989

Sáng nay mình đang ăn lót lòng với ông trùm ở trong phòng, thì bà quản từ ngoài cổng đi vào, cắt ngang sân để xuống nhà bếp. Ông trùm nói vọng ra :

– Sướng nhá ! Hôm nay không ăn cũng no nhá !

– Sách “Tháng Đức Bà” cũng chả cho người ta đọc !

Hai câu đối đáp vu vơ làm mình ngẩn ra một lát. À ! thì ra bài giảng tối hôm qua đã gây tiếng vang dữ dội trong họ đạo. Mình nói về thái độ của Chúa Giêsu đối với người phụ nữ. Mình than phiền vì thấy tại quê hương mình người phụ nữ chẳng hề được đối xử công bằng như Đức Giêsu đã làm :

+ Trong Hội đồng giáo xứ không hề có người phụ nữ nào. Vai trò quan trọng nhất của họ chỉ là làm “bà quản dâng hoa”.

+ Họ không được dọn dẹp trong khu cung thánh.

+ Nếu đọc sách thánh, thì họ không được đứng trên giảng đài.

+ Ngay trong nhà bếp họ cũng chỉ nấu cơm, nấu nước và rửa bát dĩa. Mổ gà, chiên cá, làm gỏi, đánh tiết canh… đều do cánh đàn ông đảm trách.

Mình nghiệm ra rằng có một sai lầm rất lớn trong “hội nhập văn hóa”. Xã hội Việt Nam ảnh hưởng sâu đậm văn hóa Khổng-Mạnh. Ở đó “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” . Ở đó “Người phụ nữ phải ở trong nhà thì xã hội mới yên” . Lẽ ra người truyền giáo phải lấy tinh thần kính trọng phụ nữ của Chúa Giêsu để nâng người phụ nữ trong xã hội Việt Nam lên, thì ngược lại họ lấy tinh thần trọng nam khinh nữ của văn hóa Khổng-Mạnh để trùm lên trên Phúc Âm và cơ chế họ đạo.

——————————————————————————–

Sơn Tây, … 1993

Trong buổi họp, anh em linh mục Hưng Hóa bàn về việc tổ chức kỷ niệm 100 năm thành lập giáo phận (1895-1995). Một trong các sinh hoạt dự tính là mở đại hội Ban Hành Giáo toàn giáo phận. Giáo phận có hơn 400 họ đạo. Mỗi họ đạo cử hai đại diện về dự đại hội. Như vậy là có chừng từ 800 đến 1.000 thành viên Hội đồng giáo xứ tham dự. Và toàn là đàn ông. Mình nghĩ ngay đến một tấm hình chụp thật vĩ đại : một ngàn thành viên Hội đồng giáo xứ ! Thật là trùng trùng điệp điệp ! Đó là sức mạnh của giáo phận. Tuyệt vời ! Nhưng bỗng mình thấy có cái gì không ổn.

– Ủa ! Một ngàn thành viên Hội đồng giáo xứ mà không có một người phụ nữ nào sao ? Có bình thường không nhỉ ?

Bỗng mọi người ngẩn ra và cùng cười hì một cái.

  1. ĐÁM TANG BÀ NĂM

Cái Rắn, ngày 16-7-1995

Hôm nay Chúa nhật, sau lễ chiều, bà Sáu Sen hối mình :

– Ông cố ơi ! Ông cố đi rửa tội gấp cho bà Năm Thân. Bà hết biết rồi. Gia đình người ta đem xuồng tới đón.

– Bà Năm xin theo đạo từ năm sáu tháng nay mà chưa rửa tội cho bà được..Thôi mình đi !

Bà Năm nằm im lìm, hai mắt nhắm nghiền. Mình nhắc bà kêu ông Trời bằng cha … xin Chúa rước linh hồn bà về hưởng hạnh phúc thiên đàng với Chúa. Bà cụ cựa cái đầu, nhóp nhép cái miệng. Bà còn tỉnh, nhưng đã kiệt sức.

– Maria, tôi rửa bà nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần.

Mình bắt tay giã từ ông Năm.

– Tôi gởi ông Năm chút tiền để lo cho bà Năm. Tôi sẽ cầu nguyện nhiều cho bà Năm và ông Năm.

– Ông cha nhớ là tôi và bà nhà tôi đã xin theo đạo ông cha. Con út tôi cũng theo đạo ông cha. Còn mấy đứa kia, thì tôi sẽ nói với tụi nó.

Bước xuống xuồng, nhìn trở lại, mình thấy bà con lối xóm đã bắt đầu dựng rạp; căn nhà của ông Năm đã xiêu vẹo; cửa ra vào là một hình bình hành mà hai góc nhọn đã quá nhọn. Có lẽ nó sẽ sập xuống trước khi bà Năm ra đi.

Sở dĩ mình lần khân không muốn rửa tội sớm cho ông bà Năm, vì mình vẫn nghĩ câu nói sau đây là một thực tế : “Đi đạo lấy gạo mà ăn”. Thủng thẳng để chờ đợi là thượng sách. Nhưng nghĩ như thế có xúc phạm đến người nghèo không nhỉ ?

——————————————————————————–

 

Cái Rắn, ngày 17-1-1995

Sáng nay bà Sáu Sen hớt hải báo tin :

– Bà Năm chết rồi ông cố ơi !

– Hồi nào ?

– Hồi khuya nay. Mấy chị em tụi con trực suốt đêm ở bển.

– Hỏi gia đình người ta xem chừng nào thì chôn cất để tôi qua làm lễ an táng.

Bốn giờ thiếu mười lăm, mình xuống xuồng.

Bà con ngồi đầy sân. Mấy chục vành khăn tang đi ra đi vào. Một người đàn ông dõng dạc tuyên bố :

– Trước khi ông cha nhà thờ làm lễ cho bà Năm, con cháu tập họp phía trước. Lên đèn cúng…

– Đem đồ ăn ra !

– Có bấy nhiêu thôi sao ? Cho thêm vài món nữa ! Tội nghiệp bả.

Mấy chục cái đầu cúi rạp xuống để tỏ lòng biết ơn đối với “công đức sinh thành”…

– Tôi xin công bố : nhà thờ giúp một trăm tám mươi lăm ngàn đồng, mười ký gạo và ba bộ đồ; chánh quyền ấp chúng tôi giúp một trăm ngàn đồng. Bây giờ mời ông cha phát biểu cảm tưởng.

Mình dự tính phát biểu cảm tưởng trong bài giảng của thánh lễ. Nhưng ca đoàn chưa tới. Bèn giảng trước thánh lễ để tranh thủ thời gian.

Ai nấy trố mắt, há mỏ để nghe ông cha trệu trạo giọng “Hànội – Sàigòn”. Với giọng nói không ngọt ngào, mình chuyển đến bà con lương dân cảm nghĩ về cái chết theo Kitô giáo : “Chết là trở về với Chúa; chết là khởi đầu cuộc sống vĩnh cửu” . Từ đó mình gởi lời chia vui với bà Năm và xin bà Năm cầu nguyện cho bà con lối xóm, để mọi ng­ười cùng được sum họp với bà trên thiên đàng. Giảng vừa xong, thì ca đoàn tới. Thánh lễ bắt đầu.

– Yêu cầu bà con giữ trật tự, để ông cha làm lễ.

Một người đàn bà đang cho con bú, kéo vội vạt áo xuống. Ai nấy im lặng như tờ. Ca đoàn dìu mọi người vào thế giới thần linh : “Khi Chúa thương gọi tôi về. Hồn tôi hân hoan như trong một giấc mơ…” . Lời nghe thật rõ, nhạc nghe thật dịu. Chắc hẳn người lương dân cũng cảm thấy như mình. Cái chết đẹp như thế đó.

Mình tập trung tư tưởng để dâng một thánh lễ thật sốt sắng. Chúa Giêsu hiện diện ở đây. Mình tha thiết xin Ngài mạc khải cho bà con lương dân đang trố mắt nhìn vào Ngài. Mình tin rằng họ đang gặp Ngài bằng một cách nào đó.

Khung cảnh quá bệ rạc. Cái bàn tròn khập khiễng. Mái lá của hàng ba thấp lè tè không đủ độ cao để mình dâng Mình Thánh lên cao theo thông lệ. Có lẽ những nhà soạn giáo luật khe khắt không cho phép mình dâng thánh lễ trong điều kiện như thế. Nhưng mình thì nghĩ một cách giản dị : Chúa ngự ở đây cũng như Ngài đã ngự trong hang Bêlem. Cần gì phải câu nệ…

Mình kết thúc thánh lễ, thắp cho bà Năm cây nhang cuối cùng rồi trao thời gian còn lại cho ông Hai Dưỡng…

– Bên tôn giáo làm lễ xong. Đạo tì tiến lên. Nghiêm ! Phút mặc niệm bắt đầu. Thôi !

Hai hàng đạo tì lực lưỡng, mặc quần xà lỏn, trần như nhộng, tràn vào, nâng bổng quan tài lên, khom mình xuống chui qua khung cửa hẹp hình bình hành, rồi đi te te ra huyệt cách đó chừng bốn chục mét. Mình xách máy chụp rượt theo.

Tiếng khóc của con cháu xen lẫn với tiếng cầu kinh của các bà hiền mẫu tạo nên một âm thanh loạn xà ngầu, nhưng lại làm tê tái lòng người. Mình chụp vội mấy tấm hình cuối cùng, rồi vội vã trở lại căn lều. Ông Năm ghé tai mình nói nhỏ :

– Cha cho tôi xin cái mùng. Cái mùng cũ, tôi cho bả đem theo rồi.

– Được

Ông Hai Dưỡng kéo áo mình :

– Ông cha ở lại dùng cơm chia buồn với ông Năm.

– Rất tiếc tôi phải về. Xin ông Hai cho tôi kiếu.

– Cũng được, nhưng ông cha uống với tôi nửa cốc rượu cho có cảm tình… Một nửa cốc nữa đi ông cha… Cám ơn ông cha nhiều lắm.

Mình xuống xuồng ra về. Cơm bắt đầu bưng ra. Đó là tấm lòng của chồng con bà Năm đối với thịnh tình của bà con lối xóm. Các bà hiền mẫu của mình cũng ở lại để cầu lễ.

…..

Bây giờ đã hai mươi giờ hai mươi phút. Bà Năm đang gởi xác ở đó, bên hàng bình bát rậm rì. Còn hồn của bà thì có lẽ đang sững sờ trước ngưỡng cửa của Người Cha, mà bà đã biết rất muộn màng.

Trong căn lều xiêu vẹo, mấy chục vành khăn tang đang phân vân không biết là nên ra về hay nên ở lại. Ở lại thì không có chỗ ngả lưng. Ra về thì tội nghiệp cho vong linh người quá cố… Và ở tận miền biển xa tắp tít, một thằng con trai của bà Năm đang đi câu cua, chẳng hề biết mẹ mình đã chết. Chẳng ai đi báo tin cho hắn, vì chẳng biết hắn ở đâu mà tìm.

  

  1. HẠT GIỐNG ÂM THẦM

Định Môn, … 1963

Hôm nay có một gia đình xin theo đạo. Đó là niềm vui lớn của đời truyền giáo, nhưng vẫn phải tìm hiểu.

– Tại sao gia đình bà vô đạo ?

– Tôi thích đạo này từ lâu lắm rồi, từ hồi còn nhỏ tôi đi nuôi mẹ tôi ở nhà thương Cần Thơ. Các bà phước ở đó chăm sóc cho mẹ tôi kỹ lắm. Mấy bả tốt thiệt tốt.

Thế là mình đã thu hoạch một vụ mùa mà ai đó đã gieo giống. Mình nhớ lại Lời Chúa trong Tin Mừng theo Thánh Gioan “Ta đã sai các con gặt hái nơi các con chưa từng lao động vất vả” (Ga 4,38). Người vất vả gieo giống là các nữ tu dòng Chúa Quan Phòng phục vụ tại bệnh viện Cần Thơ. Họ âm thầm khiêm tốn chăm sóc, thăm viếng các bệnh nhân từ ngày này qua ngày khác. Hôm nay có thể họ đã an nghỉ vĩnh viễn tại nghĩa trang nhà hưu Cù Lao Giêng. Hoặc có thể họ đang là những bà ngoại lưng còng, chống gậy đi lang thang trên những con đường tráng xi măng của nhà hưu dưỡng. Họ đâu có biết rằng hôm nay ở Định Môn mình đang gặt những bông lúa mà họ đã gieo từ ba thập niên về trước.

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 17-5-1995

Hôm nay mình đi thăm bà con lương dân cùng với một thành viên Hội đồng giáo xứ. Đi lang thang từ 7 giờ sáng và kết thúc vào lúc 10 giờ 40. Gia đình cuối cùng là gia đình ông bà Tư. Cả hai ông bà đều trên 80 tuổi và cả hai đều không ra khỏi cái giường của mình. Nói chuyện với ông Tư chán rồi, mình rề vô nhà trong nói chuyện với bà Tư.

– Năm nay bà Tư mấy mươi rồi ?

– Tôi tám mốt, còn ông tôi tám hai.

– Bà Tư ăn được nhiều không ?

– Bệnh quá, ăn được chừng lưng chén.

– Bà Tư ngủ được nhiều không ?

– Có khi thức suốt đêm.

– Thức nhiều như vậy thì bà Tư làm gì cho đỡ buồn ?

– Tôi vái Chúa và Đức Mẹ cho tôi mạnh giỏi, đừng có bệnh hoạn gì, cho tới chết luôn. Bệnh hoạn làm cực lòng con cháu quá. Bệnh hoài uống thuốc hết cả tiền.

– Làm sao bà Tư biết Chúa và Đức Mẹ mà khấn vái ?

– Hồi còn bé tôi vẫn đi theo bà Lu-xi. Bả dạy tôi cầu nguyện với Chúa và Đức Mẹ. Hổng biết bây giờ bả ở đâu rồi ? Ông cha biết bà Lu-xi không ?

– Biết, nhưng ít thôi. Tôi biết bà Lu-xi là một nữ tu dòng Chúa Quan Phòng, đã ở Cái Rắn một thời gian và mỗi lần đi đâu thì đưa bà Tư đi theo, năm nay bả thọ trên trăm tuổi, đang ở trên thiên đàng và đang cầu nguyện cho bà Tư theo đạo Chúa.

– Tôi già rồi, không đi nhà thờ được, không đọc kinh được thì làm sao mà theo đạo ?

– Khỏi cần, bà Tư cứ thương Chúa là được rồi. Chúa ở khắp mọi nơi mà…

——————————————————————————–

Cần Thơ, ngày 12-10-1994

Mình đến giáo xứ Bảo Lộc, Cần Thơ để chia sẻ kinh nghiệm truyền giáo với anh chị em thiện chí nhân dịp khánh nhật truyền giáo. Anh chị em trong giáo xứ và vùng phụ cận có rất nhiều kinh nghiệm sống động về truyền giáo. Nhưng người gây hào hứng nhất lại là linh mục Đinh Trọng Tự. Cử tọa thi nhau đặt câu hỏi :

– Cha làm thế nào mà người ta theo đạo nhiều thế ?

– Từ ngày cha về đó, cha rửa tội được bao nhiêu người ?

– Cha kiếm đâu ra tiền để nuôi giảng viên giáo lý ?

– ……….

Linh mục Tự cào bằng mọi câu hỏi bằng một câu trả lời ngang như cua :

– Tôi chẳng làm gì cả. Tôi cứ ngồi rung đùi, hút thuốc lào, thế là người ta theo đạo.

Mình nghĩ bụng: nếu truyền giáo là thế, thì mình làm cũng được. Mình dư khả năng để rung đùi và hút thuốc lào như ai. Sau một phút tếu táo, linh mục Tự khẳng định với một giọng nghiêm chỉnh.

– Đúng thế : Tôi chẳng làm gì trong công tác truyền giáo này. Chính đứa con nít đưa người ta vô đạo. Chính bà già dốt đặc cán mai đã dẫn người ta theo đạo. Chính những người ít ăn ít học truyền đạo. Tất cả chỉ là sức mạnh của đặc sủng. Sau đó linh mục Tự trở về với giọng dí dỏm cố hữu, kể lại những câu chuyện vụn vặt cụ thể, để minh chứng cho lập luận trên của mình.

Nhưng cuối cùng, linh mục cho biết rằng : có rất nhiều người trở lại vì trước đây đã có những kỷ niệm đẹp về đạo của Chúa. Có người hôm nay theo đạo vì trước kia đã học trường đạo; người khác thì theo đạo vì đã có một ân nhân là tín đồ Công giáo; lại có những người khác nữa theo đạo vì cảm phục một tấm gương của một chứng tá Tin Mừng nào đó. Linh mục Tự khoái chí kết luận :

– Hôm nay tôi sung sướng được thu hoạch một mùa bội thu do công lao mồ hôi nước mắt của những người vô danh mà tôi không thể biết được.

Mình tin lời ông bạn Tự, nhưng mình vẫn còn có nhiều thắc mắc. Hy vọng thời gian sẽ trả lời.

  1. CỘNG ĐỒNG CƠ BẢN

Cần Thơ, … 1991

Mình đang ngồi trong phòng khách của dòng Chúa Quan Phòng, liếc thấy mấy xơ ôm sách lên thư viện, sách mới tinh. Cầm lòng không được, mình rượt theo. Mình mượn một cuốn với cái tựa đề là lạ : ”Les Nouveaux Disciples dix ans après” (Những đệ tử mới mười năm sau).

Sách thuộc loại nhẹ, không cần đọc chậm, không cần suy nghĩ. Cứ đọc như chó chạy tro nóng. Bỏ ngủ trưa mà đọc. Thức khuya mà đọc…

Tác giả là một nữ ký giả. Thời gian viết là mười năm. Phần đầu là ghi nhận sự kiện một số nhóm “cộng đồng cơ bản” ra đời và hoạt động thế nào. Phần sau là suy nghĩ và nhận xét về giá trị của các nhóm đó. Phần này là kết quả của mười năm theo dõi. Tác giả chọn 12 nhóm tiêu biểu.

Nhiều nhóm được thành lập bởi một tên cà chớn, xì ke, ma túy… Hắn lột xác như một Xaolô trên đường đi Đamát. Hắn quy tụ đàn em để cầu nguyện, chia sẻ Lời Chúa. Hắn sống nghèo và phú thác ngày mai cho Chúa quan phòng. Đàn em của hắn cũng cà chớn như hắn và cũng lột xác như hắn. Không thấy hắn quan tâm gì đến cha xứ và giáo xứ.

Nhưng cuối cùng thì hắn và các đàn em của hắn vẫn tìm đến một linh mục, một tu sĩ để xin làm linh hướng… Hội đồng Giám mục Tây Ban Nha đã phát biểu về “các hắn” thế này :

“Ban đầu thì chúng tôi nghi ngờ. Chúng tôi theo dõi và thấy có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Bây giờ thì chúng tôi đối thoại và giúp đỡ họ”.

Hôm nay mình mới bắt đầu suy nghĩ về “cộng đồng cơ bản”, một cái tên mà trước đây mình chỉ nghe lơ mơ và chỉ để ở ngoài tai.

——————————————————————————–

Sài Gòn, … 1992 .

Mình đến Lộc Hưng thăm cha xứ là bạn nối khố của mình. Cha xứ đi vắng, nhưng cửa phòng khách vẫn mở toang để đón mình. Đang ngồi mân mê điếu thuốc lào thì giật mình, vì có hai chú thanh niên đến đứng ngay ở bậc cửa, tướng tá chẳng có vẻ gì là trí thức cả.

– Thưa cha, con xin gặp cha xứ.

– Cha xứ chiều mới về. Anh có chuyện gì thế ? Cho tôi chia sẻ được không ?

– Chúng con lập được một nhóm thiếu nhi, mỗi tối các em đọc kinh tại gia đình. Bây giờ đông quá, trên bốn chục em, không nhà nào chứa nổi. Chúng con đến xin cha xứ xếp cho chúng con đọc kinh tại nhà thờ.

– Chúng con lập nhóm để làm gì ?

– Thấy các em ban tối đi phá xóm, bà con chửi quá, chúng con gom mấy em đó lại học giáo lý, đọc kinh, để khỏi đi phá.

– Chánh quyền có nói gì không ?

– Các chú công an thích chúng con lắm. Từ ngày nhóm hoạt động, trong xóm không còn bị phá nữa.

– Có ai phá chúng con không ?

– Có, mỗi tối chúng con đọc kinh trong nhà, thì ở ngoài cửa có người chọc ghẹo.

– Chúng con đối phó thế nào ?

– Nếu là con nít, thì chúng con đến méc cha mẹ chúng nó. Còn nếu là người lớn thì chúng con chửi ngay vào mặt cho xấu hổ mà chừa.

– Cha xứ có biết chúng con sinh hoạt nhóm không ?

– Không.

– Ngoài việc đọc kinh chúng con còn làm gì nữa ?

– Chúng con nhắc các em những gì cha xứ nhắc ở nhà thờ như là : thiếu nhi đi lễ chiều, đi lễ thì phải vào nhà thờ…

Bây giờ mình mới tìm ra được ý nghĩa của “nhóm cơ bản”. Họ là những người giáo dân làm tông đồ. Họ đi bên cạnh hàng giáo phẩm và luôn luôn hiệp thông với hàng giáo phẩm. Họ là những tín hữu trưởng thành không cần chờ giáo sĩ ra lệnh.

Người giáo dân thời Công vụ Tông đồ đã đi trước hàng giáo phẩm trong việc truyền giáo cho lương dân tại Antiôkia (Cv 10,20). Ở thời điểm ấy ngay cả các tông đồ cũng còn chưa dám bước chân vào nhà người ngoại, huống hồ là loan báo Tin Mừng cho họ (Cv 11,1-3). Họ sửng sốt khi thấy Thánh Thần xuống trên dân ngoại. Do đó người giáo dân trưởng thành có thể truyền giáo không dưới quyền của giáo phẩm mà chỉ đi bên cạnh giáo phẩm và hiệp thông với giáo phẩm.

Mình xấu hổ tự vấn : “Không biết trong giáo xứ của mình, có thanh niên nam nữ nào đang hoạt động nhóm như hai thanh niên này không nhỉ ?”

Chiều tối cha xứ mới về. Mình kể lại câu chuyện hồi trưa và móc họng ông một câu :

– Giáo dân của cậu hoạt động tông đồ như thế mà cậu không biết sao ?

– Biết chứ sao không ? Thiếu gì những nhóm như thế.

Thì ra những nhóm “cộng đồng cơ bản” như thế đang mọc lên như nấm ở dây. Nhưng chỉ ở đây thôi, chứ không phải ở giáo xứ của mình. Mình xấu hổ, cúi đầu làm thinh.

——————————————————————————–

Cần Thơ, … 1992

Hôm nay mình thuyết trình về phương pháp truyền giáo theo Thông điệp Sứ vụ Đấng Cứu Độ, trong đó mình đề cập đến “cộng đồng cơ bản” như một phương pháp vừa mới, vừa phù hợp với thời đại hôm nay. Sau buổi thuyết trình, một ông bạn kéo mình ra riêng, ghé tai nói nhỏ :

-“Bực bội thấy mẹ”, “cá mè một lứa”, “loạn xà ngầu”. Chắc hẳn ông bạn này đã đụng với nhiều nhóm tông đồ như thế trong giáo xứ của mình.

– “Bực bội thấy mẹ”, vì họ tùy tiện, ‘làm tông đồ mà cha sở không hay biết.

– “Cá mè một lứa”, vì họ chẳng coi Hội đồng giáo xứ ra gì.

– “Loạn xà ngầu”, vì họ hỏi ý kiến các cha, các xơ ở đâu đó, chứ không hề hỏi ý kiến cha sở. Đi Sàigòn chia sẻ Lời Chúa. Đi họp ở Sàigòn. Không sinh hoạt với họ đạo, mà thích làm việc ở ngoài họ đạo.

– Đã sống trong Giáo hội là phải có cơ chế, vì chính Chúa thiết lập cơ chế.

Mình nghe một hơi dài về những bất tiện, những bực bội do “cộng đồng cơ bản” đẻ ra. Thì cũng có thế thật. Nhưng chắc chắn một điều là Tin Mừng của Chúa nhờ nó mà đã thấm nhuần vào mọi nơi, mọi chốn mà chính các cha sở chưa từng biết, chưa từng cảm nghiệm. Và cũng có một điều rất chắc chắn là nhiều chủ chăn vẫn thấy giáo dân của mình còn là con nít, nên vẫn cứ muốn được thấy nó khoanh tay thưa :

– Thưa ba, con đi học.

– Thưa má, con đi học về.

——————————————————————————–

Cà Mau, … 1993

6g30 chiều nay mình đứng trước cửa, chờ một người dự tòng đến học giáo lý. Chờ mãi vẫn chưa thấy. Một nhí gái rề rề tới :

– Thưa ông cố mạnh giỏi.

– Con đi đâu vậy? .

– Thưa ông cố, con đi tập hát.

Cứ chuyện nọ xọ chuyện kia, không đầu không đuôi. Bỗng nó khoe :

– Nhóm chúng con góp được gần hai chục ngàn rồi.

– Nhóm gì ?

– Nhóm chúng con có chín đứa, góp tiền tiết kiệm, khi nào được hai chục ngàn, thì chúng con qua bên chợ chia tiền cho người cùi, người ăn xin.

– Thế nhóm chúng con không có tên hả ?

– Nhóm chúng con là nhóm bác ái.

– Ai biểu chúng con lập nhóm ?

– Chúng con lập nên.

Bỗng mình ứa lệ. Nó là con của mình mà chính mình lại không biết nó đang hoạt động tông đồ. Thậm chí mình cũng chưa hướng dẫn nó nữa. Chúa Thánh Thần tác động trong nó. Nó là niềm hãnh diện của mình. Nó chính là “cộng đồng cơ bản” đang nảy sinh ngay trong giáo xứ của mình. Tạ ơn Chúa. Mình trở về phòng, ngồi khóc một mình, khóc vì sung sướng.

  1. NHỮNG CÁI TẾT TRONG ĐỜI TRUYỀN GIÁO

Năm Căn,… 1972

Hôm nay mình dành trọn một ngày để đi mừng tuổi bà con trong xã. Xã nằm theo ven sông dài sáu cây số. Mười hai giờ trưa mình tới rạch Bà Thanh. Bên kia cầu là một căn nhà bằng ván, không sạch sẽ, nhưng có nhiều tiền. Chỉ có một người đàn ông ở nhà.

– Xin lỗi, anh thứ mẩy nhỉ ?

– Tôi thứ tư.

– Còn tôi thứ tám. Tôi là linh mục truyền giáo ở đây, tôi đến để thăm và chúc gia đình anh một năm mới mạnh khoẻ và hạnh phúc.

– Vợ con tôi đi chơi hết trơn không có đứa nào ở nhà…

Trên bàn thờ tổ có hai tô chè xôi nước. Anh Tư bưng một tô xuống. Mình mở cờ trong bụng : Chắc là họ sẽ mời mình đây. Mình sẽ chân thành ngốn cho hết, vì kiến bò bụng quá lẽ rồi. Thế nhưng anh Tư nhìn cái áo dòng của mình, ngần ngừ một lát, rồi lại để tô chè lên bàn thờ. Anh lúng túng như con gà mắc dây thun. Để cứu vãn tình thế, mình cáo lỗi :

– Xin lỗi anh Tư nhé. Thăm anh chút xíu thôi, tôi phải cố gắng để đi thăm cho hết mọi nhà.

Ra khỏi nhà anh Tư, đôi chân mình nhão ra, bước đi thất thểu.

Bốn giờ chiều mình về tới nhà. Đói và mệt lả. Mình lăn kềnh ra giường, để nguyên áo dòng, để nguyên đôi xăng đan. Còn hai giờ nữa mới được ăn cơm, mà trong nhà thì chẳng có thứ gì có thể “ăn vụng” được. Đành phải chờ đợi, chờ đợi là lẽ thường của lịch sử. Mùa Vọng là mùa chờ đợi. Mùa Chay cũng là mùa chờ đợi. Cựu Ước là thời chờ đợi…

Nằm nghỉ và chờ đợi, mình lại nghĩ đến tô chè xôi nước. Anh Tư muốn mời mình ăn, nhưng lại sợ “ông cha” không ăn đồ cúng. Mình sẵn sàng ăn đồ cúng, nhưng vì e lệ chẳng dám nói ra. Cả hai đều “Tình trong như đã mặt ngoài còn e”. Cả hai đều đã bỏ lỡ một thời cơ để đến với nhau. Có lẽ cả hai đều thuộc mẫu người có phản ứng chậm.

——————————————————————————–

Bạc Liêu, … 1984

Hôm nay ngày mồng bốn Tết. Một cô y tá người gốc Hoa đến kéo tay mình :

– Thưa cha, hôm nay ba con mời cha đến nhà ăn cơm trưa. Nhưng mà cha phải đến thật sớm.

– Cha chưa hiểu. Cha không quen ba con. Mà tại sao phải đến thật sớm ?

– Tối hôm qua ba con mới biết tên của cha là Phúc Hậu . Tên cha hên lắm. Nếu biết sớm thì ba con đã mời cha đến xông đất vào ngày mồng một rồi. Nhưng bây giờ mới biết, thì mồng bốn cha xông đất cũng còn được.

Mình đi ngay. Ông chủ nhà đón mình vào không có vẻ gì là niềm nở. Nói chuyện với ông một hơi thì hết đề tài. Đứa con gái của ông mời mình đi thăm nhà, thăm vườn để giết thời giờ.

Bữa cơm gia đình cũng chẳng có gì là thịnh soạn. Mấy món ăn quen thuộc của ngày Tết : bánh tét, thịt kho, dưa chua… Ông chủ nhà nói vài câu. Bà chủ nhà nói ít hơn nhiều. Một mình đứa con gái phải làm công tác “cứu bồ” cho cả hai ông bà. Sau ly trà tráng miệng mình cáo từ ra về. Lãng nhách !

——————————————————————————–

Cà Mau, … 1989

Chuyến xe tốc hành Sàigòn – Cà Mau có vẻ vội vã để kịp về chuẩn bị Tết. Mình ngồi băng hai, chung với một người đàn bà khá đồ sộ ! Có lẽ bà là người rất năng nổ, nên ngồi làm thinh không được. Bà hỏi mình :

– Anh tuổi gì ?

– Tý, con chuột.

– Tôi tuổi Sửu. Tý Sửu hạp nhau lắm, làm ăn mau giàu lắm. Tiếc là “anh em mình” không có số gặp nhau sớm !

– Trâu bự quá mà chuột thì nhỏ xíu, hạp nhau sao đặng ?

Mình ví von như thế, khiến bà Sửu lạc tần số. Bà im lặng suy nghĩ. Lợi dụng sự im lặng ấy, mình tựa đầu ra sau làm bộ ngủ, rồi ngủ thật… Xe về tới bến Cà Mau, thì bà Sửu không còn nữa. Có lẽ bà xuống ở Cầu Số 2 thì phải.

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 1-1-1995

Hôm nay Hội đồng giáo xứ họp. Đề tài : Tết Ất Hợi. Mình thông báo cho Hội đồng giáo xứ biết năm nay cha sở và giáo dân mừng tuổi nhau tại nhà thờ. Sau đó cha sở sẽ đóng cửa nhà xứ để đi mừng tuổi anh em lương dân. Mình cũng yêu cầu Hội đồng giáo xứ cho biết có bao nhiêu gia đình nghèo trong họ đạo để kiếm quà Tết tặng cho họ. Nghe nói thế, Hội đồng giáo xứ nhảy nhổm lên. Ai nấy như đồng loạt tuyên bố : “Thôi, thôi, không dám đâu” .

Bây giờ thì mình hiểu rồi. Tặng quà cho người này mà không cho người kia, thì bị chửi. Tặng người này bằng người kia cũng bị chửi. Bao giờ có máy vi tính đo độ nghèo, và lý do nghèo, thì may ra mới hết bị chửi.

Cuối cùng thì Hội đồng giáo xứ có ý kiến tặng quà Tết cho

người lương. Tất cả đều nhất trí tặng quà cho bốn anh em con nhà Tư Lập. Cha mẹ chết hết, chị lớn đi lấy chồng, thằng con trai lớn nhất có tật. Bốn anh em sống lây lất bằng hai cây cần câu của hai đứa lớn… Mình đồng ý. Cái Tết đầu tiên tại Cái Rắn sẽ là thế.

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 8-1-1995

Hôm nay mình loóc toóc lội bộ đi thăm bốn đứa con nhà Tư Lập để được thấy tận mắt cái nghèo trước thềm năm mới. Luyến 15 tuổi, đi cà nhắc và méo miệng. Lây 12 tuổi đang học lớp hai thì bị đuổi vì vắng mặt nhiều ngày không xin phép. Hai bé Mười và Nghỉ thì về ở với ngoại. Mình phỏng vấn chớp nhoáng.

– Ba tụi con chết hồi nào ?

– Tháng Ba tới thì giỗ đầu.

– Tụi con làm gì để sống ?

– Tụi con đi nhắp câu.

– Có mấy bộ đồ ?

– Ít lắm.

– Có may áo mới ăn Tết không ?

– Không !

Thực ra thì bà con cũng giúp khi ít khi nhiều. Các em có một người chú ở kế bên vẫn cho các em ăn cơm, nhưng chú cũng rất nghèo. Mình tính nhẩm : dư khả năng để cho mỗi em một bộ đồ ăn Tết.

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 14-1-1995

Hôm nay Hội đồng giáo xứ dẫn mình đi thăm một số gia đình lương dân nghèo. Nghèo thì nhiều, nhưng lý do nghèo thì chưa rõ. Có một người phụ nữ 28 tuổi mà đã sanh bốn đứa con. Đứa út đang nằm trong nôi. Chồng đi vác lúa mướn cho nhà máy chà. Vậy thì nguyên nhân của cái nghèo có thể là sinh con nhiều quá. Mình hỏi họ về cái Tết sắp tới. Họ chỉ cười trừ. Mình bắt tay họ và chúc họ làm giàu bằng cách cần cù, tiết kiệm và sanh con vừa đủ thôi. Đối với những người này thì mình chưa biết sẽ tặng họ cái gì đểù đón Xuân đây. Mười ký gạo ? Dễ lắm ! Một vài ký đường ? Cũng dễ lắm ! Điều ước muốn của mình là họ phải cần cù và tiết kiệm. Thiếu hai đức tính này thì đời của họ sẽ không bao giờ có mùa Xuân.

“Đừng cho tôi con cá, nhưng hãy cho tôi cái cần câu và dạy tôi câu cá” . Mình vẫn tâm niệm như thế trong công tác phát triển dân sinh.

  1. TỪ NGỮ NHÀ ĐẠO

Cà Mau, … 1992

Một cô giáo hỏi mình :

– Thưa ông cố, giáo lý viên là gì ?

– Là người dạy giáo lý chứ còn gì nữa.

– Vậy mà con cứ tưởng nó có nghĩa là học viên giáo lý chứ.

Ý kiến của cô giáo bắt mình suy nghĩ. Rút ngắn bốn chữ giảng viên giáo lý thành giáo lý viên cho gọn. Ai ngờ nó lại hàm hồ và luộm thuộm như thế. Không biết người sáng chế ra từ giáo lý viên có thấy điều ấy không. Theo mình thì từ giáo lý viên hiểu được ba nghĩa :

1- Giáo lý viên là người giáo lý, chứ không thể là dạy giáo lý. Giáo viên là người dạy, vì giáo là dạy. Còn giáo trong giáo lý có nghĩa là đạo, chớ không phải dạy. Nếu giáo lý viên hiểu là

người giáo lý thì chẳng có nghĩa gì.

2- Giáo lý viên là giảng viên giáo lý.

3- Giáo lý viên cũng hiểu được là học viên giáo lý.

Người trí thức lương dân khi gặp từ giáo lý viên chắc sẽ lúng túng như cô giáo nọ. Không biết phải hiểu nghĩa nào : học viên giáo lý hay giảng viên giáo lý.

Dù sao thì từ giáo lý viên cũng đã dược sử dụng một cách khá phổ biến rồi. Chắc rồi nó cũng sẽ được hợp thức hóa một cách miễn cưỡng như sự đã rồi, giống như nói “Đi khám bác sĩ” mà phải hiểu ngược lại là “đi để được bác sĩ khám” vậy.

Mình không ưa từ giáo lý viên, nhưng cũng đành dùng nó như một sự đã rồi. Trong bụng vẫn cứ tức anh ách và muốn biết bố nào đã sáng chế ra nó để nói nhỏ một câu : “Bố ơi. đừng sáng chế một cách tùy tiện bố ạ !”

——————————————————————————–

Cà Mau , ngày… 1993

Hôm nay mình gặp lại một ông bạn đã từng lăn lộn trên tuyến truyền giáo Năm Căn ngày xưa. Anh em bùi ngùi ôn lại kỷ niệm vui buồn. Nói chuyện nghiêm chỉnh chán, rồi quay sang

chuyện tào lao :

– Hồi đó em gặp một ông sồn sồn. Ông khoái đạo lắm. Ông vô đạo liền nhưng có một số từ ngữ mà ông không thể đọc được. Ông kể ra một rổ :

Đọc : “Chúa Giêsu là Cha kẻ khó khăn” có khác gì nói : “Chúa khó khăn tổ cha” . Thật là lộng ngôn.

“Ai chịu khốn nạn vì đạo ngay, ấy là phúc thật” . Eo ơi ! Tôi hổng chịu cái từ “khốn nạn” ấy đâu, nghe ghê quá à !

“Rất Thánh Trái Tim Đức Chúa Giêsu” nghe mài mại như “Rất ngọt trái cam, rất cay trái ớt” , văn phạm gì mà kỳ cục quá!

“Bớ con thành Giêrusalem, chớ khóc thương tao làm chi, một khóc thương bay và con cháu bay ngày sau phải khốn mà chớ” . Viếng chặng đàng, cứ tới câu này là tôi làm thinh. Chúa đâu có xưng hô như vậy ?

………

Chuyện tào lao, nói xong rồi thì bỏ đi, nhưng mình không bỏ được. Khi nghe kể thì cười hề hề một cách vô tư, nhưng tối đến mình lại thấy xót xa. Không ngờ rằng trên đường truyền giáo, người tông đồ lại phải gặp những cái khó khăn vô duyên như thế.

Văn dĩ tải đạo. Ngôn ngữ là phương tiện chuyên chở tư tưởng, giải nghĩa tư tưởng. Ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng trong việc trình bày giáo lý. Đức Giêsu đã dùng ngôn ngữ và hình ảnh bình dân Do Thái để trình bày Nước Trời cho người Do Thái. Văn ấy để tải đạo ấy là tuyệt vời. Nhưng các nhà truyền giáo thời xưa không có điều kiện thuận lợi để tìm được văn chính xác mà tải đạo. Nhưng còn người truyền giáo ngày nay thì sao ? Có nên lấy cái văn khập khiễng ấy để tải cái chân lý vuông tròn của Chúa không ? Chính mình có nhiệm vụ phải trả lời câu hỏi ấy. Mà câu trả lời thì vẫn chưa có.

——————————————————————————–

Cà Mau, … 1994 .

Hôm nay mình đọc bài “Giáo lý viên là người học Giáo lý?” của Nguyễn Ngọc Huỳnh. Hai ông bạn cùng đọc và nhìn mình bằng ánh mắt tội nghiệp.Một cô giáo tỏ vẻ thất vọng:

– Cha viết báo làm chi để cho chúng chửi ?

– Người ta có quyền chửi. Có thế mới hay chứ.

Mình vui vẻ sao chép bài báo của N.N.H. như một món quà quý.

GIÁO LÝ VIÊN LÀ NGƯỜI HỌC GIÁO LÝ ?

Trên trang Văn hóa của Tuần báo Công Giáo và Dân Tộc số 974 ra ngày 4-9-1994, linh mục Ngô Phúc Hậu cho rằng từ giáo lý viên đã được “sáng chế một cách tùy tiện”. Trên trang Bạn đọc của Tuần báo Công Giáo và Dân Tộc số 975 ra ngày 9-10-1994, “một nhóm giáo dân thuộc Giáo phận thành phố HCM” đã đề nghị tìm “một danh từ thích hợp để thay thế cho danh từ giáo lý viên”.

 

Theo thiển ý của chúng tôi, danh từ giáo lý viên là một danh từ đã được cấu tạo đúng qui tắc ngữ pháp, và chẳng có lý do gì để phải miễn cưỡng chấp nhận nó hoặc thay thế nó bằng một từ khác.

 

Cũng như các danh từ giáo viên, học viên, phát ngôn viên, thuyết trình viên, hội viên, đảng viên, chính trị viên, kỹ thuật viên, chuyên viên… , danh từ giáo lý viên là một danh từ nằm trong nhóm danh từ chỉ chức vụ, nghề nghiệp được cấu tạo theo quan hệ hạn định có yếu tố “viên”. Có thể chia nhóm danh từ này thành ba nhóm nhỏ :

 

1- Nhóm một : gồm những từ được cấu tạo theo mô hình (1) [(động từ) + “viên”] ,

 

Ví dụ : giáo viên, học viên, phát ngôn viên, thuyết trình viên, cổ động viên, quan sát viên…

 

 

 

 

2- Nhóm hai : gồm những từ được cấu tạo theo mô hình (2) [(danh từ) + “viên”]. Nhóm này lại có thể chia đôi thành :

 

  1. Những từ mà yếu tố đứng trước “viên” vốn là một danh từ chỉ một tổ chức, một đoàn thể. Mô hình của những từ này là: (2a) : [x + “viên”]

 

Ví dụ : hội viên, đảng viên, đoàn viên, đảng ủy viên, chi ủy viên, nghị viên…

 

  1. Những từ mà yếu tố đứng trước “viên” vốn không phải là một danh từ chỉ một tổ chức, một đoàn thể. Mô hình của những từ này là (2b) : [y + “viên”]

 

Ví dụ : kỹ thuật viên, giáo lý viên, chính trị viên, điện báo viên, điện thoại viên…

 

3- Nhóm ba : gồm những từ được cấu tạo theo mô hình (3)

 

[(tính từ) + “viên”] :

 

Ví dụ : chuyên viên…

 

Những từ thuộc nhóm một, trong đa số trường hợp, có thể bỏ yếu tố “viên” ởû cuối và thay bằng yếu tố “người” ở đầu mà nghĩa vẫn không đổi.

 

Ví dụ : phát ngôn viên – người phát ngôn; hướng dẫn viên – người hướng dẫn; cộng tác viên – người cộng tác; học viên – người học… (Ở đây chúng tôi không bàn đến vấn đề “người phát ngôn”, “người cộng tác”… có phải là các danh từ hay không). Những từ thuộc nhóm hai không có tính chất đó. Chúng ta không được hiểu chính trị viên là người chính trị, kỹ thuật viên là người  kỹ thuật… Do đó, đúng như linh mục Ngô Phúc Hậu đã viết, “nếu hiểu giáo lý viên là người giáo lý thì chẳng có nghĩa gì” (bài đã dẫn).

 

Những danh từ chỉ chức vụ, nghề nghiệp được cấu tạo theo mô hình (2b) có nét nghĩa chung là : chỉ một người làm việc và/ hoặc phụ trách, có trách nhiệm… trong / về lãnh vực mà yếu tố y đứng trước “viên” biểu thị. Ví dụ: kỹ thuật viên là người phụ trách về kỹ thuật, chính trị viên là người phụ trách công tác chính trị (trong quân đội)… Các từ này không có nghĩa là “người học…”: không ai hiểu kỹ thuật viên là người học kỹ thuật, chính trị viên là người học chính trị… Cũng tương tự như vậy đối với các từ điện thoại viên, điện tín viên…

 

Vì thế chúng ta không có lý do gì để hiểu giáo lý viên là người học giáo lý cả.

 

Theo cách hiểu thông thường hiện nay, chính trị viên là cán bộ phụ trách công tác chính trị, kỹ thuật viên là cán bộ phụ trách công tác kỹ thuật trong một tổ chức nào đó, điện báo viên là nhân viên làm điện báo, điện thoại viên là nhân viên làm việc ở tổng đài điện thoại… (xem Từ điển Tiếng Việt 1994 – giáo sư Hoàng Phê chủ biên – Hà Nội : Trung tâm Từ điển Học và Nxb Giáo Dục, 1994). Cũng vậy, hiểu giáo lý viên là cán bộ làm công tác giáo lý trong xứ đạo là cách hiểu hết sức bình thường.

Trong thực tế hiện nay, làm công tác giáo lý trong xứ đạo là làm công tác dạy giáo lý trong xứ đạo. Cách hiểu giáo lý viên là cán bộ làm công tác dạy giáo lý trong xứ đạo (hay hiểu nôm na là người dạy giáo lý) do đó là cách hiểu rất hợp lý.

 

Rõ ràng việc sáng chế từ giáo lý viên không hề có tính chất tùy tiện, mà trái lại, đã tuân theo một cách nghiêm túc những qui tắc cấu tạo danh từ trong tiếng Việt hiện nay. Chính cách hiểu giáo lý viên là người học giáo lý mới có tính chất tùy tiện.

 

 

Nguyễn Ngọc Huỳnh

——————————————————————————–

Cái Rắn, … 22-11-1994

Hôm nay mình thảo lá thư ngỏ gởi Nguyễn Ngọc Huỳnh để làm sáng tỏ thêm về từ Giáo lý viên. Đây là yêu cầu của Tư Vinh.

THƯ GỬI ANH NGUYỄN NGỌC HUỲNH

(Xin được tạm xưng hô với Nguyễn Ngọc Huỳnh là ANH, vì chưa được biết N.N.H. là ông hay bà, anh hay chị.)

Anh Huỳnh mến,

 

Tôi đã đọc bài “Giáo lý viên là người học giáo lý ?” của Anh đăng trên CGvDT số 982. Tôi mừng quá, vì đã có thêm một người tham gia vào công việc đi tìm ngôn ngữ cho nhà đạo.

 

Phải có tranh luận như thế thì vấn đề mới sáng ra được.

 

Cám ơn Anh đã có công nghiên cứu viết một bài có giá trị khoa học (nhận xét của một linh mục bạn của tôi) giúp tôi có thêm kiến thức về vấn đề ngôn ngữ.

 

Dưới đây là những mẩu tâm tư của tôi, xin được gởi tới Anh, mà từ hôm nay tôi coi như một người bạn.

 

1- Chúng ta đang có và đang sử dụng từ giảng viên giáo lý và học viên giáo lý. Tự nó đã có nghĩa là người dạy giáo lý và học giáo lý. Bỗng dưng xuất hiện từ giáo lý viên. Tôi nghĩ rằng có ai đó đã rút ngắn từ giảng viên giáo lý thành giáo lý viên cho gọn. Đó cũng là cách tạo từ ngữ thông thường. Vào thời kháng chiến 9 năm người ta đã đổi từ “Ủy ban Kháng chiến Hành chính” thành “Ủy ban Hành Kháng”. Từ “Hành Kháng” chẳng có nghĩa gì, nhưng cấp trên bảo rằng : nó là Ủy ban Kháng chiến Hành chính đấy. Ngày nay người ta cũng đã đổi từ “Khối Văn hóa Xã hội” thành “Khối Văn Xã”. Từ văn xã, tự nó có nghĩa là nhóm làm văn cũng như thi xã là nhóm làm thơ (Câu thơ thi xã, con thuyền Nghệ An), nhưng cấp trên bảo rằng : nó là văn hóa xã hội đấy. Như vậy là cấp trên đã tạo ra một từ ngữ và gán cho nó một nội dung không hợp lý, nhưng lại hợp pháp. Trong trường hợp này ngôn ngữ là một quy ước.

 

Còn từ giáo lý viên, nếu được rút ngắn theo nguyên tắc vừa kể, thì tự nó có thể hiểu theo hai nghĩa : giảng viên giáo lý, hoặc học viên giáo lý. Phải chi có bề trên bảo rằng : giáo lý viên là giảng viên giáo lý đấy, thì khỏi thắc mắc làm chi.

 

2- Nhưng như Anh cho biết : từ giáo lý viên không được cấu tạo theo cách rút gọn, mà được cấu tạo theo mô hình [danh từ + “viên”] để chỉ chức vụ, nghề nghiệp. Do đó giáo lý viên có nghĩa là người chuyên trách về giáo lý, cũng như chính trị viên là người chịu trách nhiệm về quan điểm chính trị trong một đơn vị quân đội. Tôi đồng ý với Anh như thế.

 

Nhưng tôi lại không đồng ý với Anh rằng : “Trong thực tế hiện nay, làm công tác giáo lý trong xứ đạo là làm công tác dạy giáo lý trong xứ đạo. Cách hiểu giáo lý viên là cán bộ làm công tác dạy giáo lý trong xứ đạo… là rất hợp lý” . Điều anh cho là hợp lý và hết sức bình thường, thì tôi lại cho là chưa hợp lý và chưa bình thường.

 

Đây là ý nghĩ của tôi : Từ giáo lý viên có thể hiểu nhiều nghĩa khác nhau. Nói cách khác nó có một nội dung rất rộng.

 

1- Nếu hiểu giáo lý viên là người chịu trách nhiệm về nội dung và sinh hoạt giáo lý trong họ đạo, cũng như chính trị viên là người chịu trách nhiệm về quan điểm chính trị trong một đơn vị quân đội, thì giáo lý viên chính là cha xứ. Cha xứ có nhiệm vụ giữ gìn sự trong sáng của đức tin, có nhiệm vụ tổ chức cho mọi người tín hữu được học giáo lý, có nhiệm vụ tuyển chọn giảng viên giáo lý, huấn luyện họ, hoặc cho họ đi học sư phạm giáo lý, có nhiệm vụ đôn đốc, kiểm điểm và khích lệ các giảng viên giáo lý.

 

2- Nếu hiểu giáo lý viên là người có khả năng chuyên môn về giáo lý và sư phạm giáo lý, thì người ấy là người được cha xứ trao trách nhiệm tổ chức các lớp giáo lý trong họ đạo. Người chuyên trách ấy có thể là cha phó, tu sĩ hoặc một người tín hữu nào đó trong họ đạo.

 

3- Giáo lý viên cũng là những người dạy giáo lý trong họ đạo. Họ là người cộng tác viên của cha xứ, cùng chia sẻ trách nhiệm của một giáo lý viên với cha xứ. Họ là giáo lý viên hiểu theo nghĩa rộng nhất. Cũng như cha xứ là giáo lý viên hiểu theo nghĩa hẹp nhất.

 

Khi một từ có ba nội dung, mà chỉ hiểu về một trong ba nội dung thôi, thì phải có sự nhất trí chung và rộng rãi. Hoặc giả phải có một chỉ thị của một cấp có thẩm quyền nào đó.

 

4- Nếu một ngày nào đó những từ quen thuộc và rất rõ nghĩa như giáo sư Thánh Kinh, giáo sư Thần học… được đổi thành Thánh Kinh viên, Thần học viên thì sao ? Người sáng chế những từ ngữ ấy cũng sẽ lý luận rằng : Những từ ngữ mới này được cấu tạo đúng quy tắc ngữ pháp : một danh từ + viên; danh từ trước “viên” biểu thị nghề nghiệp, khả năng chuyên môn. Thánh Kinh viên lúc đó sẽ có nghĩa là người dạy Thánh Kinh, giáo sư Thánh Kinh.

 

 

Cũng được thôi, miễn là nó được quảng đại quần chúng chấp nhận.

 

5- Chuyện đã rồi, nhưng tôi ước mong rằng phải chi người ta cứ dùng từ giảng viên giáo lý mà không đổi thành giáo lý viên. Từ giảng viên giáo lý, tự nó đã nói hết cái nội dung là người dạy giáo lý rồi. Còn từ giáo lý viên phải được lý luận là người chuyên trách về giáo lý trong họ đạo, rồi phải lý luận thêm rằng người cán bộ chuyên trách giáo lý viên trong họ đạo chính là người dạy giáo lý vậy. Sau hai lần lý luận như thế kết quả vẫn là cái vỏ và cái ruột không khít với nhau : Từ giáo lý viên là cái vỏ thì quá rộng, mà cái ruột là người dạy giáo lý thì chiếm chưa hết một phần ba dung tích của cái vỏ.

 

Anh Huỳnh mến,

 

Đó là vài ý kiến thô thiển góp thêm vào cuộc bàn luận. Mong anh có thêm ý kiến khác nữa, để ý kiến trao đổi được thêm phong phú.

Cái Rắn, ngày 22-11-1994

  1. KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO

Cà Mau, Chúa nhật 17-8-1988

Hôm nay mình bước lên giảng đài một cách hiên ngang hơn bao giờ hết. Mình dõng dạc tuyên bố : Năm nay chúng ta sẽ mừng ngày truyền giáo một cách long trọng.

1- Mỗi người lớn bé già trẻ đều mời bạn lương dân của mình đến dự lễ. Người lương dân tới thì người đạo nhường ghế ngay. Đạo đời hiểu nhau sẽ dễ dàng gây tình đoàn kết dân tộc.

2- Mỗi người hãy hỏi bạn lương dân xem họ thắc mắc điều gì và gởi thắc mắc đó cho cha sở biết trước để giải đáp trong thánh lễ.

3- Sau thánh lễ mỗi người hãy mời bạn lương dân của mình ghé quán hoặc về nhà liên hoan mặn nhạt tùy nghi. Yêu thương nhau thì phải ăn uống với nhau. Trong bữa liên hoan hãy hỏi xem bạn lương dân có cảm tưởng gì về thánh lễ.

4- Để bạn lương dân khỏi bỡù ngỡ, nên nhắc họ :

– Đứng và ngồi như người công giáo cho vui.

– Nhưng khi người công giáo quỳ, thì bạn lương dân cứ ngồi, vì quỳ là cử chỉ thuần túy tôn giáo và dành cho người có niềm tin.

5- Mỗi gia đình hãy nhắc nhau cầu nguyện cho anh em lương dân sẽ tham dự thánh lễ truyền giáo. Nên noi gương Đức Gioan 23, xin trẻ em, ông bà già và người bệnh tật cầu nguyện tiếp, vì lời cầu nguyện của họ đáng được Chúa chấp nhận hơn hết.

6- Nhà thờ phải được trang trí đẹp tối đa. Ca đoàn phải tập dượt để hát thật hay. Phụng vụ Giáo hội được tổ chức chu đáo sẽ là bối cảnh thuận lợi đưa tâm hồn lương dân vào khung cảnh thần linh. Người lương dân sẽ cảm thấy đứng tim khi mọi người cùng hát và bất ngờ khi mọi người im lặng như tờ.

7- Chính Chúa Giêsu hiện diện trong thánh lễ sẽ đưa các tâm hồn lên với Chúa Cha. Ngài sẽ chinh phục các tâm hồn cứng cỏi mà ta không đủ sức chinh phục. Đó là kinh nghiệm của Philíp. Philip hí hửng khoe với Natanaen rằng :”Tôi đã gặp Đấng mà Môsê và các tiên tri loan báo, đó là Đức Giêsu con ông Giuse, người làng Nadarét”. Natanaen cả cười làm Philíp cụt hứng : “Ôi Nadarét ! Nadarét thì có gì hay ho đâu”. Bí lối, Philíp chỉ còn biết trả lời : “Thì anh đến mà xem”. Quả thật khi Natanaen đến gặp Chúa thì ông bị chinh phục ngay tức khắc.

——————————————————————————–

Cà Mau, Chúa nhật 24-8-1988

Hôm nay mình bước lên giảng đài ủ rũ như con gà trống bị dầm mưa. Hết một tuần rồi mà chưa nhận được một lời thắc mắc nào của lương dân gởi tới. Chưa thấy người giáo dân nào mời bạn lương dân đi dự lễ ngày truyền giáo. Mình không giấu diếm nỗi thất vọng ngay trên giảng đài này, nơi mà cách đây một tuần mình đã hí hửng như con nít xách đèn trung thu đi dạo phố.

Phải có một kế hoạch cụ thể hơn nữa.

1- Phải tiếp xúc với một số người nòng cốt như giáo viên, công nhân viên bệnh viện… trao đổi với họ về cách thức mời lương dân, cách thức xin những câu thắc mắc và cách thức trao đổi trong bữa liên hoan.

2- Phải tiếp xúc ngay với một số người lớn tuổi, năng nổ để đốc thúc họ và nhờ họ đôn đốc bạn bè.

3- Phải nhờ các khu trưởng đến thăm những người bệnh hoạn tật nguyền để xin họ mỗi ngày lần một chuỗi Môi khôi cho lương dân.

4- Cứ mỗi ngày Chúa nhật phải nhắc lại chương trình tổ chức lễ truyền giáo như một điệp khúc.

——————————————————————————–

Cà Mau, Khánh nhật truyền giáo 1988

Chiều nay sân nhà thờ tấp nập khác thường. Người công giáo và không công giáo tay trong tay đi dạo xung quanh nhà thờ. Các bà các cô khoe những chiếc áo dài mới may, may để đi dự lễ.

Hôm nay mình không ngồi tòa, nên đi lượn lờ khắp khuôn viên nhà thờ. Thấy mình, người giáo dân cười toe toét giới thiệu lia chia :

– Cha, bạn lương dân của con nè !

– Cha, đây là chị Năm, vợ của ông trưởng khóm. Chị Năm mới may áo dài để đi dự lễ đó.

– Ông cố, thằng bạn của con nó muốn theo đạo.

– Con xin giới thiệu với cha ông Tư Giỏi. Ổng ngoại nhưng mến đạo lắm.

– Lễ xong, mời cha đi liên hoan với tụi con nghe !

– ……..

Chuông nhà thờ đổ hồi. Dòng người tràn vào nhà thờ như thác lũ. Bạn đạo dành chỗ cho bạn lương. Các bà phước, các ông bà trưởng khu lăng xăng đi tìm chỗ cho người lương dân đến trễ. Lâu lâu lại có một người đứng dậy nhường chỗ cho một người mới tới… Hết chỗ ! Có những bàn tay giơ lên, lắc lắc tỏ vẻ thất vọng. Một bà phước dẫn theo hai người lương đến chỗ có hai chú nhí.

– Tụi con đứng dậy nhường chỗ cho người lương đi !

Thằng cu tí nhỏng mỏ cự nự :

– Đây là khách lương dân của con mà.

Bà phước đáp lại bằng nụ cười đắc chí :

– Vậy thì con cứ ngồi đó đi.

***

Thư thắc mắc gởi đến cho mình thật nhiều, nhưng chỉ xoay quanh hai đề tài chính : Tại sao linh mục không có vợ ? Tại sao đạo Công giáo không cho thờ cúng ông bà ? Chẳng có câu thắc mắc nào hóc búa cả. Mình trả lời trơn tuột, dí dỏm khiến cả đạo lẫn ngoại đều cười hể hả.

Nói chung thì ai nấy đều có cảm nghĩ tốt đối với thánh lễ và với đạo Công giáo.

  

  1. LÒNG BAO DUNG

Sài Gòn, … 1984

Sáng nay cha sở dẫn Honda ra sân.

– Cậu ở nhà, tớ đi mừng tuổi Đức Tổng.

– Cho mình đi với.

– Có cái gì hấp dẫn đâu mà đi. Chúc tuổi theo thông lệ. Đáp từ theo thông lệ. Ai về nhà nấy.

– Mình đi xem cha con các cậu ở Sàigòn chúc nhau như thế nào.

Miệng nói, mình làm : nhảy tót lên phía sau xe ông bạn nối khố, hô : vọt.

Các linh mục giáo phận Sàigòn đông quá. Thấy mà ham. Mình len vào giữa các vị lạ mặt, để khỏi bị lộ tông tích. Bài chúc mừng của vị niên trưởng chẳng có gì mới lạ. Bài chúc tuổi nào cũng mài mại như thế : “Chúc Đức cha khỏe mạnh và đầy tràn ơn Chúa Thánh Thần để dìu dắt giáo phận qua mọi cơn sóng gió…”. Đức Tổng đáp từ cũng giống như các Đức Giám mục khác : “Chúc các cha ơn khôn ngoan, can đảm để tuân theo ý Chúa” . Sau những cái gọi là công thức, là thông lệ, Đức Tổng nói chuyện tâm tình pha với chuyện thời cuộc.

“Xin các cha nhẫn nại, nhẫn nại mãi. Xin các cha hiền từ và hiền từ mãi mãi. Tôi kể chuyện về tôi cho các cha nghe. Tôi là Tổng Giám mục, thì ai mà không biết. Tôi già như thế này, thì ai thấy mà không biết. Thế mà cái anh công an phường, nhỏ chừng hai mươi tuổi, anh dám mắng tôi :”Cái ông Bình này cứ lằng nhằng”. Thôi mình nhịn đi là xong. Người ta sai thì kệ người ta, miễn là mình cứ đúng. Người ta càng sai, thì mình càng đúng…”

Sau khi chia sẻ với các linh mục Sàigòn một miếng bánh bích-quy và một chai nước ngọt, mình giục ông bạn ra về. Ra khỏi Tòa Giám mục, mình quên ngay tất cả, chỉ trừ câu nói của vị Giám mục hiền từ : “Người ta sai thì kệ người ta, miễn là mình cứ đúng. Người ta càng sai, thi mình càng đúng” . Mình thề với lương tâm là sẽ nhớ mãi câu nói này trên suốt cuộc đời truyền giáo của mình.

Nhớ đến Đức cha Bình, thì mình lại nhớ đến Đức cha Giacôbê và Gioan. Hai Đức cha này đi kiếm chỗ cho Chúa trọ tại một làng kia ở xứ Xamari. Bị từ chối, hai Đức cha trở về, mặt đỏ gay như ông Trương Phi. Hai Ngài báo cáo với giọng hậm hực : “Xin Thầy cho chúng tôi khiến lửa trời xuống thiêu rụi tụi nó…” . Bài giáo huấn của Chúa làm cho hai ngài cụt hứng : “Thầy đến không phải để tiêu diệt, mà để cứu độ”.

——————————————————————————-

Sàigòn, … 1984

Tết năm nay mình có mặt ở Sàigòn một cách không bình thường. Mang mặc cảm tội lỗi, mình đóng kín cửa để đừng ai thấy mình và để mình không thấy ai. Mình ngốn một hơi hết mười lăm trang khảo luận về thái cực quyền. Vứt mười lăm trang đánh máy lên bàn, mình cười hô hố. Cười một mình. Cười sung sướng. Bất giác mình thốt lên : “Tiên sư mày ! Tại sao mày hay thế mà bây giờ ông mới biết mày ?”

Thái cực quyền là môn võ tự vệ. Không tự vệ bằng sức mạnh mà bằng cách hóa giải sức tấn công của đối phương. Thái cực quyền được ví với một khối cầu quay tròn không ngừng. Hòn đạn mũi tên nào lao vào đó cũng bị hất trượt ra ngoài. Nó không chống đối, vì nó không đủ sức chống đối. Để tồn tại nó phải hóa giải sức tấn công của đối phương một cách chẳng đặng đừng. Và nó tồn tại thật.

Thái cực quyền còn được ví với mảnh vải bịt ống cống. Nước chảy siết, mảnh vải sẽ rách và bị cuốn phăng đi. Để tồn tại và ở lại tại chỗ, mảnh vải ấy phải nhả ra khỏi mặt cống và chỉ bám lấy miệng cống ở một điểm. Như vậy mảnh vải không bị rách và không bị cuốn đi.

Thái cực quyền chấp nhận âm dương tương khắc, nhưng tương khắc mà sinh hóa. Mưa và nắng là tương khắc nhưng không có nắng thì không có mưa. Thái cực quyền không tiêu diệt, không loại trừ, nhưng chấp nhận và tương nhượng để tồn tại và lớn lên.

Bỗng mình nhớ đến lời căn dặn của Thầy Chí Thánh : ”Vào nhà nào, chúng con cũng chúc bình an” . Có nghĩa là người ta tốt hay không tốt, thì mình vẫn cứ tốt. Hoặc chỗ khác Thầy dạy : “Hãy trở nên như Cha trên trời, Đấng cho mặt trời mọc lên soi sáng cho người hiền lương cũng như người bất lương” . Tốt mãi, tốt cho mọi người.

Từ những hình ảnh trên, mình nảy ra ý kiến so sánh đạo với nước. Nước vừa mềm vừa bất khuất. Mình vẫn còn nhớ bài học vật lý hồi mình còn ngồi trên ghế học trò : “L’eau est incompressible” (Nước là vật thể không ép được). Nước rất khiêm tốn : Người ta dùng nước để uống, nhưng cũng dùng nước để rửa nhà cầu. Nước rất hiền lành : Người ta để nó trong bầu thì nó tròn; người ta để nó trong ống, thì nó dài. Nước rất trong sạch : Người ta làm ô nhiễm nước : nước sẽ bốc hơi hoặc thấm xuống đất. Nước ấy rất trong sạch và bay đi cùng trời, chảy ngầm đi cùng khắp. Nước rất kiên trì : Dòng nước bị tảng đá chặn : nó luồn lách mà đi; với thời gian lâu dài nó xói mòn và làm sụp đổ tảng đá.

Tin Mừng của Chúa cũng như thế đó. Nghĩ thế, mình thấy an tâm vô cùng.

——————————————————————————–

Cà Mau, … 1993

Hôm nay là ngày Chúa nhật : cha phó làm lễ sáng. Mình đi roỏng xung quanh nhà thờ, để tạo bầu khí trang nghiêm cho giờ lễ. Nhà thờ chưa đầy người, thế mà có một chú bé đứng chầu rìa ở bên cửa hông. Mình vỗ vai em :

-”Con vô đi, trong kia còn chỗ”

Em quay ngoắt một cái, chạy vọt xuống cửa phía dưới. Lại đứng chầu rìa. Lòng tự ái lãnh đạo bốc lên tới lỗ mũi. Mình dằn cơn nóng xuống, thủng thỉnh đi theo hắn. Mình lại vỗ vai hắn :

-“Trong kia còn nhiều chỗ lắm”.

Hắn chuồn. Mình nắm tay hắn kéo vô. Hắn dạng chân chống chỏi. Nhân đức hiền lành xì ra ngoài hết. Mình nghiến răng lại, hai bàn tay sắt siết hai vai hắn : -“Vô không ?”

. Hắn tỉnh queo, nhỏng mỏ : ”Con đi lễ chứ có làm gì đâu mà cha làm hung làm dữ” .

Mình thả lỏng hai tay. Hắn dõng dạc bước ra cổng, rồi biến mất trong dòng người.

Có lẽ hắn sẽ không bao giờ trở lại nữa. Mình nhìn lên bàn thờ, nhìn lên nhà tạm, rồi nhìn lên cây thánh giá. Ánh mắt của mình không dừng lại được ở bất cứ nơi nào. Nó đành nhắm lại, vì xấu hổ.

Thằng cu tí đã cho mình một bài học xứng đáng. Nó là thầy của mình. Thầy ơi, vì con mà thầy đã từ giã thánh đường; vì con mà có lẽ thầy sẽ bỏ đạo. Xin thầy hãy trở lại, để lương tâm của con tìm được sự bình an.

——————————————————————————–

Cà Mau, … 1993

Sau bài thánh ca trước đài Đức Mẹ, mình siết tay một ông bạn. Nói chuyện con cà con kê để chờ dòng người tuôn ra quốc lộ qua một cái cổng hẹp.

– Cha Phước bây giờ ở đâu cha ?

– Chết rồi ?

– Ủa, tội nghiệp ! Hồi ngài làm cha sở ở đây, cái gì cũng răm rắp. Người lớn người nhỏ đều sợ ngài một nước. Bây giờ các cha dễ dãi quá.

– Bộ anh thích họ đạo mình “cái gì cũng răm rắp” hả? Không có cái gì răm rắp cho bằng cái guồng máy. Nhưng họ đạo lại không phải là cái guồng máy… Ngày nay chúng tôi không muốn “bị” giáo dân sợ, mà muốn “được”‘ giáo dân thương. Sợ là dấu hiệu của tình trạng ấu trĩ. Thương là dấu hiệu của tình huynh đệ. Tôi thích một họ đạo hơi lộn xộn một tí, nhưng ở trong đó giáo dân được kính trọng, hơn là một họ đạo răm rắp đâu vào đó, nhưng ở đấy trật tự được trả giá bằng nhân phẩm.

Ông bạn mình tỏ vẻ ngơ ngác. Ông từ giã mình bằng một cái bắt tay lỏng lẻo.

  1. CÂY ROI TRONG MỤC VỤ

Cái Rắn, ngày 23-4-1995 .

Sáng nay mình dâng lễ tại nhà ông Hai Hiếu. Ông Hai ở giữa lương dân, thậm chí cả vợ và con cháu của ông cũng là lương dân. Ông nghỉ đạo 70 năm rồi. Trong chuyến viếng thăm lần trước, mình đã tìm hiểu nguyên nhân nghỉ đạo của ông.

– Tại sao ông Hai nghỉ đạo lâu thế ?

– Hồi xưa con ở Trà Lồng. Có một lần con đi lễ trễ, bị ông Cố Quimbrôtz bắt nằm xuống, đánh một trận chảy máu đít. Con sợ, con giận, con bỏ đạo luôn cho tới bây giờ. Hồi ấy con mới có 19 tuổi.

– Tại sao ông Hai đi lễ trễ vậy ?

– Thì nhà con ở sâu trong ruộng, con đi sớm không được.

– Bây giờ ông Hai còn giận không ?

– Hết rồi.

– Bây giờ ông Hai trở lại nhá.

Ông Hai xưng tội nhệu nhạo cùng với dòng nước mắt.

Cha Quimbrôtz là một linh mục có tài kinh bang tế thế. Chính cha đã từng có mặt trên mảnh đất Cái Rắn này vào cuối thập niên hai mươi và đầu thập niên ba mươi. Chính cha đã mua lại căn nhà lầu của ông Tòa Sửu để làm nhà xứ Cà Mau, nơi mình đã ở 19 năm trời. Cuộc đời của cha được thế hệ đàn anh đúc kết như sau : năng nổ và nóng nảy như ông Lỗ Trí Thâm trong “Thủy Hử”. Chính vì thế, cha Quimbrôtz đã cai trị bằng ngọn roi. Với ngọn roi mây, cha tạo được những họ đạo nề nếp, trật tự, rất đẹp mắt.

Nhưng cũng với ngọn roi mây ấy, cha đã đánh bật một tin đồ ra khỏi nhà thờ. Người tín đồ ấy đi lang bạt kỳ hồ từ năm 19 tuổi cho tới năm 89 tuổi mới có cơ may trở về với Chúa. Ngọn roi mây có điểm ưu và khuyết, nhưng bên nào nặng, bên nào nhẹ, thì mình chưa dám khẳng định. Mình liên tưởng đến những công trình lớn như Vạn Lý Trường Thành của Trung Quốc và Kim Tự Tháp của Ai Cập.

Ngày nay khách du lịch trầm trồ khen ngợi những công trình sư vĩ đại của thời xưa ấy, mà quên phắt đi rằng : để đạt được công trình vĩ đại, các công trình sư đã phải trả giá bằng hằng triệu lần vi phạm nhân quyền và chà đạp nhân phẩm. Người ta đã phải dùng tới hàng triệu ngọn roi, để xây Vạn Lý Trường Thành và Kim Tự Tháp. Vậy thì lời hay lỗ ? Nếu lấy sự nghiệp làm trọng, thì thế là lời, lời lớn. Nếu lấy con người làm trọng, thì thế là lỗ lớn, là phá sản.

——————————————————————————–

Cà Mau, …

Trong giờ dạy giáo lý, mình hỏi T., người dự tòng :

– Trước khi con đến đây xin học đạo, thì con đã tới nhà thờ lần nào chưa ?

– Con chỉ đi qua trước cổng, chứ không dám vào ?

– Tại sao vậy ?

– Người ta biểu : người ngoại mà vô nhà thờ, thì ông cha đánh thấy mồ.

– Eo ơi, làm gì có. Con đã bị đánh lần nào chưa ?

– Con nghe người ta nói vậy, chứ con có vô nhà thờ bao giờ đâu mà bị đánh.

Chắc chắn chẳng có linh mục nào lại đánh những người lương dân đến nhà thờ để tham quan, hoặc là để làm thoả mãn tính tò mò. Nhưng tại sao lại có tin đồn như thế ? Do ác ý hay do vô tình ? Nhưng có một điều chắc chắn là nhiều người giáo dân vẫn thích đưa cha sở của mình ra, để hù thiên hạ.

– Mày mà không đi lễ, tao méc cố sở, cố sở “uýnh” thấy cha mày.

– Mày mà không dứt với con nhỏ này, thì ông cố sở cho mày đi đoong.

Có một lần kia, mình đang đi ngoài đường, thì nghe một người đàn bà dọa thằng cu tí đang gào lên như cái ống bô bể :

– Mày mà không nín, tao méc ông cố, ông cố cắt chim mày.

Thằng cu tí dòm mình, mặt tái mét…

Mình cảm thấy bất bình với người đàn bà ấy, vì bà đã đem mình ra làm con ngoáo ộp, để dọa thằng cu tí. Thế là vô tình bà đã gieo vào tâm thức con bà một hạt giống sợ hãi. Lớn lên nó sẽ giữ đạo trong nỗi sợ : sợ Chúa, sợ cha sở, sợ hỏa ngục…

Vô tình, nỗi sợ đã trở thành nền tảng của công tác mục vụ. Sau khi kể lại câu chuyện “Vợ chồng Anania và Xaphira nói dối thánh Phêrô” , tác giả Công vụ Tông đồ đã nhận xét : ”Một nỗi sợ khủng khiếp đã xâm chiếm toàn thể Giáo hội” (Cv 5,11).

Suy bụng ta ra bụng người. Mình thiển nghĩ : Thánh Phêrô cũng đã buồn lắm, khi trong dân gian loan truyền câu chuyện vợ chồng Anania và Xaphira bị ngài phạt chết thảm dưới chân của ngài, mà ngài không hề mảy may xúc động. Mục tử Phêrô được câu chuyện mô tả như một ông tướng đằng đằng sát khí, ra lệnh cho thanh niên lôi xác hai vợ chồng đi chôn, bất chấp mọi tục lệ và pháp luật…

Dân gian tô vẽ chân dung mục tử như thế đó. Bất công thay! Còn đâu nữa hình ảnh mục tử tốt lành : dẫn chiên đi ăn trên đồng cỏ xanh tươi; đưa chiên xuống suối uống nước trong lành; cho chiên nằm nghỉ dưới bóng râm của cây cổ thụ; băng bó những con chiên bị thương; vác con chiên lạc trên vai; phang gậy trên đầu chó sói để bảo vệ bầy chiên ?

——————————————————————————–

Cần Thơ, … 1968

Hôm nay một người đàn ông dẫn tới văn phòng một em bé 11 tuổi. Ông xin cho em được ghi tên vào lớp Đệ thất. Ông dặn dò cặn kẽ về cách phải giáo dục con ông như thế nào. Trước khi ra về ông dặn mình lời cuối :

– Tôi xin gởi gắm con tôi cho cha. Xin cha cứ đánh nó cho tôi miễn là đừng đánh chết thì thôi.

– ? !

Câu nói của ông phụ huynh làm mình nổi giận. Người ta coi mình như ông chúa ngục, như tên lý hình. Người ta gởi con cho mình để mình đánh giùm người ta. Nhục thật ! Nhưng nói cho cùng thì đó là truyền thống lâu đời. Chính mẹ mình ngày xưa vẫn thường lặp đi lặp lại những câu khuôn vàng thước ngọc như : “Già đòn, non nhẽ”, “Thương con cho đòn cho vọt”.

Vì là khuôn vàng thước ngọc, nên những câu ngạn ngữ ấy được đưa vào mục vụ một cách nhẹ nhàng như hơi thở. Chính vì thế mà “nhà Đức Chúa Trời” ngày xưa đã nhận xét một cách hãnh diện về phương pháp giáo dục của mình như sau : “Đít nhà thầy như thớt nhà giàu” . Cây roi trong giáo dục học đường dường như vẫn có một giá trị nào đó, với một số điều kiện nhất định.

Nhưng trong công tác mục vụ, cây roi chỉ còn là nỗi nhục của mục tử mà thôi.

  1. CÚNG CƠM

Sóc Trăng, … 1961

Hôm nay Chúa nhật, nghỉ dạy học, mình đi làm công tác tông đồ theo đường lối của Legio Mariae. Mình ghé bệnh viện, lân la thăm bệnh nhân từ phòng này qua phòng khác. Người bệnh cuối cùng của chuyến viếng thăm là một cụ già 72 tuổi. Sau những câu chuyện con cà con kê, hai người trở nên thân thiết. Ông già đắc ỷ hỏi mình :

– Tôi đố thầy nha : Một trăm người đi chợ mua bánh thì có bao nhiêu người mua bánh cho cha mẹ già và có bao nhiêu người mua bánh cho con cái ?

Mình chỉ cười trừ. Ông già hăng hái trả lời ngay :

– Chín mươi chín người mua bánh cho con, chỉ có một người mua bánh cho cha mẹ. Công ơn cha mẹ thì quá nhiều, mà con cái báo đền thì chẳng được bao nhiêu !

Giọng ông bắt đầu nghẹn ngào. Ông ngước mắt nhìn lên để giữ cho hai dòng lệ khỏi lăn xuống. Ông nói tiếp, giọng nhệu nhạo :

– Hồi tôi còn trẻ, tôi lục lăng và phá phách cha mẹ tôi nhiều lắm. Bây giờ lớn tuổi rồi, tôi mới thấy công ơn cha mẹ quá lớn. Tôi muốn báo đền. Phải chi cha mẹ tôi còn sống, thì muốn ăn gì tôi cũng lo cho vừa lòng…

– Ba má bác mất rồi, thì bác báo đền bằng cách nào ?

– Chết rồi thì còn ăn uống gì được nữa đâu mà báo đền. Thôi thì cũng một mâm cơm bậy bạ, một nén nhang bậy bạ vậy thôi, chứ biết làm thế nào bây giờ ?

Mình thấy tội nghiệp ông già. Hối hận quá muộn. Báo đền công sinh thành quá trễ. Dọn một mâm cơm, cắm một cây nhang, với mặc cảm là không biết nó có giúp ích gì cho cha mẹ bên kia thế giới không. Bởi thế ông tự phê phán : một mâm cơm bậy bạ, một nén nhang bậy bạ… Nhưng cộng với một tấm lòng chân thành đáng kính trọng. Mình tự hỏi : Phải chăng cái truyền thống cúng cơm, bắt nguồn từ những tâm hồn sám hối và bối rối như thế ?

Bao nhiêu thế kỷ qua, người Kitô giáo vẫn chế giễu mâm cơm cho ông bà là dị đoan, là vô ích. Chắc chắn nó vô ích về mặt tín lý, nhưng lại rất bổ ích về mặt tâm lý giáo dục. Nó xuất phát từ lòng hiếu thảo và nó cổ võ lòng hiếu thảo. Vậy trong công tác truyền giáo, nên “rửa tội” nó, hay là loại trừ nó ? Dù sao ta cũng không có quyền chế giễu nó. Chế giễu nó là một sự xúc phạm đến lòng hiếu thảo của người không cùng tín ngưỡng với ta.

——————————————————————————–

Lung Tra, … 20-1-1975

Sau hai tuần lễ ăn cơm gạo lức với muối hột, hôm nay mình được ngồi ăn cơm với gia đình ông Hai Bến Tre. Cơm trắng ăn với cá rô kho và canh rau ngót. Chưa ăn mà nước miếng đã tứa ra ở chân răng rồi.

Năm người ngồi xung quanh mâm cơm mà bé Thu Hà lại bới ra những sáu chén. Mình hỏi ông Hai :

– Còn thiếu một người nữa : Người ấy là ai đó, ông Hai ?

– Chén cơm đó là của thằng cha con Thu Hà. Cha nó bị máy bay trực thăng bắn chết hồi năm ngoái. Mẹ nó tái giá. Còn hai chị em nó ở với hai vợ chồng tôi.

Mình nhìn bé Thu Hà. Bé Thu Hà nhìn mình, nước mắt lưng tròng. Kết thúc bữa cơm, Thu Hà chia chén cơm ấy với thằng em trai… Mình bị xao xuyến bởi chén cơm dành cho ng­ười quá cố. Nó là một kỷ niệm sống động, một sự nhắc nhở cụ thể. Và cũng thật lãng mạn. Tình yêu gắn bó người sống với người chết. Khoảng cách là vô hình và vô biên, nhưng người ta vẫn cố gắng làm được một cái gì đó để vô hình thành hữu hình và vô biên thành hữu biên. Thật hữu lý mà cũng thật hữu tình.

——————————————————————————–

Cà Mau, … 1992

Hôm nay mình đi xức dầu bệnh nhân cho một cụ già. Cái chết tuy đã gần kề, nhưng ông rất tỉnh, rất thông minh và rất bình tĩnh.

– Ông Năm có sợ chết không ?

– Không, con chuẩn bị kỹ càng rồi. Chừng nào Chúa gọi, thì con dạ.

– Ông Năm về với Chúa trước, nhớ cầu nguyện nhiều cho tôi nhé. Tôi trao cho ông công tác này là xin Chúa cho nhiều người trong xóm này được biết Chúa như ông. Tôi sẽ nói với Chúa là nếu ông Năm không cầu nguyện cho người ta biết Chúa thì không cho ông Năm vô thiên đàng.

Ông mỉm cười tỏ vẻ hiểu cái nghiêm chỉnh trong cái hài hước. Sau đó ông gọi người con thứ hai đến và dặn dò trước mặt cha sở :

– Khi ba chết rồi, nhớ đắp cái lối vô cao lên đặng bà con đến cầu lễ cho sạch giò. Lo cơm nước đàng hoàng mà đền ơn bà con có công khó với mình. Người ta thương mình thì người ta mới tới. Heo, gà, vịt ba đã tính trước cả rồi. Cứ lấy đó mà làm…

Lời dặn chí tình của cụ già làm mình suy nghĩ mông lung. Trong kỳ tĩnh tâm đầu năm, các cha đả kích kịch liệt việc ăn uống trong đám tang. Nhiều vị đề nghị ra lệnh cấm và áp dụng cho toàn địa phận. Ai nấy đều thấy rằng ăn uống bên xác chết là quái gở, là thiếu văn minh, là mất vệ sinh, là tốn phí một cách phi lý. Có một sự đồng cảm rõ rệt trong hàng ngũ linh mục về vấn đề này. Chính mình cũng cảm thấy như thế. Mình đi viếng xác rất nhiều, nhưng chỉ thắp một cây nhang, gởi gắm vài lời chia buồn rồi chuồn thẳng. Nể lắm thì mình ở lại hút một điếu thuốc, uống một tách trà…, tuyệt nhiên không bao giờ ăn cơm trong các đám tang.

Bây giờ mình tự đặt câu hỏi : Tại sao cái mình thấy ghê tởm thì ông Năm lại thấy rất thân thương, chí tình và chí lý. Trong giây phút cuối đời, ông không quên dặn dò con cái phải lo cơm nước chu đáo để đền ơn bà con.

Bữa cơm ấy đối với ông Năm và bà con là nghĩa, là tình, thì đối với mình và giới linh mục là ghê tởm, là không văn minh, là tốn phí vô ích. Chỉ trong vài ngày nữa, ông Năm sẽ nhắm mắt lìa đời. Con cái ông sẽ tổ chức những bữa cơm trước, và sau khi an táng, vì đó là lời trăn trối, mà lời trăn trối là lời linh thiêng. Liệu mình có ra lệnh cấm những bữa cơm đó không : Cấm được không ? Và nhân danh văn hóa hay nhân danh cơ chế ?

Chắc chắn là mình sẽ không có mặt trong những bữa ăn đó. Nhưng mình thật tình tôn trọng những bữa ăn ấy. Mình sẽ không bao giờ cấm, vì mình chẳng có quyền gì để cấm. Mình cũng thật tình nghĩ rằng, cấm đoán như thế là lố bịch, là áp đặt cảm thức của lãnh đạo trên nhân dân. Cấm như thế có khác gì ông bố kia cấm cả nhà không được ăn sầu riêng, chỉ vì cái mùi và cái màu của sầu riêng.

  1. MÚA LỬA, DỊ ĐOAN CHĂNG ?

Cà Mau, ….

Sáng nay mình đi làm lễ an táng cho ông Tư ở khu nhị tỳ, một khu bê bối và trễ nải nhất. Chỉ có mấy gia đình mà gia đình nào cũng rối từ cha đến con. Chỉ ở cách nhà thờ từ hai đến ba cây số mà họ chẳng đi lễ bao giờ. Cách đây hai năm, vào một dịp Tết, mình đi thăm họ. Mình thả bộ theo ven sông. Thấy một gia đình có bàn thờ Chúa, bèn mò vô, cười cười nói nói như gặp lại người thân sau nhiều năm xa vắng. Cả nhà nhìn mình ngơ ngác, làm mình tẽn tò.

– Chú kiếm ai vậy ?

– Tôi là linh mục, ngày Tết đi chúc tuổi bà con.

– Cha hả ? Cha “ngồi” họ nào vậy ?

– Tôi là cha sở ở đây nè.

– Chúa ơi !…

Hôm nay mình lại bị tẽn tò một lần nữa. Họ mời mình tới làm lễ an táng. Thế mà mình vừa tới nơi, thì đã thấy động quan. Đạo tỳ khiêng hòm ra tới giữa sân. Ông địa cười toe toét, mặt tròn vành vạnh như trăng rằm, phe phẩy, phe phẩy. Những ngọn đuốc bốc khói khét lẹt đảo qua đảo lại. Bập bùng. Bập bùng. Bọn trẻ nít cười hí hí. Những vành khăn tang quên khóc, há miệng nhìn theo ngọn đuốc bập bùng lùa vào gầm quan tài, chui qua giữa hai cẳng đạo tỳ…

Sau giây phút tẽn tò, sau giây phút tò mò, mình quay gót. Tự ái bập bùng như ngọn đuốc của đạo tỳ…

Phải có biện pháp chế tài để chấm dứt những chuyện dị đoan mê tín. Cấm hẳn việc muớn đạo tỳ đốt đuốc đuổi quỷ. Ông địa không được phép phe phẩy và cười vô duyên bên cạnh nỗi thống khổ của chúng sinh…

——————————————————————————–

Cà Mau, … 1993

Hôm nay cha phó đi làm lễ an táng cho ông Ba P. Trong bữa cơm tối ông kể chuyện.

Hôm nay sau thánh lễ, thì có múa lửa đuổi quỷ. Thằng quỷ chun vô gầm quan tài. Bị lôi ra đấu kiếm một hồi, hắn bỏ chạy…

Bà con coi đã hết sức !

– Có gì là dị đoan mê tín trong đó không ?

– Biết đâu à !… Nhưng mà vui… Tánh anh Năm là vậy đó.

Thích làm nổi. Thích làm khác thiên hạ.

Mình không phát biểu gì, vì ý kiến tản mạn, không chịu đồng quy. Mình suy nghĩ xem phải đối phó thế nào. Phải cân nhắc để nếu có áp dụng biện pháp chế tài, thì lời phải nặng hơn lỗ. Mà lỗ thì chắn chắn phải có rồi.

——————————————————————————–

 

Cái Rắn, ngày 29-9-1995

Mình đi vắng một tuần. Bữa cơm tối hôm nay mình nghe báo cáo về sinh hoạt họ đạo.

– Bà Sáu đỡ chưa ?

– Bà Sáu chết rồi. Lần nào ông cố đi vắng, thì ở nhà cũng có chuyện buồn, không chuyện này, thì cũng chuyện kia. Ông cố cứ đi vắng hoài, riết rồi người ta dị đoan mê tín như người ngoại.

– Ví dụ…

– Thì đám tang bà Sáu đó. Gia đình toàn là người trong Hội đồng giáo xứ mà đi rước đạo tỳ đến đuổi quỷ đuổi ma…

– Phải nghiên cứu kỹ đã rồi mới kết luận được. Có thể là dị đoan mà cũng có thể là văn hóa. Hội nhập văn hóa là khẩn cấp, nhưng không dễ đâu…

Nói đến đạo tỳ múa lửa đuổi quỷ là mình thấy nổi da gà lên rồi. Nhưng hôm nay mình thấy bình tĩnh hơn. Mình đang có điều kiện để tìm hiểu. Chỉ cần gặp ông Hai Hạo, Chi hội trưởng Chữ Thập đỏ xã là biết liền.

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 9-12-1995

Hôm nay ông Hai Hạo đến chơi. Ông khoe đội mai táng của Chi hội Chữ Thập đỏ đã lập được nhiều thành tích trong xã. Rồi ông thở dài :

– May đồ cho đạo tỳ, mướn thầy về tập múa… hết hơn hai triệu. Còn mắc nợ đó mà chưa trả được. Linh mục có quỹ nào giúp cho Chi hội một mớ không ?

Nói đến đạo tỳ tập múa, mình nghĩ ngay đến chuyện đuổi quỷ, đuổi ma. Không thèm nói chuyện nợ nần, mình bập ngay chuyện ma quỷ.

– Đạo tỳ múa lửa đuổi quỷ, có dị đoan mê tín không ?

– Cái này là tích chuyện đời xưa mà.

– Chuyện gì ?

– Nhan Quan là một ông quan có tài và có hiếu, nhưng trực tánh. Ông chống lại triều đình nhiễu nhương, nên bị truy nã. Nhan Quan trốn lên núi cùng với hai người bạn chí cốt. Ngày luyện võ, đêm nấu sử. Có lần ba anh em đánh cướp đoàn xe chở lương thực của triều đình đem chia cho dân nghèo. Thế là được dân yêu mến, ông tụ họp thêm được mười hai đệ tử nữa.

Ngày kia, cha của Nhan Quan chết. Triều đình biết rằng thế nào Nhan Quan cũng về thọ tang cha, nên cho tướng La Hầu mai phục để bắt Nhan Quan. La Hầu mặt mũi xấu như quỷ. Hắn về làng và ẩn nấp dưới gầm quan tài…

Quả vậy, đêm khuya tối mịt mù, Nhan Quan về làng theo ánh đuốc bập bùng của mười hai đệ tử. Được dân làng mật báo, Nhan Quan chuẩn bị chiến đấu. Hai võ tướng là Tả Hoàng và Hữu Hoàng thay phiên nhau vào nhà tìm La Hầu để đấu kiếm. La Hầu ra mắt. Không phân thắng bại. Cuối cùng Nhan Quan vào cuộc. La Hầu phải bỏ chạy. Mười hai đệ tử của Nhan Quan tiến vội vào khiêng quan tài đi chôn…

– Sự tích này là ở bên Ta hay ở bên Tàu ?

– Không biết.

– Nhan Quan là quan của vua nào ?

– Không biết.

– Nhan Quan là ông quan họ Nhan hay tên là ông Quan ? Quan có “g” hay không có “g” ?

– Không biết.

– La Hầu là tên thật của y hay vì y có bộ mặt giống khỉ mà bị đặt tên là Hầu ? Hầu là con khỉ. Con khỉ họ La.

– Biết đâu à.

Như vậy là vấn đề chưa được sáng tỏ. Nhưng mình thấy múa lửa trong đám tang là có tình và có lý. Trong múa lửa có HIẾU và có DŨNG. Nó vừa là văn hóa, vừa là đạo lý. Mình nói với ông Hai Hạo :

– Khi tôi chết, ông cho đạo tỳ đến múa lửa nhá !

– (Cười) Có một câu hỏi, linh mục chưa trả lời. Nhắm chừng linh mục có thể giúp Chi hội Chữ Thập đỏ một mớ để trả nợ cho hội Miễu Bà Chúa xứ không ?

– Làm sao tôi dám hứa. Tôi chỉ là cái ống máng, chứ không phải là cái hồ. Trong ống máng chỉ có nước khi trời mưa. Mà khi nào trời mưa thì chỉ có trời biết. Xin hỏi trời, đừng hỏi ống máng.

  1. NHÀ THỜ

Cái Rắn, ngày 25-10-1995

Hôm nay mình đọc một hơi hết cuốn “Ví dụ ta yêu nhau” của Đoàn Thạch Biền. Tác giả có nhắc đến một ngôi thánh đường, ngôi thánh đường tiều tụy của người di cư 54. Mình sực nhớ đến một ngôi thánh đường khác được mô tả do Ma Văn Kháng trong cuốn “Đám cưới không có giấy hôn thú” .

Hai nhà thờ y hệt nhau : tiều tụy, rách nát. Hai lớp tín đồ giống hệt nhau: nhếch nhác, u buồn. Đứng trước hai ngôi thánh đường rách nát với những tín đồ nhếch nhác, cả hai tác giả đều nghĩ rằng tôn giáo phát xuất từ những con người cùng khốn, nhà thờ là chỗ để tín đồ đến “ăn mày lộc thánh” (sic). Ngay cái bộ đồ rách rưới của tín đồ và cái thái độ van xin của họ đã là “ăn mày” rồi.

Mình buồn vì tôn giáo bị đánh giá thấp như thế. Nhưng biết làm sao được, vì ngôi thánh đường, tín hiệu của tôn giáo đã không nói lên được ý nghĩa cao quý của tôn giáo. Nó tiều tụy quá. Nó rách rưới quá. Năm 1989 mình đi thăm một số họ đạo. Có một họ đạo kia, ngôi thánh đường nhỏ xíu, cột mốc thếch, sáu chân đèn trên bàn thờ đều tróc sơn loang lổ. Vài cành hoa huệ héo xông mùi hôi thối. Tượng các thánh được sơn phết vụng về : môi đỏ lòm và tèm lem… Mình nghĩ thầm, nếu mình chưa có đức tin, mình sẽ không bao giờ theo cái đạo của nhà thờ này.

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 16-11-1995

Sáng nay mình đi dự lễ “Khởi công xây cất nhà thờ Khánh Hưng” . Ba chiếc vỏ lãi tốc hành đề-pa từ bến nhà thờ Bảo Lộc, Cà Mau. Vỏ lãi gắn máy xe hơi, lao về phía trước, xé toạc dòng nước trong xanh, ngổ ngáo như bọn du côn xâm phạm vùng thánh địa. Chỉ trong vòng 150 phút chúng ngốn hết một lộ trình dài gần 50 cây số.

Khánh Hưng đây rồi ! Hình ảnh đầu tiên là hai ông trùm mặc đồng phục đẹp như hai chàng trai tiếp viên của một khách sạn nhiều sao. Kế đến là hai hàng rào danh dự. Trai gái Khánh Hưng hôm nay lột xác thành bầy bướm nhởn nhơ. Đầu đẹp, áo đẹp, quần đẹp… nhưng chân ngập trong sình. Trận mưa quái ác hôm qua đã biến khu vực nhà thờ thành bãi sình. Người ta đổ hàng trăm bao trấu lên sình, nhưng vẫn không cứu vớt được những đôi giày cườm lóng lánh. Người Sàigòn lắc đầu thất vọng.

Thánh lễ bắt đầu. Các linh mục đồng tế xếp hàng tiến vào cung thánh. Không vị nào chắp tay. Không vị nào nhìn về phía trước. Một tay vén áo. Một tay giữ thế cân bằng. Đôi chân cẩn trọng dò tìm mảnh ván nhỏ chìm ngập dưới sình… Nhà thờ mới chỉ là cái lán dựng tạm trên bãi sình lấy chỗ làm lễ cho có hình thức. Viên đá đầu tiên cũng được đặt trên một mô đất nhão như sình.

Lễ “Khởi công xây cất nhà thờ Khánh Hưng” chỉ có thế. Sình, sình và sình… Nó khởi công như thế đó. Không biết rồi nó sẽ kết thúc ra sao ?

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 3-12-1995

Trong bữa cơm tối mình hỏi bà phước :

– Tại sao hôm nay bàn thờ không có bông ?

– Hôm nay bắt đầu Mùa Vọng rồi.

– Ừ nhỉ. Nhưng thôi ! Hãy phá cái luật ấy đi. Nhà thờ mình đã tiều tụy rồi. Để cho nó tiều tụy hơn nữa là xúc phạm đến sự thánh thiêng.

Ngày về phục vụ họ đạo Cái Rắn mình có cảm nghĩ nhà thờ này chỉ là cái “chuồng thờ”. Mái lá, vách lá, song cửa sổ làm bằng cây róng… giống hệt cái chuồng trâu. Nhưng có một điều rất lạ là mình vẫn dâng lễ ở đây một cách sốt sắng. Nhà thờ nghèo nàn, nhưng không bệ rạc. Bà phước lau chùi từng cục gạch tàu. Bàn thờ lúc nào cũng có bông, bông tươi trong vườn các bà phước và học trò chăm chút tưới mỗi ngày nơi vùng đất khan hiếm nước ngọt này. Đói cho sạch, rách cho thơm là thế.

Mình chưa hề xấu hổ về cái chuồng thờ này. Nhưng mình vẫn mơ ước có được một ngôi nhà thờ khang trang mà không lộng lẫy, giản dị chứ không cầu kỳ. Người đạo đến đây sẽ thấy ấm lòng. Người ngoại đến đây sẽ không thất vọng.

——————————————————————————–

 

Sơn Tây, … 1990

Sáng nay mình theo phái đoàn linh mục Minh Hải đi tham quan nhà thờ Phát Diệm, một công trình văn hóa của quốc gia. Người ta giới thiệu thật nhiều về công trình xây cất :

+ Một triệu cây tre làm cừ.

+ Hàng vạn giáo dân làm công tác một lúc.

+ Tảng đá lót phương đình nặng 20 tấn được lấy từ Thanh Hóa.

+ Linh mục Trần Lục là thiên tài kiến trúc, là công trình sư, là nhà tổ chức.

Hàng chục câu hỏi : làm thế nào để huy động được nhiều nhân lực như thế ? Làm thế nào để đưa được những tảng đá lớn như thế từ Thanh Hóa về Phát Diệm ? Làm thế nào để đưa được những tảng đá lớn lên cao như thế ?…

Mình lấy tay rờ lên từng cây cột gỗ lim, từng phiến đá cẩm thạch, từng nét khắc trên đá, trên gỗ… Chỗ nào mình cũng thấy khả năng tuyệt vời của cụ Sáu. Phát Diệm là cụ Sáu. Cụ Sáu là Phát Diệm. Khách du lịch đến đây chắc cũng chỉ thấy cụ Sáu và cụ Sáu.

Mình nghĩ đến những công trình văn hóa khác như nhà thờ thánh Phêrô ở Rôma. Khách du lịch đến đó để làm gì, nếu không phải là để chiêm ngắm tài nghệ của những nghệ sĩ thượng thặng cỡ Michel-Ange, Raphael…?

Mình tự hỏi : Người ta có nên đầu tư nhân lực, vật lực và tài lực lớn lao như thế để rồi chỉ đạt được một mục tiêu như thế nữa không ? Nhà thờ được xây cất để tôn vinh Chúa hay là để nghệ sĩ gửi gắm sự nghiệp của mình ?

——————————————————————————–

 

Sàigòn, ngày 14-11-1995

Trưa nay mình ăn cơm ở căng-tin số 370 Cách mạng tháng

Tám. Một linh mục đàn anh hỏi mình :

– Anh đi Năm Căn được gần 25 năm rồi đấy. Vậy trong 25 năm qua anh xây được mấy cái nhà thờ ?

– Chòi thờ thì nhiều. Nhà thờ thì chưa. Hiện nay đang mơ ước có một nhà thờ nổi để đi tới đâu thì đem nhà thờ tới đó.

Ừ, thật thế. Mình cũng tự đặt câu hỏi : “Tại sao mình không tha thiết lắm với việc xây nhà thờ ?” . Có lẽ vì chưa có thời giờ để nghĩ đến nó chăng ? Nhưng cũng có thể vì Đức Giám mục của mình không muốn mình xây nhà thờ vật chất, mà chỉ lo xây dựng con người. Có lần mình ngỏ ý, muốn xây nhà thờ Cái Rắn, thì ngài tỏ thái độ lững lờ. Cuối cùng, ngài không bật đèn đỏ, không bật đèn xanh, mà bật đèn vàng :

– “Cái đó tùy cha !”

Thế thì rõ rồi : xây dựng con người trước đã.

  1. NGẮM ĐỨC GIÊSU

Cà Mau, …

Bích Ngân đến thăm mình. Gia đình Bích Ngân không có đạo nhưng coi mình như người thân trong gia đình. Bích Ngân gọi mình bằng chú.

– Chú có cuốn Phúc Âm nào thật dễ đọc, thì cho cháu một cuốn.

– Chú sẽ cho cháu một cuốn có rất nhiều chú giải. Đọc Phúc Âm mà không được chú giải, thì khó mà tiếp thu được. Văn chương Phúc Âm là văn chương của thế kỷ thứ nhất và của La-Hy hoặc Xê-mít. Đọc Phúc Âm thì đồng thời có nghĩa là học hỏi về văn hóa Xê-mít và Địa Trung Hải.

– Cuốn Phúc Âm của cháu cũng có chú giải nhiều lắm, nhưng mà cháu vẫn không hiểu nổi.

– Thế thì cháu phải đến đây mà học với chú.

– Cháu có ở đây đâu. Vả lại cháu tranh thủ lắm mới có được dăm mười phút lẻ mà đọc Phúc Âm. Phải chi Phúc Âm được viết dưới dạng chuyện ngắn, thì thuận lợi cho tụi cháu hơn.

Sau cuộc gặp gỡ ấy, mình cảm nghiệm rằng : có nhiều người vẫn đọc và hiểu Thánh Kinh một cách phiến diện. Ý Chúa được trình bày bằng văn hóa Do Thái và được trình bày một cách hết sức hà tiện. Chính Gioan đã tâm sự với độc giả của mình rằng : ”Giá như viết hết từng điều, thì chúng tôi nghĩ cả thế giới này cũng không đủ chỗ chứa” . Nói thế là quá cường điệu, nhưng quả thật là các ký giả đã ghi quá vắn tắt lời nói và việc làm của Chúa, đến mức độ bỏ gần hết bối cảnh, khiến độc giả khó nắm bắt được ý của Chúa.

Từ hôm nay mình mơ ước có một cuốn sách trình bày Tin Mừng dưới dạng văn học, có rất nhiều bối cảnh văn hóa, xã hội, địa dư, lịch sử và tâm lý.

Lâm Quang Trọng đã viết một cuốn mà mình nhớ mài mại là “Cuộc đời Chúa Giêsu” , Angelo Alberti đã viết cuốn “Les messages des Evangiles” và mới đây, Jacques Duquesne viết cuốn “Giêsu”, nghe đâu cũng gây xôn xao trong dư luận.

——————————————————————————–

Cà Mau, … 1994

Hôm nay mình viết thư cho cha Chương, giáo sư chủng viện Cái Răng.

“Bác Chương mến,

Mình muốn viết “Nhật ký Đức Giêsu”. NKĐG chỉ là những bài suy niệm Phúc Âm được trình bày dưới dạng văn học. Không có điều gì nghịch với Phúc Âm, mà chỉ là Phúc Âm cộng với những gì không có trong Phúc Âm, nhưng vẫn phù hợp với tâm lý, lịch sử, địa dư và văn hoá Xê-mít. Viết NKĐG, mình muốn giới thiệu Đức Giêsu cho giới trẻ hôm nay, một lớp người sống rất vội, không đủ kiên nhẫn để đọc Phúc Âm như một nhà khảo cứu : đọc ở trên rồi coi chú giải ở dưới. Họ thích đọc những gì vừa ngắn gọn, vừa dễ hiểu, vừa hấp dẫn.

Bác cho ý kiến nhé”.

——————————————————————————–

Cà Mau, … 1994

Hôm nay mình nhận được phúc thư của cha Chương.

“Anh Tám mến,

“Nhật ký Đức Giêsu” nghe có vẻ hấp dẫn đấy. Đây là một sáng kiến mới lạ. Đã mới mà còn lạ, thì thế nào cũng có khen và chê. Nhưng cứ viết đi, cho anh em đọc thử. Biết đâu rằng NKĐG lại trở thành best-seller thì sao ?…”

Tại sao Đức Giêsu được trình bày như thế mà lại bảo là mới và lạ. Trái lại, mình nghĩ rằng Đức Giêsu ấy sẽ rất thân và rất thương đối với giới trẻ. Nhận xét của cha Chương làm mình nản lòng không muốn nghĩ đến NKĐG nữa.

——————————————————————————–

Sàigòn, … 1994

Sau một tuần lễ giảng về đề tài “Đức Giêsu thừa sai” , hôm nay mình giã từ Dòng Mến Thánh Giá Tân Lập để về Cà Mau. Trong lời đáp từ mình bỗng buột miệng : “Tôi đang nuôi giấc mộng lớn : viết Nhật ký Đức Giêsu để giúp giới trẻ dễ tìm hiểu Đức Giêsu hơn. Xin các chị cầu nguyện cho NKĐG” . Nói rồi thì hối hận, nhưng lỡ mất rồi. “Nhất ngôn kiù xuất. Tứ mã nan truy”. Đành lỡ thì cho lỡ luôn : “NKĐG” chỉ là những bài nguyện gẫm được viết dưới dạng văn học. Bảo đảm không rối đạo.

——————————————————————————–

Cà Mau, 10-9-1994

Hôm nay mình viết thử trang nhật ký đầu tiên của Đức Giêsu. Không phải để gây xôn xao dư luận, cũng chẳng phải để nổi tiếng. Nhưng để nhìn ngắm Đức Giêsu, theo cách của mình. Mình thích lối trình bày của Anne Frank. Mỗi trang đều gửi cho một người bạn nào đó mà Anne gọi là Kitty. “Kitty thân mến”.

Nadarét ngày …

Cha kính mến,

Hôm nay là ngày Sa-bát, bố mẹ con nghỉ việc, con được rảnh rỗi. Con sang nhà nội chơi. Thấy con, bà nội mừng lắm. Nội ôm con, hôn con, cho con ăn mứt chà là, cho con ăn bánh mì với thịt trừu nướng. Nội nói chuyện tía lia. Bỗng nội đổ quạu. Nội lấy ngón tay gí vào trán con :

– Mày thì cái gì cũng được. Được người được nết. Nhưng có một cái tao không chịu : Con trai gì mà không giống bố được lấy một giọt… Rồi còn con mẹ mày nữa. Dâu hiền thì hiền ơi là hiền; nhưng vẫn là con mẹ đàn bà bạc phước. Đàn bà gì mà chỉ sinh được có một mụn con, rồi bị Giavê thắt dạ lại. Còn thằng bố mày nữa, tướng sợ vợ. Vợ nói cái gì cũng nghe, muốn gì cũng chiều. Đàn ông gì mà hiền như cục đất…

– Nội ơi nội, con nói nội nghe nè !

– Cái thằng này khôn quá à ! Đánh trống lảng hả ? Bênh bố mẹ hả ? Hiếu thảo dữ ta !

Thấy nội chưa hết giận, con câu cổ nội, hôn chụt một cái, rồi ba chân bốn cẳng chạy về nhà. Con nhảy lên đùi mẹ con, méc mẹ tất cả những gì nội con đã nói xấu bố mẹ con. Mẹ con chẳng giận. Bà chỉ cười tủm tỉm.

– Ý Giavê mầu nhiệm lắm con ạ, nội con chẳng hiểu được đâu… Tính nội con vẫn thếâ đấy : Thương thì thương, mà giận thì giận. Giận đấy mà cũng thương đấy.

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 19-2-1995

Trước khi cầm đũa trong bữa cơm tối, mình đọc một trang nhật ký Đức Giêsu cho các bà phước nghe.

– Tôi viết vậy được không các xơ ?

– Dí dỏm, hấp dẫn. Lần đầu tiên được nghe một kiểu trình bày mới lạ về Đức Giêsu. Chị Hồng Quỳ góp ý lấp lửng như thế.

– Nếu đăng báo thì chắc là 50% hoan nghênh, 50% phản đối. Đó là ý kiến của dì Út Tài.

Ai khen ai chê thì không biết. Tại sao khen; tại sao chê mình cũng không cần. Nhưng mình sẽ viết, viết về Đức Giêsu của mình. Đức Giêsu mà mình vẫn hằng yêu mến. Mình sẽ gửi cho những ai muốn nhìn ngắm Đức Giêsu như mình.

  1. CÁI RẮN CỦA TÔI

Cà Mau, ngày 20-4-1994

– Anh Tám ơi, vít vồ kêu.

– Cám ơn.

Mình vô phòng Đức cha, ở đó đã có mặt cha quản hạt, Mười Râu và Vinh giò gà. Mình bấm bụng : Chắc là có biến cố lớn rồi.

– Tôi nhờ cha lâu lâu vô Cái Rắn làm lễ tiếp cha Mười. Ví dụ mỗi tháng một hai lần. Cha Mười đi lại nhiều, cực nhọc quá. Cần phải giữ sức, để làm việc về lâu về dài.

– Thưa Đức cha, xin Đức cha cho con vô Cái Rắn luôn. Phải ở thường xuyên mới thấy việc.

– Được, để tôi sắp xếp, vì cuối tháng Sáu có một số cha mới. Cha cứ tiếp cha Mười từ nay đến tháng Bảy.

– Thưa Đức cha, đến tháng Tám mà Đức cha chưa cho con bài sai đi Cái Rắn, thì con thôi không tiếp cha Mười nữa.

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 8-5-1994

Hôm nay mình dâng thánh lễ đầu tiên tại Cái Rắn. Áo dòng, áo ốp, áo lễ của cha Mười, cái nào cũng rộng thênh thang. Nhà thờ chỉ có 160 mét vuông, mà sao không ngửi thấy mùi người ? Thoải mái thật ! Mình đếm vội vàng được 82 cái đầu, trong đó chỉ có hai cái đầu đàn ông ! Mình cũng đếm được chín cái cửa sổ. Cửa sổ mở 24/24, để gió bốn mùa ra vào tự do. Mái nhà thờ bằng lá dừa nước. Vách nhà thờ cũng bằng lá dừa nước. Hèn chi trong nhà thờ lúc nào cũng mát rười rượi như trong rừng dừa nước.

Mười Râu ơi, mình nhớ hôm cấm phòng tháng Tư cậu đã báo cáo :

“Nhà thờ Cái Rắn đã xuống cấp quá mức… Mái sụt hết gần một căn. Khi trời giông gió thì nước từ trên dội xuống, nước từ hai bên hông tạt vào… Con đã phải cố gắng để lợp lại. Giáo dân đóng góp được hai triệu rưỡi. Xin xỏ đây đó được một mớ. Tổng chi là gần 20 triệu”.

Tội nghiệp cho Cái Rắn ! Tội nghiệp cho cậu ! Và sẽ tội nghiệp cho mình !

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 27-10-1994

6 giờ 30 sáng hôm nay mình nhận từ tay ông Hai Chuẩn, Phó Ban Tôn giáo Tỉnh; giấy chấp thuận của UBND Tỉnh cho mình thuyên chuyển về Cái Rắn theo yêu cầu của Đức Giám mục Cần Thơ. Mình xuống vỏ lãi đi liền. Cái Rắn ơi ! Từ nay ta với mình tuy hai mà một ! 8 giờ 20, hai chiếc vỏ lãi cập bến nhà thờ. Mấy chục nhí vỗ tay lép bép. Mình chui qua cổng chào làm bằng hai cây so đũa, phom phom tiến về phòng tiếp tân, nghênh ngang như võ sĩ múa gậy rừng hoang.

9 giờ mình mặc lễ phục vàng tiến vào “chuồng thờ”. Đi trước mình là 16 linh mục đồng tế.

Trong khi cha quản hạt đọc thư bổ nhiệm, đại diện Hội đồng giáo xứ chào mừng, mình thả hồn đi lang thang. Mình được biết lực lượng Công giáo kháng chiến tỉnh Cà Mau đã làm lễ ra mắt ở đây. Linh mục Võ Thành Trinh đã đến làm lễ tại đây. Sau đó là những năm kháng chiến. Cái Rắn là một trong những căn cứ địa. Bom đạn cày xới…

Sau ngày thống nhất đất nước, các nữ tu Chúa Quan Phòng đến “cắm lều” ở đây. Khó khăn và thiếu thốn chồng chất đến mức độ họ muốn rời gót sen ra đi. Nhưng bỏ thì thương, vương thì tội… Mình cử hành thánh lễ một cách sốt sắng khác thường trong ngôi nhà lá này. Chúa ngự ở đây giống như ngày nào Ngài nằm trong hang đá Bêlem. Bỗng dưng mình thấy trìu mến cái “chuồng thờ” này quá chừng. Mình bắt đầu yêu Cái Rắn thật sự từ nơi này và từ giờ này.

——————————————————————————–

 

Cái Rắn, ngày 20-11-1994

Hôm nay mình hoàn thành cái hồ nước 20m3 . Phải có nước để uống, để tắm và để giặt. Xây hồ quá trễ nhưng vẫn hy vọng vào những trận mưa cuối mùa, đúng hơn là những trận mưa trái mùa. Mình mơ màng nghĩ lại những ngày qua. Nước mưa hứng mái lá vàng khè như nước chè thiu. Bà phước đi đổi nước, chìm xuồng, kêu ơi ới. Tắm một lần, giặt một lần mà thấy xót xa. Mình mời chánh quyền xã đến dự tiệc liên hoan để mình và cái hồ cùng ra mắt một lượt. Bà con bu đến để xem cái hồ, mỗi người phát biểu một ý.

– Cái hồ bự hết biết !

– Ông cố mình giàu quá ta !

– Ông cố xài nước mưa, còn mình thì uống nước đìa.

Câu nói của người đàn bà nào đó làm mình cụt hứng. Mình nhớ lại một bức tranh hí họa trong cuốn L’Anglais sans peine. Bức tranh vẽ hai vợ chồng đang “ừng ực” hai ly nước màu đen; hai nhí mặt méo xẹo đang nhìn hai ly nước màu trắng. Người vẽ ghi chú : “Cha mẹ thì uống bia, còn con cái thì uống nước lã” . Bỗng mình thấy cái hồ của mình trơ trẽn và vô duyên lạ thường.

Đúng thế, hầu hết giáo dân của mình đều xài nước đìa. Uống nước đìa, giặt nước đìa, tắm nước đìa. Chính tại cái cầu sàn lảng ấy, mình thấy người mẹ nọ giặt đồ, rồi vo gạo và rồi vớt nước lên rửa đít cho thằng cu tí.

Mình nghĩ đến những cây nước trong các xóm. Mỗi cây nước phục vụ được chừng 20 gia đình. Bản chiết tính thì đã nằm gọn trong đầu mình. Đóng sâu 110m thì giá l.800.000 đồng. Sau đó cứ đóng thêm một mét thì thêm 15.000 đồng. Thường thì ở vùng này chỉ đóng sâu từ 100-110m là có mạch nước tương đối tốt. Nếu tráng thêm cái nền xi măng xung quanh cây nước nữa thì tốn thêm 300.000 đồng. Cơm nước, thuốc hút và rượu cho thợ khoan tốn thêm 100.000 đồng nữa. Vị chi mỗi cây nước tốn 2.200.000 đồng. Mình hạ quyết tâm ăn xài chắt bóp để mỗi năm đóng cho dân được một cây nước. “Ông cố xài nước mưa, còn mình thì uống nước đìa”. Câu nói chua lè ấy sẽ cắn rứt lương tâm mình mãi cho tới khi Cái Rắn có được 10 cây nước.

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 24-11-1994

Hôm nay mình đi thăm bà con trong ấp Cái Rắn A. Nhà nào mình cũng vào thăm, bất phân lương giáo. Mình quan tâm một số điểm :

1- Gia đình lương cũng như giáo đều có rất nhiều huân chương và bằng khen.

2- Lương giáo sống với nhau như anh em, tình nghĩa thật chan hòa. Người lương có nhiều thiện cảm đối với linh mục. Họ nói :

– Có ông cha về đây, chắc năm nay chúng tôi làm ăn khá ạ.

– Con có cha như nhà có nóc.

– Có ông cha, bà con xóm làng thấy ấm cúng.

– Hôm nay lần đầu tiên chúng tôi được ông cha đến thăm. Có lẽ từ thuở tạo thiên lập địa đến bây giờ mới có.

3- Dân ở đây nghèo. 70 phần trăm nhà cửa giống như những căn chòi : cột cặm, vách lá. 25 phần trăm có nhà cột kê. 5 phần trăm có nhà tường. Người lương giàu hơn người công giáo.

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 22-12-1994

Một cụ già đến thăm mình. Cụ kêu ầm lên khi còn ở ngoài sân :

– Ông cha ơi, có ở nhà không ? Tôi đi tàu đò thấy người ta nói về ông cha nhiều quá, hôm nay tôi đến để coi mặt ông đây. Mình mời cụ già ngồi và đánh trống lảng sang chuyện khác.

– Bác làm ơn cho tôi biết tại sao ở đây gọi là Cái Rắn ?

– Thì ngày xưa rạch này có nhiều rắn lắm, nên người ta mới đặt tên như thế.

– Tôi nghe nói dường như tên rạch Cái Rắn còn bắt nguồn từ cặp rắn thần ở miếu Bà Chúa Xứ. Cái đó thì trúng hay trật bác ?

– Hồi trước giặc, ở đó có cặp rắn thật. Rồi sau giặc giã bom đạn, nó bỏ đi đâu hết. Tên Cái Rắn có trước, rồi sau này mới có cặp rắn ấy.

Câu chuyện giữa mình và cụ già đang đi vào tình cảm thì một anh chàng thanh niên cởi trần đi vào, vương theo mùi cay cay, nồng nồng.

– Ông cha mua máy cày cho dân đi, đừng đóng giếng, đừng xây cầu. No bụng thì uống nước đìa cũng được, chèo xuồng cũng được. Nghèo đói thì có cầu cũng chẳng leo nổi.

– Lấy tiền đâu mà mua máy cày ? Mua máy cày rồi thì ai quản lý ?

– Mua máy cày. Có máy cày thì dân mới hết nghèo được.

Lời nói của rượu, nhưng mình vẫn phải suy nghĩ. Mình được biết loại máy cày có công suất cao thì giá từ trăm triệu trở lên. Ngoài tầm tay. Vả lại nếu có máy cày thì liệu Hội đồng giáo xứ ở đây có khả năng quản lý không ? Bế tắc.

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 24-12-1994

Hôm nay mình làm tờ báo cáo thiêng liêng. Như vậy là họ đạo của mình có 146 hộ. 501 tín hữu và 76 người chưa là tín hữu,

nhưng vẫn là thành viên của gia đình công giáo. 76 người trong gia đình công giáo chưa rửa tội ! Trong năm 1994, sổ rửa tội chỉ ghi có 2 em. Như vậy có nghĩa là hầu hết trẻ em sinh ra không được rửa tội. Như vậy cũng có nghĩa là hầu hết các đôi vợ chồng trẻ đều không lãnh Bí tích Hôn phối. Và đây là công việc của năm 1995.

Cái Rắn của mình nghèo quá, nghèo về cơm áo, nghèo về cả đức tin !

  1. TRÁI SẦU RIÊNG

Cà Mau, ngày…

Hôm nay mình vớ được tờ Á-Phi Ngày Nay (Asie et Afrique d’aujourd’hui). Đang thèm báo như bé đói sữa, mình ngốn một hơi từ đầu đến cuối. Có một câu chuyện bắt mình suy nghĩ.

Một ký giả Liên Xô bước vô một nhà hàng ở Singapore. Nhác thấy một người Hoa đang hì hục ăn một trái cây có gai lởm chởm. Ăn như xuất thần. Quên không gian và thời gian. Mút mát đến trần trụi. Liếm láp đến nhẵn nhụi …

Anh ký giả bị cám dỗ đến không chịu nổi, bèn đến vỗ vai một cô gái mặc đồng phục.

– Cô cho tôi một trái cây có gai lởm chởm.

– Thưa ông, trái gì ạ ?

– Trái có gai mà ông Trung Hoa đang ăn đó.

– À, trái sầu riêng. Vâng có ngay ạ.

Nhanh như chớp, một trái sầu riêng được bưng đến và bửa ra ngay trước mặt ông Liên Xô.

– Eo ơi ! Thối như xác chết vậy ! (sic)

– ?!

Ông Liên Xô bịt mũi bỏ chạy. Cô gái mặc đồng phục vội bưng dĩa sầu riêng cất đi, rồi trở ra đòi tiền. Ông Liên Xô móc túi lấy tiền trả, mà lòng đau như cắt. Còn cô gái mặc đồng phục thì chửi thầm trong bụng.

– Tây ngu bỏ mẹ.

Cái bộ mặt bơ bơ và ngớ ngẩn của ông Liên Xô, rồi đến cái thái độ khinh khỉnh của cô gái mặc đồng phục, làm mình liên tưởng đến những kỷ niệm chồng chất về trái sầu riêng.

——————————————————————————–

Kỷ niệm một :

Năm 1954, đại chủng viện Xuân Bích dời từ Hà Nội vào Nam và tạm dừng chân ở Thị Nghè. Đại chủng sinh giáo phận Vĩnh Long được gửi học ở đó. Thế là Bắc Nam gặp nhau.

Vĩnh Long là quê hương của trái cây. Cha mẹ đi thăm con thì cho trái cây : Dâu, xoài, vú sữa, boòng boong… được chuyển xuống nhà bếp bằng nhiều cần xé. Cả chủng viện cùng ăn, ăn hoài không hết. Nhưng sầu riêng thì… chỉ dấm dúi vài trái thôi. Ông thầy miền Nam ôm trái sầu riêng, âu yếm hít hà, rồi cất kỹ trong tủ để … mút mát một mình.

Đêm xuống, cửa đóng kín mít, ông thầy miền Bắc từ trong mùng hỏi vọng ra :

– Cái gì mà thối thế ?

– Thơm thấy mồ !

Sáng hôm sau, ông thầy miền Nam đi kiếm trái sầu riêng… Sững sờ. Ngơ ngác.

– Ủa, đứa nào lấy trái sầu riêng của tao ?

– Tao vứt ra ngoài vườn rồi. Thối quá, nhức đầu không ngủ được .

– Bắc Kỳ ngu thấy mồ, sầu riêng thơm mà biểu là thúi.

– Nam Kỳ ngố bỏ mẹ, sầu riêng thối mà bảo là thơm.

Chân lý ơi, sầu riêng thơm hay thối ?

Sầu riêng ơi, ngươi thơm tuyệt vời hay thối như xác chết ?

Chúng ta có nên đồng tâm nhất trí, một lòng một dạ, để cùng tuyên dương ngươi, hoặc để cùng nguyền rủa ngươi không?

——————————————————————————–

Kỷ mệm hai :

Mình là sinh viên Đại chủng viện Thánh Tôma, tọa lạc ở số 2, đường Làng 21 , Gia Định.

Bà phước trưởng ban hậu cần ưu ái đặt trên bàn ăn của ban giáo sư một dĩa sầu riêng.

– Xin mời quý cha ăn thử trái quý miền Nam.

Cha Hiến Minh lấy tay phảy phảy trước mũi. Cha Bùi Châu Thi lấy khăn cơm phất phất như muốn đuổi tà. Cha nào cũng nhăn mũi, khịt khịt..

Dĩa sầu riêng được chuyển cấp tốc xuống bàn ăn của các thầy. Thầy nào cũng một tay bịt mũi, một tay gạt nhanh dĩa sầu riêng xuống bàn dưới. Cả phòng ăn loạn lên vì dĩa sầu riêng. Sau khi dĩa sầu riêng đã bị hắt hủi, xô đẩy đến thế và đã nằm chết ở dưới nhà bếp, thì trên phòng ăn, các thầy vẫn còn chế giễu và mạt sát một cách không thương xót. Thậm chí còn ví von.

– Vàng vàng như…

– Nhão nhão như…

– Thối thối như…

Tàn nhẫn đến thế là cùng. Sầu riêng ơi, buồn không ? Đời là thế đấy !

Riêng phần mình thì cứ ngồi trơ ra như phỗng. Mình không thấy sầu riêng thối. Dường như thơm thơm, béo béo, bùi bùi. Muốn ăn thử, nhưng sợ bị chửi. Đành im lặng. Im lặng là đồng lõa, là hèn nhát, là phản bội ?! Chỉ có câu trả lời về lâu về dài. Trả lời tức khắc sẽ bị giập liền.

——————————————————————————–

Kỷ niệm ba :

Năm 1961 mình được Đức cha Nguyễn Kim Điền điều về dạy học ở tiểu chủng viện Á Thánh Quý, Sóc Trăng. Chủng viện thì của giáo phận Cần Thơ, nhưng chủng sinh thì được tuyển từ nhiều miền, trong số đó có Cái Mơn, Cái Nhum, Bến Lức, Mặc Bắc… Cái Mơn, Mặc Bắc đều là những vùng nổi tiếng về nghề làm vườn. Cứ mỗi lần phụ huynh đi thăm con em thì chủng viện lại vui hẳn lên. Quà cáp không để trên đĩa, mà chất đầy cần xé. Măng cụt, vú sữa, boòng boong… Mắt các chú sáng lên, mong cho mau tới giờ cơm. Còn sầu riêng thì chỉ có vài trái được đặt trên đĩa một cách trịnh trọng và nằm gọn lỏn trên bàn ăn của ban giáo sư mà thôi.

Với tư cách là giáo sư, mình được quyền ăn sầu riêng. Đây là lần đầu tiên mình được thưởng thức hương vị sầu riêng sau bảy năm thương nhớ. Biết nó và thương nó từ bảy năm rồi, nhưng không tài nào tiếp cận được. Cứ mỗi lần đi chợ Bến Thành mình chỉ dám uống một ly đá đậu, rồi lượn qua quầy bán sầu riêng một cái để lấy chất liệu tương tư. Sầu riêng kiêu sa quá, lúc nào cũng ở ngoài tầm với của học trò. Hai chục đồng một ký sầu riêng. Bốn đồng một phần cơm bình dân. Đành ôm hận Trương Chi.

Phải đợi bảy năm mới được ăn sầu riêng. Phải ngồi ghế giáo sư chủng viện Sóc Trăng mới được ăn sầu riêng. Không gian và thời gian khống chế mình nhiều đến thế. Khiếp thật !

  1. HỘI NHẬP VĂN HÓA

Hiền Quan, …10-1989

Sáng nay mình có dịp nói chuyện với ông Lâm Thứ, Phó Giám đốc sở CA Vĩnh Phú. Chuyện lan man, chuyện dông dài, nhưng chủ điểm vẫn là “Hội nhập văn hóa”, “Đồng Hành với Dân Tộc” .

Ông Lâm Thứ không được hài lòng khi thấy Thư chung của HĐGM/VN năm 1980 chưa được thực hiện ở đây. Nhìn về quá khứ, ông muốn phiền trách Giáo hội Công giáo, một Giáo hội mà ông cho là tây quá : nhà thờ tây, chuông tây, áo lễ tây, nghi thức tây.

– Ông ạ, ngoài này các cụ vẫn chưa chịu đồng hành với dân tộc, vẫn chưa dám đốt nhang trong nhà thờ, vẫn chưa cho giáo dân ăn đồ cúng đâu…

– Tôi đi được vài nơi và thấy có thay đổi nhiều. Ví dụ : ở quê tôi có đốt nhang rồi.

– Tại ông về đấy… nhưng mà còn nhiều cái vẫn tây lắm.

– Xin ông thông cảm với Giáo hội chúng tôi. Thực ra có nhiều cái đã được quốc tế hóa rồi, dân tộc nào cũng sử dụng được. Tôi xin đơn cử một ví dụ : ông và tôi đều “tây hoá” từ đầu đến chân.

+ Ông và tôi đều để tóc ngắn theo kiểu tây phương. Vào thời Phan Chu Trinh, giới trẻ vận động dân ta bỏ búi tó, để tóc ngắn theo tây phương.

+ Ông và tôi đều mặc áo sơmi. Sơmi bởi tiếng Pháp là Sơmidơ đấy ông ạ.

+ Ông và tôi đều mặc quần tây. Ngoài Bắc mình gọi là quần frăng. Frăngxơ là nước Pháp đấy.

+ Ông và tôi đều đi xăngđan. Xăngđan bởi tiếng Pháp là xăngđalơ đấy ông ạ.

Chúng ta tây hóa ở cái vỏ bên ngoài, dù là từ đầu đến chân thật, nhưng ông và tôi vẫn là người Việt Nam trăm phần trăm. Linh mục chúng tôi có mặc áo lễ tây, sắm chuông tây, xông hương như tây…, thì chúng tôi cũng vẫn là người Công giáo Việt Nam thôi…, và trong cách thức đó chúng tôi vẫn không xa rời tổ quốc và dân tộc của mình.

Ông Lâm Thứ gật gù tỏ vẻ thông cảm.

Nói vậy cho xuôi chuyện thôi, chứ thật ra mình cũng vẫn còn băn khoăn chưa biết phải hội nhập văn hóa thế nào, vì văn hóa Việt Nam là gì thì mình cũng vẫn chưa thấu suốt được. Thầy Trần Thái Hiệp (Linh mục Đaminh Trần Thái Hiệp, cố Giám đốc Đại chủng viện Thánh Giuse) đã phải thú nhận rằng :

“Văn hóa của mỗi dân tộc là một cái gì cứ bàng bạc, cứ ẩn hiện khó mà định hình nó được. Nó có đấy, nhưng nó dài rộng bao nhiêu, hình thù thế nào, thì khó mà biết. Nó giống như củ hành. Củ hành được kết thành bởi nhiều lớp vỏ (tạm gọi là thế). Bóc đi một lớp, củ hành vẫn không thay bản chất. Bóc bỏ thêm một lớp nữa, rồi một lớp nữa… thì nó vẫn là củ hành. Văn hóa cũng vậy. Chính vì thế có lúc mình hoảng hồn tưởng rằng mình đã vong bản rồi, chỉ vì thấy mình mặc như tây, đi giày tây, ở nhà tây, đi cầu tây… Nhìn kỹ lại mới thấy mình vẫn là Việt Nam”.

Cám ơn thầy Trần Thái Hiệp, vì chính thầy đã cho con cái kiến thức này.

——————————————————————————–

Sàigòn, ngày … 5-1994 .

Mình thơ thẩn đếm bước trên đường X. Bỗng thấy một ngôi nhà nguyện xinh xinh nằm ngay bên vỉa hè. Mình vào viếng Chúa một lát. Mình đã biết ngôi nhà nguyện này từ hơn ba mươi năm về trước. Kiến trúc kiểu tây, nhưng đơn sơ, sáng sủa, khang trang và ru hồn. Bây giờ có thay đổi một chút. Giảng đài có khắc chữ “ngôn” ( Lời, bằng chữ Hán). Trên bàn thờ vẫn có tam cấp như kiểu xưa, nhưng nhà tạm được thiết kế theo kiểu đông phương.

Đường nét, màu sắc và thể khối rất hoàn chỉnh đến mức độ mình cảm thấy thoải mái liền. Phải chăng đây là hội nhập văn hóa, là trở về với dân tộc ? Hội nhập văn hóa được Thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Độ đánh giá rất cao và gọi là “vấn đề khẩn trương” (SVĐCĐ, 52). Hội nhập văn hóa đang thôi thúc mọi người và đang được thể hiện trong thánh nhạc, hội họa tôn giáo, nghi thức phụng vụ, kiến trúc thánh đường… Mừng quá !

Mình giã từ nguyện đường và tiếp tục đếm bước trên vỉa hè. Niềm vui của nguyện đường không còn nữa. Bứt rứt quá chừng ! Rõ ràng cái nhà tạm hồi nãy giống hệt cái cổng tam môn… Đình, chùa, cung điện ngày xưa đều có cổng tam môn. Cổng có ba cửa.

Cửa lớn ở giữa chỉ mở khi có rước kiệu, hoặc có nhân vật lớn đi qua, thường thì đóng im ỉm. Thiện nam tín nữ thì ra vào qua hai cổng phụ : nam bên tả, nữ bên hữu. Qua cổng tam môn rồi thì tới tiền sảnh; sau tiền sảnh là chính điện; sau chính điện là hậu cung.

Chính điện là nơi quan trọng nhất. Nhân vật quan trọng ngồi ở đây. Sự việc quan trọng diễn ra ở đây. Thần thánh ngự ở đây. Cổng chỉ là nơi qua lại. Nếu có ai dừng chân ở cổng tam môn thì người ấy nhất định phải là người lính gác, hoặc người hành khất. Nếu nhà tạm là nơi Chúa ngự mà được thiết kế theo hình cổng tam môn, thì hóa ra cổng tam môn là nơi dừng chân của chú lính gác, của người hành khất và của… Chúa Giêsu Thánh Thể nữa !

Nhà nguyện ấy ơi. đừng để Chúa ngự ở cổng tam môn nữa! Tội nghiệp !

Chữ “ngôn” (bằng Hán tự) khắc ở giảng đài cũng làm mình thắc mắc. Đó là văn hóa của dân tộc ? Đúng thế. Dân tộc ta đã sử dụng chữ Hán gần hết dòng lịch sử. Thi sĩ làm thơ bằng chữ Hán. Văn thư của Nhà Nước được viết bằng chữ Hán. Văn tự bán ruộng, bán trâu trong dân gian cũng được thảo bằng chữ Hán. Tuy nước ta có chữ Nôm từ lâu lắm (Từ bài văn Tế Cá Sấu của Hàn Thuyên, thế kỷ13), nhưng nôm na là cha mách qué. Chữ Hán mới là chữ của văn học.

Nhìn thấy chữ “ngôn” (bằng Hán tự) trên giảng đài, mình không cảm thấy đó là nơi công bố Lời Chúa, mà ngậm ngùi nghĩ đến ngàn năm nô lệ giặc Tàu….

——————————————————————————–

Nha Trang,… 11-1974

Hôm nay đại hội trao đổi về hội nhập văn hóa. Ai nấy đều muốn có một nghi thức phụng vụ mang sắc thái Việt Nam. Đức cha Nguyễn Văn Thuận có một nhận xét buồn về nghi thức phụng vụ đang được thử nghiệm và đã được trình bày trên báo Phụng Vụ. Ngài nói :

“Chủ tế mặc áo thụng, đội mũ cánh chuồn và phủ phục trước bàn thờ thì được rồi; còn thầy phó tế mà mặc áo dài đen, thắt lưng đỏ thì… khôi hài quá. Đó là y phục của thằng lính lệ. Lính lệ trong dinh các quan ngày xưa là dân điếu đóm… Phải nghiên cứu cho thật sâu mới được. Phải có ý kiến của các chuyên gia mới được. Trở về với văn hóa dân tộc mà thiếu nghiên cứu sâu sắc thì…” .

Đức cha Nha Trang bỏ lửng ở chữ thì. Mình bèn điền ngay vào chỗ trống ấy cho đầy đủ ý nghĩa “thì là nhập nhằng văn hóa”.

  1. NHỮNG KHOẢNG TRỐNG CÒN LẠI

42 Tú Xương, ngày 28-11-1995

Chiều nay mình ghé 36 Tú Xương để thăm chị Camille, một nữ tu đã vật lộn với thằng quỷ ung thư gần hai năm nay rồi mà vẫn chưa phân thắng bại. Sắc mặt và hơi thở của chị đã là mùa thu. Nhưng ánh mắt và nụ cười của chị đang là mùa xuân. Chỉ cần bấy nhiêu thôi, chị đã là kẻ chiến thắng rồi. Ánh mắt ấy và nụ cười ấy là của Đức Giêsu mà chị đã tìm gặp…

18 giờ 15 mình từ giã chị Camille. Chị đáp lại bằng nụ cười chiến thắng… Cánh cổng vừa khép lại phía sau, mình liền cảm thấy bơ vơ. Vào giờ này đường Tú Xương hơi vắng. Thành phố bắt đầu lên đèn, nhưng đèn không đủ sáng. Mình thận trọng men theo sát vỉa hè. Két !… Chiếc xe đạp dừng ngay bên hông… Một cô gái nạ dòng. Quần lửng. Áo hở nách. Cười duyên. Thơm thơm.

– Chú đi chơi không ?

– Chơi cái gì ?

Chừng năm giây yên lặng trôi qua, mình mới hiểu cô gái ấy là ai và cô muốn mời mình đi đâu. Đúng là chú Tư Ếch đi Sàigòn. Mình cười thầm trong bụng và rảo bước. Chiếc xe đạp cứ bám sát mình. Mời mọc. Năn nỉ… Tới số nhà 42, mình chui tọt vào cổng. Dường như có ai đang chửi sau lưng : “Đồ ngu !”.

Bây giờ thì hết hồi hộp rồi, mình bèn thảo một lá thư ngỏ :

Chị Mađalêna quý mến,

 

Hồi nãy tôi gặp em gái của chị trên đường Tú Xương. Hú hồn ! Em chị đã mời gọi tôi. Tôi đã bỏ chạy. Tôi hồi tưởng lại thời xa xưa. Chị cũng đã lang thang như thế. Chị cũng đã mời mọc như thế… Cuối cùng chị đã gặp Đức Giêsu. Thế là từ đó, chị không còn đi lang thang, không còn mời mọc nữa. Chị ngồi dưới chân Ngài. Chị đã khóc, khóc thật nhiều. Khóc vì hối hận, khóc vì tủi thân, khóc vì biết ơn, khóc vì yêu mến. Chị ơi ! Đức Giêsu đã nói gì với chị, để chị thôi đi lang thang, thôi mời mọc ?

 

Ấy là chuyện ngày xưa : chuyện của Đức Giêsu và của chị. Còn hôm nay là chuyện của tôi và của em chị. Chị ơi, tôi phải nói gì để em chị thôi không còn đi lang thang, không còn mời mọc nữa ? Tôi hối tiếc vì đã chẳng nói được một lời nào với em chị như Đức Giêsu đã nói với chị ngày xưa… Hôm nay tôi không dám nói. Ngày mai tôi vẫn chưa dám nói… Thế là vẫn còn một mảnh đất hoang mênh mông mà tôi chẳng bao giờ dám bén mảng tới để gieo Tin Mừng…

 

Kính mến,

 

P.H

——————————————————————————–

42 Tú Xương, ngày 29-11-1995

Sáng nay mình đi dạo trên đường Bà Huyện Thanh Quan. Ghé photo Hồng Sơn để thăm một người bà con. Cửa mở, mình bước vào. Nhà vắng te như chùa bà Đanh. Chờ hai phút, không thấy một bóng người. Mình lui gót. Ghé một quán cà phê để giết thời giờ. Ngồi thơ thẩn, nhấm nháp, chẳng có ai để nói chuyện. Bỗng có một ông Tây già đi ngang qua trước quán. Ông đi một mình. Hai tay vắt sau lưng có vẻ nhàn nhã. Chân bước thủng thỉnh, mặt bơ bơ như bất cần đời. Nhưng… có một chuỗi hột đang đánh đu sau lưng…

Hôm qua mình gặp cô điếm trên đường Tú Xương. Cô điếm mời mọc. Hôm nay mình thấy ông Tây lần hạt trên đường Bà Huyện Thanh Quan. Ông Tây lặng lẽ. Mình ngậm ngùi tự hỏi: “Có bao nhiêu người gieo lúa mì và có bao nhiêu người gieo cỏ lùng ?”

——————————————————————————–

Cà Mau, ngày 30-11-1995

Sáng nay mình giã từ căn hộ 42 Tú Xương bằng tô phở bò tái. Đồng bàn với mình là một ông Tây. Bất đắc dĩ gặp nhau. Chuyện rời rạc như cơm nguội. Vốn liếng pháp văn của mình đã bị chôn sâu trong dĩ vãng. Phải moi móc mãi mới tạm đủ từ ngữ để trình bày cho ông thấy rằng Tin Mừng đang nở rộ ở một số nơi. Đó là nhận định của Thông điệp “Sứ vụ Đấng Cứu độ”. Đó cũng là một thực tế của giáo phận Cần Thơ. Mình khoe với ông rằng mình đang chuẩn bị để rửa tội cho hơn 300 dự tòng vào lễ Phục Sinh năm tới. Mình tưởng ông sẽ rất phấn khởi đón nhận thông tin ấy, ai ngờ mặt ông lạnh như tiền. Ông nhún vai một cái, trề môi một cái.

– Le Baptême n’est qu’un Sacrement (dựa trên giọng nói và cử chỉ của ông mình tạm dịch thế này : Rửa tội chỉ là một Bí Tích mà thôi, chẳng nhằm nhò gì đâu)

– Như vậy thì người truyền giáo phải làm gì ?

– Làm công tác từ thiện là đủ rồi. Cần gì phải rửa tội. Công đồng Vaicanô II đã tuyên bố rằng : Ngoài Giáo hột vẫn có ơn cứu độ.

Mình yên lặng và miên man suy nghĩ : Làm công tác từ thiện thì tốt lắm. Nhưng nếu chỉ có thế mà không rao giảng Đức Giêsu, thì công tác truyền giáo không còn lý do tồn tại. Rỗng tuếch ! Nhà truyền giáo Phêrô xác quyết rằng dưới gầm trời này chẳng hề có ơn cứu độ, nếu không có Đức Giêsu. Gioan còn khẳng định mạnh mẽ hơn nữa. Nếu không có Đức Giêsu, thì không có sáng tạo; Đức Giêsu là nguyên lý và là cứu cánh của vạn sự, là Anpha và Omêga.

——————————————————————————–

Chợ Rẫy, ngày 1-3-1996

Mình đột quỵ vừa đúng một tháng. Mình nằm viện vừa được bốn ngày.

Sáng nay bác sĩ dẫn sinh viên y khoa đến đứng một vòng xung quanh mình. Bài học bắt đầu.

– Cụ đi ra cửa… Cụ đi vô… Dang tay thẳng ra. Nhắm mắt lại. Đưa ngón tay trỏ chấm lỗ mũi. Tay phải. Tai trái. Làm thật nhanh… Cụ cúi đầu xuống ngực. Ngửa ra phía sau. Gặc bên phải. Gặc bên trái. Có choáng váng không ?… Được rồi. Cuối tuần tôi sẽ cho cụ về. Cụ nhớ nhẹ nhàng, chậm rãi mỗi khi đứng lên và ngồi xuống. Phải nghỉ ngơi đấy nhé.

Nghỉ ngơi là gì ? Nghỉ bao lâu ? Đa số bạn bè trả lời : “Nghỉ là nằm chừng ba tháng”. Eo ơi ! Ba tháng nằm chình ình, ăn ngon và ngủ li bì. Ba tháng ! Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì nằm chình ình ra đó. Chim chuột sẽ lượm hết mất !

  1. HIỆN DIỆN VÀ LOAN BÁO

Cà Mau, ngày…

Hôm nay mình mới ngốn xong cuốn Hồi ký của Nguyễn Hiến Lê. Tác giả Nguyễn Hiến Lê, dịch giả Nguyễn Hiến Lê, nhà xuất bản Nguyễn Hiến Lê đã ghi sâu vào ký ức của mình từ những thập niên năm mươi và sáu mươi. Ông không phải là trí thức khoa bảng, nhưng đã được tôn vinh là học giả lớn. Ông đã đọc trên hai ngàn cuốn sách của văn hóa đông, tây, kim, cổ. Ông đã sáng tác và dịch thuật trên một trăm cuốn mà hầu hết thuộc loại “Sách học làm người”.

Mình kính trọng ông như bậc thầy. Mình ngốn cuốn hồi ký của ông một cách say mê. Nhưng vùa đọc xong, mình cảm thấy có cái gì không được vui. Không vui, vì ông đã nói hết lời, nhưng nhà xuất bản lại cho biết là chưa in hết bài. Càng không vui hơn nữa, vì một học giả có trên tám mươi tuổi đời mà chỉ có bốn kỷ niệm về đạo công giáo. Tất cả bốn kỷ niệm đều không đẹp.

Kỷ niệm một :

Hồi còn là học trò trường Yên Phụ (Hà Nội), lâu lâu ông lại kéo bè kéo cánh choảng nhau với trẻ con xóm đạo, mà ông gọi là bọn con nhà giàu.

Kỷ niệm hai :

Khi ông vào sinh sống ở Sài Gòn, ông đem con đến gửi học trong trường bà phước ở Tân Định. Ông than phiền rằng trường bà phước chỉ dạy con ông học văn hóa Tây mà quên văn hóa Ta.

Kỷ mệm ba :

Ông đã soạn và xuất bản một bộ lịch sử thế giới. Ông ghi lại những trang sử đen của Giáo hội thời Trung cổ, trong đó có những vị Giáo hoàng sa đọa. Vì thế ông đã nhận được một lá thư hăm dọa và ông cho biết tác giả của lá thư ấy là một tín đồ công giáo.

Kỷ niệm bốn :

Khi ông xin Bộ Thông tin Văn hóa cho phép xuất bản một cuốn sách nói về thuyết tiến hóa của loài người, thì ông gặp khó khăn. Một nhân viên của Bộ đến tâm sự với ông hai điều :

1- Một linh mục có uy tín ở Huế đã viết thư yêu cầu Bộ đừng cấp giấy phép xuất bản cho cuốn sách đó.

2- Bộ sẽ cấp giấy phép; vì thấy không có lý do gì để cấm xuất bản một cuốn sách như thế.

Mình thiển nghĩ :

– Trẻ con đánh nhau là chuyện thường . Trẻ con lương giáo đánh nhau cũng tạm cho là chuyện thường, vì đó là chuyện trẻ con.

– Một trường dòng tại Việt Nam mà chỉ dạy văn hóa Tây thì cần phê phán một cách cẩn thận hơn. Phổ biến văn hóa Tây cho dân tộc ta là một công tác văn hóa, là làm phong phú cho văn hóa của ta. Chính ông Nguyễn Hiến Lê được tôn vinh là một học giả, vì ông đã thâu gom được nhiều nền văn hóa : đông, tây, kim, cổ. Nhưng quả thật, một trường tư thục công giáo Việt Nam mà không xây dựng giáo dục trên nền văn hóa Việt Nam thì là một thiếu sót. Cũng như một người Việt Nam nói giỏi ngoại ngữ, mà không nói giỏi tiếng mẹ đẻ thì chưa đáng hãnh diện.

– Một số Giáo hoàng thời Trung cổ đã sa đọa. Đó là sự thật mà chính sử gia công giáo không bỏ qua khi viết sử . Khiêm tốn nhìn nhận sự kiện đó để sám hối và canh tân thì tốt hơn là hăm dọa để bịt miệng sử gia.

– Thuyết tiến hóa “người bởi khỉ” là một giả thuyết thuộc lãnh vực khoa học. Không đồng ý thì cứ tranh luận. Đừng tung chưởng “cả vú lấp miệng em”, vì chưởng ấy vi phạm nhân quyền: quyền tự do tư tưởng và tự do ngôn luận.

Sự hiện diện của Giáo hội có mục đích làm chứng tá cho Tin Mừng. Nhưng quả thật ông Nguyễn Hiến Lê chưa thấy được sứ mạng ấy của Giáo hội. Dường như ông đồng cảm với giáo sư Lâm Ngữ Đường về sự hiện diện của Giáo hội. Ông Lâm Ngữ Đường đang cầm Thánh Kinh và tầm đạo, bỗng khựng lại chỉ vì ông bất bình với một lời cầu nguyện của một nhà truyền đạo. Ông thổ lộ tâm sự này trong cuốn “Đời sống tốt đẹp” mà dịch giả chính là Nguyễn Hiến Lê.

Mình tiếc vì nhiều tín hữu chưa loan báo Tin Mừng bằng sự hiện diện. Nhưng mình cũng tiếc, vì giáo sư Lâm Ngữ Đường và học giả Nguyễn Hiến Lê không gặp được “kho tàng chôn giấu trong thửa ruộng”.

——————————————————————————–

Cà Mau, ngày… 1975

Hôm nay ông Chín Binh dẫn đến cho mình ba đứa con.

– Xin cha rửa tội cho các cháu. Lo đánh giặc, nay mới có điều kiện để giữ đạo.

– Thằng lớn này mấy tuổi ?

– Tám tuổi.

– Tôi rửa tội hai đứa nhỏ. Đứa lớn thì phải học giáo lý trước đã. Mình cho người đi kiếm vú đỡ đầu.

Bé Loan và bé Phượng vui như tết, vì sắp được rửa tội và vì có bà vú dễ thương…

Sau nghi thức ghi danh ở cửa nhà thờ, mình dẫn hai bé lên cung thánh để cử hành những nghi thức kế tiếp. Vừa bước tới cung thánh, bé Phượng khóc thét lên như bị ong chích, không ai dỗ được nó. Mình hỏi vú nó :

– Tại sao vậy, Lụa ?

– Tại nó thấy tượng Chúa bị đóng đinh. Nó sợ.

Mình lắc đầu, suy nghĩ. Bé Phượng bị “sốc” rồi. Cú ”sốc” này sẽ trở thành một ấn tượng không xóa được. Kỷ niệm đầu đời về đạo Chúa là như thế ư ? Hãi hùng và rùng rợn !

Chúa ơi ! Hình ảnh Chúa chịu đóng đinh là một hình ảnh thân thương nhất của đời con, là dấu ấn của tình yêu tuyệt vời, thế mà nay đã trở thành hình ảnh rùng rợn của bé Phượng !

Mình nghĩ đến vấn đề sư phạm giáo lý. Mình tự hỏi : có nên trình bày lịch sử cứu độ như thế cho trẻ thơ, và như thế cho lương dân không nhỉ ?

——————————————————————————–

Cần Thơ, ngày…

Mình nghe tin bà Giám tỉnh dòng Chúa Quan Phòng mới đi Tây về. Mình vọt đến đó để thăm bà một tí và dành hai tí để tìm hiểu tình hình của Giáo hội bên Tây.

Thấy bà vui tánh và hiền hậu, mình hỏi thật nhiều để có thể đánh giá tình hình Giáo hội bên ấy một cách công bằng. Mình ghi nhận lời nói sau đây của bà. Bà nói như một phản xạ.

– Ở bên đó người ta thích tượng Chúa Phục sinh hơn là tượng Chúa Thọ nạn.

– Thưa “Bà cố”, đó là lẽ công bằng đấy. Lịch sử cứu độ dài lắm và kết thúc ở sự kiện Phục sinh, chứ không phải ở sự kiện Thọ nạn. Vả lại Chúa chỉ ở trên khổ giá có ba giờ thôi, thì mình không nên để Người ở trên đó triền miên từ ngày này qua ngày khác. “Từ Thọ nạn đến Phục sinh” chứ không phải “Từ Thọ nạn đến Thọ nạn”…

Mình ra khỏi nhà dòng, tản bộ bên bờ sông, lòng cứ bâng khuâng không biết phải chọn cách nào :

– Trưng bày tượng Chúa Phục sinh trên phông cung thánh ba trăm sáu mươi bốn ngày, trừ ngày thứ Sáu Tuần thánh ?

– Trưng bày tượng Chúa Thọ nạn ba trăm sáu mươi lăm ngày, kể cả ngày lễ Phục sinh ?

  1. ĐI

Sàigòn, ngày… 1971

Hôm nay khai mạc Đại hội truyền giáo tại nhà nguyện Dòng Thánh Phaolô. Mình phụ trách phần thuyết trình. Lần đầu tiên trong đời, mình đăng đàn trước một cử tọa có nhiều người tai to mặt lớn như thế. Mình bắt đầu run. Phải hít thật sâu mấy hơi liền mới thấy hết hồi hộp.

Mình chủ trương rằng người truyền giáo phải khởi đầu sự nghiệp bằng việc ra đi. Đi để thấy mình phải làm gì, phải làm thế nào và phải làm tới mức độ nào. Đức Giêsu đã đi và đi không ngừng. Thánh Phaolô cũng thế. Mình trích dẫn lời của Thủ tướng Ben Gourion : “Người lính Do Thái phải tìm hiểu và yêu thương quê hương của mình bằng hai bàn chân” .

Người truyền giáo có thể đi bằng phương tiện truyền thông xã hội, nhưng đi bằng chính thân xác của mình, để hiện diện và đối thoại với người lương dân là cách đi hoàn hảo nhất. Mặt đối mặt, lời trao lời mới nảy ra tình yêu. Truyền giáo mà không yêu thương, thì không thể là truyền giáo được. Muốn thế thì phải đi, phải đến…

Bài thuyết trình của mình có một ưu điểm là rất ngắn gọn, nên được thính giả vỗ tay hơn thông lệ. Vừa rời giảng đài được chừng ba bước, thì chạm trán với thầy Hiến Minh. Thầy siết tay mình thật chặt và khen ngợi bằng một câu rất gọn : “Cậu nói được đấy”.

Thái độ niềm nở và lời khen ngợi của thầy làm mình phấn khởi và thêm xác tín vào lập trường sẵn có : “Người truyền giáo phải khởi đầu sự nghiệp bằng việc ra đi. Đi để thấy mình phải làm gì, phải làm thế nào và phải làm tới mức độ nào”.

——————————————————————————–

Ngô Xá, ngày… 1989

Hôm nay mình đến thăm Ngô Xá, một họ đạo thuộc tỉnh Phú Thọ. Mình biết Ngô Xá nhiều, vì trong những năm kháng chiến chống Pháp, trường của mình đã sơ tán về đây. Ngô Xá là một họ đạo có 6.000 tín đồ. Vậy mà từ mười năm qua, nhà thờ của họ không có một thánh lễ nào. Ngô Xá được sát nhập vào Du Bơ, một họ đạo bạn, có cha xứ là một linh mục già và bệnh tật. Ngài lẫn đến mức độ không còn xác nhận được vị trí của các phòng trong nhà.

Bữa cơm trưa được khoản đãi tại nhà bà con của ông bạn. Câu nói “mâm cao, cỗ đầy” được hiểu theo nghĩa đen thật sự. Đãi tối đa cho vừa lòng, vì đây là chuyện “ngàn năm một thuở” . Được tin có hai linh mục từ miền Nam về thăm, bà con ùn ùn tuôn đến. Căn nhà ba gian chật cứng người. Người ta xô lấn từ phía sau lưng, khiến bát cơm cầm trên tay mà không kê vào miệng được. Bỗng có một người đàn ông la to lên :

– Xin mời hai cha đứng lên ghế để bà con được thấy mặt ạ.

Hai anh em mình đứng lên ghế, quay một vòng. Lại có tiếng la lên từ ngoài sân :

– Xin hai cha ra ngoài này cho bà con thấy mặt một cái.

Hai anh em lại ngoan ngoãn đi ra.

Một người đàn bà nói sau lưng mình :

– Thấy hai cha, chúng con thèm quá !

– Nếu Đức cha cho hai anh em chúng tôi về đây thì các bà có lấy không ?

– Chúng con lấy tất.

– Nhưng nếu Đức cha cho một cha già mù, thì các bà có lấy không ?

– Mù cũng được, miễn là có lễ thì thôi.

Mình tếu táo để chặn dòng lệ đang muốn trào ra. Bây giờ mình mới cảm nghiệm được lời than thở của Chúa tại Béxaiđa thuở xưa : “Ta thương quần chúng, vì họ bơ vơ như những con chiên không người chăn dắt”.

Mình đã được thông tin khá đầy đủ về tình trạng thiếu chủ chăn ở đây. Nhưng những nguồn thông tin ấy chỉ chạm tới não, chứ chưa đụng tới con tim. Hôm nay đến đây, được chứng kiến tận mắt, mình mới cảm nghiệm được rằng : để họ bơ vơ như thế là một trọng tội, một trọng tội dành cho mọi chủ chăn. Chính bản thân mình, mình cũng đã có thái độ thờ ơ đối với họ. Mình vừa mới được giác ngộ nội trong ngày hôm nay, sau một chuyến đi. Đi và không đi khác nhau như thế đó.

Đời truyền giáo của mình cũng vậy. ĐI là một động từ mà mình muốn tôn thờ. Mình muốn nó được viết bằng chữ hoa, được gạch đít, được đóng khung và vẽ hoa xung quanh. Nếu truyền giáo mà không ĐI, thì kể như chưa truyền giáo. Suốt bốn năm truyền giáo tại Năm Căn, mình đã đi, đi thật nhiều, nhiều đến nỗi trong hai năm cuối mình không ngủ ở nơi nào quá hai đêm. Đi nhiều đến thế, mà hôm nay mình vẫn chưa hề hối hận.

  

  1. BUỒN VUI CÁI RẮN

Cái Rắn, ngày 21-7-1996

13 giờ 30 mình đi rửa mặt. Bên ngoài khuôn bông cửa sổ thấp thoáng hai cái đầu trùm khăn rằn ri. Mình mở tung cả hai cánh cửa, giang tay đón khách.

– Chào hai bà. Hai bà đi đâu mà sớm thế ?

– Tụi tui đi lễ. Đi sớm để vô thăm ông cha. Ông cha mạnh giỏi luôn rồi hả ?

– Chỉ mới mạnh thôi, chưa thấy giỏi.

– Ông cha vui tánh quá à !

Hai bà đã đăng ký theo đạo từ mấy tháng rồi, nhưng lâu lắm mới xuất hiện một lần. Hôm nay họ đi lễ Chúa, lại còn đi thăm “cha” nữa. Đạo nhuần nhuyễn dữ rồi, mình mừng thầm trong bụng.

– Mưa dữ, chắc là đủ nước làm ruộng rồi phải không ?

– Đủ rồi, nhưng mà không có nước xài.

– Sao vậy ?

– Có một cái khạp, dứt mưa là hết nước liền.Ông cha cho tụi tui mỗi đứa một cái khạp đi?

– Tôi cũng nghèo như các bà, làm sao có tiền mua khạp ?

– Ông cha đóng giếng cho người ta thì được,mà không cho tụi tui được một cái khạp sao ?

– Ân nhân cho giếng, tôi đóng giếng cho bà con. Đóng giếng xong thì hết tiền. Chưa có ân nhân nào cho tiền mua khạp cả.

– ?!

Hai bà nhìn nhau, trao đổi lí nhí, rồi đứng dậy.

– Thôi mình về chứ.

– Thì về. Không lẽ ngồi ăn vạ ở đây sao ?

Hai bà ra về và thôi không lễ Chúa nữa.

Buồn man mác ! Mình mở sách nguyện đọc kinh trưa. Mắt thì đọc kinh, mà lòng thì lo ra. Mình thấy Thầy Chí Thánh của mình cũng đang buồn. Thấy dân đói, Ngài hóa bánh ra nhiều để dân ăn no trước khi ra về. Họ ăn no, nhưng không ra về, mà hè nhau tổ chức lễ tôn vương. Ngài đành bỏ trốn, trốn lên núi để thỏ thẻ với Chúa Cha. Ngày hôm sau Ngài vẫn còn buồn. Một số người bao đò từ Bétxaida đi Caphácnaum để tìm Ngài. Chắc là họ muốn năn nỉ xin Ngài làm Vua. Thấy Ngài, họ vồn vã chào hỏi.

– Ủa, Thầy về đây từ hồi nào vậy ?

– Tôi biết, các ông tìm tôi không phải vì một dấu lạ, mà vì đã được ăn no.

Thấy dân đói, thì cầm lòng chẳng được. Cho dân ăn no, thì dân biến lịch sử cứu độ thành mưu đồ chính trị. Biết làm thế nào bây giờ ?

——————————————————————————–

Cái Cấm, ngày 31-7-1996

Hôm qua mình tới đây để hôm nay giao lưu với cha Mười và các bà phước. Tất cả đều ở những tuổi bốn mươi : dạn dĩ, từng trải và táo bạo. Cha Mười lẫm liệt ngồi đó làm điểm khởi và điểm tới của một vòng tròn mười bốn bà phước. Mười bốn bà phước là mười bốn sinh viên thần học lì lợm muốn dành một tháng hè cho vùng tam giác Cà Mau. Họ đến đây để làm giàu vốn liếng ngữ học. Bây giờ họ mới biết thế nào là trái mắm, chang đước. Bây giờ họ mới hiểu thế nào là nước đạp, bảnh hết biết, đẹp dữ trời. Và bây giờ họ mới cảm nghiệm được thế nào là “những con chiên bơ vơ không người chăn dắt”

Mình chăm chú theo dõi cuộc đối thoại giữa cha Mười và chị My.

– Tôi nghe nói vợ chồng thằng N. ham học giáo lý lắm mà. Chúng nó quyết tâm học để hợp thức hóa hôn phối, rồi chụp hình gửi về Bắc cho bố mẹ mừng. Vậy tại sao đến khi làm phép cưới thì lại thiếu hai đứa nó. Chắc nó mắc cở vì cái bầu quá lớn. Lớn thì lớn, chụp nửa trên thì có sao đâu.

– Con cũng dặn tụi nó là chụp nửa trên thôi. Nhưng lý do tụi nó bỏ cuộc không phải vì cái bầu. Tại con vợ nó dị đoan. Học giáo lý cho đã rồi, cuối cùng nghe con bạn làm tài khôn : “Mang bầu mà làm phép cưới thì sinh con vô duyên”. Từ đó thằng chồng khuyên nhủ thế nào nó cũng không nghe.

Thế là công cốc. Vui như thế rồi lại buồn đến thế. Một nồi bún riêu thật ngon có thể làm cả nhà cụt hứng chỉ vì một giọt dầu hôi vô tình.

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 4-8-1996

Một người đàn bà từ ngoài sân đi vào, vừa đi vừa nói oang oang :

– Kiếm được xác vợ Tám Trọng rồi.

– Hồi nào vậy ?

– Hồi 5g30 sáng nay xác nổi lập lờ ở khúc Rạch Ráng. Nó mới gia nhập dự tòng nhưng chưa rửa tội.

– Vậy thì chiều nay tôi sẽ làm lễ an táng cho chị ấy tại nhà. Nhưng hỏi ý kiến thân nhân xem sao đã. Nếu họ không đồng ý thì thôi.

17g05 chiếc vỏ lãi của mình ghé bến nhà Tám Trọng. Mình thắp vội cho chị Tám một cây nhang rồi bắt đầu mặc áo lễ. Có một tiếng than khóc làm mình đau nhói trong tim : “Trời ơi, khổ quá thế này thì chịu sao nổi ?!” .

Phải, nỗi đau này lớn quá. Anna Lê Thị Hà, 40 tuổi, đi chợ Rạch Ráng để mua than cho đứa con gái mới hạ sinh một cháu trai. Chiếc xuồng be chín quá nhỏ và chở quá khẳm, lại phải đụng với hai đợt sóng quá lớn giữa dòng sông Ông Đốc rộng mênh mông. Xuồng lật. Thằng con trai chạy máy dìu được mẹ nó vào bờ thì kiệt sức. Chị Tám là người quá giang đành ngoi ngóp một mình.

– Chúa ơi, Mẹ ơi, cứu con với !

– Cứu người ta kìa. Một người đàn ông lên tiếng.

– Thôi đi. Xuồng mình khẳm quá không cứu được đâu. Chiếc xuồng chở gạo của đôi vợ chồng nhắm mắt bỏ đi, để lại một đợt sóng mới kết thúc những tiếng kêu cứu của người đàn bà kiệt sức. Chị Tám chìm xuống. Thế là hết. Dòng sông vô tình, lòng người vô tâm…

Lê Thị Hà có chồng, sáu đứa con và một đứa cháu ngoại vừa mới ra chào đời được hai ngày. Hà và một đứa con gái 12 tuổi xin gia nhập đạo, những mong được Chúa ban phúc lành để lôi kéo cả gia đình theo Chúa. Hà chưa được rửa tội thì đã gặp nạn. Nỗi đau quá lớn lao này có thể làm cho chồng con của Hà mất hết niềm tin vào đạo của Chúa. “Trời ơi, khổ quá thế này thì chịu sao nổi !?”. Tiếng khóc ai oán ấy không hề báo hiệu một hy vọng nào cả, dù là hy vọng mỏng manh nhất.

  1. ĐI TÌM CHIÊN

Cái Rắn, ngày 23-8-1995

Bà Bảy Hoài, người được đề cử làm “Mẹ Việt Nam Anh hùng” , mời mình đi Rạch Lùm xức dầu cho người anh hai đã xa đạo trên bốn chục năm. Xuồng máy phải chạy mất hai tiếng rưỡi. Nghe cái tên Rạch Lùm mình nghĩ ngay đến một vùng tối tăm mù mịt. Thế mà có ngờ đâu Rạch Lùm đã đẻ ra bác Ba Phi, một nhân vật nổi tiếng của tỉnh Minh Hải. Ông nội Đức cha Mẫn cũng đã sống và chết ở đây. Rạch Lùm cũng đã từng có nhà thờ và đã từng sinh hoạt như một họ đạo…

Ông Hai đã ngoài tám mươi, chân và mặt phù lên, nhưng trí khôn vẫn tỉnh táo. Ông xưng tội và rước lễ sốt sắng. Sau khi cử hành các bí tích, mình mời ông một điếu thuốc “Bảy Hột Xoàn” và dìu ông vào chuyện vui. Từ vui đến tếu :

– Ông Hai có sợ chết không ?

– Không ! Chúa kêu thì dạ. Sợ gì ?

– Hồi còn trẻ, ông Hai có ham chơi không ?

– Ảnh trời đất lắm đó, ông cố. Vì ảnh mà ông già con bị ông cố Quimbrôtz đánh cho mười sáu hèo, bà Bảy Hoài tếu táo như thế.

– Tại sao vậy ?

– Thì ảnh chèo ghe cho cố Quimbrôtz, rinh ngay cô bếp của ông cố trốn đi mất tiêu, chẳng cần làm phép gì ráo trọi.

– Thế ông cố Quimbrôtz có bị Đức cha đánh cho ba mươi hai hèo không ?

– Có con hư thì mới bị đánh chứ.

– Chèo ghe cho ông cố thì là con ông cố; nấu cơm cho ông cố thì cũng là con ông cố. Như thế là ông cố có những hai đứa con hư. Vậy thì ông cố phải ăn hai lần đòn. Hai lần mười sáu là ba mươi hai.

– Biết đâu à.

– ……

Bữa cơm gia đình thật vui : con cháu tề tựu khá đông; khách từ Cái Rắn đến thăm lại còn đông hơn nữa. Để chia sẻ sự tốn kém của gia đình, mình nhét vào túi ông Hai hai tờ năm mươi.

– Biếu ông Hai một chút để bồi dưỡng. Nếu ông Hai về chầu Chúa trước thì nhớ cầu nguyện cho tôi, cầu nguyện cho con cháu và lối xóm. Tôi trao Rạch Lùm này cho ông Hai. Ông Hai nhõng nhẽo với Chúa để Rạch Lùm lại có nhà thờ nữa nhé !

– Dạ.

——————————————————————————-

Cái Rắn, ngày 2-9-1995

2g30 chiều, có khách lạ tới.

– Xin cha xức dầu và trao Mình Chúa cho mẹ con.

– Ông ở đâu nhỉ ?

– Con ở Quản Phú.

– Quản Phú ở gần Vàm Đình đó hả ? Xa dữ ạ. Chắc phải ngủ ở đó, mai mới về được.

Đúng 6 giờ chiều thì mình tới Quản Phú. Bà Út 90 tuổi nằm im lìm. Bà không nói được, nhưng vẫn nghe và hiểu. Biểu bà ăn năn tội, thì bà gật đầu. Giải tội xong, thì mình dâng thánh lễ và cho bà rước lễ. Bà sẽ ra đi ngọt lịm như ngọn đèn hết dầu…

Bà Út quê ở Trà Vinh xuống làm ăn ở vùng này từ trên sáu chục năm. Con cháu của bà đông lắm, nhưng chỉ có người con thứ năm và một đứa cháu nội là có phép hôn phối. Gốc có đạo nhưng ngọn thì lạc đạo hết rồi. Người con gái thứ tư đã ngoài sáu mươi mà chưa rước lễ lần đầu.

Bữa cơm tối rực lên dưới ánh đèn măng sông. Thịt gà luộc trộn với rau chuối xắt ghém. Rượu đế cay nồng thơm mùi nếp. Thôi thì vui cũng rượu, mà buồn cũng rượu. Ngồi ăn với mình có ba người con của bà Út cùng với vài người trong xóm.

Ông Năm tâm sự :

– Cha con chết có dặn dò con cháu kỹ lưỡng : “Mình ở đây giống như cây đước giữa rừng mắm. Đước phải chung sống với mắm thôi. Nhưng ở đây không có người đạo mà cưới gả, thì phải cưới gả với người ngoại, nhưng đạo ai nấy giữ”.

– Nhưng đước thì chết gần hết rồi ! Bây giờ tôi tính với ông Năm nhá. Tôi sẽ cho người đến ở đây với ông Năm vài tuần để dạy giáo lý cho con cháu. Dâu rể ngoại, thì ông Năm khuyên nhủ chúng nó cho chúng nó biết Chúa là Cha. Nếu chúng nó biết ông Trời là Cha, thì chúng nó thương liền chứ gì. Nhắm chừng được không ông Năm ?

– Được chứ ! Nếu được các dì xuống dạy thì hay lắm.

Trước khi chui vô mùng, mình hỏi nhỏ bà Tư Quý :

– Có nhà vệ sinh không ?

– Ở tuốt đàng sau đó. Lội sình tới đây nè (bà lấy ngón tay gí vào giữa bắp chân).

– Nếu đêm hôm cần xài nó thì sao ?

– Thì ra đại bờ sông. Tối thui ai mà thấy…

Ngoài kia, trời tối như mực, mưa rơi tí tách. Mình nghĩ bụng: Nếu các dì phước xuống dạy giáo lý ở đây, thì phải giải quyết cách nào. “Sống như” trăm phần trăm được không ? Nan giải thật ! Cầu tiêu trên bờ sông, thì được lệnh phá hết rồi. Cầu tiêu mà theo tiêu chuẩn văn hóa mới, thì chưa có. Hố xí theo kiểu miền cao, thì ở đây không làm được. Đành đi vào thời quá độ. Trăm sự nhờ vào bóng đêm… Tin Mừng không thể vì thế mà bị ngưng trệ.

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 6-9-1995

Hai chàng thanh niên và một cô gái lạ mặt bước vô phòng.

– Mai là ngày kỷ niệm của mẹ tụi con. Xin ông cố làm cho mẹ con một lễ.

– Tụi con ở đâu ?

– Vợ chồng con ở đầm Bà Tường. Tụi con về làm kỷ niệm cho mẹ.

– Bao xa ?

– Con chèo xuồng ba tiếng.

– Còn con thì ở đâu ?

– Con ở Tân Ánh.

– Bao xa ?

– Chừng tám cây số.

– Sao tụi con không mời cha đến tận nhà làm lễ cho mẹ tụi con ?

– Tụi con nghèo lắm.

– Kệ, mai cha sẽ tới làm lễ cho mẹ tụi con và thăm tụi con luôn.

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 7-9-1995

Hôm nay mình xách vỏ lãi đi Tân Ánh. Có ba bà phước và hai người giáo dân cùng đi. Vỏ chạy hết bốn mươi lăm phút. Gia đình nghèo thật. Căn chòi nhỏ quá. Bàn thờ kê ở giữa nhà, thì gần chạm tới hai cái giường kê ở hai bên.

Tham dự thánh lễ có mẹ và các con cháu của người quá cố. Bà mẹ già tám mươi hai tuổi. Vì hoàn cảnh chiến tranh bà chỉ rửa tội cho một mình đứa con út, mà hôm nay mình làm lễ giỗ. Bản thân bà thì cũng đã trên bốn mươi năm chưa xưng tội. Bà có rất nhiều con cháu ở Cái Rắn, vậy mà hôm nay mình mới gặp bà lần đầu tiên.

Ba bà phước năn nỉ bà già tám mươi hai về Cái Rắn xưng tội và dâng thánh lễ. Bà từ chối, lấy cớ là lu bu công chuyện. Nhưng khi mình xuống vỏ lãi về thì bà cũng xách túi đi theo. Bà phước có tài năn nỉ thật.

  

  1. NHỮNG KỶ NIỆM VỀ LOÀI CHÓ

Cà Mau,

Hôm nay thằng Bưởi ngố nằm chết ngay trên bàn quỳ của tòa giải tội. Mình bảo người ta đem đi chôn, nhưng dường như mấy tay nhậu đã đem đi làm thịt… Chó chết thì hết chuyện, nhưng thằng Bưởi chết làm mình suy nghĩ mông lung.

Thầy Nhiên đem nó về đây và đặt tên cho nó là Bưởi. Còn tên Bưởi ngố là do thiếu nhi đặt. Nó không biết sủa, không biết cắn, nhưng lại thích rượt con nít. Hễ thấy con nít là rượt, rượt mãi miết cho tới khi gí mũi vào mông đối tượng một cái, rồi mới chịu quay về. Tỉnh bơ. Ngơ ngơ.

Lúc nào cũng tỉnh bơ, ngơ ngơ như thế, chẳng biết giận dữ là gì. Vậy mà đã hai lần nó làm lương tâm mình bị cắn rứt.

1- Hôm ấy đến phiên mình nấu cơm. Nhà có ba miệng ăn, mình xúc hai lon gạo. 3-2 là bài toán chuẩn xác nhất, được mọi người trong nhà xứ tuân theo một cách máy móc. Thế mà hôm ấy 3-2 lại sai. Ba anh em vét sạch nồi. Không còn một miếng cháy. Vẫn còn thòm thèm. Khi mình rửa chén, cọ nồi, thằng Bưởi cứ đứng dòm mình. Ngơ ngơ. Cặp mắt ngơ ngơ của nó làm mình xấu hổ. Mình giơ tay dọa nó, nó lùi một bước, rồi lại đứng đóù, cặp mắt lại ngơ ngơ dòm mình. Phải rồi, nó đi đâu bây giờ ? Ngoài vườn không có gì để ăn. Chỉ có một món có thể ăn được, thì mình lại bỏ vô hầm cầu mất rồi. Mình là chủ của nó, nhưng là một ông chủ vô trách nhiệm. Mình xin lỗi nó, nó không biết, cứ ngơ ngơ. Thế mới đau !

2- Mình gặp bà Tư ở bên nhà thờ Quản Long.

– Ủa, bà Tư, sao lâu quá không gặp bà. Cứ tưởng là bà dời nhà đi đâu rồi.

– Con có đi đâu đâu. Lâu lâu muốn vô thăm cha, lại sợ con chó Bưởi. Con Bưởi của cha dữ quá à !

– ! ! !

Thằng Bưởi của mình ngố là thế mà vẫn bị mang tiếng là chó dữ. Tin dữ đồn xa. Chó dữ làm mất láng giềng. Mình thấy nhói trong tim. Từ đó mình đã quyết tâm không bao giờ nuôi chó nữa. Thằng Bưởi là con chó cuối cùng của đời mình.

Khi nhà xứ không còn nuôi chó nữa, mình lại nhớ đến những kỷ niệm xa xưa về loài chó.

Kỷ niệm một :

Niên khóa 1951-1952 chủng viện Hà Thạch đi sơ tán, để lại sáu đứa chúng mình, làm chủ ba dãy nhà lầu rộng thênh thang và một khu vườn rộng bát ngát. Lũy tre xanh bao bọc xung quanh. Bên kia có một con lợn xề. Bên này có một rẫy khoai. Nghề của lợn là phá rẫy. Nghề của chúng mình là đèn sách. Hai bên không có dịp giáp mặt nhau. Cứ đến giờ vác cuốc xuống rẫy, thì chỉ còn biết kêu lên “Hỡi ôi !”.

Trong thời buổi khó khăn, khoai quý như gạo, thì bảo vệ rẫy là bổn phận hàng đầu. Chúng mình chia phiên gác. Vừa học bài, vừa coi rẫy.

Con lợn xề vừa chui qua hàng rào tre, thì có tiếng vỗ tay và hô to :”Hươu, Nai, Hổ… xùy, xùy…”. Ba con chó bẹc giê xông ra một cách dũng mãnh… Bỗng khựng lại và sủa khan. Con lợn xề to quá và dữ quá. Án binh bất động. Hai bên thủ thế. Con lợn xề ngồi tựa lưng vào lũy tre, chiến lũy Maginot bất khả xâm phạm. Địa hình ưu đãi nó. Ba con chó bẹc giê ngồi chầu con lợn. Tiến thoái lưỡng nan : tấn công thì không thắng; rút lui thì nhục. Chiến trường ngưng đọng. Hai bên chỉ còn chửi đổng nhau một cách rời rạc .

– Gâu… Gâu…

– Ôộc…. Ôộc….

Từ phía gốc bàng cổ thụ có tiếng gọi : “Hôå, xùy… xùy…”. Lòng tự ái bốc lên như triều dâng, con Hổ nhào vô tấn công con lợn. “Ẳng, ẳng…”. Con lợn xề to đùng ôm lấy con Hổ. Hai má núng nính quăng qua quật lại làm con Hổ bị đau gần chết. Con Hổ chịu thua, giãy giụa để thoát thân, chạy vội về chiến tuyến của mình. Thở hào hển. Lại ngồi chầu hẫu. Lại sủa khan để chống thẹn.

Bỗng nó đứng dậy, lủi thủi ra đi như kẻ bỏ cuộc. Nó chậm rãi đi về phía cuối hàng rào, chui qua một lỗ hổng, rồi vòng trở về phía chiến lũy bất khả xâm phạm của đối phương. Nó trườn mình qua hàng rào dày… Thì ra nó đánh tập hậu bằng miếng võ ngoạm đuôi. Con lợn kêu éc một tiếng, xoay vội ra phía sau để đối phó, bỏ trống phía trước. Nhanh như chớp, Nai và Hươu nhào vô cắn mông. Con lợn bị rơi vào địa hình bất lợi hoàn toàn. Bị tấn công hai mặt. Chưa kịp đỡ phía trước thì đã bị đánh phía sau. Đánh không được, đỡ cũng không. Sau mười phút chiến đấu điên cuồng, con lợn xề hộc lên một tiếng, rồi đổ kềnh xuống. Một đống thịt đỏ lòm như tắm máu. Ruột lòi ra một nùi…

Thây lợn được khiêng ra Ủy ban xã. Thầy quản lý được mời ra Ủy ban để đối chất với chủ lợn. Chúng mình nín thinh chờ đợi… Thầy quản lý vừa về tới cổng, chúng mình ùa ra đón.

– Có sao không thầy ?

– Chúng ta thắng…, được bồi thường bằng một rổ thịt.

Chủ lợn đang thắng thành thua. Chúng mình đang thua thành thắng. Mình cảm động đến ứa lệ.

Tối hôm ấy, chúng mình được ăn một bữa thịt lợn ngon ơi là ngon. Ngon vì chúng mình đang thiếu chất đạm một cách trầm trọng. Ngon vì thịt lợn là chiến lợi phẩm bất ngờ.

Ba con chó lẩn quẩn dưới gầm bàn. Thương tụi nó thì ít, mà biết ơn tụi nó thì nhiều. Mình vứt xuống gầm bàn một khúc xương còn dính nhiều thịt. Thế là ba con chó quần nhau một trận tơi bời hoa lá, rung bàn đổ ghế. Gầu gầu… Gừ gừ… Ẳng ẳng….

Chó ơi, sáng nay chúng mày thương nhau là thế, khôn ngoan là vậy. Thế mà bây giờ chúng mày lại cắn xé nhau chỉ vì… một khúc xương. Ôi, tình chó !

Bây giờ mình mới hiểu thấm thía một lời trong sách Chiến Quốc: “Khi hai người cùng chung lo một việc, thì yêu nhau; khi hai người cùng chung hưởng một quyền lợi, thì ghét nhau”. Ôi, tình người !

Kỷ niệm hai :

Mình đọc sách để dọn bài giảng… Một linh mục người Đức kể chuyện :

Trong nghĩa trang dành cho loài chó có một ngôi mộ bằng đá cẩm thạch thật xinh. Trên mộ có một tấm bia ghi bằng chữ vàng như sau : “Đây là nơi an nghỉ cuối cùng của NIỀM HY VỌNG ĐỘC NHẤT của đời tôi” . Đó là lời tâm tình của một bà cụ già gửi cho con chó yêu thương của mình. Con chó là niềm hy vọng độc nhất của bà. Bây giờ nó đã chết, bà sống vật vờ như xác không hồn, cô đơn giữa chợ đời gần sáu tỷ người. Tại sao ? Tại bà không thương người; hay tại người không thương bà ? Hay tại hai cuộc thế chiến đã biến con người trở thành muông sói của nhau ? Hay tại nền văn minh cơ giới đã cơ giới hóa con tim loài người ? Rồi mình lo âu tự hỏi : “Trên thế giới này sẽ còn có bao nhiêu người cô đơn như thế ?” .

Kỷ niệm ba :

Cha A. Desroches là linh mục thừa sai Paris, là giáo sư môn toán, lý hóa của tụi mình. Thầy phát âm tiếng Việt rất dở, nhưng thầy rất mến người Việt Nam. Cứ mỗi buổi chiều Chúa nhật, thầy lại xách môtô đi thăm dân sống rải rác trong vùng rừng núi. Mỗi lần đi thăm về, thầy lại có quà cho tụi mình : không bưởi thì cũng quít, không sấu thì cũng ổi… Thầy rất sợ thịt chó. Cứ nói đến thịt chó thì thầy lại nhún vai tỏ vẻ kinh tởm. Nhưng sau đó, thầy lại hối hận. Thầy âm thầm tập luyện để hội nhập, cho tới một ngày kia…

– Cha có dám ăn thịt chó không ?

– Có.

– Cha đã ăn được chưa ?

– Ăn ?ược rồi.

– Cha thấy thế nào ?

– Thịt chó ngon lắm, nhưng phải là chó Việt Nam.

– Tại sao ?

– Chó tây ăn thịt, thịt không ngon. Chó Việt Nam ăn c., thịt lại ngon.

Dám ăn thịt chó, ăn được thịt chó, thấy thịt chó ngon, lại còn biết triết lý dí dỏm về thịt chó. Mình cảm phục một vị thừa sai chân chính dám sống VỚI, sống NHƯ đến tận cùng, để sống CHO trọn vẹn.

  1. RĂNG ĐEN

Hiền Quan, ngày… tháng 8-1989

Hôm nay mình rời Tòa giám mục Sơn Tây để về thăm quê, sau ba mươi bảy năm xa biền biệt. Đứng trên phà qua bến đò Trung Hà, mình bỗng cao hứng hát tỉ ti :

Ai qua bến Đà Giang,

Cho tôi nhắn vài câu,

Thương về mái tranh nghèo.

Bên hàng cau …..

Nghe mình hát, người đàn bà dắt xe đạp đứng phía trước ngoái đầu dòm mình. Cặp mắt đong đưa. Nàng cười duyên, nhe hai hàm răng đen nhưng nhức. Mình xấu hổ quay mặt nhìn bâng quơ về phía núi Ba Vì.

– Bác ở trong Nam mới ra ?

– Không dám, tôi ở Sơn Tây đây thôi.

– Chỉ có dân Nam Bộ mới hát hồn nhiên như thế.

– Chị chê tôi là già mà còn chơi trống bỏi phải không ?

– Bác nói quá lời, em không dám ạ. Hồn nhiên như thế mới thích. Đạo mạo quá hóa ra đóng kịch. Chán chết.

Người đàn bà cỡ năm mươi tuổi, dạn dĩ, thông minh, cởi mở, nhưng không hấp dẫn, vì răng đen mã tấu, tạo cảm giác rùng rợn. Mình im lặng chờ phà cập bến, ngồi lên xe, vỗ vai ông em : “Vọt lẹ” .

Đường đất nhẵn nhụi. Xe vọt ào ào. Mình nhẩm từng địa danh quen thân : Hưng Hóa, Hương Nộn, Tứ Cường, Thanh Uyên, Gia Áo. Sắp tới Hiền Quan rồi. Những kỷ niệm thời thơ ấu chen lấn nhau trên màn ảnh ký ức : cây gạo đầu xóm cao nghều nghệu, có tổ quạ bù xù, có ngàn hoa đỏ rực; cây phượng vĩ già nua bên hông nhà thờ năm nào cũng sặc sỡ như thời con gái. Mình thích nhặt hoa gạo để hút mật và thích bẻ hoa phượng để cắn cái cuống chua chua.

Xe đã lao vào ranh giới Hiền Quan. Mình tìm cây gạo, cây gạo không còn nữa ! Xe leo giốc nhà thờ. Mình tìm cây phượng, cây phượng đã chết rồi ! Những kỷ niệm đẹp của thời thơ ấu không còn dấu vết. Mình cảm thấy xa lạ đối với quê hương.

Xe quẹo hai lần, rồi lọt vào giữa rừng người đồng hương. Tiếng vỗ tay giòn giã. Tiếng chào rền rĩ, mà sao lòng mình thấy bơ vơ. Bố mẹ, chú thím, dì dượng không còn một ai. Chỉ còn hai chị, nhưng chẳng nhìn ra chị. Chỉ còn một người em trai và một cô em gái, nhưng chẳng nhận được em. Bạn bè vô số, nhưng chẳng nhìn được ai. Hẫng !

Sân nhà xứ đầy người. Mình ngồi bên ông em linh tông, cha xứ của nhiều giáo xứ. Trước mặt là một cái bàn chất đầy bia Trung Quốc, nước ngọt Hà Nội và chè thổ sản. Ông chánh trương vỗ tay ra lệnh. Mọi người im phăng phắc. Ông đọc bài diễn văn chào mừng, nhưng dường như chẳng ai quan tâm. Hằng ngàn con mắt đang đổ dồn vào mình và hau háu chờ mình đáp từ. Ba mươi bảy năm xa vắng. Ba mươi bảy năm chờ đợi. Chờ thêm một phút là không chịu nổi…

Ông chánh trương dứt lời. Một ngàn nụ cười nổ tung. Bỗng có một phát giác : răng đen còn nhiều quá. Răng đen nhưng nhức. Răng đen nhôm nham. Răng đen khấp khểnh. Quen thuộc, nhưng thôi thân thương. Không xa lạ, nhưng không còn trìu mến. Cảm giác ở bến Trung Hà lại gợn lên lăn lăn. Tại sao thế nhỉ ? Câu hỏi ấy làm mình nặng trĩu suy tư.

Hồi còn bé mình chứng kiến cảnh nhuộm răng đen của chị. Chị đốt cây mua, cây mua nhểu nhựa đen quánh trên lưỡi dao manh. Chị soi gương, cẩn thận chấm nhựa đen lên hai hàm răng trắng nõn. Chị nuốt nước miếng ừng ực mà không dám ngậm miệng. Sau đó, chị chỉ ăn cháo. Chị thôi cười. Môi chị vêu ra. Lâu lâu chị lại soi gương lén… Đến là khổ ! Chị cố đấm ăn xôi. Chịu khổ để làm đẹp. Chịu khổ để làm người.

1- Chịu khổ để làm đẹp :

Răng đen đẹp tuyệt vời. Răng đen đã hiên ngang đi vào văn hóa dân tộc. Răng đen được văn chương mơn trớn. Ngàn người như một, vạn người như một đều tôn vinh răng đen như bà hoàng trên ngai. Người con gái kiều diễm có mười thương, thi thương thứ bốn là răng đen :

“Một thương tóc bỏ đuôi gà

Hai thương ăn nói mặn mà có duyên

Ba thương má lúm đồng tiền

Bốn thương răng ánh hạt huyền kém thua…”

Mình vẫn nhớ hồi còn mài đũng quần trên ghế trường làng, thầy cho cả lớp đọc bài tả cảnh đẹp của miền quê vào buổi bình minh. Con gái làng ra đồng làm việc, cười nói vui vẻ, “nhe hai hàm răng đen nhưng nhức như hạt na vậy”. (sic)

Giáo phận Hưng Hóa vào thời ấy có một thầy lý đoán (sinh viên đại chủng viện bây giờ) tên là Phan Trọng Kim, học ở đại chủng viện Xuân Bích, Hà Nội. Thầy có một bộ răng đen đẹp nổi tiếng khắp giáo phận. Răng của thầy đều đặn và đen nhưng nhức như hạt na vậy. Đi tới đâu thầy cũng hãnh diện khoe hai hàm răng óng ánh như hạt huyền. Ở đâu người ta cũng muốn được tận mắt chiêm ngưỡng hàm răng đen của thầy. Hẳn có nhiều cô gái yêu thầm hàm răng đen ấy và tiếc ngẩn ngơ khi nghe tin thầy đã thụ phong linh mục.

2- Chịu khổ để làm người :

Mình còn nhớ sau cuộc cách mạng tháng Tám, có một cô gái thề không nhuộm răng đen. Thế là cả làng nổi sùng lên.

– Con gái gì mà răng trắng nhởn như răng trâu, răng ngựa.

– Từ mười bốn tuổi trở lên phải nhuộm răng đen. Chỉ có con thú mới không nhuộm răng.

– Để răng đen mới là người nhân linh ư vạn vật.

– Răng trắng nhởn như răng lợn thì có mà “chống ề” (ế chồng) suốt đời.

Ừ, mà đúng thế thật. Không biết từ mấy ngàn năm rồi, răng đen vẫn là răng của người có tư cách. Cha xứ, ông chánh trương, bà quản đều nhuộm răng đen. Đó là những người có tư cách. Bố mình, mẹ mình, anh mình, chị mình đều là những người có tư cách.

Tất cả mọi người đều muốn làm người có tư cách. Vì thế cả làng đều nhuộm răng đen, trừ người con gái ngang tàng ấy. Và… một hình phạt nặng nề đã giáng xuống trên đầu cô ấy. Không một trai làng nào dám ngấm nghé. Thế là vè vãn lại vang lên giòn giã :

“Tròng trành như nón không quai,

Như thuyền không lái, như ai không chồng.

Gái có chồng như gông đeo cổ,

Gái không chồng như phản gỗ long đanh.

Phản long đanh. anh còn chữa được,

Gái không chồng chạy ngược chạy xuôi.

Không chồng khốn lắm chị em ơi !

Răng đen đã đồng hành với dân tộc này từ mấy ngàn năm rồi. Nó đã giành được một chỗ ngồi trên ngai cao chót vót. Nó đã khống chế được cả đạo đức, văn chương và mỹ thuật….

Tưởng như nó là chân lý vĩnh cửu. Thế mà chỉ trong vòng ba mươi bảy năm, không chừng còn ít hơn thế nữa, răng đen đã bị phá sản hoàn toàn. Từ cái thời vàng son “Răng ánh hạt huyền kém thua”, răng đen đã trở thành “Răng đen mã tấu, thấy mà ghê ! “

Thì ra cái đẹp và cái đạo đức của răng đen chỉ là bạn đồng hành của không gian và thời gian. Số phận của nó là tương đối và phải biến đổi cùng với dòng trôi của lịch sử.

Thấy số phận của răng đen, mình thảng thốt nhìn lại lịch sử truyền giáo mà lo âu. Vì quá tự tin, đã có lúc người truyền giáo nhiệt tâm kết án và loại trừ. Đức Giêsu là nguyên lý và cứu cánh của vạn sự (Ga1,3), nhưng người rao giảng Đức Giêsu vẫn chìm ngập trong luật tương đối và chỉ là người hành trình về Đức Giêsu. Con đường hành trình ấy thì xa vời vợi, mà người hành khách thì mệt rã rời. Lòng khiêm tốn trong sứ mạng rao giảng bỗng trở nên bức xúc đối với mình.

Mình đọc lại Hiến Chế “Vui Mừng và Hy Vọng” để xác tín rằng Giáo Hội phải tôn trọng và quý mến mọi thành phần của nhân loại. Giáo Hội không áp đặt mà chỉ đề nghị với nhân loại sự cộng tác thành thực của mình, để tạo nên một thế giới huynh đệ (Vui Mừng và Hy Vọng, 3).

Răng đen ơi ! Giã từ mi !

  

  1. BUỒN

 

Cái Rắn, ngày… 1998

Hôm qua mình khai triển bài Tin Mừng về tình yêu đối với kẻ thù (Lc 6,27-38). Mình thao thao bất tuyệt. Khán giả há mồm mà nghe. Đã hết sức ! Ai ngờ… Sáng hôm nay, một dì phước báo cáo :

– Hôm qua tổ của chúng con chia sẻ bài Tin Mừng mà cha đã giảng, có một bà già ngoe ngoảy ra về. Bà nói : “Tôi không học đạo nữa đâu. Chúa dạy tôi yêu kẻ thù, tôi theo không nổi. Con dâu tôi hỗn quá, tôi không thể tha thứ được. Tôi thề đến chết cũng không tha cho nó. Tôi ghi băng đàng hoàng…”.

– Buồn quá nhỉ ? Đành vậy ! Nhưng chúng ta chưa tuyệt vọng. Xin chị cùng với tôi cầu nguyện cho bà. Hy vọng bà sẽ trở lại lớp giáo lý vào một ngày nào đó…

Đôi khi mình cũng buồn, nhưng chỉ buồn năm giây thôi. Hôm nay mình thấy buồn dai dẳng, buồn man mác. Công dã tràng ! Cầm cuốn Tân Ước trong tay, đọc Lời Chúa bằng miệng, nghe Lời Chúa bằng tai, thính-thị đàng hoàng, thế mà ngoe ngoảy ra đi, thề không trở lại… ! Tại sao vậy ?

Mình ngồi đờ ra, mơ mộng nghĩ lại chuyện xưa.

1- Một linh mục cao niên kể chuyện buồn nhất trong đời.

Giáo xứ của ngài có hai dòng họ lớn : Họ Nguyễn và Trần. Hai dòng họ cạnh tranh, ganh đua về mọi phương diện văn hóa, xã hội, tôn giáo, kinh tế.

Họ Nguyễn dâng cúng cho nhà thờ một sào ruộng, thì họ Trần sẽ dâng hai sào. HọÏ Nguyễn có người đậu tú tài, thì họ Trần sẽ cố gắng để có người đậu cử nhân. Họ Nguyễn cho một đứa đi tu, thì họ Trần cho hai đứa đi tu… Và một lần kia có vụ tranh chấp đất đai, hai bên đánh nhau. Ông tộc trưởng họ Nguyễn bị thương nặng.

Cha xứ đến để cử hành những bí tích cuối cùng. Điều kiện tiên quyết để lãnh các bí tích tối hậu là tha thứ. Nạn nhân quyết liệt từ chối. Cha xứ năn nỉ :

– Chúa có tội gì đâu, thế mà người Do Thái đóng đanh Ngài. Ngài tha thứ tất cả : “Lạy cha, xin tha cho họ”.

– Chúa khác, con khác. Thù này là thù truyền kiếp. Con không thể tha được.

Thua ván bài một, cha xứ gỡ ván bài hai, ván bài “HÙ” :

– Nếu ông không tha thứ, thì ông phải sa địa ngục.

– Thà là xuống hỏa ngục, chứ con không tha được.

Thua 2-0, cha xứ đấu dịu. Ngài giơ cây thánh giá lên.

– Ông hãy nhìn lên Chúa, Đấng đầy lòng thương xót. Ông hãy cùng tôi cầu nguyện : “Lạy Chúa, xin tha tội cho con và xin Chúa giúp con để con tha cho kẻ thù của con”.

Ông Nguyễn nhắm mắt lại, lật người quay mặt vào vách, rồi… tắt thở.

2- Hồi mình còn bé, mình thấy ông nội đến chơi. Ông nội bồng em của mình vào lòng, hôn như mưa như gió. Thằng bé khóc òa lên. Mẹ mình chạy đến ẵm lấy nó. Nó vẫn không nín. Mẹ bèn làm bộ đánh ông nội : “Ông nội làm con tôi đau. Mẹ đánh ông nội này… Mẹ đánh ông nội này…”.

Được trả thù thỏa đáng, thằng bé nín thinh. Vài phút sau lại cười toe toét.

Hạt giống hận thù đã gieo vào tâm hồn con người ngay từ thuở còn thơ. Hạt giống ấy nảy mầm, lớn lên, phát triển và được vun xới bằng những sự cổ võ hận thù rải rác trong lớp học, trong trường đời. Năm mươi năm sau, hạt giống yêu thương và tha thứ mới được gieo vào mảnh đất ấy. Trễ quá rồi ! Đành chết ngộp thôi !

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 7-5-1998

Sáng nay một anh chàng thanh niên để ria cá chốt, đến thăm mình. Ấp a ấp úng như gà mắc dây thun.

– Ông cố cho con mượn 600.000 đồng.

– Chi vậy ?

– Con đưa vợ con đi đẻ. Nó sắp tới ngày sanh rồi mà trong nhà con không còn một đồng bạc cắc.

– Khi vợ mang bầu, thì phải thủ một chỉ, để còn thăm thai, bồi dưỡng…

– Tụi con nghèo quá lấy đâu ra một chỉ vàng.

– Nếu nghèo quá thì đừng sanh con. Con mình sinh ra phải được chăm nuôi tốt, được học hành đến nơi đến chốn. Do đó, phải cần cù làm ăn, cắc củm dành dụm : Làm nhiều, nhậu nhiều, thì đến tận thế cũng chẳng có một đồng bạc dính túi… Con mượn 600.000 đồng thì chừng nào con trả?

– Con ráng đi làm rồi con sẽ trả cho ông cố.

– Con đã ráng bao nhiêu năm rồi, mà vẫn không có tiền đưa vợ đi đẻ, thi làm sao con ráng nổi để trả nợ.

– ?!!

Mình đưa cho hắn 200.000 đồng mà lòng buồn man mác.

– Cha cho con 200.000 đồng, khỏi trả nợ. Nhưng từ nay phải biết làm ăn, chứ không phải chỉ biết ăn xài. Làm mười, ăn sáu, dành bốn…

Hắn cầm tiền ra về. Còn mình thì… chẳng biết làm gì bây giờ. Không đọc sách. Không viết lách. Không còn hứng thú gì nữa. Mọi nhuệ khí đều chùng xuống hết. Những kỷ niệm xa xưa dồn dập trở về.

1- Một ông lão goá vợ, sống một thân một mình trong căn chòi rách nát. Gia sản chỉ là cái vá. Mỗi ngày đào đất ông được trả 25.000 đồng. Ông sẽ nhậu cho đến đồng bạc cuối cùng rồi mới chịu đi ngủ. Ngày mai… lo cho ngày mai.

2- Một anh chàng thanh niên chưa vợ chưa con, đào được con rắn hổ ngựa, bán được hơn hai trăm ngàn. Bán rắn ở chợ Rau Dừa. Bán xong thì vô quán. Ra khỏi quán thì chỉ còn mùi rượu nồng nặc đem về làm quà lưu niệm.

3- Mình hỏi một thanh niên :

– Con làm nghề gì ?

– Con vá xe.

– Ngày được bao nhiêu ?

– Năm mươi ngàn.

– Con đưa cho mẹ bao nhiêu ?

– Mẹ nuôi cơm. Làm được bao nhiêu, mẹ cho xài riêng.

– Con xài gì mà dữ vậy ?

– Mỗi sáng một tô phở, một gói thuốc Jet, một ly cà phê đá, còn bao nhiêu thì nhậu với bạn bè.

– Rồi mai mốt lấy tiền đâu mà cưới vợ ?

– Mẹ con lo.

4- Một bé gái đang nhảy tưng tưng trước cửa nhà xứ, tay cầm một mảng chuối chiên, miệng nhóp nhép dính đầy mỡ.

– Vô biểu con. Mỗi ngày con ăn hàng hết bao nhiêu ?

– Mỗi ngày mẹ con cho hai ngàn. Ăn hết, mẹ cho nữa.

– Mỗi ngày con tiết kiệm hai trăm, bỏ vô heo đất, cuối tháng đem bỏ vô kết nhà thờ.

– Ông cố muốn ăn tíu mì thì con đãi ngay một tô hai ngàn. Còn tiết kiệm ngày hai trăm, thì con không chơi.

5- Một thanh niên lạ mặt đến thập thò ở cửa.

– Có phải chú là ông cha không ?

– Phải, anh có chuyện chi ?

– Con đi đuổi vịt mướn. Đi chơi với bạn về, thì vợ bỏ đi mất rồi.

– Nó đi đâu ?

– Nó về quê ở bên Đồng Tháp. Bây giờ con phải về bển để kiếm nó. Ông cha cho con xin ít ngàn để đi xe.

– Đi làm mướn mà không có đồng nào trong túi sao ?

– Làm ngày nào ăn ngày nấy, hổng có dư.

– ? !!

Đi chăn vịt mướn mà đưa cả vợ con đi theo thì làm sao có tiền để dành ? Đi làm mướn mà đi chơi với bạn bè địa phương, đến độ vợ giận bỏ về quê ? Có nhiều nghi vấn. Cho hắn mươi ngàn. Cho cũng dở, mà không cho cũng dở. Cho là bác ái hay không cho thì bác ái hơn ? Cứ giúp đỡ rồi lại buồn… Có lẽ phải thôi phát triển dân sinh, vì “công dã tràng”, vì “muối bỏ biển”. Có lẽ phải phát triển dân trí trước, để dân tự phát triển dân sinh sau. Có lẽ cái nghèo và cái dốt sẽ mãi mãi là gánh nặng đè trên vai mình, đè mãi cho đến khi mình gục ngã.

  1. KIÊNG THỊT VÀ ĂN CHAY

Cái Rắn, ngày 28-3-1997

Mình vừa vứt bỏ cây tăm, thì có người hỏi từ phía sau lưng

– Đã tới 12 giờ chưa, ông cố ?

– Chi vậy ?

– Để con đánh kẻng cho người ta ăn cơm trưa.

– Tại sao vậy ?

– Hôm nay là ngày ăn chay, phải đánh chuông mới được ăn cơm.

– Luật nào vậy ?

– Biết đâu à !

Sau nghi thức suy tôn Thánh Giá, mình mở cuộc điều tra về tục lệ ăn chay ở đây. Các ông già, bà già đua nhau khoe trí nhớ của mình.

– Sáng : nhịn ; 12 giờ : nghe chuông nhật một thì ăn cơm. Trưa ăn no. Tối ăn đói.

– Ăn một miếng thịt heo bằng lóng tay cái, thì mắc tội trọng. Được ăn loài có máu lạnh như ếch, lươn, kỳ đà, cá, tôm.

– Các loại chim thì được ăn cò, quắm, thằng bè.

– Được ăn vịt lộn, vì vịt lộn được kể là trứng. Khi con vịt con chui ra khỏi vỏ trứng mới kể là con vịt và cấm không được ăn…

Để khen thưởng trí nhớ sắc sảo của bà con, mình tặng họ một câu chuyện, câu chuyện của đời mình.

——————————————————————————–

Năm 1945 mình đi tu làm chú tiểu tại nhà xứ Vĩnh Lộc, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây. Thứ Tư lễ Tro năm 1946, mình thấy các thầy kẻ giảng tập trung về nhà xứ rất đông : thầy Nhã, thầy Tài, thầy Viêm… Nhà xứ vui như lễ hội. Cha già cố phấn khởi như chưa từng thấy.

– Các cậu xuống ao kéo lưới bắt cá mè làm gỏi đãi các thầy một bữa…

– Vâng ạ. Xin cha già cho phép chúng con đi lấy quần đùi đã ạ.

– Cho chúng mày làm ông Adong, không cần che chúm gì hết… Bằng quả ớt chứ gì.

Chúng mình nhảy tùm xuống ao, gạt bèo, giăng lưới, đập nước. Vọc nước, quậy bùn là thú vui của tụi mình. Một thú vui được chấp thuận, được khích lệ : Sướng ơi là sướng !

Bữa cơm chay hôm ấy trở thành bữa cơm thịnh soạn nhất trong năm. Cha già cố và các thầy ăn uống phủ phê. Còn tụi mình thì không thích ăn và cũng không được phép ăn. Trẻ con không ăn gỏi cá bao giờ. Đùa giỡn thì sướng hơn.

Kể xong câu chuyện. Không thấy ai thắc mắc gì. Ai nấy đều cười vui vẻ. Ai cũng biết rằng luật chỉ cấm ăn thịt, chứ không cấm ăn cá. Không ai phát giác ra rằng ăn gỏi cá, một món ăn thịnh soạn nhất như thế là vi phạm tinh thần luật một cách trầm trọng, là nhân danh luật để vi phạm luật. Mình lấy sách lễ Rôma đọc lại lời nguyện nhập lễ, để thấy mục đích của việc ăn chay, kiêng thịt.

“Lạy Chúa, ngày hôm nay, tất cả chúng con ăn chay, hãm mình, để bước vào mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng. Xin giúp chúng con hằng biết sống khắc khổ, để ngày thêm vững mạnh mà chiến thắng ác thần”.

Mình đọc thêm lời Tiền tụng Mùa Chay III.

“Cha muốn chúng con dùng việc hãm mình để cảm tạ Cha. Nhờ đó, chúng con là những người tội lỗi, giảm bớt được tính kiêu căng và khi giúp nuôi dưỡng những người thiếu thốn, chúng con biết noi theo lòng nhân hậu của Cha”.

Như vậy rõ ràng mục tiêu của việc ăn chay kiêng thịt chỉ là: rèn luyện ý chí, nhờ việc khắc khổ trong vấn đề ăn uống và tiêu xài, để đương đầu và thắng các chước cám dỗ, đồng thời có thêm tiền bạc giúp đỡ người nghèo.

Như vậy rõ ràng là cha già cố của mình đã đánh mất toàn bộ tinh thần ăn chay kiêng thịt bằng bữa gỏi cá năm ấy. Nhưng nói cho cùng thì cha già cố của mình cũng vô tội. Vậy ai là người có lỗi trong vụ vi phạm luật pháp này ? Phải quy trách nhiệm cho ông làm luật. Cái lối trình bày hình thức luật mà quên tinh thần luật ấy, mình đã hấp thụ ngay trong lớp thần học. Chính thầy mình đã dạy rằng : ăn vịt lộn ngày kiêng thịt là không vi phạm luật, vì vịt lộn khi còn ở trong trứng, thì chỉ là trứng, chứ không phải là vịt. Khi trình bày cái vỏ luật, thầy mình đã quên không tham chiếu tinh thần luật, nên đã lạc xa mục tiêu của luật.

Nghĩ lại chuyện xưa, mình mắc cở quá chừng. Từ nay mình sẽ nói với anh chị em dự tòng, tân tòng và cả đạo dòng một cách giản dị rằng :

“Ngày kiêng thịt, thì ăn khem khổ. Ngày ăn chay, thì ăn ít thôi. Thắng cái thèm và cái đói để thắng cái yếu đuối. Trong những ngày ấy, chỉ nên ăn rau mà thôi. Ăn khem khổ như thế sẽ dành ra được chút tiền để san sẻ cho người nghèo”.

Tuyệt nhiên mình không nhắc gì đến chuyện ăn vịt lộn không phải là ăn thịt vịt; ăn lươn um, ếch chiên bơ. . . không lỗi luật kiêng thịt. Mình trả lại tất cả những thứ đó cho thầy. Những thứ đó không thể là hành trang của người truyền giáo. Rườm rà đến chịu không nổi ! Kềnh càng đến đi không được ! Phức tạp đến lầm đường lạc lối !

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 20-2-1999

Hôm nay khách Sàigòn đổ xuống Cái Rắn như đi trẩy hội. Hai vỏ lãi lớn nuốt tối đa mà chỉ được sáu mươi khách. Còn hai chục khách nữa đứng xớ rớ… chờ ba vỏ lãi nhỏ. Sân nhà thờ đầy người. Bệnh nhân chờ bác sĩ và nha sĩ. Trẻ em chờ hội chợ và quà bánh. Kẻ qua người lại tấp nập. Bác sĩ Nghĩa nghiêm trang và thủng thỉnh như ông thiên triều đi… Cha Lộc có cặp mắt hấp háy, hấp háy như muốn đùa với cả thế gian. Thầy Nhiên có cặp môi mấp máy, mấp máy như đang bứt rứt trước một ẩn số khó giải trình… Khách nào cũng đói mèm vì hôm qua là ngày chay và đêm qua là đêm ngủ không tròn giấc.

Bữa cơm trưa chỉ thịnh soạn ở mức dưới trung bình, nhưng lại được khách chiếu cố tận tình. Đói bụng thì cơm nguội trở thành yến xào. Vừa ăn vừa tưởng nhớ ngày chay vừa qua mà xót xa trong lòng.

– Hôm qua ăn chay, đói run cả chân tay.

– Đúng là có ma quỷ cám dỗ thật. Bữa chay tối nào đồ ăn cũng chẳng ra gì, mà miệng thì ăn gì cũng thấy ngon, cứ muốn ăn mãi cho đến mất chay thì thôi.

– Hồi tôi học ở chủng viện Sàigòn, bữa chay tối thường chỉ có rau muống luộc chấm nước mắm giằm hột vịt. Bình thường thì ăn hai đĩa, bữa chay tối chỉ ăn một đĩa. Nhưng ma quỷ cám dỗ nên làm bộ rưới nước mắm thật nhiều, để phải lấy thêm cơm cho bớt mặn. Rồi làm bộ bới cơm hơi lố, để rưới thêm nước mắm cho vừa miệng… Cuối cùng thì một đĩa thành một đĩa phết chín mươi chín. Vừa đủ để lương tâm không bị cắn rứt ? Đúng là trò hề.

——————————————————————————-

Cà Mau, ngày…

Hôm nay Đức cha xuống cấm phòng với hạt Minh Hải. Mình tâm sự với ngài.

– Thưa Đức cha, con thấy cái luật kiêng thịt lỉnh kỉnh và khôi hài quá à ! Ăn một miếng thịt heo thì có tội nặng, còn ăn một lẫu lươn thì không có tội ! Tại sao lại cho ăn thịt loài có máu lạnh ?

– Luật này rất phù hợp đối với tây phương. Ở bên đó mà không có thịt, thì bữa cơm trở nên khắc khổ liền.

– Thưa Đức cha, ở bên Tây, người công giáo còn kiêng thịt không ?

– Chung chung thì họ lơ là. Nhưng có nhiều nơi Nhà Nước vẫn cấm bán thịt vào các ngày thứ Sáu. Không phải vì họ giữ luật đạo, mà vì đó là quyền lợi của nghiệp đoàn bán cá.

– Con đề nghị điều chỉnh lại luật kiêng thịt và ăn chay để đạt được mục tiêu Giáo hội đề ra cho mùa chay.

  

  1. KHÔNG NGỜ

Sơn Tây, ngày 18-10-1990

Sáng nay mình đến Tuy Lộc dâng thánh lễ đồng tế với cha xứ nhân ngày bổn mạng họ đạo. Nhà thờ nhỏ xíu, không có phòng thánh. Áo lễ dọn ngay trên bàn thờ. Mình đang mặc áo, thì cha xứ ghé tai nói nhỏ :

– Piô giảng nhá.

– … Dạ.

Miệng thì dạ, mà lòng thì băn khoăn : có nên giảng ở đây không ? Điều gì nên nói, điều gì nên suy gẫm một mình ? Nội dung bài Tin Mừng hôm nay là “Lên đường truyền giáo”. Mình không dám nói chuyện truyền giáo hôm nay, nên chỉ duyệt lại một khúc truyền giáo hôm qua : Vấn đề thờ cúng tổ tiên.

Dẹp bàn thờ ông bà là một sai lầm có tầm mức chiến lược, nhưng là một sai lầm gần như không thể tránh được. Lý do :

1- Lúc ấy hai nền văn hóa Đông Tây mới gặp nhau, không thể hiểu được nhau. Bà Pearl Buck minh chứng điều đó bằng câu chuyện sau đây.

Có một ông Tây vào một nhà hàng ở Thượng Hải để “ăn cơm Tàu” sau khi đã được “ở nhà Tây”. Ông Tây đang ăn ngon miệng, thì bỗng khựng lại, lợm giọng… Ở bàn kế bên, một thực khách Tàu lâu lâu lại nhổ nước bọt xuống sàn gạch hoa. Cầm lòng không được, ông Tây bèn lên lớp :

– Người Tàu dơ dáy quá ! Nhổ nước bọt xuống đất là bất lịch sự, là làm mất vệ sinh chung.

– Nước bọt bẩn, nên người Tàu phải nhổ xuống đất. Như thế là đúng. Còn người da trắng các ông lại nhổ nước bọt vào trong khăn, gói lại, rồi cất trong túi quần ! Như thế mới mất vệ sinh…

– ? !!

Các vị thừa sai thời ấy không thể hiểu nổi danh từ ĐẠO và

động từ THỜ trong tiếng Việt Nam. ĐẠO đối với họ chỉ có một nghĩa là TÔN GIÁO. Động từ THỜ họ chỉ dành cho Thiên Chúa mà thôi. Còn trong tiếng Việt Nam thì ĐẠO vừa có nghĩa là TÔN GIÁO, vừa có nghĩa là cách đối xử : Đạo vua-tôi, đạo cha-con, đạo vợ-chồng, đạo bằng-hữu… Động từ THỜ trong tiếng Việt Nam vừa có nghĩa là tôn kính Thượng Đế và Thần Thánh, vừa có nghĩa là trung thành, chung thủy, hiếu thảo… Dân trung thành với vua, vợ chung thủy với chồng, con hiếu thảo với cha mẹ, đều có thể dùng một động từ THỜ. Ông Phan Văn Trị đã nhắc nhở Tôn Thọ Tường như sau :

“ Anh hỡi, Tôn Quyền, anh có biết :

Tôi ngay THỜ chúa, gái THỜ chồng ? “

Đạo Công giáo là đạo độc thần, nên các vị thừa sai không thể cho thờ ông bà được. “Chỉ thờ một mình Chúa mà thôi” (Lc 4,8; Đnl 6,13 ). Các vị thừa sai lầm là thế, mà đúng cũng là thế.

2- Thời ấy người ta tin ông bà về ăn đồ cúng của con cái. Niềm tin này được thể hiện rõ rệt trong ngày “xá tội vong nhân”. Có những bà đạo đức nấu một nồi cháo lớn, cho hai đầy tớ khiêng. Còn bà thì đi theo, múc từng muỗng cháo đổ vào lá mít để hai bên đường. Đó là phần bố thí bà dành cho những linh hồn mồ côi.

Niềm tin này không phù hợp với giáo lý Công giáo, nên người theo đạo Chúa không được cúng cơm cho người quá cố.

Từ đó sinh ra biết bao hiểu lầm giữa người đạo và người lương. Người lương trách người đạo là bất hiếu. Còn người đạo thì không những không bất hiếu mà còn nhờ cả Giáo hội báo hiếu hộ mình bằng cách xin họ đạo dâng lễ cầu nguyện cho ông bà, cha mẹ… Lúc ấy cấm cúng giỗ là đúng.

Ngày nay các Giám mục Việt Nam đã điều chỉnh lại toàn bộ việc thờ cúng ông bà. Thờ cúng ông bà là văn hóa dân tộc và người tín hữu được tích cực tham gia mọi nghi lễ thờ cúng ông bà…

Bài giảng của mình làm mọi người chưng hửng, ngơ ngác… Mình ở lại ăn cơm với họ đạo. Cha xứ không nói gì về bài giảng.

Giáo dân cũng chẳng phát biểu gì. Bài giảng rơi tõm xuống sông…

——————————————————————————–

Sơn Tây, ngày 26-10-1990 .

Mình đang sửa soạn đi ăn cơm, thì bà phước ghé tai, nói nhỏ :

– Cha có khách.

– Ai thế ?

– Bốn ông… ở Tuy Lộc

– Chết cha tôi rồi. Chắc là có vấn đề. Chị có đoán được là họ muốn gì không ?

– Con không biết. Họ nói là họ muốn trao đổi với cha về bài giảng của cha đấy.

– Bài giảng của tôi hiền khô à ! Chuyện một trăm năm về trước ấy mà.

– Cha ra đi ! Con bưng nước ra sau.

Mình đi thật chậm, và muốn có một không gian vô tận, để đi mãi mà không tới…

– Chào linh mục.

– Chào các ông.

– Bài giảng của linh mục được thu băng, phổ biến khắp xã. Chúng tôi không đi lễ, mà cũng được nghe.

– Các ông thấy có vấn đề gì không ? Ai thu băng thì tôi không hề hay biết. Nếu tôi biết thì tôi không cho thu băng.

– Bài giảng của linh mục có rất nhiều vấn đề mà từ xưa đến nay chúng tôi chưa được biết.

– Quý ông có thể cho tôi biết những vấn đề đó không ? Tôi chỉ chân thành nhắc lại những chuyện hiểu lầm giữa lương và giáo trong quá khứ mà nay thì không còn nữa. Lương giáo đã hiểu nhau nhiều, mà cũng thương nhau nhiều rồi.

– Chắc linh mục có băn khoăn về việc chúng tôi đến thăm linh mục hôm nay. Tôi xin nói ngay để linh mục an tâm. Nhờ bài giảng của linh mục, chúng tôi mới hiểu tại sao người Công giáo không thờ cúng tổ tiên. Bây giờ hiểu rồi, chúng tôi đến đây để xin… học đạo.

– Nghĩa là các ông muốn theo đạo Chúa ?

– Nếu đạo Công giáo cho thờ cúng ông bà, thì không có gì thắc mắc nữa.

– Rất tiếc tôi sắp về rồi. Nhưng không sao, tầm đạo với ai mà chả được…

Giã từ bốn ông, lòng thương mến vô vàn.

——————————————————————————–

Cà Mau, ngày…

Mình vừa từ Bà Hính về. Hai ngày ròng rã cho một lễ giỗ. Ai nấy mệt khờ, nhưng vui như vớ được vàng. Bà Bảy Hó bị lao phổi. Bà được các dì phước rửa tội trước khi chết chừng một tháng. Bà trăn trối cho chồng con : “Phải mời ông cha đến tận nhà làm lễ cho tôi” . Lời trăn trối là linh thiêng, đã được thi hành trọn vẹn.

Hai thánh lễ đồng tế được cử hành trong một ngôi nhà không có tôn giáo. Chồng con, thân nhân, xóm giềng xếp hàng hai và niệm hương theo sự hướng dẫn của dì Marie. Rập ràng. Trang trọng. Có tiếng xù xì : “Đạo Thiên Chúa cũng thắp nhang, cũng xá lạy như tụi mình, nhưng họ làm rập ràng, đẹp hơn tụi mình. Bà Bảy sướng thiệt ta !…”

Sau thánh lễ, sau cơm chiều, đoàn Cà Mau được phân tán mỏng đi tìm chỗ ngủ dài dài trong xóm. Mười Râu và mình chun vô ngủ chung một giường. Dì Marie và vài ba bà hiền mẫu thì vô phòng trong. Bà chủ nhà đon đả.

– Chúc hai ông cha ngủ ngon. Tôi phải thức suốt đêm nay ở bên nhà đám. Tôi đi nghen !

– Cám ơn chị Hai.

Sáng nay rửa mặt chưa kịp sạch, thì tụi ca đoàn đã bu lại và méc nhỏ :

– Đêm qua chị Hai không biết tụi con ngủ ở đây, nên nói toáng lên : “Tao làm bộ từ giã hai ông cha, rồi tao “ghình” một tiếng đồng hồ xem có con mẹ nào chun vô mùng ông cha hay không ?…”

– Chị Hai còn nhận xét : “ông cha lớn thì không gối đầu…”

– Còn anh Hai thì hứa : “Tôi sẽ vô đạo ông cha…”

  1. Ở CUỐI ĐƯỜNG HẦM

 

Cái Rắn, ngày 25-2-1999

Đức Cha Mẫn về rồi. Mình nói với chị Giám tỉnh Bác ái Vinh Sơn :

– Chúng ta còn một buổi chiều bỏ trống. Nên tranh thủ đi tham quan thị trấn Sông Đốc, một thị trấn giàu có nhất của tỉnh Cà Mau.

– Xa không cha ?

– Chừng ba mươi cây số. Đặc biệt là hôm nay vẫn còn “trong mùng” (Mùng 10 Tết Kỷ Mão), chúng ta có thể thấy tàu đánh cá đông ken như cá kèo trong khạp.

Mình đếm được mười chín bộ áo màu xanh dương, đa số ở tuổi tứ tuần : già dặn, dạn dĩ. Có ai đó gào lên để lấn át tiếng máy nổ :

– Xin cha làm “guide” (hướng dẫn viên).

– Chúng ta đang đi trên kinh Ba Ngàn. Con kinh này do ông Cố Đức Cha Mẫn đào vào đầu thập niên ba mươi. Lúc đó ông Cố làm quản lý hai trăm héc ta đất Nhà Chung ở đây. Con kinh này dài ba ngàn mét, có công dụng xả phèn và để ông Cố chèo xuồng về thăm ông già ở Rạch Lùm. Rạch Lùm sát kề thị trấn Sông Đốc thuộc xã Khánh Hải, huyện Trần Văn Thời, quê hương thứ hai của ông nội Đức Cha Mẫn và là nơi sinh trưởng của bác Ba Phi… Hết ba ngàn mét, chúng ta sẽ đi vào kinh Ông Tự, rồi trổ ra Sông Ông Đốc.

– Tại sao lại gọi là Sông Ông Đốc ?

– Con sông này dài hơn năm mươi cây số, bắt đầu từ sông Trẹm, thị trấn Thới Bình, và kết thúc ở bờ biển phía Tây Nam. Con sông mang tên ông Đốc vì vào cuối thế kỷ 18, vua Gia Long đã trốn quân Tây Sơn đến ở Cái Rắn, đặt hai quan Đốc trấn ở hai điểm : Ông Đốc Lới đóng quân ở Đốc Lới (thuộc ấp Tân Ánh bây giờ, và ở cách nhà thờ Cái Rắn chừng 8 cây số); Ông Đốc Vàng đóng quân ở vàm con sông nói trên. Trong trận giao tranh với quân Tây Sơn ở Tắc Thủ, vua Gia Long thua. Ông Đốc Vàng đổi áo với vua Gia Long. Ông để quân Tây Sơn giết lầm. Vua Gia Long trốn thoát. Có lẽ vì thế mà con sông này mang tên sông Ông Đốc để ghi ơn Ông Đốc Vàng, một “Lê Lai liều mình cứu Chúa”.

– Bộ vua Gia Long đã đến ở Cái Rắn hả cha ?

– Ừ, ông đã đến vùng này và cho đào một cái ao, gọi là Ao Ngự, ở cách nhà thờ Cái Rắn chừng hai trăm mét.

– Cha lấy tài liệu ở đâu mà nói rành rẽ dữ vậy ?

– Các vị cao niên ở đây kể lại như thế.

Thuyết minh chán rồi thì ngồi chơi. Ngó bâng quơ. Nhai kẹo cà phê nhóp nhép. Đắng đắng. Ngọt ngọt. Béo béo. Thơm thơm. Tuyệt !

– Sắp tới thị trấn Sông Đốc rồi ! Các chị nhìn phía tay phải.

– Ui cha ! Tàu đâu mà nhiều thế ? Chừng nhiêu cái, cha ?

– Hơn bốn trăm cái. Tàu về ăn Tết, chưa xuất hành nên mới đông ken như vậy.

– Mỗi chiếc tàu trị giá chừng mấy chục triệu ?

– Mấy chục triệu hả ? Mấy chục triệu thì tôi cho chị rờ nó một cái. Những chiếc lớn đánh cá ở hải phận quốc tế thì trị giá từ bốn trăm triệu đến một tỉ đồng.

– ? !!

– Như vậy có nghĩa là ở Sông Đốc có chừng bốn trăm tỉ phú.

Đối với người Sàigòn thì chỉ có cảnh tàu bè chen chúc nhau là đáng coi. Còn chợ búa thì họ chỉ liếc qua một cái, rồi đòi về. Trên đường về, có một chị hơi giống Việt kiều ngồi cùng băng với mình.

– Xin lỗi, chị tên chi ?

– Tên con là Pascal.

– À biết rồi, chị bay tới bay lui như con cào cào. Chị ở đâu về ?

– Con thì nay đây mai đó, nhưng ở Palawan rất thường.

– Tôi muốn nghe chuyện Palawan (Philippines).

– Palawan thiếu nước như ở sa mạc vậy. Kỹ sư địa chất đi tìm mạch nước, khoan biết bao nhiêu giếng mà vẫn không thấy nước. Dân khổ vô cùng !

– Ở Mêriba, Môsê đã lấy gậy đánh vào vách đá để lấy nước. Còn chị thì sao ?

– Có một ông cha cầm gậy rà trên bản đồ thì biết chỗ nào có nước. Các kỹ sư cho là dị đoan, nhưng cùng đường rồi, thì chúng con phải điều đội khoan đến đó. Con kêu các bà phước, và bà con ra ngồi thành vòng tròn trên bãi cát, ngước mắt lên trời, đập tay lên cát để xin nước. Người đạo thì kêu Chúa, người ngoại thì con dạy họ : “Lạy Cha Trời, lạy Mẹ Đất, xin cho chúng con nước”. Cứ gào lên như thế, cứ đập tay lên cát như thế. Một lần, hai lần.. . hai mươi lần…

– Có giống người điên không ?

– Không biết. Nhưng mà cùng đường rồi thì phải van xin như thế. Không có nước thì chết sao ? Và… cuối cùng thì có nước thật. Các kỹ sư sửng sốt…..

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 26-2-1999 .

Các chị Bác Ái Vinh Sơn rời Cà Mau đi Cần Thơ vào lúc 17g45. Mình lấy xe honda ôm vọt thẳng về Cái Rắn. Mệt lắm, nhưng sao thấy không buồn ngủ. Thì ra câu chuyện đi tìm nước ở Palawan vẫn còn ám ảnh mình.

Khi tới cuối đường hầm của cuộc đời, người ta phải chết hoặc tìm ra một lối thoát. Khi con dế bị ngộp thở ở đáy hang, nó phải bò ra để nộp mình cho thằng cu tí. Khi ông Nguyễn Phúc Ánh bị dồn đến Cái Rắn và Sông Đốc, thì tìm được con đường trốn qua Phú Quốc. Khi chị Pascal và đồng bào bị chết khô ở Palawan, thì đã gào lên như điên và đã có nước. Còn mình thì… đã nhiều lần đi tới cuối đường hầm mà không tìm được lối ra.

1- Có một người đàn bà dắt hai đứa trẻ thơ, thất thểu đi vào nhà thờ Cà Mau. Mình mời vô nhà xứ.

– Mời chị ngồi. Chị đi đâu vậy ?

– Con ở Trà Vinh qua bên đây để đi xin ăn.

– Chồng chị đâu ?

– Ổng đi theo vợ bé. Ổng chê con bị lao phổi. Con qua bên đây đi xin ăn mà không đủ gạo nuôi con. Cứ đi được chừng hai trăm mét, thì lại phải ngồi xuống để thở. Bác sĩ nói là con bị lao tới giai đoạn ba… Xin cha nuôi giùm con hai đứa con… Con không còn sống được bao lâu nữa…

– Hiện chị ở đâu ?

– Ban ngày đi xin, tối về ngủ ở nhà lồng chợ.

– Có ai ngủ ở đó nữa không ?

– Có ba mẹ con của con với một ông cùi. Ông cùi nói với con :“Chị đừng đi xin nữa. Đi không nổi đâu. Người ta cho tôi nhiều lắm, ăn không hết. Còn chị thì xin không đủ ăn. Để tôi nuôi cả mẹ lẫn con. Tôi chỉ yêu cầu một điều thôi là mỗi tuần cho tôi h… một lần”. Hu… Hu… Con biết làm gì bây giờ ?! Không chiều người ta, thì hai đứa con phải đói. Nghe người ta, thì… Hu… Hu…

Mình dốc hết túi tiền cho người đàn bà ấy, rồi đứng lặng nhìn ba mẹ con thất thểu đi ra. Bây giờ thì chắc người đàn bà ấy đã chết rồi. Còn hai đứa bé thì không biết đã trôi dạt về đâu ?

2- Ông Hai P. mượn tiền để làm mùa. Mình chờ tới mùa để thấy ông dư ăn. Năm ấy thất mùa. Nước mặn tràn vào. Lúa trổ cờ trắng xóa. Gia hạn cho ông một năm nữa. Năm ấy đứa con gái của ông bị bịnh động kinh. Ông đến gãi tai với mình :

– Xin ông cha rửa tội cho nó, thì nó mới hết bịnh.

– Không phải vậy. Bịnh thì phải vô nhà thương.

– Vô rồi. Bác sĩ biểu không có bịnh gì hết. Đi thầy pháp ở tuốt dưới Năm Căn. Thầy biểu phải cúng một con heo. Đi thầy pháp ở tuốt bên U Minh. Hết một con heo nữa. Bịnh vẫn còn nguyên si. “Nó” không cho ăn, nên con tôi bây giờ xanh như lá cây. Tốn hết mấy cây vàng rồi. Vay mượn riết rồi, đành bỏ mặc tới đâu thì tới.

Mình giới thiệu con ông với một trạm xá đông y ở bên Kiên Giang. Sau một tháng, trạm xá gửi trả lại.

– Có bớt được chút nào không ?

– Chút đỉnh à.

Thế rồi, một ngày kia bà phước báo tin :

– Con B. tự tử chết rồi.

– Bằng cách nào ?

– Thắt cổ.

Mình chẳng biết nói thế nào để an ủi vợ chồng ông Hai P. Họa vô đơn chí ! Biểu ông can đảm chịu đựng ư ? Can đảm gì nổi. Biểu ông cầu nguyện ư ? Cầu nguyện thế nào ? Cầu nguyện với ai ? Cầu nguyện để làm gì nữa ? Ông P. chưa có niềm tin. Mình cảm thấy bất lực hoàn toàn.

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 3-6-1999

7g30. Chín bà phước có mặt đầy đủ ở bến nhà thờ. Túi xách, máy chụp, sổ tay và cây viết y như ký giả lên đường. Nhóm một đi Kinh Giữa. Nhóm hai đi Đập Vườn và Kinh Thổ. Mình theo nhóm hai.

Xuồng chở hơi khẳm. Bà phước Sàigòn nhát như thỏ, không dám nhúc nhích, không dám trò chuyện. Họ ngồi lặng lẽ như hàng trâm bầu không có gió mơn man để phe phẩy.

Xuồng cập bến. ông Hai Chữ Thập Đỏ nhảy phóc lên bờ. Mình và các bà phước lom khom bò theo. Mảnh sân trơn trượt. Căn nhà lá nghèo nàn.

– Xin lỗi ông thứ mấy ?

– Tôi thứ ba.

– Nhà ông Ba có một người tàn tật ?

– Có thằng cháu ngoại dị tật bẩm sinh. Cha nó thôi mẹ nó. Mẹ con nó bây giờ ở với vợ chồng tôi.

– Ông bà Ba nuôi cả hai mẹ con luôn.

– Tôi mười một đứa con. Nghèo quá! Nhưng biết sao được? Mẹ góa, con dị tật, cha mẹ phải lo.

– Tên cháu là gì ?

– Thằng Cu.

– Tên giấy tờ kia.

– Thì nó chỉ có một tên đó : Nguyễn Văn Cu.

Ông châm nước. Mình chạy ra hàng ba coi mặt thằng Cu. Các bà phước đang phỏng vấn, chụp hình, ghi chép lia lịa. Thằng Cu mười tuổi rồi mà chỉ cao bằng người mẹ ngồi chồm hổm. Đầu to và vuông như đầu thằng rôbốt. Tóc rậm rì rũ xuống che kín cặp mắt đang híp lại, nhăn nhúm như mắt khỉ con. Cái miệng ngoác ra để lộ hai hàng nướu trống trơn với cái lưỡi dày cộm. Nước miếng và nước mắt nhểu xuống nhễ nhãi. Một tay ôm cổ mẹ, một tay dị dạng cong queo. Hai chân vòng kiềng. Mười ngón chân xòe ra một cách vô trật tự.

Bà phước nhỏ nhẹ :

– Cháu có nói được không chị ?

– Nó nói đớt đát được vài tiếng. Hồi mới sanh, dì Bảy có nói trước là cháu sẽ khó nói.

– Cháu đói có biết đòi ăn không ?

– Đói thì nó đòi ăn, nhưng đái ỉa thì nó lại không biết. Cứ cho ra đầy quần rồi nó mới cho hay. Giặt hoài hủy thôi. Cứ suốt ngày phải canh chừng nó. Lỡ đi đâu thì nhờ bà ngoại trông chừng…

Người đàn bà cứ thao thao bất tận kể vanh vách về đời sống của đứa con điên khùng và dị dạng của mình. Nét mặt của chị hân hoan. Nụ cười của chị không vương vấn nỗi khổ. Chị ôm thằng Cu rôbốt, yêu thương và trìu mến. Nó là niềm hy vọng độc nhất và cuối cùng của chị. Chị sẽ nuôi nó suốt đời, yêu thương nó suốt đời trong cảnh nghèo đói tận cùng.

Mình im lặng xuống xuồng đi sang nhà khác, để lại chứng kiến thêm những nỗi thống khổ trập trùng. Nhưng vẫn thầm cảm phục người đàn bà cười tươi với thằng Cu rôbốt… hôm nay và mãi mãi.

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 5-6-1999

Hôm nay một đoàn đi Bàu Láng, một đoàn đi Tân Ánh. Bà Tư Quý hướng dẫn đoàn một. Ông Chữ Thập Đỏ hướng dẫn đoàn hai. Vì tò mò mình xuống xuồng đi Tân Ánh. Khu vực này có nhiều ca tàn tật gây nhiều cảm xúc. Địa bàn lắt léo, phải đi tìm anh công an ấp nhờ làm hướng dẫn viên. Đi tìm anh cũng mất một tiếng đồng hồ.

Anh dẫn đoàn vào một căn nhà rách nát :

– Nhà này có tới ba người tàn tật lận !

– Nhiều dữ vậy sao ?

Người đàn bà có khuôn mặt nhăn nhúm chống gậy tập tễnh đi ra. Các bà phước bao quanh. Lại chụp hình. Lại phỏng vấn và ghi chép lia lịa.

Mình đến ngồi tâm sự lẻ với người con trai cả.

– Năm nay anh mấy mươi ?

– Gần bốn chục.

– Anh có thấy được chút gì không ?

– Không.

– Hai tay anh như vậy thì còn nấu cơm, giặt đồ được không?

– Không. Tay có tật, chân cũng liệt một nửa.

– Vậy ai nấu cơm giặt đồ cho anh ?

– Vợ tui

– Ủa, anh có vợ hả ?

– Tôi mới cưới vợ năm rồi. Con Lủng này là con riêng của nó.

– Vợ anh đâu ?

– Nó đi giăng lưới kiếm cá ở ngoài ruộng.

– Mẹ anh không thấy đường, anh cũng không thấy đường, vậy thì một mình vợ anh phải lao động nuôi cả nhà này ?

– Hổng có. Thằng thứ sáu nuôi mẹ, nuôi anh, nuôi chị dâu và bé Lủng. Nó cũng bị tật ở tay và chân nhưng còn quơ quào được. Nó đang đi phát cỏ ở ngoài ruộng. Để tôi cho người đi kêu nó về.

Người con trai thứ sáu từ ngoài sân lết vào. Ướt mem.

– Cái tay này còn cầm phảng được không ?

– Được.

– Đánh lộn được không ?

– Hổng dám đâu.

– Sao vậy ?

– Đánh không lại người ta.

– Năm nay anh nhiêu ?

– Ba mươi sáu.

– Chừng nào cưới vợ ?

– Mình tàn tật thì cưới vợ chi để làm khổ người ta.

– Người ta thương thì sao ? Anh Sáu ơi, em thương anh hết sức. Hổng lấy được anh, chắc em chết quá à ! Nếu có cô nào nói như thế, thì anh tính sao ?

– Hổng dám đâu. (Cười sung sướng)

Mình vỗ vai giã từ anh Sáu. Có người ghé tai mình nói nhỏ:

– Dường như vợ anh Hai mắc bịnh cùi.

– Không nên nghĩ vậy.

Anh công an ấp ra lệnh cho tài công ghé đầu kinh Thầy Chùa. Có một người đàn bà đang tuổi mơn mởn từ đâu chạy về.

– Tôi nghe nói nhà chị có một đứa con gái cụt một tay. Chị cho tôi nói chuyện với cháu.

– Yến ơi, con ra ngoài này cho chú hỏi chuyện.

– Năm nay con nhiêu ?

– Con mười sáu tuổi.

– Học lớp mấy ?

– Con đang học dở lớp năm thì nghỉ.

– Con có một tay thì có tiếp gì được cha mẹ không ?

– Nó nấu cơm, giặt đồ…được hết trơn. Mẹ của Yến nói xen vào. Hồi nó mới bốn tháng, tui thì qua bên bà ngoại nó, cha nó thì đi nhắp câu ở sau nhà, chừng một công đất (360m), con heo nái, trèo lên giường lôi nó xuống nhai nát bàn tay. Nghe tiếng khóc thì cha nó chạy vô. Nó chết giấc. Đưa đi Cà Mau, bác sĩ tháo khớp.

– Tôi muốn hỏi chuyện ông xã chị để hiểu thêm.

– Ông xã tôi chết hồi mới sanh đứa em kế nó.

– Chết bịnh hả ?

– Khi tôi sanh thằng này, thì nó không có lỗ đít. Cha nó thắt cổ tự vận. Không một lời trăn trối.

– Thế bây giờ nó đã có hậu môn chưa ?

– Bác sĩ đưa hậu môn ra bên hông. Mười bốn năm rồi “nó” muốn ra lúc nào thì ra.

– Sao không đưa xuống dưới như mọi người.

– Bác sĩ biểu phải tốn tiền lắm. Tui nghèo không lo nổi.

– Chị có muốn kiếm một ông chồng nữa để ổng lo tiếp chị không ?

– Thì đó đó. Được thêm một đứa nữa. Tôi vừa có bầu, thì cha nó bỏ về luôn bên Vĩnh Châu.

– Thì kiếm một ông nào tốt bụng, biết thương, biết lo.

– Hết dám rồi ! (Cười duyên)

Sau khi chụp hình và an ủi, các bà phước xăn quần, lội sình, lần ra bến. Chừng mười phút sau có người hiệu đính lời khai của mẹ em Yến-Hợi (Yến sinh năm Hợi, bị con hợi nhai mất bàn tay).

– Mẹ nó khai không đúng đâu. Cha nó nằm ngủ trên giường với đứa bé. Heo lôi con xuống nhai mất tay mà cha vẫn còn ngủ ?!…

– Hay là hắn say rượu ?

– Biết đâu à.

– Có lẽ lương tâm hắn cắn rứt, cộng thêm cái đau vì đứa con kế đó không hậu môn, nên hắn đã tự vận. Tội nghiệp con Yến. Mặt xinh như thế mà lại cụt tay. Hồi nãy mình có hỏi nó về tương lai, nó trả lời : “Tới đâu hay tới đó”.

Mình không chịu thua, nhưng chưa biết sẽ làm gì cho Yến cụt tay và thằng em không có hậu môn ?

  

  1. ĐỔI MỚI

Sàigòn, ngày 1-3-1999

Hôm nay mình đi thăm Cha T., một linh mục cao niên nghỉ hưu. Hưu rồi, nhưng vẫn còn thèm công tác mục vụ, vẫn còn ham đọc và viết, vẫn thông minh và khả kính.

– Cha ở đâu vậy ?

– Con ở Cần Thơ.

– Ở Cần Thơ, Đức cha cho phép rước lễ trên tay ?

– Vâng. Ở Cái Rắn của con thì rước lễ trên tay 100%.

– Từ ngày Tòa Thánh cho phép rước lễ trên tay, lòng đạo đức và lòng tôn kính Thánh Thể sa sút nhiều lắm. Hậu quả của nó thật là khôn lường. Rước lễ trên tay là một cách phá đạo rất tinh vi…

Mình tìm cách đánh trống lảng để chuyển đề tài. Nhưng đi vòng vòng một lát, ngài lại quay trở về đề tài cũ. Khi bắt tay giã từ, ngài ân cần dặn dò lần chót :

– Cha đừng cho rước lễ trên tay.

– Thưa ông cố, con về.

Ngồi trên xe Honda ôm trở về trung tâm thành phố, mình hỏi mình : “Tại sao lại có chuyện kỳ vậy nhỉ ?”

——————————————————————————–

Sàigòn, ngày 3-3-1999

Hôm nay mình có hẹn với Đức cha Mẫn. 11 giờ mình đã có mặt ở Tòa Tổng. Mình quyết tâm đem chuyện “Rước lễ trên tay” ra méc…

Ăn cơm trưa xong, mình bắt tay giã từ Đức cha. Khi ngồi vững vàng trên xe Honda ôm, mình mới sực nhớ là chưa méc chuyện ấy.

Tức thế ! Thôi không thèm méc nữa. Cứ ghi khắc trong lòng để suy gẫm.

——————————————————————————–

Sàigòn, ngày 4 -3-1999

Đêm hôm qua mình chỉ ngủ 5 tiếng đồng hồ, còn 2 tiếng nữa thì nằm chỏng gọng suy nghĩ sự đời. Sự đời nằm trong sự đạo. Mình gẫm lại chuyện xưa để lý giải chuyện rước lễ hôm nay.

1- Cha Lý Thành Truyền kể chuyện :

“Ở Hòa Thành có một cụ già cần cù làm ăn. Ông dành dụm cắc củm mấy chục năm mới dựng được một căn nhà khang trang. Ông lựa được một bộ cột tràm thẳng băng, bào láng coóng. Đó là mồ hôi nước mắt. Đó là danh dự của một thằng đàn ông chân lấm tay bùn. Đó là sự nghiệp của một người cha xứng đáng truyền lại cho con cháu. Bây giờ nhắm mắt cũng được rồi.

Bỗng dưng thằng con đui mù của ông không nhìn thấy giá trị của bộ cột tràm bóng lưỡng như sơn dầu. Nó mua vật liệu về để một đống ở trước sân. Nó sẽ đúc nhà tường. Căn nhà có bộ cột tràm thẳng băng sẽ chỉ còn là nhà bếp của nó. Nó coi cha nó không ra gì. Từ đó ông tỏ vẻ không vui. Ông không nói năng gì hết. Cứ lặng lẽ như con sò. Con sò ngậm trái bom nổ chậm.

Thợ xây cứ làm việc ì xèo, nhậu nhẹt cứ lao xao. Ông cụ già cứ đi ra đi vô, nhếch mép cười mỉa. Tới giai đoạn lót gạch bông thì trái bom nổ. Con sò mở miệng :

– Lót gạch tàu cho ấm giò !

– Nhà xây như vậy thì phải lót gạch bông mới tương xứng ba ạ.

– Mày lót gạch bông cho chó nó ỉa. Tao dứt khoát không cho lót gạch bông.

Công trình tạm ngưng. Thằng con chạy vào nhà xứ, gãi tai:

– Ông cố cứu con với. Gạch bông mua đủ hết rồi mà cha con không cho lót. Nhà như vậy mà lót gạch tàu coi sao được, ông cố.

– Để tao nói giùm. Người già hay bảo thủ lắm.

Bây giờ thì thợ đã lót gạch bông. Những buổi trưa nóng nực, ông cụ già cởi trần nằm ngủ khò trên nền gạch bông. Chẳng có con chó nào dám đến ỉa…”

2- Lúc ấy còn làm lễ quay lên

Mình làm phó cha Trần Văn Long sáu năm ở nhà thờ Chánh Tòa Cần Thơ. Lúc ấy còn làm lễ quay lên. Bàn thờ có tam cấp. Hai vị thiên thần quỳ một gối, mỗi vị ôm một chùm đèn, hầu hai bên. Thấy không vừa mắt, cha Long cho khiêng hai tượng thiên thần cất vào kho. Chưa hết, trên phông cung thánh có hai tượng thiên thần đắp phù điêu. Thấy không đẹp mắt, cha Long cho đục bỏ. Sẵn trớn cha Long cho quét sơn lại toàn bộ.

Quả thật, nhà thờ đẹp hơn trước nhiều. Sáng sủa. Trang nhã. Nhưng có một nỗi phẫn nộ âm ỉ và lây lan trong họ đạo. Giáo dân Cần Thơ hiền lành như dòng sông Hậu. Họ không phản đối, nhưng vẫn cứ xầm xì sau lưng. Mình chỉ phát giác được cơn phẫn nộ hiền lành ấy trong một buổi nói chuyện riêng tư.

– Bệnh của cha sở rắc rối lắm : Vừa tiểu đường, vừa huyết áp cao. Uống thuốc trị tiểu đường thì nối giáo cho anh huyết áp cao. Trị bệnh tăng-xông thì vỗ béo anh đái đường.

– Chúa phạt ổng. Ai biểu dẹp thiên thần làm chi ?

3- Một cha già đọc báo rồi kể chuyện.

Ở bên Pêru gì đó có một nhà thờ nhận thánh Rôcô làm bổn mạng. Thánh Rôcô cưỡi ngựa. Tượng sơn màu loè loẹt. Với thời gian chồng chất, màu lòe loẹt trở thành màu nhôm nham, loang lổ. Nghệ thuật không còn nói được sự thánh thiêng nữa. Vả lại trong ngành điêu khắc thì đường nét và thể khối mới quan trọng, màu sắc là thứ yếu.

Nhân dịp trùng tu nhà thờ, cha xứ cho sơn lại tượng thánh Rôcô. Người ngựa, râu tóc, quần áo đều được sơn bằng một màu duy nhất : màu kem. Cha xứ tấm tắc khen ngợi : màu này nhã lắm. Thế mới là nghệ thuật.

Ai ngờ … chiều hôm ấy, giáo dân nổi loạn, bao qnanh nhà xứ, la hét om sòm.

– Treo cổ cha xứ lên.

– Sơn Thánh Rôcô lại như trước cho chúng tôi.

Sau đó cha xứ nhận được lệnh Tòa Giám mục :“Rời nhiệm sở trong vòng 24 giờ”

4- Tượng Đức Mẹ đẹp tuyệt vời

Năm 1971 mình đến Năm Căn. Năm 1972 dựng tượng Đức Mẹ. Tượng Đức Mẹ làm bằng xi măng trắng, cao 1m50. Chân đế làm tạm bằng thùng đạn róckét. Gặp con nước ròng, sân nhà thờ ngập lai láng. Bầu trời xanh biếc. Mặt nước mênh mông như biển cả. Tượng Đức Mẹ đẹp tuyệt vời. Đức Mẹ giống như cánh buồm trắng đang vượt khơi. Mẹ là Nữ Vương trời đất, là Nữ Vương biển khơi. Giáo điểm Năm Căn sẽ theo Mẹ ra khơi. Mình cứ âm thầm hưởng thụ cái hạnh phúc tuyệt vời ấy cho tới một ngày kia…

Một bà già bĩu mỏ, nói toáng lên ở trước giáo điểm :

– Cái ông cha này bất nhân thiệt, bắt Đức Mẹ đứng dang nắng suốt ngày. Tội nghiệp bả !

Năm 1980 mình xây đài và dựng tượng Đức Mẹ ở nhà thờ Bảo Lộc, Cà Mau. Đức Mẹ lại đứng giữa khoảng không, dãi dầu mưa nắng. Lại bị mắng vốn. Bà Chín Khòm kéo áo mình :

– Ông cố ơi, con chịu tiền sắm cho Đức Mẹ cái dù. Tội nghiệp quá à!

– Đừng tội nghiệp Đức Mẹ. Đức Mẹ phải đứng giữa trời như thế mới làm Nữ Vương trời đất được chứ.

– Vậy hả ?

Bà Tám Mến từ Hòa Thành về khoe với mình :

– Đức Mẹ trong Hòa Thành bảnh hết biết, đứng trong lồng kính đàng hoàng. Đức Mẹ Bảo Lộc cực quá à !

– Không sao đâu. Làm lồng kính thì cũng dễ thôi, nhưng tôi sợ rằng ở trong ấy thiếu ốcxy làm Đức Mẹ ngộp thở.

– Ông cố này nói kỳ quá à !

5- Một bà phước nói với mình :

– Người lớn thì rước lễ trên tay, còn con nít thì rước lễ bằng miệng.

– Tại sao vậy ?

– Tay con nít dơ quá à. Vọc cát cho đã rồi vô cầm Mình Chúa tỉnh bơ.

– Tay không dơ bằng miệng. Miệng không dơ bằng bao tử. Chúa hổng chê cái nào hết. Làm sao cho trang trọng là được.

  1. ĐI LANG THANG

Cái Keo, ngày…1973

– Hạnh, con mượn xuồng máy cho cha đi Đồng Cùng chưa?

– Xuồng ông Sáu Khôi kẹt rồi.

– Chết cha tôi rồi ! … Không sao, để cha đi bộ.

– Đi bộ xa lắm !

– Bốn cây số không đủ để mỏi chân. Con kiếm đứa nào chèo xuồng đưa cha qua Cái Muối, rồi cha đi ên ! (đi ên là đi một mình)

– Cha đừng đi bộ. Lỡ có lựu đạn thì sao ?

– Thì nó nổ… Cha đi hoài con đường này rồi.

– !!!

Gặp con nước rong, sông Bảy Háp phẳng lì như mặt hồ. Bên tả ngạn : mắm, đước trập trùng, màu xanh bát ngát. Mình đi bên hữu ngạn : nhà cửa lưa thưa, rừng dừa xơ xác. Nếu thần chết đừng lởn vởn đâu đây, thì phong cảnh này đẹp đến mê hồn. Đẹp đến mê hồn, nhưng cũng sợ đến chết được. Mình đang cẩn trọng lội qua đám rau mui bịt bùng, thì có tiếng hỏi vọng ra từ phía căn nhà lá, có vườn bông mồng gà :

– Ông cha đi đâu mà lội bộ vậy ?

– Tôi xuống Đồng Cùng.

– Sao không đi vỏ cho nó khỏe cái giò ?

– Nếu tôi đi vỏ thì làm sao được gặp và nói chuyện với ông. Ông thứ mấy nhỉ ?

– Tôi thứ Năm. Mời ông cha vô uống nước.

Thế là mình có thêm một người bạn tốt. Ông Năm hiền từ và quảng đại. Chiều nào bà con lối xóm cũng tụ tập ở đây. Đàn ông thì hút thuốc, đàn bà thì ăn vặt. Dừa đó, cứ việc bẻ; chùm ruột đó, cứ việc hái. Ông Năm hứa sẽ cho mình mượn nhà để nói chuyện đạo, để làm lễ… Phải chăng đây chính là căn nhà của “bà Maria, mẹ của Gioan Máccô” mà Chúa sắp ban cho mình.

——————————————————————————-

 

Sơn Tây, ngày… 1990

Sáng nay mình đi tham quan nhà máy thủy điện Hòa Bình…Về đến Kỳ Sơn thì xe xẹp bánh. Người lái đi vá, còn mình thì đi lang thang… Có một căn nhà lá nằm dưới sườn đồi. Thấp thoáng có bóng người con gái. Mình mò tới để gạ chuyện.

– Chào cô, tôi là dân Nam Bộ, thấy nhà cô có hai cây vú sữa, tôi cảm động quá. Cứ tưởng chỉ có dinh Bác Hồ mới có một cây vú sữa, ai ngờ… Nó có quả chưa cô ?

– Bố cháu lấy giống ở Hà Nội đem về trồng từ ba năm nay rồi, mà chả thấy nó ra quả.

Đến đó là hết chuyện. Im lặng nặng nề. Mình muốn vô nhà, mà cô gái không mời. Tức khí, bèn mở lối.

– Nhà cô có hai cây hồng ở đàng kia, sai quả quá, cô có bán không ?

– Hồng nhà cháu còn xanh lắm chưa ngâm được. Chú quá bộ xuống chợ mà mua. Ở đấy thì có vô khối, tha hồ mà mua.

– Tôi muốn mua hồng của cô kia. Hồng ngoài chợ thì tôi thèm vào.

Lại hết chuyện. Lại im lặng nặng nề. Mình muốn vô nhà, mà cô gái vẫn không mời. Phải chăng vì chỉ có một mình cô ở nhà, nên cô giữ kẽ với mình ? Hay vì cô không muốn tiếp khách du lịch trong căn nhà nghèo nàn ? Kệ, mình tấn công một lần nữa, một lần cuối cùng.

– Cô ơi, nhà cô có điếu thuốc lào không ?

– Thưa có ạ. Mời chú vào.

Mình vê một điếu, rít một hơi giòn giã. Người đàn ông đang ngủ ngon bỗng giật mình lồm cồm bò dậy, gãi đầu và nhăn mặt tỏ vẻ khó chịu…

– Đây là anh của cháu.

– Chào anh. Tôi thèm thuốc quá, anh thông cảm nhá.

Người đàn ông mỉm cười, lết tới bàn, vê một điếu thuốc, rít một hơi thật điệu nghệ, ngửa cổ, phun khói lên mái nhà. Sướng ! Chủ và khách bỗng trở nên bạn thân, bạn thuốc lào… Ông anh hút nhiều, nói ít. Cô em không hút, nói nhiều. Cô có trình độ cấp ba, làm thư ký cho nhà máy giấy. Quần áo của cô thì bèo nhèo, nhưng cái miệng của cô thì dẻo quẹo. Cô có rất nhiều bạn theo đạo công giáo và cô rất quý mến họ. “Họ tốt lắm, ở đây không có nhà thờ. Những ngày lễ lớn họ đi về lễ ở Hà Nội” .

Lời tâm tình của cô khiến mình cảm động đến rơi lệ. Những anh chị em công nhân công giáo xa họ đạo, xa nhà thờ, nhưng vẫn sống chứng tá giữa đồng bào của mình. Họ là men. Họ là muối. Họ đang giảng Lời.

Sực nhớ đến người lái xe, mình kết thúc vội vã :

– Tôi cũng theo đạo Thiên Chúa. Thôi chào anh, chào cô, tôi phải đi. Nếu chẳng may lỡ đường, cho tôi ngủ nhờ nhá.

– Không dám ạ, nhà cháu nghèo lắm.Nhưng nếu chú không chê nghèo, thì xin chú cứ tới ạ.

– Tôi thích người nghèo lắm. Chúa yêu người nghèo mà. Chào người nghèo !

– Cháu cũng thích đạo này lắm. Chào chú.

Mình tìm đến chỗ vá xe. Ở chốn đèo heo hút gió này, người vá xe chỉ vá xe đạp. Xe Honda thì hắn phải mầy mò. Không có đồ vá chín (vá ép), hắn đành vá sống.

– Cháu vá tạm. Hai chú xuống chợ huyện thì có vá chín.

– Đành thế… Ờ, mà cậu có cái gì dán ở cửa kia ?

– Đức Mẹ đấy… Mà cháu cũng chẳng biết nữa. Hồi cháu vào trong Nam, cháu thấy đẹp thì đem về dán ở đấy.

Hắn là người dân tộc Mường, đi bộ đội, vào giải phóng miền Nam, đem ảnh Đức Mẹ về dán ở cửa, giữ gìn một cách trân trọng, và nói một cách thành kính : “Đức Mẹ đấy”. Sau đó lại sang số :”Mà cháu cũng chẳng biết nữa… Cháu thấy đẹp thì đem về dán ở đấy”. Vấn đề không đơn giản như vậy…

Hai người dắt xe ra quốc lộ 6, đạp máy và phóng về phía Sơn Tây. Đúng là Kỳ Sơn. Núi đẹp quá. Trập trùng. Muôn hình. Muôn dạng. Gió mát như gió ướp lạnh. Đà Lạt ơi ! Thua 0-1 rồi!

Mình muốn dừng xe và ở lại luôn để thấy và để cảm nghiệm hết cái đẹp của Kỳ Sơn. Tại sao ở đây không có một “nhà thờ con gà” ? Tại sao Kỳ Sơn chưa đi vào văn chương Việt Nam ?…

Vừa đến Xuân Mai, thì xe lại xì hơi. Bỏ người lái xe, mình  men theo bờ dốc đến trước một ngôi nhà ngói ba gian, có tường đá ong bao bọc xung quanh. Mình đứng ở cổng, ngó mông lung về phía đồi chè.

– Bác muốn tìm ai đấy ?

– Tôi không tìm ai cả. Tôi đi tham quan nhà máy thủy điện Hòa Bình. Về đến đây thì xe nổ lốp. Người lái đi vá. Còn tôi… thấy nhà của chị đẹp quá thì đứng ngắm một tí.

– Mời bác vào xơi nước ạ.

– Nhà chị đẹp quá, lại có bài vị sơn son thếp vàng. Chắc nhà chị có nhiều người tài giỏi lắm ?

– Không dám. Nhà cháu nghèo lắm.

– Chị theo đạo nào ?

– Cháu là người lương.

– Người lương khác người đạo thế nào ?

– Người đạo là người Thiên Chúa, không thờ cúng ông bà.

– Đạo gì mà kỳ vậy ? Công đức sinh thành mà không thờ là thế nào ?

– Cái đó thì cháu chả biết. Nhưng mà. .. cứ đến ngày giỗ, anh em họ lại về với nhau.

– Ừ, mà có lẽ họ đọc kinh cầu nguyện cho ông bà cha mẹ đấy.

– Vâng, cháu cũng nghĩ thế.

– Người đạo và người lương có quan hệ tốt với nhau không?

– Chúng cháu vẫn chơi bời bình thường với nhau.

– Có nhà thờ không ?

– Ở đây không có nhà thờ. Ngày Chủ Nhật người ta đi lễ ở Sơn Tây.

Mình từ giã người đàn bà. Lòng vui phơi phới. Không cho lập bàn thờ ông bà là một sai lầm lớn của Giáo Hội, vậy mà người đàn bà ấy lại bao che một cách khéo léo. Không có nhà thờ, vậy mà tín hữu ở đây vẫn sống chan hòa với lương dân và hàng tuần vẫn đi lễ ở nhà thờ xa hằng chục cây số. Hạt giống cứ âm thầm mọc lên (Mc. 4, 26-29).

  1. NHƯ CHUYỆN TIẾU LÂM

Cà Mau, ngày… 2-1999

Hôm nay mình đi Cà Mau. Nhà cha Quản hạt có nhiều khách Sàigòn. Vui anh, vui em và vui miệng. Mười Râu kể chuyện :

“Râu đi kẻ liệt cho một bà già bỏ sáu mươi mùa Phục sinh. Đi từ chiều mà mãi tới nửa đêm mới đến nơi. Râu không mang Mình Thánh Chúa, nên chỉ ngồi tòa, xức dầu rồi sập mùng ngủ liền. Bỗng có người đánh thức. Râu mở mắt ra thì thấy một họng súng đen ngòm đang chĩa vào Râu. Râu lạnh toát xương sống.

– Ông cha ơi, dậy nhậu với tôi một chầu.

– Một chút thôi nghen !

Râu uống hai cốc. Kiếm cớ đi đường xa mệt mỏi, nên lại chui vô mùng ngủ tiếp. Sáng hôm sau khi thức giấc, thấy trong mùng mình có thêm một người nữa, ngào ngạt mùi rượu…

Râu kê bàn làm lễ. Đang làm lễ thì một người đàn ông lẳng lặng đặt trên bàn thờ một ly nước lạnh. Râu bỡ ngỡ hỏi :

– Chi vậy ?

– Để ông cha chữa lửa.

– ? !!!

Thương quá là thương ! Vô tình nhưng không vô tâm. Mười Râu cho biết người đàn ông gí súng mời Mười Râu dậy nhậu, rồi chui vô mùng ngủ chung với Mười Râu, rồi cho Râu một ly nước chữa lửa chính là đứa con của bà Tư 60 năm lạc đạo. Anh không có đạo nhưng rất mừng khi mẹ được ông cha đến cử hành thánh lễ. Anh cám ơn Mười Râu và ước mong có một thánh lễ như thế nữa, để anh mời chánh quyền địa phương đến tham dự… Đạo đời sẽ hiểu nhau hơn, anh bảo thế.”

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày… 1998.

Chưa kịp ăn sáng thì có người ở Phú Tân lên.

– Thưa cha, má con mới mất. Xin Cha xuống làm lễ an táng cho má con.

– Là ai vậy nhỉ ?

– Má con là bà Tám Sét, má của Út Hiền, Lành.

– À biết rồi. Cha Mười đâu ?

– Cha Mười đi thành phố.

– Ăn xôi với tôi rồi ta cùng đi.

Người bán xôi vắt cho mỗi người một vắt. Ai nấy ăn vội vã như người Do Thái ăn bữa Vượt Qua ở Ai Cập. Vỏ lãi nhỏ, gắn máy Honda 11 ngựa(?), lướt ào ào như gió. Sau hai tiếng rưỡi ngồi xếp bằng trên chiếu, mình bước lảo đảo đi vào nhà tang, đến thẳng giường người chết. Út Lành, một cô gái lớn cồ cồ ôm cứng lấy mình. Mếu máo. Nhệu nhạo :

– Cha ơi, cha làm phép lạ cho mẹ con sống lại đi cha ơi !

– Thôi đi… để cha thắp nhang cho mẹ con.

Mình nâng cao cây nhang trước trán, nhác thấy anh chàng cameraman chạy tới. Hú hồn ! Nếu hắn đến sớm hơn một chút nữa, thì mình đã nằm gọn trong vòng tay của Út Lành cho tới muôn đời muôn kiếp. Cái may và cái rủi ở trên đời này đôi khi chỉ cách nhau một ly tấc, một khoảnh khắc ngắn ngủi. Hôm nay mình đã gặp được cái may ấy… .

Út Lành ngoan ngoãn buông mình ra làm mình liên tưởng đến buổi hừng đông hôm ấy. Chị Maria Mácđala đang ngồi khóc tỉ ti, bỗng nhào về phía trước ôm choàng lấy chân Chúa, thảng thốt kêu lên : “Rắpbôni !” Còn Chúa thì nhắc chị một cách khéo léo : “Thôi đi… Hãy đi gặp các anh em của Thầy…” Nếu ở đấy có một cameraman rình rập, thì Thầy của mình có thái độ nào ? Mình thành thật muốn biết điều ấy và chờ mong một ơn soi sáng.

——————————————————————————–

Tắc Sậy, ngày 28-6-1997

Các dì phước đi thực tế về. Mừng rỡ đón nhau như đón mẹ về chợ. Cười toe toét. Nói tía lia. Hồn nhiên như thiên thần. Họ có trăm chuyện để nói, trăm chuyện để nghe. Họ trao cho nhau những kinh nghiệm quý như gia bảo. Họ kể cho nhau những mẩu chuyện buồn cười đến bể bụng :

1- Có một con chuột tò mò chui vào mùng bà phước. Bà phước sợ chuột kêu á.. á. Chuột sợ bà phước kêu chít.. chít. Hai bên sợ nhau cùng nhảy tưng tưng trong mùng… Mình nói thầm trong bụng : “Ai biểu ở dơ làm chi ?”. Nhưng công bằng mà nói thì tại hầu hết vùng nông thôn trong tỉnh Cà Mau đều khan hiếm nước ngọt và nước sạch. Ở dơ là tế nhị đối với tha nhân, là nhường “sạch sẽ” cho người khác.

2- Cha Mười từ dưới xuồng bước lên. Bà phước chạy ra đón. Mừng quá, vì sắp có thánh lễ. Đói Thánh Thể quá rồi mà. Cha Mười tỏ vẻ không vui. Bồn chồn. Ray rứt.

– Ma-xơ ơi, tivi ở đâu ?

Bà phước đơn sơ như thiên thần, dẫn cha Mười đi bọc ra phía sau, chỉ tay vào căn buồng kín mít :

– Tivi ở trong đó, cha.

– Tôi muốn hỏi cái tivi ấy kia…

Bà phước ớ ra. Cha Mười phải giải thích một hơi bà mới hiểu. Thì ra, ở nông thôn miền sông Cửu Long người ta ngồi trong ấy (?), (chỉ thấy bán thân) giống như xướng ngôn viên trên màn ảnh truyền hình.

3- Có một bà phước đã đi thực tế một lần. Bà cảm nghiệm được nỗi ray rứt của các “thánh đồng trinh” trong những căn nhà tắm sơ sài của bà con nông thôn : vách lá chỉ che tới vai; cửa nhà tắm chỉ là tấm cao su ỡm ờ; mái che là một khung trời vô tận. Con chuồn chuồn vô tình bay qua, rồi cố tình đậu lại trên vách…Nhột chết được !

Ma-xơ vắt óc để sáng chế ra một phòng tắm bỏ túi. Kín đáo và gọn nhẹ, đó là mục tiêu. Vật tư là những mảnh cao su mỏng, nhưng tối như mực. Khung sườn thì kiếm tại chỗ. Tre, trúc, tầm vông, chỗ nào cũng có… Lý luận sáng suốt, bàn tay khéo léo, ma-xơ hoàn thành tác phẩm một cách mau lẹ. Bà bí mật nhét tác phẩm vào túi xách, hí hửng đi thực tế. Đến nơi bà đem ngay buồng tắm bỏ túi ra trình làng. Căn buồng tắm xinh đẹp đứng giữa vườn chuối. Bà con tấm tắc khen ngợi. Ma-xơ đỏ mặt sung sướng, sướng hơn ông Edison đứng ngắm bóng đèn rực sáng. Ma-xơ đích thân “cắt băng khánh thành”. Không gian ba chiều kín như bưng.

Bỗng có một con heo ngu xuẩn bị chó rượt, chạy thục mạng và chui tọt vào nhà tắm. Nhà tắm rung rinh. Sắp đổ.

– Chúa ơi !

– Ôộc … Ôộc

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 27-2-1999

Hôm kia, hai dì phước của tổ ấm Nhật Hồng xuống Cái Rắn để dự lễ rửa tội của em Tâm khiếm thị. Hôm qua vì thương em Tâm mù, hai dì lặn lội đưa em về tận Bến Bọng. Có dì Út Lệ cùng đi. Trưa hôm nay dì Út về, kể chuyện Bến Bọng cho cả nhà cùng nghe :

“Nhà cầu gì mà thấp tè tè. Phía đằng trước chỉ cao bằng này này. Ai mà dám vào ? Bà ngoại cứ lắc đầu lia lịa. Con xúi bà :

– Làm đại đi bà ngoại. Hoặc ra tuốt đằng sau vườn…

– Không dám đâu.

– Thì chịu chết sao ?

Bà ngoại đã 83 tuổi đời, đã từng bôn ba hết ba miền đất nước, đã từng lãnh nhiều trách nhiệm quan trọng, vậy mà đành lắc đầu thất vọng.

Ngôi Lời đã làm người và trở nên mọi sự như chúng ta, chỉ trừ tội lỗi. Con người Ngôi Lời sai đi, thì sẵn sàng sống như người địa phương : ăn như, ở như, yếu đuối như, đôi khi tội lỗi như, nhưng nhất định không chịu “ấy” như. Dễ đấy mà cũng khó đấy, khó vô cùng. Chính mình đã nhiều lần phải thốt lên : “Thà chết còn hơn”. Hội nhập văn hóa ơi, đến bao giờ ?!… .

  

  1. GIÓ TỪ ĐÂU ĐẾN ?

Cái Rắn, ngày 30-05-1998

Sáng nay mình ra Cà Mau để mở hộp thư. Thấy thư của Phượng. Phượng viết : “Vợ chồng chúng con có tâm huyết xây tặng người nghèo một ngôi trường, trường cấp một hoặc cấp hai cũng được. Xin cha lên phương án giùm chúng con…” Đọc xong lá thư, mình xếp lại, bỏ vào túi áo ngực, sát kề con tim đang đập rộn ràng, nhảy phóc lên xe Honda ôm, đi thẳng về Cái Rắn.

Trời mưa tầm tã. Sình văng lên làm ướt nhẹp và đỏ lòm hai ống quần. Sình đỏ văng lên tới lưng. Kệ, miễn là giữ được cái đầu. Mình rúc đầu vào trong áo mưa của anh lái xe. Áo mưa bay phần phật. Mình gí mũi vào lưng của anh, để tìm sự an toàn tuyệt đối. Ở đấy không có giọt mưa nào lọt tới. Nhưng ở đấy nồng nặc mùi hôi nách… Đúng là tránh vỏ dưa, đạp vỏ dừa. Và… trong tình huống ấy, mình xin ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần.

Vừa về tới cầu Cái Rắn, mình lết ngay vào văn phòng Ủy Ban Xã. Hành lang Ủy Ban ướt nhẹp, trơn trượt. Ông Chủ tịch đang ngồt co ro trong văn phòng ẩm mốc. Mình ngoắt tay.

– Anh Ba ơi, ra ngoài này tôi nói cho nghe…Tôi không dám vô đâu. Anh coi tôi nè…

– Linh mục đi đâu về mà dơ dữ vậy ?

– Tôi ở Cà Mau về. Có một ân nhân muốn cho xã mình một ngôi trường. Anh lấy không ? Nếu không, thì mai tôi xuống huyện để cho xã khác.

– Tôi vừa dưới huyện về được ba phút. Năm nay xã lập thêm một Ban Giám Hiệu nữa. Xin Phòng ngân khoản, thì Phòng từ chối. Nếu linh mục cho, thì mình xây ở ngay đập ông Tân.

– Như vậy là anh chịu rồi phải không ? Ngày mai tôi đến coi địa điểm và cho tiến hành ngay để kịp ngày khai giảng… Mà này, thủ tục đơn giản nghen. Không cần thiết kế, vì thợ của tôi thuộc lòng rồi. Khỏi đóng thuế xây dựng nghen. Mình ở vùng sâu vùng xa mà. Tiết kiệm được đồng nào hay đồng nấy. Thôi, tôi về nghen.

Thế là mình bắt đầu một công việc bất ngờ do Chúa Thánh Thần trực tiếp nhúng tay vào. Ngài lôi mình đi bê bê như thầy trợ tế Philíp thời Công vụ Tông đồ. Ngôi trường được xây vào thời điểm này và vào địa điểm ấy là tuyệt vời ! Cái tuyệt vời này phải ghi sâu trong ký ức và thưởng thức một mình mà thôi…

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 8-12-1998

Hôm nay có một lá thư lạ. Lá thư đầu tiên mình nhận được từ tỉnh Vĩnh Phúc. Tác giả là một cô gái dân tộc Tày. Tác giả viết :

”Chắc cha bỡ ngỡ lắm, vì tại sao con biết cha và viết thư cho cha… Có một đoàn du lịch đến thăm quê con ở Yên Bái. Theo cách xưng hô của họ, con đoán họ là người công giáo mình. Họ đến thăm một gia đình bên cạnh nhà con. Khi họ về thì bỏ quên mấy số báo Công Giáo và Dân tộc, và cuốn Nhật Ký Truyền Giáo của cha. Đọc NKTG của Cha, con thích quá, con lần mò đi tìm địa chỉ của cha… Con có một người bạn có đạo mà không bao giờ đi lễ. Bạn con bảo : đi lễ thì được cái gì ? Xin cha giúp con phải đối xử thế nào với bạn ấy ? Con có nên chơi với bạn ấy không ?…”

Mình trả lời ngay lập tức. Bỗng dưng mình vớ được một người bạn truyền giáo từ một địa bàn xa tắp tít. Cô gái dân tộc Tày ơi, hãy làm chứng nhân cho Tin Mừng ở đấy nhé ! Thánh Thần là nhân tố chính yếu trong mọi sinh hoạt truyền giáo. Hãy cầu nguyện với Người !

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 30-1-1999

Hôm nay mình nhận được một phong thư dày cộm. Thư viết từ Houston, Texas, USA. Thư của Nguyễn Thị… Đọc xong lá thư, mình đứng ngẩn ngơ…

Cách đây gần một phần tư thế kỷ, mình đã bị đàn ông chửi thậm tệ, chửi từ ngày này qua ngày khác. Hôm nay đến lượt đàn bà chửi. Phải được đàn bà chửi, mới cảm nghiệm được hết ý nghĩa của động tù chửi.

Mình bị chửi là ngu : “ông ngu quá” . Ừ, thì mình vẫn ngu từ thuở nào đến bây giờ và sẽ còn ngu mãi cho đến chết. Bà Nguyễn Thị… nói rất đúng. Đó là một lời nhắc nhở cần thiết. Mình muốn gởi đến Houston một lời cám ơn vang vọng.

Bà Nguyễn Thị… chửi tiếp : “Ông đừng hòng tôi lạy lục ông… Tôi không được ăn học để chửi cho ông biết” . Vâng, thưa bà Nguyễn Thị…, ở trên đời này không ai có quyền bắt ai lạy mình. Tất cả đều là anh em. Đó là giáo huấn của Đức Giêsu, Thầy của chúng ta. Tôi lại cám ơn bà một lần nữa.

Lá thư của bà Nguyễn Thị … được cất kỹ làm kỷ niệm… Những câu chửi thậm tệ được ghi khắc trong lòng để suy gẫm. Sau bão Linda, giáo xứ của mình đón nhận nhiều sinh hoạt mới, nằm trong chiến lược truyền giáo của Chúa Thánh Thần. Mình hy vọng sau trận bị chửi này, mình cũng sẽõ lượm hái được nhiều bông hoa vừa đẹp vừa lạ.

Cất kỹ lá thư của bà Nguyễn Thị…, mình bóc lá thư của Emilie Sitzia, người bạn không hề quen biết. Lá thư của bà Nguyễn Thị… chua chát chừng nào, thì lá thư của Emilie ngọt ngào chừng nấy. Emilie viết :

“Je m’appelle Emilie. J’ai 20 ans. Je suis actuellement étudiante en littérature à Paris et je m’occupe d’Antoine lorsqư il sort de l’école.

J’ai depuis des années une fascination pour votre pays aux paysages et au patrimoine culturel immensément riche. Ma rencontre avec Françoise Roux et Antoine a nourri ma curiosité et mon attachement toujours grandissant pour le Vietnam…”

( Tôi là Emilie, 20 tuổi, hiện là sinh viên văn khoa ở Paris. Tôi giữ bé Antoine mỗi khi em rời nhà trường.

Đã từ nhiều năm, tôi say mê đất nước của cha. Quê hương của cha có phong cảnh và một kho tàng văn hóa phong phú vô cùng. Từ ngày tôi gặp bà Françoise Roux và bé Antoine tôi càng tò mò muốn tìm hiểu và muốn gắn bó hơn với Việt Nam )

Một cô sinh viên người Pháp mê Việt Nam như điếu đổ và quyết tâm qua Việt Nam thăm Hà Nội, Huế, Sài Gòn và Cái Rắn. Phong cảnh VN đẹp quá ! Văn hóa VN phong phú quá ! Yêu Hà Nội, Huế và Sài Gòn thì mình không thắc mắc. Nhưng yêu Cái Rắn thì phải hỏi : tại sao ?

Câu chuyện này bắt đầu từ năm năm về trước :

Bà Françoise Roux qua Việt Nam xin con nuôi. Bà xin được bé Lộc mang tên tây là Antoine. Bà tâm sự với mình : ”Antoine là niềm vui tuyệt vời cho tôi và mẹ tôi”. Bà nhờ mình tìm nguồn gốc sinh học của Antoine. Nguồn gốc ấy ở ngay ấp Cái Rắn A. Thế là bà thương luôn Cái Rắn. Bà vận động cho Cái Rắn 10 học bổng, mỗi học bổng 1.000.000 đồng / 1 năm. Bà mướn cô sinh viên Emilie chăm sóc Antoine sau giờ tan học. Emilie đã yêu Việt Nam, nay lại yêu Việt Nam hơn nữa…

Những sự kiện tình cờ trên đi tìm nhau, móc nối với nhau thành một chuỗi sự kiện liền lạc, y như có một bàn tay vô hình đang âm thầm ráp nối linh kiện theo một thiết kế có từ muôn thuở.

Lá thư của Emilie làm mình liên tưởng đến thánh Phêrô ở Gióppê. Phêrô cầu nguyện trên sân thượng của ông Simon. Phêrô nhận thị kiến. Phêrô đến giảng cho gia đình ông Cornêliô ở Xêdarê. Ông bỡ ngỡ vì Thánh Thần đáp xuống trên dân ngoại. Ông về Giêrusalem, bị đồng đạo xì nẹc về tội vô nhà người ngoại. Ông thanh minh, ông giải thích… làm mọi người sửng sốt về ơn Chúa ban cho dân ngoại. Cuối cùng ông lột xác bảo thủ để đứng hẳn về phía Phaolô đấu tranh cho người ngoại trở lại đạo, khỏi cắt bì và khỏi giữ luật Môsê. Đây là sự cố đổi mới có tầm mức chiến lược. Phêrô đóng vai chính trong mọi mắt xích sự cố mà chính ông thì như người đi trong mơ. (Cv 10,34-48; 11,1-18; 15,1-21)

  1. NƯỚC TRỜI GIỐNG NHƯ TRÁI MẮM

 

Bến Bọng, ngày …. 6.1975 .

Hôm nay mình thấy buồn da diết. Trong tay chỉ có hai cuốn sách : Bài đọc mùa Vọng, mùa Giáng Sinh, và Prières du temps présent. Đọc riết rồi chán. Chán đọc thì viết. Viết để giết thời giờ. Nhưng thời giờ hôm nay dãn nở quá cỡ, giết hoài không hết… Mình vận dụng trí nhớ để hướng về quá khứ. Nhớ anh chị em trong giáo điểm. Nhớ nhà. Nhớ học trò. Nhớ cây cầu khỉ lắt lẻo…

Vẫn còn dư giờ, nên phải nhớ đến con ba khía vẫn thường trú trong nhà cầu của mình. Người ta bảo : Ba khía ăn trái mắm. Nhưng con ba khía của mình lại ăn phân. Hai cái càng của nó thay nhau gắp, gắp hoài không mệt… Nhớ chán rồi thì thèm.

Mình thèm miếng chuối chiên vàng rộm của Xa Cảng Miền Tây quyện với giọng soprano sắc buốt của cô bé lọ lem : “Ai… chuối chiên… đi !”

Mình thèm con khô bổi nướng. ăn với cơm trắng còn nóng hổi, ở nhà thờ Chánh tòa Cần Thơ… Nước miếng tứa ra, xót xa chịu không nổi…

Mình đi ra bờ sông, gác chân lên gốc mắm, đứng nhìn trời mây nước. Trời xanh thăm thẳm, xa cách ngàn trùng. Vài cụm mây mỏng tanh trôi lững lờ, ngơ ngơ như người không có linh hồn. Con nước ròng đang chảy miết ra vàm, quên cả bờ bến. Vô tâm. Vô tình. Mình cảm thấy cô đơn quá chừng !…

Bỗng gió nổi lên. Cành mắm rung xào xạc. Những trái mắm trái mùa rơi lõm chõm xuống dòng sông, trôi lều bều như rác rến, xoáy thành những vòng tròn sau cột miệng đáy, rồi mất dạng theo dòng nước thủy triều.

Bất giác mình tự hỏi : “Trái mắm trôi về đâu ?”

Số phận của nó là lênh đênh, là vô định. Có thể nó sẽ trôi tới Rạch Chèo rồi mất hút trong vịnh Thái Lan mịu mù. Cũng có thể nó sẽ vướng vào đám ô rô, cóc kèn nào đó ở Bàu Trấu, Đồng Cùng, Mang Rổ… rồi phải vật lộn với ô rô, cóc kèn để tồn tại và phát triển.

Mình nhớ đến thánh Phêrô, một con người tầm thường như trái mắm, trôi nổi bồng bềnh trên dòng lịch sử của miền Địa Trung Hải. Ông lên Giêrusalem để giảng Lời Chúa, thì bị lãnh đạo tôn giáo bỏ tù. Ông được ra tù, thì lại bị vua Hêrôđê tống ngục. Từ trong ngục, ông theo sứ thần đi ra mà cứ ngỡ là mình ngủ mơ. Ông đến Rôma, thủ đô của quân xâm lược để tiếp tục giảng Lời.

Ông sống chui lủi như con chuột xạ, nay ở hang toại đạo này, mai ở xóm nô lệ kia. Chính bản thân ông đã là tên nô lệ rồi. Có những lúc ông không biết nên ở hay nên đi; nên ở đây hay ở đó. Ông nhớ lại lời Thầy tiên báo : “Khi con về già, người ta sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đi đến những nơi con không muốn” (Ga. 21,18). Số phận của Phêrô đã được an bài rồi : Bồng bềnh và vô định.

Bất giác mình nghĩ về mình. Mình cũng là một trái mắm đang trôi nổi vật vờ. Đi về đâu, nào ai biết được ? Số phận là bồng bềnh và vô định. Mình trở vô căn nhà vắng lặng để tìm Thầy, Thầy của Phêrô, Thầy của mình…

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 25-2-1999

Sáng nay vỏ lãi tốc hành đón Đức cha Mẫn và đoàn tùy tùng ở cầu Cái Rắn.

Dẹp bỏ Sàigòn đèn đỏ đèn xanh, khép lại thời khóa biểu ngộp thở của Tòa Tổng Giám Mục, Đức cha thả hồn về quá khứ êm đềm của hơn năm mươi năm về trước. Ngài dán mắt vào từng gốc mắm, từng bụi dừa nước, để tìm những cặp mắt lồi của những con cá thòi lòi láo xược. Ngài mơ ước có một cái giàn thun thật tốt để diễn lại cuộc đời của cậu bé xạ thủ tuyệt vời trên kinh rạch miền cuối Việt này. Nhưng…cụt hứng. Không còn một bóng thòi lòi… Dường như thòi lòi đã tuyệt chủng trên con rạch ngoằn ngoèo này. Bất đắc dĩ, Đức cha chuyển hồn qua cây mắm. Dường như ngài rất am tường về cây mắm. Đã có lần ngài tự ví mình với cây mắm.

Mắm là loại cây tạp, được Từ Điển Tiếng Việt gọi là “Cây nhỡ”. Bà nội trợ chê mắm, vì củi mắm dai nhách, khó bửa, cho lửa thì ít, cho khói thì nhiều. Thợ mộc cũng chê mắm, vì ván mắm lắm thớ, làm dơ lưỡi bào… Chẳng ai thèm trồng mắm, nhưng mắm cứ mọc tràn lan. Chẳng ai thèm đốn mắm, nên mắm cứ mọc bạt ngàn.

Nghe Đức cha minh họa cây mắm, người Sàigòn cứ ớ ra như vịt nghe sấm.

– Cây mắm khác cây đước ra sao ? Cây nào là cây mắm ?

– Cứ nhìn xuống gốc cây. Gốc nào có nhiều rễ mọc ngược lên, lởm chởm như bàn chông, thì đó là cây mắm.

Mình cao hứng bèn phụ họa thêm :

– Khoa học gọi rễ đó là rễ thở. Dân gian gọi là c.. : c.. mắm, c.. bần. Mắm nhiều hơn bần vô cùng lần. C.. mắm cũng hữu ích hơn c.. bần vô cùng lần. C.. mắm chống hiện tượng xói mòn hai bên bờ sông và giữ được đất phù sa. Vậy mà Từ Điển Tiếng Việt chỉ chiếu cố từ “C.. bần”, mà cố tình bỏ quên từ “C.. mắm”. Mình viết thư khiếu nại với Ban Biên Tập. Họ đã từ chối thẳng thừng. Bà nội trợ chê củi mắm. Thợ mộc chê ván mắm. Bây giờ Ban Biên Tập Từ Điển Tiếng Việt lại chê c.. mắm. Mắm ơi ! Đừng buồn nhé !

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 26-2-1999

Sáng nay mình đưa gần hai chục “con gái Thánh Vinh Sơn” đi tham quan Mũi Cà Mau. Người con gái nào cũng chậm rãi. Chậm rãi vừa là nhân đức, vừa là thói xấu của con gái. Để giảm thiểu cái xấu ấy của chậm rãi, mình ra lệnh :

– Phải đi thật sớm để không về trễ. Phải ăn sáng trên vỏ, để tranh thủ thời gian.

– Bao xa cha ?

– Cả đi lẫn về không dưới hai trăm cây số.

– Đẹp không cha ?

– Xấu hoắc ! Đi để biết! Biết Mũi Cà Mau, phao câu của tổ quốc để yêu thương quê hương hơn khi chưa biết.

– Ở đó có những gì ?

– Ở đó có cái bảng bự, viết chữ thật to : “Mũi Cà Mau”, và… rừng mắm trập trùng.

– Người ta trồng mắm để làm gì ? Trái mắm ăn được không?

– Chỉ có ba khía và cá dứa ăn trái mắm. Còn cây mắm thì chẳng ai trồng. Chúa trồng mắm để bảo vệ lục địa và đưa lục địa ra khơi.

– Cha hay tếu quá à !

– Tôi nói chuyện thực tế. Lát nữa tôi sẽ giải thích cho chị nghe.

Vỏ lãi rời bến nhà thờ vào lúc 6g15. Nó gầm lên và lao tới để khoe tốc độ với người Sàigòn. Mình sốt sắng giới tbiệu các địa danh ghi khắc nhiều kỷ niệm : Rau Dừa, Cái Nước, Cống Bà Chủ, Đồng Cùng. Dường như bà phước không quan tâm. Bà đang lâm râm lần hạt. Thì ra bà đọc kinh, mình lo ra, chúng ta cùng đi.

7g30 vỏ lãi tới Đồng Cùng, quẹo tay phải, rồi cắt ngang sông Bảy Háp, lao đầu vào “Kinh Tắc Năm Căn”.

– Còn mười ba cây số nữa thì tới Năm Căn.

– Năm Căn đâu ? Năm Căn đâu ?

Năm Căn, mối tình đầu của Dòng Bác ái Vinh Sơn. Nói đến Năm Căn, con tim của họ co thắt như điện giật. Còn những mười ba cây số nữa mà đã nhao nhao lên : “Năm Căn đâu ? Năm Căn đâu ?

Năm 1972 họ đã đặt chân lên đất Năm Căn, nay là Hàng Vịnh. Họ là Dòng tu đầu tiên đến hoạt động ở miền cuối Việt này . Họ mở lớp gia chánh, cắt may bình dân, để nâng cao trình độ của các bà mẹ tương lai. Họ mở lớp mẫu giáo vườn trẻ để vun xới cho thế hệ tương lai ngay từ tuổi thơ ấu. Họ mở phòng phát thuốc để cứu khổ nhân dân, giữa một vùng mà muỗi nhiều hơn trấu, nước ngọt quý hơn nước thuốc (Một chai bia con cọp giá 18 đồng. Một đôi nước mưa giá 150 đồng). Chiến tranh tàn khốc : bom đạn ì xèo, hỏa châu giăng mắc, họ vẫn ôm cứng lấy Năm Căn, không chịu xa lìa.

Tiếc thay, mối tình đầu ấy lại là mối tình dang dở. Số phận nghiệt ngã đã chặt đứt vòng tay của họ. Họ ở Sàigòn mà vẫn liếc trộm về Năm Căn… Mối tình đầu đã trở thành dang dở. Mối tình dang dở đang trở thành vụng trộm. Tại sao yêu mà phải khổ đến thế ?

10g45 vỏ lãi tới chợ Rạch Tàu. 11g15 ghé đồn công an biên phòng. Khách đổ bộ lên mũi, nhưng chỉ thấy tấm bảng bự với ba chữ to : “Mũi Cà Mau” và rừng mắm trập trùng. Xa xa có hòn Khoai, mờ mờ sau lớp mây mù. Người ta dự tính rằng : chỉ hơn một trăm năm nữa, rừng mắm sẽ biến hòn Khoai thành núi Khoai.

Giã từ đất Mũi, mình chỉ giữ lại hình ảnh trái mắm. Mình thiển nghĩ : Nếu Đức Giêsu giảng Lời ở đây, Ngài sẽ nói : “Nước Trời giống như cái gì ? – Nước Trời giống như trái mắm”

  1. CƠN BÃO SỐ 5

Cà Mau, ngày 3-11-1997

– Tôi về đây ! Nghe nói bão số 5 làm Cà Mau và Bạc Liêu te tua hết rồi.

– Cha đừng về. Không có xe đâu.

– Cứ đi thử coi.

Mình chui vào chiếc xe 12 chỗ. Toàn bộ hành khách là dân Cà Mau. Đề tài trao đổi chỉ là bão số 5.

– Gọi điện thoại về Cái Nước không được.

– Không biết nhà cửa có còn gì không ?

– Thằng em tôi đi khơi, không biết số phận ra sao ?

– Về Cà Mau không biết có đò về Cái Nước hay không đây

15g45, mình về tới Cà Mau, lấy xe honda ôm đi thẳng về nhà thờ Quản Long. Cửa đóng kín mít.

– Anh Ba ơi ! Cha quản hạt ơi !

Không có tiếng trả lời. Mình quay ngoắt một cái, đi te te ra cổng. Bỗng có tiếng gọi từ phía nhà thờ.

– Cha, có dì Tư nè.

– Cha quản hạt đâu rồi ?

– Ông cố đi Cái Rắn rồi. Nghe nói nhà thờ sập một căn, lớp học tình thương sập một căn. Nhà giáo dân thì mười sập tám. Mời ông cố vô nhà uống nước.

– Thôi, tôi về Cái Rắn liền bây giờ.

Không thèm vô nhà mình vội vã ra đường, ngoắt xe Honda đi về Cái Rắn. Hai bên quốc lộ vườn chuối te tua. Ở chỗ này cây còng trốc gốc, ở chỗ kia hàng tràm cụt đầu. Nhà cửa mất mái, xiêu vẹo, đổ sập… Thấy mà ngao ngán. Xe Honda dừng lại ở cầu Cái Rắn, ngay căn nhà bà Út. Căn chòi lá của bà Út sập, lòi ra một góc bộ ván. Không một bóng người. Nhìn xa thêm một chút : nhà Năm Tiệm, vợ chồng con Thu, vợ chồng con Nhanh, không sập nhà trước thì sập nhà sau. Nhà con Thu thì chỉ còn là đống lá mục.

Mình còn đang đứng ngẩn ngơ thì…

– Ông cố ơi, ông cố đi vỏ của con nghen.

– Mười ngàn nghen.

– Dạ.

Rạch Cái Rắn đã ngoằn ngoèo quá chừng, hôm nay lại ngoằn ngoèo thêm, vì ngọn mắm, cành còng ngã đổ rải rác từ doi này tới doi kia. Trường Phú Hưng bị sập một dãy. Nhà Ba Khoan chỉ còn là đống lá vụn, vài cây róng thò ra như những cánh tay kêu cứu. Nhà con Hà cho mướn đồ cưới hôm nay trống phộc và vắng tanh. Bà Sáu Sen đang dọn dẹp trước căn nhà sáng trưng như chưa lợp mái.

– Tiêu rồi sao bà Sáu ?

– Dạ.

Vỏ lãi ghé bến nhà thờ. Điêu tàn ! Nhà thờ chỉ còn là đống lá. Nhà xứ và lớp học tình thương chỉ còn là hai bộ xương khô. Me, xoan, bạch đàn, thậm chí cây bàng tí hon cũng bị trốc gốc. Chỉ còn sót một cây, cây gừa vô duyên mọc bên cạnh chuồng heo bà phước. Mình nghĩ bụng : “Đêm nay ta sẽ ngủ ở đâu ?”.

May quá, căn nhà của bà phước lẽ ra phải sập thì lại còn đứng đó, khúm núm và xấu hổ vì… không còn kín đáo như hôm nào. Mình đi tìm bà phước để lấy tin tức. Chỉ thấy nước, rác và bàn ghế lổng chổng. Có bóng ai thấp thoáng bên cây me trốc gốc.

– Cha quản hạt đâu rồi ?

– Cha quản hạt đi thăm nhà giáo dân.

– Dì Chín đâu ? Ông thầy đâu ?

– Dì Chín và ông thầy đi với cha quản hạt.

– Nhà bị sập nhiều không ?

– Nhiều lắm. Ba Cảnh, Út Đáng, Sáu Quý, Út Vui, Mười Lợi, Huế Tài… biết bao nhiêu mà nói.

Thánh lễ chiều do cha quản hạt dâng ngay trong phòng khách nhỏ tí xíu của bà phước. Trên đầu chủ tế, mái lá để lủng một lỗ thật lớn. Qua lỗ hổng ấy mình thấy bầu trời vẫn đẹp như bao giờ. Lồng lộng và trong sáng. Quả vậy hồi nãy, sau một buổi đi thăm nhà sập, cha quản hạt tâm sự với mình :

– Nhà sập. nhưng mình thấy bà con vẫn cười vui vẻ.

– Như vậy là tinh thần chưa sập. Thế thì được.

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 4-11-1997

Sáng nay mình tiễn cha quản hạt về Cà Mau. Mình ghé qua bưu điện để gửi thư và nhận thư. Bưu điện đông nghẹt người ta. Có ai như Vũ Quang Nam ?

– Nam !

– Ồ ? Cha già !

– Ao Kho thế nào ?

– Nhà thờ thì hư hao chút đỉnh. Nhà giáo dân thì sập quá nhiều. Nghe nói Cây Bốm thì thảm thương lắm : nhà trường tình thương thì tanh bành, nhà giáo dân thì sập gần hết. Con tính gọi điện thoại báo tin cho ông già, rồi đi Cây Bốm xem sao.

– Cái Rắn thì te tua rồi. Cái Cấm thì chiều hôm qua có người về cho biết nhà thờ sập hoàn toàn, nhà xứ thì chỉ hư hao chút đỉnh …

– Thôi chào cha già nhá. Đến lượt con gọi điện.

Từ giã Vũ Quang Nam, mình lủi thủi đi về nhà thờ Quản Long. Cửa nhà xứ mở toang. Mười Râu đang ngồi ở phòng khách, nhão ra như một pho tượng đắp vội bằng sình non.

– Anh Tám ơi, bốn nhà thờ của em sập hết rồi. Còn em thì xíu nữa là toi mạng. Em đi vỏ từ Kinh Nước Lên về Kinh Ba ngay lúc đang bão… Em không biết lội…

– Nhà dân thì sao ?

– Kinh Nước Lên, Đất Mới, Kinh Ba và Rạch Chèo thì sập kể như trăm phần trăm. Chỉ còn lác đác mấy căn nhà đúc bêtông… Quần áo của em ướt nhẹp hết. Hôm nay ra Cà Mau phải mua áo thun để mặc. Cái quần này chịu ướt từ hôm thứ Bảy.

– Bà phước của cậu đâu rồi ?

– Cho về hết rồi. Có nhà đâu mà ở… Chiều ngày Chúa nhật, các bà chui hết xuống gầm sàn. Em bồng một đứa bé để cho mẹ nó chui xuống gầm sàn trước. Không hiểu tại sao em chỉ bồng có cặp giò, còn đầu nó thì cứ chúi xuống…

Sau một hơi tuôn ra hết nỗi kinh hoàng của cơn bão số 5, nỗi buồn của Mười Râu cũng tuôn ra hết, để lại một tâm hồn thanh quang như một bầu trời không mây. Mười Râu vung tay, giọng chắc nịch :

– Qua biến cố này, chúng ta phải tìm hiểu xem Chúa muốn nói gì với chúng ta.

– Sớm quá đấy. Cứ ghi khắc trong lòng và suy gẫm lần lần.

Trong bữa cơm chiều, mình thông tin cho các bà phước và ông thầy ở Cái Rắn hay về những thảm họa giáng xuống Hạt Cà Mau.

+ Sáu nhà thờ bị sập : Cái Rắn. Cái Cấm. Hòa Trung, Kinh Ba, Kinh Nước Lên và Đất Mới.

+ Nhà thờ Bảo Lộc bị lủng mái nhiều chỗ, không còn làm lễ được. Các phòng giáo lý bị lột mái 50%.

+ Nhà thờ Hòa Thành bị bể vài chục viên ngói. Nhà xứ bị lột vài tấm thiếc.

+ Nhà thờ Tắc Vân hư hao chút đỉnh. Phòng giáo lý bị lột mái vài chục phần trăm.

+ Huyện Sử chỉ hư hao chút đỉnh.

+ Khánh Hưng, U Minh và Bàu Sen chưa có tin chính xác.

+ Nhà thờ Quản Long mất vài viên ngói. Nhà bà phước mất bảy tấm tôn. Tôn bay xuống đường người ta lượm mất.

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 5-11-1997

Sáng nay mình mời HĐGX họp.

– Họ đạo mình bị sập bao nhiêu nhà ?

– Chừng 80%. 13 thành viên HĐGX thì chỉ có ba người may mắn.

– Cứ lo giúp nhau dọn dẹp và dựng đại cái chòi mà ở đỡ. Ngày Chúa nhật tới sẽ lo dọn dẹp nhà thờ, nhà xứ.

Bữa cơm trưa hôm nay vui hơn ngày Tết.

* Bà Tư Ngoan, một người lương dân đến thăm bà phước tặng hai trái ổi to bằng hai trái cam. Tình người chan chứa.

* Dì Út vừa ăn vừa vẽ tranh. Bức tranh ghi lại cơn bão số 5. Ông thầy, bố ông thầy và ba bà phước đang nằm co ro dưới gầm của một cái giường. Dì Út thuyết minh thêm : “Hai đầu gối dì Chín run lẩy bẩy, đập vào nhau lụp cụp”.

Thế đấy, qua cơn giông tố thì trời lại sáng. Sau cơn hoạn nạn, người ta lại thương nhau nhiều hơn.

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 6-11-1997

Sáng nay các dì kể chuyện. Có một người đàn bà sanh con ngay trong đêm bão. Nhà sập rồi, đành ra bụi trúc mà sanh.

– Ông cố biết ai đó không ? Mẹ con Mẹt, học trò của mình đấy.

– Vậy thì nên đặt tên cho bé là Linda, hoặc Số-năm. Dù bão số 5, dù đại hồng thủy cũng không tiêu diệt được sự sinh tồn của loài người.

  

  1. SAU CƠN BÃO SỐ 5

Cái Rắn, ngày 6-11-1997

Sáng nay mình đi thăm nạn nhân trên bờ Kinh Giữa. Đã bốn ngày nay rồi mà cây cối vẫn còn nằm ngổn ngang trên lối đi. Ai nấy lo dựng nhà cho mình và cho lối xóm, quên cả dọn dẹp trong vườn và ngoài ngõ. Mình trèo qua những thân cây bạch đàn lớn, nhảy qua những thân cây bạch đàn nhỏ, luồn dưới những bụi cây trâm bầu bị chém treo cành.

Ui da ! Ong ! Một con ong chích vội một phát vào cánh tay trên trắng nõn nà của mình rồi chuồn mất dạng. Mình dừng lại ngay. Bất động, để tránh sai lầm thêm, để dò tìm hướng tấn công của địch. Ngước nhìn lên một cách chậm chạp : một tổ ong chỉ ở cách đầu mình một gang tay. Rút lui thật nhẹ. Thua nhỏ để thắng lớn. Thở phào nhẹ nhõm. Rút kinh nghiệm chiến trường.

– Tại sao chỉ có một thằng đánh lén ?

– Tại sao địch ở thế lâm nguy như thế mà vẫn sinh hoạt tỉnh bơ : Hàng chục con ong cứ bò tới bò lui trên một mảng ô lục lăng to bằng ngón tay cái ? Lười biếng ? Vô trách nhiệm ? Ngu đần ?

– Không phải : thằng đánh lén là ong lính, có nhiệm vụ chiến đấu để bảo vệ; những thằng bò tới bò lui là ong thợ cần cù, có nhiệm vụ xây dựng. Việc ai nấy làm trong một cơ chế hoàn hảo tuyệt đối. Ta bị ong đánh là sai lầm của ta. Ong đánh ta và không đánh ta là túi khôn của trời đất.

Mình đem kinh nghiệm lượm được trên đường đi này để trao đổi với các nạn nhân bão số 5.

– Bà Bảy ơi, tôi vừa bị ong đánh nè.

– Ông cố bị ong đánh ở khúc nào vậy ?

– Ngay khúc nhà Ba Tấn.

– Tội nghiệp ông cố quá vậy ?

– Tôi ngu thì tôi chịu. Ai bảo đưa đầu vào ngay tổ ong làm chi !

– Ông cố này nói kỳ quá à. Ong đánh ông cố là nó ác nhân thất đức, chứ đâu phải là ông cố ngu. Ông cố mà ngu sao?

– Ừ đấy, ong khôn, tôi ngu; bão số 5 khôn, chúng ta dại. Bão tố là trật tự của thiên nhiên, còn ta không biết trước để đề phòng là ta dại.

Bà Bảy ớ ra, rồi đánh trống lảng sang chuyện khác.

– Ba mẹ con tui sập nhà hết trơn. Thằng Nhơn nó mới về tiếp cho được một bữa, hôm nay nó về Cái Nước rồi.

Đi được ba bước thì tới nhà Huế Tài, con rể bà Bảy. Huế Tài đang ngồi chon von trên nóc nhà.

– Tài ơi, bỏ đó đi, xuống đây chúng mình kéo vài hơi thuốc lào đã. Màn trời chiếu đất hai ngày nay rồi, dầm mưa dãi nắng thêm một ngày nữa cũng chẳng nhằm nhò gì.

Huế Tài trèo xuống, xách điếu cày ra, mồi thuốc cho mình.

– Ờ, thuốc lào của cậu ngon đấy. Đượm khói ra phết… Thùy, hôm bão, con chun vô đâu ? Sợ không ?

– Sợ

– Hỡi người yếu tin, tại sao các người sợ ?

– (Cười e lệ)…

Chắc là bé Thùy nhớ ra bài giảng của mình về phép lạ Chúa làm sóng gió im lặng. Hôm đó cha con mình làm một băng reo.

– Sợ là…

– Hèn.

– Sợ là ….

– Yếu tin….

Huế Tài thao thao bất tuyệt.

– Mấy ông già ở đây cứ hỏi con :

– “ở ngoài Bắc bị bão hoài, bão là gì ?”.

Nói hoài các ông cũng chẳng hiểu. Bây giờ con chỉ cần trả lời :

-“Bão là vậy đó”…

Khoa học của loài người còn dở quá. Bão như thế mà chỉ báo khẩn cấp có vài tiếng đồng hồ, thì bố tôi cũng không kịp chạy… Còn chuyện thiên tai như động đất, bão lụt là chuyện thông thường của thiên nhiên cũng như ngứa mũi thì hắt hơi.

Huế Tài thích triết lý lắm, nên mình cũng triết lý với anh ta cho quên nỗi lo của cơn bão số 5… .

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 9-11-1997

Ăn sáng vừa xong, cây tăm vẫn còn đang uốn éo trên hai ngón tay, thì có tiếng gầm gừ của vỏ lãi chạy bằng máy xe hơi. Cố Hiến vô. Quản Long vô. Mình vội chạy ra bến.

– Chào anh Ba. Chào Quản Long. Ê, có Manu (bà quản lý dòng Chúa Quan Phòng) nữa nè .

– Có dì Mười nữa (bà Giám tỉnh dòng Chúa Quan Phòng).

– Chào dì Mười. Dì Mười mà không xuống thăm Cái Rắn, thì tôi sẽ gọi là dì ghẻ. Người ta nói “chết cha còn chú, sểnh mẹ bú dì”. Cha, chú, mẹ chết hết, chỉ còn một mình dì Mười đó thôi.

– (Cười tủm tỉm) Hôm bão con đang ở Vũng Tàu, chứ nếu không thì xuống đây còn sớm hơn nữa.

– Vâng. Cái Rắn là con cưng của dì Mười ?

– Hổng cưng đâu. Cộng đoàn nào cũng như cộng đoàn nấy…

– Nói vậy mà không phải vậy. Đứa nào cực khổ thì thương hơn chứ.

Hôm nay Cái Rắn vui như Tết và đông như hội chợ. “Chị Quản Long” thì gò tôn, nối kèo, dựng lại và lợp lại căn nhà ba phòng (lớp tình thương. lớp giáo lý và lớp cắt may). “Em Cái Rắn” thì dọn dẹp nhà thờ đổ nát và lợp lại mái nhà xứ. Cha Quản hạt, dì Mười, dì Manu, dì Chín và mình thì lấy vỏ lãi làm một vòng Kinh Giữa, Biện Tràng, Kinh Cùng, Kinh Thổ và Đập Vườn để thấy tận mắt nỗi đau thương và cảnh tan nát của Cái Rắn.

Chỉ trong một ngày, đống đổ nát đã cuốn gói đi theo bão số 5 . Đi về đâu ? Không biết. Chỉ biết nhà xứ bây giờ ấm cúng như xưa, nhà trường lại khang trang như thuở nào và tình người thì chan chứa. Bão số 5 thì đi, còn tình người thì đến. Bão đến rồi đi. Tình đến rồi ở lại.

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 11-11-1997

Hôm nay Nữ tử Bác ái từ Sàigòn xuống. Áo xanh, áo xanh và toàn là áo xanh. Màu xanh dương sậm vừa khiêm tốn như nô tỳ, vừa thật thà, hiền hậu như nàng thôn nữ vùng sâu. Chiếc vỏ lãi gầm lên như con hổ nổi giận, cày xới dòng sông Gành Hào một cách không thương xót, nhưng lại làm vui lòng người Sàigòn, bạn thân của tốc độ.

Sàigòn, Cà Mau, Cái Rắn, Cái Nước, Đồng Cùng, Kinh Nước Lên, Đất Mới, Kinh Ba, Cái Cấm, Cà Mau, Tân Lộc và Sàigòn… trong vòng ba ngày. Mệt gần đứt hơi, nhưng người con gái của thánh Vinh Sơn vẫn còn thèm thuồng.

– Có đi Năm Căn không cha ?

– Xa lắm, đi không kịp đâu ?

– Bác Ái Vinh Sơn không quên Năm Căn được. Chúng con đã đến đó. Chúng con sẽ trở lại đó.

Bác ái Vinh Sơn là như vậy. Họ đã đến Năm Căn vì Năm Căn lúc ấy nghèo như ông Gióp. Họ muốn trở lại Năm Căn vì Năm Căn là khởi điểm để đi đến với người nghèo. Yêu người nghèo. Yêu Năm Căn. Yêu dai như đỉa… Và bây giờ thì yêu nạn nhân của bão số 5.

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 14-11-1997

Mình theo cha Quản hạt tháp tùng đoàn cứu trợ từ Sàigòn xuống. Đi suốt hai ngày, nối tiếp hai ngày. Mệt đứ đừ. Đoàn gồm nhiều thành phần đến độ nhớ không nổi.

– Mười Râu ơi, bà nào cao như ông Tây đó ?

– Chị Thu, giám đốc khách sạn Continental.

– Chị ở dòng nào vậy ?

– Con ở Mân Côi, Chí Hòa.

– Còn chị ?

– Dòng Đức Bà.

– Không phải, dòng chim chư ù, một ông thầy Đa Minh chen vào.

– Còn bác ?

– Con thuộc giáo xứ Xây Dựng, còn ông này thì ở bên Vườn Xoài. Chúng con ở trong nhóm Đoàn Kết.

– Còn chị thì tôi biết rồi : dòng thánh Phaolô. Chúng tôi có nhiều kỷ niệm về dòng thánh Phaolô. Các chị ở số 4, chúng tôi ở số 6 đường Cường Để…

Mình tự hỏi : nếu không có cơn bão số 5, thì những khuôn mặt lạ hoắc này có đến vùng cuối Việt này không nhỉ ? Nếu không có nhà sập, thì liệu họ có biết mình và thương mình không nhỉ ? Mình mất một nhà thờ, một nửa nhà xứ, một nửa trường học…. nhưng lại được vô số tình yêu. Như vậy thì lời hay lỗ ? Cứ sau một tai họa khủng khiếp, một trang sử lại lật qua, trang sử của một người, của một tập thể… Mình sực nhớ lời Mười Râu phát biểu ngày 4-11-1997 vừa qua : “Chúng ta phải tìm hiểu xem Chúa muốn nói với chúng ta điều gì qua biến cố này ?”. Đúng vậy, có một trang sử nào đó đang được Chúa lật qua…

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 15-11-1997

Hôm nay P.P. từ Sàigòn xuống thăm Cái Rắn. P.P. đã làm mình sửng sốt nhiều phen : cánh tay thật dài, vòng tay thật rộng. Khiêm nhu như cây cỏ. Âm thầm như bóng đêm. Lặng lẽ như gió thu. Mình gửi Fax cho P.P. ngày 5-11, thì ngày 7-11 mình đã nhận được quà cứu trợ của P.P.: món quà lớn nhất, sớm nhất, nhưng cũng âm thầm nhất, vị tha nhất.

P.P. sống trong một gia đình nửa Phật nửa Chúa. Bởi vậy P.P. từ bi theo Đức Phật, vị tha theo Đức Giêsu. P.P. biết mình một cách tình cờ. Mình đến với P.P. một cách ngẫu nhiên. Có một bàn tay vô hình nào đó đang lần mò và nối ráp khoảng cách tưởng như vô cùng giữa mình và P.P. Mình thầm mơ ước trên đời này có thật nhiều P.P. để chúng sinh bớt khổ đau, tiếng rên la của loài người không còn ai oán…

Trong thánh lễ chiều nay, mình cầu nguyện cho P.P. thật nhiều để tỏ lòng biết ơn, nhớ ơn và đền ơn.

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 16-11-1997

Hôm nay Mến Thánh Giá và giáo xứ Tân Lập đến với Cái Rắn. Người ta kể rằng : “Những bao quần áo cũ ấy được các bà hiền mẫu ủi suốt đêm”. Như thế có nghĩa là nạn nhân bão số 5 không bị thương xót mà được kính trọng và yêu thương. Mình hân hoan đón nhận tình yêu, nhưng quyết liệt từ chối lòng trắc ẩn. tình yêu là trao tặng, trắc ẩn là bố thí.

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 17-11-1997

Sáng nay mình tới UBND xã để trao đổi về việc sửa chữa khẩn cấp của ngôi trường bị sập. Bốn trường trong ấp bị sập hoàn toàn. Hơn sáu trăm học sinh bơ vơ như trẻ thơ không mái ấm. P.P. giúp 20 triệu, xã phụ thêm 7 triệu. Thế là một ngôi trường đầu tiên được phục hồi sau cơn bão số 5. Mái trường sẽ đẹp hơn và ấm hơn. Ông Chủ tịch tâm sự :

– Hôm qua có một phái đoàn cứu trợ đến tặng quà. Bà con giành giật mất trật tự quá xá. Người thì được hai ba bọc, người thì chẳng được tí gì, chửi bới um sùm. Mất thể diện quá !

Đó là quy luật. Cung-cầu không cân bằng thì gây xáo trộn.

Cầu quá lớn mà cung quá nhỏ thì gây nên đại họa. Luật cung-cầu này không chỉ đúng trong lãnh vực kinh tế mà còn đúng cả trong lãnh vực tôn giáo và đạo đức nữa.

Năm 1989 mình đến thăm một họ đạo thuộc tỉnh Phú Thọ. Cha xứ mời mình ngồi tòa. Tòa giải tội rung rinh như có động đất. Mình đứng dậy ra quan sát tình hình. Thật là khủng khiếp. Thật là quái gở. Một rừng người chen lấn nhau một cách hổ lốn. Tại tòa có ba người cùng quỳ : người ở giữa thì xưng tội, người ở bên tả bên hữu thì lấy ngón tay trỏ thọc vào lỗ tai, để khỏi lỗi ấn tòa. Cả hai đều ở thế tấn công để chiếm ngay vị trí của người vừa xưng tội xong…

Có một người đàn ông bốc vội thằng cu tí bỏ ra ngoài, để chiếm chỗ của nó : “Mày là trẻ con. có tội gì nặng đâu mà xưng. Mười năm nay tao chưa được xưng tội” .

Giận quá ! Nhưng suy cho cùng thì đó cũng chỉ đơn giản là luật cung cầu. Linh mục ngồi toà thì quá ít, mà giáo dân muốn xưng tội thì quá nhiều. Có người trong suốt hai thập niên chỉ được giải tội tập thể mà thôi.

Mình vẫn còn ghi khắc một kỷ mệm nữa về luật cung-cầu, ở bến xe Cà Mau, trong thời xe cộ khan hiếm. Chỉ có môït chiếc xe cà tàng sửa soạn đi Cần Thơ, thế mà hành khách thì đông như hội chợ. Bộ đội có, ông già có… thậm chí bà bầu cũng có. Trập trùng. Lố nhố. Bỗng có một ông thầy tu khoẻ mạnh len lỏi, luồn lách, lạng bên phải, lạng bên trái, bất chấp ông già, bà bầu. Ổng lọt vào được cửa xe, chạy vội ra khung cửa sổ kêu ơi ới :

– Dì Tám ơi ! Lại đây nè !

Thế là ông lôi bà phước chui qua cửa sổ, chiếm gọn ngay một băng hai, rồi cười sung sướng như kẻ vừa chiến thắng vẻ vang. Đấy khi cầu quá lớn mà cung quá nhỏ, thì một ông thầy tu, một bà phước… cũng sẵn sàng “mất nết” một cách vô tư như thế.

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 20-11-1997

Hôm nay mình gửi cho xã 500 phần quà. Mỗi phần quà gồm có một bọc quần áo cũ, mới, vài ba bao mì ăn liền… và một bọc 5 ký gạo. Bảy ấp cho người đến nhà thờ lấy về phân phối cho nạn nhân. Riêng ấp Cái Rắn A thì phát tại chỗ.

Khi bọc quần áo thứ 73 được trao cho ông trưởng ban thì trong kho có tiếng la :

– Hết.

– Như vậy là thiếu 27 bọc quần áo. Bọc gạo thì còn dư nhiều lắm. Bây giờ tính sao đây ông cố ?

– Bây giờ ai đồng ý thì lãnh một bọc gạo nữa thay cho bọc quần áo. Ai không đồng ý thì chờ ít ngày nữa.

– Tôi cần quần áo : rách hết, bay hết rồi. Gạo thì tôi chưa cần. Ở nhà tôi còn năm giạ lúa nữa.

– Còn tôi thì đồng ý lấy hai bọc gạo.

Có tiếng trẻ con khóc oà lên. Dòm lại, mình thấy một thằng cu tí chừng sáu tuổi đang khóc thổn thức. Mình hỏi mẹ nó:

– Tại sao nó khóc vậy ?

– Nó khóc vì không được lãnh quần áo. Nó chỉ có một cái áo này là coi được.

Tiếng khóc của trẻ thơ làm mình xót xa. Mơ ước của nó thật là nhỏ bé… thế mà bỗng trở thành không tưởng. Tại sao trẻ thơ phải khổ đến thế nhỉ ? Mình không ngăn được giọt lệ. Chạy trốn về phòng, đóng cửa lại, khóc một mình.

Bão số 5 giật sập nhà thờ, lột mái nhà xứ…, mình không hề nao núng. Thế mà hôm nay mình không cầm lòng được khi thấy những người đàn bà kẹp ở nách một cái bao ni-lông xẹp lép, ra về một cách tuyệt vọng, giận hờn… Vết chém của bão số 5 nhanh quá, không kịp đau. Bây giờ mới thấm.

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 21-11-1997

Đức cha Mẫn đã đến Cà Mau từ chiều hôm qua. Mình buột miệng nói với ngài :

– Muốn mời Đức cha vô thăm Cái Rắn quá sức mà vẫn cứ phân vân.

– ? …

– Sợ một ảo tưởng. Người ta nghĩ rằng Đức cha sẽ cho nhiều tiền lắm. Người ta sẽ bu quanh Đức cha, kéo áo Đức cha và… Đức cha không có đường rút…

Mình liên tưởng đến một con cò mẹ có một bầy cò con. Cứ mỗi lần cò mẹ mỏi cánh tha mồi về tổ, thì cả bầy cò con há mỏ chờ đợi. Quạc, quạc. Nhưng chỉ có một đứa được toại nguyện. Cò mẹ lại bay đi. Những cái mỏ mở toang hoác vẫn còn đó. Hy vọng và tuyệt vọng.

Ngồi nói chuyện lan man với Đức cha, mới thấy bão số 5 đẻ ra vô số vấn đề.

– Có một người đàn bà than thở với bạn : “Bên Công giáo các chị được Ông Chúa báo trước, nên không ai chết chìm. Bên đạo chúng tôi chết nhiều quá !”

– Chuyện gì nữa vậy ?

– Ở vùng Duyên Hải, Vũng Tàu, Phước Tỉnh… giáo dân đi khơi đều kéo nhau về hết từ ngày 1-11 để dự lễ Các Thánh Nam Nữ và Các đẳng Linh hồn. Nhờ đó mà thoát chết.

– Ở Cái Rắn cũng có tiếng đồn : “Trời thương bà phước hơn ông cha. Mái nhà ông cha lợp bằng fibro thì bể hết. Mái nhà bà phước lợp bằng lá thì còn nguyên. Hai cây me mọc ở hai góc nhà bà phước đều đổ ra phía ngoài” .

– Bão mà cũng biết phân biệt đối xử sao ta ? Sở dĩ cây me đổ ra phía ngoài, vì theo bản năng sinh tồn, nó đưa hết rễ ra phía

ngoài, vùng đất có nhiều muối khoáng và nước. Nhất nước, nhì phân mà. Đất nền nhà vừa khô vừa chua. Thế là mạnh phía ngoài và yếu phía trong. Hai cây me này giỏi về mặt kinh tế và dở về mặùt quốc phòng. Nhờ thế mà bà phước thoát chết.

Bão số 5 ơi, mi đã đến và mi đã đi, không kèn không trống. Mi không nhiều lời, mà tại sao loài người nhiều lời đến thế ?!

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 23-11-1997

– Ông cố ơi, Đức cha tới !

– Chết rồi, không kịp chuẩn bị gì hết !

Mình vội chạy ra bến. Áo thun cụt tay. Có ai đó đang kè Đức cha từ dưới vỏ lên.

– Đêm qua mưa, khí hậu ẩm thấp, chân tôi lại sưng lên và đau khớp.

Đức cha chỉ kịp ăn cơm trưa. Bữa cơm giản dị dưới mức trung bình. Ăn xong Đức cha lại xuống vỏ đi thăm Khánh Hưng và Thời Hưng. Ngài nói thật nhỏ bên tai mình :

– Tôi có chút quà gởi cho bà con. Mai cha ra Cà Mau mà lấy.

Tình yêu của một người cha nhưng lại khéo léo như tình yêu của một người mẹ. Tình yêu âm thầm. Tình yêu dấm dúi.

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 26-11-1997

Chiều hôm nay mình đang dâng lễ thì có khách : khách Sàigòn, khách Vườn Xoài. Toàn là phụ nữ, trừ một người vừa to vừa cao. Nghỉ đêm. Muỗi như trấu, lì như trâu, cắm vòi xuyên qua quần jean, xuyên qua chiếu dày. Người đẹp mất ngủ.

Sáng nay, các bà nhao nhao lên :

– Cha cho tụi con đi thăm bé Linda, bé ra đời vào đúng lúc bão giật sập nhà.

– Nhà nó ở xa lắm.

– Ông cố ơi, mẹ con nó về ở nhà ông nội rồi. Gần lắm Rồi, con đưa các bà đi thăm mẹ con nó.

Các bà đua nhau bồng Linda và khen bé xinh. Tặng quà lia chia. Thăm hỏi rối rít và… le lưỡi vì Linda là đứa con thứ tư của một người mẹ trẻ như con gái !

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 27-11-1997

Chiều nay khách đến rất đông : Mặt trận xã, Liên hiệp Phụ nữ xã, Dân chính ấp… Đề tài trao đổi là cứu trợ. Chuyện ngoài lề là những tiếng than : than vì chưa được cứu trợ; than vì được cứu trợ ít quá; than vì kẻ được người không. Cán bộ oán trách dân. Dân oán trách cán bộ. Người cứu trợ oán trách nạn nhân. Nạn nhân xâu xé người cứu trợ… Khổ ơi là khổ !

Cũng chỉ vì thiên tai của một thế kỷ; thống khổ của một trăm năm !

Vết thương của bão số 5 vẫn còn lở loét, nhưng rồi sẽ khép miệng và mọc da non. Bĩ cực rồi thái lai. Cứ chịu đựng và chờ đợi.

——————————————————————————–

 

Cái Rắn, ngày 7-12-1997

Lớp Thần học Nguyễn Văn Bình đến đây từ tối hôm qua, nhưng vì tối tăm và lấm lem, nên sáng nay chủ và khách mới nhìn rõ mặt nhau. Xơ Thảo ở đường Nam Kỳ Khởi Nghiõa trao cho mình một lá thư và một gói quà cứu trợ. Bao giờ mình cũng nhận quà cùng với nụ cười của người trao tặng. Hôm nay thì không. Mình chờ nụ cười duyên dáng của xơ Thảo. Tuyệt vọng ! Dường như xơ Thảo đang ấm ức điều gì đó. Giận mình chăng ? Không. Hận đời chăng ? Có lẽ thế. Lá thư nhảy nhảy trong bàn tay run run của xơ Thảo :

Ngày 4-12-1997

Kính gửi cha,

Thưa cha, chúng con là một nhóm bạn trẻ khuyết tật, vào đời với đôi chân khập khễnh. Sau hơn bốn năm phấn đấu sống tự lập nuôi bản thân. Hằng ngày chúng con sống bằng nghề may, thêu, buôn bán nhỏ, dạy học.

Chúng con có dành dụm được một số tiền để chống dột căn nhà chúng con đang ở. Nhưng vào thời điểm này, chúng con biết được một số lớn đồng bào ở Hậu Giang bị cơn bão số 5.

Đứng trước cảnh đau thương đó, chúng con cũng là những người bất hạnh. Chúng con ước mong có thật nhiều tấm lòng hảo tâm cùng góp sức để xoa dịu nỗi đau của đồng bào Hậu Giang, giúp họ sớm ổn định cuộc đời.

Chúng con xin kính nhờ cha chuyển giúp số tiền 5.000.000 đồng (năm triệu chẵn) chúng con có, đến quý đồng bào đó.

Chúng con cám ơn cha và kính chúc cha một cuộc sống bình an.

Kính chào cha,

Thay mặt nhóm trẻ khuyết tật

Nguyễn Thị Mai

Đọc xong lá thư và nhìn năm triệu đồng nằm trần trụi trên bàn, mình cảm thấy tim thắt lại. Bây giờ mình mới hiểu cái ấm ức của xơ Thảo.

Các xơ đồng trinh. không sinh con, nhưng lòng mẹ của các xơ vẫn dạt dào như biển Thái Bình. Lòng mẹ ấy đùm bọc, nâng niu và nuôi nấng hàng trăm, hàng ngàn những đứa trẻ bất hạnh “vào đời với đôi chân khập khễnh . Dành dụm, chắt chiu mãi vẫn chưa sửa lại được mái nhà dột nát thì… đùng một cái, bão số 5 ập tới. Số người bất hạnh lại tăng lên hàng vạn, hàng triệu.

Những đứa con bất hạnh của các xơ lại phải quên cái bất hạnh ngổn ngang của chính mình, để cứu vớt những kẻ bất hạnh khác. Đau khổ thì trùng trùng điệp điệp. Bất hạnh thì tầng tầng lớp lớp. Thế mà vẫn có những người thờ ơ và tỉnh bơ… ném tiền qua cửa sổ. Lòng mẹ bao la đối với con cái, nhưng lại nhỏ hẹp đối với những người lòng chai dạ đá.

Hiền như ma-xơ, nhưng cũng ấâm ức và hậm hực như ma-xơ, vì đời trớ trêu. vì đời bất công và vì… con của ma-xơ đã quá khổ, mà nay lại phải khổ thêm.

——————————————————————————-

Sàigòn, ngày 8-12-1997

Hôm nay mình đi Sàigòn. Lá thư của Nguyễn Thị Mai vẫn được cất kỹ một cách trang trọng trong cuốn Giờ kinh Phụng vụ. Đọc kinh tối xong, mình lại đọc lá thư của Nguyễn Thị Mai, đại diện cho nhóm bạn trẻ khuyết tật “vào đời với đôi chân khập khễnh”. Hôm qua đọc lá thư này, mình thấy xơ Thảo hậm hực, ấm ức. Hôm nay đọc lại thư này, mình thấy Nguyễn Thị Mai bừng lên như ngọn đuốc. Hôm qua đọc lá thư này, mình thấy đời là đống đổ nát, tàn tạ. Hôm nay đọc lại thư này, mình thấy trên đống hoang tàn bỗng mọc lên một bông hoa lạ, hương thơm ngào ngạt, tỏa lan theo làn gió mơn man.

Cám ơn Nguyễn Thị Mai. Cám ơn các bạn trẻ khuyết tật “vào đời với đôi chân khập khễnh”. Ngợi ca các bạn, vì các bạn không còn khập khễnh vào đời, mà đã dẫn đời vào con đường trơn nhẵn của tình yêu. Xin tặng các bạn “bông hoa lạ trên đống hoang tàn”.

——————————————————————————–

Sàigòn, ngày 9-12-1997

Mình tản bộ tà tà về phía đường Kỳ Đồng ngang qua nhà ga Hòa Hưng. Một chiếc xích lô lách vội một cái để tránh vũng nước, quệt vào cánh tay mình. Ui da ! Cái đụng hơi đau ấy lại do một cái hang đá to đùng chất đầy chiếc xích lô… Thì ra Noel đã gần tới rồi !

Đã qua hai tuần Mùa Vọng mà mình chưa hề nghĩ đến lễ Giáng Sinh. Cả tâm lẫn trí cứ lang thang từ cứu trợ đến cứu trợ. Có một ông bạn hỏi mình :

– Lễ Giáng sinh năm nay anh chọn chủ đề nào ?

– Chưa có trong trí khôn.

– Vậy năm nay anh tổ chức lễ Giáng sinh như thế nào ?

– Chưa biết. Chỉ biết chắc là không có văn nghệ. Ông thầy và bà phước bù đầu vào công tác cứu trợ, không còn giờ nào để tập ca, tập múa.

– Vậy thì năm nay Giáng sinh sù ?

– Không sù. Giáng sinh năm nay là bác ái : dựng nhà giùm cho nhau, tặng cho nhau những cây tràm cụt đầu, những cây so đũa bị chém treo cành, những tàu lá xác xơ, chia sớt cho nhau những lon gạo vơi đầy… Họ đạo Cái Rắn đã chuyển đến nạn nhân bão số 5 hơn 2.000 phần quà, 50 triệu tiền mặt, dựng lại hai ngôi trường trị giá mỗi ngôi trường là 20 triệu. Chánh quyền địa phương phụ vào mỗi ngôi trường 7 triệu… Và công tác cứu trợ vẫn còn tiếp tục, vì những tấm lòng quảng đại từ khắp nơi vẫn chưa cạn nguồn… Đó là Giáng sinh 1997 của chúng tôi… Được chưa ?

– Tạ ơn Chúa.

– Và Giáng sinh 1997 của chúng tôi còn có nhóm bạn trẻ khuyết tật “vào đời với đôi chân khập khễnh”. Tuyệt vời !

  1. AGAPÊ : ĂN VÌ YÊU, ĂN ĐỂ YÊU….

Cần Thơ, ngày… 1969

Sáng nay cha sở giơ tay ngoắt mình theo kiểu Tây :

– Piô… Nói nghe nè !

– Có chuyện gì đó ông Chín ?

– Tối nay nhà mình có tiệc. Piô chuẩn bị tiếp khách dùm tôi. Tiếng Pháp thì tôi rành, còn tiếng Anh thì… Piô ráng nghe !

– Eo ơi ! Con sợ lắm ! ông Chín nói tiếng Pháp như ngỗng ỉa. Còn con thì nói tiếng Anh như gà mắc dây thun !

– Cố gắng ! Kinh nghiệm của tôi đó : “Mọi vấn đề quan trọng đều được giải quyết trên bàn ăn”.

Câu nói của cha sở bắt mình suy nghĩ. Chắc mình sẽ nhớ mãi cho đến chết : “Mọi vấn đề quan trọng đều được giải quyết trên bàn a¸n”. Lần đầu tiên trong đời, mình được ăn cơm Tây, với Tây và chỉ nói tiếng Tây. Ăn cơm Tây thì lạt miệng. Nói tiếng Tây thì mỏi tay. Mình vác khổ giá gần ba tiếng đồng hồ. Nhưng có một điều chắc chắn là cây khổ giá nở rất nhiều hoa. Ban đầu người ta cụng ly một cách hữu ý, nhưng vô tâm và vô tình. Đến ly hậu bôi, thì tình người đã đầy tràn chan chứa. Chủ khách siết tay giã từ nhau một cách thắm thiết. Lời giã từ “See you again” (hẹn gặp lại), nghe âm ấm như có linh hồn…

Khi chiếc xe cuối cùng đã ra khỏi cổng nhà thờ, cha sở quay lại bắt tay mình :

– Bonne nuit, chúc Piô ngủ ngon. Chúng ta thành công.

– Good night. Chúc ông Chín ngủ ngon.

——————————————————————————–

Đồng Cùng, ngày… 1973 .

Hôm nay mình đưa bà mẹ Catherine và dì Ba Gertrude vào thăm ông Năm Hiếu. Ông Năm là nhân vật nổi tiếng ở đây. Ông quyết tâm cầm khách ở lại.

– Ông cha, bà mẹ đến thăm tôi, tôi đội ơn. Nhưng chưa ăn với tôi một bữa cơm thì tôi kể như chúng mình chưa gặp nhau bao giờ.

– Ông Năm khó vậy sao ? Vậy thì tôi xin thua.

Món ăn chính là rùa nướng. Ông năm lôi bộ lòng ra, lấy tay ngắt từng khúc ruột, bỏ vào chén của từng người khách. Hai bà phước đưa mắt dòm mình, ý muốn xin “cứu bồ”. Mình lờ đi. Thanh toán xong phần của mình, mình khích lệ :

– Bà mẹ ăn đại đi, trong đó có tình yêu đấy. Nếu không ăn thì ông Năm giận đến đời đời.

Hai bà phước sợ ông Năm giận thật, nên vội vàng gắp hai khúc ruột lòng thòng bỏ vào miệng, rồi thầm thĩ cầu nguyện… Chắc Chúa đã nhậm lời, nên hai bà được bình an vô sự…

Thấy thế, ông Năm mừng quá đỗi. Ông lôi ra một bộ lòng nữa. Lại lấy tay ngắt ra từng khúc và lại bỏ vào chén khách. Thấy hai bà phước tái mặt, mình ra tay tế độ :

– Ông Năm cho tôi hết đi. Cho bà phước ăn thịt rùa khác nào cho chim cú đậu cành mai.

Dì Ba chắp tay xá mình lia lịa và ngỏ lời tri ân :

– Cám ơn cha !

Về tới nhà, hai bà phước vẫn còn rùng mình, nhưng tràn ngập niềm kiêu hãnh, vì đã dám ăn để yêu. Một kỷ niệm không quên !

——————————————————————————–

Cà Mau, ngày…..

Anh Ba Hiến vừa leo cầu thang vừa la oang oang :

– Bắt được con chuột rồi, mời “xóm biên đình” qua Quản Long dự tiệc mừng.

– Bắt được con chuột mà cũng ăn mừng sao ?

– Kiếm cớ để anh em gặp gỡ, chia sẻ tâm tình. Chúng ta khổ quá rồi, lâu lâu phải ăn với nhau một bữa cơm…

Một sáng kiến thương quá là thương ! Linh mục là người cô đơn, cô đơn phía trên, cô đơn phía dưới.

Phía trên là Giám mục, thì một năm chưa chắc đã có được một lần tâm sự.

Phía dưới là hằng ngàn giáo dân, nhưng chưa chắc đã có được một người bạn nối khố.

Bây giờ chỉ còn phía bên hông là giữa anh em linh mục với nhau, nếu không tạo thời cơ để ngồi ăn với nhau, thì chưa chắc đã ngồi lại mà trao đổi và chia sẻ công tác mục vụ với nhau.

Chuột ơi, hãy đến hoài hoài, để anh em linh mục ăn với nhau và thương nhau mãi mãi.

——————————————————————————–

Sài Gòn, ngày 8-4-1996 .

Hôm nay mình lên Sàigòn để tái khám. Muốn đi tái khám thì phải đến 36 Tú Xương. Hồ sơ của mình để ở đó. Cổng đóng im ỉm.

– Leng keng… leng keng…

– Cha !

Một bà ngoại tám mươi ba tuổi nắm lấy tay mình :

– Mời cha vô trong kia. Nhà mình mà !

Mình vô nhà cơm. Bữa cơm đã tàn. Bắt đầu tráng miệng. Xoài tượng và nước mắm đường. Sáu quả xoài tượng to tổ bố. Những miếng xoài to và dày như lưỡi trâu. Gần hai chục bà phước ăn xoài xanh. Im phăng phắc. Thời gian như ngưng đọng. Không gian như hư vô. Bề trên ăn, bề dưới ăn. Thể xác ăn, linh hồn ăn. Ăn với tốc độ và nồng độ như nhau. Hạnh phúc là thế. Thiên đàng là đây. Mình nói với chị Camille :

– Một agapê tuyệt vời. Egalité (bình đẳng) và fraternite ù (huynh đệ) tuyệt đối. Không còn phân biệt trên dưới, già trẻ. Tất cả chỉ là một. Cái kết quả cao quí khôn lường ấy lại được trả bằng một cái giá rẻ mạt không ngờ : sáu trái xoài tượng.

Xây dựng hạnh phúc cộng đoàn nhiều khi phải xoay trở đến toát mồ hôi, mà cuối cùng vẫn phải “anh đi đường anh, tôi đi đường tôi”. Thế nhưng, nhiều khi hạnh phúc ấy lại đến ngồi chờ ở cổng nhà ta. Vấn đề chỉ còn là mở cổng hay không. Cũng thế, nhiều khi ta phải trị bệnh bằng đại phẫu tốn cả cây vàng, mà cuối cùng chỉ còn là một sự sống vật vờ trong một thân xác không toàn vẹn. Trong khi đó bệnh ấy chỉ cần trị bằng một nắm dược thảo mọc hoang dại trong vườn nhà.

——————————————————————————–

Cà Mau, ngày….

Hôm nay anh em ngồi chia sẻ những nỗi đoạn trường của đời mục vụ. Vạn sự khởi đầu nan vẫn là cái hộ khẩu. Nhưng cái nỗi gian nan khổ ải ấy lại qua đi như mây bay nhờ một agapê, một bữa cơm thân ái.

Hôm ấy Tư Vinh đưa Mười Râu đi “gãi tai” để kiếm cái hộ khẩu.

– Tụi con ở đây biết bao lâu rồi. Ông Hai biết tụi con quá rồi mà. ông Hai cho anh Mười nhập khẩu đi.

– Để đó… để đó. Tụi bay nhậu với tao một cái đã, rồi tao tính sau.

Trời đã xâm xẩm tối. Tư Vinh nhìn Mười Râu. Mười Râu nhìn Tư Vinh. Tiến thoái lưỡng nan… Nhưng không lẽ lại về tay không ?

– Chơi luôn ! Mười Râu cười với Tư Vinh, buông thõng một câu.

– Bưng đồ ăn lên đây. Đem rượu ra. Chơi cho hết tình hết nghĩa.

Tợp một cốc rượu, gắp một miếng mồi. Tình yêu nhích lên một chút. Tợp một cốc nữa, gắp một miếng nữa. Tình yêu lớn lên như thổi.

Tư Vinh và Mười Râu chịu chơi, nhưng không dám chịu chết. Hai anh làm bộ say gục đầu xuống bàn. Ông Hai bí thư xã dìu hai anh vào giường… Có một dấu hiệu khả nghi. Ông Hai quày trở lại, vén mùng, lấy ngón tay khều khều ở hai ổ nách Tư Vinh và Mười Râu.

– Hí… hí…

– À chưa chết ! Ra đây chịu tội.

Hai tên”đào ngũ” lồm cồm bò ra chịu tội. Một lát sau, ngựa lại về đường cũ. Ông Hai lại nghi ngờ, lại rờ hai ổ nách. Nín khe. Thở phò phò…

– Chết thiệt rồi.

Ông Hai bí thư tấn mùng cho khách một cách cẩn trọng và trìu mến… Sáng hôm sau, ông lấy giấy ra, ký xoẹt một cái. Thế là xong. Mười Râu ôm lấy cái chữ ký kềnh càng của ông Bí thư như ôm một hũ vàng.

  1. SAU MỘT CUỘC GẶP GỠ

Cà Mau, … 1977

Hôm nay mình đến thăm mục sư Xuân Phong và tặng ông cuốn Thánh Kinh mới toanh. Mình hãnh diện khoe với ông :

– Theo tôi, đây là bộ Thánh Kinh sáng giá nhất từ trước tới nay xét cả về kỹ thuật ấn loát, lẫn về khoa chú giải.

Mục sư Xuân Phong cầm bộ Thánh Kinh ngắm nghía hồi lâu rồi lần giở một cách trang trọng. Bỗng ông như giật mình và nói một cách thảng thốt :

– Một bộ Thánh Kinh lớn lao như thế này tại sao lại chỉ có một mình linh mục Nguyễn Thế Thuấn dịch và chú giải ? Tại sao lại không có một ủy ban dịch thuật ?

Mình cụt hứng và đánh trống lảng sang chuyện khác. Câu chuyện cứ lan man mãi từ văn hóa, khoa học, chính trị, rồi lại vòng trở về vấn đề truyền giáo và Thánh Kinh. Mình khen Tin Lành :

– Bên Tin Lành của mục sư giàu quá, Thánh Kinh in hàng triệu cuốn và tặng không cho tín đồ.

– Công giáo giàu hơn Tin Lành nhiều. Nhưng bên đó có bao nhiêu tiền thì bỏ ra xây tháp chuông và mua chuông hết rồi, còn tiền đâu mà in Thánh Kinh nữa.

Mình lại cụt hứng và lại đánh trống lảng.

Sau cuộc gặp gỡ, mình thấy có cái gì nghèn nghẹn ở cổ. Mình còn nhớ khi còn là sinh viên Đại Chủng viện có lần thầy Bùi Châu Thi đã than thở ngay trong lớp học :

.“Cử nhân Thánh Kinh thì Giáo hội Việt Nam có hằng rổ. Nhưng không ông nào chịu ngồi lại với nhau để cùng làm công tác dịch thuật. Cứ mạnh ai nấy làm. Cứ đèn nhà ai nấy rạng. Lẽ ra Hội đồng Giám mục phải làm được chuyện này. Thế nhưng không hiểu tại sao các đấng lại không làm ? “

Niềm tâm sự của thầy Thi đã ám ảnh mình mãi mãi. “Không ông nào chịu ngồi lại với nhau”. Đó là một sự thật, một sự thật đau buồn. Vì thế vừa khi nhận trái pháo đầu tiên của ông mục sư, mình kéo cờ trắng liền, không một phát súng kháng cự.

Bộ Thánh Kinh Giêrusalem, TOB đều có cả một ban cố vấn, dịch thuật thật hùng hậu… Nhưng ở đây thì không. Có người dù không chuyên môn cũng đem hết khả năng để dịch, để xuất bản một cuốn Thánh Kinh toàn bộ. Sách đã được bán hết. Nhưng chắc không độc giả nào nghĩ rằng nó sẽ được tái bản. Nay đến Nguyễn Thế Thuấn, một người có khả năng về khoa Thánh Kinh đã dịch và cho xuất bản một bộ Thánh Kinh trong một hoàn cảnh thật đáng hoan nghênh. Nhưng ai cũng nhận thấy rằng bản dịch của Nguyễn Thế Thuấn có giá trị cao về mặt khoa học, nhưng văn chương Việt Nam của ông thì lỉnh kỉnh quá. Đọc bản dịch của ông giống như lái xe đi trên đường ổ gà. Có lẽ rồi đây còn có nhiều bản dịch khác nữa. Mỗi bản dịch đều có mặt ưu và khuyết nào đó.

Và cho đến bao giờ các nhà chuyên môn Thánh Kinh ở Việt Nam mới ngồi lại với nhau để cùng nhau dịch thuật và cống hiến cho độc giả một bản dịch có nhiều ưu điểm nhất và ít khuyết điểm nhất ?

Còn về cái ý kiến người công giáo lo xây tháp chuông và mua chuông nên không còn tiền để in Thánh Kinh thì mình chả biết phải nghĩ thế nào bây giờ. Trái pháo thứ hai nầy của ông mục sư quá bất ngờ, khiến mình không kịp đối phó.

Những hồi chuông binh boong vang vọng vào những dịp lễ lớn làm biết bao con tim rạo rực. Đó là tiếng Chúa thôi thúc qui tụ đoàn con hiếu thảo và nhắc nhở những con chiên lạc bầy. Có biết bao tâm hồn xa Chúa, quên Chúa, bỏ Chúa lâu năm, bỗng giật mình trở về vì tiếng gọi mầu nhiệm ấy. Một ngọn tháp cao vời vợi, một hồi chuông vang dội là những tín hiệu của niềm tin và của cộng đồng dân Chúa. Nó đã đi vào lòng người, đã trở thành truyền thống và trở nên thân thương đến mức độ không thể thiếu vắng đối với đa số tín đồ công giáo.

Nhưng trên thực tế mỗi một ngọn tháp cao đều chiếm 2/5 ngân sách xây nhà thờ. Thế mà trên tháp cao và tốn tiền ấy chỉ hiện diện một vài quả chuông với một bầy dơi. Không ai ngồi trên đó để tham dự các nghi thức phụng vụ cả.

Có một cây tháp cao để tôn vẻ uy nghi của ngôi Nhà Chúa là một điều đáng ham muốn. Có những quả chuông to để thôi thúc tín đồ đi lễ cũng là điều đáng khích lệ.

Nhưng nếu vì xây tháp cao mà không còn tiền để mỗi người, mỗi gia đình có một cuốn Thánh Kinh, thì vấn đề phải được đặt lại. Hoặc giả vì quá say mê ngọn tháp cao để quên không nghĩ đến nhu cầu đọc Lời Chúa trong gia đình và trong đời sống riêng tư, thì cũng cần suy nghĩ lại.

Còn nếu ở đâu có cộng đồng dân Chúa vừa có tháp cao, vừa có chuông to lại vừa có Thánh Kinh trên tay mỗi tín đồ, thì mình sẽ chộp lấy như một trái pháo để gởi tặng ông mục sư Xuân Phong bạn của mình… Và mình vẫn chưa tìm được trái pháo ấy !

  1. ĐỌC THÁNH KINH

Cà Mau, …

Mình đang đọc cuốn “Đất dữ” của Hoócghê Amađô. Mình dừng lại ở câu chuyện kể về gia đình ông “đại tá” Antoninô đọc Kinh Thánh. “Đại tá” chỉ có nghĩa là một ông chủ đồn điền giàu có. Antoninô có một bà vợ rất đạo đức. Tối nào bà cũng qui tụ mọi người lại để nghe bà đọc Thánh Kinh. Khi bà chết rồi, thói quen đọc Thánh Kinh trong gia đình vẫn được tuân hành như một kỷ niệm đáng kính. Bây giờ người chủ trì buổi đọc Sách Thánh là đứa con gái của bà.

Antoninô cảm thấy đồn điền của mình chưa rộng lớn đủ. Ông ngó sang đồn điền bên cạnh chỉ cách đồn điền của ông bằng một cái thung lũng hẹp. Ông muốn hai thành một. Ông muốn tìm hiểu ý Chúa. Tối hôm ấy ông ngỏ lời với đứa con gái của ông : ”Con đọc Sách Thánh xem có chỗ nào Chúa muốn bố chiếm đồn điền bên kia thung lũng không ?” Con ông mở Sách Thánh và đọc một đoạn. Ông lắc đầu. Con ông lại mở và đọc một đoạn khác. Ông lại lắc đầu. Cuối cùng con ông mở sách Giosuê và đọc ngay đoạn kể ông Giosuê đưa quân lội qua sông Giođan, bao vây và gieo thần tru trên Giêricô. Ông gật đầu lia lịa : “Được rồi, con” .

Sáng hôm sau, khi trời chưa hừng sáng, ông đã xua quân tràn qua thung lũng chiếm đồn điền của bạn. Lương tâm ông tỉnh queo, vì ông bảo : “Đó là Lời Chúa…”

Đọc Sách Thánh ư ? Chưa đủ ! Còn phải đọc Sách Thánh với tinh thần nào nữa chứ. Thời Trung Cổ, người ta đã trích một câu trong Thánh vịnh để làm bài hịch xua Thập Tự quân qua chiếm Đất thánh, mở màn cho một cuộc chiến dài hai thế kỷ (l096 -1270). Exurge, Domine (Lạy Chúa, xin hãy chỗi dậy).

Cuộc chiến này là một trong những sai lầm lớn của Giáo hội.

Như vậy có nghĩa là vẫn có một lối đọc Thánh Kinh sai lầm. Người ta không bỏ mình để theo Chúa, mà lại bắt Chúa phải bỏ mình để đi theo người ta. Bây giờ mình mới hiểu câu nói: “Ai muốn theo Ta thì phải bỏ mình đi” . Phương pháp đọc Thánh Kinh quan trọng hơn việc đọc Thánh kinh. Học cách đọc Thánh Kinh quan trọng hơn việc mua và đọc Thánh Kinh.

——————————————————————————–

Cà Mau, … 1975

Anh Ba Hiến mời mình tham gia lớp “Chia sẻ Lời Chúa” của giáo xứ Quản Long. Một cô gái đưa cho mình một tập sách nhỏ bằng Anh ngữ. Tác giả phản đối việc y khoa hiện đại tiếp máu cho bệnh nhân, nhân danh lời tuyên bố của Thánh Giacôbê trong Cv 15,26 : “Anh em hãy kiêng ăn máu huyết” . Ôi, người ta nhân danh Lời Chúa để làm những chuyện buồn cười. Mình tin rằng tác giả tập sách nhỏ này đã đọc Kinh Thánh nhiều lắm, nhưng lại hiểu Lời Chúa một cách tùy tiện.

Đọc Lời Chúa chưa có nghĩa là đã hiểu Lời Chúa. Hiểu Lời Chúa chưa có nghĩa là đã đồng cảm với Chúa. Muốn đọc, hiểu và cảm được Lời Chúa, mình phải tự hủy ý riêng một cách thật sâu sắc. Mình còn phải khiêm tốn như kẻ đi tìm Chúa mà chưa gặp được Chúa. Mình rất sợ hiện tượng :

– Nhân danh Chúa, tôi trừ diệt chúng.

– Nhân danh Chúa, tôi chống tiếp huyết cho bệnh nhân.

– Nhân danh Chúa, tôi đưa người lạc giáo lên giàn hỏa thiêu.

——————————————————————————–

Cà Mau , ….

Mình thường xuyên chia sẻ Lời Chúa với Nga, một cô giáo theo đạo Tin Lành. Sau buổi chia sẻ Lời Chúa, cô tham dự thánh lễ rồi mới về. Hôm nay cô ngỏ ý với mình :

– Cha cho con rước Mình Thánh Chúa đi. Đi dự lễ mà không được rước Chúa, con thấy nó thế nào ấy.

– Chị phải hỏi ý kiến mục sư xem sao. Bên Tin Lành không tin có Chúa hiện diện thật trong hình bánh đâu.

Nga có một tâm hồn rất ngay thẳng. Cô tự sám hối về sự chia rẽ của Kitô giáo. Cô rất hăng say rao giảng Đức Giêsu. Chính cô đã khuyên một học sinh Công giáo bỏ thói bê tha mà trở về công tác giúp lễ. Với Nga thì vấn đề quan trọng của công tác truyền giáo không phải là Công giáo hay Tin Lành, mà là Đức Giêsu. Nga đã biết từ bỏ ý riêng để đọc Kinh Thánh.

——————————————————————————–

Cà Mau, …

Mình đang sửa soạn mặc áo lễ, thì có người thò đầu vào qua cửa phòng mặc áo :

– Tôi muốn gặp linh mục Hậu.

– Tôi đây.

– Có thư của Việt Hưng ở Cần Thơ gởi cho linh mục. Việt Hưng giới thiệu tôi đến gặp linh mục. Việt Hưng là học sinh trường Đồng Tâm của linh mục ngày xưa.

– Hẹn anh sau lễ nhé.

Mình đang cởi áo lễ, thì anh ta lại thò đầu vào. Như vậy là anh ta đã ngồi chờ mình từ đầu đến cuối thánh lễ.

– Sau lễ tôi lại bận. Hẹn anh đúng 8 giờ nhé.

– Vâng! Anh ta trao thư của Việt Hưng cho mình rồi lủi thủi ra về.

Đúng 8 giờ anh ta có mặt ở nhà xứ. Mình dẫn anh ta lên lầu.

– Tôi là người không tín ngưỡng. Anh là linh mục. Nhưng chúng ta cứ góp ý thoải mái, không sợ ai.

– Dĩ nhiên.

– Tôi tin rằng đạo của anh có chân lý, vì nó đã tồn tại hai mươi thế kỷ. Nếu nó không có chân lý, thì nó đã bị lịch sử đào thải rồi. Nhưng tôi vẫn chẳng hiểu đạo của anh là cái gì. Tôi đã đọc nhiều sách nói về đạo của anh, nhưng vẫn chưa thấy được đạo. Cụ thể là hai tác phẩm của cùng một tác giả là Victor Hugo, mà lại nói khác hẳn nhau về đạo của anh. Cuốn “Nhà thờ Đức Bà Paris” cho thấy đạo của anh bẩn quá chừng ! Ngược lại cuốn “Những người khốn khổ” lại mô tả đạo của anh đẹp tuyệt vời. Bây giờ anh có cách nào giúp tôi hiểu một cách đúng đắn về đạo của anh không ?

– Đọc Thánh Kinh. Đọc Đức Giêsu. Chân lý của đạo không ở những tác phẩm văn học, mà ở trong Thánh Kinh. Đức Giêsu mới là ĐẠO, còn Giáo Hội chỉ là người đang hành trình tìm về Đức Giêsu mà thôi.

– Tôi không thấy Thánh Kinh trong nhà sách.

– Dĩ nhiên …. Chắc anh cũng hiểu tại sao rồi. Vả lại, chính bản thân tôi bây giờ, muốn mua một cuốn Thánh Kinh, thì cũng chẳng biết mua ở đâu !…

Hai người nói chuyện mãi cho tới mười giờ đêm. Trước khi

nhắm mắt ngủ, mình liên tưởng đến một buổi tối nọ, Thầy Chí Thánh ngồi nói chuyện rỉ rả thật lâu với ông Rắp-bi Nicôđêmô. Mình gởi ông bạn này cho Ngài….

  1. LINH MỤC CỦA AI

Sài gòn, …. 1984

Hôm nay Chúa Nhật, mình đi dự lễ ở nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế. Đi lễ ở đây để xem ng­ười ta tổ chức mục vụ, để nghe cha dòng giảng, để nghe ca đoàn hát và để coi người ta trưng bông. Mình đến thật sớm để thấy thật nhiều. Cái mình muốn xem thì chưa thấy, cái mình không chờ thì bất ngờ lại thấy…

Sân nhà thờ ướt nhẹp vì mới qua một trận mưa tầm tã. Trên ba mươi người hành khất xếp thành hai hàng dài nối liền cổng với cửa nhà thờ. Họ cúi rạp mình xuống, hoặc nằm bẹp trên những vũng nước để thê thảm hóa đến cùng cực cái thực trạng đã quá thê thảm rồi. Những người cùi cố tình bôi thuốc đỏ loe loét trên những vết thương vốn chỉ nhỏ bằng cái vỉ ốc. Họ tự nguyện biến thành những đống giẻ rách có linh hồn và tự nguyện xóa nhân phẩm để được xót thương.

Chuông nhà thờ đổ hồi. Số lượng tín đồ tràn vào nhà thờ như một dòng thác. Những đụn giẻ rách bỗng chồm dậy gật gù và van vái như những bóng ma. Những cánh tay khô khẳng và đen đúa giơ lên thật cao, chộp lấy những đồng tiền thơm tho rơi ra từ những bàn tay nõn nà. Phải công nhận rằng tín đồ ở đây mặc đẹp thật. Một rừng người là một rừng hoa. Những model mới nhất đều góp mặt ở đây, kể cả mini-jupe. Mùi nước hoa phảng phất trên khắp khuôn viên nhà thờ, làm át cả mùi tanh tưởi của những người hành khất.

Thánh lễ đã bắt đầu. Dòng người thôi chảy. Hai hàng rào hành khất tan rã, mỗi người tìm một chỗ, ngồi đếm tiền, nét mặt phở lở.

Mình là người vô nhà thờ sau cùng và có lẽ là người lo ra số một. Mình hãnh diện vì nhà thờ tượng trưng cho lòng từ thiện, nên đã qui tụ được một số người hành khất đông như thế. Mình cũng hãnh diện vì con cái Chúa ở đây vừa giàu đẹp vừa rộng tay bố thí. Tiền bố thí rơi rụng như lá mùa thu. Nhưng mình lại xấu hổ quá lẽ vì bên này những đụn giẻ rách có linh hồn là con cái Chúa, và bên kia, một rừng hoa muôn sắc cũng là con cái của Chúa. Giáo hội là những người giàu rộng tay bố thí, hay Giáo hội là những người nghèo chìa tay xin giúp đỡ, hay Giáo hội là nơi mọi người đều có cơm ăn áo mặc mà không ai phải xin xỏ ai?

Đã hai mươi thế kỷ rồi, Giáo hội vẫn nổi tiếng là người rộng tay bố thí, nhưng Giáo hội mới chỉ nuôi sống người nghèo, chứ chưa giết chết tình trạng nghèo. Người nghèo mới chỉ được xót thương, chứ chưa được kính trọng…

——————————————————————————–

Cà Mau, … 1984

Reng… Reng… Reng…

Ba hồi chuông thật dài làm náo động cả nhà xứ. Người bấm chuông kiểu này phải là người thân nhất. Vậy chắc là anh Ba Hiến và anh Mười Râu rồi. Mình vội vàng chạy xuống cầu thang nhanh như đá truồi. Cánh cửa mở toang.

– … ? !

– Ông cha cho tôi ít trăm mua cơm ăn. Đói quá rồi !

– Số của anh là số xui. Nếu hôm qua anh tới đây, thì tôi còn có chút ít cho anh. Hôm nay thì tôi không còn một đồng xu dính túi.

– Đ.m. làm cha mà không có tiền hả ? Người đàn ông ném cho mình một cái nhìn hận thù rồi quay gót.

Bị chửi quá bất ngờ, mình không kịp cảm thấy tủi nhục, cứ đứng trơ ra như trời trồng.

Mình không còn tiền, đó là sự thật, nhưng một sự thật khó tin. Trong túi không còn một đồng xu, nhưng mình vẫn mang kiếng gọng Đức trị giá gần 200 ngàn; trên cổ tay vẫn ngự trị một cái đồng Seiko 5 trị giá hơn một chỉ vàng; mình vẫn đang sống trong một biệt thự cổ có nhiều tiện nghi… Mình vẫn thương người ng­hèo và vẫn giúp đỡ người nghèo, khi thì một bộ quần áo, khi thì một vài ngàn, khi thì vài chục ngàn…, nhưng chưa bao giờ mình phải nhịn ăn, nhịn mặc vì người nghèo. Như vậy có nghĩa là mình chỉ mới cho người nghèo những cái dư thừa, chứ chưa dám chia sẻ những cái cần thiết.

Mình mới chỉ dám SỐNG CHO người nghèo mà chưa đủ can đảm để SỐNG VỚI người nghèo. SỐNG VỚI người nghèo mới là SỐNG CHO đầy đủ nhất, trọn vẹn nhất. Chỉ khi nào mình SỐNG VỚI người nghèo, mới cảm nghiệm được thân phận của người nghèo và mới cảm thấy cần phải giải phóng người nghèo khỏi tình trạng nghèo. Ba phần tư nhân loại vẫn sống nghèo. Và nghèo vẫn là một trọng tội, vì nghèo sinh ra dốt nát, vì nghèo sinh ra bần tiện và tình trạng mất nhân phẩm.

Mình sẽ không bao giờ có nhiều tiền để chấm dứt tình trạng nghèo. Mình cũng không đủ can đảm để SỐNG VỚI người nghèo. Mình không phải linh mục CỦA người nghèo, không phải là linh mục CHO người nghèo và không là linh mục VỚI người nghèo. Vậy mình là linh mục của ai ? Có lẽ lương tâm mình sẽ cắn rứt cho đến chết.

  

  1. ÁO NHÀ TU

Năm Căn, ngày 25-5-1971

Hôm nay mình đi tìm người công giáo, để từ đó mình đến với lương dân. Làm thế nào để tìm được họ ? Mình mặc áo dòng rồi cứ thả bộ trên đường dọc theo bờ sông… Bỗng có tiếng la lên:

– Cha !

– Ông có đạo hả ?

– Dạ.

Ông Năm móc ví ra, rồi đưa cho mình một tấm hình thánh Antôn. Tấm hình được gấp bốn, cũ và nhàu nát. Đã từ lâu rồi, ông Năm cất đạo trong lòng, không dám biểu lộ ra bên ngoài. Đạo đồng nghĩa với đóng đinh, ông hiểu như thế. Trong căn lều của ông không có dấu hiệu gì của người công giáo : Không có ảnh Thánh giá, không có hình Đức Mẹ. Nhưng trong ký ức của ông có nhiều hình ảnh thân thương về đạo, trong đó có cái áo dòng đen. Nếu không mặc áo dòng, thì hôm nay mình đã không tìm ra được ông Năm.

Áo dòng ơi, ta không thích màu đen tang tóc của ngươi, nhưng ta cần ngươi, vì nhờ ngươi mà ta tìm ra được những người anh em thân yêu đang trôi dạt trên mảnh đất Năm Căn ô hợp này…

——————————————————————————–

 

Cà Mau, …

Hôm nay mình được nghe một tin vừa rất tầm thường, vừa rất nhiều ý nghĩa.

Có một vị Tổng Giám mục người Pháp, sau khi đi dạo phố Sàigòn, đã viết thư cho Đức Tổng Bình, đại ý như sau :

“Xin Đức Cha cấm các linh mục không được mặc áo dòng khi đi ra phố : nó chướng quá ! Ra phố thì mặc “xi-vin” như mọi người…”

Mình nghĩ bụng : mắt tây thì thấy chướng, chứ mắt ta thì chưa chắc. Nhưng có một điều rất chắc chắn, đó là giáo sĩ và tu sĩ nên tìm ra một con đường để đi đến, và một nếp sống để trở nên giống mọi người. Chắc hẳn Đức Giêsu cũng đã hòa mình với quần chúng theo đường lối đó. Vấn đề không phải là mặc hay không mặc áo dòng, mà là trở nên người với mọi người, trừ sự tội để đưa mọi người về với Đức Kitô.

——————————————————————————–

Cái Rắn, ngày 10-9-1995

Hôm nay mình nhận được một lá thư của một ông bạn già chưa hề diện kiến. Ông khuyên mình nên mặc clergy-man. Ông gửi đính kèm hai tấm hình cắt từ báo Công Giáo và Dân Tộc : Tấm hình cha Huỳnh Công Minh mặc clergy-man với lời ghi chú: ”vừa gọn, vừa đẹp” , tấm hình cha Ngô Đình Phán mặc xi-vin với lời ghi chú : ”chẳng biết là cha hay không cha” . Ông lập luận :

1- Dù áo dòng không làm nên thầy tu (L’habit ne fait pas le moine), nhưng thầy tu thì phải mặc áo thầy tu. Cũng như anh bộ đội thì mặc quân phục.

2- Chiếc áo dòng tạo được sự kính nể của nhân dân. Các vị sư lúc nào cũng mặc áo cà sa và còn để đầu trọc nữa : có mất mát gì đâu.

3- Mặc áo dòng giúp giáo sĩ và tu sĩ giữ mình giống như áo giáp bảo vệ người chiến sĩ.

4- Áo dòng cũ có vẻ lình xình khó đi lại. Clergy-man vừa gọn, vừa đẹp lại vừa phân biệt với người đời. Thêm một cây thánh giá nhỏ cài ở túi áo nữa thì tuyệt vời.

Đọc thư của ông bạn già xong, mình cảm thấy nhột nhạt quá, vì từ ngày 5-1-1975 mình chỉ mặc áo dòng trong khuôn viên nhà thờ và lúc cử hành các nghi thức phụng vụ mà thôi. Mình cũng đã hai lần may clergy-man. Nhưng chưa lần nào có được một cái phô-côn cho ra hồn. Mình bèn thảo một lá thơ gởi ông bạn già, lá thơ không gởi.

Bác Mạnh mến,

Tôi đã đọc thư của bác. Bối rối quá, vì tôi chưa mặc áo dòng, hoặc clergy-man như bác đề nghị. Tôi cũng chưa quyết định sẽ mặc tu phục như bác đề nghị hay không. Ở đây tôi chỉ xin ghi lại vài kỷ niệm của đời mình liên quan đến việc mặc và không mặc áo dòng để anh em mình cùng suy nghĩ :

+ Năm 1947 tôi gia nhập Tiểu chủng viện. Tu phục của tôi lúc đó là áo dài đen. Một lần kia tôi đi qua một xóm ngoại. Một bầy trẻ chăn trâu bu lại làm thành một cuộc biểu tình bỏ túi. Khẩu hiệu duy nhất là : “đả đảo áo dài !” . Tôi vừa sợ vừa xấu hổ, cúi đầu lầm lũi mà đi. Đi đã xa, mà tiếng hô “đả đảo” vẫn còn dính vào tà áo.

+ Năm 1994 tôi cùng 12 nữ tu Mến Thánh Giá Tân Lập đi về miền cực Nam của tổ quốc… Chẳng ai trong chúng tôi mặc áo dòng. Tôi ngồi ở băng trên. Sau tôi là một bà giáo tập. Bỗng có tiếng nói trao đổi phía sau lưng :

– Mời dì ngồi, tôi đứng cho.

– Ủa, bà phước hả ?

– Sao dì biết ?

– Thấy tử tế quá à ! Và cái mặt hiền hiền…

+ Năm 1989 tôi ra Hà Nội. Chiếc xe tốc hành Đà Nẵng-Hà

Nội tới bến Kim Liên vào lúc 2 giờ sáng. Sớm quá. Tối quá. Nỗi

sợ bao trùm… Bốn giờ sáng tôi mới dám ra khỏi xe xuống phố uống cà phê, rồi kêu xích lô về nhà thờ Chánh tòa dự lễ. Sau lễ tôi vào Tòa Giám mục chào Đức Hồng y Căn. Đúng giờ ăn sáng, nên tôi được mời vào bàn. Tôi cảm thấy cô đơn lạ lùng, vì tất cả đều mặc áo dòng trừ một mình tôi. Ăn xong, Đức cha Thuận kéo áo và ghé vào tai tôi :

– Cha vui lòng mặc áo dòng, vì Đức Hồng y người muốn như thế.

– Dạ…

Miệng nói dạ, nhưng trong bụng đã tính bài chuồn, vì trong túi hành trang không có áo dòng. Và tôi đã chuồn thật. Chuồn để khỏi độn thổ…

Về Sơn Tây tôi vẫn cũn cỡn với chiếc áo sơ-mi cụt tay. Tối hôm đó vô nhà nguyện đọc kinh tối. Bỗng có tiếng động nhẹ ở phía sau. Tôi quay lại thì thấy một chiếc áo dòng vắt ngang trên thành ghế. Tôi hiểu đó là một lời nhắc nhở khéo léo.

Hai năm sau tôi lại vô Tòa Giám mục Hà Nội. Đứng nói chuyện ở trước cửa phòng Đức cha Thuận có bốn ng­ười : Đức cha Thuận, Đức cha Tùng Cương, cha Sinh và tôi. Bỗng có tiếng chuông kêu leng keng từ phòng ăn vọng lên.

– Chết rồi các đấng. Tôi không có áo dòng thì xuống nhà cơm được không ? Đức cha Tùng Cương bận clergy-man giơ hai tay lên và thốt ra như thế.

– Xin Đức cha cứ noi gương Đức Tổng. Cha Sinh chỉ về phía Đức cha Thuận.

Tôi ngó Đức cha Thuận. Không có áo dòng. Không có clergy-man. Quần bà ba đen. Áo sơ-mi đen may kiểu clergy-man nhưng không cài nút cổ và không phô-côn. Hôm ấy trong phòng ăn, không có ai mặc áo dòng, vì Đức Hồng y không còn nữa.

+ Năm 1982, tôi đến nhà thờ Cây Quéo thì được thấy cha sở mặc áo đòng bạc màu đang tà tà đạp xe cọc cạch trên đường. Ngồi sau yên xe của ngài là một ông sư mặc áo cà sa vàng. Hình ảnh dễ thương quá chừng !…

——————————————————————————–

Bắc Ninh,… 1989

Hôm nay mình đi Bắc Ninh vì tò mò muốn biết một vị giám mục miền Bắc có nhiều tư tưởng mới. Đức cha Tụng tiếp mình một cách thân tình. Mình hỏi thật nhiều. Đức cha Tụng sẵn sàng trả lời nhiều hơn mình hỏi. Nhưng mình chỉ ghi lại những câu mình thích nhất thôi.

+ Vì hoàn cảnh chiến tranh, chúng tôi không được biết thấu đáo về Vaticanô II. Nhưng chúng tôi cứ theo lương tâm mình mà suy nghĩ và hành động. Sau khi đất nước hòa bình, chúng tôi mới có được đầy đủ tài liệu về Vaticanô II. Chúng tôi rất vui vì những gì mình đã nghĩ và làm không ngờ lại rất phù hợp với Vaticanô II.

+ Chúng tôi chủ trương : tương quan giữa mọi thành phần của Giáo hội phải là Fraternité (huynh đệ). Muốn có Fraternité, thì phải có Égalité (bình đẳng). Các linh mục làm việc cho Giáo hội, được Giáo hội bảo đảm về đời sống vật chất. Người giáo dân làm việc cho Giáo hội thì cũng phải được bảo đảm về vật chất như thế. Đó là Égalité và nhờ đó sẽ có Fraternité.

+ Chúng tôi chủ trương : linh mục chỉ làm những công tác thuộc phạm vi chức năng của mình. Những gì không liên quan đến bí tích, thì trao hết cho giáo dân.

+ Chúng tôi không quan tâm đến việc xây cất cơ sở vật chất, để lo xây dựng con người. Chúng tôi cho giáo dân đi học y khoa, kiến trúc, giáo dục… để sau này họ phục vụ đồng bào.

+ Chúng tôi chủ trương : linh mục không xây nhà thờ bằng gỗ đá. Công việc này sẽ do giáo dân làm. Linh mục chỉ xây dựng thánh lễ misa thôi. Và chỉ bấy nhiêu thôi, linh mục xây dựng suốt đời cũng chưa xong.

Mình ghi nhận những lời trên như những “lời vàng”. Đó là tư tưởng của Vaticanô II. Mong rằng những tư tưởng ấy mau chóng trở thành hiện thực.

——————————————————————————–

Sơn Tây,… 1990

Hôm nay có chừng bốn chục cựu tu sĩ họp mặt. Họ đến từ khắp giáo phận để dâng công xây Tòa Giám mục. Có mặt thì họp mặt. Anh nào cũng hăng hái bàn về Vaticanô II.

– Phải canh tân mới được, chịu hết nổi rồi. Chúng ta đã ăn cơm nhà Đức Chúa Trời, thì bây giờ phải trả ơn.

– Các Đấng cứ coi bọn chúng mình là “nhất quỷ, nhì ma, thứ ba thầy xuất”, thì còn làm ăn gì được. Các cha mới canh tân Giáo hội… Còn chúng mình thì cứ theo đóm ăn tàn là xong. Point final (chấm hết).

– Thì có thấy đấng nào canh tân đâu ? Trước sao, sau vậy. Vẫn như cũ ! “Chẳng canh tân cũng được rỗi linh hồn” các đấng bảo vậy.

– Nếu cuộc canh tân không bắt đầu từ trên, thì bắt đầu từ dưới. Thánh Phanxicô Khó khăn có phải là giáo phẩm, giáo sĩ gì đâu, thế mà ngài đã làm cách mạng canh tân Giáo hội đấy. Nếu các đấng không canh tân, thì chúng mình canh tân. Đi từ dưới di lên. (Vỗ tay).

Mình nghĩ bụng : anh chàng này nói hay quá. Tư tưởng đã hay, lại còn dẫn chứng lịch sử nữa. Tuyệt ! Quả vậy, chính tư tưởng của Vaticanô II cũng đã manh nha từ những cá nhân, những nhóm thiện chí có trước Công đồng. Thời Công vụ Tông đồ, giáo dân Antiôkia đã có ý tưởng và sự nghiệp truyền giáo cho lương dân trước cả các tông đồ (Cv 11, 19-26).

Mình còn nhớ tháng 11-1974, trong cuộc họp về truyền giáo tại Nha Trang, ai nấy đều thắc mắc rằng tại sao trong khi ai nấy đều nghĩ mình phải xưng hô với Chúa là “con” và “chúng con” thì mới khiêm tốn và thân tình, thế mà Ban Phụng vụ của HĐGM lại bắt xưng hô “tôi” và “chúng tôi” như cũ !

Chừng đó bí mật được bật mí rằng : “Tại Đức cha Hoàng Văn Đoàn. Ngài lý luận rằng theo nguồn gốc tiếng Việt thì “tôi” là tôi tớ. Phải xưng “tôi” với Chúa mới là khiêm tốn và đúng địa vị. Chẳng ai dám cãi với ngài, vì ngài chuyên về ngôn ngữ học. Như thế thì không thuận tình và thuận lý, nên có tình trạng sình bụng đòi xì hơi. Cách xưng hô “con” với Chúa cứ âm thầm lan tràn, ngược lại với luật của bề trên.

Bây giờ thì “con” đã thay thế “tôi” một cách chiùnh thức rồi. Kết quả này là của cuộc cách mạng từ dưới đi lên đấy.

  1. NGƯỜI BIỆT PHÁI CẦU NGUYỆN

Cần Thơ, … 1971

Hôm nay Thu Thủy tặng mình cuốn “Đời sống tốt đẹp” của giáo sư Lâm Ngữ Đường. Thấy tên tác giả, mình sáng mắt lên, vì hồi còn học ở Chủng viện, mình đã được các thầy giới thiệu Lâm Ngữ Đường như một nhà trí thức lớn. Là giáo sư Đại học Thượng Hải, nhưng tên tuổi của ông đã vang dội ở Âu châu.

Trước khi xếp giờ để ngốn trọn vẹn cuốn sách, mình đọc kỹ từng khúc… Tình cờ mình thấy Lâm Ngữ Đường cầm cuốn Thánh Kinh. Thế là mình dừng lại ở khúc này.

Lâm Ngữ Đường mê đi tìm chân lý. Ông nghiên cứu đạo Lão, đạo Khổng, đạo Phật và cuối cùng ông nghiên cứu Thánh Kinh. Hôm ấy ông đến nhà thờ. Sau lời cầu nguyện tự phát của người truyền đạo, Lâm Ngữ Đường bất bình và tự nhủ rằng : Người đạo Kitô ích kỷ lắm, cứ vơ Chúa vào cho mình, coi mình là hơn người ng­oại, làm như thể người ngoại không phải là con của Chúa như họ. Rồi Lâm Ngữ Đường thề với lòng mình rằng : “Từ nay tôi chỉ theo một đạo mà thôi, đạo làm người” . Thế là ông không đọc Thánh Kinh nữa…

Số là hôm ấy nhà truyền đạo cầu nguyện đại khái như sau:

“Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa vì Chúa đã ban cho con ơn Đức Tin, trong khi biết bao nhiêu người ngoại vẫn còn ngồi trong bóng tối sự chết”.

Thái độ bất bình của ông Lâm Ngữ Đường trước lời cầu nguyện trên khiến mình chới với. Quả thật chính mình vẫn hằng cầu nguyện như thế. Cha linh hướng chủng viện cũng dạy mình cầu nguyện như thế. Ngài nói : “Các chú có thấy không, các chú được Chúa thương gọi vào đây để được học hành và rồi mai ngày các chú sẽ được bước lên bàn thánh, trong khi biết bao bạn bè cùng trang lứa với các chú giờ này còn đang chăn trâu ngoài đồng…”

Bây giờ mình mới khám phá ra rằng Đức Giêsu đã chống lại não trạng cầu nguyện của mình và của ông truyền đạo nào đó ở Trung Quốc bằng dụ ngôn “Người biệt phái và người thu thuế” (Lc 18,9-14).

Mình đã làm người biệt phái từ mấy chục năm qua mà không ngờ. Cám ơn ông Lâm Ngữ Đường nhé, bởi vì nhờ thái độ giận dữ của ông mà tôi giác ngộ để trở về với giáo huấn của Đức Giêsu, Thầy của tôi. Nhưng tôi cũng rất buồn vì chính con cái của Chúa đã làm ông mất một thời cơ để tìm gặp Đức Giêsu.

Để đền ơn ông và để đền tội thay cho ông truyền đạo nào đó mà ông đã gặp ở Trung Quốc, tôi xin kể hầu ông một câu chuyện, câu chuyện của đời tôi :

Năm 1968, chiến tranh đổ bom đạn xuống quê hương tôi như những trận mưa dai dẳng. Năm ấy tôi đang làm linh mục phụ tá tại nhà thờ Chánh tòa Cần Thơ.

Một đêm nọ, những tiếng nổ ục, ình, chát chúa làm tôi nhảy nhổm khỏi giường. Những lằn chớp nhức mắt đan chằng chịt trên bầu trời đen. Tất cả chỉ diễn ra trong một khoảnh khắc thật ngắn ngủi, không tới mười phút. Dường như chính thần chết cũng rất sợ chết, nên chỉ hối hả múa một đường kiếm lửa rồi chuồn thẳng. Tôi lại nằm xuống và chờ xem có tiếng chuông báo mời đi kẻ liệt hay không. Tất cả chỉ là im lặng. Tôi lại chìm vào giấc ngủ…

Sáng hôm sau, giáo dân đi dự lễ đông hơn thường lệ. Sau thánh lễ bà con không âm thầm ra về như mọi khi, mà ở lại nói chuyện với nhau ở sân nhà thờ. Có vài giọng nói oang oang :

– Đêm rồi tôi thấy có một bà mặc áo trắng đứng ở trên không, cứ nghe ục một cái, thì thấy bà lại khoát tay một cái. Sau đó là nghe ình một cái ở bên xóm Cao Đài.

– Đúng là Đức Mẹ gìn giữ họ đạo mình rồi. Pháo nhiều như thế mà xóm đạo không bị một trái nào. Tất cả đều rớt xuống xóm Cao Đài.

– Tội nghiệp xóm Cao Đài. Bị thương và chết bộn à !

– Hôm nay chúng mình nên đến từng nhà quyên tiền xin các cha dâng một thánh lễ trọng thể để tạ ơn Đức Mẹ.

Ông Lâm Ngữ Đường ạ, tôi thật tình thông cảm với số phận không may của anh em xóm Cao Đài. Nhưng tôi bận chia vui với tín đồ của tôi mà đã quên không đi thăm và ủy lạo anh em Cao Đài xấu số… Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy xấu hổ quá. Tôi là linh mục nhưng tôi thấy mình cũng ích kỷ như nhận xét của ông : “Người đạo Kitô ích kỷ lắm, cứ vơ Chúa vào cho mình…” . Ông tha thứ cho tôi nhé !

——————————————————————————–

Kinh Bảy,…. 1994

Sáng nay cha xứ nhờ mình giúp các giảng viên giáo lý một giờ.

– Chú cho mình đề tài đi.

– Bác muốn nói gì thì nói.

– Nói bao nhiêu phút ?

– Nói suốt ngày cũng được.

Mình đành chọn đề tài : “Sứ mạng người giảng viên giáo lý là trình bày Đức Giêsu một cách trung thực” . Mình cảnh giác họ :

– Coi chừng kẻo chúng ta lại rao giảng một Đức Giêsu đã bị bóp méo, hoặc bị cắm thêm râu ria. Coi chừng kẻo chúng ta lại dạy các em cầu nguyện giống như ông biệt phái trong Tin Mừng theo Thánh Luca. Ông biệt phái tạ ơn Chúa vì ông không gian dối, trộm cắp, ngoại tình; mỗi tuần ăn chay hai lần; vẫn đều đều nạp thuế thập phân cho đền thờ… Tạ ơn Chúa như vậy là hay lắm đấy. Sống được như thế là tuyệt vời rồi đấy. Nhưng… tất cả đều bị Chúa đổ xuống sông hết chỉ vì ông ấy thêm một câu vào lời cầu nguyện tuyệt vời kia : “Con không giống như người thu thuế kia”.

Một anh giảng viên có khuôn mặt vuông, râu ria lún phún và có giọng nói khào khào giơ tay xin góp ý :

– Thưa cha, chúng con chỉ dạy theo tài liệu có sẵn. Các đấng bề trên đã soạn sẵn cả những lời cầu nguyện cho các em rồi, chúng con cứ như thế mà theo. Chính trong tài liệu cũng có một lời cầu nguyện giống như cha đã nói. Các em cám ơn Chúa vì các em được Chúa thương ban ơn đủ thứ hơn tất cả các em ngoại giáo…

Mình không đòi tài liệu để thấy bằng chứng cụ thể, vì mình tin là anh giảng viên ấy nói thật. Mình chỉ buồn vì hôm nay vẫn còn có nhiều người đang đi vào vết xe của mình ngày xưa.

Ông biệt phái vẫn đứng đó, giữa cung thánh, giang hai tay lên trời…

Ông biệt phái ơi ! Ông oai hùng quá ! Ngày xưa Chúa đã quật ngã ông ngay trước mặt người thu thuế. Ngài cho ông ăn “điểm hột vịt” khi Ngài nói : ”Người này ra về và không được công chính hóa” .

Còn người thu thuế, Chúa cho điểm cao khi Ngài nói : “Người này ra về và đã được tha tội” . Chúa cho điểm, đồng thời cho nhận xét : “Ai nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống” . Ông bị Chúa quật ngã, nhưng ông lại đứng lên và ông đang đứng hiên ngang trong lòng tôi, trong lòng anh em tôi. Thì ra trong tôi đã có men biệt phái của ông. Và bây giờ thì tôi đã hiểu. Tôi xin mời ông ra đi vĩnh viễn ông nhé !

  1. LÒNG KHIÊM TỐN LÀ CHỨNG TÁ TIN MỪNG

Sài Gòn, 1-4…

Mình được mời về Sàigòn giảng Mùa Chay. Đề tài tự do. Mình chọn đề tài truyền giáo. Nhà thờ đông nghẹt giới trẻ. Mặt mũi sáng sủa. Áo quần model. Mùi nước hoa phảng phất.

Đề tài hôm nay : Truyền giáo là bản chất của Giáo hội. Mình duyệt lại lịch sử Giáo hội và nghiệm ra rằng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ XVI, Giáo hội gần như không còn đến với lương dân nữa. Âu Châu đã được nghe Tin Mừng. Phía Bắc chỉ còn hải cẩu và băng tuyết. Phía Tây và Đại Tây Dương, lúc ấy ngành hàng hải chưa vượt qua được. Phía Đông và phía Nam là hai bức tường Hồi giáo. Không còn đi đến với lương dân nữa, Giáo hội quay về củng cố nội bộ. Nhưng vì đánh mất bản chất, Giáo hội càng củng cố nội bộ chừng nào thì càng lủng củng chừng nấy.

– Chính trong thời này, nhiệm thể Chúa Kitô bị chia thành bốn khúc : Công giáo, Chính thống, Tin lành và Anh giáo.

– Ngoài ra cơ cấu lãnh đạo còn bị chính trị và các gia đình thế lực chen vào làm mất phẩm chất. Sự hư hỏng không phải chỉ có ở cấp dưới mà có ngay ở cấp cao nhất.

– Lòng đạo đức của giáo dân sút kém. Người ta sống trong thời Tân Ước mà như trong thời Cựu Ước. Thiên Chúa đáng sợ hơn đáng yêu. Dòng chiêm niệm cũng sa sút. Dòng kín trở thành dòng hở. Mẹ Têrêxa Avila phải đứng ra cải tổ hơn 40 dòng kín. Mẹ phải đương đầu với bao lực lượng chống đối, thậm chí có lần bị giáo dân bao vây, chụp mũ lạc giáo, và đòi lôi cổ đưa lên giàn hỏa thiêu.

– Tòa án tôn giáo đưa lên giàn hỏa thiêu những người lạc giáo. Một việc làm không phù hợp với Phúc âm và ngày nay bị coi là vi phạm nhân quyền.

– Gần hai thế kỷ tuốt gươm chống người Hồi giáo (1096-1270). Điều này không phù hợp với giáo huấn của Chúa khi Ngài dạy Phêrô “Hãy xỏ gươm vào bao”. Ngoài sai lầm trên, cuộc chiến tranh này còn gặp thất bại về nhiều mặt khác. Bảy cuộc chiến thì thập tự quân chỉ thắng hai và thua năm. Thập tự quân cũng biết cướp bóc và hãm hiếp. Các vua Anh- Pháp – Đức tham chiến thì giành ảnh hưởng với nhau, khoèo giò nhau. Hơn 30.000 thiếu niên vì cuồng tín, đã đòi vượt Địa Trung Hải qua Đất Thánh để đánh quân Hồi nhưng không một em nào trở về.

Cuối cùng là hậu quả hận thù giữa Công giáo và Hồi giáo kéo dài cho đến nay, khiến chưa có được một cuộc đối thoại tốt đẹp nào giữa hai tôn giáo này.

Sau bài giảng của mình, một thính giả đụng đầu với cha sở ngay tại cửa nhà thờ, ông tỏ vẻ bất bình và than rằng : “Giảng như thế là thất bại, người giáo dân chưa trưởng thành đủ để nghe những sự thật ấy” . Mình giơ tay đầu hàng và thưa với Chúa rằng:

“Lạy Chúa, tại sao giáo dân vẫn chưa trưởng thành ? Tại sao giáo dân vẫn còn chưa hiểu mình yếu đuối để thấy sức mạnh của Chúa ? Có cần phải đặt lại nền giáo dục cho giáo dân không ? Giáo dục bưng bít có phải là giáo dục lành mạnh không ?”.

——————————————————————————–

Sài Gòn, 2-4…

Sáng nay ông Chủ tịch Hội Đồng Giáo xứ đến gặp mình. Ông kể rằng :

– 4 giờ sáng con đã thức dậy để chuẩn bị đi kiếm người giúp tuần phòng. Bà xã con nằm trong mùng hỏi vọng ra :

– Anh đi đâu mà sớm thế ?

– Anh đi “lo việc cho cha ta”.

– Anh không nghe bài giảng hôm qua sao ? Đức Giáo Hoàng còn chả ra gì huống hồ là các cha của anh.

Mình hiểu rằng có một luồng gió mạnh đang thổi khắp họ đạo. Có những niềm tin đang rụng lá.

Cha sở không phát biểu gì. Mình ái ngại nhìn ông. Sự im lặng của ông giống như mảnh đất hoang có gài mìn. Bất giác mình phải lên tiếng :

– Anh có ý kiến gì về bài giảng của mình sáng hôm qua không ?

– Có thắc mắc mới có vấn dề. Gây được thắc mắc là bắt đầu thành công rồi. Cậu cứ tiếp tục giảng đi.

Mình nghĩ bụng : Ông cha sở này khôn quá, ông không hề đá động đến nội dung của bài giảng. Ông vẫn đứng bên ngoài và đứng quan sát cả cha giảng phòng lẫn giáo dân của ông. Ông nói mà như vẫn im lặng. Mảnh đất hoang vẫn bị nghi ngờ có gài mìn.

Bài giảng chiều nay : Giáo dân truyền giáo thế nào trong 20 thế kỷ qua. Mình đúc kết lịch sử truyền giáo của giáo dân như sau :

– Thời Công vụ Tông đồ là thời vàng son của giáo dân. Mỗi người đều rao giảng : Philíp, Xtêphanô, vợ chồng Prixkilla, Apollô. Tại Antiôkia, giáo dân là những người đầu tiên có sáng kiến loan báo Tin Mừng cho lương dân. Khi đã thành công, các Tông đồ ở Giêrusalem mới phái Barnaba tới để quan sát. Trong thơ Rôma, thánh Phaolô nhắc đến tên một lô giáo dân, trong đó có hàng chục người phụ nữ. Những người này đã đồng lao cộng tác với ngài trong sứ vụ loan báo Tin Mừng (Rm 16,1-15).

– Sang thời Giáo phụ thì địa vị giáo dân tụt xuống và bị định nghĩa : ”Giáo dân là những đứa con nít cần phải canh chừng”

– Sang thời Trung Cổ giáo dân chỉ còn là một giai cấp tùng phục.

– Phải chờ tới Đức Piô Xl, người giáo dân mới bắt đầu tìm lại được địa vị và công tác của mình. Nhưng với câu định nghĩa sau đây của Đức Piô Xl, người giáo dân mới chỉ được vực từ thế nằm sang thế ngồi : ”Công giáo tiến hành là việc giáo dân tham dự vào việc tông đồ của hàng Giáo phẩm dưới quyền lãnh đạo của hàng Giáo phẩm”.

– Phải chờ đến Vatican II, người giáo dân mới thực sự đứng dậy và đi hàng đầu trong công tác loan báo Tin Mừng.

Sau bài giảng, một ông bạn sồn sồn đến tâm sự rằng :

– Vatican II đề cao giáo dân. Ban đầu con tưởng rằng vì thiếu linh mục và tu sĩ, nên Giáo hội mới mị giáo dân như thế. Bây giờ thì con hiểu rằng Giáo hội đã chân thành xác nhận địa vị của giáo dân trong công tác truyền giáo, đó là ơn soi của Thánh Thần.

——————————————————————————–

Sàigòn, 3-4…

Chiều nay mình kết thúc tuần phòng bằng đề tài : “Thánh Thần trong công tác loan báo Tin Mừng” . Trước khi vào đề, mình gởi tới thính giả một lời tâm sự :

-“Tôi rất buồn vì bài giảng đầu tiên của tôi làm một số người trong anh chị em bất bình, một số khác bị lung lay về đức tin. Tôi xin lỗi, nhưng tôi không rút lời. Sự thật thì anh chị em đã nghe biết nhiều chuyện còn động trời hơn :

+ Thứ nhất : Đức Giáo hoàng Phêrô đã run sợ trước một đứa con gái gác cổng mà đã chối Chúa một lần. Rồi sau đó Ngài còn chối Chúa thêm hai lần nữa.

+ Thứ hai : Có một vị Giám mục hay ăn cắp tiền của tập thể rồi cuối cùng đã thắt cổ tự tử. Đó là Đức cha Giuđa Ixcariốt mà anh chị em vẫn quen miệng gọi là thằng Giuđa.

Những chuyện tiêu cực như thế không nên làm ta nản lòng. Tốt hơn chúng ta hãy từ đó khám phá ra sức mạnh của Thánh Thần trong Giáo hội”.

Có nhiều cái đầu gật gù tỏ vẻ đồng ý. Nhiều bà nhiều chị mỉm cười đắc ý. Mình an tâm và trình bày về sức mạnh của Thánh Thần trong công tác loan báo Tin Mừng.

Quả thật đến bây giờ ngồi viết lại những điều này mình mới hiểu lời Đức Gioan Phaolô II trong Thông điệp “Sứ vụ Đấng Cứu Độ”. Bên cạnh chứng tá bác ái Kitô giáo, Ngài còn nói đến một chứng tá mới đó là khiêm tốn nhìn nhận sự hèn yếu của mình trong phạm vi cá nhân cũng như tập thể .

Bây giờ mình mới hiểu thấm thía điều đó. Có lẽ trong cuộc đời rao giảng của Thánh Phêrô, không có lời nào có sức thuyết phục cho bằng lời kể về những lần ngài chối Chúa. Có lẽ bài giảng làm nhói tim thính giả của thánh Phaolô chính là lời kể về những lúc ngài bắt bớ tàn nhẫn các tín đồ của Chúa.

  1. ĐẾN VỚI NGƯỜI NGHÈO

Cà Mau, ….1990

Hôm nay mình kết thúc chương trình giáo lý dự tòng cho Thúy Linh. Mình đã dạy Thúy Linh 40 bài. Những buổi học đầu tiên Linh lo ra thật nhiều. Dường như cô bé đi học Giáo lý là để biểu diễn thời trang. Mỗi lần đi học, cô mặc một bộ đồ mới, kẹp tóc một kiểu mới. Lần nào cũng son phấn. Lần nào cũng xức dầu thơm. Dần dần cô bé tỏ ra ngoan hơn, đơn sơ hơn… Bây giờ thì không còn son phấn nữa, ăn mặc bình dị và tiếp thu bài một cách nghiêm chỉnh. Sau kinh Sáng Danh và lời giã từ, Thúy Linh móc trong túi xách ra một bọc đồ, đặt trên bàn.

– Con biếu cha một bộ đồ. Nói xong nàng ra về.

Lớp giáo lý được kết thúc như thế đó.

Mình đã dạy hàng ngàn người dự tòng rồi, Thúy Linh là người đầu tiên có sáng kiến “biết ơn thầy”. Xách gói quà về phòng, mình cảm thấy vui vui.

Trước khi đi ngủ mình soạn bài Phúc Âm ngày mai. Luca kể chuyện Chúa Giêsu vào nhà ông Giakê. Ông thưa với Chúa :

– Con xin hiến một nửa gia tài cho người nghèo.

Mình thấy lạnh ở cột sống…

Ủa tại sao Thúy Linh không hứa với mình là sẽ giúp người nghèo một bộ đồ ? Và tại sao Giakê lại không biếu Chúa vài lượng vàng nhỉ ? Mà lại thay thế món quà ấy bằng một nửa gia tài cho người nghèo ?

Niềm vui của Chúa là thấy người nghèo được giúp đỡ, còn niềm vui của mình là được tặng quà. Mình cảm thấy xấu hổ. Khi giảng giáo lý mình vẫn khuyên học viên yêu thương và kính trọng người nghèo, nhưng có lẽ mình chưa nhấn mạnh đủ và cũng chưa bày kế để họ giúp đỡ người nghèo. Có lẽ mình sống gần người giàu hơn ng­ười nghèo. Có lẽ mình yêu thương ng­ười giàu hơn người nghèo. Người nghèo thường xuyên là gánh nặng đè trên vai mình, nên mình không có hứng thú để dạy Thúy Linh tận tình yêu thương và giúp đỡ họ. Chắc Thúy Linh cũng không hứng thú gì nếu phải đem gói quà này tặng cho người nghèo thay vì cho mình.

“Giáo hội của người nghèo” phải như thế nào nhỉ ?

Mình tắt đèn đi ngủ, lòng nặng trĩu ưu tư.

——————————————————————————–

Hiền Quan, …1989

Hôm nay mình về thăm quê sau 37 năm xa cách. Quê mình còn nghèo quá.

Sau thánh lễ đầu tay tại quê hương, mình gởi lời chào bà con. Lời chào được kết thúc như sau :

– Tôi về quê với hai bàn tay trắng, không có một cái kẹo cho các cháu. Nhưng tôi xin tặng bà con một quả tim và một cây bút…

Trên đường từ nhà thờ về nhà xứ, một đứa em rể ba đời nói nhỏ bên tai mình :

– Anh không có cái gì cho người ta, thì khi anh nói, ai mà nghe !

Câu nói thật chân thành và thực tế thốt ra từ miệng một đứa em rể chưa hề biết Chúa là ai, cũng chưa hiểu thế nào là cái nghèo của linh mục. Câu nói ấy làm mình suy nghĩ mông lung :

1- Tại sao quê mình nghèo ?

Có nhiều lý do. Có những lý do mà chẳng ai dám nói ra. Nhưng một trong những lý do có thể nói ra đó là dân số gia tăng khủng khiếp. Hồi mình còn bé, xóm đạo quê mình chỉ có trên 200 nhân danh, bây giờ đã lên đến 1000 rồi. Vậy mà diện tích trồng trọt không những không gia tăng mà còn giảm đi để làm đất thổ cư. Kỹ thuật canh tác vẫn còn là con trâu và cái cày ! Việc điều hòa sinh sản có ý nghĩa gì đối với xóm đạo. Sinh nhiều con thì thêm nhiều người thờ Chúa ở đời này và thêm nhiều người hưởng­ phước thiên đàng đời sau. Người ta vẫn nói với nhau như thế, vì cha xứ vẫn dạy giáo dân như vậy. Người Kitô hữu chỉ nhìn vấn đề dân số một cách giản dị như thế sao ? Và những người con của Chúa được quyền sống lạc hậu và nhếch nhác như thế sao ?

2- Tại sao mình sống nghèo ?

Có một ông bạn nói một cách mạnh mẽ rằng : “Nếu Giáo hội nghèo, thì lấy gì mà giúp đỡ người nghèo ?” . Mình vẫn sợ câu nói ấy. Quả thật nghèo là một cái tội. Nghèo sinh ra bần tiện. Nhưng là linh mục, mình cũng rất sợ giàu sang. Sống nghèo, mình thấy yên tâm hơn. Nhưng nghèo như mình thì có ích gì cho người nghèo ? Nghèo như mình, thì tiếng nói có còn giữ được trọng lượng không ? Dù sao thì mình vẫn chọn con đường nghèo khó. Phêrô chẳng có tiền bạc để giúp đỡ người hành khất què, nhưng ông vẫn hữu ích tuyệt vời và tiếng nói của ông vẫn như thần thánh.

3- Chắc chắn nhiều ước mơ bị vỡ mộng.

Người ta nghĩ rằng mình về thăm quê thì ít ra cũng phải tặng họ đạo một cây orgue, hoặc một cái ampli. Thế mà hôm nay : một viên kẹo cho các cháu cũng không có. Người ta hiểu tấm lòng của mình không? Hay người ta nghĩ rằng mình keo kiệt? “Các cha thì thiếu gì tiền” . Người ta vẫn nói như thế. Quả thật mình mang mặc cảm đã đem về quê hương một nỗi tuyệt vọng. Rồi sau lưng mình người ta bàn tán thế nào ? Thôi kệ, mình cứ tặng bà con những bài giảng, những buổi ngồi tòa triền miên. Còn tiền bạc thì ngoài tầm tay của mình.

——————————————————————————–

Cà Mau, …1988

Hôm nay anh Ba Mẫn trao cho mình một tài liệu của Thượng Hội đồng Giám mục 1987.

– Anh Tám đọc đi xem có gì hay, thì chia sẻ với anh em.

Mình đọc lướt qua bỗng vấp phải lời phát biểu của vị đại diện Mỹ châu Latinh : “Người nghèo rao giảng Tin Mừng cho người nghèo. Đó là kinh nghiệm tuyệt vời của chúng tôi. Chỉ người nghèo mới hiểu hết ý nghĩa của thập giá…”

Vị đại diện Mỹ châu Latinh không những hãnh diện giới thiệu kinh nghiệm truyền giáo của xứ mình bằng hình dung từ “tuyệt vời” mà còn hung hăng đến mức thách đố : “Nếu Giáo hội không cảm nghiệm được điều đó, thì vấn đề truyền giáo hôm nay chẳng có gì là mới mẻ cả”.

Về Mỹ châu Latinh, mình đã đọc Têrêda, Cacao, Đất Dữ mà mình chỉ thấy ở đó có một cái nghèo đáng nguyền rủa, một quần chúng nghèo đáng tội nghiệp. Hôm nay lại thấy một đoàn người nghèo đi rao giảng cho người nghèo và được tôn vinh là tuyệt vời. Tại sao thế ?

Trước hết đoàn Tông đồ của Chúa chẳng phải là người nghèo :

Phêrô có cơ sở làm ăn ở Caphácnaum, chắc hẳn cũng tương đương với một chủ hàng đáy ở vùng Minh Hải này. Anrê cũng làm ăn với ông. Gia đình ông Giêbêđê cũng có một cơ sở làm ăn khá lớn. Đã có ba lao động là ông, Gioan, và Giacôbê, vậy mà ông vẫn phải mướn thêm nhiều người nữa (Mc 1,20).

Chúa có rất nhiều người thân, vừa hằng tâm, vừa hằng sản như bà Gioanna vợ của ông quản lý nhà vua, bà Maria mẹ của Gioan Marcô giàu sang như một “bà lớn”, gia đình Bêtania cũng rất giàu có.

Nhưng một điều rất chắc chắn là trên đường truyền giáo họ không được quan tâm đến tiền bạc mà chỉ lo rao giảng. Họ phải có tinh thần nghèo, nghĩa là chỉ coi tiền bạc là phương tiện truyền giáo. Bản thân họ thì không hưởng thụ, nghĩa là họ sống nghèo thật sự.

Kinh nghiệm của các nhà truyền giáo cho thấy người nghèo đón nhận Tin Mừng một cách chân thành, còn người giàu vì đã no đủ vật chất, nên chưa cảm thấy thiếu thốn, chưa cảm thấy cần Chúa.

Người nghèo một khi đã thấm nhuần đức tin và đi loan báo Tin Mừng thì họ sẽ trình bày cây thập giá của Chúa bằng lời, bằng cuộc đời, bằng kinh nghiệm bản thân họ. Họ đã hiểu hết ý nghĩa của từ nghèo trong Tin Mừng.

 

print