Những Chiếc Xe Lăn Và Thánh Lễ Ban Chiều
(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 221)
Trong một dịp, tôi đi dự lễ mở tay của một tân linh mục thân quen, tôi đã có ghé thăm các cha hưu dưỡng tại một nhà hưu dưỡng, dành cho các linh mục của một giáo phận.
Tôi đã đến đúng vào lúc các cha sắp dâng thánh lễ ban chiều, theo như thói quen của các cha ở đây.
Thời gian của tôi cũng không có gì quá bận bịu, cho nên tôi cũng nán ở lại, để tham dự thánh lễ đồng tế của các cha.
Điều mà tôi chú ý hơn cả, đó là có khoảng 20 cha, đang mặc áo lễ, mà hơn phân nữa là đang ngồi trên chiếc xe lăn.
Trong số các cha ngồi xe lăn, chỉ có một vài cha còn khoẻ, nên tự lặn xe tới bàn thờ, còn các cha khác yếu hơn, nên phải nhờ những người phục vụ lăn xe, mới có thể tới bàn thờ được.
Nắng chiều đã gần tắt, nhưng ánh sáng vẫn còn đủ, để cho thấy rõ những đôi vai gầy gò, những gương mặt hốc hác, của những cuộc đời cũng đã xế chiều.
Được biết, một thời các ngài cũng đã từng là những giáo sư nổi tiếng, cũng đã từng là những mục tử nhiệt tình, cũng đã từng là những nhà truyền giáo hăng say.
Trước đây, các ngài bôn ba chạy rảo khắp đó đây, trên các cánh đồng truyền giáo, mà không hề biết mệt mỏi, vì phần rỗi các linh hồn.
Thế mà hôm nay, các ngài đã giống như những ánh nắng chiều, đã bắt đầu xuôi bóng.
Trong cái tàn lụi của cuộc đời ấy, các ngài đã để lại trong tôi một cảm xúc thật sâu sắc, và một ấn tượng thật đậm nét, làm cho tôi không thể nào quên được.
Tôi cảm thấy bị xúc động thật sự, bởi đang chứng kiến thấy, trên những chiếc xe lăn đó, là có khoảng 20 cuộc đời bệnh tật, yếu ớt, đang dâng thánh Lễ Đồng Tế tạ ơn.
Các ngài dâng lễ tạ ơn, trong ánh nắng ban chiều thật nhạt nhoà.
Những chiếc áo lễ đã bạc màu, như chính cuộc đời của các Ngài.
Những mái tóc đã trắng bạc, nhuốm màu sương gió.
Từng cánh tay run run rẫy rẫy, vẫn đang khát khao dâng lễ hiến tế đời mình.
Chẳng có vị nào, còn có thể cất lên nổi một lời kinh cho trọn vẹn, vì hụt hơi, vì cạn sức.
Riêng vị chủ tế, và một vài vị đứng bên cạnh, sức khỏe còn khá hơn một chút, nên còn có thể cất cao lời kinh tiền tụng, như một lời tạ ơn, thay cho những những anh em tật nguyền.
Các ngài đã dâng lễ tạ ơn, khi mà cuộc đời của các ngài không còn gì để dâng.
Các ngài đã dâng lễ tạ ơn, khi mà đôi tay đã không còn đủ sức, để có thể nâng chén Thánh lên.
Các ngài chỉ có thể mấp máy đôi môi, trong mỏi mệt yếu đuối, đôi tay thì buông rũ trên vành xe lăn định mệnh. Đúng là một Thánh Lễ Ban Chiều!
Cử chỉ truyền phép của các ngài, cũng đã làm cho tôi xúc động nhiều, bởi những bàn tay run rẩy, từ những chiế xe lăn, đang cố gắng nâng lên, để hiệp thông, trong những nỗi đau đớn tật nguyền, do sự già nua mòn mỏi, do những bệnh tật dày vò. Vậy mà, trên từng nét mặt già nua bệnh tật yếu ớt đó, trong từng ánh mắt nhạt nhòa ấy đó, vẫn phản chiếu một tâm tình tri ân thật sâu thẳm.
Tôi thầm nói với chính mình:
“Còn gì nữa mà tạ ơn, khi mà cuộc đời đâu còn có thể đón nhận gì hơn nữa.
Còn gì để tạ ơn, khi mà cuộc đời, đang đi vào chốn tàn lụi tiêu hao cạn kiệt.
Thật, tôi đã không thể hiểu nổi.
Nhưng, khi nhìn vào ánh mắt của các Ngài, tôi đã cảm nhận được là các ngài rất hiểu, cho nên các ngài mới dâng lên những lời tạ ơn.
*****
Mới sáng nay thôi, khi tham dự thánh lễ mở tay của một linh mục trẻ, tôi cũng đã cảm nhận được niềm hân hoan dạt dào, nơi ánh mắt thật tươi sáng, có ca đoàn liên xứ hát rất hay, có nhiều máy quay phim, nhiều máy chụp ảnh, đứng sẵn sàng ở các góc nhà thờ. Bởi các thợ chụp ảnh đã không muốn bỏ sót bất cứ một cảnh đẹp nào.
Tôi cũng cảm nhận được thái độ cao thượng và quảng đại của vị tân linh mục, khi Ngài giang rộng đôi tay để xướng lên những kinh nguyện, như muốn đón nhận cả một tương lai xán lạn, rực rỡ đang chờ đón ngài ở phía trước.
Thánh lễ vừa xong, tôi cũng chứng kiến thấy rất đông những người đứng vây quanh vị tân linh mục trẻ.
Biết bao lời chúc mừng được trao tặng.
Biết bao nỗi niềm hân hoan rạng rỡ trên gương mặt của những người chung quanh, làm cho vị linh mục trẻ mạnh dạn, hiên ngang phấn khởi, quyết tiến bước vào cánh đồng truyền giáo, đã được bề trên sai phái tới.
Tôi cũng lại chứng kiến nhiều giọt nước mắt tuôn rơi, trong nỗi niềm hạnh phúc vô tận, của những bà con họ hàng thân thuộc.
Chiếc áo lễ màu vàng của linh mục trẻ tung bay phất phới, trong ánh nắng của một ngày mới, báo hiệu một tương lai đầy rạng rỡ huy hoàng.
Bầu trời sáng nay trong xanh, không một áng mây, hình như cũng muốn cuốn hút người linh mục trẻ luôn hướng nhìn về Trời cao.
Nhiều người trẻ hiện diện nơi đó, cũng thầm ước mong cho mình, làm sao có được những giây phút ấy, đúng là những giây phút của thần tiên, những giây phút Thiên Đàng.
*****
Sau những suy nghĩ miên man mông lung, bỗng tôi giật mình trở về với thực tại.
Tôi đang tham dự một Thánh lễ ban chiều, của những Linh mục đã xế chiều, trên những chiếc xe lăn.
Không có cờ xí, không có trống kèn, không có kiệu rước, không có ca đoàn, không có tiếng hát, không có máy quay phim, chẳng có máy chụp ảnh, cũng không hề thấy có một người thân quen nào, cũng không thấy có những người ngưỡng mộ, cũng không thấy có một lời chúc mừng hoan hô chúc tụng nào.
Nhà nguyện thật vắng lặng. Chỉ nghe những tiếng lọc cọc của những xe lăn di chuyển trên gian cung thánh thật nhỏ bé.
Phía trước bàn thờ, người ta thấy chỉ có vài chiếc ghế đơn độc, dành cho những người phục vụ.
Còn trên bàn thờ, thì những ánh nến đang cháy một cách thật hững hờ. Dường như nó cũng muốn nhạt nhoà, theo ánh nắng ban chiều.
Những bông hoa thì cũng đang rủ cánh, phản phất những nỗi mệt mỏi, hình như hoa đã được chưng cả tuần lễ nay rồi, mà chưa được thay thế.
Không gian của nhà nguyện, đúng thật là tĩnh lặng của một buổi chiều.
Tôi thì thầm nguyện với Chúa:
“Chúa ơi, đời linh mục, cuối cùng là như vậy đó sao?
Con cứ tưởng, nó sẽ mãi mãi rực rỡ như ngày lễ mở tay sáng nay”.
Chúa không trả lời.
Tôi lại nhìn thẳng lên cây Thánh giá trước mặt, tôi chỉ thấy một sự im lặng hoàn toàn.
Và cây Thánh giá cũ kĩ, với màu đen xám xịt, đang ẩn mình trong bóng đêm, đang dần dần buông xuống. Bỗng tôi hiểu, đây là câu, mà Chúa trả lời cho tôi!
Tôi không dám hỏi thêm điều gì nữa. Tôi chỉ cúi đầu. Tôi chỉ thinh lặng, và nhìn lên cây thánh giá đang mờ dần trong đêm tối, để suy nghĩ về dòng đời đang trôi qua, nơi các linh mục.
Tuy cuộc đời có trôi qua, nhưng sẽ không bao giờ tàn lụi.
Bởi tất cả, cũng giống như dòng sông đang trôi đi, để đổ về phía biển cả, đổ về phía đại dương mênh mông bao la.
Các ngài như ánh hoàng hôn đang lịm tắt, để chờ đợi một bình minh rực rỡ.
Vẫn biết rằng, giọt nắng chiều là giọt nắng hiu hắc.
Áng mây chiều là áng mây buồn rũ.
Và cuộc đời về chiều, cũng hiu hắt, cũng ủ buồn thê thảm.
Nhưng nó vẫn có một cái nét gì đó, rất mầu nhiệm, đang hứa hẹn một cuộc phục sinh, nơi cuối chân trời vĩnh cửu.
Các ngài đã sống đến tận cùng của ơn gọi đời mình, nên tuy vẫn biết cuộc đời mình đang như chiếc lá rơi rụng, nhưng các ngài vẫn cất lời tạ ơn.
Tạ ơn vì được sinh ra để sống đời đời.
Các ngài tạ ơn cho mình.
Các ngài tạ ơn thay cho mọi người, trong đó có tôi, đang tham dự thánh lễ tạ ơn với các ngài.
*****
Bỗng, tôi có những suy nghĩ miên man về cuộc đời của tôi:
Tại sao, tôi thường so đo tính toán với Chúa, khi dâng lời cảm tạ. Còn các ngài, sao lại dâng lời cảm tạ mà không một chút so đo.
Các ngài là những tia nắng chiều, nhưng sao các ngài vẫn còn dọi sáng, để soi dẫn và dạy cho tôi bài học về lòng tri ân.
Từ đó, tôi đã hiểu ra:
Đời tôi phải là một chuỗi những ngày tri ân liên lĩ tạ ơn Thiên Chúa, vì biết bao nhiêu ơn lành tôi đã lãnh nhận được một cách nhưng không.
Không hiểu thánh lễ của các ngài dâng hôm nay, có giống như tâm tình của thánh lễ mở tay đầu đời linh mục của các ngài hay không?
Bởi ngày mở tay thì tràn ngập vui sướng, vì cảm nghiệm được tình Chúa quá bao la.
Ngày mở tay thì quá hạnh phúc, và các ngài đã giang rộng đôi tay, để đón nhận ơn trời bao la.
Hôm nay, cũng những đôi tay đó, tuy không còn sức nữa để giang rộng ra, nhưng tôi vẫn cảm thấy trong tim của các Ngài, vẫn âm ỉ nỗi niềm cảm tạ thật mênh mông.
Thánh lễ nào mà chẳng mang ý nghĩa tạ ơn.
Nhưng thánh lễ tạ ơn ban chiều, với những cuộc đời đã xế bóng, trên những chiếc xe lăn hôm nay, tôi mới thấy rõ một chiều kích hiến tế thật trọn vẹn.
Các ngài dâng cho Chúa cả những nỗi đau của bệnh tật, của tuổi già.
Các ngài dâng cho Chúa cả cuộc đời tàn tạ của mình.
Chính đôi tay run run rẩy rẩy, đang làm nên của lễ, để các ngài dâng lên Thiên Chúa.
Đúng, Chúa không cần của lễ. Nhưng Chúa chỉ cần “một tấm lòng tan nát khiêm cung”.
Bao lâu còn hơi thở, bấy lâu các ngài còn dâng lời cảm tạ.
Bao lâu còn ý thức mình đang hiện hữu, là bấy lâu các ngài vẫn còn muốn nói lên những lời tri ân.
Tôi nắm nhẹ đôi tay yếu ớt của một vị linh mục bị bại liệt trên chiếc xe lăn, tôi hỏi:
– Cha ơi, cha có mệt lắm không?
Cha nói:
– Mệt lắm. Nhưng cần phải tạ ơn Chúa, vì tôi đã “gần hoàn tất cuộc đời lữ hành của tôi rồi”.
Chúa ơi. Thật đáng kính phục làm sao! Tuổi già, đau yếu, bệnh tật, thế mà, các ngài vẫn có một niềm hy vọng thật mênh mông: Không than thở. Không trách móc. Bởi các ngài đã nhìn thấy rõ ánh sáng vĩnh cửu, sau những ngày sống tạm bợ ở trần gian này.
Hạt lúa mì của kiếp người đang mục nát, để trổ sinh mùa lúa trường sinh.
Tôi nhìn các Ngài cô đơn, trong nỗi đau tật nguyền.
Còn các Ngài lại muốn chia sẽ một niềm vui có Chúa.
Tâm tư thật khác nhau.
Người đang lãnh nhận quá nhiều ân huệ Chúa ban như tôi, thì tôi lại quên tạ ơn Chúa.
Còn các ngài, các ngài đang mất mát héo tàn, thì lại hết lời chúc tụng tạ ơn Chúa.
Các ngài với đôi tay run rẩy, mà lại cảm thấy dư tràn.
Còn tôi, với đôi tay mạnh khỏe thì lại cảm thấy thiếu thốn.
Cái có của tôi, thật không bao giờ đủ. Bởi tại bàn tay của tôi có quá nhiều kẻ hở, có quá nhiều rãnh, hay tại vì trái tim của tôi có quá nhiều vách ngăn che chắn, hay lòng tham của tôi không có đáy?
Tôi đang lo đi tìm bằng cấp, lo đi tìm vinh dự, lo đi tìm một chỗ đứng vinh sang trong đời, thì các Ngài lại trả cho đời, những danh dự, những bằng cấp, và những chỗ đứng ở xã hội, để đi vào sự kết hiệp với Chúa một cách thâm sâu tuyệt dịu.
Các ngài đã dạy cho tôi bài học:
“Chỉ có Chúa mới là phần gia nghiệp cho tôi thôi”.
Bao lâu tôi chưa cảm thấy Chúa là gia nghiệp, thì bấy lâu lòng tôi vẫn còn cảm thấy đói, miệng tôi vẫn còn cảm thấy khô, và lòng tôi vẫn còn cảm thấy khát.
*****
Cuộc đời chúng ta hôm nay, chưa có được một tâm tình tạ ơn sâu thẳm như các ngài, bởi lòng chúng ta chưa cảm thấy no, hồn chúng ta chưa cảm thấy đủ.
Bao giờ chúng ta mới được no đủ, đó vẫn là nỗi giằng co triền miên trong lòng chúng ta.
Lòng ta đang mong có thêm nữa, nên ít khi ta biết tri ân những gì ta đang có.
Sóng gian tham vẫn cuồn cuộn trong ta, nên ta không tìm được sự bình an trong lòng.
Ngẫm nghĩ nơi ta, có nhiều cái nghịch lý:
Chẳng hạn:
Khi ta nhận một món quà nào đó của ai, tuy nhỏ thôi, thế mà lòng ta hân hoan sung sướng, và rất nâng niu trân trọng món quà đó.
Còn món quà cuộc sống của ta, do Chúa ban cho, nó lớn lao, nó phi thường còn hơn đại dương mênh mông, thì ta lại thường quên lãng, và không mấy khi biết cám ơn Chúa về món quà này.
Lạy Chúa, mỗi khi con nhớ lại những chiếc xe lăn tiến vào nhà nguyện hôm nao, thì con nghe lòng con xôn xao và bâng khuâng khó tả.
Bâng khuâng, vì cảm kích những cuộc đời linh mục tàn tật, già nua, nhưng vẫn tiếp tục hân hoan và vui sống đến tận cùng cuộc đời hiến dâng, vẫn chất chứa trong tim những tâm tình tạ ơn thật sâu thẳm, vẫn tràn trề niềm hy vọng, cho dẫu bao tàn tạ của kiếp sống nhân sinh.
Lạy Chúa, xin giúp cho mỗi người chúng con luôn biết sống tâm tình tri ân, như các linh mục của Chúa. Amen.