Phụ Nữ Trong Giáo Hội Công Giáo

print

PHỤ NỮ TRONG GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

Trần Duy Nhiên

1- Phụ nữ, người ở đâu?

Phụ nữ và tôn giáo. Hai từ ngữ này vừa gần gũi nhau vừa chống đối nhau. Hình như trong mọi tôn giáo, phụ nữ chiếm đa số thành phần tín hữu giữ đạo (và đất nước càng phát triển thì thành phần đa số này lại càng lớn);  thế nhưng quyền bính về tôn giáo thì hầu hết lại do người nam nắm giữ. Phải chăng mọi tôn giáo đều mang cái mầm ‘ghét phụ nữ’ (misogynic) hay vì các tôn giáo được khai sinh vào thời đại mà quan niệm trọng nam khinh nữ đã ăn sâu vào trong tổ chức tôn giáo?

Với tư cách là người Việt Nam, chúng ta không thể nào không thấy rằng mình đang sống trong một thời đại mà người nữ sánh vai ngang bằng với người nam, ít ra là về mặt luật pháp, xã hội và nghề nghiệp,

Và với tư cách là Kitô hữu, chúng ta lại tin rằng Đức Kitô là đấng giải phóng, và một trong các chiều kích giải phóng của Ngài là giải phóng phụ nữ. Có người còn cho rằng chính Ngài là người đã khởi xướng phong trào giải phóng phụ nữ. Trong xã hội Do Thái của thời Ngài, người nữ chỉ là một con số không, thế mà Ngài đã đối xử với họ một cách thật trân trọng. Chúa đã quí mến Matta và Maria. Trong nhóm người theo Ngài vẫn có những phụ nữ. Dưới thập giá Ngài, ngoài thánh Gioan ra, chỉ toàn là phụ nữ.

Nhưng cũng bởi vì chúng ta vừa là người Việt Nam vừa là Kitô hữu, nên chúng ta mang trong trong lòng mình cùng một lúc hai truyền thống: truyền thống Việt Nam với nhiều dấu ấn của Tam giáo, và truyền thống Kitô giáo với nhiều vết tích của Do Thái giáo. Vì thế, khi nói đến người nữ, một số quan niệm – có thể rất lỗi thời, nhưng vẫn âm ỷ sống – cứ chực trào lên. Về phía Khổng giáo: “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Về phía Do Thái giáo, sách Talmud ghi: “Thà đốt sách Torah (1) còn hơn là trao sách ấy cho một phụ nữ”.

Xuyên qua dòng lịch sử thăng trầm, chỗ đứng của người phụ nữ trong Giáo Hội hiện nay như thế nào? Chúng tôi sẽ dựa vào một số tư liệu, đặc biệt là Actualité des Religions (2) để xem xét vấn đề này.

2- Phụ nữ trong các tôn giáo ngoài Kitô giáo

Trong Do Thái giáo

Trải qua một thời gian thật dài, người phụ nữ Do Thái chẳng những không có quyền lên tiếng ở Hội Đường; mà ngay cả trong tổ chức của các cộng đồng Do Thái, họ cũng không được quyền tham dự. Hai mươi năm trở lại đây, trong các cộng đoàn Do Thái giáo ở ngoài Israel, người ta đã thấy người nữ bắt đầu học hỏi về Talmud. Một số phụ nữ đã trở thành luật sư trong các tòa án cộng đồng Do Thái (avocates des tribunaux rabbiniques). Một số người đã được công nhận là rabbi, nghĩa là tiến sĩ luật Do Thái (hiện nay ở Mỹ có hơn 500 nữ rabbi). Tuy nhiên họ chỉ can thiệp vào những công việc toà án và hành chánh. Trong Hội Đường, trước sau như một, Luật Do Thái, Halakhah, vẫn cấm họ lên tiếng; nghĩa là dù họ có tài giỏi và đạo đức đến đâu, thì họ vẫn không có quyền đọc và giải thích Lời Chúa trong Hội Đường.

Trong Hồi Giáo

Luật Hồi Giáo Charia không nhẹ nhàng gì đối với người nữ. Họ luôn phải phục tùng chồng, hoặc cha hoặc anh em trai. Ngay về vấn đề thừa kế họ cũng không có quyền được chia gia sản đồng đều với anh hoặc em trai mình. Giá trị của họ chỉ bằng một nửa người nam. Ví dụ về giá trị của một lời chứng, Kinh Coran nói rõ ràng: lời nói của một người nam có giá trị bằng hai người nữ, vì nếu một người quên, thì người kia sẽ nhắc (II, 282). Tuy nhiên cánh cửa về quyền bính tôn giáo không hoàn toàn đóng đối với họ. Kinh Coran vẫn cho họ được bình đẳng với tư cách là tín hữu. Cho tới nay một số phụ nữ đã được học thần học, và có thể nói về đạo ngoài xã hội. Còn trong đền thờ Hồi Giáo (mosquée) thì người nữ không có quyền lên tiếng. Dĩ nhiên, người nữ chưa thể nào giữ chức vụ imam, nghĩa là trưởng một cộng đoàn cầu nguyện, người có thể xướng kinh cho cộng đoàn. Vào thế kỷ thứ XIV, triết gia Ibn Khaldoun – một người được tôn trọng như Thomas d’Aquin đối với Công giáo -, đã khẳng định rằng người nữ không thể nào giữ được chức vị ấy vì không bao giờ đáp ứng được bốn điều kiện sau: kiến thức, sự công minh, khả năng chuyên môn và sức mạnh thể lý (sic!). Tuy nhiên ông cũng nói thêm rằng: dù sao đi nữa, chức vụ này không thể trao cho phụ nữ vì sứ điệp Coran chỉ dành cho người nam.

Trong Phật Giáo

Phật Giáo khó lòng chấp nhận người nữ bằng hàng với người nam. Giáo lý chấp nhận rằng người nữ ‘cũng’ có khả năng đi đến giác ngộ… nhưng phải thông qua một số điều kiện, mà một trong các điều kiện là phải đầu thai làm một người nam. Ví dụ, truyền thuyết về vị công chúa, con vua Sagara (ngay tên công chúa cũng không được ghi, mà chỉ ghi tên cha mình). Cô ở vào tình trạng sắp giác ngộ. Khi nghe một môn sinh của Đức Phật giảng rằng người nữ cũng có thể trở thành Bồ Tát, cô bèn nhập vào hình hài một người nam (!) và giác ngộ. Qua các thời đại, người nữ đã bắt đầu lên tiếng. Tuy tại Việt Nam và tại Trung Quốc không thấy một sự phản kháng nổi bật nào từ phía phụ nữ, thì tại Kampuchia, tại Sri Lanka, tại Đài Loan, tại Thái Lan, một số phong trào phụ nữ đã nổi lên đòi quyền bình đẳng giữa các thượng tọa và các ni cô, nhưng kết quả cũng chẳng đi đến đâu. Quả thật, Đức Dalai Lama có kêu gọi để cho người nữ được quyền giữ các chức vị trong tôn giáo như các thượng tọa ở Tây Tạng, nhưng cho đến nay điều này vẫn chưa được thực hiện. Năm 1966 một lãnh đạo phong trào phụ nữ đề xuất một bộ luật nhằm đem đến sự bình đẳng trong chức vụ trong Phật Giáo giữa nam giới và nữ giới. Giới thẩm quyền trong đạo đã dứt khoát: “Không có luật đời nào có quyền thay đổi giáo huấn của Đức Phật.” Một tạp chí đăng tải như sau: “Than van về vấn đề kỳ thị nam nữ chỉ là công dã tràng: sự phân biệt ấy là một thực tại gắn liền với kiếp đàn bà.”

3 – Phụ nữ trong Kitô Giáo

Hoài bão của phụ nữ

Trong Kitô giáo thì chỗ đứng của phụ nữ có vẻ thuận lợi hơn. Những nền thần học hướng về quyền phụ nữ đã được khởi xướng từ hậu bán thế kỷ 20, cùng với những sự thăng tiến về vai trò phụ nữ trong xã hội. Những tiếng nói đòi hỏi quyền bình đẳng phụ nữ khởi đầu với hai biến cố, đó là sự ra đời của phong trào giải phóng phụ nữ và Thần Học Giải Phóng. Tuy nhiên đòi hỏi này từng gặp sự nghi ngờ của hàng giáo phẩm. Dù sao đi nữa, các nhà thần học nữ trong thế kỷ này có một hoài bão cao hơn: họ muốn được tham gia trọn vẹn vào đời sống các Giáo Hội, mà không chỉ dựa vào những khuôn mẫu do người nam đề ra mà thôi. Muốn làm như thế, họ bắt đầu đọc lại Kinh Thánh. Con đường đến với Kinh Thánh vẫn mở rộng đối với phụ nữ hơn là con đường chức vụ quyền bính trong các Giáo Hội Kitô giáo. Họ nối tiếp truyền thống các nữ ngôn sứ thời xa xưa (3) và tìm kiếm trong Kinh Thánh vai trò của họ với tư cách là người nữ. Họ tin rằng cảm nghiệm người nữ hoàn toàn khác biệt với cảm nghiệm của người nam, và họ có bổn phận phải đón nhận gia sản Kinh Thánh cho chính mình.

Những hướng đọc Kinh Thánh dưới cái nhìn phụ nữ

Có ít nhất là ba hướng đọc lại Kinh Thánh dưới cái nhìn phụ nữ.

– Một trong phương hướng nghiên cứu là tìm cách đọc lại những đoạn Kinh Thánh hầu cho thấy rằng người phụ nữ đã từng bị coi thường. Ví dụ năm 1984, Phyllis Tribble nêu lên vài câu chuyện điển hình, và viết lại trong một tác phẩm của bà dưới nhan đề là Tragic Destinies  (Những số phận bi đát): số phận của Haggar, nữ tì của Sarah, đem hiến cho Abraham rồi sau đó bị đuổi đi; số phận của Thamar, con gái của David, bị người anh cùng cha khác mẹ với mình là Amnon hãm hiếp; hay số phận của người con gái Jephté, mà thậm chí ta không biết tên: cô là nạn nhân vì một lời nguyền của cha mình là sẽ tế sát người đầu tiên ông gặp khi ông trở về trong chiến thắng. Đối với Phyllis Tribble, đấy không phải là ‘chuyện đời xưa’, nhưng đấy vẫn còn là điều đang xảy ra trong thời đại chúng ta: số phận của người nữ bị áp bức.

– Hướng nghiên cứu thứ hai là tìm lại những vị trí của phụ nữ mà cách đọc của nam giới đã làm mờ nhạt đi. Điển hình là Elisabeth Schussler-Fiorenza. Trong tác phẩm In Memory of Her (Để tưởng nhớ đến Bà), bà đã nhắc lại vị trí của người phụ nữ bằng cách lập lại lời sau đây của Chúa: “Nơi nào Phúc âm được rao giảng, trên khắp thế gian, thì người ta sẽ kể lại điều bà đã làm, để tưởng nhớ đến bà”. Qua đó bà cho thấy rằng phụ nữ là yếu tố không thể thiếu được trong quá trình hình thành Giáo Hội và rao giảng Tin Mừng.

– Một trào lưu thứ ba là xét lại ngôn từ trong Kinh Thánh. Ví dụ Virginia Molenkott liệt kê những từ ngữ giống cái mà ngôn ngữ Do Thái dùng để chỉ định Thiên Chúa: như Shekina (Đấng Hiện Diện) hoặc Ruah (Thần Khí). Điều này cho thấy rằng Thiên Chúa là Cha nhưng đồng thời Người cũng là Mẹ; nói cách khác, Thiên Chúa cũng có nữ tính, và nữ tính này đã bị các giáo phụ làm mờ đi qua các thời đại. Do đó, chỉ có người nữ, với sự nhạy cảm và lối tiếp cận hoàn toàn mang nữ tính mới cân bằng lại quan điểm đầy nam tính từ trước đến giờ đối với Kinh Thánh.

Bước thăng tiến của phụ nữ

Tất cả những cố gắng của phong trào bình đẳng nữ giới đã mang nhiều thăng tiến cho phụ nữ trong các Giáo Hội Kitô giáo. Từ hai thập kỷ qua, người nữ đã có mặt trong mọi lãnh vực giáo hội: từ giáo lý viên đến giáo sư thần học, từ vai trò linh hoạt viên đến những chức vụ trong các hội đồng cao cấp. Riêng trong lãnh vực phụng tự, phụ nữ được cử hành phụng vụ lời Chúa như người nam, mà không có một sự phân biệt nào. Tuy nhiên, trong vấn đề chức thánh thì còn có giới hạn. Dù Giáo Hội Tin Lành tại Pháp đã có mục sư từ 1966 và Anh giáo chấp thuận cho phụ nữ được phép nhận chức linh mục, thì số lượng người có chức thánh này cũng còn rất ít so với người nam, trong khi đó số tín hữu giữ đạo thì nữ giới lại chiếm tuyệt đại đa số. Riêng trong giáo hội Chính Thống và Công Giáo, người nữ không thể nhận chức linh mục.

4 – Người nữ và chức linh mục trong Giáo Hội Công Giáo

Một giai thoại

Tháng 10 – 1979, một năm sau ngày Đức Gioan Phaolô II được tấn phong giáo hoàng, Ngài thực hiện chuyến viếng thăm mục vụ tại Mỹ và có mặt tại Vương Cung Thánh Đường Washington. Lối chừng 50 nữ tu không mặc tu phục cầm khẩu hiệu: ‘Nếu phụ nữ có khả năng làm bánh, thì họ cũng có khả năng bẻ bánh’. Nữ tu Theresa Kane được cử lên tiếp kiến Đức Giáo Hoàng và bà tuyên bố trong máy vi âm. “Thưa Đức Thánh Cha, Giáo hội phải đáp ứng những thiệt thòi của phụ nữ bằng cách xét xem khả năng của họ trong ngay cả việc lãnh nhận chức thánh.” Đám đông hoan hô, nhưng Đức Giáo Hoàng không phát biểu gì cả.

Vài tuần sau, nữ tu này đến Vatican và được một cha trong Tòa Thánh tiếp kiến cùng với lời yêu cầu: ‘Đề nghị xơ làm sáng tỏ lời phát biểu của mình’. Bà đã khẳng định: ‘Con muốn cha hiểu rằng con bao hàm luôn cả việc thụ phong linh mục cho nữ giới; đúng, cả việc thụ phong nữa.’ Tòa Thánh vẫn không nói gì, nhưng sau này, khi nữ tu Theresa Kane xin yết kiến Đức Giáo Hoàng, thì được văn phòng Toà Thánh phúc đáp rằng “cuộc gặp gỡ sẽ không thích hợp (4)”

Hiện nay nhiều nhóm người ở Âu Mỹ có khuynh hướng xem Đức Gioan Phaolô II là một Giáo Hoàng ‘ghét phụ nữ’ (misogynic). Những luận cứ họ đề ra như một bằng chứng là vì Ngài luôn chống đối việc phá thai và việc phong chức linh mục cho phụ nữ. Sự thật thế nào?

Quan điểm của Đức Gioan Phaolô II đối với phụ nữ

Có lẽ nên trở về với những lời phát biểu của Đức Giáo Hoàng, mà mọi người chắc chắn là những lời nói xuất phát tự đáy lòng Ngài.

Những lời hay nhất mà Đức Gioan Phaolô II đã phát biểu về phụ nữ xuất hiện trong Thư gởi phụ nữ (tháng 6-1995). Những lời cảm động nhất nằm trong một đoạn của Vita consecrata (tháng 3-1996) [Đời sống thánh hiến], nói lên rằng phụ nữ là ‘dấu chỉ lòng trìu mến của Thiên Chúa đối với nhân loại”. Những lời thi vị nhất nằm trong Mulieris dignitatem (tháng 9-1988) [Phẩm giá người nữ]: ‘Tiếng reo của người nam đầu tiên khi thấy người nữ vừa được tạo thành là một tiếng reo ngưỡng mộ và vui mừng, và tiếng reo ấy đã xuyên qua suốt dòng lịch sử nhân loại ở trần gian’.

Trong Thư gửi phụ nữ, ta có thể đọc:

“Cám ơn người, người nữ, chỉ vì người là phụ nữ! Nhờ cách nhận thức đầy nữ tính mà người đã làm phong phú cho sự thông cảm của thế giới và góp phần vào sự chính trực của các tương quan giữa người và người.

Nhưng, tôi biết rằng chỉ cám ơn mà thôi thì chưa đủ. Đau lòng là chúng ta đã kế thừa từ lịch sử nhiều yếu tố tác động khiến cho, ở mọi thời và mọi nơi, con đường của phụ nữ thật khó đi: người ta coi nhẹ phẩm giá của họ, bỏ qua quyền hạn của họ, thường gạt họ ra ngoài lề xã hội và thậm chí biến họ thành nô lệ…

Nhân loại đã mắc một món nợ khổng lồ vì cái “truyền thống” trọng nam khinh nữ ấy. Biết bao phụ nữ đã và đang bị đánh giá dựa trên ngoại hình hơn là dựa trên khả năng, trình độ nghiệp vụ, hoạt động trí thức, sự nhạy cảm phong phú của họ, và tóm lại, dựa trên chính cái phẩm giá của con người họ !” (Thư gửi phụ nữ, 29-06-1995)

Trong tông huấn Vita consecrata, ta không thể nào bỏ qua đoạn này:

“Từ kinh nghiệm về Giáo hội và lối sống của người nữ trong Giáo hội, nữ tu góp phần xóa đi một số quan niệm một chiều; những quan niệm ấy ngăn cản không cho ta nhận thấy phẩm giá của họ, phần đặc thù mà họ đóng góp vào đời sống và hoạt động mục vụ và truyền giáo của Giáo hội. Như vậy, quả là chính đáng nếu nữ tu ao ước được nhìn nhận rõ ràng hơn chân tính, khả năng, sứ mạng và trách nhiệm của họ, trong nhận thức của Giáo hội cũng như trong đời thường. […] Do đó, khẩn thiết phải thực thi vài bước cụ thể, khởi sự bằng cách mở ra cho người nữ những không gian để họ tham gia vào nhiều khu vực khác nhau và ở mọi mức độ, kể cả trong tiến trình soạn thảo các quyết nghị, nhất là những quyết nghị liên quan đến họ.” (Tông huấn Vita consecrata, tháng 3-1996)

Từ nữ tu, Đức Thánh Cha đã ngỏ lời với toàn bộ phụ nữ, và đề cao giá trị của họ. Trong một số đoạn của Mulieris dignitatem (1988), Ngài đã sửa sai thánh Phaolô (chưa một giáo hoàng nào làm như vậy trước đây) và sửa sai cả lịch sử Giáo hội, về vấn đề người nam “là chủ nhân” của người nữ và về tội lỗi của bà Eva:

“Một cách nào đó, lời mô tả của Kinh Thánh về tội nguyên tổ trong sách Khởi nguyên (chuơng 3) “đã phân chia vai trò” của người nữ và người nam. Sau này, một số đoạn Kinh Thánh khác cũng qui chiếu lại, ví dụ như trong thư Thánh Phaolô gửi ông Timôthê: “Chính Adam đã được tạo dựng trước, rồi mới đến Eva. Cũng không phải Adam đã sa ngã khi bị dụ dỗ, mà là người đàn bà.” (1 Tm 2,13-14). Nhưng không còn nghi ngờ gì nữa, dù cho bài mô tả của Kinh Thánh có “có phân chia các vai trò”, thì tội đầu tiên này vẫn là tội của loài người, mà Thiên Chúa đã dựng nên có nam có nữ. Đấy cũng là tội của những “cha mẹ tiên khởi”, kèm theo tính chất cha truyền con nối. Và vì thế mà ta gọi là tội nguyên tổ.” (Mulieris dignitatem, tháng 9-1988, số 9)

Có lẽ không cần phải quảng diễn lâu dài về những điều mà mọi người đều đọc được và hiểu được về quan điểm của Đức Thánh Cha. Nhưng Đức Thánh Cha cũng là người đứng đầu của Giáo Hội Công Giáo, vì thế hơn ai hết, Ngài phải trung thành với lập trường Giáo Hội. (5)

Lập trường Giáo Hội

Về chức linh mục, Giáo Luật chỉ có một câu duy nhất liên quan đến người nữ, hay đúng hơn chỉ có một câu nói lên điều kiện mà phụ nữ không thể có được. Điều 1024 ghi một cách ngắn gọn: ‘Chỉ người thuộc nam giới đã nhận lãnh bí tích Thánh Tẩy mới được nhận lãnh thành sự chức thánh.’

Có nhiều văn bản nói lên lập trường của Giáo Hội, nhưng ở đây, chúng tôi chỉ nhắc lại ba văn bản gần chúng ta nhất. Văn bản thứ nhất là tuyên ngôn Inter Insignores mà Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin công bố năm 1967, dưới triều đại của Đức Phaolô VI. Đây là văn bản với nhiều luận cứ và khá ôn hòa, vì trong thời gian Công Đồng Vatican II, vấn đề chức linh mục của phụ nữ đã được đề ra và ý kiến phản đối cũng như ý kiến ủng hộ đều có cơ sở vững vàng. Tuy nhiên lời kết luận của văn kiện ấy thật rõ ràng. Trong phần này có một câu mà người ta đã gán một cách sai lầm cho Đức Gioan Phaolô II: “Giáo hội… cảm thấy rằng mình không được phép chấp thuận việc thụ phong linh mục cho phụ nữ.” Để chấm dứt sự tranh luận kéo dài mãi không ngơi, vào tháng năm 1994, Đức Gioan Phaolô II đã công bố Tông Thư Ordinatio sacerdotalis. Văn kiện này là một trong những văn kiện ngắn nhất, chỉ dài có 6 trang. Và dù Ngài là một Giáo Hoàng thao thức nhất từ trước đến giờ đối với vai trò phụ nữ, lập trường vào cuối thư vẫn dứt khoát: “Tôi tuyên bố rằng Giáo Hội không thể nào có quyền trao chức linh mục cho phụ nữ và lập trường này phải được mọi tín hữu xem là lập trường vĩnh viễn”. Vĩnh viễn!  Thế nhưng người ta vẫn tiếp tục bàn ra tán vào. Đến năm 1997, cũng chính Giáo Hoàng đã phê chuẩn một văn kiện nữa của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin và ra lệnh công bố văn kiện ấy. Văn bản ngắn gọn nhưng rõ ràng: ‘Dựa trên Lời Chúa (nên người ta phải xem lập trường Giáo Hội về vấn đề chức linh mục của phụ nữ) là một tín điều thuộc Kho Tàng đức tin… do Huấn Quyền đề ra một cách bất khả ngộ … Huấn Quyền yêu cầu mọi người qui thuận một cách vĩnh viễn” (Người viết nhấn mạnh). Văn bản này là văn bản tối hậu và mang tính chất tín lý. Nhưng rồi những phong trào đòi quyền thăng tiến phụ nữ vẫn tiếp tục âm ỷ bàn tán, đặc biệt là ở Mỹ châu.

5- Phụ nữ trong Giáo Hội ngày mai?

Nhìn lại các tôn giáo, ta thấy rằng phụ nữ luôn bị thiệt thòi. So với các tôn giáo bạn, thì hình như Kitô Giáo dành cho người nữ sự tôn trọng cao hơn, tuy nhiên một sự bình đẳng hoàn toàn là một điều chưa được thực hiện, đặc biệt là về phương diện chức thánh. Dù sao, vấn đề này chưa phải là một vấn đề phải ray rứt đối với Giáo Hội Việt Nam.

Trong Giáo Luật hiện hành (1983), điều 204 §1nêu lên như sau:

Các tín hữu Kitô, với tư cách là người đã được sáp nhập vào Chúa Kitô nhờ Bí tích Thánh Tẩy, cấu thành dân Thiên Chúa và, do đó vì đã được thông phần, theo cách của mình, vào chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Đức Kitô, nên được mời gọi mỗi người, theo địa vị riêng mình, thực thi sứ mạng Thiên Chúa trao cho Giáo Hội phải chu toàn nơi trần gian.

‘Các tín hữu Kitô … được thông phần vào chức vụ tư tế…’ Tư tưởng này đã được công bố từ thời Vatican II (Lumen Gentium, số 34), và giờ đây đã trở thành Luật. Thế nhưng bốn mươi năm sau, người giáo dân Việt Nam còn xa tít trên con đường trở nên tư tế theo địa vị riêng mình. Muốn được như thế, còn cần phải nỗ lực thật nhiều ở cả hai phía: giáo sĩ và giáo dân. Bởi lẽ hiện nay, hàng giáo sĩ Việt Nam vẫn tiếp tục ‘đau lòng’ vì giáo dân Việt Nam còn ‘ấu trĩ’; và giáo dân Việt Nam vẫn tiếp tục ‘xót xa’ vì, ở  không ít nơi, họ ‘có bổn phận’ phải tỏ ra là những ‘con chiên ngô nghê và ngoan ngoãn’ để cho các ‘cha’ thể hiện quyền bính ‘chủ chăn’. Chỗ đứng của người giáo dân đã vậy, thì nói chi đến vị trí và vai trò người nữ. Do đó vấn đề chưa phải là đến lúc đặt ra ở Việt Nam, và chúng tôi lại càng không bao giờ đặt vấn đề về chức thánh của phụ nữ tại Việt Nam. Người nữ ở Việt nam, dù là nữ tu hay giáo dân, rất thoải mái trong gia đình Giáo Hội và họ cảm thấy hạnh phúc. Không lý do gì lại gieo mầm bất an cho mọi người và người mất mát đầu tiên lại là chính họ. Tuy nhiên, trong thời đại mà thế giới đã trở nên một ngôi làng thì mọi thông tin vẫn đến tai mọi người từ mọi phương trời. Vì vậy, thay cho lời kết luận, chúng tôi xin trích dẫn lời của Jean Paul Guetny, khi ông nói về quyết định vĩnh viễn của Toà thánh đối với chức linh mục của phụ nữ:

“Tôi không dám xác quyết về sự phủ nhận ‘vĩnh viễn’ của Giáo Hội La mã. Không phải chỉ cần quyết định rằng một điều gì đó là vĩnh viễn thì nó sẽ trở thành vĩnh viễn. Suốt bao nhiêu thế kỷ, người ta đã quả quyết rằng phép Giải Tội chỉ được ban một lần duy nhất trong đời, và việc cho vay có lãi là một việc làm phản đạo đức. Thế nhưng Giáo Hội đã xem xét lại hai vấn đề này. Trong thế giới con người của chúng ta, mọi thứ điều chuyển biến, kể cả những điều thuộc lãnh vực tôn giáo. Và những chuyển biến ấy nhiều khi xảy ra do sức ép của các biến cố trong thực tế cuộc đời.”●

Chú thích

  1. Hai sách thánh trong Do Thái Giáo. So sánh Do Thái Giáo với Công giáo, thì Torah tương đương với Phúc âm, nghĩa là Lời Chúa; còn Talmud tương đương với Giáo Luật, nghĩa là những qui định cần phải tuân giữ.
  2. Actualité des Religions, số 3. Le dossier: Pour ou contre les femmes aux commandes.
  3. Điều ít ai để ý tới là phụ nữ cũng từng là ngôn sứ từ ngày xa xưa. Trong biến cố Dâng Hiến Chúa Giêsu vào đến thành – Lc 2,22tt – có hai nhân vật, đó là ‘một người tên là Simêôn. Ông là người công chính và sùng đạo’ và ‘ lại có một nữ ngôn sứ tên là Anna, con ông Pơnuen, thuộc chi tộc Ase’. Thế mà ông đạo đức nọ được mọi người nhớ rõ, còn nữ ngôn sứ kia thì ít ai nhớ đến.
  4. Theo ‘His Holiness John Paul II and the hidden history of our time’ của Carl Bernstein và Marco Politi; xem bản dịch « Đức Giáo Hoàng John Paul II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta » của Nguyễn bá Long và Trần quý Thắng. Nhà xuất bản Công An Nhân Dân – Hà nội 1997 – Chuơng « Bà Eva », tr. 864tt
  5. Về vấn đề thái độ và quan điểm đối với phụ nữ của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, xin tham chiếu tác phẩm: ‘Quand le pape demande pardon’ [Quando il papa chiede perdono], của Luigi Accattoli, nhà xuất bản Albin Michel 1997. Phần II, chương 4: Phụ nữ. Trang 125tt.