SCĐ Lễ Thăng Thiên C

SCĐ LỄ THĂNG THIÊN

Chủ đề :

Chuyển sang một giai đoạn mới

“Hãy nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân” (Lc 24,47)

 

Sợi chỉ đỏ :

– Bài đọc I (Cv 1,1-17) : Những lời dạy cuối cùng của Chúa Giêsu trước khi thăng thiên.

– Đáp ca (Tv 46) : Chúa lên trời, tiếng hò reo dậy đất ; Chúa lên trời, nhịp kèn sáo trổi cao.

– Bài đọc II (Êp 1,17-23) : Thánh Phaolô giải thích ý nghĩa việc Chúa Giêsu “lên trời” : “Thiên Chúa đã tôn Đức Kitô lên”

– Tin Mừng (Lc 24,46-53) : Chúa Giêsu sai các môn đệ rao giảng Tin Mừng cho muôn dân.

I. Dẫn vào Thánh lễ

Việc Chúa Giêsu thăng thiên đánh dấu một bước ngoặc trong việc loan báo Tin Mừng. Trước đây, loan báo Tin Mừng chủ yếu là việc của Chúa Giêsu. Nhưng từ đây, việc này chủ yếu là của Giáo Hội, với sự hỗ trợ đắc lực của Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần. Bởi đó, khi từ biệt các môn đệ, Chúa Giêsu đã trao sứ mạng “Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.

Hôm nay, sứ mạng này được trao cho thế hệ chúng ta. Vậy chúng ta hãy cầu xin Chúa hỗ trợ để chúng ta chu toàn sứ mạng Chúa trao.

II. Gợi ý sám hối

– Chúng ta có lỗi vì hay quên rằng Chúa Giêsu là Đấng đang sống và đã được Chúa Cha trao cho toàn quyền. Do lỗi này nên chúng ta dễ chán nản và không cậy dựa vào Ngài.

– Chúng ta có lỗi vì chỉ hướng về trời mà quên trách nhiệm xây dựng thế giới của mình.

– Chúng ta có lỗi vì ít quan tâm loan báo Tin Mừng.

III. Lời Chúa
  1. Bài đọc I: Cv 1,1-11

Những lời dạy cuối cùng của Chúa Giêsu trước khi thăng thiên :

– Chúa Giêsu dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các môn đệ biết rằng sau khi đã chịu nạn chịu chết, Ngài vẫn đang sống.

– Ngài căn dặn họ chờ điều Thiên Chúa hứa ban, tức là ban Chúa Thánh Thần.

– Trao cho họ sứ mạng làm chứng cho Ngài trên khắp thế giới.

  1. Đáp ca: Tv 46

Tv này ca tụng vương quyền của Giavê Thiên Chúa. Phụng vụ hôm nay áp dụng Tv này cho Chúa Giêsu, Đấng được Thiên Chúa tôn lên làm vua và trao cho mọi quyền hành trên trời dưới đất.

  1. Bài đọc II: Êp 1,17-23

Thánh Phaolô chúc cho các tín hữu được ơn khôn ngoan để lòng trí mở ra mà hiểu rõ đâu là niềm hy vọng mà họ đã nhận được.

  1. Bài Tin Mừng: Lc 24,46-53

Bài Tin Mừng này có hai phần :

  1. Những lời căn dặn cuối cùng của Chúa Giêsu (cc 46-49) :

– Sự cần thiết của Thập giá : đã có chép từ lâu trong Sách Thánh rằng Đấng cứu thế phải qua chịu nạn rồi mới tới phục sinh.

– Môn đệ Chúa phải rao giảng và làm chứng về việc Ngài chết và sống lại.

– Chúa Giêsu sẽ ban Thánh Linh cho môn đệ.

  1. Chúa Giêsu lên trời (cc 50-53) : Luca đã dùng cách viết của loài người để tạm diễn tả việc Chúa Giêsu siêu thăng. Ngài siêu thăng không có nghĩa là Ngài rời bỏ một nơi (trái đất) để đến một nơi khác (trời), mà là

– Ngài thay đổi tình trạng : không còn ở tình trạng loài người hèn hạ nữa, mà trở về tình trạng vinh quang của một vị Thiên Chúa.

– Ngài cũng thay đổi cách hiện diện : từ nay Ngài không thường xuyên hiện diện giữa chúng ta bằng thân xác hữu hình của Ngài nữa, nhưng vẫn hiện diện một cách vô hình dù chúng ta không thấy.

IV. Gợi ý giảng
  1. Thời kỳ sứ mạng của Giáo Hội

Thánh Lễ hôm nay có 2 bài đọc của cùng một tác giả là Thánh Luca : Bài đọc 3 trích phần cuối của quyển Tin Mừng Luca, và bài đọc 2 trích phần đầu của sách Công vụ. Mà chúng ta biết thánh Luca viết một tác phẩm gồm 2 tập : tập I là sách Tin Mừng viết về sứ mạng của Chúa Giêsu bắt đầu từ Galilê đến Giêrusalem, tập II là sách Công vụ viết về sứ mạng của Giáo Hội bắt đầu từ Giêrusalem đến toàn thế giới. Vậy nếu đặt 2 bài đọc của Thánh lễ này vào toàn bộ tác phẩm của thánh Luca thì chúng ta sẽ hiểu rằng tác giả muốn nói : việc Chúa Giêsu thăng thiên là cái bản lề giữa hai sứ mạng đó, hay nói cách khác, lúc Chúa Giêsu thăng thiên là lúc Chúa Giêsu bàn giao sứ mạng lại cho Giáo Hội. Bây giờ chúng ta hãy dựa vào một số chi tiết trong hai bài đọc ấy để tìm hiểu sứ mạng của Giáo Hội và cũng là của chúng ta.

Trước hết, sứ mạng ấy là gì ? Thưa là sứ mạng “làm chứng”, như lời Chúa Giêsu nói “Chúng con sẽ là chứng nhân của Thầy”. Chứng nhân, hay người làm chứng, là kẻ nghe gì nói y lại như vậy, thấy sao thuật y lại như vậy, rất đúng, rất trung thực.

Chúng ta làm chứng cho ai ? Thưa cho Chúa Giêsu. Mà theo cách mô tả của thánh Luca, Chúa Giêsu nay đã lên trời, có một đám mây che khuất Ngài. Không biết có thực ngày xưa đã có một đám mây từ trời đáp xuống như một chiếc dĩa bay, rồi hai thiên thần mời Chúa Giêsu bước lên đứng trên chiếc dĩa bay đó, rồi sau đó chiếc dĩa bay bằng mây từ từ cất lên cao hay không. Điều này không chắc, vì 3 thánh sử kia, tức Matthêu, Máccô và Gioan đều không hề nói về đám mây đó. Thực ra, qua hình ảnh đám mây che khuất, thánh Luca muốn nói rằng Chúa Giêsu không còn hiện diện hữu hình nữa, mắt người phàm không còn trông thấy được Ngài nữa. Nhưng những kẻ làm chứng cho Ngài phải làm chứng thế nào để người ta như là thấy được Ngài thực sự.

Chúng ta làm chứng thế nào ? Sách Công vụ có ghi một chi tiết : Đang lúc các tông đồ cứ dõi mắt đăm đăm nhìn theo bóng dáng Thầy thì hai thiên thần nói với họ : “Hỡi người Galilê, sao còn mãi đứng nhìn trời”. Câu nói bỏ lửng nhưng có nhiều ngụ ý. Chúng ta có thể đoán ra được những ngụ ý sau :

– Đừng luyến tiếc nữa cái thời các ông có Chúa Giêsu ở bên cạnh một cách hữu hình và mọi sự đều do Chúa Giêsu làm hết. Bây giờ đã tới phiên các ông hoạt động, hãy tự mình hoạt động, dĩ nhiên là cũng có sự trợ giúp của Chúa Giêsu vẫn còn hiện diện cách vô hình bên cạnh các ông, nhưng chính các ông phải hoạt động.

– Ngụ ý thứ hai là đừng chỉ mãi mê mơ tới ngày được lên hưởng thiên đàng với Chúa Giêsu, điều quan trọng trước mắt là phải quay về với thế giới hiện tại. Hạnh phúc thiên đàng phải được xây dựng ngay từ trần thế này.

Và chúng ta sẽ làm chứng cho Chúa Giêsu ở đâu ? Chúa Giêsu đã nói rõ : “Chúng con sẽ làm chứng cho Thầy tại Giêrusalem, Giuđê, Samari và cho đến tận cùng thế giới”. Giêrusalem là nơi lúc ấy các tông đồ đang ở, Giuđê xa hơn một chút nhưng cũng quen thuộc vì có nhiều người đã tin Chúa, Samari tuy gần mà xa vì dân miền đó tuy biết Chúa Giêsu nhưng không có cảm tình với Ngài, đến tận cùng thế giới là mục tiêu xa nhất và bao quát nhất. Khi vẽ một bản đồ hành trình làm chứng như thế, ý Chúa Giêsu là hãy bắt đầu làm chứng cho Ngài ngay từ trong nội bộ của mình, rồi từ từ mới lan dần ra. Chúng ta thấy các tông đồ đã thực hiện đúng như thế : nhờ cộng đoàn Giêrusalem sống đoàn kết hiệp nhất, tương thân tương trợ mà người ngoài nhìn vào đã mến phục và xin gia nhập Giáo Hội, thế rồi từ Giêrusalem Giáo Hội lan sang Giuđê, lan sang Samari, lan sang Antiôkia và dần dần tỏa ra khắp thế giới.

Các chi tiết trong hai bài đọc Tin Mừng và sách Công vụ giúp chúng ta thấy được sứ điệp Lời Chúa muốn gởi đến chúng ta hôm nay :

– Chúng ta đã quen dự Thánh Lễ, đọc kinh cầu nguyện và làm một số việc đạo đức khác. Tuy nhiên chúng ta đừng chỉ mãi mê lo xây dựng hạnh phúc thiên đàng cho riêng mình, mà hãy biết lo xây dựng hạnh phúc thiên đàng cho người khác nữa.

– Nói là xây dựng hạnh phúc thiên đàng, nhưng không phải bằng cách chỉ lo đến những việc đời sau, hạnh phúc thiên đàng phải được xây dựng ngay tại cuộc sống trần thế này.

– Và ở trần thế này, nơi chúng ta phải ưu tiên xây dựng hạnh phúc là chính trong nội bộ của mình. Cộng đoàn chúng ta có hạnh phúc thì mới là một hình ảnh đẹp khuyến khích người ngoài đến chia xẻ niềm tin, chia xẻ cuộc sống và chia xẻ hạnh phúc của chúng ta.

– Đó chính là cách chúng ta làm chứng cho Chúa, làm cho người ta tuy bị một áng mây chia cách giữa hữu hình với vô hình nhưng cảm thấy như thực sự nhìn thấy Chúa. Thấy Chúa ở trong chúng ta, ở trong cộng đoàn chúng ta và Giáo Hội chúng ta.

  1. Hiện diện và vắng mặt

Kể từ khi Chúa Giêsu Thăng thiên, Ngài không còn hiện diện cách hữu hình giữa các môn đệ nữa. Nhưng sự vắng mặt thể lý không có nghĩa là không còn hiện diện nữa.

Thực ra nhiều khi sự hiện diện thế lý chẳng là gì cả. Hai người sống chung một nhà, ăn chung một bàn, và thậm chí ngủ chung một giường nhưng vẫn cảm thấy xa nhau vạn dậm, bởi vì lòng và trí họ quá xa nhau. Như người ta nói “đồng sàng, dị mộng” (chung giường nhưng giấc mộng khác nhau).

Trái lại dù thể xác xa cách nhau vạn dậm nhưng người ta vẫn có thể cảm thấy rất gần nhau, miễn là người ta thương nhau và hiểu nhau. Có khi nhờ xa nhau một thời gian mà người ta lại thương nhau hơn và hiểu nhau hơn.

Hơn nữa, trong thời gian ta hiện diện bên cạnh một người thân, nếu đó là một sự hiện diện trọn vẹn thì khi xa nhau, chính sự vắng mặt ấy lại sinh nhiều hoa trái, bởi vì những kỷ niệm lúc gần nhau và tình nghĩa thắm thiết lúc sống bên nhau sẽ còn tiếp tục nuôi dưỡng người thân ấy. Như thế, đối với những người thân nhau thì cả sự hiện diện lẫn sự vắng mặt đều là những món quà.

Từ khi thăng thiên, sự hiện diện của Chúa Giêsu không còn bị hạn chế về không gian và thời gian nữa, nhưng nhờ đó mà Ngài có thể hiện diện ở khắp nơi và trong mọi lúc.

Các kitô hữu đầu tiên đã hiểu rất rõ điều này. Họ biết Chúa Giêsu vẫn ở bên họ, tuy không cùng một cách như trước nữa. Họ tin rằng Ngài đang chia xẻ cuộc sống của họ ; họ còn tin rằng cái chết sẽ giúp họ được hợp nhất mãi mãi với Ngài trong vinh quang.

Có lẽ nhiều người cho rằng các tông đồ ngày xưa hạnh phúc hơn mình bây giờ, bởi vì các vị ấy đã được nhìn thấy Chúa Giêsu. Nhưng các sách Tin Mừng viết rằng dù mắt họ nhìn thấy Chúa Giêsu nhưng họ vẫn chưa hiểu Ngài là ai. Họ chỉ hiểu được Ngài khi đọc sách Thánh và khi dự lễ bẻ bánh.

Đọc sách Thánh và dự lễ Bẻ bánh, đó là những phương tiện giúp nhận ra Chúa Giêsu. Mà những phương tiện này chúng ta ngày nay cũng có. Cho nên, xét về vấn đề nhận ra Chúa Giêsu bằng đức tin thì chúng ta ngày nay cũng chẳng thua thiệt gì hơn so với các tông đồ ngày xưa.

Ngày xưa Chúa Giêsu đã trông cậy vào các tông đồ để Tin Mừng được rao giảng khắp nơi và được mọi người sống theo Tin Mừng ấy. Ngày nay Chúa Giêsu cũng trông cậy nơi chúng ta như thế. Chúng ta phải làm chứng về Ngài cho mọi người trong thế giới hôm nay. (FM)

  1. Loan Tin Mừng và học Tin Mừng

Thông thường, những lời cuối cùng của một người trước khi người ấy từ giã cõi đời, là những điều hết sức quan trọng mà người ấy muốn những người thân yêu ở lại thực hiện. Và những người ở lại thường coi những lời người sắp từ giã thế gian trăn trối như một điều linh thiêng cần thực hiện cho bằng được.

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã căn dặc các tông đồ : “Phải nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem…” Như vậy, sứ điệp quan trọng nhất mà Đức Kitô muốn trao gửi lại cho các môn đệ, và cho mọi Kitô hữu là : hãy tiếp tục sứ mạng loan báo và làm chứng cho Tin Mừng của Ngài trước mọi người, mọi dân tộc trên thế giới.

Thế nhưng thế nào là loan Tin Mừng ?

Nhiều người nghĩ rằng loan báo Tin Mừng là tỏ cho người khác biết mình là Kitô hữu, là làm dấu thánh giá nơi quán ăn, là can đảm xưng mình là người Thiên Chúa giáo trong các tờ lý lịch bất chấp những bất lợi sẽ xảy ra. Kẻ khác nghĩ rằng loan báo Tin Mừng là cố gắng sống cho thật đạo đức, năng đi lễ, năng chịu các bí tích, với mục đích làm gương sáng cho người chung quanh, đồng thời khuyên mọi người làm như vậy. Người khác nữa thì gặp những người ngoại đạo mình quen biết, liền tìm cách gạ gẫm, thuyết phục họ vào đạo, bằng cách nói cho họ biết vào đạo thì được Chúa ban ơn này ơn kia, v.v…

Kết quả của những việc đó có thể là chúng ta lôi kéo được một số người vào đạo, hoặc làm cho nhiều người khô khan năng đi lễ, năng đến nhà thờ, năng chịu các bí tích hơn, hoặc làm cho đời sống gia đình của họ trở nên đầm ấm hơn, hạnh phúc hơn, v.v

Tất cả những điều đó là những điều nên làm, cần làm, nhưng chưa phải là loan báo Tin Mừng đúng nghĩa. Muốn loan báo Tin Mừng cho đúng nghĩa, chính người loan báo phải biết Tin Mừng là gì, phải cảm thấy Tin mình loan báo là điều đã làm mình hạnh phúc, vui tươi, làm cho đời sống mình trở nên có ý nghĩa. Nếu không như thế, thì mình chỉ làm công việc «mù mà lại dắt mù», và kết quả là «cả hai sẽ lăn cù xuống hố» (Mt 15,14 ; Lc 6,39).

Thật vậy, nếu chính mình chưa cảm thấy Tin Mừng đã ảnh hưởng tốt đẹp trên đời sống mình, chưa thật sự thay đổi đời sống mình, mà mình lại đi rao giảng Tin Mừng, muốn Tin Mừng ảnh hưởng tốt đẹp trên đời sống người khác, thì có khác gì «cho đi cái mình chẳng có» ? Như thế thì người nhận sẽ nhận được gì ?

Vì thế, chúng ta cần phải năng học hỏi về Tin Mừng, nhất là suy gẫm Tin Mừng, để Tin Mừng thấm sâu vào tư tưởng, lời nói, việc làm và đời sống của ta. Có như thế, việc loan báo Tin Mừng của ta mới có sức thuyết phục.

  1. Cuộc sống chứng nhân

Báo “Le Figaro” mới đăng trả lời phỏng vấn của Tổng thống Nga Putin. Trong đó có câu hỏi như sau :

Hỏi – Trong một cuộc trả lời phỏng vấn báo chí Nga, ông cho biết là đã đến cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu ở Giêrusalem, trong tay cầm thánh giá. Nhưng Ông lại là cựu sĩ quan của tình báo KGB. Ông nghĩ thế nào về sự trái ngược đó ?

Trả lời – Cuộc sống được tạo nên bằng những điều trái ngược. Khi không còn những điều trái ngược thì đó là cái chết. Nước Nga không phải là một quốc gia giả tạo mà nó có một lịch sử lâu đời. Thời kỳ còn là nước Liên Xô, đã có nhiều ý đồ làm thay đổi truyền thống, nhưng vẫn không sao tách nước Nga khỏi những giá trị văn hóa của dân tộc. Nền văn hóa đó, cũng giống như cây cỏ mọc trên các đại lộ của thành phố, xuyên thủng nhựa đường để tồn tại.

Mẹ tôi là một phụ nữ theo đạo, mặc dù đi lễ nhà thờ không phải là không nguy hiểm thời Liên xô trước đây. Mẹ tôi đã bí mật làm lễ rửa tội cho tôi tại nhà thờ. Vậy tại sao các ông lại có vẻ ngạc nhiên khi tôi cầm thánh giá cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu ?

*

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các Tông đồ sứ mạng cao cả : “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân” (Lc 24,47). Người muốn chúng ta làm chứng nhân cho Người đến tận cùng trái đất, rao giảng danh Người cho đến tận thế.

Tổng thống Nga Putin quả tà một chứng nhân anh dũng. Ông đã công khai tuyên xưng mình có đạo, tin đạo và sống đạo. Ông đã công bố trước báo chí : “Tôi tự hào là một người tín hữu… Niềm tin của tôi cho tôi thêm tinh thần và sự bình an trong tâm hồn”.

Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải ra đi. Các ngài đi tuyên xưng niềm tin, tin vào Đấng đă chết nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh. Người từ Cha mà đến và lại trở về với Cha.

Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải xuống núi. Đi xây dựng một thế giới đầy tình yêu thương, huynh đệ, công bằng, văn minh ; xứng với trời mới đất mới mà Chúa Con đã cứu chuộc để hiến dâng lên Cha.

Thật là vinh dự cho chúng ta được tiếp nối các Tông đồ đi rao giảng Lời Chúa, và làm chứng nhân cho Người. Nhưng đó cũng là một thách đố nặng nề, vì còn 80% cư dân trên hành tinh này chưa đón nhận Tin Mừng.

Đã qua 2000 năm, nhưng dường như sứ điệp Phục Sinh còn quá nhiều người chưa biết tới ! Phải chăng chúng ta quên rằng Chúa về trời nhưng Người vẫn hiện diện rất sống động giữa chúng ta. Muốn rao giảng Đức Kitô cho thế giới, trước hết chúng ta phải đưa Người vào chính cuộc sống của mình ; sau đó, lời rao giảng về Người mới có sức chinh phục các tâm hồn. Albert Peyriguere đã viết : “Có nhiều tông đồ nói về Đức Kitô, nhưng Người lại muốn có những tông đồ quyết sống vì Người !”

Con người thời nay thích nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy, cũng như họ xác tín vào điều đã trông thấy tận mắt hơn là chỉ được đọc lướt qua. Họ không thích chúng ta chỉ làm chứng bằng lời nói, nhưng là bằng chính cuộc sống xả thân, phục vụ và yêu thương. Babin đã nói một câu đầy sắc bén : “Người ta chỉ có thể tin vào Đức Kitô, khi họ tin vào tình yêu của những kẻ loan báo Người”.

*

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi.

Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.

Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu Chúa. Amen. (TP, năm C)

  1. Sứ mạng Chúa trao cho Giáo Hội

Đức Kitô phục sinh đã ở lại với các môn đệ của Ngài 40 ngày sau khi Ngài từ cõi chết sống lại. Việc Chúa phục sinh sống với các môn đệ 40 ngày là để Ngài có thời gian dậy bảo, động viên, an ủi và chỉ vẽ thêm cho các môn đệ trước khi Ngài ra đi về cùng Cha của Ngài (Cv 1, 3).Lần cuối cùng trước khi rời các ông, Chúa phục đang lúc đồng bàn với các ông, đã truyền cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi Chúa Thánh Thần trước khi chia tay nhau đi khắp nơi giảng Tin Mừng cứu độ (Cv 1, 8).

Rồi hôm nay, Chúa phục sinh dẫn các môn đệ lên núi cây Dầu, trao sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho các ông và một cách nào đó cho toàn thể Giáo Hội (Mt 28, 16-20). Để ban ủi an, khích lệ các ông, Chúa phục sinh giơ tay chúc lành tức đổ ơn huệ xuống trên các ông, và Chúa cất mình lên trời trước mặt các ông (Cv 1, 9-12).

  1. Tại sao các ngươi cứ đứng đó mà nhìn lên trời :

Sự kiện Chúa về trời làm cho các môn đệ bỡ ngỡ, các Ngài không khỏi bàng hoàng dù rằng Chúa đã nói trước với các ông, đã căn dặn các ông, Ngài về với Chúa Cha, Ngài ra đi thì ích lợi hơn cho các ông. :”…Thầy ra đi thì Đấng bầu chữa mới đến với các con” (Ga 16, 6-7).Vì sứ mệnh của Chúa Thánh Thần là dậy dỗ, an ủi các tông đồ, soi sáng và thêm sức mạnh cho các ông để các ông có sức mạnh, lòng đại độ, sự quả cảm mà ra đi rao giảng Tin Mừng (Ga 14, 26 ; 15, 26-27).

Nhưng trước khi chia tay đi rao giảng, Chúa phục sinh đã căn dặn các tông đồ hết sức cẩn thận : “Đừng rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy ở tại đó cùng với Mẹ Maria để đón nhận Chúa Thánh Thần “.

Việc Chúa Lên trời hay nói một cách cụ thể hơn là Ngài ra đi, trở về, kết hiệp với Chúa Cha để thực hiện lời hứa ban Đấng phù trợ tới cho các môn đệ và cho toàn Giáo Hội là một mầu nhiệm của lòng tin vì hôm nay chấm dứt một giai đoạn Chúa phục sinh hiện diện, chứng minh cho các môn đệ thấy rằng mình vẫn sống giữa các ông (Cv 1, 3).

Thời gian 40 ngày là giai đoạn Chúa minh chứng cho các tông đồ, Ngài đang sống cách hữu hình, đang làm những việc cụ thể, cùng trao đổi, bàn bạc, cùng ăn, cùng sinh hoạt với các môn đệ. Giờ đây, Chúa về trời là để ban Thánh Thần cho các môn đệ, cho nhân loại và cho Giáo Hội. Đây không phải là lúc các môn đệ tiếc nuối cái mơ ước ám ảnh, Chúa của các ông sẽ khôi phục lại vương quốc Israen, để các ông ăn trên ngồi trước các người khác (Cv 1,6).

Cái thực tế mà các môn đệ phải thuộc nằm làu là ” Anh em Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ. Ai tin, anh em hãy làm phép rửa cho Họ nhân danh Chúa cha, Chúa Con và Chúa thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ những Điều Thầy đã truyền cho anh em ” (Mt 28, 16-20). Chúa về trời, các môn đệ vẫn còn bỡ ngỡ cùng với mọi người ở Galilêa. Nhưng, Chúa về trời là một mối phúc cho các Môn đệ, cho nhân loại và cho Giáo Hội vì Chúa có về trời Thánh Thần mới được ban xuống. Chúa về trời, nhưng dứt khoát các môn đệ sẽ không bơ vơ vì Chúa hứa sẽ ở cùng các ông mọi ngày cho tới tận thế

  1. Chúa về trời là một mối phúc lớn lao :

Thật ra, Chúa về trời mang lại cho nhân loại, cho Giáo Hội và cho các tông đồ một mối Phúc lớn lao vì nếu Chúa không ra đi thì Đấng bàu chữa không đến. Chúa về trời, Ngài đã làm tròn lời hứa ban Thánh Thần và trao quyền năng cho các tông đồ, cho Giáo Hội :” Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dậy muôn dân…Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế ” (Mt 28, 17-20).

Lệnh truyền của Chúa phục sinh đã được thể hiện ngay nơi con người của Chúa, Chúa đã ban quyền năng cho các tông đồ, qua đó các Ngài có đủ mọi uy quyền thiêng liêng phục vụ mọi người. Chúa ban Thánh Thần để giúp các môn đệ kiên cường làm chứng cho Chúa phục sinh và loan báo Tin Mừng. Chúa ban Thánh Thần để Giáo Hội luôn bền vững, trung kiên làm tròn sứ mạng truyền giáo.

Dầu con người không thể nhìn thấy Chúa bằng xương bằng thịt, nhìn thấy Chúa cách hữu hình, nhưng Chúa vẫn có mặt với Giáo Hội ở khắp mọi nơi cho tới ngày cùng tận. Lời hứa của Chúa ở cùng môn đệ và nhân loại cho đến ngày tận thế là lời bảo đảm vững chắc nhất về sự hiện diện của Chúa trong Giáo Hội muôn muôn đời. Chúa Giêsu Phục sinh luôn đồng hành với Giáo Hội, với nhân loại, với các tông đồ trên vạn nẻo đường truyền giáo. Sứ mạng truyền giáo, loan báo Tin Mừng và giới thiệu Chúa Kitô Phục sinh cho nhân loại là lệnh truyền khẩn thiết nhất và quyết liệt nhất Chúa trao cho các môn đệ và cho Giáo Hội. Chúa đang trao, Chúa đang chuyền một cây gậy, một ngọn lửa đức tin để các tông đồ và Giáo Hội thay nhau liên tục chuyền gậy và đốt lên ngọn lửa tình yêu cho mọi người để mọi người nhận ra bộ mặt đầy yêu thương của Chúa cứu thế.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con cảm nghiệm sâu xa lời Chúa :” Các con là muối ướp cho mọi người…Các con là ánh sáng cho toàn nhân loại, là thành phố xây trên ngọn đồi không thể giấu được…ánh sáng các con phải sáng lên trước mặt thiên hạ để họ nhìn xem những việc thiện các con làm mà ngợi khen cha các con ở trên trời ” (Mt 5,13-16)

Lạy Chúa Giêsu, công việc cứu thế của Chúa được tượng trưng như một chiếc gậy, Chúa đã chuyền cho các môn đệ cách đây 2002 năm để các môn đệ tiếp tục chuyền đi. Và cứ như thế, chiếc gậy được chuyền đi cho tới ngày tận thế. (Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT, Vietcatholic)

  1. Sứ mệnh của người Kitô hữu

Tháng 7 năm 1972 sau những tháng dài bị tra tấn trong trại lính, nơi ngài thi hành nghĩa vụ linh mục, cha Vania đã ngã gục dưới làn mưa đạn. Trong lá thư cuối cùng ngài viết cho cha mẹ già có những dòng sau đây :

“Cha mẹ yêu dấu ! Thiên Chúa đã chỉ cho con một con đường phải theo. Con không chắc có thể còn sống được để trở về với cha mẹ nữa hay không, bởi vì những cuộc tra tấn lúc này dã man hơn trước kia rất nhiều. Thế nhưng con không lo sợ, vì có Chúa ở cùng con. Xin cha mẹ cứ an tâm, đừng lo lắng cũng đừng buồn phiền về số phận của con nữa. Lúc này con yếu và kiệt sức lắm rồi. Con xin chào thăm cha mẹ trong tình yêu Chúa Kitô và trong sự bình an của Thiên Chúa Cha. Người ta cấm cản con không được rao giảng về Chúa Kitô nữa, và con phải trải qua nhiều thử thách. Thế nhưng, con tuyên bố với họ là con sẽ không sợ rao giảng Tin Mừng và tình yêu của Chúa Kitô. Đây là một sứ mệnh cao cả và con hãnh diện được tiến bước theo mệnh lệnh của Chúa. Con không xấu hổ rao giảng về Chúa Kitô. Các phép lạ Chúa Kitô làm đều minh chứng rằng có Thiên Chúa, do đó con sẽ mạnh dạn tiếp tục gieo vãi hạt giống Tin Mừng, vì đó là điều Chúa Thánh Thần phán bảo con.”

Rao giảng Tin Mừng là sứ vụ Chúa Giêsu đã trăn trối lại cho các môn đệ Ngài, cho Giáo hội nói chung và cho mỗi người chúng ta nói riêng. Trước khi Ngài xa cách con cái Ngài, Ngài đã để lại cho mỗi người chúng ta lời di chúc qua các tông đồ : Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, dậy bảo họ luôn giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.

Qua các thời đại, Giáo hội đã, đang và luôn mãi hăng hái, trung kiên thi hành sứ mệnh đó. Mặc dù Giáo hội luôn phải trải qua những giai đoạn khó khăn, bách hại, cấm cách ; nhưng dân Chúa vẫn hiên ngang rao giảng và sẵn sàng hy sinh mạng sống vì Tin Mừng, vì Nước Trời. Lòng can đảm, chí trung thành đó đã cho chúng ta nhận ra rằng chúng ta không phải đơn phương chiến đấu, nhưng Chúa luôn đồng hành với mỗi người như lời Ngài đã phán : Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho tới tận thế. Chính tên Ngài cũng đã minh chứng điều đó, Em-ma-nu-en = Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.

Lạy Chúa, Lời Chúa đã nhắc nhở cho mỗi người chúng con ý thức về sứ mệnh Kitô hữu của mình. Xin cho chúng con biết hăng say thi hành mệnh lệnh đó trong cuộc sống hằng ngày để ánh sáng Tin Mừng được chiếu tỏa khắp nơi. (Sr Margareta Maria Hiền, Vietcatholic)

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế : Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu Kitô đã phải trải qua con đường thập giá rồi mới bước vào vinh quang phục sinh. Với ước mong sống trọn vẹn vai trò chứng nhân cho Đức Kitô Phục sinh, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện :

  1. Chúa Giêsu hứa ban Thánh thần cho các tông đồ / để các ngài làm chứng cho Chúa đến tận cùng trái đất / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa cũng ban Thánh thần / giúp chúng ta trở nên những chứng nhân can trường cho Thiên Chúa là tình yêu.
  2. Rao giảng Chúa Giêsu Kitô cho hết thảy mọi nước mọi dân / đặc biệt cho các dân tộc tại lục địa châu Á mênh mông / là một việc khẩn cấp trong thiên niên kỷ thứ ba này / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho có nhiều người / dám xả thân cho công cuộc rao giảng Tin mừng cứu độ.
  3. Đức tin Kitô giáo hội nhập vào văn hóa Châu Á / là một việc làm hết sức quan trọng trong việc giới thiệu Đức Kitô cho một châu Á đa chủng tộc / đa tôn giáo và đa văn hóa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các nhà truyền giáo / luôn quan tâm đặc biệt đến công việc hệ trọng này.
  4. Học hỏi Tông huấn Giáo hội tại Châu Á là bổn phận quan trọng của người Kitô hữu Á Châu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết tận dụng mọi cơ hội thuận tiện để học hỏi sâu rộng Tông huấn này / nhờ đó có thể tham gia tích cực vào công cuộc rao giảng Tin mừng.

Chủ tế : Lạy Chúa Giêsu, trước khi được rước lên trời, Chúa đã dạy chúng con phải rao giảng Tin mừng cho mọi loài thọ tạo. Xin Chúa ban ơn giúp sức để chúng con có thể thực hiện đến nơi đến chốn lệnh truyền quan trọng này. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

VI. Trong Thánh Lễ

Trước kinh Lạy Cha : Chúa Giêsu phục sinh đang ở bên cạnh Chúa Cha để làm trung gian cho chúng ta. Chúng ta hãy nhờ Ngài và với Ngài dâng lên Chúa Cha lời kinh Lạy Cha.

VII. Giải tán

Hôm nay Chúa Giêsu lặp lại với anh chị em lời Ngài đã bảo các môn đệ ngày xưa : “Anh em hãy đi đến với muôn dân…”, “Anh em hãy làm chứng cho Thầy”. Chúc anh chị em bình an.

print