Suy Niệm Lời Chúa Tuần IX Thường Niên

print

Suy Niệm Lời Chúa Tuần IX Thường Niên

Lm Seoka

LỄ VỌNG CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG..

Thứ Hai: Mc 12, 1-12.

Thứ Ba: Mc 12, 13 -17.

Thứ Tư: Mc 12, 18-27.

Thứ Năm: Mc 12, 28b-34.

Thứ Sáu: Mc 12, 35-37.

Thứ bảy: Mc 12, 38-44.

LỄ VỌNG CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG

(Xh 19,3-8a. 16-20b; Rom. 8,22-27; Ga 7,37-39)

Chiều hôm nay, chúng ta cùng quy tụ nhau đây để cử hành lễ vọng, mừng kính trọng thể lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống.

Phụng vụ lời Chúa hôm nay cho chúng ta biết vai trò rất quan trọng của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta và GH. Chính Ngài là Đấng khai sinh và nuôi sống GH. Ngài cũng chính là nguyên lý tạo nên sự hiệp nhất trong GH và chính là nguồn sự sống đích thực của chúng ta.

Xin cho chúng ta biết khiêm tốn mở lòng đón nhận nguồn nước sự sống của Chúa Thánh Thần và ngoan ngoãn để cho CTT hướng dẫn cuộc sống chúng ta. Nhờ đó đời ta mới có thể trổ sinh được nhiều hoa trái tốt lành.  

– Bài đọc 1, trích sách Xuất hành: nhấn mạnh đến sự nguy hiểm của sự chia rẽ. Trình thuật trong sách xuất hành hôm nay nhắc lại câu chuyện tháp Babel thời ông Nôe. Sau trận lục đại hồng thủy, con cháu ông Noe còn sống sót. Họ tập họp nhau lại  không phải là để tạ ơn và tìm cách tôn thờ Chúa cho phải đạo; trái lại họ quy tụ với nhau để bàn kế sách đối phó chống lại Thiên Chúa. Họ cùng nhau quyết định xây dựng cây tháp ở Babel cao ngút lên tận trời, nhằm thách thức Thiên Chúa có thể làm gì được họ. Nhưng khi họ tiến hành xây dựng được nữa chừng thì Chúa liền cho họ trở nên bất đồng về ngôn ngữ. Khiến họ không còn hiểu nhau nữa, gây nên sự chia rẽ nhau. Vì thế kế hoạch xây tháp Babel của họ bất thành.

Câu chuyện cho thấy rằng nếu con người kiêu căng muốn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi đời sống, sẽ nhận lấy hậu quả tai hại đó là sự chia rẽ, chống đối nhau và sẽ bị thất bại trong mọi việc làm. Chia rẽ còn đồng nghĩa với sự chết.

– Trái lại với sự chia rẽ gây nên cái chết về tình yêu thương, hiệp nhất của nơi con cháu Noe ngày xưa, thì bài tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói đến sự sống nhờ sự hiệp nhất trong  nguồn nước CTT.

Nói đến sự sống là phải nói đến nước và sự hiệp nhất. Chúa Giêsu sánh ví CTT chính là nguồn nước. Nguồn nước ấy được tuôn tràn trên các tông đồ và thế gian vào ngày lễ ngũ tuần. Ngày ấy từ Giêrusalem mới sẽ tuôn tràn nguồn suối nước mát, mang lại sự sống dồi dào cho thế gian.

Thật ra CTT là nguyên lý của sự sống đã được Thánh Kinh diễn tả khá nhiều.

Trong cựu ước, ngay từ chương đầu sách Sáng Thế đã cho thấy CTT là hơi thở Thần Khí mà TC đã thổi vào hồn con người của Ađam. Và sự sống vạn vật được hình thành kể từ khi “Thần Khí Chúa bay là trên mặt nước”. (St 1,2)

Trong sách 1 Xh 17,6-7, cho biết:  Từ trong tảng đá Mêriba ở Masa nơi sa mạc khô cằn đã tuôn ra dòng nước nuôi sống dân Do Thái trên hành trình tiến về đất hứa. Tảng đá Mêriba ấy chính là hình ảnh của Giêsu. Từ tảng đá Giêsu cũng tuôn tràn một dòng nước chính là CTT sẽ nuôi sống cho dân Chúa vượt qua hành trình tiến về quê trời.

Còn trong sách Edekiel  47, 1-9. 12,  thì mô tả. “Tôi đã thấy Nước từ bên phải Đền Thờ chảy ra, và Nước ấy chảy đến đâu thì tất cả đều được cứu rỗi…”. (Ed 47, 1-9. 12).  Đền Thờ đó chính là hình ảnh của Chúa Giêsu và từ nơi Chúa Giêsu Đền Thờ Mới ấy lại tuôn tràn dòng nước mang sự sống sung mãn đến mọi người và mọi nơi. Dòng nước ban  sự sống ấy chính là CTT.

Mừng lễ Chúa Thánh thần hôm nay, xin cho chúng ta biết nhìn nhận vai trò quan trọng của Chúa Thánh Thần trong GH và trong đời sống mỗi người chúng ta.  Xin cho chúng ta biết khiêm tốn mở lòng đón nhận dòng nước ân thiêng của Chúa Thánh Thần tuôn đổ vào tâm hồn chúng ta. Nhờ đó mà chúng ta được hiệp nhất với nhau trong cùng một Thánh Thần  và được tưới dội cùng một dòng nước sự sống của CTT. Nhờ đó mà hoa trái CTT là bác ái, bình an và hoan lạc được trổ sinh trong cuộc đời mỗi chúng ta.

Thứ Hai: Mc 12, 1-12.

Khi rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu thích dùng những hình ảnh gần gũi nhưng sâu sắc, đơn sơ nhưng thực tế nhằm diễn tả mầu nhiệm nước trời và khơi lên những thực trạng của đời sống con người. Dụ ngôn mà chúng ta vừa nghe trong đoạn Tin mừng hôm nay là một ví dụ. Để nêu lên quá khứ đáng chê trách của dân Do Thái thời cựu ước, nhất là sự tắc trách của các kỳ mục, kinh sư và biệt phái thời bấy giờ, Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn những tá điền sát nhân.

– Hình ảnh ông chủ vườn nho chính là Thiên Chúa.

– Vườn nho được xem là dân Israel; sau này là GH; cũng có thể hiểu đó là những ân huệ về vật chất và tinh thần nơi mỗi chúng ta.

– Bồn nho, tháp canh và rào dậu… tất cả là những giáo huấn, lề luật và ân huệ của Chúa ban.

– Tá điền chính là những giới chức đạo-đời.

– Những đầy tớ chính là các ngôn sứ, hay những người đại diện nói Lời Chúa.

– Người con của ông chủ chính là Đức Giêsu.

Tất cả những hình ảnh mà Chúa Giêsu đề cập trong dụ ngôn trên đây nhằm phản ánh sự đối lập giữa một vị Thiên Chúa giàu lòng yêu thương và sự bất trung của con người.

–  Vì yêu thương TC tin tưởng trao ban: hình ảnh tận tụy của ông chủ vườn nho như: trồng nho, đào bồn ép, xây tháp canh, rào dậu chung quanh… rồi tin tưởng giao cho tá điền chăm sóc mà trẩy đi xa; cho thấy Thiên Chúa luôn tin tưởng chúng ta là những tá điền của Chúa. Người không đứng cạnh bên ta dòm ngó như viên cảnh sát, nhưng để ta tự do sáng kiến làm việc. Thiên Chúa đã tạo dựng vũ trụ vạn vật và trao cho chúng ta “giữ và canh tác vườn” như đã từng trao cho Adam và Eva xưa, nên ta phải yêu mến đáp lại sự tin tưởng của Chúa dành cho chúng ta bằng cách tích cực chu toàn tốt nhất nhiệm vụ Chúa trao. Dân Israel được Thiên Chúa tuyển chọn làm dân riêng của Người như là vườn nho được Người yêu thương. Ngừơi đã tin tưởng trao phó dân Israel cho các giới chức tôn giáo chăm sóc hướng dẫn, nhưng họ đã lười biếng và tắc trách nên đã làm hư hoại dân Người.

–  Vì yêu thương TC kiên trì nhắc nhở: như người chủ khi thấy sự lười biếng của tá điền liền sai những người đầy tớ của ngài đến nhắc nhở họ. Thiên Chúa không chỉ sai 1 tiên tri mà nhiều tiên tri; không chỉ sai một lần mà nhiều lần các ngôn sứ đến để nhắc nhở dân Do Thái về sự bất trung của họ. Nhưng họ vẫn bưng tai bịt mắt làm ngơ trước lời mời gọi của Chúa. Thiên Chúa cũng nín chịu hết mọi tội lỗi của con người chúng ta và kiên nhẫn chờ đợi chúng ta ăn năn đổi mới. Dân chúng và các giới chức lãnh đạo đời Do Thái tượng trưng cho những tá điền. Nhiều lần Chúa gửi các ngôn sứ đến nhắc nhở sai lầm và kêu gọi họ sống theo đường lối Chúa, nhưng họ không nghe mà còn ra tay sát hại các ngôn sứ của Chúa.

–  Vì yêu thương TC hy sinh Người Con yêu quý: Các tá điền không chỉ ngược đãi đánh đập những đầy tớ của chủ sai đến, mà còn nhẫn tâm bắt trói và quăng xác Con Ông Chủ ra khỏi vườn nho, rồi giết đi.  Đó là lời tiên tri mà Chúa Giêsu báo trước về cái chết của Người ngoài thành Giêrusalem, do lòng hận thù của dân chúng và những giới chức tôn giáo Do Thái.

–  Vì yêu thương TC phán xử công thẳng: Cuối cùng thì ông chủ cũng lấy lại vườn nho và trao lại cho người khác canh tác. Tương tự như thế, Thiên Chúa phán xét thật công thẳng vì “ác giả thì ác báo”. Thiên Chúa sẽ lấy khỏi tay những ai chểnh mảng tự hào về tài năng Chúa ban cho mình mà không lo chu toàn tốt bổn phận Chúa trao để trao lại cho những ai biết tích cực làm việc cho Chúa. Chúng ta cũng sẽ phải trả lời về những hành vi của mình trước mặt Thiên Chúa về cách chúng ta thi hành những bổn phận mà Chúa trao ban.

Xin Chúa cho chúng ta có được con mắt tinh tường để nhận ra những ơn huệ Chúa ban; đôi tai sâu lắng để nghe được Lời dạy của Chúa cùng trái tim nhạy bén để cảm nhận được tình yêu tận hiến đến cùng mà Thiên Chúa dành  cho chúng ta. Xin đừng để chúng ta trở nên kẻ vô ơn bạc nghĩa như những tá điền bất trung, nhưng trở nên những tá điền trung thành và khôn ngoan để thi hành tốt bổn phận Chúa trao ban, nhằm sinh lợi nhiều hoa trái tốt lành cho vườn nho của Chúa là bản thân, gia đình và GH.

Thứ Ba: Mc 12, 13 -17.

Sau nhiều lần gài bẫy Chúa Giêsu không thành, lần này những người Pharisêu sẵn sàng phối hợp với nhóm người Hêrôđê tạo thành sức mạnh gọng kìm nhằm tấn công triệt hạ cho bằng được Chúa Giêsu, cho dầu hai nhóm này không cùng chung một lý tưởng và quan niệm sống:

– Phe Pharisêu: Chủ trương chống lại mọi thế lực ngoại bang, cũng như phản đối việc nộp thuế cho đế quốc Rôma.

– Phe Hêrôđê: thì chủ trương thỏa hiệp với Rôma để được an phận. Vì lợi ích cá nhân, họ sẵn sàng cộng tác làm việc cho đế quốc Rôma nhằm bóc lột dân tộc mình.

Nhưng vì hôm nay họ có cùng một đối tượng nhắm đến để triệt tiêu là Chúa Giêsu, nên họ sẵn sàng kết thân với nhau.

Trước đây, những người Pharisêu cũng đã không ít lần giăng bẫy để cho Chúa Giêsu vướn vào khung hình phạt cao nhất của luật Do Thái giáo là tử hình, nhưng Người đã khôn khéo vượt thoát. Hôm nay, với quyết tâm cao nhất là không để Chúa Giêsu vượt thoát lưới giăng như những lần trước, nên họ liên minh với phe Hêrôđê nhằm đẩy Chúa Giêsu vướn khung hình phạt cao nhất của luật dân sự là phản động, chống lại đế quốc Rôma. Như thế phe Hêrôđê sẽ tóm lấy và lên án tử cho Người.

Nhưng để gài bẫy được Chúa Giêsu không phải dễ dàng. Nên trước khi đặt bẫy họ bày ra miếng mồi thơm ngon bằng những lời khen tặng dành cho Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật không vị nể ai…” nhằm cho thấy thiện chí và chân thành của họ. Nhưng liền ngay đó, bất ngờ họ đưa ra câu hỏi chết người: “có nên nộp thuế cho Xêda không?”.  Trả lời “không” cũng chết mà trả lời “phải” cũng chết. Nếu Chúa trả lời “Phải!” họ sẽ xui giục dân chúng chống Chúa vì toa rập với thế lực nước ngoài. Nếu Chúa trả lời “Không” họ sẽ nộp Chúa cho quân đội Rôma vì xui giục dân phản chính quyền. Nhưng vì quá hiểu về lòng dạ thâm hiểm của họ, Đức Giêsu nói với họ: “Tại sao các người lại thử tôi? Đem một đồng bạc cho tôi xem!”. Họ liền đưa cho Người. Người hỏi: “Hình và danh hiệu này là của ai đây?” Họ đáp: “Của Xê-da.” Đức Giêsu bảo họ: “Của Xê-da.”, trả về Xê-da.”; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”. Câu trả lời thật tuyệt vời làm họ hết sức ngạc nhiên về Người. Như vậy “lưới giăng đã đứt rồi, thế là ta thoát nạn” (Tv  124, 7).

Qua câu trả lời khôn ngoan ấy, ngoài việc Chúa Giêsu đã vượt thoát khỏi án tử họ giăng, Người còn minh định cho họ hiểu về hai vấn đề quan trọng:

–  Thứ nhất: Tôn giáo và chính trị tách biệt nhau. Chính trị không thể trở thành tôn giáo hoặc bắt tôn giáo làm nô lệ cho chính trị. Tôn giáo cũng không thể đi vào chính trị, đánh mất bản chất của mình.

–  Thứ hai: Mỗi người phải chu toàn hai nhiệm vụ. Nhiệm vụ đối với xã hội là “trả cho Xê-da” những gì của Xê-da. Nhiệm vụ đối với Thiên Chúa: “trả cho Thiên Chúa” những gì thuộc về Thiên Chúa.

Hình và huy hiệu khắc trên đồng tiền là hình của hoàng đế Xê-da, vì thế phải trả lại cho ông ta. Nhưng linh hồn con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa nên linh hồn phải được trả về cho Thiên Chúa.

 Xin cho chúng ta biết khiêm nhường nhìn nhận chúng ta không khôn ngoan hơn Thiên Chúa nên hãy ngoan ngoãn  vâng lời và làm theo những gì Ngài truyền dạy. Điều quan trọng là lo chu toàn tốt bổn phận tôn thờ Thiên Chúa; đồng thời cũng không quên bổn phận đóng góp công sức tiền của để xây dựng GH và xã hội trần thế theo tinh thần Phúc âm, hầu trở nên người công dân tốt và người Kitô hữu trưởng thành.

Thứ Tư: Mc 12, 18-27.

Đa phần con người tin có sự sống lại và cuộc sống đời sau. Nhưng cũng phần lớn cho rằng sự sống đời sau cũng giống như sự sống đời này. Còn quan niệm người Kitô hữu chúng ta thế nào về vấn đề này? Đó là điều mà Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin mừng hôm nay. Chúng ta lắng nghe lời Chúa dạy để có quan niệm đúng đắn hơn trong vấn đề này.

Thời Chúa Giêsu có khá nhiều nhóm: Pharisêu, Biệt phái, Hêrôđê và Saduceo. Mỗi nhóm theo đuổi 1 lý tưởng khác nhau, và cũng có những quan niệm khác biệt. Nhóm Saducêo mà Tin mừng hôm nay nhắc đến không tin vào sự sống lại giống như những người theo duy vật chủ nghĩa thời nay. Do đó họ tìm mọi cách để đối chất với Chúa Giêsu nhằm hạ nhục và loại trừ quan niệm vào sự sống lại mà Chúa Giêsu rao giảng. Họ đặt ra 1 câu chuyện lố bịch về 1 gia đình có 7 người anh em. Theo luật Môisen thì nếu người anh lớn cưới vợ mà chẳng may chết đi không con, thì người em phải cưới lấy người vợ góa đó, để sinh con nối dõi tông đường. Vậy có cả thảy 7 người anh em cùng cưới 1 bà vợ. Nhưng lần lượt cả thảy 7 người anh em đó đều chết đi và không con. Cuối cùng người vợ góa đó cũng chết. Vậy nếu có sự sống lại thì ai sẽ là người chồng của chị ta?

Tình thế họ đặt ra xem ra rất hóc búa, nhưng Chúa Giêsu đã dựa trên nền tảng Thánh Kinh đoạn nói về Môisen diện kiến Thiên Chúa nơi bụi gai cháy sáng, để minh chứng cho biết: “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống”. Bởi lẽ Người là “Thiên Chúa hằng hữu”. Thứ hai sự sống mai sau là sự sống vĩnh cửu nên không còn phải lấy vợ cưới chồng để duy trì giống nòi nữa. Thứ ba tình trạng sự sống mai sau không giống như sự sống trần gian mà như các Thiên Thần.  Với câu trả lời ấy, Chúa Giêsu đã làm cho họ phải câm miệng không còn vênh váo, khoát lát nữa.

Trong cuộc sống trần gian này mỗi người có cái nhìn khác nhau nên đưa đến những quan niệm niềm tin khác nhau. Do đó cần tránh thái độ kiêu căng xem thường quan niệm niềm tin của người khác; trái lại phải tìm cách dung hòa trong tinh thần tôn trọng những khác biệt. Là người Kitô hữu chúng ta phải tin tưởng vào Lời Chúa dạy và GH hướng dẫn nên phải xác tín vững chắc vào sự sống lại và sự thưởng phạt đời sau.

Xin cho chúng ta luôn biết gắn kết với Chúa trong lời cầu nguyện, siêng năng tham dự thánh lễ và kết hợp với Chúa trong Bí tích Thánh Thể, nhất là khiêm tốn lắng nghe và thực thi lời Chúa trong việc trung thành sống giới luật yêu thương mà Chúa chỉ dạy. Nhờ đó ta mới có thể hưởng được tình trạng hạnh phúc viên mãn như các Thiên Thần mai này. 

Thứ Năm: Mc 12, 28b-34.

Cốt lõi của đạo Công giáo là Bác ái. Bác ái là đồng phục và là ngôn ngữ chung của người kitô hữu. Bác ái là dấu chứng để nhận ra môn đệ của Chúa Kitô, cũng là ngôn ngữ cao trọng của loài người và các Thiên Thần; Và là ngôn ngữ độc nhất tồn tại trên thiên đàng.  Xin cho chúng ta biết giá trị cao quý của Bác ái và nỗ lực thi hành đức ái trong đời sống để xứng danh là môn đệ Chúa.

Sống trong xã hội Do Thái thời bấy giờ, với ngổn ngang những luật lệ, làm cho con người không còn phân biệt đâu là chính, đâu là phụ. Vì thế, một người trong nhóm Luật sĩ tới hỏi Chúa Giêsu xem điều răn nào là quan trọng nhất?

Thời bấy giờ lại có nhiều phe nhóm, mỗi phe nhóm đề cao một số luật lệ. Có lẽ, nhân cơ hội này họ cũng muốn biết Chúa Giêsu đứng về phe nhóm nào? Bằng cách thăm dò đó, họ cũng muốn thử xem trình độ hiểu biết về Thánh Kinh và Luật Lệ của Chúa Giêsu ở mức độ nào? Chúa Giêsu trích dẫn hai câu Thánh Kinh, một trong sách Đệ Nhị Luật và một trong sách Lê-vi: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực ngươi”. Đó là điều quan trọng thứ nhất. Điều luật thứ hai cũng quan trọng không kém, đó là: “Ngươi phải yêu thương người tha nhân như chính mình ngươi”.

  1. Yêu mến Chúa:

– Yêu mến Chúa hết lòng: Nghĩa là ta phải yêu Chúa chân thật, tình yêu phát xuất từ đáy lòng. Yêu hết lòng cũng có nghĩa là yêu trung thuỷ, trước sau như một, không bao giờ thay lòng đổi dạ, không một cản trở nào làm giảm bớt hay sức mẻ, dù có phải hy sinh vẫn chấp nhận.

– Yêu mến Chúa hết linh hồn: Nghĩa là tình yêu ta dành cho Chúa có sự can thiệp của những tài năng linh hồn Chúa ban: lý trí, ý chí và nhất là tự do. Chứ không phải là tình yêu mù quáng.

  1. Yêu thương người:

– Tha nhân là ai ?

Trong Cựu ước chỉ có nghĩa là người gần gũi với người Do thái về huyết thống và chủng tộc. Nhưng “tha nhân”  mà Đức Giêsu dùng ở đây có ý hiểu về hết mọi người, không phân biệt tôn giáo, chủng tộc, người nghĩa thiết hay kẻ thù…

– Như chính mình là sao?

Không có nghĩa là ngươi phải làm cho kẻ khác những gì ngươi làm cho ngươi, nhưng đúng hơn là phải đối xử với kẻ khác cùng một “tình yêu” như ngươi đã xử với ngươi. Đó là một nét độc đáo của tình yêu Kitô giáo, thứ tình yêu đạp đổ mọi hàng rào ngăn cách chủng tộc, mầu da, vượt lên trên óc phân biệt quốc gia hay tôn giáo, quên đi mọi hiềm khích hay những thành kiến cá nhân hoặc cổ truyền.

* Mến Chúa và yêu người, đó là hai mặt của một tình yêu. Giống như đồng tiền hai mặt, bỏ một mặt cũng đồng nghĩa là bỏ cả hai.

Xin Chúa cho chúng ta biết sống trọn vẹn điều luật Chúa dạy bằng cách đặt Chúa vào vị trí quan trọng nhất trong cuộc đời của ta và luôn biết đối xử với tha nhân bằng tình yêu chân thành như chính Chúa đã yêu thương chúng ta. Thực hiện được như thế chúng ta mới xứng danh là môn đệ của Chúa Giêsu và xứng đáng đón nhận phần thưởng nước trời.

Thứ Sáu: Mc 12, 35-37

Như chúng ta đều biết, Tin mừng thánh Marcô là quyển tin mừng ngắn nhất, chỉ gồm 16 chương; trong khi đó Tin mừng Matthêu chương 28, Luca 24 chương, và Gioan 21 chương. Tuy ngắn nhưng Tin mừng Marcô lại ghi lại 5 cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với :

(1) các Thượng tế, Kinh sư và Kỳ mục về quyền bính của Chúa Giệsu sau khi đánh đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ (Mc 11,27-33);

(2) với nhóm Pharisêu và mấy người thuộc phe Hêrôđê về việc có nên nộp thuế cho Xêda không? (12, 13-17);

(3) với nhóm Xađốc về kẻ chết sống lại (12, 18-27); (4) với một vị Kinh sư về điều răn nào trọng nhất? (12, 28-34);

(5) Và hôm nay là cuộc tranh luận thứ 5 về vấn đề Đức Kitô và vua Đa vít. (12, 35-37).

Cuộc tranh luận hôm nay được diễn ra trong đền thờ, trước đám người đông đảo. Vấn đề được đặt ra là “các Kinh sư nói Đấng Kitô là con vua Đa-vít”. Đây không chỉ là quan niệm của các Kinh sư mà còn là quan niệm hầu hết những người Do Thái thời bấy giờ. Tại sao họ có quan niệm như vậy?

Thưa bởi vì họ không muốn tin nhận Đấng Kitô là Thiên Chúa. Họ chỉ muốn tin nhận Đấng Kitô theo nghĩa chính trị, Ngài đến để lãnh đạo dân chúng làm cuộc cách mạng giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma.

Bằng việc trích lại lời của thánh vương Đa-vít nói: “Đức Chúa phán cùng Chúa Thượng tôi: bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt dưới chân Con.” (Tv 110, 1), Chúa Giêsu minh chứng cho họ thấy, Đấng Kitô ấy không chỉ là người được sinh ra bởi dòng tộc Đa-vít, mà Đấng ấy còn là Chúa Thượng của vua Đa-vít nữa. Và Chúa Thượng đó chính là Ngài.

Theo như lời của thánh vương Đa-vít nói ở trên, ta phải ngầm hiểu rằng bao địch thù là tội lỗi, ma quỷ và sự chết… phải được đặt dưới chân Ngài qua cuộc khổ nạn và phục sinh, rồi mới lên trời ngự bên hữu Chúa Cha. Nên Ngài không phải là Đấng Kitô theo quan niệm chính trị như những Kinh sư đã nói, mà Ngài chính là Thiên Chúa làm người để cứu độ nhân loại.

Ngày nay vẫn còn đó nhiều người vẫn quan niệm về một Đức Kitô rất trần tục như các Kinh sư và nhiều người Do Thái xưa. Họ chỉ xem Ngài như là một thần tượng như bao thần tượng khác, khá hơn là một siêu nhân, hay một ông thần như bao nhiêu Bụt thần khác. May mắn thay, chúng ta đã tin nhận Đức Kitô là Chúa Thượng nhưng Người đã chấp nhận đi qua con đường đau khổ thập giá, con đường của hi sinh tận hiến, của khiêm tốn phục vụ đến cùng vì yêu thương chúng ta.

Xin cho chúng ta biết can đảm chọn lựa chọn con đường tình mà Chúa đã đi qua, và luôn hằng vững bước theo Ngài với niềm tin yêu và phó thác vào tình thương và quyền năng của Chúa.

Thứ bảy: Mc 12, 38-44

Có lẽ hai hình ảnh đẹp được Chúa Giêsu yêu thích và khen ngợi nức lòng nơi đền thờ khi Ngài còn ở tại thế, đó là hình ảnh của người thu thuế và người đàn bà góa nghèo.

  1. Người thu thuế khi lên đền thờ cầu nguyện là hình ảnh đẹp. Đẹp bởi tâm tình thống hối chân thành và thái độ khiêm nhường thẳm sâu: “Đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực và nguyện rằng: Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Nên khi ra về ông được Chúa tha thứ và trở nên công chính. Vì “Ai nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống và ai hạ mình xuống sẽ được nhắc lên”.
  2. Người đàn bà góa nghèo bỏ “hai đồng tiền là một phần tư xu” vào hòm tiền hôm nay. Hình ảnh của bà thật tuyệt đẹp làm Chúa Giêsu phấn khích đến nỗi đã gọi ngay các môn đệ lại chỉ cho thấy và dạy các ông : “Thầy nói thật với các con: trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà góa này đã bỏ nhiều hơn hết”. Nết đẹp của bà không đến từ dáng vẻ bên ngoài như những vị Luật sĩ với những bộ áo thụng đắc tiền, hay bởi có chức cao quyền trọng được mọi người kính trọng…Nhưng nét đẹp của bà được ẩn bên trong, đó là nét đẹp của tấm lòng. Một tấm lòng quảng đại, yêu thương cho đi mà không cần tính toán. Đúng như ông bà ta thường nói: của ít lòng nhiều; giá trị của quà tặng không tùy thuộc vào số lượng mà là ở tấm lòng.

Việc dâng cúng của người đàn bà góa nghèo hết sức bé nhỏ, nhưng lại vô cùng to lớn trước mặt Chúa, vì bà đã cho tất cả những gì bà có, ngay cả hai đồng xu đó chính là thứ nuôi sống bà “đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống”.

Tinh thần cho đi của bà góa nghèo phải là khuôn mẫu cho tinh thần bác ái người Kitô giáo chúng ta. Đó là tinh thần vô vị lợi, không màng đến danh lợi, cũng không nhằm phô trương đánh bóng tên tuổi. Bác ái Kitô giáo không phải là cho đi những thứ dư thừa, nhưng là cho đi những gì thiết thân nhất cho đời sống của mình, nhưng lại là nhu cầu cần thiết nhất của tha nhân.

Thật ra làm bác ái không khó. Không khó, bởi vì thông thường chúng ta chỉ cho đi những gì dư thừa. Chúng ta chỉ cần mặc ba bốn bộ đồ hay mang vài ba đôi dép… là đủ. Nhưng thực tế, nhiều người trong chúng ta lại sở hữu lên đến vài chục bộ đồ, hàng chục đôi giày dép, mà những thứ dư thừa này luôn nằm im trong tủ, không bao giờ ta sử dụng đến. Nên khi cho đi những thứ ấy không khó chút nào, nhưng cho đi với tình thần bác ái Kitô giáo thì không dễ, bởi nó đòi hỏi chúng ta phải chia sẻ những gì chúng ta cần, chứ không phải những gì dư thừa. Tuy nhiên nếu chúng ta có được niềm tin và tình yêu vào Chúa thì chúng ta sẽ làm được.

Xin cho chúng ta đừng bao giờ có thái độ trọng phú, khinh bần cũng như đánh giá tha nhân qua dáng vẻ bên ngoài. Nhưng xin cho chúng ta luôn biết trân quý tấm lòng bên trong của mỗi con người. Nhất là xin cho chúng ta hằng để tâm giúp đỡ những ai đang gặp khốn khó, nghèo khổ bằng tinh thần bác ái Kitô giáo chân thành.