Tông thư Desiderio Desideravi của ĐTC Phanxicô – Từ 27 đến 37

print

Sự cần thiết phải đào tạo phụng vụ cách nghiêm túc và gắn liền với cuộc sống

  1. Do đó, vấn đề cơ bản là làm thế nào để phục hồi khả năng sống trọn vẹn các cử hành phụng vụ? Đây là mục tiêu cải cách của Công đồng. Thách thức là vô cùng khắc nghiệt, vì con người hiện đại – đang sống trong những nền văn hóa không ngang tầm với nhau – đã mất đi khả năng tham gia vào những hành vi mang tính biểu tượng, một đặc điểm thiết yếu của hành vi phụng vụ.
  2. Trong thời hậu hiện đại, con người cảm thấy bản thân ngày càng lạc lõng hơn, không có điểm quy chiếu nào, mất đi nhiều giá trị do thái độ thờ ơ vô tâm, hoàn toàn mồ côi cô độc, sống trong một mảnh đời vô nghĩa, ngày càng bị đè nặng bởi di sản do thời đại trước để lại, bao gồm chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa chủ quan (một lần nữa gợi lên những vấn đề liên quan đến thuyết Pêlagiô và thuyết Ngộ đạo). Di sản đó cũng bao gồm chủ nghĩa tâm linh trừu tượng mâu thuẫn với chính bản chất con người, vì con người là một tinh thần nhập thể và do đó, có khả năng hành động và hiểu biết mang tính biểu tượng.
  3. Hội Thánh, được quy tụ trong Công Đồng, đã muốn tiếp xúc với chính thực tại này của thế giới hiện đại, đang khi vẫn tái khẳng định ý thức mình là bí tích của Chúa Kitô, là Ánh sáng các dân tộc (Lumen gentium), đặt mình vào việc sốt sắng lắng nghe Lời Chúa (Dei Verbum), và nhận lấy niềm vui và hy vọng của con người thời đại như của chính mình (Gaudium et spes).Công đồng là biểu hiện cao nhất của tính hiệp hành trong Hội Thánh, và cùng với tất cả anh chị em, tôi được kêu gọi trở thành người gìn giữ kho tàng phong phú của Công đồng. Các Hiến chế quan trọng của Công đồng không thể tách rời nhau, và không phải ngẫu nhiên mà nỗ lực suy tư đầy giá trị này của Công đồng Đại kết đã bắt đầu với việc suy tư về Phụng vụ (Sacrosanctum Concilium).
  4. Bế mạc kỳ họp thứ hai của Công đồng(ngày 4 tháng 12 năm 1963), Thánh Phaolô VI đã phát biểu: “Những cuộc thảo luận khó khăn và phức tạp đã có kết quả dồi dào phong phú, đã đúc kết được một chủ đề, đó là Phụng vụ thánh. Chủ đề đã được đề cập ngay từ đầu, theo một nghĩa nào đó, đây là vấn đề ưu tiên hơn tất cả các vấn đề khác, xét về giá trị nội tại và tầm quan trọng trong đời sống Hội Thánh và hôm nay tôi long trọng ban hành văn kiện về Phụng vụ. Tâm trí tôi phấn khởi trong niềm vui thực sự, vì theo cách thức mọi việc đã diễn ra, tôi ghi nhận bậc thang chính xác về giá trị và bổn phận đã được tôn trọng. Thiên Chúa phải ở vị trí thứ nhất; cầu nguyện là bổn phận đầu tiên của chúng ta. Phụng vụ là nguồn mạch đầu tiên của sự hiệp thông thần linh, trong đó Thiên Chúa chia sẻ sự sống của chính Người cho chúng ta. Phụng vụ cũng là trường học đầu tiên của đời sống thiêng liêng. Phụng vụ là món quà đầu tiên mà chúng ta phải trao cho các Kitô hữu hợp nhất với chúng ta trong đức tin và lòng nhiệt thành cầu nguyện. Đây cũng là lời mời đầu tiên gửi đến toàn thể nhân loại, để giờ đây mọi người có thể cất cao giọng nói thầm lặng của mình trong một lời cầu nguyện thánh thiện và chân thành, nhờ đó họ tìm thấy được sức mạnh khôn tả và có năng lực tái sinh, khi cùng với chúng ta loan truyền lời ngợi khen Thiên Chúa cũng như niềm hy vọng của trái tim con người qua Chúa Giêsu Kitô và trong Chúa Thánh Thần”.[7]
  5. Trong thư này, tôi không thể nói với anh chị em về sự phong phú của các cách diễn đạt khác nhau trong diễn từ này, tôi khuyên anh chị em hãy suy niệm riêng về văn kiện ấy. Nếu Phụng vụ là “tột đỉnh quy hướng mọi hoạt động của Hội Thánh, đồng thời là nguồn mạch tuôn trào mọi năng lực của Hội Thánh” (Sacrosanctum Concilium,10), thì chúng ta có thể hiểu được những nguy cơ trong Phụng vụ. Có những căng thẳng, không may xuất hiện chung quanh việc cử hành phụng vụ, nhưng thật tầm thường nếu cho đó chỉ là sự khác biệt đơn giản do cảm nhận khác nhau về một dạng thức nghi lễ cá biệt nào đó. Vấn đề chủ yếu là Giáo hội học. Tôi không hiểu sao một người vừa công nhận tính hợp lệ của Công đồng – mặc dù tôi rất ngạc nhiên khi một người công giáo lại có thể không công nhận điều đó – lại vừa không chấp nhận cuộc cải cách phụng vụ khởi sinh từ Sacrosanctum Concilium,một văn kiện diễn tả thực tại của phụng vụ trong mối liên hệ mật thiết với tầm nhìn về Hội Thánh được mô tả cách tuyệt vời trong Lumen Gentium. Vì lý do này, như tôi đã giải thích trong thư gửi cho tất cả các giám mục, tôi thấy mình có bổn phận phải khẳng định rằng “các sách phụng vụ do Thánh Phaolô VI và Thánh Gioan Phaolô II ban hành, phù hợp với các sắc lệnh của Công đồng Vatican II, là cách diễn đạt duy nhất của lex orandi (luật cầu nguyện) trong Nghi lễ Rôma” (Tự sắc Traditionis custodes, 1). Việc không chấp nhận cũng như hiểu biết hời hợt về việc cải cách phụng vụ, làm chúng ta sao lãng nhiệm vụ tìm lời giải đáp cho câu hỏi tôi muốn lặp lại ở đây: làm thế nào để chúng ta tăng thêm khả năng sống trọn vẹn các hành động phụng vụ? Làm thế nào để chúng ta có thể tiếp tục ngỡ ngàng thán phục trước những gì đang diễn ra trước mắt chúng ta trong các cử hành phụng vụ? Chúng ta cần thực hiện việc đào tạo phụng vụ cách nghiêm túc và gắn liền với cuộc sống.
  6. Chúng ta hãy trở lại Phòng Tiệc Ly ở Giêrusalem. Vào sáng ngày Lễ Ngũ Tuần, Hội Thánh được khai sinh, tế bào đầu tiên của một nhân loại mới. Chỉ có cộng đoàn gồm những người, nam cũng như nữ, đã được hòa giải nhờ ơn tha thứ, được sống vì Đức Kitô đang sống, chân thật vì có Thần Khí sự thật ở cùng, mới có thể mở rộng không gian chật hẹp của chủ nghĩa cá nhân trong đời sống thiêng liêng.
  7. Chỉ có cộng đoàn của ngày lễ Ngũ Tuần mới có thể cử hành lễ bẻ Bánh với niềm xác tín rằng Chúa đang sống, Đấng đã sống lại từ cõi chết, đang hiện diện bằng lời của Người, bằng cử chỉ của Người, bằng việc dâng Mình và Máu Người. Kể từ đó, cử hành phụng vụ trở thành một nơi đặc biệt – mặc dù không phải là nơi duy nhất – của cuộc gặp gỡ với Chúa. Chúng ta biết rằng chỉ qua ân sủng của cuộc gặp gỡ này, con người mới trở thành con người trọn vẹn. Chỉ có Hội Thánh của lễ Ngũ tuần mới có thể quan niệm con người là một nhân vị, mở rộng lòng đón nhận mối tương quan trọn vẹn với Thiên Chúa, với muôn loài thụ tạo và với anh chị em của mình.
  8. Chính trong cộng đoàn đó, vấn đề mang tính quyết định về việc đào tạo phụng vụ được đặt ra. Romano Guardini nói: “Đây là nhiệm vụ thực tế đầu tiên phải hoàn thành: cùng với sự biến đổi nội tâm của thời đại chúng ta, chúng ta phải học lại cách sống mối tương quan tôn giáo trong tư cách là những con người trọn vẹn”.[8]Đây là điều có thể thực hiện được nhờ Phụng vụ. Và để làm được như thế, chúng ta phải được đào tạo. Guardini không ngần ngại khẳng định rằng nếu không có đào tạo phụng vụ, thì “việc cải cách các nghi thức và bản văn sẽ không giúp ích được gì nhiều”.[9]Ở đây tôi không có ý định giải quyết thấu đáo chủ đề rất phong phú của việc đào tạo phụng vụ. Tôi chỉ muốn đưa ra một vài khởi điểm để suy tư. Tôi nghĩ chúng ta có thể phân biệt hai khía cạnh: đào tạo cho phụng vụ và đào tạo qua phụng vụ. Công việc thứ hai là thiết yếu và công việc thứ nhất phụ thuộc vào đó.
  9. Cần phải tìm ra những đường dẫn cho việc đào tạo trong nghiên cứu Phụng vụ. Ngay từ đầu, phong trào phụng vụ đã thực hiện nhiều việc trong lĩnh vực này, với sự đóng góp quý báu của các học giả và các học viện. Tuy nhiên, điều quan trọng bây giờ là phải phổ biến kiến thức này ra ngoài môi trường học viện, có thể tiếp cận dễ dàng, để mỗi tín hữu có thể gia tăng kiến thức về ý nghĩa thần học của Phụng vụ. Đây là vấn đề mang tính quyết định, là nền tảng cho sự hiểu biết và thực hành phụng vụ. Nó cũng hình thành nên chính việc cử hành, giúp mọi người có có khả năng hiểu được các bản văn kinh nguyện, tính cách năng động và ý nghĩa nhân học của các nghi lễ.
  10. Tôi nghĩ đến nhịp điệu đều đặn của các cộng đoàn được quy tụ để cử hành Thánh Thể vào ngày của Chúa, Chúa Nhật này rồi Chúa Nhật sau, lễ Phục sinh này đến lễ Phục sinh năm tới, vào những thời điểm cụ thể trong cuộc đời của từng cá nhân và cộng đoàn, ở tất cả các độ tuổi khác nhau của cuộc sống. Các thừa tác viên đã lãnh chức thánh sẽ thực thi tác vụ mục vụ có tầm quan trọng hàng đầu, khi các ngài cầm tay các tín hữu đã được rửa tội để đưa họ vào những trải nghiệm thường xuyên của mầu nhiệm Vượt Qua. Chúng ta hãy luôn nhớ rằng chính Hội Thánh, Nhiệm Thể Chúa Kitô, là chủ thể cử hành chứ không chỉ là linh mục. Kiến thức có được từ việc học hỏi chỉ là bước đầu tiên để có thể đi vào mầu nhiệm đang được cử hành. Thật quá rõ, để có thể dẫn dắt anh chị em của mình, các thừa tác viên chủ sự cộng đoàn phải biết đường đi, bằng cách vừa nắm rõ lộ trình trên bản đồ nghiên cứu thần học, vừa phải siêng năng cử hành phụng vụ để có những trải nghiệm về một đức tin sống động, được nuôi dưỡng bằng lời cầu nguyện, và chắc chắn không chỉ đơn thuần là thi hành một bổn phận bó buộc. Trong lễ truyền chức, mỗi linh mục nghe giám mục nói: “Hãy ý thức việc con làm, noi theo điều con cử hành, và rập mẫu đời sống con theo mầu nhiệm Thánh giá Chúa”.[10]
  11. Chương trình học về Phụng vụ trong các chủng viện cũng phải lưu ý đến năng lực phi thường của chính việc cử hành là cung cấp một tầm nhìn mang tính hệ thống và thống nhất về tất cả các kiến thức thần học. Mỗi môn thần học, trong từng lĩnh vực riêng biệt, phải thể hiện mối liên hệ mật thiết với Phụng vụ, để trong ánh sáng của Phụng vụ, chương trình thần học biểu lộ rõ nét và thực hiện tính cách thống nhất của việc đào tạo linh mục (x. Sacrosanctum Concilium16). Một hệ thống liên kết phụng vụ và kiến thức trong chương trình đào tạo thần học tại các chủng viện chắc chắn sẽ có những tác động tích cực trong hoạt động mục vụ. Không chỉ là kết quả của những chương trình được soạn thảo kỹ lưỡng, việc thực hành mục vụ mang tính tổng hợp, có hệ thống và toàn diện, là kết quả của việc đặt Thánh Lễ Chúa Nhật, nền tảng của sự hiệp thông, làm trung tâm của đời sống cộng đoàn. Kiến thức thần học về Phụng vụ không cho phép hiểu những điều vừa nói có nghĩa là giản lược tất cả vào khía cạnh phụng tự. Một cử hành phụng vụ mà không rao giảng Tin mừng là một cử hành không xác thực, và cũng là không xác thực, nếu lời rao giảng không dẫn đến gặp gỡ với Chúa Phục sinh trong cử hành phụng vụ. Và cả hai việc này, nếu không có chứng từ của lòng bác ái, sẽ giống như tiếng cồng chiêng ồn ào hay tiếng chũm chọe vang rền (x. 1Cr 13,1).