Tông thư “Totum Amoris Est – Tất cả thuộc về tình yêu”

 TÔNG THƯ “TOTUM AMORIS EST

CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ VỀ THÁNH PHANXICÔ SALÊ

WHĐ (01.01.2023) – Hôm 28. 12. 2022, nhân kỷ niệm 400 năm ngày qua đời của thánh Phanxicô Salê, Đức giáo hoàng Phanxicô đã ban hành Tông thư “Totum Amoris Est” – Tất cả thuộc về tình yêu.

Dưới đây là toàn văn Tông thư Totum Amoris Est của Đức Thánh Cha

TẤT CẢ THUỘC VỀ TÌNH YÊU[1]. Những lời này tóm tắt di sản thiêng liêng do Thánh Phanxicô Salê để lại cho chúng ta, người đã qua đời cách đây 4 thế kỷ, vào ngày 28. 12. 1622, tại Lyon. Mới ngoài 50 tuổi và đã từng là Giám mục và Hoàng tử “lưu vong” của Geneva hai mươi năm. Ngài đã đến Lyon sau nhiệm vụ ngoại giao cuối cùng, Công tước xứ Savoy đã yêu cầu ngài tháp tùng Hồng y Maurice của Savoy đến Avignon để bày tỏ lòng kính trọng đối với vị vua trẻ tuổi Louis XIII, rồi trở về Paris qua thung lũng Rhône sau một chiến dịch quân sự thắng lợi ở miền nam nước Pháp. Kiệt sức và sức khỏe yếu, thánh Phanxicô đã bắt đầu cuộc hành trình hoàn toàn vì tinh thần phục vụ, và tính khí cương quyết: “Nếu tôi thực hiện chuyến đi này không hữu ích cho việc phục vụ, thì chắc chắn tôi sẽ có nhiều lý do chính đáng và vững chắc để từ chối. Tuy nhiên, nếu có thể giúp được gì, thì dù sống hay chết, tôi sẽ không từ chối, mà sẽ đi hoặc để mình bị kéo đến đó[2]. Cuối cùng, khi đến Lyon, ngài ngụ tại tu viện của các Nữ tu Dòng Thăm Viếng, trong nhà của người làm vườn, để tránh gây phiền hà cũng như để nhiều người có thể dễ dàng đến gặp ngài.

Trong một thời gian dài cảm thấy chán ngán với “những vinh quang phù du của toà án[3], ngài đã dành những ngày cuối cùng của mình để thi hành sứ mạng mục tử trong một loạt các cam kết: giải tội, trò chuyện, hội nghị, giảng thuyết, cũng như viết những lá thư về tình bằng hữu thiêng liêng. Lý do sâu xa nhất cho một lối sống hoàn toàn tập trung vào Thiên Chúa trở nên ngày càng rõ ràng hơn với ngài theo thời gian, và ngài đã giải thích điều đó một cách đơn giản trong Khảo Luận nổi tiếng về Tình yêu của Thiên Chúa: “Ngay khi nghĩ đến Thiên Chúa, con người ngay lập tức cảm thấy một cảm xúc ngọt ngào nào đó trong tâm hồn, điều này chứng tỏ rằng Thiên Chúa là Thiên Chúa của tâm hồn con người[4]. Những lời này là sự tổng hợp hoàn hảo tư tưởng của ngài. Kinh nghiệm về Thiên Chúa là hiển nhiên đối với tâm hồn con người. Đây không phải là những suy tư thuộc trí óc, mà là một sự nhìn nhận đầy kinh ngạc và biết ơn, về những hoạt động của Thiên Chúa. Chính trong trái tim và qua trái tim mà tiến trình hiệp nhất tinh tế và mãnh liệt này được thực hiện, nhờ đó con người nhận biết Thiên Chúa, đồng thời nhận ra bản thân, nguồn gốc, chiều sâu, và sự viên mãn của chính mình trong tiếng gọi yêu thương. Chúng ta khám phá ra rằng niềm tin không phải là một cảm xúc mù quáng, nhưng trên hết và trước hết, là một khuynh hướng của trái tim, theo đó con người tin tưởng vào sự thật xuất hiện trong lương tâm như một “cảm xúc ngọt ngào” có khả năng khơi dậy thiện chí tương ứng để đáp lại lòng nhân từ của Thiên Chúa đối với mỗi thực tại diễn ra trong cuộc sống.

Dưới ánh sáng này, chúng ta có thể hiểu tại sao Thánh Phanxicô Salê cảm thấy rằng không có nơi nào tốt hơn để tìm thấy Thiên Chúa và giúp người khác tìm kiếm Ngài, hơn là tâm hồn của những con người trong thời đại của ngài. Thánh nhân đã học được điều này từ khi còn trẻ qua việc phát triển một cái nhìn sâu sắc về bản thân, và tâm hồn con người.

Ý thức sâu sắc của thánh Phanxicô về sự hiện diện của Thiên Chúa giữa các biến cố của cuộc sống hàng ngày được thể hiện rõ trong những ngày cuối cùng ở Lyon. Ngài chia sẻ với các Nữ tu Dòng Thăm Viếng về việc ngài mong muốn được họ nhớ đến như thế nào: “Tôi tóm tắt tất cả chỉ trong hai từ, đó là các chị em đừng từ chối cũng đừng mong muốn bất cứ điều gì; Tôi không còn gì để nói với các chị em nữa”[5]. Đây không phải là những lời của thuyết ý chí đơn thuần, “một ý chí thiếu khiêm nhường[6], một cám dỗ tinh vi trên con đường nên thánh khiến nó lẫn lộn với sự tự biện minh, với sự tôn thờ ý chí và năng lực của bản thân, và dẫn đến “sự tự mãn ích kỷ theo chủ nghĩa ưu tú, không có tình yêu đích thực[7]. Đây càng không phải là chủ nghĩa ẩn dật thuần túy, một sự từ bỏ thụ động và vô cảm đối với một học thuyết không có thân xác và không có lịch sử[8]. Đúng hơn, đó là kết quả của việc ngài chiêm ngắm cuộc đời của Ngôi Lời nhập thể. Vào ngày 26 tháng 12, thánh nhân đã nói với các nữ tu từ tâm điểm của mầu nhiệm Giáng Sinh: “Các chị em có thấy hài nhi Giêsu nằm trong máng cỏ không? Người chấp nhận tất cả những khó chịu của thời tiết, cái lạnh buốt giá và tất cả những gì mà Chúa Cha cho phép xảy đến. Người không từ chối những lời an ủi nhẹ nhàng mà Đức Maria dành cho Người; và không có tài liệu nào viết rằng Người đã từng đưa tay ra để ôm lấy bầu ngực của Mẹ mình, nhưng phó thác tất cả cho sự chăm sóc và chu cấp của Mẹ. Cũng vậy, chúng ta đừng ham muốn cũng đừng từ chối bất cứ điều gì, nhưng hãy chấp nhận tất cả những gì Thiên Chúa gửi đến cho chúng ta, kể cả thời tiết lạnh giá và khắc nghiệt”[9]. Thật là ấn tượng cách thánh Phanxicô nhận ra tầm quan trọng của việc quan tâm đến chiều kích con người. Tại trường học Nhập thể, ngài đã học cách đọc lịch sử và sống trong đó một cách tự tin.

Tiêu chí của tình yêu

Qua kinh nghiệm, thánh Phanxicô đã nhận ra rằng ước muốn là gốc rễ của mọi đời sống thiêng liêng đích thực, đồng thời cũng là nguyên nhân làm suy đồi nó. Rút ra từ nhiều truyền thống tâm linh trước đó, ngài nhận ra tầm quan trọng của việc không ngừng thử thách ước muốn bằng cách liên tục thực hành sự phân định, và tìm thấy tiêu chí cuối cùng cho sự đánh giá này trong tình yêu. Trong cuộc gặp gỡ cuối cùng ở Lyon, vào ngày lễ Thánh Stêphanô, hai ngày trước khi qua đời, ngài đã nói: “Chính tình yêu mang lại sự hoàn hảo cho các công việc của chúng ta. Tôi sẽ nói với bạn nhiều hơn nữa. Hãy lấy ví dụ một người chịu tử đạo vì Chúa với một chút tình yêu; người đó rất xứng đáng, vì mạng sống là điều quý nhất mà một người có thể cho đi. Tuy nhiên, nếu có một người khác chỉ bị trầy xước nhưng với tình yêu lớn, thì họ sẽ có nhiều công đức hơn, bởi vì chính lòng bác ái và tình yêu thương đã mang lại giá trị cho các việc làm của chúng ta”[10].

Với sự cụ thể đáng ngạc nhiên, thánh Phanxicô tiếp tục minh họa mối tương quan phức tạp giữa chiêm niệm và hoạt động: “Chị em đã biết, hoặc nên biết, rằng chiêm niệm tự nó tốt hơn hoạt động và lối sống năng động; nhưng nếu một người tìm thấy sự kết hợp với Chúa nhiều hơn trong lối sống năng động, thì điều đó lại tốt hơn. Nếu một chị em đang ở trong bếp bưng chảo trên lửa có tình yêu và lòng bác ái lớn hơn một chị em khác, thì ngọn lửa vật chất đó không những không cản trở mà còn giúp chị trở nên đẹp lòng Chúa hơn. Rất thường, người ta được kết hiệp với Thiên Chúa cả trong hoạt động lẫn trong cô tịch; cuối cùng, tôi luôn quay trở lại với câu hỏi: Bạn tìm thấy tình yêu lớn nhất ở đâu”[11]. Đây là câu hỏi thực sự vượt lên trên bất kỳ hình thức nào cứng nhắc vô bổ hoặc bất kỳ việc nào chỉ quan tâm đến bản thân: Hãy tự hỏi mình trong mọi lúc, mọi lựa chọn, mọi hoàn cảnh của cuộc sống rằng tình yêu lớn nhất được tìm thấy ở đâu. Không phải ngẫu nhiên mà Thánh Gioan Phaolô II gọi thánh Phanxicô Salê là “Tiến sĩ Tình yêu Thiên Chúa[12], không chỉ vì ngài đã viết một Khảo luận hùng hồn về chủ đề này, nhưng trên hết, vì ngài là một chứng nhân nổi bật cho tình yêu ấy. Mặt khác, các bài viết của ngài không phải là lý thuyết được sáng tác trên bàn giấy, xa vời với mối bận tâm của những người bình thường. Thực ra, những lời dạy của ngài là kết quả của kinh nghiệm lắng nghe, quan sát cẩn thận. Ngài chỉ chuyển hóa thành giáo huấn những gì ngài đã sống và đã giải mã với sự nhạy bén, được Thánh Thần soi sáng trong hoạt động mục vụ có tính canh tân và sáng tạo của mình. Chúng ta tìm thấy bản tóm tắt về cách tiến hành của ngài trong Lời nói đầu của Khảo luận về Tình yêu Thiên Chúa: “Trong Giáo hội Thánh thiện, mọi sự đều thuộc về tình yêu, được thực hiện vì tình yêu, và xuất phát từ tình yêu[13].

Những năm đào tạo đầu đời: cuộc phiêu lưu để nhận biết mình trong Thiên Chúa

Phanxicô sinh ngày 21 tháng 8 năm 1567 tại Lâu đài Sales, gần Thorens, con trai của François de Nouvelles, Lãnh chúa của Boisy, và Françoise de Sionnaz. “Sống giữa hai thế kỷ, XVI và XVII, ngài tập hợp nơi mình những giáo huấn và thành tựu văn hóa tốt nhất của thế kỷ vừa kết thúc, dung hòa di sản của chủ nghĩa nhân văn với xu hướng nhắm tới đặc tính Tuyệt đối, vốn điển hình của các trào lưu thần bí”[14].

Sau khi hoàn thành bước đào tạo văn hóa ban đầu, trước hết là tại Đại học La Roche-sur-Foron và sau đó là Annecy, thánh Phanxicô đã đến Paris, theo học tại Đại học Dòng Tên mới thành lập ở Clermont. Tại thủ đô của Vương quốc Pháp, nơi bị tàn phá bởi các cuộc chiến tranh tôn giáo, chỉ trong một thời gian ngắn, ngài đã trải qua hai cuộc khủng hoảng nội tâm liên tiếp, và chính điều này đã để lại dấu ấn không thể phai mờ trong cuộc đời ngài. Một lời cầu nguyện tha thiết được dâng lên trong Nhà thờ Saint-Étienne-des-Grès, trước tượng Đức Mẹ Đen của Paris, đã thắp sáng tâm hồn đang trong bóng tối của ngài một ngọn lửa, mà ngọn lửa này sẽ tiếp tục cháy như một bí quyết để hiểu kinh nghiệm của mình và của người khác. “Lạy Chúa, dù chuyện gì xảy ra, Ngài luôn là Đấng nắm giữ mọi sự trong tay, và đường lối của Ngài là công lý và sự thật, … Lạy Chúa, con sẽ yêu mến Ngài, … Con sẽ yêu mến Ngài ở đây, ôi lạy Chúa; Con sẽ luôn trông cậy vào lòng thương xót của Chúa và luôn lặp lại lời ca tụng Chúa… Ôi lạy Chúa Giêsu, Chúa sẽ luôn là niềm hy vọng và là ơn cứu độ của con trong vùng đất của người sống”[15]. Đây là những lời ngài ghi lại trong nhật ký sau khi tìm thấy sự bình an. Và kinh nghiệm này, với những lo lắng và bấp bênh, sẽ tiếp tục soi sáng và mang lại cho ngài một cách tiếp cận độc đáo đối với mầu nhiệm về mối tương quan giữa Thiên Chúa với con người. Nó giúp ngài lắng nghe và có cái nhìn sâu sắc về cuộc sống của người khác và nhận ra, với sự phân định tinh tế, thái độ nội tâm kết hợp suy nghĩ với cảm xúc, lý trí với tình cảm, mà ngài gọi là “Thiên Chúa của trái tim con người”. Bằng cách này, thánh Phanxicô đã không mạo hiểm biến kinh nghiệm cá nhân của mình thành một giá trị lý thuyết và tuyệt đối hóa nó. Trái lại, ngài đã học được một điều phi thường, hoa trái của ân sủng, đó là khả năng phân định về kinh nghiệm sống của chính mình và của người khác nơi Thiên Chúa.

Mặc dù không bao giờ có ý định xây dựng một hệ thống thần học nhưng suy tư của thánh nhân về đời sống thiêng liêng có một giá trị thần học nổi bật, vì nó thể hiện hai chiều kích thiết yếu của bất kỳ nền thần học chân chính nào. Chiều kích thứ nhất là đời sống thiêng liêng, bởi vì chính trong lời cầu nguyện khiêm tốn và kiên trì, trong sự cởi mở với Chúa Thánh Thần, mà người ta có thể cố gắng hiểu và diễn tả Lời Chúa; Các thần học gia được tôi luyện trong lò luyện cầu nguyện. Chiều kích thứ hai là đời sống Giáo hội: cảm thức trong Giáo hội và với Giáo hội. Chính Thần học cũng bị ảnh hưởng bởi văn hóa cá nhân chủ nghĩa, nhưng thần học gia Kitô giáo xây dựng tư tưởng của mình bằng cách hòa mình vào cộng đoàn, bẻ bánh Lời Chúa trong cộng đoàn[16]. Tư tưởng của thánh Phanxicô, mặc dù ở bên lề những thảo luận học thuật kinh viện đương thời và dù tôn trọng chúng, vẫn được đặc trưng từ hai chiều kích thiết yếu này.

Khám phá ra một thế giới mới

Sau khi hoàn thành chương trình nghiên cứu nhân văn, thánh Phanxicô tiếp tục theo học luật tại Đại học Padua. Khi trở lại Annecy, ngài đã quyết định hướng đi của cuộc đời mình, bất chấp sự phản đối của người cha. Thụ phong linh mục ngày 18. 12. 1593, đến đầu tháng 9 năm sau, ngài được Đức Giám mục Claude de Granier sai đi thi hành sứ vụ khó khăn tại Le Chablais, một lãnh thổ thuộc giáo phận Annecy. Le Chablais, mặc dù theo giáo thuyết Calvin thông qua một mạng lưới chiến tranh và hiệp ước hòa bình phức tạp, một lần nữa lại nằm dưới sự kiểm soát của Công quốc Savoy. Đây là những năm căng thẳng và đầy kịch tính. Tại đây, cùng với một số sự cố chấp cứng nhắc mà sau này sẽ khiến ngài phải suy nghĩ, Phanxicô khám phá ra năng khiếu của mình với tư cách là một người hòa giải và đối thoại. Ngoài ra, ngài còn nhận ra mình là người phát minh ra một số phương thức mục vụ độc đáo và táo bạo, chẳng hạn như những “tờ truyền đơn” nổi tiếng, được dán khắp nơi và thậm chí còn luồn dưới cửa các ngôi nhà.

Năm 1602, thánh Phanxicô trở lại Paris và được giao nhiệm vụ thực hiện một sứ mạng ngoại giao tế nhị đó là đại diện tư pháp cho Giám mục de Granier với những chỉ thị cụ thể từ Tòa thánh, sau lần sửa đổi thứ mười một bức tranh tôn giáo-chính trị về lãnh thổ của giáo phận Geneva. Cho dù có sự bố trí tốt đẹp từ phía Vua Pháp, nhiệm vụ đã thất bại. Thánh nhân đã viết thư cho Đức giáo hoàng Clement VIII, “Sau chín tháng ròng rã, con buộc phải trở về mà hầu như không làm được điều gì cả”[17]. [17] Tuy nhiên, sứ mạng này đã mặc khải cho ngài và cho Giáo hội một sự phong phú bất ngờ trên bình diện nhân bản, văn hóa và tôn giáo. Trong thời gian rảnh rỗi của các cuộc đàm phán ngoại giao, ngài đã thuyết giảng trước sự hiện diện của nhà Vua và triều đình Pháp, thiết lập những mối tương quan quan trọng, và trên hết, hòa mình hoàn toàn vào mùa xuân văn hóa và tinh thần tại thủ đô của Vương quốc.

Ở đó, mọi thứ đều sôi động và thay đổi liên tục. Thánh Phanxicô đã bị đánh động và thu hút bởi những vấn đề lớn đang nảy sinh trên thế giới, bởi những cách nhìn mới về chúng, cũng như bởi nhu cầu đáng ngạc nhiên về tâm linh và những vấn đề chưa từng có trước đây. Nói tóm lại, ngài cảm nhận được những “biến thiên thời đại” thực sự cần được đáp ứng bằng những hình thức ngôn ngữ cũ và mới. Chắc chắn đây không phải là lần đầu tiên ngài gặp những Kitô hữu nhiệt thành, nhưng bây giờ mọi thứ đã khác. Paris không còn là thành phố bị tàn phá bởi những cuộc chiến tranh tôn giáo mà ngài được biết trong những năm đào tạo ban đầu, cũng không phải là những cuộc xung đột gay gắt mà ngài đã thấy ở các vùng lãnh thổ của Chablais. Trái lại, đó là một thực tế bất ngờ: một đám đông “các thánh, các thánh đích thực, rất nhiều và ở khắp nơi”[18]. Họ là những người nam nữ có văn hóa, các giáo sư từ Sorbonne, đại diện chính quyền dân sự, hoàng tử và công chúa, những đầy tớ, nam nữ tu sĩ. Một thế giới đang khao khát Thiên Chúa dưới muôn hình vạn trạng.

Gặp gỡ những người này và biết được những vấn đề của họ là một trong những sự việc quan trọng nhất trong cuộc đời ngài. Vì vậy, những ngày dường như vô ích và rỗng tuếch đã trở thành một trường học vô song để đọc một cách hứng thú tâm trạng con người thời đại. Ở Phanxicô, một nhà tranh luận khôn ngoan và nhiệt tình, đang được biến đổi nhờ ân sủng, thành một nhà diễn giải thời đại tài ba và một nhà hướng dẫn tuyệt vời của các tâm hồn. Hoạt động mục vụ của ngài, những tác phẩm vĩ đại của ngài – Dẫn vào Đời sống đạo đức và Khảo luận về Tình yêu Thiên Chúa – và hàng ngàn bức thư về tình bạn thiêng liêng mà ngài đã viết cho các tu sĩ và nữ tu, cho các thành viên trong triều đình và dân thường, cuộc gặp gỡ với Jane Frances de Chantal, và việc thành lập Dòng Thăm viếng vào năm 1610, sẽ không thể hiểu được nếu không có bước chuyển biến nội tâm này. Do đó, Tin Mừng và văn hóa đã tìm thấy nơi thánh Phanxicô một sự tổng hợp hiệu quả, dẫn đến sự phát triển về một phương pháp đích thực mà một khi nó đã hình thành, hứa hẹn mang lại mùa gặt bội thu và lâu dài.

Trong một trong những lá thư đầu tiên về linh hướng và tình bạn thiêng liêng, được gửi cho một cộng đoàn tu trì mà ngài đã viếng thăm ở Paris, thánh nhân đã khiêm tốn đề cập đến một “phương pháp của Phanxicô” khác với những phương pháp khác, nhằm hướng tới một cuộc cải cách thực sự. Đó là phương pháp từ bỏ sự nghiêm khắc và hoàn toàn tôn trọng phẩm giá và khả năng của một tâm hồn đạo đức, bất chấp những khuyết điểm của họ. Ngài viết: “Tôi tự hỏi liệu có thể có một trở ngại khác liên quan đến sự cải cách của bạn hay không: có lẽ những người áp đặt nó lên bạn đã chữa lành vết thương quá thô bạo… Tôi đánh giá cao phương pháp của họ, mặc dù đó không phải là phương pháp tôi thường sử dụng, đặc biệt là đối với những tâm hồn cao quý và có học thức như của bạn. Tôi nghĩ rằng tốt hơn hết là chỉ cho họ căn bệnh và đặt con dao mổ vào tay họ, để họ tự rạch vết mổ cần thiết. Tuy nhiên, đừng vì lý do này mà bỏ bê công cuộc cải cách mà bạn cần”[19]. Những lời này cho thấy cái nhìn sâu sắc vốn đã làm cho tính lạc quan Salêdiêng trở nên nổi tiếng và đã để lại dấu ấn lâu dài trong lịch sử linh đạo qua sự đơm hoa kết trái sau này, chẳng hạn như trường hợp của Thánh Gioan Bosco hai thế kỷ sau đó.

Khi trở lại Annecy, Phanxicô được tấn phong giám mục vào ngày 8 tháng 12 cùng năm 1602. Ảnh hưởng của thừa tác vụ giám mục của ngài đối với châu Âu thời bấy giờ và các thế kỷ tiếp theo là rất lớn. “Ngài là một tông đồ, một nhà giảng thuyết, một nhà văn, một người hoạt động và cầu nguyện, tận tụy thực hiện những lý tưởng của Công đồng Trento; tham gia vào các cuộc tranh luận và đối thoại với những người theo Tin lành, ngài ngày càng trải nghiệm hiệu quả của các mối tương quan cá nhân và lòng bác ái, vượt ra ngoài sự đối đầu thần học cần thiết; phụ trách các cơ quan đại diện ngoại giao ở cấp châu Âu và các công tác xã hội về trung gian và hòa giải”[20]. Trên hết, thánh nhân là người giải thích sự thay đổi của thời đại và là người hướng dẫn các tâm hồn đang khao khát Thiên Chúa theo một cách thức mới.

Đức ái làm mọi thứ cho con cái mình

Giữa năm 1620 và 1621, nghĩa là đã gần cuối đời, thánh Phanxicô đã ngỏ lời với một linh mục trong giáo phận của ngài bằng những lời lẽ có khả năng làm sáng tỏ tầm nhìn của ngài về thời đại. Thánh nhân khuyến khích vị linh mục theo đuổi mong muốn cống hiến hết mình để sáng tác những tác phẩm mới có khả năng đưa ra những lời giải đáp cho những vấn đề mới, đồng thời cảm nhận được những nhu cầu trong đó. “Cha phải nói với con rằng kiến thức mà cha có được hàng ngày về tâm trạng của thế giới khiến cha tha thiết mong muốn rằng Thiên Chúa, vì lòng nhân từ của Ngài sẽ truyền cảm hứng cho một số tôi tớ của Ngài để viết nhằm đáp ứng thị hiếu của thế giới tội nghiệp này”[21]. Lý do cho sự khuyến khích này được tìm thấy trong tầm nhìn của ngài về thời đại: “Thế giới đang trở nên quá mong manh đến nỗi chẳng bao lâu nữa, người ta sẽ không còn dám chạm vào nó, trừ khi mang găng tay nhung, cũng như không thể băng bó vết thương của nó, trừ khi với băng gạc thơm; nhưng điều đó có là gì nếu con người được chữa lành và cuối cùng được cứu? Đức ái, nữ hoàng của chúng ta, làm mọi thứ cho con cái mình”[22]. Đây không phải là thái độ đạo đức hoặc biểu hiện của sự cam chịu khi đối diện với thất bại. Đúng hơn, đó là trực giác về thế giới đang thay đổi và là dấu chỉ của một ý thức hoàn toàn mang tính truyền giáo về nhu cầu đáp ứng những thay đổi đó.

Hơn nữa, những tư tưởng này được thể hiện trong Lời mở đầu của cuốn Khảo luận về Tình yêu Thiên Chúa“Tôi đã suy nghĩ đến tình trạng của các linh hồn trong thời đại này, và tôi không thể làm khác: điều rất quan trọng là phải lưu tâm đến điều kiện của thời đại mà nó được viết”[23]. Sau đó, xin độc giả lượng thứ, ngài tiếp tục: “Nếu bạn thấy văn phong hơi khác so với văn phong mà tôi đã sử dụng trong cuốn Dẫn vào Đời sống đạo đức, và cả hai đều rất khác so với văn phong tôi dùng trong Defense of the Cross (Bảo vệ Thánh giá), thì bạn nên biết rằng trong mười chín năm, chúng ta học và quên nhiều điều: rằng ngôn ngữ chiến tranh không giống với ngôn ngữ hòa bình, và chúng ta nói theo cách này với các học viên trẻ và nói cách khác với những người lớn tuổi hơn”[24]. Nhưng, đối diện với sự thay đổi này, người ta nên bắt đầu từ đâu, nếu không phải từ lịch sử của Thiên Chúa với nhân loại? Đây là mục đích cuối cùng của Khảo luận: “Ý định của tôi chỉ là trình bày một cách đơn giản và rõ ràng, không giả tạo hay rườm rà, lịch sử ra đời, phát triển, vận hành, tính chất, ưu điểm, và phẩm chất cao cả của tình yêu thần linh”[25].

Những đòi hỏi của sự thay đổi mang tính thời đại

Nhân dịp kỷ niệm 400 năm ngày mất của Thánh Phanxicô Salê, tôi đã suy nghĩ rất nhiều về di sản của ngài đối với thời đại chúng ta. Tôi thấy rằng sự linh hoạt và tầm nhìn xa trông rộng của ngài có nhiều điều để nói với chúng ta. Một phần nhờ hồng ân Thiên Chúa và một phần nhờ vào tính cách cá nhân, và cũng nhờ sự kiên trì trau dồi kinh nghiệm, ngài đã có một nhận thức rõ ràng về sự thay đổi của thời đại. Bản thân ngài, có lẽ không bao giờ tưởng tượng được rằng những thay đổi đó lại là một cơ hội tuyệt vời cho việc rao giảng Tin Mừng. Lời Chúa mà ngài yêu mến từ thuở nhỏ giờ đây đã mở ra trước mắt ngài những chân trời mới và không thể đoán trước, trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng.

Đây cũng là nhiệm vụ thiết yếu đang chờ đợi chúng ta đối với sự thay đổi của thời đại này: một Giáo hội không quy chiếu về mình, thoát khỏi mọi tính thế tục nhưng có khả năng sống trong thế giới, chia sẻ cuộc sống của con người, bước đi cùng nhau, lắng nghe và chào đón[26]. Đây là điều mà thánh Phanxicô đã thực hiện khi ngài phân định các biến cố của thời đại với sự trợ giúp của ân sủng. Hôm nay, ngài mời gọi chúng ta hãy gạt bỏ mối bận tâm thái quá đối với bản thân, đối với các cơ cấu, và đối với những gì xã hội nghĩ về chúng ta, và thay vào đó, hãy tự hỏi đâu là những nhu cầu cụ thể và những kỳ vọng thiêng liêng của người dân[27]. Do đó, ngày nay, điều cần là phải đọc lại một số lựa chọn quan trọng của thánh nhân, để chúng ta có thể đáp ứng những thay đổi hiện tại với sự khôn ngoan của Tin Mừng.

Làn gió và đôi cánh

Lựa chọn đầu tiên là đọc lại và đề xuất lại cho mỗi người, trong hoàn cảnh cụ thể của họ, mối tương quan hạnh phúc giữa Thiên Chúa và con người. Về cơ bản, lý do tối hậu và mục đích cụ thể của Khảo luận chính là để minh họa cho người đương thời về sức hấp dẫn của tình yêu Thiên Chúa. Ngài hỏi: “Đâu là những mối ràng buộc mà Thiên Chúa Quan phòng thường dùng để thu hút trái tim chúng ta đến với tình yêu của Ngài?”[28]. Lập lại lời của ngôn sứ Hôsê (11, 4)[29], thánh nhân định nghĩa những phương tiện thông thường này là “những mối tương quan nhân bản, lòng bác ái, và tình bạn”. Ngài viết: “Rõ ràng, chúng ta không bị lôi cuốn đến với Thiên Chúa bằng xiềng xích sắt, giống như trâu bò, mà bằng những lời mời gọi, dỗ dành và gợi hứng thánh thiện; đây là những sợi dây ràng buộc của Adam và của nhân loại, nghĩa là bởi những gì thích hợp và phù hợp với trái tim con người, vốn được phú bẩm một cách tự do[30]. Chính nhờ những mối ràng buộc này mà Thiên Chúa đã giải thoát dân Ngài khỏi ách nô lệ, dạy họ bước đi và nắm tay họ như cha mẹ làm với con mình. Do đó, không có sự áp đặt từ bên ngoài, không có lực lượng chuyên chế và độc đoán, không có bạo lực, mà là sự thuyết phục tôn trọng quyền tự do của con người. Thánh Phanxicô tiếp tục, chắc chắn đang nghĩ về nhiều câu chuyện cuộc đời mà ngài đã gặp phải: “Sức mạnh của ân sủng không phải để ép buộc mà là để lôi kéo trái tim. Ân sủng sở hữu một sức mạnh thánh thiện, không xâm phạm quyền tự do nhưng hướng dẫn tự do đến tình yêu. Ân sủng hoạt động mạnh mẽ, nhưng nhẹ nhàng đến nỗi ý chí của chúng ta không bị choáng ngợp bởi một hành động mạnh mẽ như vậy; dù thúc bách nhưng ân sủng không bóp nghẹt tự do của chúng ta. Vì vậy, chúng ta có thể đồng ý hoặc từ chối nghe theo những thôi thúc của ân sủng, tuỳ theo ý thích của chúng ta”[31].

Trước đó, thánh Phanxicô đã phác họa về mối tương quan này bằng một ví dụ gây tò mò từ khoa điểu học: “Có một loài chim, Theotimos, mà Aristotle gọi là ‘apodans’ (không chân), bởi vì chúng có đôi chân ngắn và yếu đến độ chẳng có tác dụng gì, như thể không có đôi chân này. Nếu chẳng may rơi xuống đất, con chim nằm yên đó, không thể tự cất cánh trở lại, bởi vì nếu không sử dụng chân hoặc bàn chân, chúng không thể bay lên và vỗ cánh. Do đó, chúng vẫn nằm rạp trên mặt đất và chết ở đó, trừ khi có một cơn gió mạnh nào đó, bù đắp cho sự bất lực của chúng, nâng chúng lên, giống như nhiều thứ khác. Trong trường hợp đó, nếu con chim đập cánh để đáp lại sức đẩy của gió, thì chính gió sẽ tiếp tục giúp chúng bằng cách đẩy chúng lên cao hơn nữa, giúp chúng bay càng lúc càng cao hơn”[32]. Con người chúng ta cũng vậy: chúng ta được Thiên Chúa dựng nên để bay, để dang rộng đôi cánh đáp lại tiếng gọi của tình yêu, nhưng một khi bị rơi xuống đất, trừ khi chọn mở rộng đôi cánh trước ngọn gió của Thần Khí, chúng ta sẽ có nguy cơ chẳng bao giờ có thể bay được nữa.

Vì thế, đây là cách mà ân sủng của Thiên Chúa đến với chúng ta: đó là những mối ràng buộc quý giá và rất nhân bản của Ađam. Quyền năng của Thiên Chúa luôn có khả năng nâng chúng ta lên để lại cất cánh, nhưng lòng nhân từ khiến Ngài tôn trọng sự tự do của chúng ta. Việc chọn để cất cánh hay ở lại trên mặt đất là tùy thuộc vào chúng ta. Ngay cả khi ban ân sủng, Thiên Chúa sẽ không để chúng ta trỗi dậy nếu không có sự đồng ý của chúng ta. Do đó, thánh Phanxicô rút ra kết luận: “Hỡi Theotimos, nguồn cảm hứng của Thiên Chúa được ban tặng trước khi chúng ta nhận thức được nó, nhưng một khi đã nhận thức, thì chúng ta có thể đồng ý làm theo sự thôi thúc, hoặc từ chối và loại bỏ chúng”[33]. Trong mối tương quan với Thiên Chúa, chúng ta luôn cảm nghiệm được sự tự do biểu lộ tình yêu sâu thẳm của Chúa Cha dành cho chúng ta.

Tuy nhiên, ân sủng này không bao giờ làm cho con người trở nên thụ động; đúng hơn, nó dẫn chúng ta đến chỗ nhận ra rằng chúng ta được đặt trước tình yêu của Thiên Chúa, và ân ban đầu tiên của Ngài hệ tại ở việc chúng ta chấp nhận tình yêu đó hay không. Vì thế, mỗi người có trách nhiệm hợp tác vào việc nhận thức, tin tưởng, dang rộng đôi cánh để đón làn gió của Thiên Chúa. Ở đây, chúng ta thấy một khía cạnh quan trọng của ơn gọi làm người của mình. “Trong câu chuyện Sáng thế ký, Thiên Chúa ra lệnh cho Ađam và Êva phải sinh sôi nảy nở. Nhân loại có sứ mạng thay đổi, xây dựng, làm chủ thụ tạo theo nghĩa tích cực là sáng tạo từ nó và cùng với nó. Vì vậy, tương lai không phụ thuộc vào một cơ chế vô hình trong đó con người là khán giả thụ động. Không, chúng ta là những nhân vật chính, chúng ta là những người đồng sáng tạo”[34]. Đó là điều mà thánh Phanxicô đã nhận ra và tìm cách truyền đạt trong sứ vụ linh hướng của ngài.

Lòng đạo đức thực sự

Lựa chọn quan trọng thứ hai là chủ đề về lòng đạo đức. Ngày nay, một lần nữa, kỷ nguyên mới đã đặt ra một số vấn đề. Có hai khía cạnh của vấn đề cần được hiểu và đánh giá lại hiện nay. Thứ nhất liên quan đến chính ý tưởng về lòng đạo đức, thứ hai là tính phổ quát và phổ biến của nó. Mở đầu của cuốn Dẫn vào Đời sống đạo đức, thánh Phanxicô nói rõ: “Trước hết, cần phải biết lòng đạo đức bao gồm những gì. Chỉ có một lòng đạo đức đích thực, nhưng lại có nhiều lòng đạo đức giả dối và hão huyền. Nếu không phân biệt được lòng đạo đức đích thực, bạn có thể rơi vào sai lầm và lãng phí thời gian để chạy theo một số việc đạo đức vô bổ và mê tín”[35].

Mô tả của thánh Phanxicô về lòng đạo đức sai lầm rất thú vị và luôn hợp thời. Trong đó chúng ta dễ dàng nhận ra chính mình, vì ngài làm cho câu chuyện thêm ý nhị bằng cách nói hóm hỉnh: “Người ăn chay cho rằng mình là đạo đức vì nhịn ăn, dù trong lòng đầy oán hận; và trong khi yêu thích sự kiêng bớt, không để một giọt rượu, hay thậm chí là nước, chạm vào lưỡi mình, nhưng họ lại không ngại nhúng lưỡi mình vào máu của người thân cận bằng những lời đàm tiếu và vu khống. Một người khác tự cho mình là người đạo đức vì suốt ngày lẩm bẩm cầu nguyện không ngừng, nhưng sau đó lại tuôn ra những lời lăng mạ, kiêu ngạo, và gây tổn thương cho người thân và hàng xóm của mình. Lại có người sẵn sàng bố thí cho người nghèo, nhưng lại không thể lấy ra một chút lòng thương xót nào để tha thứ cho kẻ thù của mình. Còn người khác sẽ tha thứ cho kẻ thù của mình, nhưng lại chẳng bao giờ nghĩ đến việc trả nợ nếu không bị công lý ép buộc”[36]. Rõ ràng đó là những tệ nạn xảy ra ở mọi thời, kể cả ngày nay, và thánh nhân kết luận “tất cả những người này thường được coi là đạo đức, nhưng thực sự, họ không hề như vậy”[37].

Tuy nhiên, sự thật của lòng đạo đức đích thực nằm ở chỗ khác: gốc rễ sâu xa nhất của nó là từ sự sống của Thiên Chúa ngự trong tâm hồn chúng ta. “Lòng đạo đức đích thực và sống động đòi hỏi phải có tình yêu đối với Thiên Chúa; thật vậy, nó không là gì khác hơn là tình yêu đích thực của Thiên Chúa, chứ không phải bất cứ tình yêu nào”[38]. Trong ngôn ngữ sống động của thánh Phanxicô, lòng đạo đức “không gì khác hơn là sự tỉnh thức và năng lượng tâm linh, nhờ đó lòng bác ái tác động trong chúng ta, hoặc chúng ta hành động nhờ lòng bác ái, với sự nhanh nhẹn và trìu mến”[39]. Như vậy, lòng đạo đức không đứng bên cạnh nhưng là một biểu hiện của lòng bác ái. Lòng đạo đức giống như ngọn lửa có liên quan với lửa: Lòng đạo đức gia tăng cường độ của lòng bác ái mà không làm thay đổi chất lượng của nó. “Tóm lại, có thể nói rằng lòng bác ái và lòng đạo đức không khác gì ngọn lửa với lửa. Lòng bác ái là ngọn lửa tâm linh, khi nó bùng cháy mạnh mẽ thì được gọi là lòng đạo đức. Do đó, lòng đạo đức không thêm gì vào ngọn lửa bác ái nhưng là ngọn lửa làm cho lòng bác ái trở nên sẵn sàng, tích cực và siêng năng, không chỉ trong việc tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa mà còn trong việc thực thi các lời khuyên và sự soi dẫn thiêng liêng của Ngài”[40]. Hiểu theo cách này, lòng đạo đức không phải là một điều gì trừu tượng, trái lại, nó là một lối sống, một cách sống hòa mình vào cuộc sống cụ thể hàng ngày. Nó bao trùm và mang lại ý nghĩa cho những điều nhỏ nhặt: thức ăn và quần áo, công việc và giải trí, tình yêu và thiên chức làm cha mẹ, sự tận tâm trong việc chu toàn bổn phận… Tóm lại, nó soi sáng ơn gọi của mỗi người.

Ở đây chúng ta cảm nhận được chiều kích phổ quát của lòng đạo đức, vốn được khẳng định ngay từ những dòng đầu tiên của cuốn Dẫn vào Đời sống đạo đức“Hầu như tất cả những người nghiên cứu về lòng đạo đức đều quan tâm đến việc hướng dẫn những người sống tách biệt với thế giới, hoặc ít nhất là họ đã dạy một loại đạo đức dẫn đến sự cô lập như vậy. Tôi có ý định đưa ra những lời dạy của mình cho những người sống trong thành phố, trong gia đình, tại tòa án, và những người, do hoàn cảnh sống của họ, buộc phải sống giữa những người khác”[41].

Đây là lý do tại sao những người nghĩ rằng lòng đạo đức chỉ giới hạn trong một khung cảnh yên tĩnh và hẻo lánh nào đó là hết sức sai lầm. Đúng hơn, lòng đạo đức dành cho mọi người, trong mọi hoàn cảnh, và mọi người có thể thực hành nó theo ơn gọi của mình. Như Thánh Phaolô VI đã viết nhân dịp kỷ niệm 400 năm ngày sinh của Thánh Phanxicô Salê, “Sự thánh thiện không phải là đặc quyền của bất kỳ giai cấp nào, nhưng là lời mời gọi khẩn thiết được gửi đến mọi Kitô hữu: “Xin mời bạn lên trên cho” (Lc 14, 10). Tất cả chúng ta đều được mời gọi leo lên núi của Thiên Chúa, mặc dù không phải tất cả mọi người đều theo cùng một lộ trình. ‘Lòng đạo đức phải được thực hành khác nhau tuỳ theo đó là người cao trọng hay người lao động, tôi tớ hay hoàng tử, góa phụ hay thiếu nữ,…. Hơn nữa, việc thực hành lòng đạo đức phải phù hợp với khả năng, công việc và bổn phận của mỗi người”[42]. Sống giữa thành phố thế tục mà vẫn nuôi dưỡng đời sống nội tâm, kết hợp ước muốn nên hoàn thiện với từng trạng thái của cuộc sống, khám phá sự bình an nội tâm, không tách mình ra khỏi thế giới mà học cách sống trong đó, đánh giá cao nó, đồng thời duy trì một sự tách biệt thích hợp khỏi tính thế tục. Đó là mục tiêu của thánh Phanxicô, và vẫn luôn là bài học quý giá cho mọi người trong thời đại chúng ta.

Đây cũng là giáo huấn của Công đồng Vatican II về ơn gọi nên thánh phổ quát: “Được trao ban nhiều phương tiện cứu độ dồi dào và cao quý như thế, tất cả các Ki-tô hữu, dù trong hoàn cảnh hay bậc sống nào, cũng đều được Chúa kêu gọi, để mỗi người mỗi cách, vươn tới sự thánh thiện trọn hảo như chính Chúa Cha là Đấng trọn lành”[43]. Mỗi người theo cách riêng của mình… “Chúng ta đừng nản lòng trước những mẫu gương thánh thiện dường như không thể đạt được”[44]. Mẹ Giáo hội đề xuất với chúng ta những mẫu gương không phải để chúng ta cố sao chép nhưng để chúng ta được thúc đẩy bước đi trên con đường cụ thể mà Đức Chúa đã hoạch định cho mỗi người chúng ta. “Điều quan trọng nhất là mỗi tín hữu nhận ra con đường riêng của mình, phát huy điều tốt nhất nơi bản thân, những ân huệ riêng mà Thiên Chúa đã đặt để trong tâm hồn mình” (x. 1 Cr 12,7)[45].

Sự xuất thần của cuộc sống

Tất cả những điều này đã khiến vị giám mục thánh thiện coi toàn bộ đời sống Kitô hữu là “sự xuất thần của công việc và cuộc sống”[46]. Tuy nhiên, không nên nhầm lẫn đời sống Kitô hữu với khuynh hướng thoát ly thực tế, hoặc khép kín co cụm, và càng không nên nhầm lẫn với sự vâng phục buồn tẻ và ảm đạm. Chúng ta biết rằng mối nguy hiểm này luôn hiện hữu trong đời sống đức tin. Thật vậy, “có những Kitô hữu mà cuộc sống của họ dường như là Mùa Chay mà không có Lễ Phục Sinh”. Trong khi chúng ta có thể hiểu được nỗi đau buồn của những người phải chịu nhiều đau khổ, thì “chúng ta phải để cho niềm vui đức tin dần dần hồi sinh giống như một niềm tin thầm kín nhưng vững chắc, ngay cả trong những lúc khốn cùng nhất”[47].

Cho phép niềm vui bừng dậy trong tâm hồn là điều mà thánh Phanxicô muốn nói về “sự xuất thần trong công việc và cuộc sống”. Nhờ đó, “chúng ta không chỉ sống một cuộc sống văn minh, trung thực và Kitô giáo, mà còn là một cuộc sống siêu phàm, thiêng liêng, đạo đức, và xuất thần, một cuộc sống mà trong mọi trường hợp đều vượt xa và vượt lên trên điều kiện tự nhiên của chúng ta”[48]. lúc này, chúng ta ở những trang trung tâm, và sáng nhất của Khảo luận, nơi “sự xuất thần” được trình bày như một niềm hạnh phúc tràn đầy của đời sống Kitô hữu, vượt lên trên sự tầm thường của việc tuân giữ giới răn: “Chớ trộm cắp, chớ nói dối, chớ dâm dục, chớ thề gian; hãy yêu thương và kính trọng cha mẹ; chớ giết người: đây mới chỉ là sống thuận theo lý trí tự nhiên của con người. Nhưng hãy từ bỏ của cải, yêu thích khó nghèo, coi đó là tình nhân tuyệt vời nhất; coi sự sỉ nhục, bắt bớ và tử đạo là hạnh phúc và phúc lành; tự kiềm chế trong giới hạn của khiết tịnh; và cuối cùng, sống trong thế gian nhưng không theo sự khôn ngoan thế gian và lội ngược dòng bằng sự cam chịu, hy sinh, và từ bỏ mình: đây không phải là sống theo lý lẽ bình thường mà là siêu phàm, vượt ra ngoài và vượt lên trên bản thân chúng ta. Và bởi vì chẳng ai có thể vượt lên trên chính mình theo cách này nếu không được Chúa Cha hằng hữu lôi kéo, nên lối sống này phải là một sự ngây ngất và một trạng thái xuất thần liên tục của hành động và hoạt động”[49].

Đó là một cuộc sống tìm lại được những nguồn vui và chống lại cám dỗ của việc tự cho mình là trung tâm. Vì “mối nguy hiểm lớn của thế giới ngày nay, với chủ nghĩa tiêu thụ lan tràn khắp nơi, là sự cô đơn và đau khổ phát sinh từ lòng tự mãn, tham lam, tìm kiếm những thú vui phù phiếm, và từ lương tâm chai lỳ. Đó là một đời sống khép kín trong tư lợi, không còn chỗ cho người khác, không còn chỗ cho người nghèo; không còn nghe được tiếng nói của Thiên Chúa, không còn cảm nhận được niềm vui thầm lặng của tình yêu; và ước muốn làm điều thiện cũng phai nhạt. Đây cũng là mối nguy hiểm thực sự đối với các tín hữu. Nhiều người trở thành con mồi của nó, và cuối cùng trở nên oán giận, giận dữ và bất mãn”[50].

Cuối cùng, đối với phần mô tả về “sự xuất thần của công việc và cuộc sống”, thánh Phanxicô bổ sung thêm hai chi tiết quan trọng vẫn còn giá trị cho thời đại chúng ta. Điều thứ nhất liên quan một tiêu chuẩn hiệu quả để nhận ra tính xác thực của lối sống này, trong khi điều thứ hai đề cập đến nguồn gốc sâu xa nhất của nó. Đối với tiêu chuẩn của sự phân định, ngài tuyên bố rằng, trong khi trạng thái xuất thần đòi hỏi sự từ bỏ bản thân thực sự, thì nó không có nghĩa là chạy trốn cuộc sống. Điều quan trọng là đừng bao giờ quên điều này, để tránh những sai lệch nguy hiểm. Nói cách khác, ai tự cho mình đang tiến đến gần Thiên Chúa, mà không sống bác ái với tha nhân, là đang tự lừa dối mình và lừa dối người khác.

Chúng ta tìm thấy ở đây cùng một tiêu chuẩn mà thánh Phanxicô đã áp dụng để đo lường phẩm chất của lòng đạo đức đích thực. “Nếu bạn thấy một người trong lúc cầu nguyện đạt tới sự ngất ngây khiến người đó nâng mình lên với Thiên Chúa, nhưng lại không có sự xuất thần trong cuộc sống, nghĩa là người ấy không sống một cuộc sống được nâng cao và kết hợp với Thiên Chúa, thông qua lòng bác ái liên lỉ, thì hãy tin rằng tất cả những trạng thái ngất ngây của họ đều rất đáng ngờ và nguy hiểm”. Kết luận của ngài rất sắc bén: “Vượt lên trên chính mình khi cầu nguyện, nhưng lại thấp hơn chính mình trong cuộc sống và hành động, trở thành thiên thần trong suy ngẫm, nhưng thú tính trong cuộc đối thoại, là một dấu hiệu chắc chắn cho thấy những trạng thái ngất ngây và xuất thần như vậy chỉ là những mánh khoé và lừa dối của ác thần”[51]. Đây chính là điều mà Thánh Phaolô đã nhắc nhở tín hữu Côrintô trong “Bài ca đức mến”: “Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13,2-3).

Vì thế, đối với thánh Phanxicô, trong khi đời sống Kitô hữu không bao giờ được miễn trừ sự xuất thần, thì sự xuất thần là không chân thực nếu tách rời khỏi đời sống Kitô hữu đích thực. Thật vậy, cuộc sống không có sự xuất thần có nguy cơ bị giảm xuống thành sự vâng lời mù quáng, một Tin Mừng đánh mất niềm vui. Mặt khác, trạng thái xuất thần không có sự sống dễ trở thành mồi ngon cho những ảo tưởng và lừa dối của Ác thần. Sự phân cực của đời sống Kitô hữu không phải là giải quyết và loại trừ nhưng là bảo tồn tính xác thực lẫn nhau. Điều này có nghĩa là, chân lý không tồn tại nếu không có công lý; thoả mãn mà không có trách nhiệm; tự phát mà không có luật pháp, và ngược lại.

Mặt khác, về nguồn gốc sâu xa của trạng thái xuất thần này, thánh Phanxicô đã khôn ngoan liên kết nó với tình yêu được biểu lộ qua Chúa Con nhập thể. Nếu, một đàng, đúng là “tình yêu là hành động và nguyên tắc đầu tiên của lòng đạo đức hoặc đời sống tâm linh của chúng ta, nhờ đó chúng ta sống, cảm nhận và di chuyển” và đàng khác, “đời sống tâm linh bao gồm toàn bộ hoạt động tình cảm của chúng ta”, thì rõ ràng là “một trái tim không có cảm xúc thì không có tình yêu”, và “một trái tim có tình yêu thì không thể không có cảm xúc”[52]. Nguồn mạch của tình yêu thu hút con tim chính là cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô. “Không có gì lay động trái tim con người cho bằng tình yêu”, và điều này thể hiện rõ nhất qua việc “Chúa Giêsu Kitô đã chết vì chúng ta; Người đã ban cho chúng ta sự sống nhờ cái chết của Người. Chúng ta sống là vì Người đã chết, chết cho chúng ta, vì chúng ta, và trong chúng ta”[53]Những lời này có sức lay động; bởi vì chúng không chỉ cho thấy một tầm nhìn sáng suốt và sâu sắc về mối tương quan giữa Thiên Chúa và nhân loại, mà còn biểu lộ mối dây tình cảm sâu xa giữa thánh Phanxicô và Chúa Giêsu. Sự xuất thần của cuộc sống và hành động không phải là một thực tại trừu tượng, nhưng tỏa sáng trong tình yêu của Chúa Kitô mà tột đỉnh là thập giá. Tình yêu đó, không hủy bỏ sự hiện hữu của con người mà làm cho nó tỏa sáng với một phẩm chất phi thường.

Chính vì lý do này mà thánh Phanxicô đã dùng một hình ảnh rất đẹp để mô tả đồi Canvê là “núi tình nhân[54]. Vì ở đó và chỉ ở đó, người ta mới hiểu rằng “không thể có sự sống nếu không có tình yêu, cũng không thể có tình yêu nếu không có cái chết của Đấng Cứu Chuộc. Ngoại trừ ở đó, mọi thứ đều là cái chết vĩnh viễn hoặc tình yêu vĩnh cửu, và toàn bộ sự khôn ngoan của Kitô giáo hệ tại ở việc biết lựa chọn cách khôn ngoan”[55]. Do đó, thánh Phanxicô có thể kết thúc Khảo Luận bằng cách viện dẫn một bài giảng của Thánh Augustinô về đức ái: “Còn gì bền vững hơn đức ái, không bận tâm đến những thứ phù du nhưng đến sự vĩnh cửu? Vì có niềm tin không lay chuyển vào những lời hứa về cuộc sống tương lai, nên đức ái có thể bao dung tất cả mọi thứ trong đời hiện tại này. Đức ái có thể chịu đựng mọi sự trong cuộc sống hiện tại, vì nó hy vọng vào những lời hứa về cuộc sống tương lai. Quả thật, Đức ái không bao giờ kết thúc. Do đó, hãy suy gẫm về đức ái và đem ra thực hành qua việc sinh hoa trái của công bằng Và nếu bạn khám phá ra bất cứ điều gì khác để ca ngợi đức ái ngoài những gì tôi đã nói ở đây, hãy để điều đó được thể hiện trong cách sống của bạn”[56].

Đây là những điều đã được thể hiện trong cuộc đời của vị Giám mục thánh thiện của Annecy, và giờ đây, một lần nữa, được trao phó cho mỗi chúng ta. Xin cho dịp kỷ niệm 400 năm sinh nhật trên trời của Thánh Phanxicô Salê giúp chúng ta thành kính tưởng nhớ ngài; và nhờ lời chuyển cầu của ngài, xin Đức Chúa tuôn đổ hồng ân Thánh Thần trên hành trình của Dân thánh trung thành của Người.

Rôma, Đền thờ thánh Gioan Latêranô, ngày 28 tháng 12 năm 2022

PHANXICÔ

Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Chuyển ngữ từ: vatican.va (28. 12. 2022)

[1] THÁNH PHANXICÔ SALÊ, Traité de l’amour de Dieu (Khảo luận về Tình yêu Thiên Chúa), Preface: ed. RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 336.

[2] ID., Lett. 2103: À Monsieur Sylvestre de Saluces de la Mente, Abbé d’Hautecombe (3 November 1622), in Œuvres de Saint François de Sales, XXVI, Annecy, 1932, 490-491.

[3] ID., Lett. 1961: À une Dame (19/12/1622), in Œuvres de Saint François de Sales, XX (Lettres, X: 1621-1622), Annecy, 1918, 395.

[4] ID., Traité de l’amour de Dieu (Khảo luận về Tình yêu Thiên Chúa), I, 15: ed. RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 395.

[5] ID., Entretiens spirituels, Dernier entretien [21]: ed. RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 1319.

[6] Apostolic Exhortation Gaudete et Exsultate (19 March 2018), 49: AAS 110 (2018), 1124.

[7] Ibid., 57: AAS 110 (2018), 1127.

[8] Cf. ibid., Nos. 37-39: AAS 110 (2018), 1121-1122.

[9] THÁNH PHANXICÔ SALÊ, Entretiens spirituels, Dernier entretien [21]: ed. RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 1319.

[10] Ibid., 1308.

[11] Ibid.

[12] Letter to the Right Reverend Yves Boivineau, Bishop of Annecy, on the Fourth Centenary of the Episcopal Ordination of THÁNH PHANXICÔ SALÊ, 23 November 2002, 3: Insegnamenti di Giovanni Paolo II, XXV/2 (2002), 767.

[13] THÁNH PHANXICÔ SALÊ, Traité de l’amour de Dieu (Khảo luận về Tình yêu Thiên Chúa), Préface, ed. RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 336.

[14] ĐỨC BÊNÊĐICTÔ XVI, Catechesis, 02/03/2011: Insegnamenti VII/1 (2011), 270.

[15] THÁNH PHANXICÔ SALÊ, Fragments d’écrits intimes, 3: Acte d’abandon heroïque, in Œuvres de Saint François de Sales, XXII ( Opuscules, I), Annecy, 1925, 41.

[16] Cf. Address to the International Theological Commission (29/11/2019): L’Osservatore Romano, 30/11/2019, p. 8.

[17] THÁNH PHANXICÔ SALÊ, Lett. 165: À Sa Sainteté Clément VIII (cuối tháng 10 năm 1602), in Œuvres de Saint François de Sales, XII ( Lettres, II: 1599-1604), Annecy, 1902, 128.

[18] H. BREMOND, L’humanisme dévôt: 1580-1660, in Histoire littéraire du sentiment religieux en France: depuis la fin des guerres de religion jusqu’à nos jours, I, Jérôme Millon, Grenoble, 2006, 131.

[19] THÁNH PHANXICÔ SALÊ, Lett. 168: Aux religieuses du monastère des ‹‹Filles-Dieu›› (22 November 1602), in Œuvres de Saint François de Sales, XII ( Lettres, II: 1599-1604), Annecy, 1902, 105.

[20] BENEDICT XVI, Catechesis, 02/03/2011: Insegnamenti, VII/1 (2011), 272.

[21] THÁNH PHANXICÔ SALÊ, Lett. 1869: À M. Pierre Jay (1620 or 1621), in Œuvres de Saint François de Sales, XX ( Lettres, X: 1621-1622) Annecy, 1918, 219.

[22] Ibid.

[23] ID., Traité de l’amour de Dieu (Khảo luận về Tình yêu Thiên Chúa), Préface: ed. RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 339.

[24] Ibid., 347.

[25] Ibid., 338-339.

[26] Cf. Address to Bishops, Priests, Religious, Seminarians and Catechists, Bratislava, 13/09/2021, L’Osservatore Romano, 13/09/2021, pp. 11-12

[27] Cf. ibid.

[28] THÁNH PHANXICÔ SALÊ, Traité de l’amour de Dieu (Khảo luận về Tình yêu Thiên Chúa), II, 12: ed. RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 444.

[29] “Ta lấy dây nhân nghĩa, lấy mối ân tình mà lôi kéo chúng. Ta xử với chúng như người nựng trẻ thơ, nâng lên áp vào má ; Ta cúi xuống gần nó mà đút cho nó ăn.”

[30] THÁNH PHANXICÔ SALÊ, Traité de l’amour de Dieu (Khảo luận về Tình yêu Thiên Chúa), II, 12: ed. RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 444.

[31] Ibid., II, 12: 444-445.

[32] Ibid., II, 9: 434.

[33] Ibid., II, 12: 446.

[34] Let Us Dream. The Path to a Better FutureIn conversation with Austen Ivereigh, New York, 2020, 4.

[35] THÁNH PHANXICÔ SALÊ, Introduction à la vie devote (Dẫn vào Đời sống đạo đức), I, 1: ed. RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 31.

[36] Ibid.: 31-32.

[37] Ibid.: 32.

[38] Ibid.

[39] Ibid.

[40] Ibid.: 33.

[41] Ibid., Preface: ed. RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 23.

[42] Apostolic Epistle Sabaudiae Gemma on the Fourth Centenary of the Birth of Saint Francis de Sale, Doctor of the Church (29/01/1967): AAS 59 (1967), 119.

[43] CÔNG ĐỒNG VATICAN II, Hiến chế về Giáo hội Lumen Gentium, 11.

[44] Tông huấn Gaudete et Exsultate, 11: AAS 110 (2018), 1114.

[45] Ibid.

[46] THÁNH PHANXICÔ SALÊ, Traité de l’amour de Dieu (Khảo luận về Tình yêu Thiên Chúa), VII, 6: ed. RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 682.

[47] Tông huấn Evangelii Gaudium (24/11/2013), 6: AAS 105 (2013), 1021-1022

[48] THÁNH PHANXICÔ SALÊ, Traité de l’amour de Dieu (Khảo luận về Tình yêu Thiên Chúa), VII, 6: ed. RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 682-683.

[49] Ibid.: 683.

[50] Tông huấn Evangelii Gaudium, 2: AAS 105 (2013), 1019-1020.

[51] THÁNH PHANXICÔ SALÊ, Traité de l’amour de Dieu (Khảo luận về Tình yêu Thiên Chúa), VII, 7: ed. RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 685.

[52] Ibid.: 684.

[53] Ibid., VII, 8: 687, 688.

[54] Ibid., XII, 13: 971.

[55] Ibid.

[56] Sermons, 350, 3: PL 39, 1535.

print