Xưng Tội Tiến Đức

Xưng Tội Tiến Đức

(trình bày như một bức thư gửi đến người cháu tu sĩ, muốn hưởng nhờ lợi ích từ những lần xưng tội theo định kỳ).

Tác giả: Lm. Antôn Ngô Văn Vững, S.J.

Cháu Cecilia TT,

Có lần cháu đã xin bác giải thích về việc “xưng tội tiến đức”. Thực ra, đây không phải là lần đầu tiên bác  được đề nghị trình bày chủ đề này. Trong các cộng đoàn tu sĩ, nhiều người thao thức muốn canh tân việc xưng tội thường xuyên, để nó không thành một bổn phận nặng nề buồn chán, nên ước ao hiểu biết nhiều hơn về cách xưng tội, gọi là “tiến đức”.       

Vì không có nhiều giờ, bác đã gửi cho cháu một bài suy niệm của Cha Karl Rahner, và giải thích vắn tắt vấn đề cho cháu. Nhưng bác có cảm tưởng là cháu không hiểu. Thực sự, bài suy niệm của Cha Rahner không dễ hiểu. Nó đòi hỏi phải có nền tảng thần học, và cũng phải biết một chút về Giáo luật. Nhưng cuối cùng phải công nhận: cách suy luận của cha Rahner, cả trong những vấn đề mục vụ, thường khó nắm bắt.

Bây giờ có dịp, bác nói dài hơn về xưng tội tiến đức. Tuy nhiên nếu nói cho hết, chắc phải dành cả một học kỳ (hay một năm), để xét lại toàn bộ vấn đề của nhiệm tích  thống hối hòa giải.

 

Nhập đề: canh tân tình yêu qua việc thống hối

Thay đổi danh xưng

Bí tích “thống hối hòa giải” là tên mới của điều trước kia gọi là “phép giải tội” hay đơn giản là việc “xưng tội”. Việc đổi tên cho thấy điểm nhấn của thần học sau công đồng: thay vì khía cạnh tòa án: (xưng thú tội lỗi, xét xử, tuyên án…) , thì hướng đến gặp gỡ, yêu thương, bằng cách sử dụng khái niệm “thống hối, hòa giải”, vốn có nền tảng Kinh Thánh và nêu bật khía cạnh khoan hồng, nhân hậu tha thứ của Thiên Chúa, Đấng kêu gọi sư hoán cải trở về của tội nhân trong Cựu Ước và hối nhân trong Tân Ước qua bí tích tha tội. Nghĩa là  phải trở lại với quan niệm chính xác của bí tích, là dấu chỉ của lòng thống hối bên trong, tìm đến lòng thương xót Chúa, để được tha thứ và chữa lành, qua việc xưng thú trước thừa tác viên cùa Hội Thánh.

Để tiện việc thâu nhận, nắm bắt, “vấn đề xưng tội tiến đức” được gởi đến cháu – và nhiều người khác vốn thắc mắc và muốn tìm hiểu vấn đề như cháu, – dưới dạng thức một bức thư. Nghĩa là như việc chia sẻ kinh nghiệm hơn là những giáo trình chính thức, vốn đặt nặng việc suy luận và luận chứng khoa học chặt chẽ, giải thích những nguyên tắc thần học và dựa trện những tín điều. Dĩ nhiên trong những điều liên quan đến đức tin, chúng ta phải trung thành với những giáo thuyết, những chân lý khách quan, hay những tín điều được định nghĩa  của quyền giáo huấn.

Bác viết về xưng tội, như một bức thư, nghĩa là phương thế chia sẻ những điều riêng tư và –có khi là thầm kín-  chỉ có một người nói, còn người nghe thì khuất mặt. Không có đối thoại như trong một lớp học, hay góp ý, sau một bài thuyết trình. Tuy nhiên chúng ta cũng có thể trao đổi như trên internet, có thể thêm “comments” “like” hay “dislike”. Âu cũng là dịp để nói lên những điều thắc mắc, muốn được giải quyết nhưng không biết hỏi ai.

Vấn đề xưng tội còn được trình bày như một bức thư, vì nơi đây bác cũng bày tỏ cảm tưởng và quan niệm của riêng mình, -như một hối nhân và cũng là một thừa tác viên, -lâu năm tiếp xúc và đắm mình trong xưng tội và giải tội, chớ không phán dạy “ex cathedra” như kẻ có quyền. Thậm chí, bác chỉ gợi ý cho kẻ khác suy nghĩ chớ không bắt buộc người khác phải tin theo.

Tích lũy kinh nghiệm, nửa thế kỷ

Trải qua năm mươi (50) năm trong thừa tác vụ giải tội, được Hội Thánh trao ban, tôi luôn bâng khuâng, ưu tư về việc cử hành bí tích này ( không chỉ là giải tội cho kẻ khác, mà còn là việc đi xưng tội của chính mình) . Linh mục vừa cho lại vừa nhận. Làm sao nhận lãnh bí tích này theo ý nghĩa đích thực của một bí tích, vốn là việc gặp gỡ Chúa Giêsu ban ơn xá giải và tha thứ? Làm sao việc xưng tội giúp phát triển đời sống thiêng liêng, giúp lớn lên trong ân sủng, nhất là trong đời tu? Nhiều khi nó được thực hành như một bổn phận nặng nề, buồn nản. Trong các cộng đoàn tu trì, lắm khi người ta đi xưng tội cách chiếu lệ và máy móc, như một đòi buộc có tính hình thức.

Bởi thế, từ lâu (khoảng 50 năm) tôi đã thu thập,- ngoài sách giáo khoa-, nhiều tài liệu, sách vở lớn nhỏ, về chủ đề này, nhất là tìm hiểu nền tảng Kinh Thánh và lịch sử của Bí tích giải tội, để đào sâu ý nghĩa của sự thống hối, hòa giải. Tôi xác tín là các môn học trong trường chưa đủ để giúp tôi làm thừa tác viên bí tích cách tốt đẹp. Tôi phải cập nhật liên tục bằng kinh nghiệm “chiến trường” tức là từ chính việc cử hành phép giải tội, đồng thời với việc xưng tội của chính mình, để tăng trưởng trong đức tin và lòng mến. Nghĩa là chẳng những có thêm kiến thức mà còn phải trưởng thành về nhân bản cũng như về đời sống thiêng liêng, để trở thành thừa tác viên tốt, theo châm ngôn: ”Biết nhiều để yêu mến hơn”.

Khi làm thừa tác viên của bí tích thống hối hay là người hướng dẫn những cuộc tĩnh tâm theo Linh Thao (8-10 ngày hay 30 ngày), tôi chú trọng nhiều đến sự thống hối, hoán cải. Có thể nói tôi cảm nghiệm được kết quả bên trong của việc tĩnh tâm qua phẩm chất của việc xưng tội. Không phải là người ta xưng những tội phi thường, cho bằng cách xưng tội đơn sơ, trong sáng của một linh hồn được ân sủng chiếu soi. Khi một linh hồn đã “gặp Chúa” thì lòng dạ trở nên mềm mại, biết nhận ra tội của mình và hối lỗi trước mặt Thiên Chúa cách chân thành và khiêm hạ. Họ không còn cứng lòng, kiêu căng, huênh hoang, tự đắc, hay bảo vệ chính mình, quay về mình, không thể thoát ra khỏi con người vị kỷ, , . Họ không còn “lòng chai dạ đá” trước mọi hình thức ân sủng, chỉ muốn lên án và tố giác kẻ khác.

Khi một con người được ơn hoán cải thì họ  được biến đổi cách sâu xa từ bên trong, để trở nên khiêm nhường, chính trực, ngay thẳng thực sự (chớ không đóng kịch) trước Chúa và trước kẻ khác. Như thánh Augustinô gợi ý: “Dic Deo quod es” (hãy nói với Chúa điều bạn là). Họ trình bày tất cả con người cho Chúa và thành khẩn kêu lên Chúa: “lạy Chúa, xin thương con vì con là kẻ tội lỗi!”, và cũng không ngần ngại thú nhận tội lỗi trước thửa tác viên của Hội thánh, một con người được ủy nhiệm thay mặt Chúa ban lời xá giải cho một người đồng loại với mình.

Không có sự hoán cải sâu xa, mọi cuộc tĩnh tâm có thể là thời gian ngưng lại, cắt đứt với mọi sinh hoạt thường ngày, thay đổi môi trường để nghỉ ngơi, đổi khí, du lịch, hoặc là dịp  học hỏi, hội thảo mục vụ, thường huấn, hay bồi dưỡng nghiệp vụ…, chớ không phải là thời gian ân sủng, cứu độ và hòa giải như thánh Phaolô kêu gọi (2 Cr 5,20), và như Hội Thánh mong chờ. Tĩnh tâm mà không đụng đến trung tâm cốt lõi của nó, là sự hoán cải tâm hồn (metanoia) và quay về với Chúa qua dấu chỉ (bí tich) thống hối, thì cũng không đem đến ân sủng và tăng trưởng nào trong đời sống thiêng liêng mà hậu quả thấy được là một sự biến đổi, nếu không biến đổi tận căn thì cũng là một sự biến đổi giới hạn. Cùng lắm là có thêm một mớ kiến thức… Nhưng cũng có những trường hợp tĩnh tâm vì bổn phận, mà cách tiên thiên, người ta không muốn hoán cải và tỏ ra đặc biệt “dị ứng” với những chủ đề kêu gọi hoán cải. Bởi lẽ, hoán cải giả thiết phải đặt lại vấn đề bản thân cách toàn diện, phải giải quyết những xung đột nội tâm, phải quay về với Thiên Chúa. Mà càng xa Chúa thì càng khó quay về, điều này làm cho nhiều người phải mệt nhọc, phải căng thẳng. Người ta chỉ muốn nghe những lời nói vui tai, vô thưởng vô phạt, để khỏi phải nhìn sâu vào nội tâm bất ổn của mình. Dầu vậy, khi suy niệm Lời Chúa trong Tin mừng, chúng ta không thể không thấy lời kêu gọi khẩn thiết của Chúa Giêsu: “Hãy hoán cải, ăn năn, thống hối” (Mc 1,14).

 “Xưng tội tiến đức”

Trong môn luân lý kinh điển, không thấy nói đến vấn đề “xưng tội tiến đức”này. Có thể người ta bàn đến việc xưng tội tiến đức trong lãnh vực tu đức và đời sống thiêng liêng, vả lại trong xưng tội tiến đức người ta chú ý nhiều đến khía cạnh thực hành hơn lý thuyết. Nhưng chúng ta không tránh nói đến Tín lý, Luân lý, Mục vụ hay đời sống thiêng liêng. Dù sao xưng tội tiến đức cũng bổ túc cho môn thần học Bí tích (cách riêng Bí tich Thống Hối và Hòa giải), giúp thăng tiến công việc của ân sủng trong linh hồn và sự toàn thiện của đức ái trong đời sống tín hữu..

Vấn đề “xưng tội tiến đức” sẽ được sáng tỏ khi mọi nguời biết xưng tội là gì và biết đáp ứng những đòi hỏi để việc lãnh nhận bí tich thống hối hòa giải thêm ý nghĩa và gia tăng ân sủng nơi hối nhân. Tức là, nơi đây bí tích không trực tiếp nhắm đến vấn đề tha tội trọng, vì ta giả thiết hối nhân, – cách riêng những tu sĩ và người đi tĩnh tâm, – không có tội trọng, mà chỉ muốn gia tăng đức tin, cậy, mến và tìm cách sống theo ý muốn Thiên Chúa, qua mỗi lần xưng tội (nhẹ).

Chúng ta sẽ nói đến việc xưng tội cách chung, vì theo sự thường, ai biết xưng tội cách chung thì cũng biết xưng tội “tiến đức`”. Ai biết xưng tội  trọng theo luật Hội thánh thì chắc chắn cũng biết xưng tội nhẹ. Luật Hội Thánh buộc phải xưng các tội trọng, nhưng cũng khuyên nên xưng các tội nhẹ. Chính khi bàn đến lợi ích của việc xưng tội nhẹ và việc xưng tội thường xuyên, mà chúng ta sẽ đụng chạm đến lãnh vực của “xưng tội tiến đức”.

Tôi đã sống bí tích thống hối như thế nào?

Trước khi vào đề, xin người đọc biết cho rằng lãnh vục bí tích thống hối hòa giải hiện nay – cũng như mọi thời- thật mênh mông, để không nói là khó khăn phức tạp. Người ta còn nói đến khủng hoảng của bí tích giải tội. Xưng tội là khó, khó đối với hối nhân (người đi xưng tội), cũng như đối với thừa tác viên (linh mục giải tôi}. Dorothy Day (1897-1980) , một người  phụ nữ Mỹ hoạt động xã hội phái tả , trở lại công giáo, được ĐHY Timothy M. Dolan, TGM New York, gọi là “vị thánh của thời đại chúng ta“ có viết trong Tự Truyện: “Đi xưng tội thật là khó nhọc- khó nhọc khi bạn có tội để xưng, khó nhọc khi bạn không có tội” (Dorothy Day, The Long Loneliness: The Autobiography of the Legendary Catholic Social Activist, 7}. Bà có giọng văn hài hước, bình dân như Chesterton, một văn sĩ Anh, trở lại công giáo. Bà viết tiếp: “Tôi đã phạm tội. đây là tội của tôi”. Đó là tất cả điều mà bạn giả thiết phải xưng; không phải tội kẻ khác, hay nhân đức của riêng bạn, nhưng chỉ có tội lỗi xấu xí, buồn nản, xám xịt, độc điệu của bạn” (Dorothy Day, The long loneliness, 8). Bà hiểu những đòi hỏi chính đáng của phép giải tội và đi thẳng vào vấn đề chính yếu, không đi loanh quanh như bao kẻ đến tòa giải tội để biện minh hay để tố cáo kẻ khác.

Hình thức bên ngoài của bí tich thống hối thay đổi nhiều, từ thời đầu của Hôị thánh cho đến bây giờ, cả khi có một cấu trúc cố định. Đó là dấu chỉ Hội Thánh tìm cách thích nghi và đáp ứng nhu cầu của thời đại, trong mức độ có thể, vì lợi ích cho con cái và sự cứu rỗi các linh hồn. Nhưng sự thay đổi cũng cho ta cảm tưởng dò dẫm trong việc thành hình bí tich, mặc dầu không ai phủ nhận sự cần thiết cùa việc tha tội.

“Xưng tội” liên quan đến lương tâm con người

Nói về việc xưng tội là một vấn đề tế nhị, vì cuối cùng nó đụng chạm đến lương tâm của con người. Bởi đó, để tránh những thành kiến và tranh luận không cần thiết, thay vì bày tỏ ý kiến của riêng mình, chúng ta sẽ trưng dẫn một số nhận xét về cách xưng tội trong Hội Thánh. Đưa ra một vài chứng từ của những người có thế giá sẽ giúp chúng ta thấy được những nhược điểm của thực hành bí tích thống hối, với hy vọng chúng ta sẽ yêu mến và sử dụng bí tích cách hứng thú và hữu hiệu.

Khi nói cách chung về khủng hoảng của phép giải tội thì ai cũng đồng ý, nhưng khi nói với một người là việc xưng tội của người đó không tốt thì họ sẽ  phản ứng, vì tự ái (nhất là những người nhà tu vốn cho mình biết hết mọi sự!). Nhưng để cho họ tiếp tục xưng tội theo cách thức của họ, thi chính cha giải tội thêm bối rối trong lương tâm, vì xem ra đồng lõa với điều không tốt, bởi  biết việc xưng tội không đạt, nhưng cha không dám nói, vì sợ mất lòng, và như vây phải chăng là đã không làm trọn bổn phận mình?

Có nhiều lần cha giải tội góp ý với hối nhân về cách xưng tội của họ, thì họ phản ứng : “Tại sao các cha khác không nói mà cha nói?” Cha trả lời: “Không biết tại sao các cha khác không nói, nhưng tôi thấy không đúng thì tôi nói!”

Cha Edward Leen, tác giả của sách nổi tiếng: Progress through Mental Prayer (1935) nói rằng có nhiều tu sĩ ở trong Dòng 20, 30 năm nhưng khi so sánh với một tập sinh thì chắc thua tập sinh về phương diện quảng đại nhiệt thành. Có nhiều nguyên nhân giải thích sự kiện này, nhưng một trong những nguyên nhân khiến cho sự trưởng thành thiêng liêng không được phát triển đó là sự khiếm khuyết lơ là trong cách xưng tội.

Hình ảnh quy ước về chính mình

“Bí tích thống hối là công việc của riêng mình. Chịu lễ có thể là “vô danh”. Có thể xưng tội mà không cho cha giải tội biết về mình – một sự hiểu biết bên ngoài,- nhưng không thể không cho biết điều gì đó về linh hồn, về đời sống, về tội lỗi của mình. Bí tích giải tội là bí tích thâm sâu nhất về cách phương diện diễn tả chính minh” (ĐGM Renard, giám mục Versailles, Vie spirituelle de la religieuse aujourd’hui, DDB,1960, p.70)

Thường khi, trong tòa giải tội (đi xưng tội) người ta có xu hướng trình bày một bộ mặt quy ước về chính mình  tức là theo mẫu chung chung cho mọi người, không phải của riêng mình. Cái mẫu ta đã học khi chịu lễ lần đầu, hay được giới thiệu trong sách kinh mà ta đọc từ khi có trí khôn. Người ta không bày tỏ tình trạng thực sự của linh hồn mình. Có thể vì người ta không biết rõ về mình. Nhưng cũng lắm khi, vì sĩ diện, người ta còn tô vẽ tội của mình cho thêm thẩm mỹ, cho dễ coi; hay vì tự ái, người ta che đậy lỗi phạm của mình bằng những phương thế tinh vi, không thích hợp với những người muốn lên núi Chúa (Tv 23,3-4). Nhưng tốt hơn, nếu muốn “tiến đức”, hối nhân cố gắng xuất hiện dưới diện mạo thực sự của mình. Trình bày nội tâm mình cách trung thực sau khi đã xét mình cẩn thận dưới ánh sáng Lời Chúa, và được soi dẫn bởi Chúa Thánh Thần, phải chăng đó là đòi hỏi tối thiểu của việc xưng tội tiến đức? Nếu chúng ta không giữ được sự tinh tuyền của phép Rửa, thì Thiên Chúa vẫn có cách thanh luyện chúng ta. Nhờ bí tich thống hối, người tội lỗi được ơn hòa giải với Chúa và Hội thánh, được làm con Chúa và hiệp thông với Hội thánh trong cộng dồng Thánh Thể. Nhờ bí tích thống hối, người công chính càng trở nên lành thánh, đươc tăng trưởng trong đức ái, trở nên con dấu ái của Thiên Chúa trong Đức Kitô, làm sáng danh Chúa bằng đời sống thánh thiện và xây dựng Hội Thánh Chúa trên trần gian.

Bí tích thống hối: nơi gặp gỡ Chúa Kitô hay nơi dối gạt lương tâm?

“Phạm tội để xưng tội và phạm tội mà không ăn năn thống hối là một sự lừa dối lương tâm, trong yếu tính là một sự phạm thánh.” (Cha thánh Piô Pietrelcina)

Giữ lương tâm trong sáng, bằng cách nhờ bí tích thống hối tẩy luyện linh hồn khỏi mọi vết nhơ cố tình hay vô ý, là một phương thế tuyệt hảo để bảo vệ ân sủng và sống đẹp lòng Chúa trên trần gian. Đó là phương thế Chúa ban để con cái loài người luôn sống trong tình trạng ân sủng. Tình thương Chúa thắng vượt mọi bất trung của con người. Thiên Chúa luôn đi bước trước để đến với chúng ta và để ban ơn tha thứ, với điều kiện là ta biết quay về và ăn năn thống hối.

Chesterton, (mà trong đoạn sau, chúng ta sẽ bàn đến) thích trich dẫn một tư tưởng của Đấng đáng kính Anne Catherine Emmerich, một tư tưởng có thể giúp chúng ta giải quyết vấn đề xưng tội cách thích hợp và hữu ích nhất : “Ma quỉ đánh cắp sự hổ thẹn khỏi tôi khi nó thuyết phục tôi rằng tội của tôi là đáng vui thích. Bây giờ, tôi không cho phép nó trả lại sự hổ thẹn cho tôi khi tôi chuẩn bị gặp Đấng Cứu độ tôi trong bí tich giải tội.” Tức là tôi không hổ thẹn khi phạm tội nhưng lại hổ thẹn khi xưng tội. Hay nói cách khác, có một số tội (nhất là tội điều răn thứ sáu) rất dễ phạm nhưng rất khó xưng. Khi nói đến việc xưng tội như công việc của ân sủng, thì cũng phải nhắc đến sự quấy phá của ma quỷ, vốn thù ghét những người đi theo Chúa, nên tìm đủ mọi cách để ngăn cản và phá hoại tương quan tốt đẹp giữa Thiên Chúa và con người. Quỷ đặc biệt oán ghét một việc xưng tội với phẩm chất trong sáng, nhờ đó một linh hồn tiếp tục sống hay lớn lên trong ơn nghĩa Chúa.

“Các Tổ phụ trong đời tu khẳng đinh rằng hãy coi đây là một dấu phổ cập và rõ ràng của một tư tưởng do ma quỷ, khi ta hổ thẹn bày tỏ cho vị trưởng lão”” (CASSIEN, Institutions cénobitiques, livre IV, n. 9).

Nghĩa là khi ta ngại ngùng, hổ thẹn, không dám tiết lộ điều gì cho người trưởng lão (linh sư) thì phải coi đó là mưu chước rõ ràng và phổ cập của ma qủy. Ma quỷ luôn lừa dối và phỉnh phờ. Nếu chúng ta xác tin về điều này và theo nguyên tắc hành động của thánh Inhaxiô trong Linh Thao: “hành động ngược lại” (agere contra), thì phải lấy hết can đảm bày tỏ trước tiên điều làm ta xấu hổ nhất, và kế đến trình bày tâm hồn cách đơn sơ, không giấu diếm -cho cha giải tội- mỗi lần đi xưng tội. Như vậy, mọi sự sẽ dễ dàng (đầu xuôi đuôi lọt) và ta sẽ có lương tâm trong sáng. Chỉ có bước đầu tiên là khó khăn. Nếu lấy đức tin và lòng khiêm tốn mà thú tội với thừa tác viên Hội thánh, như với Chúa Giêsu, thì bí tích sẽ đem lại cho ta ơn bình an, thanh thoát và nơi tâm hồn được thanh luyện sẽ có Chúa Thánh Thần cư ngụ (Gl 5, 22-25). Và đó là cốt yếu của việc xưng tội tiến đức, bất cứ dưới hình thức nào và xưng tội gì..

Đây cũng phải là thái độ của chúng ta, khi với lòng tin, chúng ta nhìn thấy Chúa Giêsu trong thừa tác viên. Trước Chúa Giêsu Kitô là Đấng cứu chuộc và tha tội chúng ta, chúng ta phải thành thực và khiêm tốn. Chúa còn là Đấng từ bi nhân hậu, Người biết sự yếu đuối của chúng ta và luôn sẵn sàng tha thứ. Nhưng Người chỉ có thể cứu chúng ta nếu chúng ta biết nhận mình là tội nhân và xin Người cứu chữa. 

Vì chúng ta có tự do để phạm tội thì cũng có tự do để thú tội. Chúa sẽ tha thứ và đem lại ân sủng cho chúng ta, khi chúng ta thành tâm xưng thú sự bất lực tận căn của mình để tự giải cứu mình khỏi tội. Như người thu thuế, chúng ta kêu lên: “Lạy Chúa xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13). Phúc âm cho thấy, với lòng khiêm tốn ăn năn, người thu thuế ra về “và được nên công chính” (Lc 18,14).

Nhà tư tưởng Pascal nói: “Chỉ có hai hạng người: người công chính, tưởng mình là tội nhân và người tội lỗi, tưởng mình là công chính” (Tư tưởng, số 534). Những người xưng tội thường xuyên nhiều khi có ảo tưởng về tình trạng tội lỗi của mình hay, đúng hơn, về sự công chính  của mình: “tội ở đâu mà xưng?”, rồi cứ lặp đi lặp lại điệp khúc độc điệu buồn tẻ về các tội lo ra, chia trí, thiếu bác ái…! Những  điều vô thưởng vô phạt!

Nếu không chỉ lười biếng nhắc đi nhắc lại những tội quá quen thuộc đến độ vô nghĩa, ta cố gắng đào sâu một chút dưới cái lớp vỏ công chính, ta sẽ thấy những điều quan trọng vốn ngăn cản chúng ta sống trung thưc trước mặt Chúa và bởi thế, chúng ta không thân thiện với Chúa, không là những bạn hữu mà Chúa mong ước, cũng không là người biết thông cảm với tha nhân. Nếu chúng ta khám phá ra nguồn gốc của những nguội lạnh, những bất trung lớn nhỏ trong con người mình và quyết tâm sửa đổi thì dần dà chúng ta sẽ trở nên những môn đệ Chúa Kitô, những con cái đích thực của Thiên Chúa.

Mỗi khi xét mình xưng tội, chúng ta có rơi vào tình trạng của những  biệt phái,”lừa lọc từ con ruồi con muỗi, nhưng lại nuốt trộng con “camelo”, tức con lạc đà?” (Mt 23,24).

Xưng tội tiến đức là xin ơn Chúa Thánh Thần để thấy con lạc đà đang phá hoại lương tâm chúng ta và cả cuộc đời cúng ta, mà ta chẳng biết, bởi lẽ sự công chính biệt phái giam hãm chúng ta trong tình trạng mù lòa nội tâm. Chúng ta bị chi phối quá nhiều bởi những tiếng vo ve của con ruồi con muỗi, mà trở nên vô cảm trước tiếng gầm thét của sư tử hùm beo trong tâm hồn mình

 “Xưng tội tiến đức”  là cách chúng ta thực hành đức tin:  thấy Chúa trong thừa tác viên, nhưng chúng ta còn phải khiêm tốn đến thú nhận tội lỗi,- tội trọng và cả tội nhẹ, -trước thừa tác viên nhân loại, để. nhờ lời xá giải của thừa tác viên, Chúa Giêsu “công chính hóa” chúng ta. Mặc dâu chúng ta lấy đức tin để thấy Chúa Giêsu trong thừa tác viên, nhưng trong thực tế thừa tác viên vẫn là con người với những đức tinh và khuyết điểm rõ rệt. Như vậy, nếu không khiêm tốn, ta sẽ chẳng nói sự thật, trước một người ta không tin tưởng. Có lẽ điều khó nhất trong việc xưng tội, -nhất  là tội trọng – là  phải nói tất cả với một con người, cách chính xác, bao gồm những chi tiết và hoàn cảnh cụ thể, dầu con người ấy được Giáo hội sai đi nhân danh Chúa Kitô. Đặc biệt khó khăn, khi người (thừa tác viên) ấy thua kém ta về địa vị, tuổi tác, kiến thức hay kinh nghiệm. Vậy, điều kiện tiên quyết phải có trong “xưng tội tiến đức” là đức tin và khiêm tốn siêu nhiên.

“Xưng tội tiến đức” là cách mà chúng ta xin Chúa Giêsu luôn ở trong ta, để biến đổi ta nên giống bản tính thánh thiện của Ngườ. Chúng ta chỉ có thể là môn đệ đích thực của Người khi sống và lớn lên trong đức ái. Sống đức ái là luôn ở lại trong Chúa Kitô và để Người hành động trong ta bằng quyền năng Thánh Thần, vì “ngoài Ta, các con không làm gì được” (Ga 15,5).

Xưng tội (Tiến đức ) giả thiết Xưng tội thường xuyên

Theo Rahner, giữa những thực hành khổ chế đủ loại của đời sống Kitô, việc xưng tội tiến đức có giá trị, về ba phương diện:

1)       Được hướng dẫn tâm linh (linh hướng)

2)       Được tha tội

3)       Được thêm ân sủng.

Mỗi người được hoàn toàn tự do xưng tội theo thời khắc thuận tiện cho mình, tuy nhiên Hội thánh đã ấn định mọi tín hữu, khi đã đến tuổi khôn, phải xưng tất cả tội trọng của mình, ít nhất một lần trong năm (GLHTCG, 1457). Huấn lệnh này chỉ nêu lên một tối thiểu cần thiết. Tuy nhiên, nếu ta muốn có một đời sống Kitô nghiêm chỉnh và tiến triển trên con đường thánh thiện, – nói theo công đồng là thăng tiến trên sự toàn thiện của đức ái, – thì cần thiết phải lưu ý đến việc xưng tội thường xuyên. “Nhờ việc nhận lãnh bí tích này thường xuyên hơn, chúng ta đón nhận tặng phẩm của lòng nhân hậu của Cha, chúng ta được thúc đẩy để trở nên nhân hậu như Cha” (ibid. 1458).

Xưng tội thường xuyên, có thể coi như một dấu bên ngoài của lòng đạo đức. Nhưng còn phải chú ý đến nội dung hay phẩm chất của việc xưng tội này, như đã nói ở trên. Cách chung chỉ khi xưng tội với lòng thống hối và yêu mến thì mới được gọi là “xưng tội tiến đức”, “vốn duy trì sự sáng suốt về tình trạng tội lỗi và sự tin tưởng vào lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa” (Sách Giáo Lý các Giám mục Pháp, 439), theo nhịp độ hằng tháng, nửa tháng hoặc hằng tuần. “Thái độ thiêng liêng hối tiếc, ăn năn, thống hối làm nên một trong những sắc thái của ân sủng bí tích. Sự biến đổi nội tâm gắn liền với ân sủng, giải thich tại sao một tín hữu có thể ước ao thường xuyên lãnh nhận bí tích này” (ibid., 436).

Việc xưng tội thưòng xuyên “giúp đào luyện lương tâm chúng ta, chiến đấu chống lại các xu hướng xấu, để cho Chúa Kitô chữa lành chúng ta, để được tiến bộ trong đời sống Thánh Linh” (GLHTCG, 1456). Hơn nữa, nhờ việc xưng tội thường xuyên, hối nhân có thể được hướng dẫn về đường thiêng liêng hay linh hướng, một việc đồng hành thiêng liêng hữu hiệu vì được thực hiện trong ân sủng. Điều này giả thiết người ta xưng tội với một linh mục biết rõ tình trạng tâm hồn mình và thực sự có khả năng giúp đỡ ta trên con đường tìm kiếm sự thánh thiện.

Nhỗ cỏ tận gốc

Xưng tội tiến đức chẳng phải là thường xuyên đi vào nội tâm nhưng cách hời hợt, chiếu lệ, chỉ phơn phớt đụng chạm đến lớp vỏ bên ngoài của tội. Chỉ có xưng tội tiến đức khi tội nhân quyết tâm tìm đến và giải quyết tận căn nguyên cội rễ của tội, dù là tội nhẹ và của các tinh hư nết xấu. Để lấy một hình ảnh đơn sơ mà mọi người điều biết. Khi ta muốn làm sạch cỏ dại trong vườn, ta có thể cắt sạch ngọn, và ta có một thửa vườn đẹp mắt trong một thời gian, nhưng rồi mọi sự sẻ trở lại như cũ. Nếu chúng ta muốn làm sạch cỏ, thì phải nhỗ bỏ tận rễ, lúc đó ta có thể trồng hoa mầu mà không bị cỏ hoang lấn chỗ. Cũng thế, xưng tội tiến đức là cách nhỗ tận gốc rễ những khuyết điểm và tính hư nết xấu trong linh hồn ta, để mầm mống ân sủng được lớn lên mà không gặp trở ngại.Nói cách khác, xưng tội tiến đức là một phương thức đào luyện và thanh luyện lương tâm theo gương các tổ phụ ẩn sĩ trong sa mạc. Cassien, trong những bài Thuyết trình (conferences) có ghi lại giáo huấn của Tổ phụ Moise, về mục đích của đời tu là vào Nước Thiên Chúa  và phương tiện để đạt mục đích là sự trong sạch của tâm hồn. Cũng thế, xưng tội tiến đức, xét trong nguồn gốc của nó, là phương thế để các đan sĩ bày tỏ lương tâm và đạt được sự trong sạch của tâm hồn, vốn được gồm tóm trong lời khấn hoán cải nội tâm (conversio morum).

Nếu truy tầm nguồn gốc của xưng tội tiến đức trong đời sống đan viện vào thời Trung Cổ, ta thấy mọi hoạt động chính yếu đều đến từ lương tâm (conscientia) và quy về lương tâm. Tẩy luyện lương tâm đễ tâm hồn xứng đáng là nơi cư ngụ của Chúa Thánh Thần và của Ba Ngôi Thiên Chúa. Trước nhất là xét mình, mà tiếng chuyên môn là “tra vấn lương tâm” (examen conscientiae); kế đến là “bày tỏ lương tâm”, (manifestatio conscientiae), cho cha giải tội hay người hướng dẫn lương tâm (director conscientiae). Vào thời Trung Cổ, đời sống thiêng liêng là lãnh vực của lương tâm. Việc linh hướng là hướng dẫn lương tâm. Người ta không dùng những từ hoa mỹ để nói về việc đào luyện linh hồn. Cách nói có vẻ mộc mạc, nhưng thực tế làm cho người ta hiểu đựợc vấn đề là phải được hướng dẫn để có được tâm hồn tinh tuyền trong sạch. Nghĩa là trong lòng không có chút bợn nhơ. Ở đây không chỉ là loại trừ những tư tưởng xấu liên quan đến dục tình hay giới tính mà cả những sự gian dối, lừa đảo, hận thù, ghen ghét (x. Gal 5,19-20) để Chúa Thánh Th+ần cư ngụ trong tâm hồn. Và lúc đó trong tâm hồn chỉ có lòng yêu mến Chúa và thương yêu đồng loại, vốn là hoa trái của Thánh Thần (x. Gal 5,23-25). Trong đời sống con người, cách riêng trong đời sống thiêng liêng, dẫu chúng ta cố gắng đến đâu, mà không có sự trợ lực của Chúa Thánh Thần thì mọi sự đều ra vô ích: “Sine tuo numine, nihil est in homine.”

Những người xưng tội tiến đức không chỉ sợ tội trọng, mà cũng tìm cách loại bỏ tội nhẹ, vì tội nhẹ có thể là dấu hiệu của những  tội trọng tiềm ẩn. Họ xét mình cẩn thận, nhưng cũng còn nhờ vị linh hướng khách quan giúp họ thấy những mầm mống tội trong đời sống. Nhờ nỗ lực bản thân và ơn Chúa trợ giúp, người xưng tội tiến đức mau mắn được hòa giải với Thiên Chúa và với tha nhân trong cộng đồng Hội thánh.

Trên con đường thanh luyện lương tâm, đúng theo tinh thần Luật Chúa và luật Hội thánh, người xưng tội tiến đức cảm thấy an vui vì được Chúa chúc phúc: “Phúc thay người Chúa không hạch tội và lòng trí chẳng chút gian tà” (Tv 31(32),2).

Theo ngôn ngữ của  Kinh Thánh, họ được coi như đạt đến lý tưởng của người công chính, xứng đáng được cư ngụ trong nhà Chúa: “Đó là kẻ tay sạch lòng thanh, chẳng mê theo ngẫu tượng, chẳng thề gian thề dối” (Tv 23(24), 5).  

Xưng tội tiến đức tùy thuộc cách trực tiếp vào định thái của người xưng tội, nhưng cách gián tiếp cũng tùy thuộc người giải tội. Vì lý do đức tin, hối nhân sẵn sàng đến tòa giải tội với bất cứ linh mục nào, vì linh mục nào cũng nhân danh Chúa và Hội thánh, ban lời xá giải, tha tội. Thì cũng trong nhãn giới đức tin, thừa tác viên nên khiêm tốn thực hiện nhiệm vụ được ủy thác trong lòng Hội thánh.

Thừa tác viên bí tích

Bởi đó, xưng tội thường xuyên cũng là thể hiện những đức tính cao quý của  trưởng thành nhân bản: tin tưởng, tín nhiệm, giữa các hối nhân và những thửa tác viên bí tích. Các thừa tác viên đã trải qua thời gian học tập và thử nghiệm trong những lãnh vực luân lý (đặc biệt giải tội) và chỉ được giải tội sau khi hội đủ điều kiện Hội Thánh quy định (x.GL đ. 970). Tuy nhiên không  phải bất cứ ai, khi chịu chức linh mục thì ipso facto được quyền giải tội, nhưng phải được giáo quyền xét là có khả năng. Người đi xưng tội thể hiện lòng tin nơi Hội thánh và thừa tác viên, nhưng khi xin một người làm linh hướng thì phải cân nhắc những đức tính siêu nhiên và tự nhiên của người ấy, cách đặc biệt là sự khôn ngoan, như ân huệ Thánh Thần.

Thừa tác viên thay mặt Chúa và nhân danh Hội thánh để tha tội, một việc thánh thiện dường ấy nhắc nhở các ngài sống trong sạch và thánh thiện.. “Assueta vilescunt” (ngạn ngữ latin được gán cho thánh Augustinô). Thói quen nghe tội cũng có nguy cơ của nó về phương diện nhân loại. Cũng như bác sĩ cần miễn nhiễm để giúp bệnh nhân bị bệnh truyền nhiễm, hoặc hình ảnh “sen giữa bùn” nói lên cái trong sạch của người quân tử giữa cõi đời ô trọc, thì cái “tâm” trong trắng để lan báo lời Chúa và đem Chúa đến cho người khác là lý tưởng của thừa tác viên. Không phải làm linh mục hay có quyền giải tội là có sự trong sạch của đức độ, nhưng phải cầu nguyện và hy sinh nhiểu. Thật tốt đẹp khi thấy linh mục quỳ gối cầu nguyện trước khi và sau khi giải tội. Để thắng tội, linh mục luôn cần nhờ ơn Chúa. Thuở xưa, cha giải tội là thẩm phán. Sau công đồng Vaticano II, Hội thánh mong đợi thừa tác viên có sự tiếp đón của mục  tử  và  thầy thuốc nếu chẳng phải là tâm tình của  người cha mong đợi đứa con trở về (x. Lc 15,11-32 ). Tất cả những nhiệm vụ đó cho thấy sự cần thiết của cầu nguyện và ân sủng nơi thừa tác viên bí tích hòa giải và thống hối.

Chắc không cần phải nhắc lại tính cách nghiêm trọng của việc giải tội, đến độ có những chế tài giáo luật (x. Ấn tích giải tội,  đ.983,§ 1-2. Tội dụ dỗ hối nhân phạm điều răn thứ sáu, đ. 1387. Giải tôi nghịch giớ răn thứ sáu cho đồng phạm, đ.977 và 1378). Dầu vậy, cũng có những vị thánh nổi tiếng về giải tội, như Thánh Gioan Nepomuk (1340 – 1393), thánh Gioan-Maria Vianney (1786 -1859) và thánh Pio Pietrelcina O.F.M. Cap 1887-1968).

PHẦN I. TRONG BỐI CẢNH CHUNG CỦA BÍ TÍCH THỐNG HỐI

  1. MỘT VÀI ĐINH NGHĨA CẦN THIẾT

Thống hối, hoà giải, ăn năn tội

“Những sự căng thẳng hiện nay liên quan đến bí tích thống hối và hòa giải phần nào tùy thuộc cách thức cử hành bí tích ấy, cách đặc biệt những hình thức chung của việc cử hành (giải tội tập thể), cho thấy có sự thất bại.

“Đồng thời, tầm quan trọng của sự thống hối (cả là đức hạnh và nhiệm tích) trong truyền thống của chúng ta cho thấy mọi canh tân thiêng liêng hoặc là của cá nhân hoặc là của Giáo hội, có lẽ không thể hoàn thành mà không có thống hối, hoán cải”. (James Dallen, The Reconciling Community: The Rite of Penance (Studies in the Reformed Rites of the Church) Jan 1, 1986).

Những việc phải làm khi nhận lãnh bí tích Thống hối.

Mặc dầu nghi thức bên ngoài có thay đổi, nhưng theo sách Giáo lý, hành vi của hối nhân trong bí tich là một tiến trình gồm bốn giai đoạn:

1) Xét mình: nhìn lại đời sống để xem xét những tội lỗi đã phạm.

2) Thống hối, hối lỗi, ăn năn tội: hối tiếc vì đã phạm tội mất long Chúa và quyết tâm nhờ ơn Chúa, không tái phạm. Thống hối có thể được diễn tả bằng “Kinh ăn năn tội, với nội dung cơ bản: “Lạy Chúa, con xin Chúa tha tội cho con. Con hối tiếc vì đã làm phiền lòng Chúa. Xin Chúa thương giúp để con không tái phạm”.

3) Xưng thú tội lỗi với thừa tác viên bí tích;

4) Làm việc đền tội (do thừa tác viên, linh mục ấn định).

Để định vị chỗ đứng của Bí Tích thống hối hòa giải trong đời sống thiêng liêng, truyền thống nhấn mạnh đến việc “xưng tội” như cốt yếu cho việc tha tội. Dần dà “xưng tội”trở thành yếu tố duy nhất quan trọng, đến độ khi nói đến bí tích thống hối, người ta chỉ đơn giản gọi là vIệc :xưng tội” hay “giải tội”. Chính vì thế, ta cần hiểu rõ ý nghĩa của từ “xưng tội”.

Xưng tội (latin: confessio)

Confessio: sự thú tội;  sự thú nhận, tuyên xưng. (Trong tôn giáo: xưng tội).

Sự tuyên bố (nguyên tắc của mình về một vấn đề gì); sự phát biểu (về tín ngưỡng…)

Quyển “Tự  thuật” của Thánh Augustinô mang tựa đề: “Confessiones” (mà ta có thể dịch là: “những lời thú tội trước Thiên Chúa”) là một sự tra vấn thiêng liêng của linh hồn, và một lời chúc tụng Thiên Chúa. Augustinô viết lại lại lịch sử của tội lỗi, hối hận và cứu chuộc vừa riêng tư vừa phổ cập. Một tự thuật, mang màu săc triết lý, tâm lý, thần học.

Trong văn chương Pháp tác giả J.J. Rousseau (1712 – 1778) cũng dùng từ:“confessions” (hồi ký hay tự truyên (1770), làm tựa đề cho một quyển sách của ông mà có ngườ dịch: Những lời bộc bạch)

Vì thế, không nên lẫn lộn “confession” sacramentelle (xưng tội trong bí tích giải tội) và những “confessions” (tự thuật) theo kiểu J.J.Rouseau) Trong Hội thánh Công giáo, confessio có nghĩa là việc xưng tội; Bí tích giải tội.

ĐHY Carlo M. Martini, và ba giai đoạn của việc tuyên xưng (confessio)

Khi giải thích việc cầu nguyện lâu dài và để thắng vượt nhiều khó khăn, ĐHY Martini có đề nghị áp dụng những giai đoạn confessio của thời xưa  (xem: Abraham, notre père dans la foi, 67-71).

Ngài tái khám phá truyền thống coi bí tích thống hối như việc tuyên xưng đức tin, lời tạ ơn và như việc dấn thân phục vụ. Ngài kết nối cách cầu nguyện truyền thống với cách xét mình và cầu nguyện trong Linh thao, luôn bắt đầu việc cầu nguyện, bằng cách đặt mình trước sự hiện diện của Chúa, và dâng lên Chúa lời tri ân cám tạ.

Cũng thế, tôi có thể bắt đầu việc xưng tội bằng confessio laudis, cám tạ Chúa về những ân huệ tổng quát cho thế giới, cho Giáo hội, cho chính tôi.

Thay vì tức khắc kê khai tội lỗi, tôi có thể thiết lập một cuộc đối thoại với linh mục, mà tôi quen biết hay vị linh hướng của tôi.; cách này được dự trù trong nghi thức thống hối (Ordo Poenitentiae) mới.

Cuộc đối thoại có thể bắt đầu với một đoạn Kinh Thánh, một Thánh vịnh, để tự đặt mình trong một bầu khí sự thật trước Thiên Chúa. Tiếp theo là vận hành ba giai đoạn: confessio laudis, confessio vitae, confessio fidei..

 1) Giai đoạn thứ nhất là confessio laudis (confession de louange): lời tuyên xưng chúc tụng.“Tạ ơn Chúa vì những ơn lành đã lãnh nhận” (Linh Thao 43)

Thay vì bắt đầu xưng tội bằng cách nói: “Tôi đã phạm tội như thế này như thế kia´” tôi có thể nói: “Lạy Chúa con cám ơn Chúa, về những việc tốt lành mà Chúa ban cho con” (những việc tốt lành mà tôi coi là ơn Chúa).

Tuyên xưng, chúc tụng là một việc tạ ơn, bằng cách trả lời cho câu hỏi: từ lần xưng tội sau cùng, đâu là những điều mà tôi thấy phải tạ ơn Chúa cách đặc biệt.

Tôi phải cảm tạ Chúa về điều gì?  Lúc nào Chúa ở gần tôi nhất? Trong hoàn cảnh nào tôi có kinh nghiệm về sự trợ giúp vả hiện diện của Thiên Chúa ?

Tạ ơn. Tổng quát: sự tạo dựng, ân huệ sự sống, ân huệ Chúa Con, Chúa Thánh Thần. Cách riêng: những ơn của tuần này, ngày này, đầy tin tưởng, tín nhiệm

 2)  Giai đoạn 2,  confessio vitae,  lời tuyên xưng đời sống. (confessio vitae/ confession de vie)

Lời tuyên xưng này có thể đến từ câu hỏi: từ lần xưng tội cuối cùng, điều gì làm tôi nặng lòng và tôi không muốn nó xảy ra? Đây là lúc xưng tội hay xưng thú những điều thiếu sót khác (dựa trên các điều răn, các tội đầu, các nhân đức). Đặt trước Thiên Chúa những hoàn cảnh tôi đã sống qua, những bất toàn trong đức ái, và còn phải đi đến tận nguồn gốc của những điều tôi không muốn (tức là truy tìm nguồn gốc của tội).

Xem xét cách đặc biệt:

a/ những điều quên sót : tôi ước muốn, làm, nói hay tưởng nghĩ gì mà tôi đã không làm, nói hay tưởng nghĩ .

b/ những thái độ, mặc dù chúng không phải là lỗi phạm nhưng có thề đưa tôi đến việc phạm tội: ác cảm, oán hận, nghi ngờ, buồn bực, ngã lòng, cay đắng. Tôi muốn được giải thoát khỏi điều gì? Điều gì làm nặng lòng tôi hiện giờ. Một tội không phải là một trạng thái tâm hồn. Người ta có thể diễn tả tội cách chính xác, đầy đủ, rõ ràng. Tội là một hành vi nhất định, vi phạm luật Chúa, mà lương tâm trách móc chúng ta.    

3) La confessio fidei, lời tuyên xưng đức tin (confessio fdei / confession de foi). Cuối cùng là  chuẩn bị đón nhận sự tha thứ của Thiên Chúa. Đó là lời tuyên xưng: “Con tin vào quyền năng của Chúa trong đời sống của con”.Tuyên xưng đức tin cũng là cách diễn tả lòng thống hối, khi thú nhận tội lỗi của mình.

Cần thiết phải sống kinh nghiệm cứu độ như kinh nghiệm ân sủng. Mọi quyết tâm của chúng ta phải kết hợp với một hành vi đức tin sâu xa vào ơn cứu độ của quyền năng chữa lành và kinh nghiệm thanh luyện của Thánh Thần. Nó không chỉ đến từ nỗ lực đơn thuần của ý chí

Việc xưng tội không chỉ là kê khai tội ra ngoài như người ta đặt một số tiền trên bàn. Xưng tội là đặt trái tim chúng ta trong Trái tim Chúa Kitô, để Chúa biến đổi nó với quyền năng của Người. Từ việc xưng tội này, phát sinh lời kinh thống hối: “Lạy Chúa, con biết rằng điều con làm không chỉ gây thiệt hại cho con, cho anh em con, mà còn là một sự xúc phạm đến  Chúa, Đấng đã yêu thương con và kêu gọi con.  Chúa biết con yếu đuối, con có thể sa ngã luôn mãi,  nhưng nếu đẹp lòng Chúa,  nhờ lòng nhân hậu Chúa, xin chữa lành sự mong manh dễ vỡ của con. Xin cho con biết con phải có những quyết tâm nào để chứng tỏ thực sự con muốn dẹp lòng Chúa.”

Bí tích thống hối do Chúa Giêsu thiết lập

Xưng tội là bí tích đem lại cho hối nhân, qua trung gian thừa tác viện, được ơn tha thứ các tội lỗi riêng mình (bất cứ nghiêm trọng đến đâu). Bí tích thống hối, là một vận hành riêng tư  cá vị,  nhưng mang chiều kích Hội thánh, nó bao gồm việc xung thú, hoán cải, hối lỗi và đền tội. Sự xá giải nhiệm tich của linh mục ban cho hối nhân “sự tha thứ và bình an đến từ Thiên Chúa”

Bí tích thống hối là một dấu chỉ khả giác, được Chúa Giêsu thiết lập để tha tội cho tín hữu (x Ga 20,22-23), phạm tội sau khi chịu phép Rửa.

Việc xưng tội được gọi là bí tích thống hối vì nó cống hiến một vận hành cá vị về hoán cải, hối hận, và đền tội của hối nhân trước mặt Chúa, trong sự hiệp thông với Hội Thánh.

Vì việc xưng thú tội lỗi trước linh mục là một thành tố thiết yếu để bí tích thành sự, từ đầu cho đến bây giờ, nên mọi huấn giáo về bí tích giải tội hay thống hối đều dạy cách xưng tội. Hậu quả là từ khi học giáo lý để rước lễ lần đầu, hay từ khi học giáo lý tân tòng, người ta tiếp tục nhắc lại những tội đã có sẵn mà không cần phải cập nhật hay canh tân cho phù hợp với cuộc sống hiện tại, nhất là tìm cách xưng thú tội lỗi như lương tâm phê phán. Điều đó giả thiết một lương tâm chính xác, biết nhận ra điều gì là tội và còn biết phân biệt tội trọng, tội nhẹ. Người công giáo có bổn phận đào luyện lương tâm theo giáo huấn và luật Chúa. Cách chung, khi người ta sống xa Chúa thì cũng có những ý niệm sai lệch về tội, nhất là tội liên quan đến sự công bình và  tội điều răn thứ sáu.

Trong quan niệm truyền thống coi phép giải tội là hành động pháp lý (theo trình tự: thú tội, tuyên án, đền tội), thì việc xưng tội hay thú tội cung cấp chất liệu cho việc xét xử. Trong khi nơi tòa án dân sự, thẩm phán hay công tố viên tìm cách chứng minh về tính cách lỗi phạm của người bị xét xử, thì trong phép giải tội kín, chính hối nhân phải đem tội mình ra trước thẩm phán để được xét xử. Hoàn cảnh này có thể đưa đến tình trạng mập mờ, dối trá, quanh co, giấu diếm. Chính vì vậy mà một việc xung tội hoàn chỉnh giả thiết sự trưởng thành đức tin, và  trưởng thành tâm lý. Sự trưởng thành vốn đòi hỏi có một lương tâm chính trực, biết xét đoán theo luật Chúa và  luật Hội thánh.

Nếu việc xưng tội hay thú tội, có liên hệ đến tóa án, pháp lý, thì ngày nay việc xưng tội cũng đựợc gọi là Bí Tích thú tội (Giải Tội), vì sự thú tội trước Linh Muc là một thành tố cốt yếu. Sau đó và theo một ý nghĩa sâu xa hơn, là tuyên xưng, nhìn nhận và chúc tụng sự thánh thiện của Thiên Chúa và lòng nhân hậu của Thiên Chúa đối với người tội lỗi. Thần học hiên nay nói đến Bí tich hòa giải để hiểu việc xưng thú tội lỗi theo đúng nghĩa của nó, tức là hối lỗi,“được hòa giải, trở vể cùng Thiên Chúa” (Lc 15, 11-32).

Như ta thấy trong trường hợp “tự thú” của thánh Augustinô, xưng thú còn là việc tri ân và chúc tụng sự thánh thiện của Thiên Chúa, vượt trên tội lỗi của con người. Xưng tội trong tinh thần đức tin và thái độ khiêm tốn như vậy là một niềm vui, vì nhờ sự tha thứ của Chúa qua bí tich hòa giải, ta gặp được Chúa trong đời mình.

Hậu quả của một việc xét mình tốt, một việc kiểm thảo đời sống cách lương thiện như các nhà hiền triết Đông Tây, thì về phương diện nhân bản là một nguyên lý cùa sức khỏe tâm linh. Một người lương thiện không dễ bị xáo trộn tâm lý, không dày vò lương tâm. Trên bình diện hoàn toàn thiêng liêng, xét mình (như trong Linh Thao) là đặt mình trước sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng yêu thương chúng ta. Có một niềm vui ngập tràn khi cảm thấy được yêu thương, được thông cảm, cả khi ta không yêu mình và thấy hổ thẹn, vì không xứng đáng được yêu. 

Thống hối hay hối lỗi: hối hận vì các tội phạm của mình và quyết tâm không tái phạm. Trong Hội thánh công giáo thống hối được diễn tả bằng “kinh ăn năn tội”: “Lạy Chúa, con xin Chúa tha tội cho con, con hối tiếc vì đã làm mất lòng Chúa. Xin Chúa giúp con không tái phạm”

Làm việc thống hối là kêu van sự tha thứ của Chúa. Thuật ngữ (thống hối) dần dà bị lẫn lộn với những việc đền tội khác nhau. Trong yếu tính, thống hối nhắm đến việc sửa lại lỗi lầm đã phạm. Nó là dấu chỉ của sự hoán cải mà Chúa Kitô mời gọi chúng ta: “Hãy hoán cải và tin vào Tin mừng” (Mc 1, 15).

Nhiệm tích thống hối hòa giải là gì?

Công đồng Vaticano II đã dùng thành ngữ “thống hối hòa giải” để nói về phép giải tội, vì có nguồn gốc Kinh Thánh và mang nhiều đặc tính nhân bản, thời sự. ĐGH Gioan-Phaolo II đã dành phần đầu (gồm 3 chương) của Tông huấn Reconciliatio et poenitentia  để phân tích ý niệm và thực tại hòa giải.

“ Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được hoà giải với Người và trao cho chúng tôi chức vụ hoà giải” ( 2 Cr 5,18)

Hòa giải là dấu chỉ tình yêu vô biên của Thiên Chúa . Sự tha thứ của Thiên Chúa luôn mở rộng cho ta, nếu chúng ta bước theo một tiến trình thực sự chân thành. Khi nhận biết mình là tội nhân, chúng ta tin rằng Tình yêu vô hạn của Thiên Chúa luôn mạnh hơn tội lỗi của chúng ta: “Và nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, Thiên Chúa còn cao hơn lòng  chúng ta và Người biết hết mọi sự”(1Ga 3,20).  Nhiệm tích thống hối hòa giải giao hòa chúng ta với Thiên Chúa bằng cách tẩy luyện tội lỗi chúng ta đã phạm sau khi chịu phép Rửa tội.                     

Chỉ một mình Thiên Chúa mới tha tội (Mc 2, 7). Vì Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa nên Người có quyền tha tội, như Người đã tuyên bố: “Con Người có quyền tha tội ở dưới đất” (Mc 2, 10).  Chúa Kitô đã trao quyền tha tội cho các tông đồ, sứ mệnh mà thánh Phaolô gọi là “thừa tác vụ hòa giải” (2Cr 5, 18).

Hòa giải liên quan đến mối quan hệ giữa Thiên Chúa và loài người hoặc giữa con người với nhau. Đúng hơn, hòa giải bao hàm một sự thay đổi trong tương quan giữa Thiên Chúa và con người và giữa con người với nhau. Thiên Chúa hòa giải thế giới với chính mình Người ( 2 Cor 5,18 ). Sự hòa giải được thực hiện nhờ Thập giá Chúa Kitô hay cái chết của Người: “Thiên Chúa giao hòa chúng ta với Người nhờ cái chết của Đức Kitô ( Rm 5,1). Như vậy chúng ta không còn là thù địch, vô đạo, tội nhân hay bất lực. Trái lại tình yêu Thiên Chúa được đỗ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần mà Thiên Chúa ban cho chúng ta (Rm 5,5 ). Trong phép Giải tội, tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa được ban cho ta, để chúng ta được “hòa giải với Thiên Chúa “  (2 Cr 5, 20) và “hòa giải với anh em”(Mt 5, 24).. Chỉ khi nào chúng ta để Chúa Giêsu hòa giải chúng ta với Thiên Chúa và với anh em, thì chúng ta mới được bình an.

Trong truyền thống Kinh thánh, tội lỗi là cắt đứt Giao ước với Thiên Chúa. Hòa giải giả thiết đã có một đổ vỡ trong tương quan, nhưng bây giờ có một thay đổi, từ tình trạng thù địch và phân mãnh đến tình trạng hài hòa và thân hữu. Trong Roma 5,6-11 thánh Phaolô nói trước khi hòa giải, chúng ta bất lực, tội lỗi, thù địch và ở dưới cơn thịnh nộ của Thiên Chúa (câu 9). Nhờ sự hòa giải, chúng ta trở thành thụ tạo mới. “Nếu ai ở trong Đức Kito, kẻ ấy là một sự tạo dựng mới, cái cũ đã qua đi, cái mới đã đến”( 2 Cor 5,17).

Việc tha tội không phải là điều chúng ta có thể tự ban cho chính mình, chúng ta ăn năn tội và  xin người khác tha tội cho. Trong phép giải tội, chúng ta xin Chúa Giêsu tha tội. Hay nói cách khác, việc tha tội không phải là hoa trái của những nỗ lực cá nhân, mà là một tặng phẩm của Chúa Thánh Thần, tuôn đổ từ Trái Tim rộng mở của Chúa Giêsu chịu đóng đinh và đã sống lại.

“Ai lãnh nhận phép Giải tội thì đón nhận từ lòng nhân hậu của Thiên Chúa, sư tha thứ tội lỗi, vốn làm chúng ta xúc phạm đến Thiên Chúa và nhờ sự tha thứ này chúng ta được giao hòa với Hội Thánh, mà ta đã làm tổn thương (khi phạm tội), nhưng nhờ lòng mến, gương sáng, cầu nguyện , Hội thánh luôn hoạt động cho sự hoán cải (trở về) của họ.” (Vaticano II, Lumen gentium, 11; xem:  GLHTCG 1422).

Bí tich tha tội còn là Bi tích hòa giải: vì ban cho tội nhân Tình yêu của Thiên Chúa hòa giải. Được hòa giải với Thiên Chúa, chúng ta cảm nghiệm  tình yêu khoan hậu. Tinh yêu khoan hậu này cho phép đáp trả tiếng gọi của Thiên Chúa: “hãy đi giao hòa với anh em”.

Tội là gì?

Vì đã trình bày về ý niệm tội, ở đây ta chỉ nhắc lại một vài khái niệm đơn giản.

1-Ý niệm tội (Dom Claude Jean-Nesmy, pratique de la confession, DDB, 1962).

Lỗi phạm: xét về phương diện luân lý,   đòi buộc sống phù hợp với bản tính loài người của chúng ta.

Tội lỗi, (theo tôn giáo, kinh thánh), theo nghĩa chính xác, hoặc một tình trạng, hoặc một biến đổi trong tương quan với Thiên Chúa. Phạm tội là quay lưng lại với Thiên Chúa . (Aversio a Deo. Conversio ad creaturas).

Tội là một mạc khải. ‘Để khám phá tội của ta, làm một việc “xét mình” không chưa đủ. Người ta chỉ thấy những ‘lỗi phạm’. Để thấy “tội”, phải phán đoán những hành vi của ta không phải từ một thẩm định nhân loại, nhưng theo quan điểm của Thiên Chúa (=đức tin).

-Ý niệm tội (theo J. de Baciocchi)

Tội, không phải vi phạm bên ngoài, do sự kiện duy nhất là vượt qua cấm kỵ, sự cấm đoán giới tính, sự kiêng cử trong ăn uống, “phạm húy” trong ngôn ngữ hay mọi thứ “tabous” khác, nhưng là:

1/ Nổi loạn chống lại Thiên Chúa ;

Dửng dưng trước Thiên Chúa ;

2/ Thiếu kính trọng và yêu thương đối với con cái Thiên Chúa Tội không nghiêm trọng như nhau:

Khách quan: xúc phạm đến người lớn, nhỏ (Tuổi tác, địa vị). Người giàu, nghèo.Một tập thể, một cá nhân

Chủ quan: tùy theo mức độ ý thức, tự do.

Tội là một sự xúc phạm đến Thiên Chúa: “Con đã phạm tội chống lại Chúa, chống lại  một mình Chúa. Điều dữ trước mắt Chúa, con đã làm” (Tv 51, 6). Tội lỗi chống lại tình yêu của Chúa đối với chúng ta, và làm trái tim chúng ta xa cách Thiên Chúa.

Ăn năn tội (Contrition). Về phương diện thần học, đó là đau đớn và ghét tội với quyết tâm làm việc đền tội, nhờ tình yêu đối với Thiên Chúa,  vì sự tốt lành  của Người (ăn năn tội cách trọn) hay vì lý do thấp hèn nào khác, như sợ hình phạt của Thiên Chúa  (ăn năn tội chẳng trọn).

Thống hối hay hối lỗi (ăn năn tội) là một chiều kích trung tâm của sự hoán cải như một yếu tố năng động của linh đạo Kitô giáo.

Đền Tội, Thống Hối, Hoán Cải

Để định vị chỗ đứng của Bí Tích thống hối hòa giải trong đời sống thiêng liêng, một vài tác giả, như ĐHY Martini tái khám phá truyền thống coi bí tích thống hối như việc tuyên xưng đức tin và tạ ơn và như việc dấn thân phục vụ.

Trong Tông huấn Reconciliatio et Paenitentia (1984), ĐGH Gioan-Phaolô II nhắc đến sự cần thiết phải canh tân mục vụ giáo lý về thống hối. Thống hối là một ngữ vựng Kinh Thánh thường được sử dụng, nhưng có nhiều nghĩa khác nhau, bởi đó cần được giải thích cách chính xác, để tránh những sai lầm đáng tiếc.

Sứ điệp Kinh Thánh về thống hối luôn bao hàm nội dung “trở lại” hay “hoán cải”. Lời kêu gọi hoán cải thật rõ ràng, mạnh mẽ, cấp thiết trong Kinh Thánh Tân Ước.

Kêu gọi hoán cải (metanoia) là chủ đề trung tâm trong việc rao giảng của Chúa Giêsu (Mt 4,17; Mc 1,15; Lc 5,32; ) cũng như  trong giáo huấn của Gioan Tẩy Giả và được tiếp tục dưới thời các sứ đồ (x. Cv 2,38).

Luca nhấn mạnh đến lời kêu gọi ăn năn sám hối của Đức Giêsu (Lc13,1-5; 16,30; 24,47) và thành quả của lời kêu gọi ấy (7,36-50;19,1-10; 23,4-43). Lời kêu gọi ăn năn hối cải được gởi đến mọi người, vì thực ra, chẳng có ai thực sự là người công chính (Lc 15,7). “ Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.” (Mt 9,13).

Nhưng với thời gian, nội dung của từ “hoán cải” trong Kinh Thánh Vulgata  được giản lược thành “đền tội”. Thực trạng này xuất phát từ cách dịch của Kinh Thánh Vulgata: “Metanoiete” thành “poenitentiam agite” và việc thần học Trung cổ quá nhấn mạnh đến khái niệm: Đền thay (satisfactio).

Metanoia giả thiết một sự thay đổi trong cách suy nghĩ và một sự chuyển hướng. Trong dụ ngôn “Người con hoang”(Lc 15, 11-32), người con trở về với chính mình và quyết định trở về với Cha (suy nghĩ lại).

Kế đến, thống hối bao hàm sự hối hận, hay hối tiếc (repentir) một sự quay  về với tâm hồn, như trong dụ ngôn về sự tha thứ:  “nếu nó hối tiếc, thì phải tha cho nó” (Lc 17,3).

Ý nghĩa thứ ba chứa đựng trong từ thống hối là chuyển động mà hai thái độ hoán cải và hối hận được bộc lộ ra bên ngoải bằng công việc đền tội , như thánh Gioan Tẩy giả nói với dân chúng: “ tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối.” (Mt 3,11). Làm việc đền tội cuối cùng là tái lập thế quân bình và sự hòa hợp bị gãy đổ vì tội. Đó là ý nghĩa của khổ chế Kitô.

Đức hạnh thống hối cách chung được xét đến dưới góc độ cá thể, bằng những từ ngữ chỉ sự ghét tội và đền tội. Việc thực hành thống hối thường được đồng hóa với việc hãm mình như phương thế đền bù tội lỗi trong quá khứ- (bằng cách làm việc đền tội)- và việc đều đặn cử hành bí tích dưới dạng thức xưng tội riêng.

Hành vi quan trọng nhất của hối nhân là sự thống hối (ăn năn tội = contrition). Đó là một sự đau đớn trong lòng vì đã pham tội mất lòng Chúa và chán ghét tội lỗi đã phạm, cùng với quyết tâm chừa cải không còn dám phạm tội nữa” (Cđ Tridentinô, Ds 1676).

Đức hạnh thống hối là một từ khó hiểu nhất là trong tiếng Việt . Tựu trung trong thần học hiện nay, từ này có ba nghĩa, như:

1) thái độ hay đức hạnh bên trong, ăn năn hối cải;

2) hành động bên ngoài hay hành vi đền tội, làm việc đền tội;

3) bí tích hay dấu chỉ của ơn tha thứ của Chúa, qua lời xá giải của thừa tác viên khi một người ăn năn thống hối.

Thống hối trong Tân Ước

—“Hãy thống hối vì nước Thiên Chúa đã đến gần “ (Mt 3,2; 4,17)        

–“Hãy thống hối và tin vào Tin mừng” (Mc 1,15).

“Thống hối”, tiếng Hy bá: “Shûb” được dịch ra bằng hai tiếng Hy lạp (hầu như có thể đồng nghĩa):

(1) Metanoia, (μετάνοια), metanoiein: thay đổi não trạng, hối hận; một sự thay đổi con tim, cách đặc biệt: một sự hoán cải thiêng liêng : (conversion). (Tiến trình nội tại của sự hoán cải).

(2) Epistrophe (ἐπιστροφή), “Epistrephein “sự quay trở lại”, chuyển hướng, đỗi đời, thay đổi tận căn trong đời sống và cách sống, theo sau việc chấp nhận bên trong lời mời gọi hoán cải. (Hậu quả bên ngoài của sự hoán cải).

Các ngôn sứ thường dùng từ này để nói về thái độ thay đổi tận căn, một sự dứt khoát về luân lý và có ý thức, một quyết định cá nhân từ bỏ tội lỗi và quay về với Chúa (Đnl 4, 30; Nkm 1, 9; Tv 7, 12; Gr 3, 14), một sự thay đổi thiêng liêng nhờ Thiên Chúa tác động.

“Từ ngữ “thống hối”  (penitence) và ý niệm của nó rất phức tạp. Nếu chúng ta kết nối nó với “metanoia” như Tân Ước (Phúc âm Nhất lãm) thường dùng,  thì “thống hối” đền tội có nghĩa là một sự thay đổi nơi sâu thẳm nhất của tâm hồn dưới ảnh hưởng của Lời Chúa và trong viễn tượng của Vương Quốc Thiên Chúa. Nhưng “thống hối” cũng còn có nghĩa là chuyển hướng, đổi đời (epistrephein)

“Những ai phạm tội, ăn ở bất công, là kẻ thù của chính mình’” (Tobia 12,10)

Nhận định: chúng ta  thường xuyên nhận lãnh bí tích Thánh Thể và bí tích Thống hối, nhưng nhiều khi vì thói quen, không sốt sắng, bởi vì thiếu hiểu biết. Ý nghĩa của nhiệm tích Thánh Thể (mầu nhiệm đức tin) và nhiệm tích hòa giải, vốn giả thiết sự thống hối và quay về, thật bao la mênh mông, trong khi sự hiểu biết của chúng ta dừng lại ở mức độ vỡ lòng, nên lãnh nhận hai nhiệm tích này thường xuyên mà không sinh hiệu quả. Đặc biệt nhiệm tích hòa giải liên quan đến lương tâm sâu thẳm của mỗi người nên việc xưng tội cũng là dấu chỉ mức độ trưởng thành trong đức tin.

Sự khẩn thiết trong Mục vụ hiện nay là phải chú ý nhiều hơn về huấn luyện lương tâm tín hữu. Trong khi đó, chúng ta có những chương trình hấp dẫn về mục vụ gia đình, mục vụ giới trẻ,..vv.

  1. NHỮNG HOÀN CẢNH XƯNG TỘI:

Cách  chung, người ta nói đến ba cách xưng tội, tùy theo hòan cành của hối nhân:

Xưng tội hoán cải (confession de conversion): Xưng tội, sau thời gian xa Chúa, như trong kỳ cấm phòng Đại Phúc.

Sau một thời gian dài xa Chúa, quay lưng cho Chúa, bây giờ trở về , như: người con hoang trở về (Lc 15,11-32). Matthêu người thu thuế bỏ tài sản bất chính đi theo Chúa (Mt 9,9).

Xưng tội hồi sinh (confession de relèvement). Sau một lỗi nặng, một tội trọng, chúng ta mất sự sống thần linh. Đó là khi ta chọn ý mình hơn Thiên Chúa cách tuyệt đối, tách lìa khỏi Chúa Kitô. Trong Chúa Kitô và nhờ Chúa Kitô, Thiên Chúa hiến mình cho chúng ta, nhưng chúng ta bỏ Chúa để sống theo ma quỷ, thế gian, xác thịt, theo tính ích kỷ của mình. Vậy khi nghe tiếng Chúa, phải hoán cải và quay về với Chúa, xưng thú tội lỗi để được ơn tha thứ, để tìm lại sự sống đã bị mất đi.

Xưng tội tiến đức (confession de dévotion hay Devotional Confession): cách đơn giản là xưng tội nhẹ và có định kỳ, để thăng tiến trong đức ái và đời sống thiêng liêng.

Tội nhẹ không cắt đứt với tình yêu Chúa, không làm mất ân sủng Chúa. Nhưng nếu không chú ý đủ, nó sẽ đưa đến tình trạng nguội lạnh và có nguy cơ đưa đến tội trọng mà ta không hay biết, vì trong tình trạng nguội lạnh, lương tâm mất sự nhạy bén cần thiết, đưa đến tình trạng phán đoán lệch lạc.

Bởi đó, những người muốn được nhờ hiệu quả tối đa từ bí tich giải tội, không chỉ xưng tội nhẹ mà còn tìm đến nguồn gốc của tội, như sự gắn bó với thụ tạo cách vô trật tự. Lấy mình làm trung tâm. Yêu mình hơn yêu Chúa. Từ chối một dịp để biểu lộ tình yêu Chúa hay giúp đỡ tha nhân, khước từ hành động dưới sự hướng dẫn của ơn soi sáng và không vâng nghe tiếng Chúa Thánh Thần (Eph 4,19). Tội nhẹ có ý nghĩa khi nó biểu lộ sự gắn bó vô trật tự với thụ tạo, và sự kiêu căng tự mãn.

Không bắt buộc xưng tội nhẹ, nhưng khi xưng với lòng tin và lòng mến (thống hối) thì đem lại nhiều lợi ích cho linh hồn.

Việc xưng tội thường xuyên và xưng tội nhẹ là một tập luyện thiêng liêng hữu ích có nguồn gốc đan viện, vốn giúp linh hồn luôn hướng về việc hoán cải thường hằng (conversio morum).

Vấn đề quan trọng ở đây là, sống đức tin cách cụ thể, là tăng trưởng trong đời tín hữu, nhất là để thanh luyện con tim, huấn luyện lương tâm, trở nên mẫn cảm, nhạy bén trước sự hiện diện cùa Thiên Chúa trong đời sống .

Vấn đề còn là học trưởng thành đức tin, huấn luyện lương tâm biết phân định chính tà, nhận ra sự khác biệt giữa cám dỗ và phạm tội, biết mình có thể làm hại đến người khác như thế nào, cả khi không ý thức.

Trong xưng tôi tiến đức ta xin ơn đổi mới tâm hồn. nhưng không cách máy móc, mà cách tiệm tiến. Phải cố gắng sửa đổi chính mình, cách kiên nhẫn, với ơn Chúa. Không mong chờ phép lạ để thay đổi chính mình, tức khắc.

Chúa Giêsu giải phóng khỏi tội

Nếu sự thật giải phóng, thì việc xưng tội chân thành đầy lòng tin vào Chúa Giêsu cũng giải phóng, khỏi nô lệ tội lỗi và ma quỷ.

“Ai phạm tội thì là người của ma quỷ, vì ma quỷ phạm tội từ lúc khởi đầu. Sở dĩ con Thiên Chúa xuất hiện là để phá huỷ công việc của ma quỷ” (Gioan 3,18); “Đây chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian (Gioan 1,23) .

Về ơn tha tội cho người thu thuế khiêm tốn, ăn năn, Chúa phán: “người này khi trở về nhà, thì đã được nên công chính rồi, còn người kia (Biệt phái kiêu căng) thì không”(Lc 18,24).

Bình an tâm hồn

Vấn đề chữa lành bệnh tật thể lý và tâm lý, không là mục đích trực tiếp của bí tich thống hối. nhưng một người trưởng thành về tâm lý cũng dễ trưởng thành trong đức tin. Vì không lấy mình làm trung tâm nên họ cũng dễ có những nhận xét khách quan về mình. Họ biết sống bình an với chính mình, cả khi gặp thử thách. Theo kinh nghiệm của các vị thánh (nhất là các vị đan tu trong sa mạc), người khiêm nhượng thường tránh được nhiều tật bệnh, nhất là các bệnh tâm thần, vì luôn sống trong sự thật của chinh mình, cũng như trong hiện thực khách quan của thế giới bên ngoài. Trong đời sống thiêng liêng, không bao giờ chúng ta nhấn mạnh đủ đến sự cần thiết của khiêm tốn. Nó điều chỉnh, và khi cần, kềm hãm, xu hướng tự coi mình hơn kẻ khác và muốn được đặt cách bất công trên kẻ khác.

Đức khiêm tốn là nền tảng của những bổn phận của chúng ta đối với Chúa, là quy tắc của những tương quan đối với tha nhân, và là nguyên lý +bảo vệ sự quân bình tâm lý của chúng ta.

Việc xưng thú tội lỗi: thú nhận cách lương thiện, chân thành, khiêm tốn rằng mình là tội nhân và đã xúc phạm đến Chúa và người khác, có giá trị chữa bệnh, (tâm lý trị liệu). .Dĩ nhiên ta không trực tiếp tìm kiếm việc chữa bệnh trong việc xưng tội. Nó chỉ là hậu quả phụ thuộc và thứ yếu của bí tích. Quyền lực chữa lành nằm trong chính sự thú nhận chân thành này, vì những ẩn ức tâm lý được giải tỏa cách lành mạnh. Người kiêu căng không thể chấp nhận bộc lộ nết xấu hay tội lỗi, sự yếu nhược, hay bất lực của của mình. Chính sự quanh co, che đậy làm cho người kiêu căng có nguy cơ vướng vào các tâm bệnh. Người không tin Chúa có thể coi thường hoặc chế nhạo việc xưng tội, nhưng họ không ngần ngại trả tiền, -có khi thật nhiều tiền- để nói tất cả những ẩn khuất trong tâm hồn cho nhà phân tâm. Theo nghĩa này người ta có thể nói phân tâm học là việc xưng tội không có ân sủng.

Gánh nặng được cất đi.

Không ai sẽ ngạc nhiên khi không có kinh nghiệm thiêng liêng nào có thể sánh với một việc xưng tội tốt lành, được thực hiện cách thích hợp, được cử hành cách xứng đáng, và được chấp nhận cách tích cực nhất. Có một điều gì khác. Đời sống được thay đổi. Con người thoát khỏi nô lệ của tội, được tự do hơn, mạnh mẽ hơn và có sự nhạy cảm trước sự quyến rũ  của tội lỗi và cơn cám dỗ, can đảm noi gương, bắt chước Chúa Ki-tô, bước theo Người trên con đường Thập giá để được cùng người sống lại trong ân sủng và thánh thiện (Ga 1,14).

Nhiệm tích thống hối như Chúa thiết lập là một phương dược không thể thay thế giúp Kitô hữu lớn lên trong đức ái, gia tăng ân sủng và niềm vui thiêng liêng.Nhiệm tich hòa giải là một trợ lực quý giá cho đức tin và nguồn mạch vô song để bảo vệ và canh tân đời sống thiêng liêng. Một phương thế ban ân sủng luôn sẵn sàng.

Những ai cần đến nó nhiều nhất thì lại bỏ quên nó nhiều nhất.

Cách chung bí tích này là cần thiết khi một người, sau rửa tội, phạm tội nghiêm trọng chống lại TC và tha nhân, hay khi Thánh thần TC chỉ cho thấy cần thay đổi tâm hồn. Quay về với nhiệm tích thống hối như Chúa Cứu Thế thiết lập là môt trợ lực hữu hiệu và một phương thế ban ân sủng vô giá cho đời sóng thiêng liêng. Hội thánh luôn sẵn sàng giúp đỡ tín hữu nhận lãnh nhiệm tích này mỗi khi cần.

Hoán cải tâm hồn (metanoia) là một tiến trình liên tục trong đời sống tín hữu, không dừng lại, không chấm dứt , bao lâu còn ở trần gian.

Cụ thể, khi nào cần xưng tội? Khi tham dự một biến cố nhắm đến sự hoán cải tâm hồn (metanoia). Cấm phòng, bắt đầu năm học, bắt đầu ơn gọi. Cũng cần khi mình thấy khô khan, lười biếng, sống xa Thiên Chúa , quá ư vật chất.

Thông thường thực hành việc xưng tội mỗi tháng, hay hai tuần một lần là điều nên làm.

print