Yêu nghề

print

Yêu nghề

 Trầm Thiên Thu
 

 

Người ta nói: “Sinh nghề, tử nghiệp.” Ở đây “sinh tử” không phải là “sống chết” theo nghĩa đen, mà là “sống chết” theo nghĩa bóng, tức là phải có niềm đam mê và yêu công việc mình làm. Người Việt thường nói “gộp chung” là Nghề Nghiệp.

Nghề của dân Biển Hồ là đánh cá. Dân vùng biển là ngư dân. Đa số các tông đồ cũng là ngư phủ. Ngư nghiệp liên quan cá, và cá liên quan con người. Chúa Giêsu dùng hình ảnh chài lưới để nói về việc “chài lưới linh hồn người ta.” Con cá và con người có điểm giống nhau là động vật, nhưng lại có điểm khác nhau là con cá chỉ có giác hồn, còn con người có linh hồn – cao cấp hơn.

Trong đời thường, con cá cũng thường được dùng để ví von. Chẳng hạn, khi nói về tình quân và dân: “Quân và dân như cá với nước.” Hoặc khi nói về giáo dục: “Cá không ăn muối cá ươn.” Khi kêu gọi Phêrô và Anrê đi truyền giáo, Chúa Giêsu cũng dùng hình ảnh con cá: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” (Mt 4:19; Mc 1:18; x. Lc 5:10) Cá là cá là loài có gì đó rất đặc biệt: chứa nhiều dưỡng chất tốt cho cơ thể, đặc biệt là khi ăn chay theo Kitô giáo, người ta không phải kiêng cá.

Khi biết chắc Chúa Giêsu đã sống lại thật, các Tông Đồ không còn lo sợ, nhát đảm, vì họ đã xác tín và được Thầy Giêsu ban Chúa Thánh Thần qua việc thổi hơi vào họ. (Ga 20:22) Trình thuật Cv 5:27b-32, 40b-41 cho biết rằng khi người ta điệu các Tông Đồ đến giữa Thượng Hội Đồng, vị thượng tế hỏi: “Chúng tôi đã nghiêm cấm các ông không được giảng dạy về danh ấy nữa, thế mà các ông đã làm cho Giêrusalem ngập đầy giáo lý của các ông, lại còn muốn cho máu người ấy đổ trên đầu chúng tôi!”

Mặc kệ. Các Tông Đồ vẫn hiên ngang và thẳng thắn nói: “Phải VÂNG LỜI THIÊN CHÚA hơn vâng lời người phàm. Đức Giêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Israel ƠN SÁM HỐI và ƠN THA TỘI. Về những sự kiện đó, CHÚNG TÔI XIN LÀM CHỨNG, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người.”

Họ cho gọi các Tông Đồ lại mà ĐÁNH ĐÒN và CẤM các ông KHÔNG ĐƯỢC NÓI ĐẾN DANH ĐỨC GIÊSU, rồi thả các ông ra. Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng CHỊU KHỔ NHỤC VÌ DANH ĐỨC GIÊSU. Và tất nhiên các Tông Đồ không thể im lặng theo lệnh thế quyền. Họ vẫn rao giảng về Đức Kitô dù biết khó yên thân. Hằng ngày, cả trong Đền Thờ và tại tư gia, các ông không ngừng giảng dạy và loan báo Tin Mừng về Đức Kitô Giêsu – Đấng chịu đóng đinh, chịu chết nhưng đã phục sinh.

Điều này quá kỳ cục: Mắc mớ chi mà cấm nói về Ông Giêsu? Ngày nay người ta cũng vẫn viện đủ lý do để bách hại những người tin vào Đức Kitô. Tại sao người ta tìm bắt Chúa Giêsu và những người tuyên xưng Ngài? Nếu không là ghen tức thì là gì? Những người tin vào Đức Kitô luôn làm điều tốt mà sao cứ bị ghét? Vô cùng vô lý!

Vô tri bất mộ. Có biết mới yêu. Khi đã biết rõ thì người ta càng thêm lòng yêu mến, và phải thổ lộ: “Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt, không để quân thù đắc chí nhạo cười con.” (Tv 30:2) Ai cũng có kinh nghiệm sống, đặc biệt là sống thật về phần linh hồn. Chỉ kẻ cố chấp và vô ơn mới không chịu nhận ra hồng ân Thiên Chúa trao ban hằng ngày, mọi lúc và mọi nơi.

Sự thật minh nhiên là Chúa Giêsu phục sinh, nhưng người ta không muốn tin, thậm chí còn phao tin giả; chính người ta cũng được cứu thoát nhưng vẫn không muốn công nhận. Nhưng sự thật vẫn là sự thật, như Thánh Vịnh gia xác định: “Lạy Chúa, từ âm phủ Ngài đã kéo con lên, tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống. Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng Chúa, cảm tạ thánh danh Người. Người nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời. Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống, hừng đông về đã vọng tiếng hò reo.” (Tv 30:4-6)

Chuỗi vui-buồn-sướng-khổ hoặc chuỗi sinh-lão-bệnh-tử được gọi là “bể khổ.” Đó là chuỗi đời nhân thế. Sầu khổ luôn nhiều hơn vui sướng, nhưng người có đức tin vẫn thấy thanh thản, ngay cả khi đối diện với cái chết. Họ tín thác vào Lòng Chúa Thương Xót nên cầu nguyện liên lỉ: “Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con, lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ. Khúc ai ca, Chúa đổi thành vũ điệu, cởi áo sô, mặc cho con lễ phục huy hoàng. Vì thế, tâm hồn con ca ngợi Chúa, và không hề nín lặng.” (Tv 30:11-13) Đối với tín nhân, không có gì tách họ ra khỏi tình yêu của Đức Kitô. (x. Rm 8:35) Thực sự đúng như vậy!

Thánh Gioan cho biết thị kiến về sự tôn vinh Con Chiên: “Tôi thấy, và tôi nghe tiếng muôn vàn thiên thần ở chung quanh ngai, các Con Vật và các Kỳ Mục. Số các thiên thần có tới ức ức triệu triệu. Các vị lớn tiếng hô: Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc.” (Kh 5:11-12) Vô số các sinh vật tôn vinh và xưng tụng Con Chiên, không thể đếm nổi. Dù ngày nay con số đó chưa nhiều, chỉ là số ít so với dân số thế giới, nhưng ngày cuối cùng sẽ là đa số, có hằng hà sa số những người tin vào Đức Kitô. Con số đó đang gia tăng hàng năm, hàng tháng, và hàng ngày. Một sự thật minh nhiên!

Thánh Gioan cho biết thêm: “Tôi lại nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô: ‘Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời!’ Bốn Con Vật thưa: ‘Amen.’ Và các Kỳ Mục phủ phục xuống thờ lạy.” (Kh 5:13-14) Con số những người tín thác vào Lòng Chúa Thương Xót đã và đang gia tăng – từ cấp số cộng rồi cấp số nhân. Thực sự chúng ta đang chứng kiến sự lạ lùng như vậy. Loài người không thể làm gì nhưng Thiên Chúa có thể biến đổi tất cả.

Sau khi sống lại, Chúa Giêsu hiện ra lần thứ ba tại Biển Hồ Tibêria. Qua trình thuật Ga 21:1-19, Thánh Gioan cho biết: Hôm đó, ông Simôn Phêrô, ông Tôma, ông Nathanaen, các con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác, đang ở bên nhau. Vậy là có 7 người. Có lẽ ngồi không cũng buồn, vả lại làm việc quen rồi, thế nên ông Phêrô nói đi đánh cá. Nghe nói vậy, các ông kia cũng đi. Thế nhưng suốt đêm đó họ không bắt được con cá nào.

Tảng sáng, Chúa Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các ông không nhận ra. Ngài hỏi: “Này các chú, không có gì ăn ư?” Các ông uể oải lắc đầu và nói “không.” Rồi Ngài bảo các ông cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền thì sẽ bắt được cá. Các ông làm theo. Thật lạ lùng, họ không sao kéo lưới lên được vì quá nhiều cá. Ông Gioan tinh ý nhận ra Ngài nên nói với ông Phêrô: “Chúa đó!” Vừa nghe nói vậy, ông Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì bờ chỉ cách khoảng gần trăm thước, không xa lắm.

Lên bờ, các ông thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và cả bánh nữa. Chúa Giêsu bảo các ông đem ít cá mới bắt được tới nướng. Ông Phêrô lên thuyền và kéo lưới vào bờ. Lưới đầy cá lớn, đếm được 153 con, vậy mà lưới không bị rách. Chúa Giêsu bảo mọi người đến ăn. Không ai dám hỏi “Ông là ai?” vì họ đã biết chắc đó là Thầy rồi. Chúa Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông, với cá Ngài cũng làm như vậy. Một Thánh Lễ ngay tại bờ biển Hồ. Thật tuyệt vời!

Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giêsu hỏi ông Phêrô có mến Ngài hơn các anh em không. Ông thưa “có,” và xác định: “Thầy biết con yêu mến Thầy.” Chắc hẳn lỡ miệng chối Thầy mấy hôm trước nên lúc này hối hận lắm. Tội to mà được Thầy tha thì còn gì bằng, thế nên ông càng yêu Thầy nhiều hơn. Chúa Giêsu bảo ông chăm sóc chiên của Ngài. Rồi Ngài lại hỏi lại như trước, ông cũng thưa “có.” Ngài lại hỏi ông lần thứ ba, thế nên ông hơi buồn. Lần này ông thưa rạch ròi: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy.” Chúa Giêsu cũng bảo ông chăm sóc chiên của Ngài.

Ôi, thật kỳ diệu, vì buổi đăng quang giáo hoàng của Phêrô rất giản dị trong khung cảnh thân mật tình Thầy trò, cũng ngay tại bờ biển. Hay quá chừng! Rõ ràng Chúa Giêsu không câu nệ nghi thức. Từ đó, ngư phủ Phêrô không còn lưới cá mú chi nữa, mà chỉ chuyên lưới người ta mà thôi.

Sự công bằng hiển nhiên: ĐƯỢC nhiều thì bị ĐÒI nhiều. Chúa Giêsu cũng minh định với GH Phêrô: “Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh TỰ MÌNH thắt lưng lấy, và đi đâu TUỲ Ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ PHẢI dang tay ra cho người khác thắt lưng và DẪN ANH ĐẾN NƠI ANH CHẲNG MUỐN.” Ngài nói vậy có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Rồi Ngài bảo ông: “Hãy theo Thầy.” Phêrô đã theo Thầy Giêsu đến cùng, chứng minh bằng cái chết là bị đóng đinh ngược trên thập giá!

Cá sống nhờ nước, người sống nhờ khí. Có nước và không khí là nhờ lòng thương xót của Thiên Chúa. Thiếu nước thì cá chết, thiếu khí thì người chết. Nhưng có nước và có khí mà cá và người cũng vẫn chết, vì sinh – tử là quy luật muôn thuở. Sinh ra để chờ chết. Chết rồi chờ sống lại. Chính cái chết là ngưỡng chuyển tiếp từ cõi tử qua miền sinh. Đó là cuộc vượt qua rất ngoạn mục và kỳ diệu.

Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại. Sự phục sinh của Ngài bảo đảm cho cuộc vượt qua kiếp người của chúng ta. Thật là mầu nhiệm về sự chết và sự sống của những người tin vào Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa!

Chúng ta biết chắc rằng Muhammad không sống lại, Khổng Tử không sống lại, Lão Tử không sống lại, Phật Thích Ca không sống lại. Nhưng CHỈ CÓ ĐỨC GIÊSU KITÔ ĐÃ SỐNG LẠI, dù bị người ta giết chết, đặc biệt là đúng như Ngài đã BÁO TRƯỚC. Dù là ai cũng chẳng có ai sống lại. Ướp xác, quan tài đồ sộ, lăng tẩm to lớn,… để làm gì? Khoe khoang cũng chỉ “đẹp mặt” người sống. Thực sự quá vô ích!

Và rồi cũng CHỈ CÓ ĐỨC GIÊSU KITÔ đi trên nước, tuyên bố là Thiên Chúa, và làm cho người khác sống lại. Chính Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết, chiến thắng Tử Thần, chiến thắng vĩnh viễn. Chỉ có trong Kitô giáo mới có Đức Kitô là Thiên Chúa, làm nhiều phép lạ minh chứng Ngài là Thiên Chúa thật, chỉ có một mình Chúa Giêsu tuyên bố Ngài là “Con Đường, Sự Thật và Sự Sống,” và chúng ta chỉ có thể qua Ngài đến với Chúa Cha mà thôi. (Ga 14:6) Tín nhân thực sự hãnh diện và hạnh phúc, vì niềm tin của chúng ta không mơ hồ.

Sau mỗi màn diễn, dù phim hay kịch, chúng ta thường nhận xét về cách diễn của diễn viên chứ không cần biết vai diễn của người đó là chính diện hay phản diện, là hoàng đế hay tướng cướp, là chủ nhân hay đầy tớ,…

Cuộc đời giống như một sân khấu lớn, và ai cũng là diễn viên trên “sàn diễn cuộc đời.” Thiên Chúa không xét “vai diễn” của chúng ta – giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân, giàu hay nghèo, giỏi hay dốt, đẹp hay xấu,… Ngài chỉ xét “cách diễn” của chúng ta – tức là có sống đúng cương vị của mình và thể hiện đức ái theo Thánh Ý Chúa hay không.

Khoảng năm 1602, họa sĩ Annibale Carracci (1560–1609, Ý) vẽ bức hình “Domine, Quo Vadis?” mô tả một cảnh trong ngụy thư Công Vụ Phêrô (Acts of Peter). Ông là người sáng lập trường phái hội họa Baroque của Ý – Trường Phái Bologna. Bức hình “Quo Vadis” là một trong các tác phẩm của ông được biết đến nhiều nhất, mô tả Thánh Phêrô đang trên đường trốn khỏi Rôma thì gặp Chúa Giêsu vác Thập Giá. Khi đó, Phêrô hỏi: “Domine, quo vadis? – Lạy Chúa, Ngài đi đâu vậy?” Chúa trả lời: “Romam vado iterum crossifigi! – Thầy đến Rôma chịu đóng đinh!” Nghe Thầy Giêsu nói vậy, GH Phêrô trở lại Rôma ngay lập tức.

Ước gì chúng ta có thể xác định như Thánh Phaolô: “Tại vì Lề Luật mà tôi đã chết đối với Lề Luật, để sống cho Thiên Chúa. Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Kitô vào thập giá. Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi.” (Ga 2:19-20a)

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con luôn duy trì sự sống trong ơn nghĩa với Ngài, được ngụp lặn trong Dòng Tình Thương Xót của Ngài. Vâng, lạy Ngài, xin giữ gìn con như thể con ngươi, và dưới bóng Ngài, xin thương che chở. (Tv 17:8) Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

TRẦM THIÊN THU