Các Bài Suy Niệm Lễ Giao Thừa và Tân Niên

print

Các Bài Suy Niệm Lễ Giao Thừa và Tân Niên

GIAO THỪA.

Hạnh phúc.

Lời Chúc Hạnh Phúc Đầu Xuân.

Chữ Phúc.

Nén Hương Trầm Trong Đạo Hiếu Việt Nam.

MỒNG MỘT TẾT.

Mời Chúa Xông Nhà Năm Mới

Lo Gì ?

Phó Thác Vào Tình Thương Quan Phòng Của Thiên Chúa.

Việc gì phài lo, có Chúa an bài – Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT.

Phấn đấu tạo mùa xuân – TGM. Ngô Quang Kiệt

Sự nhạy bén của trái tim.

Thời gian

Tin tưởng vào Chúa Quan Phòng

Niềm vui và nỗi buồn.

Đầu Năm Hái Lộc.

Xuân Xưa Và Nay.

Năm mới cầu gì?

Năm Mới, Người Mới

Chúa Là Mùa Xuân Vĩnh Cửu.

Trời Ban Heo Đất Trong Nhà.

 

GIAO THỪA

Hạnh phúc

Trong giờ phút giao thừa, nghĩa là trong lúc năm cũ sắp qua đi, nhường bước cho năm mới, chúng ta hướng về Đức Kitô, Đấng vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời, đồng thời trao phó cho Ngài vận mạng của chúng ta, của loài người và của cả vũ trụ. Chúng ta phó thác cho Ngài cuộc đời và những dự phóng của chúng ta: Tất cả những gì chúng ta đang thực hiện và muốn tiếp tục hoàn thành, tất cả những gì chúng ta muốn làm nhưng chưa muốn hay chưa dám kởi công, cũng như tất cả những gì mới chỉ là những mơ ước, những nguyện vọng. Chúng ta phó thác cho Ngài tất cả mọi người thân yêu, bè bạn.

Chúng ta xin Ngài bảo đảm cho những lời nguyện chúc của chúng ta được trở thành sự thật. Nhưng đồng thời, chúng ta cũng phải biết noi gương Chúa Giêsu, nghĩa là đừng chỉ chúc suông cho nhau hạnh phúc mà phải thực sự chia sẻ hay ít ra nếu chúng ta chưa có hạnh phúc để chia sẻ, thì cũng biết cùng nhau xây dựng hạnh phúc cho nhau.

Chúng ta đừng chỉ chúc hay hứa cho nhau hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng, tuy đó là hạnh phúc thật nhưng có lẽ vẫn còn xa. Chúa không chỉ hứa cho chúng ta hạnh phúc thật đời sau, nhưng đàng khác, Ngài cũng không muốn chúng ta phải khổ cực ở đời này, hay là muốn chúng ta mua sắm hạnh phúc tương lai bằng cách trả giá quá đắt là những đau khổ hôm nay.

Thiên Chúa là Cha của chúng ta ngay từ bây giờ, ngay hôm nay, chứ không là người Cha của tương lai mà thôi. Vì thế, Ngài muốn chúng ta ngay từ hôm nay phải được hạnh phúc. Chỉ có điều là hạnh phúc đó, hạnh phúc của hôm nay, hạnh phúc tại đời này cũng chỉ có thể xây dựng bằng mồ hôi nước mắt, bằng sự  nhọc nhằn, thậm chí bằng đau khổ. Thế nhưng, tình yêu sẽ làm vơi bớt đau thương và còn có thế biến đổi gánh nặng của chúng ta thành nhẹ nhàng êm ái.

Một cách cụ thể, chúc cho nhau được hạnh phúc trong ngày đầu xuân, không nên chỉ là phát biểu trên đầu môi chót lưỡi, mà là tự thâm tâm, tự đáy lòng, chúng ta cam kết đem lại hạnh phúc đó bằng cách quyết tâm sống đơn sơ, nghèo khó, hiền từ, biết xót thương, biết sẵn sàng chịu đau khổ vì Chúa, vì anh em đồng loại.

Chúng ta không thể cầu chúc cho nhau hạnh phúc, nếu cứ tiếp tục sống ích kỷ, để mạc anh em phải đói khổ. Chúng ta không thể cầu chúc cho nhau được hạnh phúc, nếu cứ tiếp tục sống tàn bạo, độc ác, hay sống bất chính, bất công với một tâm hồn khô cằn sỏi đá, chẳng biết xót thương. Chúng ta không thể chúc cho nhau được hạnh phúc, nếu không sẵn sàng chịu gian khổ để giúp đỡ, giải thoát họ khỏi tình trạng đói nghèo, khỏi cảnh bị bóc lột, hay không tìm cách gỡ họ ra khỏi cảnh chia rẽ và thù oán.

Đừng để những lời giả dối thốt ra từ môi miệng chúng ta trong những giờ phút đầu tiên của năm mới. Trái lại hãy đem trót cả tâm tình mà cầu chúc cho nhau biết đón nhận hạnh phúc mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể đem lại cho chúng ta.

Lời cầu chúc đầy ý nghĩa nhất đối với người Kitô hữu đó là cầu chúc cho nhau biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa, và đó chính là chiếc chìa khoá đem lại cho mỗi người hạnh phúc đích thực.

Lời Chúc Hạnh Phúc Đầu Xuân

TÁM MỐI PHÚC THẬT

  1. LỜI CHÚA:“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3)
  2. CÂU CHUYỆN:

 1) HẠNH PHÚC ĐÒI TA LUÔN PHẤN ĐẤU:

Vào một buổi sáng đẹp trời, chú cún con chạy đến bên mẹ và hỏi:

– Mẹ ơi, hạnh phúc ở đâu?

Mẹ cún con mỉm cười đáp:

– Hạnh phúc nằm ở chiếc đuôi xinh xắn của con đó!

Cún con thích lắm, ngày nào chú cũng ngắm nghía chiếc đuôi của mình, vừa nhảy vừa vẫy vẫy chiếc đuôi! Nhưng rồi bỗng một hôm, chú cún con buồn bã chạy đến bên mẹ:

– Mẹ ơi, tại sao con chẳng bao giờ nắm giữ được hạnh phúc vậy?

Mẹ khẽ vuốt ve cún con và đáp:

– Chỉ cần con tự tin bước về phía trước, hạnh phúc sẽ tự đi theo con thôi!!!

2) HẠNH PHÚC Ở TRONG LÒNG CHÚNG TA:

Ngày xưa, có một bầy yêu tinh tập hợp lại với nhau để lên kế hoạch làm hại con người. Một con yêu tinh lên tiếng: “Chúng ta nên giấu cái gì quý giá của con người. Nhưng mà cái đó là cái gì?”

Một con yêu tinh khác lên tiếng: “Chúng ta nên giấu hạnh phúc của con người. Không có nó, ngày đêm con người sẽ phải khổ sở. Nhưng vấn đề là chúng ta sẽ giấu hạnh phúc nơi nào mà con người không thể tìm thấy được.”

Một con yêu tinh cho ý kiến: “Chúng ta sẽ quẳng hạnh phúc lên đỉnh núi cao nhất thế giới.”

Con yêu tinh khác phản đối: “Con người rất khỏe mạnh, chuyện trèo lên đỉnh núi đối với họ không có gì khó khăn.”

“Vậy thì chúng ta sẽ đem hạnh phúc ném xuống đáy biển sâu.”

“Không được, con người rất tò mò. Họ sẽ chế tạo ra những con tàu hiện đại để đi xuống tận đáy biển. Rồi tất cả mọi người sẽ biết.”

Một con yêu tinh trẻ có ý kiến: “Hay là chúng ta đem giấu hạnh phúc ở một hành tinh khác.”

Con yêu tinh già phản đối: “Không được, con người rất thông minh. Càng ngày họ càng thám hiểm nhiều hành tinh khác đấy thôi.”

Suy nghĩ hồi lâu, có một con yêu tinh già lụ khụ lên tiếng: “Tôi biết phải giấu hạnh phúc ở đâu rồi. Hãy giấu nó ở chính bên trong con người. Đa số con người đi tìm hạnh phúc ở khắp chốn, khắp nơi và bao giờ họ cũng thấy người khác hạnh phúc hơn mình. Bản thân họ thì chẳng bao giờ quan tâm. Giấu nó ở đó thì con người không bao giờ tìm thấy!!!”

Tất cả các con yêu tinh đều đồng ý. Và kể từ đó, rất nhiều người mãi miết kiếm tìm hạnh phúc ở những nơi nào khác mà không biết rằng nó đang nằm ngay trong lòng mình.

3) NGƯỜI GIÀU CŨNG KHÓC:

PAUL GETTY là ông chủ một hãng dầu lớn nhất tại Anh Quốc. Khu đất ông ở rộng bốn mươi mẫu tây. Tài sản của ông trị giá hàng tỷ mỹ kim. Thế mà mỗi ngày ông đều phải thức dậy làm việc từ lúc ba giờ sáng. Chung quanh ông lúc nào cũng có tới mười người cảnh sát bảo vệ. Mỗi ngày, ông nhận được hàng trăm cú điện thoại và những lời đe dọa ám sát… Ông đã phải thốt lên rằng: “Tôi là người đau khổ nhất và chẳng bao giờ cảm nghiệm được thế nào là hạnh phúc !”.

  1. THẢO LUẬN: 1) Hạnh phúc thực sự là gì? 2) Làm thế nào để đạt được hạnh phúc thực sự trong cuộc sống hiện tại và mai sau?
  2. SUY NIỆM:

Năm cũ sắp qua nhường chỗ cho năm mới đang tới. Trong dịp này, chúng ta thường chúc cho nhau những điều tốt đẹp. Chẳng hạn: Chúc cho đông con nhiều cháu, phát tài phát lộc, khỏe mạnh sống lâu… Những lời cầu chúc thường qui về ba chữ: Phúc, Lộc, Thọ. Tóm lại là chúc nhau được hạnh phúc trong Năm Mới. Nhưng thế nào là hạnh phúc thực sự?

1) Hạnh phúc là gì?

Hạnh phúc là tình trạng thỏa mãn khi đạt được những điều mong ước mà người đời thường mong ước như Phúc, Lộc và Thọ. Tuy nhiên không nhất thiết cứ có đông con nhiều cháu, cứ sở hữu nhiều nhà cửa tiền bạc, chức cao quyền trọng hoặc được sống lâu trăm tuổi là đương nhiên có hạnh phúc… Vì lòng tham con người vô đáy như người đời thường nói: “Được voi đòi tiên”, “Đứng núi này trông núi nọ”…

Người ta cũng thường chúc nhau khỏe mạnh. Nhưng khỏe mạnh vẫn chưa phải là thứ hạnh phúc thực sự. Vì nếu sức khỏe là hạnh phúc, thì chắc hẳn những nhà lực sĩ sẽ là người hạnh phúc nhất. Thế nhưng, không phải vậy. Bởi vì có những người dù đau yếu, sức khỏe èo uột, thế mà nụ cười vẫn tươi nở trên môi, đang khi những nhà vô địch Ô-lim-pic sức khỏe vô địch lại thường âu lo có ngày sẽ bị soán ngôi vô địch như người ta thường nói: “Cao nhân tất hữu cao nhân trị”.

Rất nhiều người đã mong ước kiếm nhiều tiền để được sống an nhàn như người ta thường nói: “Có tiền mua tiên cũng được: Đồng tiền là Tiên là Phật; Là sức bật của tuổi trẻ; Là sức khỏe của tuổi già; Là cái đà của danh vọng; Là cái lọng để che thân; Là cán cân của công lý; Là triết lý của cuộc đời”… Nhưng thực ra “Người giàu cũng khóc!” Biết bao gia đình nông dân việt Nam đang sống vất vả trên mảnh đất ruộng nhưng gia đình hạnh phúc. Rồi đột nhiên có dự án làm đường đi qua khu đất nhà của họ, biến đất ruộng trở nên quý giá “Tấc đất tấc vàng”, tiền bạc rủng rỉnh. Nhưng từ khi bán đất lấy tiền lấy vàng, gia đình được ở nhà cao cửa rộng, có đủ xe máy xịn, tivi màu, máy lạnh máy giặt… nhưng gia đình con cái bỏ học ăn chơi sa đà vào nghiện hút xì-ke ma túy, vợ ngày ngày chơi đề, chồng thì nhậu nhẹt vợ nọ con kia… gia đình xào xáo dẫn đến chỗ ly hôn và bất hạnh.

2) Hạnh phúc thực sự do đâu ?

Hạnh phúc thật sự không nhất thiết do tiền bạc, chức quyền, sắc đẹp, sức khỏe… dù rằng những điều đó đều là ưu điểm có thể mang lại cho chúng ta niềm vui trong một lúc nào đó. Vậy hạnh phúc đích thật ở đâu?

Thực ra: Con người chúng ta không những gồm thân xác mà còn có linh hồn nữa. Cơm áo gạo tiền hay tiền bạc vật chất, địa vị chức quyền, sắc đẹp, tài năng, sức khỏe, sống lâu…  chỉ đáp ứng được những nhu cầu về thể xác bên ngoài và không bền lâu, nên đã không thực sự mang lại hạnh phúc. Điều quan trọng để có hạnh phúc là một tâm hồn bình an và nhiều niềm vui như Đức Ma-ri-a, sau khi được bà chị Ê-li-sa-bét khen là người có phúc, đã dâng lời ca tụng Thiên Chúa như sau: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa. Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1,46-47).

Dù thân xác chúng ta có gặp những tai nạn rủi ro và những điều trái ý, nhưng người có đức tin vẫn luôn phó thác vào Thiên Chúa và gặp được niềm vui hạnh phúc trong sự nhẫn nhịn chịu đựng tha nhân, quảng đại tha thứ cho những kẻ thù ghét bách hại mình, như Phó tế Tê-pha-nô khi bị kết án ném đá sắp chết, vẫn mở miệng cầu xin Chúa: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này” (Cv 7,60), hoặc như Đức Giê-su khi bị treo trên thập giá sắp chết cầu xin với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).

Như thế, hạnh phúc phải bắt nguồn từ Thiên Chúa là nguồn mạch mang lại hạnh phúc đích thực. Nơi nào có Chúa hiện diện thì nơi ấy sẽ có bình an hạnh phúc như Người đã hứa: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi. Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28-29).

3) Cho thì có phúc hơn là nhận (Cv 20,35):

Trong một buổi hội thảo về hạnh phúc gồm 50 người tham dự. Diễn giả khởi đầu bằng một hoạt động tập thể. Ông đưa cho mỗi người một quả bóng và yêu cầu họ viết tên của mình lên trái bóng bằng chiếc bút lông. Sau đó, số bóng được thu hết lại trong giỏ rồi được đưa sang một phòng khác.

Rồi 50 người này lại được tập trung sang phòng chứa bóng và được yêu cầu hãy tìm quả bóng có ghi tên mình trong thời hạn 5 phút. Mọi người đều lao vào giỏ xô đẩy nhau để tìm kiếm quả bóng tên mình và căn phòng trở nên hỗn loạn, khi hết 5 phút mà ít có người tìm được quả bóng tên mình.

Sau đó, vị diễn giả lại yêu cầu mỗi người tự nhặt lên một quả bóng bất kỳ rồi tìm chuyển cho người có tên ghi trên bóng. Chỉ trong vòng 5 phút, ai nấy đều đã có được quả bóng tên mình.

Lúc này, vị diễn giả mới dẫn vào đề tài về hạnh phúc: Trong cuộc sống, mỗi người đều hối hả đi tìm hạnh phúc của mình, nhưng thực ra lại không biết chúng nằm ở đâu.

Hạnh phúc của chúng ta nằm xen lẫn với hạnh phúc của người khác. Hãy tìm cách làm cho người xung quanh có được hạnh phúc của họ, rồi chúng ta cũng sẽ được người khác mang lại hạnh phúc cho ta. Cũng như câu chuyện trên cho thấy: khi náo loạn đi tìm bóng thì sẽ không tìm thấy. Còn khi mỗi người cầm bóng trao cho kẻ khác thì chính họ cũng sẽ được người khác trao quả bóng hạnh phúc cho mình. Hãy cứ cho đi rồi sẽ được nhận lại: “Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6,38).

 4) Phương thế để được hạnh phúc thực sự là sống Tám Mối Phúc:

Hạnh phúc không ở đâu xa, nó luôn ở bên cạnh mình hoặc ở trong lòng mình. Có điều chúng ta quên điều này nên cứ đi tìm hạnh phúc ở nơi đâu khác và cuối cùng đành chịu mất nó.

Để luôn có hạnh phúc nghĩa là có Chúa ở cùng, là luôn có tình yêu của Chúa trong lòng, thì chúng ta phải thực hành Tám Mối Phúc bằng cách quên mình vị tha, ứng xử công bình nhân ái, như lời Chúa dạy trong Tin Mừng hôm nay: Sống khiêm hạ nghèo khó, luôn ăn ở hiền lành, chấp nhận đi con đường hẹp: “qua đau khổ vào trong vinh quang”, luôn khát khao nên người công chính, biết chạnh thương những kẻ bất hạnh, có tâm hồn trong sạch, luôn ăn ở thuận hòa, sẵn sàng chịu bách hại vì sống công chính, chấp nhận bị sỉ nhục vì danh Chúa…

Niềm hạnh phúc luôn có Chúa ở cùng, cũng chính là hạnh phúc mà chúng ta cần phải cầu chúc cho nhau trong giờ phút đón Giao Thừa và trong Năm Mới này. Dù chúng ta ít nhiều vẫn còn chịu đau khổ và gặp những điều trái ý, nhưng nếu thực sự có Chúa ở cùng, chắc chắn chúng ta vẫn cảm thấy vui mừng và hy vọng, bình an và hạnh phúc như thánh Phao-lô đã chia sẻ: “Tâm hồn tôi chứa chan niềm an ủi và tràn ngập nỗi vui mừng trong mọi cơn gian nan khốn khó” (2 Cr 7,4b).

  1. LỜI CẦU:

Lạy Chúa Giê-su. Xin cho chúng con quyết tâm thực thi tinh thần Tám Mối Phúc của Chúa trong Tin Mừng hôm nay, thể hiện qua cách suy nghĩ, nói năng và cách ứng xử khiêm tốn, vị tha, luôn nhẫn nhịn chịu đựng, từ bi nhân hậu, sẵn sàng tha thứ cho tha nhân noi gương Chúa khi xưa, để tâm hồn chúng con luôn được bình an, lạc quan vui vẻ từ giờ phút đón Giao Thừa này, như dấu chỉ chúng con sẽ được an bình hạnh phúc trong suốt năm nay và hạnh phúc ấy sẽ kéo dài mãi ở đời sau.- AMEN.

LM ĐAN VINH-HHTM

 

Chữ Phúc

Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng

Có một lần tôi xem người ta lấy cốt một ngôi mộ cỗ không có thân nhân nhận lãnh trên phần đất người ta sắp xây dựng một ngôi nhà lớn. Ngôi mộ được xây cất kiên cố và trang trí theo kiểu Tàu. Chắc là của một gia đình giàu có. Người nằm trong mộ, theo bia đá ghi, là một phụ nữ tuổi đời chỉ mới bốn mươi. Người ta tin rằng người giàu có, vì là ngôi mộ cỗ, nên theo tục lệ xưa, người ta thường liệm theo người chết rất nhiều món đồ quý giá để họ có thể dùng ở thế giới bên kia, thế nên, người bốc mộ lục soát rất kỹ trong chiếc quan tài. Ông ấy không tìm thấy gì cả. Ông đưa tay móc vào miệng người chết, có vẻ ông rất hiểu biết, hay đã kinh nghiệm về điều này: người ta có thể bỏ vào miệng người chết những món đồ trang sức bằng vàng hay châu ngọc, đá quý. Và ông moi ra được một gói nhỏ được bọc kỹ trong nhiều lớp bọc nhựa. Ông cẩn thận mở ra. Không có gì cả, ngoài một mãnh giấy chưa mục và nét chữ chưa nhòa, nên rất dễ nhận ra nội dung dòng chữ ghi trên giấy: “nỗi buồn này mang xuống tuyền đài”.

 

Mùa Xuân về, người ta gởi đến nhau rất nhiều câu chúc. Nhưng có một câu không thể thiếu, đó là PHÚC-LỘC-THỌ.

 

Đối với nhiều người, đặc biệt là người Công Giáo, “Phúc” không phải chỉ là sự giàu có vật chất, nhiều ruộng đất, nhiều tài sản… mà trước hết, “Phúc” là “Sống theo Tin Mừng”, tìm được bình an trong Tình Yêu Thiên Chúa.

“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó”. Từ khởi điểm “Tâm hồn nghèo khó”, con người sẽ trở nên hiền lành, không tranh dành cấu xé lẫn nhau. Con người nhận ra sự đau khổ trong giới hạn thân phận làm người của mình và đồng loại nên biết chia sẻ và tương trợ nhau. Họ không ngừng dắt dìu nhau để vươn lên cuộc sống công chính.

Những bước đi như vậy, giúp con người biết quan tâm đến tha nhân, biết xót thương người.

Một con người có tâm hồn hiền lành biết chấp nhận đau khổ, không ngừng tự thanh luyện mình vì khát khao trở nên công chính, biết mở rộng con tim để phân phát tình thương, con người ấy sẽ có tâm hồn trong sạch. Vì tình yêu chân chính luôn đem lại cho con người tâm hồn trong sạch.

Một con người có tâm hồn trong sạch chắc chắn phải khát khao có một thế giới trong sạch, một thế giới tươi sáng ngập tràn điều thiện hảo, bình an và không có nơi dành cho thù hận. Và như thế, họ sẽ đem hết tâm lực ra để xây dựng hòa bình.

“Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”.

Chúa Kitô là mẫu mực của con người có tâm hồn nghèo khó. Từ khi nằm trong chiếc nôi là máng cỏ, rồi trọn một đời xuôi ngược “con cáo có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ tựa đầu”, đến cái chết trần trụi trên Thập Giá. Tâm hồn nghèo khó ấy là Chúa của Hòa Bình.

“Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính”.

Chúa Ki-tô là nguồn mạch sự công chính. Ngài đã chết vì sự công chính.

“Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga.18,37)

Đó là Tiếng Nói của Tình Thương. Tình thương đến từ những tâm hồn nghèo khó, những tâm hồn không gợn đục những tham vọng tom góp vật chất tiền tài danh vọng cho riêng mình. Dục vọng cuồng điên thế tục không thể ban cho nội tâm con người sự bình an thật sự, và như thế, không thể đạt được cái Phúc trong sâu thẳm tâm hồn mình được.

Nếu lòng không đạt được cái Phúc, thì cái Lộc, cái Thọ cũng chẵng có ý nghĩa gì. Giàu có và sống lâu mà đầy lo lắng và sầu muộn, tâm không tịnh, lòng không an, sao gọi là Phúc được!

“Nỗi buồn này mang xuống tuyền đài”, đó là một thứ địa ngục ở ngay trong ta, ở trong tâm hồn ta. Địa ngục ở ngay trong tâm ta rồi thì làm gì ta có Phúc được!

“Vì Nước Trời là của họ”

Con người không có Tình Thương thì không thể vui được.

Không vui thì làm sao có được mùa xuân? Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?

Không có mùa xuân thì làm sao có hạnh phúc.

Hoa là biểu tượng của nụ cười. Nụ cười là biểu tượng của niềm vui. Niềm vui là biểu tượng của mùa xuân. Mùa xuân là biểu tượng của hạnh phúc.

Chúa là nguồn vui của đời ta.

Chúa là hạnh phúc của đời ta.

Chúa là mùa xuân của đời ta.

Chữ Phúc chỉ thật sự có ý nghĩa tròn đầy trong Tình Yêu Của Chúa.

            Tạ ơn Chúa, vì Chúa cho con niềm hạnh phúc lớn lao nhất, đó là hạnh phúc được làm con Chúa, và đó là tất cả ý nghĩa của cuộc sống, ý nghĩa của đời người.

Nén Hương Trầm Trong Đạo Hiếu Việt Nam

Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Ngày Tết, cùng với đất trời giao hòa, con người dường như cũng gần gũi nhau hơn. Trong cái không khí ấm áp với gió xuân nhè nhẹ của ngày Tết, ta lại nhớ về mái nhà xưa, về quê hương, nơi đó có những người thân yêu, ruột thịt. Bên mâm cơm gia đình, gợi nhớ những người ở xa, ngậm ngùi nghĩ về những người thân đã khuất. Người Việt có thói quen đốt lên một nén hương gợi nhớ về biết bao kỷ niệm thân thương như câu thơ xưa đã viết:

“Đêm qua đốt đỉnh hương trầm

Khói lên nghi ngút âm thầm nhớ quê”

‘Nhớ quê’, quê nào đây? Có phải khu vườn quanh nhà có cây ổi, cây xoài hay cụm chuối sau nhà? Có phải cánh đồng lúa cho ta mùi thơm bông lúa mới? Có phải mái nhà tranh đơn sơmà nay chỉ còn là một hoài niệm? Nếu chỉ thế thì đâu phải đợi vào đêm, trong phút giờ tĩnhmịch, ta mới chạnh lòng vương vấn tâm tư? Có phải ông bà tổ tiên đã mất? Có phải là cha mẹ, anh em hiện nay không còn hoặc đang xa cách? Có thể là như thế, nhưng nếu chỉ là thế thôi thì cũng chẳng phải đợi vào đêm, phải đốt hương trầm lên mới nhớ đến quê nhà.

Hình như nỗi nhớ này nó còn vượt lên trên những tình cảm ruột thịt ấy, vì khi đốt lên nén hương, hoà trong làn khói hương nghi ngút, trong mùi trầm ngào ngạt, lòng ta như muốn bay về cội nguồn, mong tìm về quê hương thời tuổi thơ, nơi chứa đựng vùng trời kỷ niệm thân thương, mà khi đi xa ta cũng chạnh lòng vấn vương: “Chiều chiều ra đứng ngõ sau. Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều” .

Như thế, nhớ quê ở đây là nhớ về cội nguồn, nhớ về nguồn gốc tổ tiên: “vì chim có tổ, nước có nguồn, con người có cha mẹ sinh ra”. Đây là nỗi nhớ trong tiềm thức nay trỗi dậy trong ta nhớ như in về tình yêu của cha, của mẹ, của anh chị em trong nhà.

Người Việt Nam với đạo hiếu làm đầu nên con cháu dù giầu hay nghèo vẫn không bao giờ quên ơn tổ tiên. Đây là lý do trong gia đình người Việt luôn có bàn thờ tổ tiên với khói hương trầm nghi ngút toả lan như hương hồn ông bà vẫn bao bọc con cháu. Sự thờ kính tổ tiên, có khi được thu gọn rất nhỏ, mà gia đình nghèo đến cỡ nào cũng có thể có. Một chiếc chén ăn cơm còn nguyên lành, chứa trong đó lưng bát gạo, và có thể trở thành bát hương, để rồi trầm tư cắm trên đó vài nén nhang tỏ lòng thành kính.

Hành vi này cao đẹp biết bao, nó diễn tả bao điều suy tư trầm mặc trong cuộc sống: Chẳng phải vì nghèo mà oán trách tổ tiên, chẳng vì nghèo mà quên tiên tổ. Nhớ về tổ tiên là nét đẹp văn hoá Việt Nam. Nó đẹp bởi vì tấm lòng của con cháu hiếu nghĩa với tiên tổ, nó đẹp bởi vì dẫu cho nghèo vẫn giữ được sạch, dẫu cơ hàn vẫn giữ lòng thờ kính mẹ cha.

Mỗi khi thắp nén hương, lòng trí ta vẫn vang lên một lời khuyên, vẫn gợi nhớ biết bao điều ngày xưa ông, bà, cha, mẹ dạy bảo, nhớ bao ngày ấu thơ được nghe chuyện cổ tích bắt đầu bằng câu: “ngày xưa có mẹ”, “ngày xưa có ba”.

Như vậy, văn hoá bát hương- nén nhang còn là cách để con cháu nhắc nhở nhau nhớ giữ lấy lề thói tổ tiên và dòng tộc. Đồng thời, nhắc nhở nhau tiếp nối truyền thống đạo hiếu thờ kính tổ tiên của cha ông bao đời để lại.

Chiếc bát hương của một thời đang được thay thế bằng những chiếc lư đồng, bằng những bình lắc xông hương trong nghi thức phụng tự, nhưng dù sao vẫn không thể xoá nhoà chiếc bát hương của lòng thành kính thưở nào.

Giáo Hội Công Giáo sau Công Đồng Vat II đã  mở ra con đường hội nhập văn hoá địa phương, từ đó Giáo Hội đã thích nghi những nền văn hoá cốt lõi của Người Việt là “đạo thờ cúng tổ tiên” và hoàn chỉnh việc thờ kính tổ tiên theo tinh thần ky-tô giáo.

Giáo hội khuyến khích làm bàn thờ gia tiên trong gia đình. Đây là một cách làm cho người Kitô hữu không quên cội nguồn và sống phúc âm giữa lòng dân tộc. Trên bình diện quốc gia thì Giáo Hội cũng khuyến khích bày tỏ lòng biết ơn đối với tiền nhân. Chúng ta vẫn có thói quen dành ngày Mồng Hai Tết để tưởng nhớ và cầu nguyện cho tổ tiên của dòng tộc mình, có lẽ phải vượt xa hơn nữa là hướng về tổ tiên của dân tộc Việt Nam. Các ngài là những người mở bờ cõi đất nước và gìn giữ, bảo vệ để chúng ta có được nét đẹp quê hương hôm nay.

Những năm gần đây, chúng ta thấy nhiều giáo xứ cũng lập bàn thờ tổ tiên của dân tộc trong các nhà thờ. Bàn thờ tổ tiên hình chữ S với mâm ngũ quả để nhắc nhở nhau “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” và nguyện cầu tổ tiên phù hộ cho con cháu bình an.

Khởi đầu năm mới, chúng ta hướng về Thiên Chúa là cội nguồn sự sống, là Đấng ban phát mọi ơn lành để thờ lạy, tôn vinh và chúc tụng vì những ơn lành Ngài đã ban xuống trên cuộc đời ta. Giáo Hội cũng mời gọi chúng ta tưởng nhớ đến các bậc tổ tiên, những người đã xây dựng giang sơn, mở rộng bờ cõi quê hương, cũng như những người có công đức sinh thành dưỡng dục chúng ta.

Vì thế, trong bầu khí mừng xuân Giáp Thìn và nhớ về cội nguồn.  Chúng ta cùng thắp nén hương trầm để cầu nguyện cho tổ tiên và xin các ngài mãi luôn phù hộ cho con cháu hôm nay, cho quê hương Việt Nam luôn thanh bình, cho con người luôn gần nhau hơn trong tình nghĩa anh em một nhà, một dân tội, một cội nguồn từ chính Thiên Chúa tác sinh muôn loài.

MỒNG MỘT TẾT

Mời Chúa Xông Nhà Năm Mới

Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Người Việt Nam có tục lệ Xông nhà ngày Tết. Người được chọn xông nhà phải là người mà chủ nhân hy vọng sẽ mang lại may mắn, thuận lợi trong công việc và bình yên cho gia đình trong năm mới. Ngày tôi còn là một thầy giáo nhà quê hàng năm vẫn được mời đi xông nhà. Cứ tới 30 Tết là chủ nhà lại bảo : sáng mai lễ Mồng Một chú đi qua nhà  gọi anh đi lễ kẻo ngủ quên. Thực ra anh ấy muốn tôi xông nhà. Và bây giờ là linh mục, tôi  vẫn được mời đi khaitrương cửa hàng , khai trương công ty với hình thức rảy nước thánh xin ơn thánh hoá người, dụng cụ, công việc để xin Chúa chúc lành cho công việc của họ được bình an thuận lợi..

Nhiều người nghèo lại hay trách phận mình nghèo nên đâu dám mời người xông đất, xông nhà ngày Tết. Thực ra, tự mình xông đất cho mình cũng được đâu cần kiếm người hợp tuổi, như câu thơ viết rằng:

“Tự mình xông đất cho mình

Tự tay đốt pháo, tự mình đón xuân”

Người Việt có thói quen lúc giao thừa cả nhà gọi nhau bước ra đường ngắm pháo giao thừa, và khi bước vào nhà sẽ nhường cho người người lớn nhất xông nhà rồi mới đến mọi thành viên khác. Người chủ nhà sẽ chúc phúc và lì xì may mắn cho mọi người khiến ai cũng vui, cũng hạnh phúc.

Giáo Hội đang sống tinh thần hiệp hành. Sự hiệp hành của Giáo Hội chỉ nên một nhờ  Lời Chúa và Thánh Thể. “Lời” chính là Ngôi Hai Thiên Chúa, vì Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và ở giữa chúng ta. Ngài ở giữa chúng ta qua Lời và Bí Tích Thánh Thể . Do đó, khi dự lễ đầu năm về, thay vì đóng cửa chờ người xông nhà thì hãy mở rộng cửa để đón lộc Chúa vào nhà. Cả gia đình hãy quây quần trước bàn thờ và cùng nhau trân trọng công bố lời Chúa và đọc kinh Lạy Cha xin ơn Chúa chúc lành cho gia đình năm mới no đủ và bình an.

Đây là dịp chúng ta trao gởi niềm ước mơ của mình cho Đấng Tạo hoá – Đấng Càn Khôn. Ngài là Đấng làm cho đất trời thay đổi theo bốn mùa: Xuân – Hạ – Thu – Đông. Và chỉ có Ngài mới làm cho ước mơ ngày xuân trở thành hiện thực. Vì “mưu sự tại nhân – thành sự tại thiên”. Sự toan tính là của con người, nhưng có thành hiện thực hay không lại tùy thuộc vào ơn ban của Trời. Niềm tin này không phải là niềm tin mông lung, nhưng dựa trên chính lời hứa của Chúa Giêsu: “Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng coi chúng mọc lên thế nào? Chúng không làm lụng, không canh cửi. Nhưng Thầy nói với các con rằng: Ngay cả Salomon trong tất cả vinh quang của ông, cũng không phục sức được bằng một trong những đóa hoa đó. Vậy nếu hoa cỏ đồng nội, nay còn, mai bị ném vào lò lửa, mà còn được Thiên Chúa mặc cho như thế, huống chi là các con, hỡi những kẻ kém lòng tin? Vậy các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng: “Chúng ta sẽ ăn gì, uống gì, hoặc sẽ lấy gì mà mặc? Vì tất cả những điều nầy các dân ngoại vẫn tìm kiếm, và Cha các con ở trên trời đã biết mọi nhu cầu của các con”.(Mt 6: 28-32)

Thật tuyệt vời làm sao! Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên bạn, nên tôi và vạn vật, đã sẵn lòng yêu thương lo lắng, chu cấp . Giống như những bông hoa huệ ngoài đồng, tất cả chúng ta chỉ cần sống đúng như mục đích mà Chúa đã tạo dựng và tận hưởng sự sống phong phú từ Chúa.

Tạ ơn về một năm Chúa luôn tuôn đổ hồng ân xuống trên cuộc đời chúng ta. Xin Chúa lì xì cho chúng ta một năm mới bình an. Ước gì mỗi người luôn biết trân quý sự sống Chúa ban, luôn an vui trong sự quan phòng của Chúa, nhất là biết  sống đúng theo mục đích Ngài tạo dựng, để dâng sự vinh hiển lên Thiên Chúa Cha. Xin cho danh Chúa Cha luôn cả sáng trong Chúa Giê-su, Ngôi Con, Đấng Cứu Chuộc trần gian. A-men.

Lo Gì ?

Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng

Có một người đi biển, gặp cơn bão lớn, chìm tàu, anh may mắn sống còn và trôi dạt vào một hoang đảo. Muốn tồn tại, anh phải tự lo tất cả từ hai bàn tay trắng. Một cái nhà nhỏ trú mưa trú nắng, hàng rào chống thú dữ, tự làm quần áo che thân, tìm kiếm thức ăn. Khó nhất là lửa. Khó khăn lắm anh mới dùng đá đập vào nhau để có được lửa. Anh nuôi lửa cẩn thận, không để lửa tắt.

Một đêm nọ, khi anh đi tìm săn tìm thức ăn về, thì anh thấy ngôi nhà của mình đã cháy rụi! Một cơn gió lốc làm ngọn lửa bùng lên và cháy rụi căn nhà anh. Bao nhiêu công khó gầy dựng cái “gia sản” tối thiểu để được sống còn bây giờ ra tro bụi! Anh ngửa mặt lên trời than trách sao Chúa lại có thể đối xử với anh tệ bạc đến thế!

Mệt mỏi và chán nản, anh ngủ thiếp đi trong đêm thảm họa ấy!

 Bừng con mắt dậy, trong ánh nắng bình minh rực rỡ của ngày mới trên hoang đảo, anh chợt thấy một vết chấm to xa xa trên bờ biển. Nhìn kỹ, anh nhận ra đó là một con tàu.

“Chúng tôi đã thấy ngọn lửa làm hiệu của anh. Chúng tôi đến cứu giúp anh đây!”. Những người trên tàu đã tìm gặp anh và nói với anh như thế.

Anh chắp tay ngửa mặt lên trời, nghẹn ngào nói: “Tạ ơn Chúa! Xin tha thứ cho con!”

TẬN NHÂN LỰC…

Người xưa có câu “tận nhân lực tri thiên mệnh” (làm hết sức mình, biết mệnh trời). Chúa không bảo chúng ta “đừng lo lắng gì”, rồi cứ “nằm há miệng chờ sung”, chờ đợi những món quà “từ trên trời rơi xuống”.

Như anh chàng bị nạn ở hoang đảo. Muốn sống còn anh ta phải phấn đấu. Anh ta phải làm tất cả những gì anh ta có thể làm được để tồn tại và để cuộc sống tốt hơn. Anh ta phải chọn lựa, hoặc là làm việc, hoặc là chết!

Lo liệu khác với lo lắng. “Không lo lắng” không có nghĩa là “không cần lo liệu”. Người biết lo liệu là người khôn ngoan. Tùy sự tính toán lo liệu mà người ta có thể thấy mức độ khôn ngoan của một người.

“Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cái tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: ‘Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc’. Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng? Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hòa”. (Lc.14,28).

Biết lo liệu không chỉ để làm tốt công việc thường nhật, mà còn thăng tiến trong Đức Tin, trong đàng Nhân Đức. Đó không chỉ là nỗ lực bình thường của con người mà còn là ơn Chúa Thánh Thần.

“Lạy Thiên Chúa toàn năng, là Cha Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con. Chúa đã tái sinh tôi tớ Chúa đây bởi nước và Thánh Thần khi giải thoát tôi tớ Chúa khỏi tội lỗi, thì lạy Chúa, xin ban Chúa Thánh Thần, Đấng an ủi đến trong người này. Xin ban cho người này thần trí khôn ngoan và thông hiểu; thần trí lo liệu và sức mạnh; thần trí suy biết và đạo đức; xin ban cho người này đầy ơn kính sợ Chúa. Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con” (Lời nguyện bí tích Thêm Sức)

Khi lo liệu, tất nhiên là phải làm việc. Làm việc không phải chỉ để sinh sống mà còn là bổn phận đối với xã hội, đối với Thiên Chúa. Con người có nhiệm làm việc như một người quản lý của Thiên Chúa. Như một người “làm và giữ vườn” của Thiên Chúa. Con người phải làm việc để khu vườn ấy luôn luôn xinh đẹp và sinh sản nhiều hoa trái.

Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ. Thiên Chúa ban phúc lành cho họ: “hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất. hãy làm chủ cá biển, chim trời và mọi giống vật bò trên mặt đất. Thiên Chúa phán: “Đây ta ban cho ngươi mọi thứ cỏ mang hạt giống trên khắp mặt đất, và mọi thứ cây có trái mang hạt giống, để làm lương thực cho các ngươi” (St.1,28-29)

Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Ê-den, để cày cấy và canh giữ đất đai. (St.2,15).

TRI THIÊN MỆNH

Người xưa có câu: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”. Người tính không bằng Trời tính (Man proposes, God disposes).

Anh chàng bị nạn ở hoang đảo thật bất ngờ, đêm đại họa lại là đêm mở đầu hạnh phúc. Anh nghĩ rằng ngày hôm sau sẽ bắt đầu lại một thời đen tối, anh chẳng thể tin rằng ngày hôm sau ngập đầy ánh mình minh. Anh tìm lại được cuộc sống mới! Anh trách Chúa vì cái nhà anh cháy, rồi anh tạ ơn Chúa vì cái nhà anh cháy!

Ranh giới của sự bình an và lo lắng chính là sự thử thách của Đức Tin. 

Con người làm việc, và làm việc trong ý định Thiên Chúa, trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Con người không được và không thể vượt ra ngoài thánh ý Thiên Chúa. Sự kiêu căng cùng với ý riêng của con người đã gây nên những thảm họa cho chính con người ngay từ thuở khởi nguyên và cả thời đương đại.

Con người phải vâng lời Thiên Chúa. Chỉ trong sự vâng lời, con người mới phát triển đầy đủ và đạt được ý nghĩa của định mệnh mình, và do đó mới có thể cộng tác với kế hoạch của Thiên Chúa.

Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ và con người là để cho con người hạnh phúc. Khi con người tin tưởng tuyệt đối vào Tình Yêu Thiên Chúa dành cho con người thì con người sẽ chẳng có gì phải lo lắng.

Khi con người là những đứa con ngoan ngoãn đối với Thiên Chúa là người Cha giàu lòng thương xót, thì vòng tay người Cha luôn ôm chặt con mình để chở che và bảo vệ, con người mãi mãi bình an.

Đó chính là mùa xuân trong lòng con người.

Mùa xuân không lo lắng ưu phiền, bình yên bên Thiên Chúa là Cha và anh em một nhà trong đại gia đình nhân loại. Đó mới là Xuân Hạnh Phúc

Phó Thác Vào Tình Thương Quan Phòng Của Thiên Chúa

LM ĐAN VINH- HHTM

  1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Vậy anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6,34).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) HỌA PHÚC KHÓ LƯỜNG:

Có một người đi biển, gặp cơn bão lớn, chìm tàu, anh may mắn sống còn và trôi dạt vào một hoang đảo. Muốn tồn tại, anh phải tự lo tất cả từ hai bàn tay trắng. Một cái nhà nhỏ trú mưa trú nắng, hàng rào chống thú dữ, tự làm quần áo che thân, tìm kiếm thức ăn. Khó nhất là lửa. Khó khăn lắm anh mới dùng đá đập vào nhau để có được lửa. Anh nuôi lửa cẩn thận, không để lửa tắt. Một đêm nọ, khi anh đi tìm săn tìm thức ăn về, thì anh thấy ngôi nhà của mình đã cháy rụi! Một cơn gió lốc làm ngọn lửa bùng lên và cháy rụi căn nhà anh. Bao nhiêu công khó gầy dựng cái “gia sản” tối thiểu để được sống còn bây giờ ra tro bụi! Anh ngửa mặt lên trời than trách sao Chúa lại có thể đối xử với anh tệ bạc đến thế!

Mệt mỏi và chán nản, anh ngủ thiếp đi trong đêm thảm họa ấy!

Bừng con mắt dậy, trong ánh nắng bình minh rực rỡ của ngày mới trên hoang đảo, anh chợt thấy một vết chấm to xa xa trên bờ biển. Nhìn kỹ, anh nhận ra đó là một con tàu.

“Chúng tôi đã thấy ngọn lửa làm hiệu của anh. Chúng tôi đến cứu giúp anh đây!”. Những người trên tàu đã tìm gặp anh và nói với anh như thế.

Anh chắp tay ngửa mặt lên trời, nghẹn ngào nói: “Tạ ơn Chúa! Xin tha thứ cho con!”

2) TÁI ÔNG THẤT MÃ, AN TRI HỌA PHÚC

Sách Hoài Nam Tử có ghi lại một câu chuyện dạy đời như sau:

Một ông lão ở gần biên giới giáp với nước Hồ phía Bắc nước Tàu, gần bên Trường thành có nuôi một con ngựa. Một hôm con của ông lão dẫn ngựa ra gần biên giới cho nó ăn cỏ, vì lơ đễnh nên con ngựa vọt chạy qua bên nước Hồ mất dạng. Những người trong xóm nghe tin đến chia buồn với ông lão. Ông lão bình tỉnh nói: “Các ông bà đừng lo cho tôi. Biết đâu con ngựa chạy mất kia sau này sẽ đem lại những điều tốt cho tôi”. Vài tháng sau, con ngựa chạy mất tự nhiên quay về nhà, dẫn theo một con ngựa của nước Hồ, cao lớn và mạnh mẽ. Người trong xóm hay tin liền đến chúc mừng ông lão và nhắc lại lời ông đã nói trước đó. Ông lão không tỏ vẻ vui mừng mà nói: “Ông bà đừng vội chia vui với tôi. Biết đâu việc được ngựa Hồ nầy về sau sẽ dẫn đến tai họa cho tôi”.

Quả nhiên con trai của ông lão rất thích cưỡi ngựa, thấy con ngựa Hồ cao lớn mạnh mẽ thì thích lắm, liền nhảy lên lưng cỡi nó chạy đi. Con ngựa Hồ chưa thuần nết, chưa quen người nên nhảy loạn lên, khiến đứa con trai ông lão bị ngựa Hồ hất xuống đất, bị gãy một xương đùi thành ra bị què chân mang cảnh tật nguyền. Người trong xóm vội đến chia buồn với ông lão vì không ngờ con ngựa không tốn tiền mua nầy lại gây ra tai họa cho con trai của ông như thế. Ông lão thản nhiên nói: “Xin các vị cũng đừng lo cho tôi, con tôi bị ngã gãy chân, tuy bất hạnh đó, nhưng biết đâu nhờ cái họa nầy mà về sau sẽ biến thành phúc đó”.

Một năm sau, nước Hồ kéo quân sang xâm lấn Trung nguyên. Các trai tráng trong vùng biên giới đều phải sung vào quân ngũ để ngăn chặn giặc Hồ. Quân Hồ thiện chiến, đánh tan đạo quân mới nhập ngũ và nhiều trai tráng đều bị tử trận, riêng con trai ông lão vì bị què chân được miền đi lính, nên còn sống sót.

  1. THẢO LUẬN: 1) Qua câu chuyện “Tái ông thất mã, an tri họa phúc” nghĩa là: Lão ông mất ngựa, họa hay là phúc?, bạn suy nghĩ thế nào về các điều phúc họa trong cuộc sống của bạn? 2) Tin Mừng trong thánh lễ Mùng Một Tết hôm nay dạy thế nào về sự quan phòng của Thiên Chúa trước những điều may rủi gặp phải giữa đời thường?
  2. SUY NIỆM:

1) Nội dung Tin Mừng ngày đầu Năm Mới:

Tin Mừng thánh lễ ngày đầu Năm Mới hôm nay, Đức Giê-su đã dạy môn đệ đừng quá lo lắng về đời sống cho bản thân nhưng phải tin cậy vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa qua ba ví dụ cụ thể như sau:

Một là loài chim trời không gieo không gặt nhưng Cha trên trời vẫn nuôi sống chúng.

Về việc sống lâu thì dù lo lắng cũng không thể kéo dài đời mình thêm một vài gang tấc!

Về cơm ăn áo mặc: Như loài hoa huệ ngoài đồng không kéo sợi may mặc, thế mà Cha trên trời vẫn cho chúng mặc áo đẹp hơn long bào của vua Sa-lo-mon vinh hoa tột bậc.

Từ đó Đức Giê-su dạy các môn đệ phải biết phó thác cậy trông vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa: Nếu loài chim trời chẳng đáng giá là bao, và loài hoa đồng nội chỉ sớm nở tối tàn mà Cha trên trời còn chăm sóc cho như thế, phương chi con cái loài người chúng ta còn đáng giá hơn muôn phần lại không được Thiên Chúa quan phòng gìn giữ sao? Và Đức Giê-su kết luận: “Vậy đừng quá lo lắng về ngày mai. Ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó”.

2) Phân biệt lo liệu với lo lắng:

“Đừng quá lo lắng” không có nghĩa là “không cần lo liệu”. Người biết lo liệu là người khôn ngoan. Tùy sự tính toán lo liệu mà người ta có thể thấy mức độ khôn ngoan của một người. Chúa phán: “Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cái tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: ‘Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc’. Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng? Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hòa”. (Lc.14,28).

Biết lo liệu không chỉ để làm tốt công việc thường nhật, mà còn thăng tiến trong Đức Tin, trong đàng Nhân Đức. Đó không chỉ là nỗ lực bình thường của con người mà còn là ơn Chúa Thánh Thần. như lời cầu xin ơn Thánh Thần trong lễ ban phwps Thêm Sức:

“Lạy Chúa, xin ban Chúa Thánh Thần, Đấng an ủi đến trong những người này. Xin ban cho nhứng người này thần trí khôn ngoan và thông hiểu; thần trí lo liệu và sức mạnh; thần trí suy biết và đạo đức; xin ban cho người này đầy ơn kính sợ Chúa. Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con”

3) Phải tránh thói ỷ lại lười biếng và vô trách nhiệm:

Chim trời tuy không phải vất vả gieo gặt như loài người, nhưng chúng cũng phải bay đi đó đây để tìm mồi. Hoa huệ ngoài đồng tuy không phải dệt may nhưng cũng phải đâm rễ tìm chất bổ dưỡng. Đàng khác chính Đức Giê-su đã nói: “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6,34).

Không những Đức Giê-su không muốn chúng ta rơi vào thói hư lười biếng vô trách nhiệm, mà còn muốn ta phải chịu khó làm việc để góp phần làm cho môi trường mình đang sống ngày một an toàn sạch đẹp hơn, cho thế giới này ngày một hoàn thiện hơn. Ngay từ khi dựng nên loài người, Thiên Chúa đã ra lệnh cho họ phải canh tác trái đất và làm chủ vạn vật. Trong dụ ngôn về những nén bạc (x. Mt 25,15-25), Đức Giê-su đã đòi mỗi đầy tớ phải làm lợi cho chủ gấp đôi các nén bạc được trao, chứ không được mang đi chôn giấu. Như vậy, chúng ta có bổn phận phải lo lắng, tiên liệu cho tương lai. Điều Chúa không chấp nhận là quá lo lắng về vật chất, coi nó là cùng đích đời mình.

4) Tiên vàn phải lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa:

Người môn đệ Đức Giê-su phải coi trọng Nước Thiên Chúa. Những điều khác cũng cần phải quan tâm, nhưng không được coi chúng hơn Nước Thiên Chúa. Người ta thường coi tiền bạc vật chất là số một và có khả năng giải quyết được mọi vấn đề của con người. Nhưng thực tế chứng minh suy nghĩ ấy thật sai lầm. Thực ra tiền bạc của cải là phương tiện cần để giúp con người có đời sống tốt hơn như người ta thường nói: “Phú quý sinh lễ nghĩa, bần cùng sinh đạo tặc”. Nhưng của cải tự nó không mang lại hạnh phúc. Nó chỉ tốt khi chúng ta biết dùng nó như phương tiện, như đầy tớ của chúng ta. Nhưng tên đầy tớ tiền bạc này lại rất có uy, rất dễ tự coi mình là ông chủ lúc nào không hay. Khi nó đã nắm quyền làm chủ, nó sẽ bắt chúng ta là đầy tớ phải phụng sự nó với bất cứ giá nào.

Ưu tiên tìm nước Thiên Chúa là phải chịu khó làm việc với hết khả năng, tìm kiếm đối sách và nhìn xa trông rộng để giải quyết các vấn đề mới phát sinh theo khả năng của mình. Cần tránh thái độ ỷ lại vào tình thương và quyền năng của Thiên Chúa. Khi gặp sự khó, chúng ta tránh thụ động, nhưng phải biết chủ động xin ơn Thánh thần soi sáng để tìm ra cách giải quyết theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giê-su trong Tin Mừng. Cần thực hành lời người xưa dạy: “Hãy làm hết sức mình, rồi trời sẽ giúp”, hoặc : “Hãy thắp sáng lên ngọn đèn, chứ đừng ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối”.

  1. LỜI CẦU:

Lạy Chúa Giê-su. Hôm nay Chúa đã dạy chúng con phải biết ưu tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính, còn những thứ khác như ăn gì mặc gì, thì phó thác vào tình thương quan phòng của Chúa Cha trên trời. Xin cho chúng con ý thức rằng: “Đồng tiền chính là đầy tớ tốt nhưng lại là ông chủ xấu”. Nhờ biết sử dụng đồng tiền phụng sự cho Nước Chúa và phục vụ tha nhân, mà chúng con sẽ có bình an nội tâm và sẽ nên chứng nhân của Chúa trước mặt người đời, góp phần xây dựng một thế giới mới là Nước Trời đời sau.- AMEN.

Việc gì phài lo, có Chúa an bài – Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

(Mt 6, 25-34)

 Trong muôn loài được Thiên Chúa dựng nên, con người là hình ảnh Chúa. Do đó, con người có nhiều đặc ân mà không loài nào trên trần thế có thể so ví với con người. Loài người có suy tư, suy nghĩ và tư duy biết phán đoán, ưu tư, quan tâm đến người khác và quay lại với chính mình. Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người, Ngài luôn yêu thương săn sóc, lo lắng, quan phòng. Hoa huệ ngoài đồng, chim se sẻ Chúa cũng còn quan tâm huống chi con người. Chính vì thế, Chúa nói: ”…Cha trên trời thừa biết anh em cần những gì ?…”.

CHÚA NÓI ĐỪNG QUÁ LO LẮNG NHỮNG CÁI PHÙ PHIẾM: Nghĩ cũng nực cười khi con người hết thế hệ này qua thế hệ khác, chẳng có gì mới mẻ, vẫn cứ ngựa y đường cũ nghĩa là cứ đầu tắt mặt tối lo lắng cơm, gạo, bạc, tiền vv… Có người suốt đời cơm vẫn thiếu, áo vẫn không đủ mặc ấm. Tại sao lại như vậy ? Nghĩ cũng buồn và cười ra nước mắt, thật là thê lương. Tuy nhiên, đọc lại Tin Mừng của thánh Matthêu 6, 25-34, Chúa nói: ”Đừng lo”. Con người là loài thụ tạo cao hơn mọi loài Chúa dựng nên. Hoa huệ đẹp ngoài đồng mà vua Salomon tuy vinh sang như thế nhưng cũng không mặc đẹp như đóa hoa đó. Con chim se sẻ, Chúa cũng nuôi. Hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin (Mt 6, 30). Loài người, con người họa lại hình ảnh vô song, toàn mỹ của Thiên Chúa. Do đó, con người được Chúa quan phòng, lo toan vì họ trọng hơn hoa, quí hơn muông thú. Ngài quan tâm đến từng nhu cầu của mỗi người theo cách thức tế nhị nhiệm mầu cao sâu của Ngài. Thánh Phaolô đã viết rất chí lý rằng: ”Sự giầu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào !… Vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người. Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời. Amen.” (Rm 11, 33-36).

CỨ TIN TƯỞNG, KÝ THÁC CHO CHÚA: Thánh vịnh 13 có câu: ”Hãy ký thác đường đời cho Chúa. Tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay”. Chúa bảo “đừng lo”, không có nghĩa Chúa nói chúng ta lười biếng, ỷ lại, không chịu làm việc, đừng lo cho nhu cầu thể xác và trần thế này. Chúa không hề nương chiều con người, cũng như ủng hộ cho những con người lười biếng, liều lĩnh. Thánh Phaolô đã từng nói:” Không làm việc thì đừng ăn…”. Đúng sự đời là như thế, con người quả tuyệt vời vì có lý trí để suy luận, có đạo đức để biết phân biệt điều phải, điều ác, điều ngay, điều gian và có hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa. Loài chịm, loài thú, chúng ta cứ tưởng chúng không vất vả, kỳ thực ra chúng vất vả nhiều, chúng phải bay đi hoặc đi xa để kiếm mồi, kiếm thức ăn nuôi sống…Loài hoa, loài cây cũng phải  nhờ rễ đâm sâu, nhờ hút nước ở dưới đất, nhờ hấp thụ sương, mặt trời vv…Con người Chúa luôn khuyên nhủ hãy phó thác, nghĩa là hãy để tâm hồn bình an, đừng bôn ba quá đáng, đừng lạc quan đến bất cần, nhưng “ Hãy lấy Chúa làm niềm vui…Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng”( Tv 36 ). Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Philipphê 4, 4-8 cũng đã viết :” Anh em đừng lo lắng gì cả…”.

Tết là dịp để con người dừng lại, chiêm ngắm những kỳ công hết sức tuyệt vời của Thiên Chúa: chim chóc, thú rừng, cây cỏ, hoa lá vv… ngắm lại chính bản thân của mình: “ Con người là hình ảnh của Thiên Chúa Giavê”. Và đã là hình ảnh của Thiên Chúa, con người sẽ sống sự sống của Thiên Chúa. Sự sống của Thiên Chúa vĩnh cửu, trường sinh. Do đó, sự phó thác luôn là cần thiết của mọi người…

Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết phó thác vào bàn tay uy quyền của Chúa. Amen.

Phấn đấu tạo mùa xuân – TGM. Ngô Quang Kiệt

Mùa Xuân là màu của hoa. Những bông hoa góp phần làm thành nét đẹp của ngày Tết. Ngày Tết mà thiếu hoa sẽ mất đi rất nhiều vẻ đẹp đẽ vui tươi.

Tại Việt  nam, hai loại hoa tiêu biểu cho ngày Tết là mai và đào. Trong Nam, mai rộ  nở như ganh đua với nắng vàng rực rỡ. Ngoài Bắc, trong cái buốt giá của mùa Đông kéo dài, những cành đào tươi thắm chen giữa đám lộc non xanh biếc là một cánh thiệp báo tin vui mùa Xuân đến.

Nhìn những cánh hoa tươi thắm như đang cười đùa với nắng Xuân, mấy ai nghĩ rằng những cánh hoa kia đã phải trải qua một quá trình phấn đấu gian nan.

Thật vậy, trước khi mùa Xuân đến, những cây đào trơ  trụi như những xác chết không hồn. Những cây mai cũng bị tuốt sạch lá để trơ những cành khẳng khiu nom đến tội nghiệp.

Nhưng ai đã trồng hoa đều có kinh nghiệm là càng tuốt sạch lá càng có nhiều hoa. Chính  những thân cây khẳng khiu trơ trụi ấy đã góp phần làm nên những bông hoa tươi đẹp trang điểm cho mùa Xuân, đem niềm vui đến cho con người, trở thành dấu hiệu của hạnh phúc, của thành công.

Mùa Xuân, ta thường chúc nhau thành công, hạnh phúc. Đã thấy những cành cây trơ trụi mùa đông, rồi nhìn những bông hoa rực rỡ hôm nay, tôi hiểu rằng thành công và hạnh phúc ta đạt được cũng phải trải qua những phấn đấu như loài hoa. Để đạt được những thành công thiêng liêng và hạnh phục vĩnh cửu, ta càng phải noi gương loài hoa mà phấn đấu rất nhiều.

Phấn đấu loại bỏ những gì xưa cũ. Nếu những cây hoa không chịu tước bỏ lớp lá cũ già nua xấu xí thì làm sao có được những cánh lá non mơn mởn và nhất là làm sao có được những nụ hoa lộng lẫy vào mùa xuân?

Tương tự như thế, muốn đời sống thiêng liêng sinh hoa kết quả, ta cũng phải từ bỏ những gì xưa cũ trong bản thân. Những gì xưa cũ là những gì không phù  hợp với Phúc Âm, những gì ngăn cản ta tiến bước như thói lười biếng, thói giận hờn ganh ghét, thói ích kỷ, thói chia rẽ bất hoà, thói tự kiêu tư đại.

Phấn đấu dồn hết năng lực vào mục tiêu chính. Mùa đông, người làm vườn tuốt lá, tỉa cành để khi mùa đến, nhựa cây phong  phú không phải tốn phí nuôi dưỡng những chiếc lá già nua, những cành cây thừa thãi vô bổ, nhưng dồn hết sức sống cho hoa, cho lá mới. Nhờ thế hoa càng thêm tươi, lá càng thêm xanh.

Con người cũng thế, muốn thành công và hạnh phúc, phải loại bỏ những gì tiêu phí năng lực, để dồn hết năng lực vào mục tiêu chính. Mục tiêu chính của ta là tập luyện lòng mến Chúa yêu người, là sống theo Tám mối phúc thật. Chuyên tâm vào mục tiêu chính, ta sẽ dễ thành công.

Sau cùng, phải phấn đấu vượt qua mọi gian khổ. Khi tuốt lá những cây mai, tôi thầm nghĩ: Nếu cây mai biết nói, chắc nó sẽ kêu lên đau đớn. Tuốt lá, tỉa cành  làm cho cây đau đớn, mất mát, xấu xí khó coi. Nhưng chính nhờ vượt qua được những gian nan thử thách ấy mà cây hoa mới đạt đến mùa xuân tươi đẹp đem hương sắc cho đời.

Để loại bỏ những gì xưa cũ và dồn hết năng lực vào mục tiêu chính, con người cũng phải phấn đấu rất nhiều. Phấn đấu từ bỏ mình. Không hành động theo bản năng, dục vọng. Không hành động theo ý riêng. Chỉ tìm thánh ý Thiên Chúa. Những phấn đấu từ bỏ mình làm cho ta đớn đau. Nhưng chính những đớn đau đó góp phần tạo nên mùa xuân tươi đẹp.

Năm Mới, tôi cầu chúc tất cả anh chị em được nhiều ơn chúa để có sức phấn đấu, tạo nên một mùa xuân tươi đẹp cho gia đình, cho đất nước và cho nước Trời.

Sự nhạy bén của trái tim

(ĐGM Gioan B. Bùi Tuần tại nhà thờ chính tòa Long Xuyên Xuân Giáp Tuất 10/02/1994).

Tết Giáp Tuất này, chúng ta đang chứng kiến nhiều vẻ đẹp mới. Trong số những vẻ đẹp mới ấy, có một vẻ đẹp đang lôi kéo chú ý của tôi một cách đặc biệt. Bởi vì nó đang gây nhiều ảnh hưởng tốt đến nền đạo đức con người chúng ta.

Vẻ đẹp mới mà tôi muốn nói ở đây, đó là sự nhạy bén của trái tim nơi nhiều người.

Thực vậy, bao người chúng ta đã bén nhạy nhận ra những ơn Chúa ban cho mình. Trong một vòng quay trái đất, ta đã lãnh nhận vô số ơn lành. Mỗi ơn lành được coi như một nén bạc, Chúa trao cho ta để sinh lời (Mt 25,14-17). Nén bạc mà Phúc Âm ám chỉ, không những là những may mắn, mà còn là những rủi ro. Đối với người nhạy bén, may mắn trở nên dịp để thành công, và rủi ro trở nên dịp để thành nhân.

Hôm nay, ta đặt những kết quả ấy trên bàn thờ lòng ta, như một mâm trái đầu xuân nhiều màu sắc, nhiều hương vị, biểu tượng cho sự xum xuê kết tụ, để dâng lên Chúa nhân lành.

Rồi bao người chúng ta cũng đã nhạy bén nhận ra tiếng Đức Kitô giữa cuộc sống xô bồ. Ngài gọi ta từ lương tâm ta, từ những biến cố vui buồn, từ những người xung quanh, từ Giáo Hội, từ các lời Kinh Thánh. Trong suốt 12 tháng qua, hầu như mỗi ngày, Đức Kitô không ngừng nhắc nhở ta nhớ “Ngài là Đàng, là Sự Thực và là Sự Sống” (Ga 14,6). Qua những nhắc nhở như thế, ta đã nhận ra “Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót” (Lc 6,36) là Đấng chăn chiên tốt lành luôn chăm sóc các con chiên (Ga 10,11-16).

Trước tình thương bao la ấy, hôm nay ta đặt tâm tình dâng hiến và hy sinh của ta vào lửa mến trái tim ta, như những bó hương cháy toả ngày xuân, biểu tượng cho sự từ bỏ mình, để gắn bó với Chúa là suối nguồn cứu độ.

Rồi, bao người chúng ta cũng đã bén nhạy nhận ra công ơn của các ân nhân xa gần. Ta sống với người khác và nhờ người khác. Người khác là tổ tiên, cha mẹ gia đình, là bạn bè lối xóm, là đồng bào quê hương. Ân nhân vô danh nhiều không kém ân nhân ta biết. Nếu không có họ phục vụ, đỡ nâng, ta sẽ không có mùa xuân hôm nay. Nếu ta là mùa xuân của họ, thì chính họ cũng đã là mùa xuân của ta.

Họ là những người Chúa gởi đến đời ta để làm chứng rằng họ đã thực hiện lời Chúa dạy: “Thầy cho các con một điều răn mới, là các con hãy thương yêu nhau, như Thầy đã yêu thương các con” (Gioan 15,12).

Trước công ơn của họ, hôm nay ta gởi về họ những bông hoa thiêng liêng, cạnh những chậu hoa xuân, biểu tượng cho tâm tình biết ơn, mến yêu và trân trọng.

Tết này, người ta đang nói nhiều đến sự nhạy bén. Phải nhạy bén trong kinh tế thị trường. Phải nhạy bén trước cảnh làm ăn cạnh tranh thời hậu-cấm-vận. Phải nhạy bén, để không bị hụt hẫng, thua thiệt. Phải nhạy bén, để kịp đà thăng tiến.

Riêng tôi, nhìn về phạm vi đạo đức, tôi cũng thấy rằng: Sang năm mới, phải nhạy bén để bảo vệ đức tin và nền đạo đức. Phải nhạy bén để nắm bắt cơ hội truyền giáo.

Trong thông điệp “Chân lý sáng ngời” (6/8/1993), Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cho biết: Nhiều dân tộc trước đây có một đời sống đức tin phong phú, nay đang bỏ đạo. Không những họ mất đức tin, mà họ cũng đang đi xuống trên con đường luân lý (số 106). Sự kiện trên đây do Đức Thánh Cha thông báo, nên được chúng ta đón nhận như một lời báo động, để chúng ta biết nhạy bén hơn trong các vấn đề đức tin và luân lý.

Đó là mong ước của tôi ngày đầu xuân mới. Đó là điều tôi nguyện cầu những ngày đầu năm. Với tâm tình trên đây, tôi xin thân ái chúc anh chị em một năm mới tốt đẹp.

Thời gian 

Một năm mới đã bắt đầu, nhưng cũng một năm cũ đã qua đi trong dòng đời của chúng ta. Vậy đâu là ý nghĩa của thời gian, của cuộc đời chúng ta đang sống?

Người xưa đã bảo: thời giờ thấm thoát thoi đưa. Một khi đã qua đi thì không bao giờ trở lại. Cũng như chẳng ai tắm hai lần ở cùng một dòng sông. Cuộc đời chúng ta trải dài 60 năm hay 100 năm là cùng. Thế nhưng 60 năm ấy, 100 năm ấy có là gì so với khoảng thời gian bao la của vũ trụ. Bởi đó, người xưa đã phải thốt lên một cách não nề khi nghĩ đến cuộc đời ngắn ngủi: Ôi nhân sinh là thế ấy, như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao. Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, cảnh phù du trông thấy cũng nực cười. Và Thánh Vịnh cũng đã sánh ví: Cuộc đời như cánh hoa đồng nội, sớm nở chiều tàn.

Bởi đó, tự ngàn xưa và cho đến ngày hôm nay, con người đã tìm mọi cách để kéo dài cuộc sống và khát vọng được sống vĩnh cửu vẫn là niềm day dứt nhất của con người. Ngày xưa, có những người đã phải vào tận rừng sâu để tìm cho được trái đào trường thọ. Có những người đã phải khổ công tu luyện để chến biến cho được những viên thuốc bất tử. Có một ông vua, đã phải xây những ngọn tháp cao vút để hứng lấy những giọt sương thuần khiết nhất mà uống vì nghĩ rằng những giọt sương thuần khiết ấy có sức kéo dài sự sống con người. Ngày nay y khoa luôn cố gắng tìm ra những phương thuốc hiệu nghiệm tăng thêm tuổi thọ cho con người. Tuy nhiên cái chết vẫn là một thách thức, một thực tại ngàn đời không thể lẩn trách và ước vọng được sống mãi vẫn còn ở ngoài tầm tay của chúng ta, nếu không muốn nói là một huyền thoại, một ảo vọng như câu chuyện dưới đây đã minh chứng:

Thời Chiến quốc, có người đem dâng vua nước Sở một vị thuốc bất tử. Người đó bưng thuốc vào thì viên canh cửa bèn hỏi: Vị thuốc này có ăn được không? Người ấy đáp: Ăn được. Tức thì viên canh cửa bèn giật lấy vị thuốc ấy mà ăn. Nhà vua biết được câu chuyện thì giận lắm, bèn truyền bắt viên quan ấy mà đem đi chém đầu. Viên quan ấy kêu lên rằng: Thần đã hỏi người đem dâng và được biết đó là một vị thuốc bất tử, nghĩa là ăn vào thì sẽ không chết nữa. Thế mà thần vừa mới ăn, thì đã phải tội chết. Như vậy, đây là thuốc tử thuốc chết, chứ sao lại gọi là bất tử cho được. Nhà vua giết thần là bắt lỗi một con người vô tội, đồng thời tỏ ra rằng thiên hạ dối gạt nhà vua mà nhà vua vẫn tin. Nghe nói có lý, nhà vua bèn tha cho viên canh cửa.

Câu chuyện trên muốn chứng tỏ rằng: Có sinh thì phải có tử. Thuốc bất tử chỉ là chuyện bịa đặt mà thôi. Tuy nhiên, ước vọng được sống mãi, được sống đời đời vẫn còn đó. Mỗi độ xuân về, chúng ta thường cầu chúc cho nhau được trường thọ khang an, bách niên giai lão. Và những bức tranh bình dân của mấy ngày tết là gì, nếu không phải là diễn tả ba niềm vui lớn của con người, là Phúc Lộc Thọ. Cho dù cuộc đời có cay đắng thì sự sống vẫn là một cái gì quý giá cần phải bảo vệ. Còn sự chết vẫn là một cái gì đáng lo sợ.

Chúng ta bất lực trước khát vọng được sống mãi và người khác cũng không thể thực hiện cho chúng ta lời chúc trường thọ. Chỉ mình Chúa mới là Đấng dư quyền năng và tình thương để làm cho chúng ta được sống như lời Ngài đã phán: “Ta là Đường, là sự thật và là sự sống. Ai tin Ta sẽ không phải chết, nhưng sẽ được sống đời đời. Ta đến để họ được sống và được sống dồi dào”. Thực vậy, Thiên Chúa đã xuống thế làm người để chỉ cho chúng ta con đường dẫn đến sự sống. Đạo của chúng ta là đạo của Tin Mừng, của niềm vui, của sự sống. Vậy muốn được sống, chúng ta phải đi trên con đường Chúa đã chỉ vẽ. Phải tuân giữ những điều Ngài đã truyền dạy, phải thực thi cái đạo mà Ngài đã tỏ lộ. Con đường ấy, cái đạo ấy gồm hai chiều kích: hàng dọc và hàng ngang.

Trước hết, hàng dọc là phải kính mến Chúa vì đó chính là bổn phận của một kẻ nhận ơn đối với Đấng đã ban ơn, của thụ tạo đối với Đấng tạo hoá, của kẻ làm con đối với người cha của mình: Hãy kính mến Thiên Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn như Chúa đã dạy. Tiếp đến, hàng ngang đó là phải yêu thương mọi người như chính mình, không trừ một ai, kể cả kẻ thù địch như Chúa đã dạy: Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét mình. Phải đủ cả hai mới là đạo. Vì nếu chỉ mến Chúa mà không yêu người, thì chúng ta là kẻ nói dối. Còn nếu chỉ yêu người mà không mến Chúa, thì mọi hành động của chúng ta đều trống rỗng và vô nghĩa như tiếng não bạt ầm vang. Người vô thần không tin thờ Chúa, chúng ta gọi họ là kẻ vô đạo. Còn chúng ta, mặc dù đã tin Chúa, nhưng lại không yêu thương anh em, thì chúng ta cũng chỉ là một thứ vô đạo mà thôi.

Hãy mến Chúa và yêu người, để nhờ đó, lời cầu chúc trường thọ của chúng ta sẽ được Chúa thực hiện cho cá nhân chúng ta cũng như cho những người mà chúng ta cầu chúc.

Tin tưởng vào Chúa Quan Phòng 

Ngày Tết là ngày ai nấy đều no đủ, kể cả những người nghèo nhất trong xã hội, vì theo truyền thống văn hóa của dân tộc, dù quanh năm có đói khát, túng thiếu thì ngày Tết cũng phải là ngày no say, đầy đủ nhất. Thế có nghĩa là đối với nhiều người, vấn đề cơm-áo-gạo-tiền vẫn còn là vấn đề nhức nhối và ưu phiền nhất. Sau hơn hai ngàn năm, dù khoa học tiến bộ đã đưa con người lên không gian và sống trên đó một thời gian dài, thì con người vẫn chưa giải quyết được vấn đề ăn và uống cơ bản của mình. Thế giới vẫn đang phải vật lộn với vấn đề nước sạch, lương thực tối thiếu và thuốc men cần thiết.

Tại sao vậy? Tại vì có tình trạng quá chênh lệch về sở hữu của cải trần gian trong các xã hội: một số người lòng tham không đáy, tìm hết mọi cách – kể cả những cách ô nhục và thấp hèn – để chiếm đoạt tài sản chung của xã hội và nhân loại. Còn một số người khác không làm sao có được các điều kiện tối thiểu để sống cho ra người. Ở Việt Nam chúng ta hãy nghĩ đến những số tiền thất thoát trong các công trình xây dựng hạ tầng cơ sở ở khắp cả nước và con số chạy vào túi riêng cán bộ thuộc các sở, ban, ngành, công ty, tỉnh, huyện, xã v.v… thì chúng ta hiểu tại sao dân Việt Nam vẫn còn bị xếp vào loại các nước nghèo nhất trên thế giới dù chiến tranh đã chấm dứt gần 28 năm rồi!

Vậy thử hỏi việc tin tưởng vào Thiên Chúa Quan Phòng mà Đức Giêsu dạy chúng ta hôm nay có ý nghĩa gì trong một bối cảnh xã hội và thế giới như thế? Chắc đối với những người có “của ăn của để” thì không thành vấn đề vì họ đâu có bao giờ phải lo ngày mai sẽ sống ra sao, ngày mốt sẽ lấy đâu ra tiền để mua gạo cho gia đình, để trả tiền học phí cho con hoặc trả tiền bệnh viện cho cha hay mẹ già! Nhưng đối với những người tối ngày phải vật lộn với cuộc sống (chỉ để sống, chưa nói đến làm giầu) thì quả là vô cùng khó mà tin vào lời của Đức Giêsu! Lời ấy có xa vời và viển vông không? Lời ấy có sức ru ngủ không? Lời ấy chỉ để đánh lừa những kẻ nhẹ dạ dễ tin? Hay Lời ấy là Lời hằng sống và chân thật?

Nếu đi sâu vào đời sống của giáo dân và kể cả lương dân, chúng ta sẽ thấy có không ít người nghèo xác tín rằng họ được Thiên Chúa hay Trời Phật chăm lo cho cuộc sống gia đình của họ. Họ là những người chịu thương chịu khó làm việc chứ không phải là những hạng ươn lười biếng nhác. Nhưng cứ nói theo cách bình thường thì họ không thể có đủ tiền đủ bạc để lo cho vợ chồng con cái vì hoàn cảnh eo hẹp và công ăn việc làm thu nhập chẳng là bao. Thế mà trên thực tế họ vẫn sống. Họ vừa lao động vừa cậy trông vào Chúa, vào Trời Phật. Và gia đình họ vẫn bình yên hạnh phúc, vì họ dám liều mà giao phó mọi sự cho Thiên Chúa, cho Trời Phật (trời sinh voi trời sinh cỏ) nên họ cảm nghiệm được là có một bàn tay vô hình thu xếp, giải quyết mọi khó khăn cho họ.

Ngày đầu năm mà suy nghĩ một chút về vấn đề vật chất trong cuộc sống chắc không phải là vô bổ. Nếu chúng ta không phải chạy ăn chạy uống thì chúng ta đừng quên cảm tạ Thiên Chúa Quan Phòng. Cách thể hiện lòng biết ơn tốt nhất, đẹp lòng Thiên Chúa nhất, là chúng ta biết chia sẻ một phần của cải mà mình đã nhận được cho những người túng thiếu hơn chúng ta. Còn nếu chúng ta đang sống trong cảnh nghèo túng, thì chúng ta hãy mạnh dạn phó dâng và tin tưởng ở Lời của Thiên Chúa. Chỉ cần Đức Tin nhỏ bằng hạt cải là chúng ta sẽ chứng kiến chuyện động trời và bất ngờ thú vị: Thiên Chúa không bỏ ai phải đói, phải khổ! Bình an cho Năm Mới không phải được bảo đảm bằng của cải vật chất mà bằng sự tin tưởng phó thác vào Đấng Thiên Chúa là Cha yêu thương biết chúng ta cần gì và không bao giờ làm ngơ trước các nhu cầu đích thực của chúng ta.

Niềm vui và nỗi buồn

Không gì cần thiết cho chúng ta bằng niềm vui. Phải, niềm vui cũng cần thiết như cơm để ăn, áo để mặc và khí trời để thở. Niềm vui được biểu lộ nơi ánh mắt, nơi nụ cười, phản ảnh cho một tâm hồn trong sạch và một trái tim nhiệt thành. Vì thế mà người ta đã bảo:

– Một ông thánh buồn là một ông thánh đáng buồn vậy.

Thế nhưng đâu là chiếc chìa khóa đem lại niềm vui cho chúng ta?

Sau khi Chúa Giêsu sống lại, vấn đề quan trọng đối với các tông đồ chính là niềm vui, bấy giờ tâm hồn các ông ngập tràn hạnh phúc, bởi vì Chúa Giêsu vẫn còn đó, bên cạnh các ông. Nhưng rồi các ông sẽ phải buồn phiền vì Chúa Giêsu sẽ từ giã các ông mà về cùng Chúa Cha. Điều cần thiết cho các tông đồ cũng là điều cần thiết cho chúng ta, những người tín hữu, đó là niềm vui được kết hiệp với Chúa.

Thực vậy, bao lâu xa cách Chúa, tâm hồn chúng ta sẽ phải khắc khoải u sầu. Tại sao lại như thế?

Trước hết vì Chúa Giêsu là Đấng đem lại cho chúng ta niềm vui đích thực.

Có một gia đình giàu sang, chuẩn bị cho cô gái út của mình trong ngày rước lễ lần đầu. Bà mẹ đã may cho cô bé những bộ quần áo lộng lẫy. Cô bé yên lặng suy nghĩ, rồi với cặp mắt long lanh, cô bé nói:

– Xin mẹ cứ mặc cho con những bộ quần áo bình thường như những nhỏ bạn nghèo khổ của con. Niềm vui của con chính là được gặp gỡ và kết hiệp với Chúa trong ngày trọng đại ấy.

Phải, một khi ngự vào tâm hồn chúng ta, Chúa sẽ đem đến niềm vui và sự bình an. Vì thế, chỉ có một nỗi buồn day dứt, đó là chúng ta bị xa cách Chúa bởi tội lỗi mà thôi.

Vua thánh Louis hồi còn nhỏ, thường ngồi dưới chân mẹ là hoàng hậu Blanche de Castille, ngước mắt nhìn mẹ và chăm chú lắng nghe những lời mẹ dạy. Ngày kia, người mẹ đặt một tay lên vai con rồi nghẹn ngào nói:

– Hẳn con biết rằng mẹ yêu con nhiều lắm, nhưng thà rằng mẹ thấy con chết dưới chân mẹ còn hơn là thấy con phạm một tội trọng mất lòng Chúa.

Cậu bé yên lặng và suy nghĩ, rồi trên khuôn mặt cậu bé biểu lộ một điều dốc quyết thật can cảm:

– Thà chết chẳng thà phạm tội.

Với các tông đồ ngày xưa, hẳn rằng Chúa Giêsu đã chiếm một địa vị quan trọng. Các ông không thể sống thiếu vắng Ngài. Và Ngài đã là tất cả cho các ông. Thế nhưng ngày nay, không thiếu gì những tín hữu và ngay cả chúng ta nữa, chỉ vì một lợi lộc nhỏ mọn, chỉ vì một vui thú tầm thường, chúng ta đã bỏ Chúa như các môn đệ, đã bán Chúa như Giuđa và đã chối Chúa như Phêrô. Mặc dù trong ngày chịu phép Rửa tội và hằng năm trong đêm thánh vọng Phục sinh chúng ta đã thề hứa: Từ bỏ ma quỉ, từ bỏ những công việc và những quyến dũ của nó, để kết hiệp với Chúa mãi mãi. Nhưng rồi chúng ta lại mau quên đi những lời thề hứa ấy, bỏ mặc Chúa trong sự quên lãng.

Nếu chẳng may tội lỗi làm cho chúng ta xa lìa Chúa, thì hãy mau mắn chạy đến nơi tòa cáo giải với tâm tình sám hối ăn năn, để được tha thứ, để được hòa giải với Ngài hầu lấy lại sự bình an và niềm vui.

Chúng ta không biết mình sẽ sống được bao lâu: Bảy tám chục năm hay chỉ một vài bữa nữa mà thôi. Tuy nhiên, những tháng ngày hiện tại không thể nào sánh với cuộc sống vĩnh cửu, khi chúng ta được trở về nhà Chúa, được nhìn thấy Ngài mặt đối mặt. Lúc đó, niềm vui của chúng ta sẽ tràn đầy, hạnh phúc của chúng ta sẽ trọn hảo, và chẳng một ai có thể lấy mất được.

Đạo của Chúa là đạo của niềm vui. Tin mà Chúa đem đến là Tin mừng. Vì thế, xin cầu chúc cho mỗi người chúng ta luôn gắn bó mật thiết với Chúa, để hiện tại chúng ta được hưởng một năm mới ngập tràn niềm vui và mai ngày chúng ta sẽ được hưởng một mùa xuân vĩnh cửu trong tình thương của Chúa.

Đầu Năm Hái Lộc

Lm Giuse Đinh Lập Liễm

Ngày Tết Nguyên Đán là thời gian quan trọng nhất trong năm, được coi như ngày thánh, con cái dù ở nơi xa cũng cố gắng trở về sum họp dưới mái gia đình để ăn Tết. Giao thừa là lúc mọi người phải có mặt đầy đủ để chúc tuổi mới ông bà cha mẹ được mọi sự lành trong cả năm mới.

Ngoài ra, người ta còn kiêng cữ trong cách sống, không dám nói hoặc làm một điều gì sai trái để tạo ra xúi quảy cho cả năm.

  1. LỜI CHÚC TẾT ĐẦU NĂM

Trong những ngày đầu năm, người ta cầu chúc nhau rất nhiều điều cao quí, rất đa dạng, tùy theo từng hoàn cảnh. Thường người ta chúc nhau : phát tài phát lộc, bách niên giai lão, buôn may bán đắt, thăng quan tiến chức, vạn sự như ý; hay nói một cách tổng quát người ta chúc nhau được ngũ phúc : Phú, Quí, Thọ, Khanh, Ninh.

Ngoài ra, cũng có những câu chúc có vẻ văn hoa như :

Trẻ mãi không già, mặn mà nhan sắc,

Vạn sự cát tường, toàn gia hạnh phúc,

Vui trong sức khỏe, trẻ trong tâm hồn, khôn trong công việc, tuyệt vời trong tình yêu.

Có những câu dài hơi hơn như :

Vạn sự như ý, tỷ sự như mơ, cuộc đời như thơ, tình yêu như nhạc, coi tiền như rác, xem bạc như rơm, chung thủy với cơm, không màng chi phở.

Hoặc chúc mọi người một cách rộng rãi hơn :

Chúc mọi người một bầu trời sức khỏe, một biển cả tình thương, một đại dương tình cảm, một điệp khúc tình yêu, một người yêu chung thủy, một tình bạn mênh mông, một gia đình hạnh phúc.

Thế nhưng, lời cầu chúc tốt đẹp và đầy đủ nhất vẫn là lời chúc “ Phúc. Lộc, Thọ. Phúc là mong được nhiều hạnh phúc,

Lộc là mong được nhiều của cải lợi lộc,

Thọ là mong được sống lâu mạnh khỏe.

Để tượng trưng cho Phúc, Lộc, Thọ, người ta dùng hình ảnh ba ông già.

Ông Phúc được thể hiện dưới dạng một người giầu có, nét mặt viên mãn hiền hậu, với những chi tiết về hình thể biểu lộ quí tướng như khối hình đầy đặn, tai to, mũi thẳng, hàm nở… mình mặc áo chùng, tay bồng một đứa trẻ mũm mĩm tượng trưng cho con cháu ngoan hiền.

Ông Lộc được thể hiện dưới dạng một viên quan đầu đội mũ phốc hay mũ cánh chuồn, mình khoác áo vân cẩm, dáng đứng nghiêm trang, khuôn mặt uy nghi quắc thước, bởi vì người xưa quan niệm rằng sự thành đạt của con người được thể hiện trên con đường công danh chức tước nhiều bổng lộc.

Ông Thọ được thể hiện dưới dạng một ông già hói đầu, râu tóc bạc phơ, mình mặc áo chùng, tay cầm gậy trúc, trên đầu gậy có treo mấy quả đào tiên, một biểu tượng nói lên sự trường thọ.

Hôm nay, chúng ta đặc biệt chúc nhau chữ LỘC, từ lộc vật chất đến lộc thiêng liêng, đó làLỘC THÁNH do Thiên Chúa ban cho : “Đó là Phúc Lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv 128,4) hoặc câu khác : “Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng. Bạn quả là lắm phúc nhiều may” (Tv 128,2).

  1. TỤC HÁI LỘC TRONG NGÀY TẾT
  2. Tục hái lộc nơi chùa miếu

Theo tài liệu của ông Phan Kế Bính, ông Toan Ánh và ông Nhất Thanh thì sáng sớm ngày mồng một Tết, người ta đi lễ chùa miếu để xin Thần Phật gia ơn độ trì cho năm mới.

Thường ai cũng mua vài nén hương để khấn vái trước bàn thờ, hoặc đông người quá thì dâng hương ở ngoài sân. Có người mua về vài ba nén hương gọi là “hương lộc” đem về cắm vào bát hương Táo quân ở nhà. Lửa đỏ ở mấy nén hương là lộc Phật Thánh ban biểu tượng cho sự thịnh vượng.

Cũng có nhiều người không xin hương lộc, thì lễ xong ra sân vườn chùa miếu bẻ lấy một cành cây, tục gọi là “HÁI LỘC” đem về gọi là Lộc Thánh.

Tục hái lộc ở các chùa miếu ngụ ý xin hưởng chút lộc của Thần Phật ban cho năm mới. Cành lộc thường là một cành đa nhỏ, cành đề, cành si là những loại cây quanh năm tươi tốt và nảy lộc.

Năm mới lúc trở về có tài lộc mang theo vừa chỉ sự may lành, vừa chỉ sự vui sướng.

  1. Tục hái lộc nơi thánh đường

Ngày Mồng Một Tết, ngày linh thiêng nhất trong năm, ngày cầu bình an cho năm mới. Nhiều giáo xứ tổ chức hái lộc đầu xuân.

Lộc thánh là những câu Lời Chúa được tuyển chọn trong Thánh Kinh. Lộc được treo trên những cành mai vàng rực rỡ đặt trên cung thánh. Sau bài giảng, Cha chủ tế hái lộc thánh đầu xuân, rồi đến các tu sĩ nam nữ, đến đại diện các hội đoàn và đại diện các gia đình lên hái lộc.

Sau Thánh lễ, mọi người ra về mang theo niềm vui và hạnh phúc, bình an và Ơn thánh. Gia đình sum họp trước bàn thờ đọc kinh nguyện, dâng một năm mới lên Chúa và Đức Mẹ. Người cha hoặc người mẹ trịnh trọng mở lộc thánh đọc cho cả nhà nghe. Mỗi lộc thánh hợp với từng gia đình. Lộc thánh được đặt trang trọng trên bàn thờ, dưới chân thánh giá. Câu chuyện ngày Tết đi thăm nhau thường hàn huyên về lộc thánh Lời Chúa mỗi nhà.

Lời Thánh vịnh 27 nói lên niềm cậy trông : “Tôi vững vàng tin tưởng, sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống. Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào, hãy cậy trông vào Chúa” (Tv 27).

Vững vàng tin tưởng và trông cậy vì người Kitô hữu xác tín vào lời Chúa Giêsu dạy : “Các con cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ thì sẽ mở cho” (Mt 7,7).

Không phải bây giờ người ta mới hái lộc. Từ ngàn xưa, thuở địa đàng đã có truyện con gái đi hái lộc đầu xuân rồi.

Đọc chương 3 sách Sáng thế, chúng ta thấy rõ có một cô gái đẹp ở Vườn Diệu quang, cô được hái lộc ở mọi cây, trừ cây biết lành biết dữ ỡ giữa vườn. Lộc cây ấy không phải lộc tốt mà có hại. Nhưng cô đã liều lĩnh hái lộc cây ấy và lập tức cái lộc cây ấy quật ngã cố. Đó là cô EVÀ đã hái lộc cây trái cấm. Cô đã không hái được lộc thánh mà chỉ hái được lộc của tội lỗi, độc hại. Cô đã đánh mất hạnh phúc trong ngày đầu xuân.

Nhưng bù vào đó, Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế cứu chuộc loài người bằng Cây Thập Giá mà lộc của cây này lại đem phúc trường sinh. Lộc đây là lộc thánh ban muôn vàn ơn phúc. Cũng từ đó, Chúa lại còn ban cho chúng ta một thứ lộc quí giá nữa, đó là “Bí tích Thánh Thể”. Chúa phán : “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ được sống đời đời”.

III. HÃY TẬN HƯỞNG LỘC THÁNH CHÚA BAN

Hôm nay chúng ta không đến chùa miếu để khấn Thần Phật như người ta thường làm, mà đến nhà thờ để ca tụng Chúa là Chúa của Mùa Xuân và xin Người ban cho ta được nhiều ơn lành hồn xác. Chúng ta hãy hái lộc thánh đem về để cho cả năm Quý Tỵ này được may mắn.

Tờ Lộc thánh mà chúng tôi tặng anh chị em hôm nay là lời Chúa Giêsu đã chào thăm các môn đệ sau khi Người sống lại : “Bình anh cho các con” (Ga 20,19.26).

Cùng với tờ Lộc thánh, chúng tôi chúc anh chị em một câu thơ mà ngươi ta chúc nhau trong ngày đấu xuân, coi như món quà tặng cho nhau :

Mai vàng nở khắp quê nhà

An khang thịnh vương món quà đầu năm

“An khang thịnh vượng” cũng là một trong 5 lời chúc căn bản nhất : Phú, Quý, Thọ, Khang. Ninh. “An khang thịnh vượng” là một lời chúc từ chữ Hán, dùng để chúc nhau vào những dịp Tết hay ăn mừng tân gia..

Chữ “An” diễn tả sự bình an, yên ổn, an vui, an bình.

Chữ “Khang” diễn tả sự mạnh khỏe, tươi tốt.

Vậy chúc cho nhau “an khang thịnh vượng” là chúc cho người ta được sống trong bình an, thư thái, mạnh khỏe và phát đạt. Do đó, chúng tôi chúc anh chị em được anh bình cả hồn lẫn xác trong gia đình cũng như ngoài xã hội.

Sự an bình chúng tôi muốn chúc cho anh chị em không phải là anh bình nhất thời, tạm bợ mà là thứ an bình mà Ngôi Hai Thiên Chúa đã chúc cho loài người trong đêm Người giáng sinh :

Vinh danh Thiên Chúa trên trời

Bình an dưới thế cho người Chúa thương.

(Lc 2,14)

Sự bình an Thiên Chúa ban cho gồm cả hai phương diện :

– Về thể xác : an lành, may mắn, không tai họa, không chiến tranh.

– Về tâm hồn : được ơn nghĩa cùng Chúa, sống kết hợp thân mật với Người.

Điều chúng tôi cầu chúc hôm nay đặc biệt là an bình trong tâm hồn, một thứ an bình tròn đầy và vĩnh cửu. Xã hội có an bình mà lòng không có thì kể là không có an bình thực sự, và ngược lại, xã hội tuy đầy chiến tranh loạn lạc nhưng lòng vẫn được an bình thư thái.

Điều kiện muốn có an bình trong tâm hồn là phải có một tâm hồn trong sạch : “Ai có lòng trong sạch ấy là phúc thật vì sẽ được xem thấy mặt Đức Chúa Trời vậy”. Ai phạm tội là chống lại Chúa, chống lại Chúa là thù nghịch với Chúa, gây chiến với Chúa, như thế làm sao có sự bình an trong tâm hồn được ?

Để kết thúc, xin chúc anh chị em được hưởng sự bình an trường cửu ngay ở đời này nếu anh chị em thực hiện Lời Chúa trong bài Tin mừng Thánh lễ hôm nay : “Trước hết, hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và ăn ở công chính như Người đòi hỏi, còn tất cả những thứ khác, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,34).

Tân niên thánh đức bao ân phúc

Xuân nhật an hòa mãi phúc vinh

Xuân Xưa Và Nay

Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền

Ngày đầu xuân, chúng ta cám ơn Thiên Chúa đã ban cho một Mùa Xuân với bao hương tình nồng ấm.

Mùa xuân, là mùa của hội hè, của đoàn tụ, của vui chơi. Mùa xuân với không gian rộng mở để đón ánh nắng xuân, để hòa nhịp với gió xuân. Mùa xuân ai cũng muốn trải lòng mình với không gian. Ai cũng muốn hòa chung nhịp với vạn vật để trẩy hội mùa xuân. Thế nên, Mùa xuân ở đâu cũng có đám có hội. Nơi nơi đều có những hội hè, ca hát như câu thơ xưa đã diễn tả:

Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay

Hoa xoan lớp lớp rụng rơi đầy

Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ

Mẹ bảo “Thôn Đoài hát tối nay”

Mùa xuân còn gợi cho chúng ta những phong tục tập quán đã ăn sâu vào nếp sống của người dân Việt. Xuân về những phong tục tập quán của phong bao giấy đỏ, của chợ tết, của hội hè mừng xuân dường như luôn được hiện tại hóa trong mỗi dịp xuân về.  Bầu khí ngày xuân thật ấm cúng linh thiêng như bài thơ “Tết của mẹ tôi” đã diễn tả:

“… Mẹ tôi gọi cả các em tôi

đến bên mà dặn :” sáng ngày mai

các con phải dạy cho thật sớm

đầu năm năm mới phải lanh trai

mặc quần mặc áo lên trên nhà

thắp hương thắp nến lễ ông bà

chớ có cãi nhau chớ có quấy đánh đổ,

đánh vỡ như người ta

Sáng ngày mồng một sáng tinh sương

Mẹ tôi cấm chúng tôi ra đường

Mở hàng mỗi đứa năm xu rưỡi

rửa mặt hoa mùi nước đượm hương

Ngày xuân người ta cũng dũ mọi lo toan thường ngày để sống  thật hoan hỉ, thật vui tươi trong ngày xuân như Nguyễn Bính đã từng nói:

Năm mới vừa sang, năm cũ qua

Tuy nghèo, ta vẫn mến nhà ta.

Chín sào tư thổ là nơi ở,

Một bó tàn thư ấy nghiệp nhà.

Trước cửa khói dày non khuất bóng,

Bên tường, mưa ít, cúc thưa hoa.

Các con nối chí cha nên biết:

Nghiên bút đừng quên lúa, đậu, cà.

Mùa xuân không chỉ hướng lòng con người đến với nhau trong hội hè, đoàn tụ gia đình hay dòng tộc. Mùa Xuân còn hướng chúng ta đến Đấng tạo thành. Chính Ngài đã làm cho con tạo xoay vần có Xuân – Hạ – Thu – Đông. Chính Ngài đã tô điểm cho mùa xuân thêm rạng ngời với ánh nắng lunh linh, với gió nhè nhẹ lượn quanh người. Ngài là chủ mùa Xuân. Ngài đã ban mùa xuân đến cho nhân trần. Ngài đã chúc phúc cho mùa xuân với biết bao niềm vui của hội hè đình đám. Chính Ngài đã tạo dựng mùa xuân đầu tiên nơi vườn địa đàng để Adam – Eva ngập tràn hạnh phúc yêu thương. Đó là một mùa xuân bất tận. Một mùa xuân trường sinh. Mùa xuân ấy đã kết thúc khi Adam – Eva quay lưng lại với Đấng tạo thành. Vườn xuân cũng khép lại. Cỏ dại và sự dữ đã đi vào trần gian.

Thế nên, hướng về mùa xuân con người được mời gọi giữ mãi mùa xuân trong lòng mình. Một mùa xuân ngập tràn niềm vui hạnh phúc khi con người sống trong ân nghĩa với Đấng tạo thành. Một mùa xuân ngập tràn yêu thương khi con người sống hòa thuận với nhau, tránh xa những đố kỵ ghen tương và cùng nhau xây dựng hòa bình. Đó chính là cách chúng ta gìn giữ mùa xuân trong cuộc đời chúng ta. Đừng như Adam đã đánh mất mùa xuân khi phạm tội quay lưng lại với Đấng tạo thành.

Hôm nay ngày đầu xuân chúng ta cũng cám ơn Ngài đã ban cho một Mùa Xuân với bao hương tình nồng ấm. Cám ơn Ngài đã dẵn dắt cuộc đời chúng ta đi qua những thăng trầm của giòng đời. Một giòng đời có xen lẫn buồn vui sướng khổ. Có nước mắt và nụ cười nhưng bàn tay quan phòng của Đấng tạo hóa luôn làm chủ mọi biến cố xảy ra trong cuộc đời con người. Đồng thời cũng phó dâng lên Ngài một năm mới vừa mới bắt đầu. Xin Ngài lì xì cho một năm mới thuận buồm xuôi gió, vạn sự như ý. Một năm mới “mã đáo thành công” với bao hạnh phúc trong cuộc đời. Xin Ngài làm chủ cuộc sống của chúng ta hôm nay và mãi mãi.

Ước gì mùa xuân mãi ở lại đây trong tâm hồn chúng ta khi có Chúa đồng hành, khi trung thành với giáo huấn của Chúa. Ước gì cuộc đời chúng ta luôn tươi trẻ vì có Chúa Xuân hiện diện chúc phúc cho cuộc đời chúng ta. Amen

Năm mới cầu gì?

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Năm mới, mọi người thường trao tặng nhau những lời cầu chúc thật tốt đẹp. Một trong những lời chúc được ưa chuộng nhất đó là lời chúc: Phúc – Lộc – Thọ. Lời chúc này được tạo nên bởi một hình tượng khá rõ nét với bộ Tam Đa: ông Phúc bế đứa trẻ; ông Lộc mặc phẩm phục đeo đai, trên đầu đội mão cánh chuồn; ông Thọ, người lùn thấp, đầu nhẵn bóng trán dô lên, một tay chống gậy, một tay cầm quả đào. Cả ba ông đều có chòm râu dài bạc trắng, nét mặt hồng hào, cười tươi rạng rỡ.

Vậy, Phúc- Lộc- Thọ: Các ông là ai?

Ông Phúc là Quách Tử Nghi – Thừa tướng thời nhà Đường. Ông là một vị quan thanh liêm nên cũng nghèo. Đổi lại nhà ông ngũ đại đồng đường, con cháu đề huề. Lúc ông mất, con cháu năm đời đều có đủ.

Ông Lộc là Đậu Tử Quân, làm Thừa tướng thời nhà Tấn. Trái ngược với Quách, Đậu là quan tham, tiền của như núi nhưng khi trăm tuổi không có người nối dõi.

Ông Thọ là Đông Phương Sóc, làm Thừa tướng thời nhà Hán. Ông này giỏi xu nịnh, được lòng vua nên hưởng nhiều bổng lộc. Ông mang lộc vua ban mua nhiều gái đẹp làm thê thiếp, mục đích dưỡng sinh. Và cũng sống dai, trên trăm tuổi. Khi chết thì chỉ có đứa chút bốn đời lo tang ma, còn cháu chắt chết hết cả.

Ba vị đó được người Trung Quốc dựng lên ba hình tượng, không phải để thờ mà để người đời nhìn gương đó mà lựa chọn cách sống cho phù hợp. Phúc –Lộc – Thọ có lối sống khác nhau. Phúc thì tử tế, còn cầu như Lộc Thọ là cầu cái vô phúc, liệu có ai muốn không?

Xem ra lời cầu chúc “Phúc – Lộc – Thọ” đã được hiểu sang một ý khác không còn mang ý nghĩa ban đầu của hình tượng Tam Đa. Nhưng thực tế, có lộc mà không có an bình, có Thọ mà không có niềm vui cũng là điều bất hạnh cho con người. Thế nên, không cần cầu cho có nhiều tiền, không cần cầu cho sống dai mà là cầu cho có phúc được hưởng niềm vui trong cuộc sống mới là quan yếu.

Có ai đó đã nói rằng: “Ghế cao chẳng bằng tuổi thọ cao. Tuổi thọ cao chẳng bằng niềm vui thanh cao”. Có được niềm vui thanh cao là hạnh phúc. Đây mới là mục đích tìm kiếm của đời người. Con người sinh ra để đi tìm hạnh phúc. Hạnh phúc là điều ai cũng khao khát, tìm kiếm suốt cả cuộc đời.

Tóm lại, Phúc – Lộc – Thọ là ước nguyện lớn nhất của mọi người. Thế nhưng, trong ba điều ước Phúc – Lộc – Thọ thì Phúc mới là điều chính yếu mà chúng ta cần cầu mong. Vì được đông con, có tiền, sống dai mà không có hạnh phúc thì cũng là những tháng ngày bất hạnh cho cuộc đời chúng ta.

Chúa Giê-su ngay trong bài giảng đầu tiên Ngài cũng nhắc đến cái Phúc của con người. Cái phúc của Chúa Giê-su không phải là con cháu đầy nhà. Cũng không phải là nhiều tiền nhiều của. Cũng không phải là sống lâu đến độ “bách niên giai lão”. Cái phúc mà Chúa mời gọi chúng ta ao ước, tìm kiếm là có Chúa ở cùng. Có Chúa làm gia nghiệp. Hay được Chúa xót thương…

Những mối phúc này hoàn toàn lệ thuộc vào sự tự do chọn lựa của chúng ta. Chọn Chúa để sống khó nghèo, thanh sạch, hiền lành, nhẫn nại, hy sinh…; Đổi lại người ấy được nhìn xem Thiên Chúa và có Chúa làm gia nghiệp đời đời.

Nhưng ở đời hôm nay người ta ít chọn Chúa khi mà nhu cầu hưởng thụ mỗi ngày một cao hơn. Người ta cần tiền để thoả mãn nhu cầu vật chất của mình lên không chịu sống khó nghèo. Có tiền người ta rải tiền trong các cuộc truy hoan trụỵ lạc. Thế nên, người ta ít sống thanh sạch. Cuộc sống luôn tất bật, bon chen, xô đẩy con người, khiến có mấy ai hiền lành, nhẫn nại, hy sinh…?

Hôm nay ngày đầu năm, chúng ta cầu chúc cho nhau một năm mới chứa chan ơn Phúc từ Trời. Xin cho chúng ta luôn là người có Phúc khi chọn Chúa làm gia nghiệp, khi chọn Chúa hơn những của cải mau qua trần gian. Xin cho chúng ta luôn tìm được niềm vui có Chúa ở cùng khi biết sống phụng sự Chúa với hết cả tấm lòng. Amen.

Năm Mới, Người Mới

(Mồng Một Tết Nguyên Đán – Cầu Bình An)

Năm mới, người ta chúc nhau theo Anh ngữ: “Happy New Year”. Tương tự, chúng ta có thể chúc nhau: “Happy New You”. Về tâm linh, chúng ta có thể chúc nhau: “Holy New Year” và “Holy New You”. Happy là Hạnh Phúc, Holy là Thánh, thiết tưởng đó là điều cần thiết như Chúa Giêsu khuyến cáo: “Hãy hoàn thiện như Cha trên trời” (Mt 5:48). Và đặc biệt hơn đối với Năm Thánh Lòng Thương Xót: “Hãy nhân từ như Chúa Cha” (Mt 6:36).

Năm mới, người mới – Tân niên, tân nhân. Tất cả cần mới và phải mới, biến đổi nên giống Chúa, biến đổi theo ý Chúa và biến đổi vì Chúa.

Tết là thời gian khởi đầu mùa Xuân, mùa đầu tiên trong tứ thời, bát tiết, và là khởi điểm của một năm mới. Theo Hán tự, chữ Tết được phát âm từ chữ “tiết”. Hai chữ “nguyên đán” có gốc chữ Hán: NGUYÊN là “sự khởi đầu”, ĐÁN là “buổi sáng sớm”. Phát âm đúng phải là “Tiết Nguyên Đán”, rồi người ta đọc trại ra là “Tết Nguyên Đán”. Người Trung Hoa gọi là “Xuân Tiết”. Tết Nguyên Đán còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm Lịch, Tết Cổ Truyền, hoặc đơn giản chỉ gọi là Tết. Vui Tết thì phải có được sự Bình An thực sự – cả tâm hồn và thể lý.

Tết là dịp tốt để nhớ đến nhau, thăm viếng nhau, cầu chúc điều tốt lành cho nhau – gọi là “tết nhau”. Với các Kitô hữu, người quan trọng nhất chúng ta phải tết là Thiên Chúa. Trong một dịp Tết, Thánh Faustina đã tâm sự với Thiên Chúa: “Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa trước về mọi thứ mà lòng nhân từ của Chúa sẽ ban cho con. Con cảm tạ Ngài về những sự thuận lợi và ân sủng tuôn đổ trên con mỗi ngày như sương mai lặng lẽ, con không thể cảm thấy, không con mắt nào có thể thấy, và chỉ có Ngài và con biết. Con cảm tạ Ngài về mọi điều đó” (Nhật Ký Thánh Faustina, số 1449). Tâm nguyện thật đẹp, tươi màu sắc thánh đức. Ước gì mỗi chúng ta cũng biết tâm nguyện với Thiên Chúa như vậy!

Thiên Chúa là Chúa Xuân tuyệt đối. Cung Chúc Chúa Xuân là điều chúng ta phải thực hiện, dù chúng ta chẳng thêm gì cho Ngài nhưng chính lời cung chúc và cảm tạ đó lại đem lại lợi ích cho chính chúng ta. Vả lại, chính Thiên Chúa đã tuyên phán: “Này đây Ta sáng tạo trời mới đất mới, không còn ai nhớ đến thuở ban đầu và nhắc lại trong tâm trí nữa. Nhưng thiên hạ sẽ vui mừng và luôn mãi hỷ hoan vì những gì chính Ta sáng tạo. Phải, này đây Ta sẽ tạo Giêrusalem nên nguồn hoan hỷ và dân ở đó thành nỗi vui mừng” (Is 65:17-18). Năm mới là một dạng “trời mới đất mới” mà Thiên Chúa tiếp tục cho chúng ta tận hưởng, dù có thế nào thì chúng ta vẫn phải biết cảm tạ Ngài về hồng ân này. Có nhiều người, ngay cả người thân của chúng ta, năm ngoái còn đó mà năm nay không còn được đón năm mới như chúng ta trong giây phút đầu Xuân này nữa. Dĩ nhiên họ có “trời mới đất mới” khác rồi.

Chính Thiên Chúa giải thích: “Vì Giêrusalem, Ta sẽ hoan hỷ, vì dân Ta, Ta sẽ nhảy mừng. Nơi đây, sẽ không còn nghe thấy tiếng than khóc kêu la. Nơi đây, sẽ không còn trẻ sơ sinh chết yểu và người già tuổi thọ không tròn; vì trăm tuổi mà chết là chết trẻ, và chưa tròn trăm tuổi mà chết là bị nguyền rủa. Người ta sẽ xây nhà và được ở, sẽ trồng nho và được ăn trái” (Is 65:18-21). Đó là miền đất hứa được Thiên Chúa tuyển chọn và chúc phúc, cuộc đời trần gian ngày nay không như vậy, nhưng vẫn theo quy luật của Chúa: “Tính tuổi thọ, trong ngoài bảy chục,

mạnh giỏi chăng là được tám mươi, mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ, cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi” (Tv 90:10).

Tất cả là hồng ân, dù sao chúng ta vẫn phải tạ ơn Chúa: “Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt, không để quân thù đắc chí nhạo cười con” (Tv 30:2). Không chỉ vậy, chúng ta còn phải nói cho người khác biết về lòng thương xót của Ngài: “Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng Chúa, cảm tạ thánh danh Người. Người nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời. Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống, hừng đông về đã vọng tiếng hò reo” (Tv 30:5-6).

Không ai lại không cần lòng thương xót của Ngài, vì ai cũng là tội nhân, ngay cả người công chính cũng phạm tội mỗi ngày 7 lần (x. Cn 24:16). Vì thế, chúng ta phải không ngừng kêu xin Ngài, kêu xin ngay từ giây phút đầu năm mới: “Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con, lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ. Khúc ai ca, Chúa đổi thành vũ điệu, cởi áo sô, mặc cho con lễ phục huy hoàng. Vì thế, tâm hồn con ca ngợi Chúa, và không hề nín lặng. Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, xin tạ ơn Ngài mãi mãi ngàn thu” Tv 30:11-13). Quả thật, “ngày nào có cái khổ của ngày đó” (Mt 6:34). Đời là thế, trần gian là vậy! Nhưng với tầm nhìn đức tin, cái KHỔ lại là cái PHÚC. Chúa Giêsu đã dùng Thập Giá để tới vinh quang, cái Chết không là chấm hết hoặc bị triệt, mà cái Chết hóa “ngưỡng cửa” bước vào Sự Sống vĩnh hằng. Vâng, cái giá lạnh mùa Đông để chuẩn bị cho mùa Xuân ấm áp, tươi đẹp. Thật kỳ diệu!

Năm mới. Ai cũng muốn mọi thứ đều mới, cả ngoại tại và nội tại. Người Đan Mạch đón năm mới bằng cách mang đĩa đến đập vào cửa nhà hàng xóm. Chủ nhà không tức giận mà còn rất vui, vì họ quan niệm rằng nhiều mảnh vỡ chén đĩa trước cửa nghĩa là gia chủ có nhiều bạn trung thành. Người Philippines đón năm mới bằng cách mặc trang phục có những “chấm tròn”, thực phẩm và trái cây hình tròn cũng xuất hiện trên bàn ăn của họ. Người Philippines quan niệm rằng chấm tròn sẽ mang lại sự phát triển thịnh vượng trong năm mới. Có thể chúng ta thấy kỳ cục, nhưng họ lại hạnh phúc. Nói chung, mọi phong tục tập quán đều muốn thể hiện sự mới mẻ của năm mới.

Thánh Gioan cũng có thị kiến về những cái mới: “Tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa. Và tôi thấy Thành Thánh là Giêrusalem mới, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang” (Kh 21:1-2). Có lẽ chẳng ai đẹp như tân nương và tân lang trong ngày cưới, vì họ mới cả thể lý lẫn tâm hồn – họ vui vì hạnh phúc, tức là họ “mới” hơn trước rất nhiều.

Thánh Gioan cho biêt1 từ cái mới này tới cái mới khác. Từ phía ngai có tiếng hô to: “Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21:3-4). Vùng “trới mới, đất mới” của Thiên Chúa thật kỳ diệu, khôn tả. Cái mới thì thường khiến người ta thấy lạ – Việt ngữ nói ghép chung: Mới lạ. Cái lạ có thể là cái rất kỳ lạ.

Cái mới lạ của Thiên Chúa vượt ngoài tầm hiểu của chúng ta. Thật vậy, Đấng ngự trên ngai nói với Thánh Gioan: “Này đây Ta đổi mới mọi sự. Ngươi hãy viết: Đây là những lời đáng tin cậy và chân thật. Xong cả rồi! Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là Khởi Nguyên và Tận Cùng. Chính Ta sẽ ban cho ai khát được uống nơi nguồn nước trường sinh, mà không phải trả tiền” (Kh 21:5-6). Nước trường sinh là nước hằng sống, chính nước này sẽ biến người ta nên mới hoàn toàn, cả hồn và xác. Đổi mới bên ngoài là điều cần, nhưng đổi mới bên trong còn cần hơn. Làm sao đổi mới? Đây là bí quyết đổi mới:“Ai giữ lời Đức Kitô dạy, thì nơi kẻ ấy, tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo” (1 Ga 2:5).

Ai tuân giữ lời Đức Kitô là người hoàn hảo. Lời Ngài nhiều lắm, nhưng tóm lại chỉ là yêu thương, tức là biết thương xót. Luật Yêu là Thiên Luật, ngắn gọn lắm!

Trình thuật Mt 5:43-48 cho biết: Một hôm, Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính”. Thiên Chúa chí minh và chí công, không thiên vị bất kỳ ai (x. Gl 2:6; Cv 10:34). Là con cái Ngài, chúng ta không thể sống khác. Thánh Giacôbê nói: “Anh em đã tin vào Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Chúa vinh quang, thì đừng đối xử thiên tư” (Gc 2:1). Và Thánh Giacôbê giải thích: “Nếu anh em đối xử thiên tư thì anh em phạm một tội và bị Lề Luật kết án là kẻ vi phạm” (Gc 2:9). Thật lạ, vì hoàn toàn khác, không như chúng ta tưởng!

Chính Chúa Giêsu cũng đã giải thích cặn kẽ và cụ thể: “Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao?”. Quá đỗi chí lý! Chắc chắn không ai có thể biện hộ được gì. Đầu năm, đầu tháng, tết nhất mà nhắc tới vấn đề này thì thật là… “ngại” hết sức, cảm thấy “lùng bùng lỗ tai” lắm, thế nhưng phải vậy thôi. Đầu xuôi thì đuôi mới lọt. Thà mất lòng trước mà được lòng sau. Đầu năm có xác định rạch ròi thì cả năm cứ thế mà xuôi theo. Thế mới là đổi mới, mới từ trong ra ngoài, nhờ đó mà cuộc sống khả dĩ tươi màu như sắc Mai vàng ngày Xuân.

Cuối cùng, Chúa Giêsu vừa mời gọi vừa khuyến cáo, và cũng vừa “bật mí” cho chúng ta cách đổi mới: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Hoàn thiện là đổi mới, chúng ta không đổi mới theo kiểu của mình mà theo kiểu của Thiên Chúa Cha. Quyết tâm đổi mới là lời Chúc Xuân tốt đẹp kính dâng lên Thiên Chúa trong ngày Tết cổ truyền này. Chính nhờ vậy mà chúng ta chắc chắn được Ngài ban cho sự bình an đích thực – bình an cả tâm hồn và thể lý.

Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh, là Đầu và Cuối của cuộc đời chúng con, xin giúp chúng con biết đổi mới mỗi ngày một hơn theo đúng Thánh Ý Ngài, nên giống Tôn Nhan Thương Xót của Ngài. Chúng con xin phó thác trọn năm mới này cho Ngài, tất cả xin nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài, để mọi sự tốt đẹp từ khởi sự cho đến hoàn thành, và để vinh danh Ngài. Xin ban cho Nước Việt nhỏ bé của chúng con được bình an. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

Chúa Là Mùa Xuân Vĩnh Cửu

Trong bầu không khí hân hoan của cả dân tộc đón mừng năm mới, chúng ta quy tụ nhau nơi ngôi nhà thờ thân thương này, để cùng nhau ca tụng Thiên Chúa là Mùa Xuân Vĩnh Cửu thì thật là ý nghĩa và hợp lý biết chừng nào!

Khi niềm vui của chúng ta được quyện vào tình thương của Chúa, thì niềm vui của mỗi người được trở nên trọn vẹn. Điều này đã được thánh Phaolô nhắc các tín hữu của Ngài: “Anh em hãy vui lên trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em” (Pl 4,4).

Không vui sao được, vì đối với người Công Giáo, niềm vui không chỉ dừng lại ở mùa xuân tự nhiên, mùa xuân của đất trời, hay mùa xuân của lòng người, mà niềm vui ấy còn được dâng cao để hòa quyện vào niềm vui Ơn Thánh, niềm vui của Màu Xuân Vĩnh Cửu.

  1. Niềm vui khi mùa xuân tự nhiên đến

Một quy luật tuần hoàn, sau 365 ngày, đất trời lại có mùa xuân mới. Cứ thế, nó đã đi vào quy luật tự nhiên. Quả thật:“Xuân khứ, xuân lai, xuân bất tận. Xuân đến, xuân đi, xuân lại về”. Có mùa xuân, bởi vì trái đất vần xoay, nên hết xuân sang hạ, hết hạ sang thu, hết thu sang đông và hết đông lại sang xuân.

Đây là quy luật của Tạo Hóa, Đấng đã cho tứ thời bát tiết chuyển xoay… khi mùa xuân đến, mọi người, mọi nhà, đều được hưởng niềm vui!

Vì thế, trên khuôn mặt mỗi người đều nở những nụ cười tươi vui, hạnh phúc, vì ai ai cũng được tận hưởng mùa xuân. Niềm vui ấy không thể giữ lại cho riêng mình, vì thế, chúng ta thường trao tặng cho nhau những lời cầu chúc tốt đẹp. Mong cho mọi người phúc ấm bền lâu, khang an thịnh đạt, phúc, lộc, thọ…

Thật là ý nghĩa khi mỗi người đều mong cho mình và cho tha nhân được: “Tân niên thánh đức bao ân phúc, xuân nhật an hòa mãi phú vinh”.

Tại sao có được niềm vui dạt dào nơi mọi người như vậy, thưa, bởi vì tự đáy lòng, con người cũng nở rộ mùa xuân.

  1. Mùa Xuân của lòng người

Nếu xuân tự nhiên nơi đất trời là do quy luật tuần hoàn, thì xuân của lòng người hoàn toàn khác, bởi nó không tự đến rồi lại tự đi, mà phải do dày công vun đắp màu xuân mới có.

Vì thế, mùa xuân nơi lòng người, mỗi người cảm nghiệm mỗi khác, không ai giống ai. Có người thì vui, có kẻ lại buồn. Có người hạnh phúc, có người bất an. Có người được quây quần, có người chia ly. Có người được đoàn tụ, có kẻ bị cô đơn. Có người ấm lòng, có người lạnh tanh…

Như vậy, mùa xuân năm nay, có lẽ phải đặt ra cho mỗi người chúng ta một câu hỏi mà có nhiều người xem ra thật vớ vẩn, ngẩn ngơ, đó là: tết năm nay, xuân năm nay, bạn buồn hay vui???

Nhưng nghĩ suy một chút thì phải chăng câu hỏi đó không đến nỗi hẩm hiu, nhưng nó gợi lại cho chúng ta về niềm vui, hạnh phúc có hay không trong năm mới, trong mùa xuân này!

Thật ra thì năm hết, tết đến, có người vui vì thu được nhiều tiền, buôn may bán đắt, gia đình xum họp, thêm con dâu, có con dể, đầy đủ ấm êm…

Nhưng cũng có biết bao nhiêu cảnh đời éo le! Năm mới mà nhà nghèo hơn ngày thường! Không có tiền, không có tình yêu! Cha mẹ ly tán, con cái bơ vơ…!

Hay nhìn rộng ra, mùa xuân là mùa của niềm vui, của hy vọng, nhưng niềm vui đâu chẳng thấy, hy vọng có lẽ là thứ xa xỉ phẩm khi thấy quá nhiều bất công, áp bức, bóc lột, đâm chém, xì ke ma túy; đạo đức giáo dục xuống cấp, học sinh như người vô học, con cái lếu láo với cha mẹ, cha mẹ vô trách nhiệm với con cái, bạn bè phản bội nhau…

Khi suy nghĩ như thế, chúng ta thấy, niềm vui của lòng người bị giới hạn vào tâm trạng nội tâm, vì thế cảm xúc hoàn toàn khác nhau!

Tuy nhiên, với người Công Giáo, chúng ta gặp nhau ở một điểm, đó là mùa xuân tự nhiên, kết hợp với lòng người và vươn tới Mùa Xuân Ơn Thánh.

  1. Mùa Xuân Ơn Thánh

Nếu mùa xuân tự nhiên cứ đều đặn tuần hoàn nối tiếp: “Xuân khứ, xuân lai, xuân bất tận”, hay mùa xuân của lòng người phụ thuộc vào thành quả hay tâm trạng chủ quan, thì Mùa Xuân Ơn Thánh là một mùa xuân bất diệt, toàn diện và được trao tặng cho hết mọi người…

Tuy nhiên, Mùa Xuân Ơn Thánh này lại phụ thuộc vào mỗi người, nếu đón nhận thì được dồi dào, phong phú, nhưng không đón nhận thì trơ trụi, cằn khô.

Một trong những nguyên nhân khiến con người không có Mùa Xuân Ơn Thánh, đó là: tâm hồn tràn ngập tội lỗi, ích kỷ, kiêu ngạo, bất công… Những người như thế, họ luôn mang trong tâm hồn mình một trạng thái bất an, tù túng, và không chừng, linh hồn sẽ bị chết chóc, sầu thương ảm đạm!

Chỉ khi nào con người biết khôn ngoan quay trở về với Chúa, rộng tay làm phúc cho kẻ túng nghèo và lo sống một cuộc đời thánh thiện, thì sẽ được Thiên Chúa ân chúc phúc. Lúc đó, con người mới hưởng được Mùa Xuân Ơn Thánh, nói cách khác, lúc đó Mùa Xuân Vĩnh Cửu mới hiện về trong tâm hồn của con người.

Nói cách cụ thể hơn, nếu muốn cho mùa xuân trở về trong trái tim chúng ta, thì chúng ta phải thực sự trở nên giống trẻ thơ để đón nhận tình thương của Thiên Chúa, vì Mùa Xuân Ơn Thánh chỉ đến với tâm hồn đơn sơ trong trắng mà thôi.

Khi có tâm hồn đơn sơ trong trắng, chúng ta phó thác đường đời cho Chúa, và phần còn lại, đó là chúng ta đi trong đường lối của Ngài để được dồi dào ân lộc: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay”. Vì “Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho ; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao ?”.

Hôm nay, ngày đầu năm mới, mỗi người chúng ta hãy cầu chúc cho nhau một năm mới không chỉ dừng lại ở niềm vui của mùa xuân đất trời, cũng không hệ tại lòng người, nhưng chúng ta luôn hướng lòng về Mùa Xuân Ơn Thánh – Vĩnh Cửu.

Ước mong Mùa Xuân Ơn Thánh – Màu Xuân Vĩnh Cửu luôn ngự trị trong tâm hồn của chúng ta, để mỗi người chan chứa ân sủng và bình an trong năm mới này.

Kính chúc cộng đoàn một năm mới luôn luôn dạt dào ơn thánh, để:

“Xuân sang cội phúc sinh nhành lộc. Tết về cây đức trổ thêm hoa”. Amen.

Trời Ban Heo Đất Trong Nhà

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Hôm nay ngày đầu năm Con Lợn tôi xin kể một câu chuyện cười ra nước mắt của tôi về con lợn.

Một buổi chiều trước khi tắm tôi mở tivi, thấy con bé trên ti vi nói: da hồng hào, lông tơmịn màng là dấu chỉ khỏe mạnh. Tôi liền ngó vào gương thấy mặt cũng hồng, xoa vào tay thấy lông cũng mịn, lòng mừng phấn khở, tôi mỉn cười một mình thì nghecon bé nói tiếp: “kính thưa, quý bà con cô bác, chương trình chăn nuôi lợn tới đây là hết”!Hoá ra nó nói con lợn các bác ạ!Xâu hổ quá thôi đành đi tắm vậy!

Nói gì thì nói: con lợnvẫn là hình ảnh của sự nhàn hạ, có của ăn của để và là dấu chỉ sự khỏe mạnh:

“Trông mặt mà bắt hình dong

Con lợn có béo thì lòng mới ngon”

Lợn còn làm biểu tượng cho sự giàu có sung túc qua các lễ hội, đám đình vì thế dân gian Việt đã đặt ra bài ca dao sau đây:

Thịt lợn nấu với măng hầm

Chờ ba ngày Tết, bà… quằm với ông.

Đối với người Việt Nam con lợn còn là vốn liếng để dành mà nhà nào cũng cần có để khi hữu sự mang ra dùng. Nhưng nuôi thì nuôi chứ cũng phải nhờ Trời chúc phúc mới có của dư của để, bằng không lại ế dài như câu ca dao đùa cợt cảnh mấy bà gánh heo đi rồi lại gánh về:

“Ba bà đi bán lợn con

Bán đi chẳng được lon ton chạy về

Ba bà đi bán lợn sề

Bán đi chẳng được chạy về lon ton”

Ngày đầu năm chúng ta hay thăm hỏi nhau bạn làm ăn thế nào? Cuộc sống của bạn có bình an không? Dường như ai cũng khiêm tốn trả lời: nhờ ơn Trời mà năm nay làm ăn tốt hơn. Nhờ ơn Chúa mà được bình an mọi sự. Như năm nay nhiều nhà không bị dịch tai xanh thì nói : nhờ ơn Trời mà nhà con không bị một con nào.

Nhà thơ Nguyễn Du năm xưa cũng từng tin vào Trời. Ông Trời định đoạt mọi sự cho nhân gian.

Trời còn để có hôm nay

Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời

Quả thực, “Trời còn để có hôm nay”  để sống, để nhìn thấy nhau, là ân ban bởi Trời. Mỗi ngày là một tặng phẩm của đất trời. Dầu không biết ngày mai sẽ ra sao nhưng vẫn phải trân quý giây phút hiện tại để cám tạ ơn Trời đã ban cho chúng ta được đoàn viên hôm nay. Dẫu rằng có những lúc : “Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời”, thế nhưngsau  những rủi ro, cùng cực, khổ đau, thao thức, ba đào… Trời vẫn cho chúng ta có ngày hôm nay để có thề sum vầy bên nhau.

Với tâm tình mùa xuân không chỉ hướng lòng con người đến với nhau trong hội hè, đoàn tụ gia đình hay dòng tộc. Mùa Xuân còn hướng chúng ta đến Đấng tạo thành. Chính Ngài đã làm cho con tạo xoay vần có Xuân – Hạ – Thu – Đông. Chính Ngài đã tô điểm cho mùa xuân thêm rạng ngời với ánh nắng lung linh, với gió nhè nhẹ lượn quanh người. Ngài là chủ mùa Xuân. Ngài đã ban mùa xuân đến cho nhân trần. Ngài đã chúc phúc cho mùa xuân với biết bao niềm vui của hội hè đình đám. Chính Ngài đã tạo dựng mùa xuân đầu tiên nơi vườn địa đàng để Adam – Eva ngập tràn hạnh phúc yêu thương. Đó là một mùa xuân bất tận. Một mùa xuân trường sinh. Mùa xuân ấy đã kết thúc khi Adam –Eva quay lưng lại với Đấng tạo thành. Vườn xuân cũng khép lại. Cỏ dại và sự dữ đã đi vào trần gian.

  Thế nên, hướng về mùa xuân con người được mời gọi giữ mãi mùa xuân trong lòng mình. Một mùa xuân ngập tràn niềm vui hạnh phúc khi con người sống trong ân nghĩa với Đấng tạo thành. Một mùa xuân ngập tràn yêu thương khi con người sống hòa thuận với nhau, tránh xa những đố kỵ ghen tương và cùng nhau xây dựng hòa bình. Đó chính là cách chúng ta gìn giữ mùa xuân trong cuộc đời chúng ta. Đừng như Adam đã đánh mất mùa xuân khi phạm tội quay lưng lại với Đấng tạo thành.

  Hôm nay ngày đầu xuân chúng ta cũng cám ơn Ngài đã ban cho một Mùa Xuân với bao hương tình nồng ấm. Cám ơn Ngài đã dẫn dắt cuộc đời chúng ta đi qua những thăng trầm của dòng đời. Một dòng đời có xen lẫn buồn vui sướng khổ. Có nước mắt và nụ cười nhưng bàn tay quan phòng của Đấng tạo hóa luôn làm chủ mọi biến cố xảy ra trong cuộc đời con người. Đồng thời cũng phó dâng lên Ngài một năm mới vừa mới bắt đầu. Xin Ngài lì xì cho chúng ta một năm mới thuận buồm xuôi gió, vạn sự như ý. Một năm mới ngày nào cũng có “Thịt heo nấu với măng hầm” với của ăn của để như tích được heo đất trong nhà. Xin Ngài làm chủ cuộc sống của chúng ta hôm nay và mãi mãi.

Ước gì mùa xuân mãi ở lại đây trong tâm hồn chúng ta khi có Chúa đồng hành, khi trung thành với giáo huấn của Chúa. Ước gì cuộc đời chúng ta luôn tươi trẻ vì có Chúa Xuân hiện diện chúc phúc cho cuộc đời chúng ta. Amen