Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 3 Thường Niên

Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 3 Thường Niên

THỨ HAI TUẦN 3 THƯỜNG NIÊN.

THỨ BA TUẦN 3 THƯỜNG NIÊN..

THỨ TƯ TUẦN 3 THƯỜNG NIÊN.

THỨ NĂM TUẦN 3 THƯỜNG NIÊN.

THỨ SÁU TUẦN 3 THƯỜNG NIÊN.

THỨ BẢY TUẦN 3 THƯỜNG NIÊN.

THỨ HAI TUẦN 3 THƯỜNG NIÊN

LỜI CHÚA: Mc 3, 22-30

Khi ấy, những luật sĩ từ Giêrusalem xuống nói rằng: “Ông ấy bị quỷ Belgiêbút ám”, và nói thêm rằng: “Chính nhờ tướng quỷ mà ông ấy trừ quỷ”.

Khi đã gọi họ lại, Chúa Giêsu phán bằng dụ ngôn rằng: “Satan lại trừ Satan làm sao được? Nếu một nước mà tự chia rẽ nhau, thì nước đó tồn tại làm sao được? Vậy nếu Satan dấy lên chống đối với chính mình và tự phân tán, thì nó không thể đứng vững được mà phải diệt vong. Chẳng ai có thể vào nhà một người khoẻ mạnh và cướp của y, nếu không trói được y trước đã, rồi sau mới cướp phá nhà y.

Quả thật, Ta bảo các ông hay, mọi tội lỗi và mọi lời phạm thượng của con cái loài người sẽ được tha hết, nhưng kẻ nào nói phạm đến Chúa Thánh Thần, sẽ muôn đời không bao giờ được tha: nó mắc tội muôn đời”. Ðó là vì họ nói “Người bị thần ô uế ám”.

Suy Niệm 1: Vào nhà một người mạnh

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Thân nhân của Đức Giêsu đã tưởng Ngài bị mất trí (c. 21),

nhưng có thể họ không nghĩ Ngài bị quỷ ám,

dù trong thế giới ngày xưa, mất trí thường bị coi là do quỷ ám.

Các kinh sư đến từ thủ đô Giêrusalem có thái độ quyết liệt hơn nhiều.

Họ tố cáo Đức Giêsu là người bị quỷ ám,

không phải quỷ thường, mà là quỷ vương Bêendêbun.

Hơn nữa, họ cho rằng Ngài trừ quỷ nhờ dựa thế của quỷ vương (c. 22).

Lời tố cáo trên đây của những kinh sư thật là nghiêm trọng,

vì ai dựa thế như vậy là thông đồng với quỷ, có thể bị xử tử.

Đức Giêsu đã trả lời tố cáo này bằng hai hình ảnh về Nước và Nhà.

Đức Giêsu nhìn nhận sự hiện diện

và hoạt động của Nước Xatan trong thế gian này.

Nước này có tôn ti trật tự, được lãnh đạo bởi quỷ vương,

đó là Xatan hay Bêendêbun, kẻ cầm đầu các quỷ nhỏ (c. 22).

Xatan muốn bành trướng Nước của mình trong thế giới loài người.

Nó sai các quỷ nhỏ đi khắp nơi lôi kéo mọi người chẳng trừ ai.

Theo thánh Inhaxiô, Xatan thường cám dỗ ta theo ba bước:

từ sự ham muốn của cải, đến hư danh thế gian, và cuối cùng là kiêu ngạo,

rồi sau đó đi đến mọi nết xấu khác (Linh Thao 142).

Như thế Xatan khôn khéo đánh bẫy và trói buộc con người.

Đức Giêsu đã không bắt tay với Xatan để đuổi các quỷ cấp dưới.

Ngài tấn công trực diện vào Nước của Xatan,

phá đổ Nước này và khai mở Nước Thiên Chúa (Lc 11, 20).

Cuộc chiến không dễ dàng và còn kéo dài đến tận thế.

Thế giới hôm qua cũng như hôm nay được ví như một ngôi nhà.

Tiếc thay ngôi nhà đó ít nhiều đã bị Xatan cưỡng đoạt.

Xatan chính là kẻ mạnh đã biến ngôi nhà đó thành của mình (c. 27).

Nhưng Đức Giêsu lại là người mạnh hơn (Mc 1, 7).

Người mạnh hơn đã trói kẻ mạnh lại và tước đoạt những gì nó đã chiếm.

Tước đoạt chính là giải thoát những ai bị Xatan cầm giữ,

và trả lại cho họ quyền làm chủ đời mình, quyền sở hữu căn nhà của họ.

Hôm nay, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục tấn công Xatan.

Ngài không ngừng chinh phục thế giới này cho Thiên Chúa,

và mời chúng ta cộng tác để xây dựng Nước Chúa trên trần gian.

Nhờ Thánh Thần của Thiên Chúa mà Đức Giêsu trừ quỷ (Mt 12, 28),

nên ai bảo Ngài trừ quỷ nhờ quỷ vương Xatan hay Bêendêbun,

thì xúc phạm đến Thánh Thần, coi Thánh Thần như thần ô uế (c. 30).

Đức Giêsu không phải là người có thần ô uế.

Ngài có đầy ắp Thánh Thần trong mọi lời nói việc làm.

Chỉ ai cố chấp, bướng bỉnh mới không nhận ra điều đó.

Mọi tội lỗi đều có thể được thứ tha (c. 28),

trừ tội khép lòng từ chối ơn tha thứ của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu.

Làm sao giúp con người hôm nay mềm mại mở ra

để nhận thấy Thánh Thần vẫn đang hiện diện trong Giáo Hội?

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

dân làng Nazareth đã không tin Chúa

vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.

Các môn đệ đã không tin Chúa

khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.

Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa

chỉ vì Chúa sống như một con người,

Cũng có lúc chúng con không tin Chúa

hiện diện dưới hình bánh mong manh,

nơi một linh mục yếu đuối,

trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.

Dường như Chúa thích ẩn mình

nơi những gì thế gian chê bỏ,

để chúng con tập nhận ra Ngài

bằng con mắt đức tin.

Xin thêm đức tin cho chúng con

để khiêm tốn thấy Ngài

tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống. Amen.

Suy Niệm 2: Sức mạnh của Chúa

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Dân Ít-ra-en khi tấn phong Đa-vít làm vua đã trích dẫn lời Chúa: “Chính ngươi sẽ chăn dắt Ít-ra-en, dân Ta, chính ngươi sẽ là người lãnh đạo Ít-ra-en”. Quả thực “Vua Đa-vít ngày càng mạnh thế, và Đức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh ở với vua”. Nên vua đánh đâu thắng đó. Thu thập các dân tộc chung quanh. Thu hồi đất đai Chúa hứa. Xây dựng vương quốc hùng mạnh. Danh tiếng lừng lẫy. Trở thành vị vua mẫu mực. Dân Ít-ra-en muôn đời tưởng nhớ. Và chờ mong một vị vua mới từ dòng dõi vua Đa-vít sẽ xuất hiện. Phục hồi vương quốc hùng mạnh, danh tiếng thuở xưa (năm chẵn).

Lời tiên báo đến thời thực hiện. Niềm chờ mong đã được đáp đền. Chúa Giê-su đến với sức mạnh vô biên của Thiên Chúa. Con người dẫu mạnh mẽ cũng chỉ thắng được con người thôi. Chưa có ai thắng được ma quỉ. Thế lực siêu nhiên luôn thống trị con người. Thế mà Chúa Giê-su đã chiến thắng ma quỉ. Ra lệnh cho ma quỉ. Xua trừ ma quỉ ra khỏi con người. Các kinh sư thấy sức mạnh của Chúa không những không tin mà còn vu cáo Chúa chính là tướng quỉ nên ma qủi mới thuần phục. Chúa Giê-su đã vạch rõ ác ý của họ khi chứng minh lời họ là sai ở cả hai phía. Xa-tan tự chia rẽ cũng tận số. Và nếu có người mạnh đến chiến thắng thì Xa-tan cũng tận số: “Nếu Xa-tan mà chống Xa-tan, Xa-tan mà tự chia rẽ, thì không thể tồn tại, nhưng đã tận số. Không ai có thể vào nhà kẻ mạnh mà cướp của được, nêu không trói kẻ mạnh ấy trước đã, rồi mới cướp sạch nhà nó”.

Sức mạnh vô biên của Thiên Chúa thể hiện nơi Chúa Giê-su là tình yêu. Tình yêu lớn lao chưa từng có. Là dám hi sinh tính mạng vì người mình yêu. Chúa Giê-su bày tỏ sức mạnh vô biên trong tình yêu vô biên dám chấp nhận cái chết. Đã trở thành “trung gian của một Giao Ước Mới, lấy cái chết của mình mà chuộc tội lỗi người ta đã phạm trong thời giao ước cũ”. Với quyền năng vô biên, ngài chỉ dâng hiến một lần là đủ: “Người đã xuất hiện chỉ một lần, để tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình”. Ma quỉ chỉ mạnh khi người ta tội lỗi. Nay Chúa Giê-su tiêu diệt tội lỗi. Nên ma quỉ mất hết quyền lực. Con người được giải phóng, được “kêu gọi lãnh nhận gia nghiệp vĩnh cửu” (năm lẻ).

Tình yêu Chúa lớn vô biên. Tình yêu trở thành quyền năng vô biên. Đó là điều làm cho ta tin tưởng. Trong quyền năng Chúa ta được cứu chuộc. Trong tình yêu Chúa ta được yêu thương. Lạy Chúa, xin hãy đến giải thoát con khỏi mọi thế lực của ma quỉ.

 

Suy Niệm 3: Tội ngoan cố

Hoạt động của Chúa Giêsu ở Capharnaum, miền Bắc Galilê, đã có một tiếng vang đến Yêrusalem, là trung tâm sinh hoạt tôn giáo của Israel thời Chúa Giêsu. Tuy nhiên, cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và các luật sĩ từ Yêrusalem đến chẳng có gì là tốt đẹp, mà chỉ phơi bày sự ngoan cố của các kẻ thù của Chúa. Sự ngoan cố khước từ đó đạt tới cao điểm khi họ giải thích sai lạc việc Chúa Giêsu dùng quyền năng của mình xua trừ ma quỷ ra khỏi con người, mang lại sức khỏe cho con người.

Chúa Giêsu đã rao giảng một cách có uy tín trong vùng Galilê, quanh thành Capharnaum, cùng với những dấu chỉ kỳ diệu chứng tỏ lòng nhân từ của Chúa đối với con người, đồng thời chứng minh quyền năng thần linh của Ngài. Các luật sĩ từ Yêrusalem đến, lẽ ra hơn ai hết, họ phải hiểu được những dấu chỉ kỳ diệu này, vì họ là những con người tôn giáo chuyên môn về Lời Chúa. Nếu Chúa Giêsu chỉ nói suông mà thôi, thì sự ngoan cố của các kẻ chống đối Chúa có thể còn tha thứ được, nhưng đàng này, Ngài đã thực hiện những dấu lạ để chứng tỏ quyền năng thần linh của Ngài: Ngài đã chữa người bại liệt để chứng minh Ngài có quyền tha tội; Ngài đã ra lệnh cho quỷ dữ ra khỏi nhiều người và chúng đã vâng phục.

Trước những hành động kỳ diệu của quyền năng Thiên Chúa, những kẻ chống đối Ngài nói rằng Ngài đã bị quỷ Beelzebul ám và đã dùng quyền của quỷ vương để trừ quỷ. Thật không có sự ngoan cố nào nặng nề hơn: một vị Thiên Chúa mà lại bị các nhà thông luật gán cho tước hiệu đầu mục của quỷ. Ðó là một sự xúc phạm không thể tha thứ được, vì là tội phạm đến Thánh Thần. Thiên Chúa quyền năng có thể tha thứ mọi tội lỗi nhưng Ngài không thể cứu con người, nếu con người cứ đóng kín tâm hồn mình trước ân sủng và sự soi sáng của Thiên Chúa.

Xin Chúa cho chúng ta xác tín vào chương trình cứu rỗi yêu thương của Ngài được thực hiện qua Chúa Giêsu Kitô, để chúng ta đáng được hưởng ơn cứu độ của Chúa.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Suy Niệm 4: Nguyên tắc sống không mâu thuẫn

Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được. Người liền gọi họ đến, dùng dụ ngôn mà nói với họ: “Sa tan làm sao trừ Sa tan được? Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền.” (Mc. 3, 20. 23-24)

Chúa Giêsu vẫn có những kẻ luôn rình mò Người, họ không ngại đẩy Người vào những cuộc tranh luận ở nơi công cộng. Hôm nay, các kinh sư từ Giêrusalem xuống đả kích chính tư cách bản thân Người: “Ông ấy bị thần ô uế ám”.

Tố cáo

Theo cái nhìn của những kinh sư, Chúa Giêsu là con người có nhiều mâu thuẫn. Người cho mình là Thiên Chúa mà lại không tôn trọng luật giữ ngày sa-bát? Người giao du quá dễ dàng với những người tội lỗi và quân thu thuế. Người giảng dạy và chữa bệnh với uy quyền như vậy mà lại không giữ được tư cách đàng hoàng. Tại sao và tại sao? Tóm lại, những kinh sư cho rằng Chúa Giêsu chẳng có gì phù hợp với quan niệm hay mô hình về một ngôn sứ hoặc người công chính theo như họ tưởng.

Bào chữa

Đáp lại những lời tố cáo của các kinh sư, Chúa Giêsu cho họ thấy nơi Người không có gì là mâu thuẫn cả, viện lẽ rằng không ai lại tự hủy diệt chính mình. Khi giao tiếp với ác thần, Người có tiêu diệt được nó không? Khi can thiệp để chữa cho một người bị qủy ám, chẳng phải vì Người có quyền trên thần ô uế đó sao?

Chúng ta có liên đới vơi Người không?

Đến lượt mình, người tín hữu cũng sẽ bị người đời chất vấn: bạn theo ai? Người tín hữu cũng như bất cứ ai hằng gắn bó với một giáo thuyết hay một mẫu gương nào đó và muốn sống trọn với điều ôm ấp ấy, sớm muộn gì cũng sẽ phải trả lời cho biết hành động của mình có đi đôi với giáo thuyết mình tán dương không.

Nhưng cũng phải nhìn nhận rằng, ngày nay chúng ta phải chịu nhiều tố cáo và phê phán, là bởi tại đời sống làm chứng của ta không thật trong sáng, vả chăng lại còn nhiều cách biệt và mâu thuẫn giữa việc ta làm và lời Chúa dạy. Ta vẫn biết cầu nguyện là cần thiết và phải dành thời giờ cho việc ấy, nhưng sự cần thiết và thời gian được dành có phù hợp với nhau không? Ta có phấn đấu và tẩy sạch những lu mờ để đời sống bác ái của ta là tấm gương sáng phản ảnh Chúa, và trở nên Thân thể Chúa Kitô không?

Tóm lại, các kinh sư là những người hay chất vấn. Những kinh sư của thời nay cũng vẫn còn dựa vào nguyên tắc “Ngôn hành tương ứng” nói sao làm vậy để đo lường giá trị con người của ta: cây tốt thì sinh quả tốt…. Cây tốt không thể sinh quả xấu. Họ không lầm để kiểm tra ta trong vấn đề này.

Suy Niệm 5: Thích ứng để truyền giáo

Đọc lại lịch sử truyền giáo của các nhà thừa sai trên Miền Thượng (Tây Nguyên – Việt Nam) trong cuốn: “Dân Làng Hồ”, tác giả cho thấy rất rõ yếu tố sống còn, thành công hay thất bại, phụ thuộc rất nhiều vào việc thích ứng hay không thích ứng của các thừa sai!

Khi nói đến truyền giáo, yếu tố thích ứng là điều rất quan trọng, vì thế, trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhấn mạnh đến yếu tố này khi sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng và truyền cho họ  đừng mang theo bao bị, giày dép, túi tiền… Người ta cho ăn thức ăn gì thì hãy ăn. Điều này ngược lại với quan niệm của người Pharisêu, vì mỗi khi họ đi đâu xa, thường thì họ luôn chuẩn bị cho mình những thứ căn bản như tiền, bao bị và thức ăn để đảm bảo sự thanh sạch, vì nếu không có những thứ đó, họ e sợ bị nhiễm uế nơi dân ngoại…

Người môn đệ của Đức Giêsu phải khác! Khác để hiệp nhất, hiệp thông, hòa đồng; khác để sống tình huynh đệ, bác ái; khác để thích ứng và hội nhập; khác để làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa; khác để sống phó thác trong sự an bài của Thiên Chúa.

Điều quan trọng là nhà thừa sai phải là người cảm nghiệm được sự bình an sâu xa từ trong nội tâm khi phó thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa và sống hết mình với anh chị em mình, có thế, món quà quý giá mà người thừa sai trao ban cho con người chính là sự bình an, niềm vui và hạnh phúc.

Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, mỗi người được trao phó trách nhiệm làm ngôn sứ cho Chúa. Tức là chúng ta có trách nhiệm giới thiệu Chúa cho người khác. Trở nên chứng nhân trong cuộc sống đời thường của mình. Đây là sứ mạng mà Chúa tin tưởng, ủy thác cho chúng ta. Vậy, chúng ta đã ý thức và thi hành sứ vụ đó ra sao?

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con bình an của Chúa, để chúng con biết chia sẻ sự bình an đó cho người khác. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 6: Uy quyền Thiên Chúa chiến thắng quỷ dữ

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Đức Kitô dùng uy quyền của Thiên Chúa để chiến thắng quỷ dữ. Muốn chiến thắng quỷ dữ, ta cũng phải cậy nhờ quyền năng của Thánh Thần.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, thật là vinh phúc cho con. Con đã được Chúa gọi vào số những môn đệ của Chúa. Chúa đã dùng chính cái chết của Chúa để chiến thắng quỷ dữ và dẫn đưa con vào giao ước tình yêu.

Lạy Chúa, xin Chúa giúp con biết liên kết với Chúa để nhờ ơn Chúa con chiến thắng được quỷ dữ. Cuộc đời con thường xuyên phải chiến đấu với ma quỷ và tay chân của nó là thế gian và xác thịt. Nếu không có ơn Chúa, con sẽ thua trận và quỵ ngã. Lạy Chúa là sức mạnh con, xin đừng để con thua một cơn cám dỗ nào. Xin cho con biết tin tưởng vào sức mạnh của Thánh giá.

Lạy Chúa Giêsu, để minh chứng về uy quyền của Chúa. Chúa đã dùng ví dụ một người coi nhà canh trộm, con đang canh giữ linh hồn con khỏi kẻ trộm ghê gớm là Satan gian manh. Con chắc chắn sẽ thắng được kẻ trộm này nếu con có Chúa trong lòng. Vậy xin Chúa đừng để con bao giờ mất Chúa. Xin giúp con luôn sống thân tình với Chúa. Con chạy đến với Chúa trong Thánh lễ, xin ban thêm sức mạnh cho con. Hằng ngày Chúa đang mời gọi con đến lãnh nhận nguồn sức mạnh và bảo đảm phần thưởng trên trời. Con lãnh nhận Mình Thánh Chúa, xin cho con được say mê tình Chúa, được đầy lửa mến của Chúa Thánh Thần. Xin Chúa lôi kéo con. Xin cho con thuộc trọn về Chúa.

Con xin dâng Chúa hơi thở, tư tưởng linh hoạt, lý tưởng và mọi sự Chúa đã ban cho con. Xin giúp con luôn nhớ con là của Chúa và sống trọn vẹn cho Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Satan phải diệt vong”.

Suy Niệm 7: Chúa lấy quyền nào?

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu chữa lành cho những người bị quỉ ám. Các luật sĩ không tin Chúa Giêsu là Thiên Chúa nên cho rằng Ngài lấy quyền của tướng quỉ Bengiêbút mà trừ quỉ. Nhưng Chúa nói cho họ biết: nước nào tự chia rẽ thì làm sao tồn tại được. Ma quỉ cũng vậy, nếu nó chia rẽ, nó sẽ tiêu vong. Còn nếu Ngài nhờ tướng quỉ mà trừ quỉ thì ma quỉ đã tự chia rẽ nhau rồi, làm sao nó đứng vững được?
  2. Các luật sĩ nói Chúa Giêsu bị quỉ vương Bengiêbút ám và dựa vào thế quỉ vương để trừ quỉ. Theo Chúa Giêsu, lời tố cáo đó là một điều vô lý. Quả thật, Satan không thể chống Satan. Nước nào, nhà nào chia rẽ thì sẽ đi tới chỗ diệt vong. Satan cũng vậy. Marcô 3,27 cho thấy: chẳng những Chúa Giêsu không bị quỉ chi phối, không theo phe quỉ, Ngài còn chống quỉ; quỉ là người mạnh, Chúa Giêsu còn mạnh hơn quỉ nữa” (Chú thích của bản dịch nhóm CGKPV).
  3. Những luật sĩ ấy chẳng những không nhìn nhận quyền phép Chúa Giêsu trong việc Ngài trừ quỉ mà còn xuyên tạc rằng Ngài dựa thế quỉ vương. Thái độ ấy bị Chúa Giêsu gọi là tội phạm đến Chúa Thánh Thần và là thứ tội duy nhất không được tha. Chúa Thánh Thần là nguồn bảy ân sủng, là Đấng được ban để tha tội qua công ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô. Vì vậy, phạm đến Chúa Thánh Thần, nghĩa là khước từ ơn thánh và khước từ được cứu độ. Chúng ta chỉ được cứu độ nhờ đón nhận, còn khước từ  thì Chúa cũng chịu vì sự tự do Chúa ban cho chúng ta. Chúng ta từ chối thì chúng ta mất linh hồn, không phải là Chúa không tha, mà là chúng ta khước từ sự tha thứ đó. Thánh Augustinô từng dạy: ”Chúa dựng nên ta không cần ta, nhưng Chúa muốn cứu chuộc ta thì cần có ta cộng tác”. Chúa Thánh Thần hoạt động trong ta, mà ta xúc phạm  đẩy Ngài ra để chỗ cho tà thần, thì làm sao được cứu độ? (Mỗi ngày một tin vui).
  4. Có lẽ chúng ta không đến nỗi “tệ” tới mức “nghi” Chúa Giêsu bị quỉ Bengiêbút ám, nhưng nghi sự trái cho người khác, hoặc thấy việc tốt người khác làm, không khen ngợi thì chớ, lại còn “tán chuyện” ra  để đàm tiếu thì phải chăng đó là “chuyện thường ngày ở…” sở làm, trong xóm ngõ của chúng ta? Để không mắc tội phạm đến Chúa Thánh Thần, chúng ta hãy nhìn nhận việc tốt của người khác một cách trân trọng, và nếu cần phải phân định việc gì hãy làm với tinh thần bác ái.
  5. Trong thời đại hôm nay nhiều giá trị, nhiều nguyên tắc đạo đức và luân lý  đang bị đảo lộn khắp các tầng lớp xã hội. Nếu đưa mắt nhìn quanh, người ta sẽ thấy trong các tầng lớp xã hội, gia đình và tôn giáo đều có sự chia rẽ. Bao nhiêu giáo phái Kitô giáo khác nhau trên thế giới được tìm thấy xuất hiện, phái nào cũng mạo nhận là theo gót chân Chúa một cách trung thực. Ngay cả trong một giáo phái, cũng có sự chia rẽ và phe phái. Chính điều này đã làm cho nhiệm thể Chúa Kitô bị phân rẽ và tổn thương. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã cảnh báo điều đó khi trả lời cho người Do thái kết án Người là lấy quyền tướng quỉ đè bẹp lính quỉ.
  6. Những người luật sĩ bị coi là phạm đến Chúa Thánh Thần vì họ chối bỏ chân lý, không chấp nhận sự sám hối thì làm sao có thể tha tội được. Qua lời phân định của Chúa Giêsu về mức độ tội trạng được tha và không được tha, mỗi người chúng ta, một đàng ý thức về tội trạng của mình khi xét mình trước mặt Chúa để khơi dậy lòng thống hối; đàng khác phải luôn luôn bảo vệ và phát triển lòng tin cùng kính mến Chúa để tránh những xúc phạm đến Chúa. Nếu đã đã trót phạm tội mà ăn năn sám hối thì tội bao nhiêu cũng được tha. Cứ vững lòng tin.
  7. Truyện: Không nghi ngờ và thất vọng.

Người ta kể: một hôm có một chàng thanh niên đến gặp cha Placido Vicardi, dòng Biển Đức, ở Italia, để xin xưng tội. Chàng thanh niên này quì xuống và thưa với cha Vicardi:

– Thưa cha, con là kẻ tội lỗi khốn nạn nhất, vì con đã phạm đủ mọi thứ tội.

Cha Vicarđi đáp:

– Đúng, con đã phạm đủ mọi thứ tội, nhưng con không phải là kẻ có tội khốn nạn nhất, vì có một tội nặng nhất mà con đã không phạm tội ấy.

Chàng thanh niên ngẩng đầu lên nhìn cha Vicardi ngạc nhiên hỏi:

– Thưa cha, làm sao cha biết? Tội đó là tội nào vậy?

Cha Vicardi trả lời:

– Tội nặng nhất mà con đã không phạm, đó là con đã không nghi ngờ và thất vọng  về lòng từ bi của Chúa. Sở dĩ cha biết như thế, vì nếu không, thì con đã không đến đây để xin lãnh nhận Bí tích Giải tội. Vậy, nhân danh Đấng giầu lòng từ bi và yêu thương mà con vẫn hằng tin tưởng cậy trông, cha tha thứ hết mọi tội lỗi cho con. Con hãy về, và cố gắng đền đáp lòng yêu thương tha thứ của Chúa nhá.

Suy Niệm 8: Chúa Giêsu là Đấng mạnh nhất

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Hạt giống…
  2. “Các kinh sư nói Chúa Giêsu bị quỷ vương Bêendêbun ám và dựa vào thế quỷ vương để trừ quỷ. Theo Chúa Giêsu, lời tố cáo đó là một điều vô lý. Quả thật, Satan không thể chống Satan (3,23b). Nước nào, nhà nào chia rẽ thì sẽ đi tới chỗ diệt vong (3,24-25); Satan cũng vậy (3,26). Mc 3,27 cho thấy chẳng những Chúa Giêsu không bị quỷ chi phối, không theo phe quỷ, Ngài còn chống quỷ; quỷ là người mạnh, Chúa Giêsu còn mạnh hơn quỷ nữa” (Chú thích của bản dịch nhóm CGKPV).
  3. Những luật sĩ ấy chẳng những không nhìn nhận quyền phép Chúa Giêsu trong việc Ngài trừ quỷ mà còn xuyên tạc rằng Ngài dựa thế quỷ vương. Thái độ ấy bị Chúa Giêsu gọi là tội phạm đến Chúa Thánh Thần và là thứ tội duy nhất không được tha. Chúa Thánh Thần là Đấng soi sáng lương tâm cho người ta thấy rõ sự thật, thấy tội lỗi của mình để sám hối và được tha. Từ chối sự thật, không chịu sám hối thì không thể nào được tha. Không được tha không phải vì Chúa không tha mà vì mình không muốn được tha.

B…. nẩy mầm.

  1. Chuyện này nhắc ta hai sự thật:

a/ Quả thực có hoạt động của Satan trong thế giới này và trong bản thân mỗi người, sức hoạt động này rất mạnh;

b/ Nhưng quả thật, Chúa Giêsu mạnh hơn. Chuyện này cũng làm ta liên tưởng tới những lời chia xẻ kinh nghiệm của thánh Phaolô “Khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay… Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này?” (Rm 7,21.24); “Thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Satan được sai đến vả mặt tôi để tôi khỏi tự cao tự đại… Tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, đề sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi… Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,7.10)

  1. Đây là nội dung cuộc nói chuyện giữa hai em nhỏ:

– Nếu Satan đến cám dỗ, bạn làm sao chống trả?

– Mình biết Satan đến để cám dỗ, nhưng khi nó gõ cửa lòng mình, mình bảo Có phải Chúa Giêsu gõ cửa đấy không ạ? Khi Satan nghe tên Giêsu là nó biến ngay!

Người mạnh nhất cũng không thể một mình chống lại Satan (Góp nhặt).

  1. Phải hiểu cho đúng câu Tin Mừng Luca 4,13: “Và sau khi chấm dứt mọi cám dỗ, quỉ bỏ đi chờ đợi thời cơ”. Câu đó không có nghĩa là sau khi ma quỉ cám dỗ, nó để cho ta yên một thời gian. Cũng không phải là nó để ta có giờ nghỉ ngơi hầu lấy lại sức mạnh cho cuộc chiến sau. Cũng không phải Chúa ngăn cản, không để quỉ cám dỗ ta trong một thời gian. Dịch cho đúng: câu đó có nghĩa là quỉ tạm lánh vào bóng tối, khi có thời cơ thuận tiện sẽ quay lại và tiếp tục tấn công. Nên khi quỉ thôi cám dỗ ta, chính là lúc nó đang tìm cách để đánh úp ta. (Góp nhặt)
  2. “Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền. Nhà nào tự chia rẽ, nhà ấy không thể vững” (Mc 3,24)

Trong cuộc sống, khi cộng tác với người khác, tôi thường có những thành kiến, không tin vào thiện chí của họ, không vượt qua được những tự ái nhỏ nhen, những tham vọng ích kỷ và những định kiến hẹp hòi, là vì tôi đã không dám từ bỏ chính mình để đi tìm chân lý ở mọi người.

Rồi cuộc sống chỉ có mình tôi, thế giới đối với tôi thật nghèo nàn, và cuộc sống trở nên vô nghĩa.

Lạy Chúa, xin cho con biết lắng nghe nhau bằng quả tim yêu thương. Xin dạy chúng con biết cộng tác với nhau trong việc xây dựng Nước Trời ngay trong cuộc sống trần gian. (Epphata)

Suy Niệm 9: Tội phạm đến Chúa Thánh Thần

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Tội phạm đến Chúa Thánh Thần là tội nào?

Trước hết, theo lời của Thánh Sử Marcô, trong đoạn Tin Mừng được trích đọc trong thánh lễ hôm nay, thì tội phạm đến Chúa Thánh Thần là tội qui về cho ma quỉ những việc của Thiên Chúa, hay nói khác đi là việc dám đồng hoá Chúa, nguồn mạch của mọi sự nhân lành, với Satan, nguồn mạch của mọi sự dữ.

Cũng phải liệt kê vào tội phạm đến Chúa Thánh Thần, việc cho điều thiện là ác và cho ác là thiện. Sở dĩ phải liệt kê như thế, bởi vì những người như thế không thể  ăn năn thống hối được, do đó không thể được tha thứ.

Cũng kể vào số những người đã phạm đến Chúa Thánh Thần, là những người mất lòng cậy trông vào Chúa.

Chúa Giêsu tuyên bố, những kẻ phạm đến Chúa Thánh Thần thì không được tha. Bởi vì điều kiện để một tội được tha là người phạm tội phải thực lòng ăn năn thống hối. Người phạm đến Chúa Thánh Thần thì không còn tin tưởng và cậy trông nữa, nên không ăn năn thống hối, vì thế không được tha.

Người ta kể, một hôm có một chàng thanh niên đến gặp Cha Placido Viccardi, dòng Biển Đức, ở Italia, để xin xưng tội. Chàng thanh niên này quì xuống và thưa với Cha Viccardi:

– Thưa Cha, con là kẻ tội lỗi khốn nạn nhất, vì con đã phạm đủ mọi thứ tội.

Cha Viccardi đáp:

– Đúng, con đã phạm đủ mọi thứ tội, nhưng con không phải là kẻ có tội khốn nạn nhất, vì có một tội nặng nhất mà con đã không phạm tội ấy.

Chàng thanh niên ngẩng đầu lên nhìn cha Viccardi ngạc nhiên hỏi:

– Thưa cha, làm  sao cha biết? Tội đó là tội nào vậy?

Cha Viccardi trả lời:

– Tội nặng nhất mà con đã không phạm, đó là con đã không nghi ngờ và thất vọng về lòng từ bi của Chúa. Sở dĩ Cha biết như thế, vì nếu không, thì con đã không đến đây để xin lãnh nhận Bí Tích Giải Tội. Vậy nhân danh Đấng giàu lòng từ bi và yêu thương mà con vẫn hằng tin tưởng cậy trông, cha tha thứ hết mọi tội lỗi cho con. Con hãy về, và cố gắng đền đáp lòng yêu thương tha thứ của Chúa nhá.

Đây Lời Chúa phán: “Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông”. (Is 1,18)

  1. Câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay, còn nhắc ta hai sự thật:

a/ Quả thực có hoạt động của Satan trong thế giới này và trong bản thân mỗi người, sức hoạt động này rất mạnh.

Thánh Hiêrônimô sinh năm 340 tại Stridon miền Dalmatie, nước Nam tư. Ngài là một đấng thông minh đạo đức, đã được Đức Thánh Cha Damasus (366-380) trao cho sứ mạng dịch toàn bộ Thánh Kinh sang La ngữ. Bản dịch này vẫn còn dùng trong Phụng vụ Giáo Hội: đó là bản dịch phổ thông (Vulgata). Ngài đã sang thánh địa, vào trong hang Bêlem để ẩn thân, cầu nguyện và phiên dịch Kinh Thánh. Thế mà theo lời ngài thuật lại, có những lúc ma quỷ xác thịt cám dỗ ngài hết sức nặng nề! Chúng làm ngài nhớ lại những quang cảnh xa hoa trụy lạc, những bạn bè xấu nết dâm đãng ngày trước ở thủ đô Rôma. Để chống trả với cám dỗ của ma quỉ, ngài đã ăn chay kiêng khem hãm mình và cầm đá đấm vào ngực. Với ơn Chúa và ý chí mình, ngài đã chiến thắng. Đức Boniface VII suy tôn ngài lên bậc tiến sĩ Hội Thánh. Ngài mất năm 420.

b/ Và còn một sự thật khác quan trọng hơn: Đó là Chúa Giêsu còn mạnh hơn.

Đây là nội dung cuộc nói chuyện giữa hai em nhỏ:

– Nếu Satan đến cám dỗ, bạn làm sao chống trả?

– Mình biết Satan đến để cám dỗ, nhưng khi nó gõ cửa lòng mình, mình bảo: Có phải Chúa Giêsu gõ cửa đấy không ạ? Khi Satan nghe tên Giêsu là nó biến ngay!

Như vậy, chúng ta thấy một người mạnh nhất cũng không thể một mình chống lại Satan (Góp nhặt).

Muốn chống nổi Satan chúng ta phải cậy dựa vào Chúa.

Một thiếu nữ trắc nết nọ đến cám dỗ một thánh nhân phạm tội với mình. Ngài bảo:

– Được lắm, ta hãy kiếm một nơi nào kín đáo đi.

Cô gái dẫn Ngài vào một căn phòng và đóng cửa lại. Ngài bảo:

– Đây tôi sợ chưa được kín đáo.

Cô lại đưa Ngài đến một căn phòng khác có một lối vô cong queo lại thêm hai lớp cửa thật là vững chắc. Ngài nói:

– Tôi vẫn còn ngại, chỗ vững chắc như chỗ này cũng chưa kín đủ, với lại nhỡ có ai đột nhập thì làm sao thoát thân!

Cô ta lại đưa Ngài lên tầng lầu cao nhất, lại có hệ thống báo động và nhiều lối thông thương, chuồn đi rất dễ. Cô bảo:

– Như thế này thì thật là cẩn mật… Muốn thấy đã là điều không thể, huống nữa lại đi vào.

Lúc ấy thánh nhân mới dốc bầu tâm sự ra:

– Cô ơi, không có chỗ nào kín cả!

Cô gái ngạc nhiên trố mắt nhìn Ngài. Ngài nói tiếp:

– Làm sao ta che mắt Thiên Chúa nổi.

Rồi Ngài khuyên răn, dạy dỗ cô gái, về sau cô trở thành người đạo đức, có lòng sám hối sâu xa…

 Luôn biết phục thiện

Ghi nhớ:

“Tôi bảo thật anh em: Mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng, và nói phạm thượng nhiều đến mấy đi nữa, thì cũng còn được tha. Nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời ”. (Mc 3, 28-29). 

Suy niệm:

Người ta kể câu chuyện như sau: Một hôm có anh chàng thanh niên kia đến gặp cha Placido Vicardi, dòng Biển Đức ở I-ta-ly-a để xin được xưng tội.  Chàng thanh niên này quỳ xuống và thưa với cha Vicardi rằng:

Thưa cha, con là kẻ tội lỗi khốn nạn nhất, vì con đã phạm đủ mọi thứ tội.

Cha Vicardi đáp:

Đúng là con đã phạm đủ mọi thứ tội, nhưng con không phải là kẻ khốn nạn nhất, bởi vì có một tội khốn nạn nhất mà con đã không phạm!

Chàng thanh niên ngẩng đầu lên nhìn cha Vicardi ngạc nhiên hỏi lại.

Thưa cha, làm sao cha biết? Tội đó là tội gì vậy?

Cha Vicardi trả lời:

Tội nặng nhất mà con đã không phạm, đó là con đã không nghi ngờ và thất vọng về lòng từ bi của Chúa. Sở dĩ cha biết thế, là vì nếu không thì con đã không đến đây để gặp cha mà xin lãnh nhận Bí Tích Giải Tội. Vậy, nhân danh Đấng giầu lòng thương xót mà con vẫn hằng tin tưởng cậy trông, cha tha thứ hết mọi tội lỗi cho con. Con hãy về và cố gắng sống đền đáp lòng yêu thương tha thứ của Chúa nhé.

Một trong các thói xấu mà người ta thường hay vướng vào nhất: Đó là tính ghen tỵ, thật vậy, lẽ thường khi thấy một ai đó làm ăn thành đạt, có tài năng hơn mình, thì thay vì mừng vui với người ta vì họ được như vậy, đàng này lại vì ghen tỵ, đó kỵ mà ta lại tỏ ra “ghen ăn tức ở” với họ rồi tìm cách phá rối, bôi nhọ hoặc làm giảm thanh danh hay sự thành công của họ xuống.

Bài sách Thánh mà chúng ta mới được nghe cách nay mấy  hôm (thứ Năm tuần II x I Sm 18, 6-12) đã chứng minh điều ấy. Vua Saul vì thấy Đa-vit được ca ngợi vì đã hạ được gã khổng lồ Gô-li-át nên đem lòng tức giận và toan tính giết hại Đa-vít.

Bài Tin Mùng hôm nay phản ảnh điều đó: Khi chứng kiến Đức Giê-su xua đuổi ma quỷ ra khỏi những bệnh nhân, thì các kinh sư giải thích rằng chính Đức Giê-su đã nhờ bàn tay của tướng quỷ là Bê-en-dê-bul mà trục xuất các quỷ con ra khỏi người bị quỷ ám. Có lẽ không có lời giải thích nào trơ trẽn và vô lý hơn lời giải thích này. Đức Giê-su đến để giải thoát cho con người ta thoát khỏi sự khống chế của quỷ dữ, đáng lý ra các kinh sư phải hơn ai hết vui mừng vì sự việc trọng đại này, nhưng vì đố kỵ, ghen tỵ họ bóp méo sự thật.

Chúa biết trong thâm tâm của họ là tuy biết Chúa là Đấng Cứu Độ đó nhưng vì nhiều lý do khác nhau, nhưng lý do lớn nhất đó là lòng ghen tỵ mà họ không chịu thừa nhận Đức Giê-su là Con Thiên Chúa đã đến trong thế gian để giải thoát nhân loại.

Chính vì thế cho nên Đức Giê-su đã nói: “Tội phạm đến Chúa Thánh Thần thì sẽ chẳng bao giờ được tha” Có nghĩa là Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sáng, soi lòng mở trí cho chúng ta tìm về lẽ phải, tim về Chân Lý, Song khi chúng ta lại cố tình không chấp nhận lời chỉ dẫn của Ngài mà cứ ngoan cố theo ý riêng của mình  và không bao giờ tỏ ra ăn năn hối cải thì mặc dầu Thiên Chúa là Đấng rất nhân từ bao dung nhưng Ngài cũng chẳng thể tha thứ cho ta được.

Trong đời sống thường ngày, chúng ta sẽ là những người bất hạnh khi phải chung sống với những kẻ ngoan cố, lỗi lầm đã sai rành rành ra đấy nhưng họ vẫn ngoan cố cho rằng mình không sai, bởi vậy cho nên chúng ta sẽ không thể  hoán cải họ được. Những người không biết phục thiện thì trong xã hội hay trong gia đình họ sẽ là mầm mống gây ra những xáo trộn, những bất an và những tội ác mà thôi.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giê-su xin ban Thánh Thần của Chúa đến trên chúng con để Ngài soi sáng, chỉ đường dẫn lối chúng con tìm đến Chân-Thiên-Mỹ và đừng để chúng con làm phiền lòng Ngài bao giờ. Amen.

Sống Lời Chúa:

Bắt đầu buổi sáng chúng ta cầu nguyện bằng: Kinh Đức Chúa Thánh Thần.

Đaminh. Trần Văn Chính.

 

Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ Nhân Loại

Trên con đường tâm linh, con người phải luôn để tâm hồn tự do rộng mở, suy xét cẩn thận, và theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần là nguồn mạch của mọi sự thật.

Điều làm cho con người lo âu và sợ hãi, là cố tình ngoan cố trong sự sai trái của mình vì kiêu ngạo, đố kị và ghen ghét… Đây chính là những mối tội đầu của con người thường vướng phải. Những nguyên do này dễ đưa người ta tới việc nói xấu, nói hành, hay tố cáo người công chính.

Tin Mừng hôm nay cũng cho chúng ta biết, chính vì sự hận thù, đố kị, ghen ghét và muốn loại trừ người công chính mà các kinh sư đã tố cáo Chúa Giêsu “bị quỷ vương Bê-en-dê-bun ám và Người dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ.”

Trước những lời tố cáo gian vì sự hận thù, ghen ghét của nhóm người Pharisêu, Chúa Giêsu đã vạch rõ sự vô lý và sai trái của họ bằng một dụ ngôn rất thực tế: “Xa-tan làm sao trừ Xa-tan được? Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền; nhà nào tự chia rẽ, nhà ấy không thể vững. Vậy Xa-tan mà chống Xa-tan, Xa-tan mà tự chia rẽ, thì không thể tồn tại, nhưng đã tận số.”

Với lời dạy ấy, Chúa Giêsu đã cho họ biết rằng: Ngài không thể bị đồng hóa với Xa-tan, cũng như những việc xấu xa xuất phát từ chúng. Trái lại, trước những phép lạ, hay những việc tốt lành Ngài đã làm cho dân chúng, thì minh chứng cho mọi người biết rằng Ngài là Thiên Chúa, là Đấng hằng sống và chân thật, Ngài đến để tiêu diệt sự xáu xa của ma quỷ và giải thoát con người khỏi mọi tội lỗi do chúng gây ra.

Qua Tin Mừng hôm nay, với việc tố gian vì sự ghen ghét và hận thù của nhóm Pharisêu, Thiên Chúa cũng muốn dạy chúng ta rằng: trước một điều gì đó, nhất là trước một việc tốt lành của người khác, chúng ta đừng vội phát xét một ai vì sự hận thù và ghen ghét, nhưng phải suy xét cẩn thận khi đánh giá người khác, để tránh những mâu thuẫn và quy kết không có cơ sở.

Phải tránh xa những xét đoán hay phán xét vì lòng hận thù, ghen ghét và sợ người khác hơn mình, nhưng hãy cùng nhau xây dựng cuộc sống tốt hơn bằng những suy nghĩ, lời nói và việc làm tốt đẹp cho nhau.

Sống hận thù, ghen ghét luôn làm xáo trộn, gây ra sự bất an và đổ nát trong tương quan giữa mình với mình, và giữa mình với người khác. Để sống đúng với Thánh ý Thiên Chúa và được an vui trong từng giây phút hiện tại, chúng ta phải luôn biết mở rộng tâm hồn, nối kết và sống những giá trị của Thiên Chúa đã dạy, đó là sống vị tha, liên đới, khiêm nhường và chân thật.

Xin chúa Thánh Thần là Thần Khí sự thật soi sáng và hướng dẫn chúng ta lắng nghe, đi theo đường chân lý mà Thiên Chúa đã dạy cho chúng ta và nhất là ban cho chúng ta có một đức tin vững mạnh vào Thiên Chúa. Amen.

Bình Minh

 

Tội phạm đến Thánh Thần (23.01.2017)

  1. Ghi nhớ:

“Tôi bảo thật anh em: mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng, và nói phạm thượng nhiều lần đi mấy nữa, thì cũng còn được tha. Nhưng ai phạm tội đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời” (Mc 3,28-29).

  1. Suy niệm:

Đức Chúa Giêsu gọi “những ai phạm đến Thánh Thần” là phạm tội ngoan cố. Qua bài Tin Mừng hôm nay, các kinh sư nói Đức Giêsu bị quỷ vương Bê-en-dê-bun ám và dựa vào thế quỷ vương đó để trừ quỷ. Theo Đức Giêsu lời tố cáo đó là tội vu khống vì “thật sự satan không thể chống satan, satan mà tự chia rẽ, thì không thể tồn tại”. Chúa Giêsu chống lại quỷ: quỷ là loại mạnh nhưng Thiên Chúa còn cao và vững vàng, mạnh mẽ hơn tất cả loại quỷ dữ.

Những việc Chúa Giêsu đã làm đối với con người trong suốt chiều dài lịch sử là nhờ quyền năng của Thiên Chúa vô cùng thánh thiện. Đối với các kinh sư, thái độ ngoan cố chống lại Thiên Chúa là đi ngược với sự ăn năn sám hối, vì cố tình đó được xem là tội phạm đến Thánh Thần, là tội không được tha. Tại sao vậy?

Vì Chúa Thánh Thần là Đấng hằng dẫn đường chỉ lối, soi sáng tận tâm can của mỗi người, để chúng ta nhìn nhận ra chân lý và sự thật, ngõ hầu từ bỏ nhận ra tội lỗi của chính mình để sám hối và nhận được ơn tha tội. Nếu chúng ta cố tình không ăn năn sám hối và biết sống trở lại con đường ngay chính, thì chúng ta không thể nào lãnh nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa. Thế nên, sau khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại đã hiện ra với các môn đệ, Người thổi hơi và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20, 22). Chúa ban Thánh Thần để giúp họ thấu hiểu lời Chúa, thực thi và rao giảng Tin Mừng. Đồng thời Đức Giêsu sống lại đem lại bình an, niềm vui, hạnh phúc cho các Môn đệ và loài người chúng ta.

Vậy trong đời sống hằng ngày, mỗi sáng thức dậy chúng ta hãy hướng tâm hồn lên Thiên Chúa qua lời cầu nguyện, bằng cách chúng ta hãy cầu xin ơn Chúa Thánh Thần soi sáng tâm trí để từ lời nói và việc làm trong ngày luôn có Chúa Thánh Thần hướng dẫn quan phòng, để tôi nhận ra những tội lỗi vấp phạm, để biết nhìn nhận xin ơn tha thứ trong bí tích hòa giải, hầu luôn tìm sự an vui và bình an trong tâm hồn.   

  1. Cầu nguyện:

Lạy Chúa Thánh Thần! Xin hướng dẫn thần trí chúng con, để chúng con nhận ra tội lỗi mình, biết sám hối và tin vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa, và luôn nghe tiếng Chúa thức tỉnh tâm hồn chúng con. Amen.

 

THỨ BA TUẦN 3 THƯỜNG NIÊN

LỜI CHÚA: Mc 3,31-35

Khi ấy, mẹ Chúa Giêsu và anh em Người đến và đứng ở ngoài sai người vào mời Chúa ra.

Bấy giờ có đám đông ngồi chung quanh Người và họ trình với Người rằng: “Kìa mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy”.

Người trả lời rằng: “Ai là mẹ Ta? Ai là anh em Ta?”

Rồi đưa mắt nhìn những người ngồi vòng quanh, Người nói: “Ðây là mẹ Ta và anh em Ta. Vì ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta”.

Suy Niệm 1: Đây là mẹ tôi

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Các thân nhân của Đức Giêsu nghĩ Ngài bị mất trí,

vì họ nghe tin Ngài và các môn đệ làm việc nhiều đến nỗi không có giờ ăn.

Các kinh sư từ Giêrusalem xuống

thì kết luận rằng Ngài đã thông đồng với tướng quỷ để trừ quỷ.

Còn đám đông dân chúng lại ngồi nghe Ngài giảng trong nhà.

Hơn ai hết, họ biết Đức Giêsu là ai.

Chính lúc ấy mẹ và anh em của Ngài đến và đứng ngoài.

Họ không vào được, có thể vì đám đông ngồi chật cứng.

Nhưng họ đã nhờ người nhắn với Đức Giêsu.

”Mẹ Thầy và anh em Thầy đang ở ngoài, tìm gặp Thầy đó.”

Rốt cuộc chắc ai cũng biết là Thầy có người thân đến thăm.

Người ta tưởng Ngài sẽ bỏ dở bài giảng để ra ngay gặp họ.

Nhưng Đức Giêsu lại muốn dùng cơ hội này

để nói với đám đông đang ngồi nghe một điều quan trọng.

Ngài đặt cho họ một câu hỏi tưởng như vô nghĩa:

”Ai là mẹ tôi và là anh em tôi?”

Dĩ nhiên là những người đang đứng ngoài kia rồi.

Nhưng không, Ngài đảo mắt nhìn những người đang ngồi,

và nói với họ: “Đây là mẹ tôi và anh em tôi.”

Với lời khẳng định này, Đức Giêsu loan báo về gia đình mới của Ngài.

Có những người thân yêu cùng máu mủ đứng ngoài kia.

Có một gia đình mới đang ngồi trong này.

Đức Giêsu không coi thường hay loại bỏ gia đình ruột thịt.

Nhưng Ngài cho thấy Ngài còn có một gia đình lớn hơn nhiều,

một gia đình gồm những người rất khác nhau về nhiều mặt,

nhưng lại có một mẫu số chung, một điểm giống nhau,

đó là cùng muốn thi hành ý Thiên Chúa trong cuộc sống.

Đức Giêsu đã rời bỏ gia đình để lên đường loan báo Tin Mừng.

Và Ngài cũng đã mời gọi các môn đệ của mình như thế.

Đức Giêsu để lại người mẹ, Phêrô để lại người vợ,

Gioan và Giacôbê để lại người cha.

Tương quan gia đình ruột thịt là điều cao quý thiêng liêng.

Nhưng nó lại không được trở nên một cản trở cho sứ vụ.

Đức Giêsu đã khai mở một đại gia đình mới cho mọi người:

”Bất cứ ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa

người ấy là mẹ tôi, là anh em và chị em tôi.”

Khi thực thi ý Thiên Chúa muốn, người ta trở nên có họ với Đức Giêsu.

Người kitô hữu chúng ta vui sướng được thuộc về gia đình này,

có người Mẹ là Đức Maria suốt đời tín trung sống ý Chúa,

có Đức Giêsu là Anh Trưởng, người Con luôn sống đẹp lòng Cha,

và có bao anh chị em khác đã dám đặt ý Chúa lên trên mạng sống.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

những hạt cải Chúa gieo vãi cách đây hai ngàn năm

nay đã trở thành cây cao

cho chim trời rủ nhau trú ngụ.

Nhúm men nhỏ bé được Chúa vùi vào khối bột,

đã làm bột dậy lên,

để trở nên tấm bánh thơm ngon cho thế giới.

Sau hai mươi thế kỷ,

các môn đệ Chúa không còn là nhóm Mười Hai bé nhỏ.

Hôm nay, các kitô hữu chiếm gần một phần ba,

người công giáo chiếm hơn một phần sáu dân số thế giới.

Chúng con được mời gọi xây dựng Nước Chúa trên trần gian,

cho đến khi tất cả mọi người nhận biết và tin yêu Chúa.

Xin cho chúng con đừng mặc cảm

vì người công giáo chỉ là thiểu số trên quê hương Việt Nam,

nhưng xin cho chúng con mạnh dạn làm chứng cho Chúa

trong việc xây dựng một xã hội công bằng và huynh đệ.

Hôm nay chúng con phải tiếp tục làm việc như Chúa,

gieo hạt giống để làm nên những cánh rừng,

trở nên chất xúc tác để biến đổi môi trường mình sống.

Và chúng con biết rằng sớm muộn cũng sẽ thành công

vì tin Chúa vẫn cần cù làm việc với chúng con. Amen.

Suy Niệm 2: Gia đình Thiên Chúa

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Cuộc đón rước Hòm Bia thật long trọng. Đa-vít ca hát nhảy múa hết mình. Và dâng lễ vật trọng hậu lên Thiên Chúa: “Khi những người khiêng Hòm Bia của Đức Chúa đi được sáu bước, thì vua sát tế một con bò và một con bê béo. Vua Đa-vít quấn ê-phốt vải gai, nhảy múa hết sức mình trước nhan Đức Chúa”. Việc dâng lễ vật tuy trọng hậu, nhưng chỉ rời rạc. Không qui tụ được toàn dân. “Rồi toàn dân ai nấy về nhà mình” (năm chẵn).

Dâng lễ vật theo Lề Luật, dù trọng hậu đến đâu, dù dâng suốt năm này qua năm khác, vẫn không thể tha tội. Vì chung qui cũng chỉ là dâng súc vật. Còn Chúa Giê-su chỉ dâng một lần là đủ tha các tội. Vì Chúa dâng chính thân mình. Và dâng hiến để tỏ lòng vâng phục Chúa Cha. Là con, Chúa nhận thân thể từ Chúa Cha. Nên dâng lại cho Chúa Cha chính thân mình nói lên tình liên hệ cha con sâu xa thắm thiết biết bao. “Khi vào trần gian, Đức Ki-tô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài…Theo đó, chúng ta được thánh hoá, nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ”. Vì thế Người dâng hiến thân mình để qui tụ tất cả chúng ta (năm lẻ).

Chúa Giê-su đã hiến dâng thân mình để trở thành người con hiếu thảo. Việc vâng phục thánh ý Chúa Cha gây dựng một gia đình Thiên Chúa. Nhờ đó Người qui tụ chúng ta về gia đình Thiên Chúa. Người trở thành Anh Cả của một đàn em đông đúc. Trở thành Trưởng Tử dẫn gia đình về với Thiên Chúa. Gia đình Thiên Chúa không còn là liên hệ huyết thống với con người, nhưng là liên hệ thiêng liêng với Thiên Chúa. Như Chúa Giê-su đã hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa để trở thành người con hiếu thảo, tất cả những ai tuân hành thánh ý Thiên Chúa, đều trở thành người trong gia đình Thiên Chúa. Trở thành ruột thịt với Chúa Giê-su: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi? Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chúng quanh và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi”.

Xin cho con biết tự hiến thân mình làm của lễ. Để con trở thành anh chị em của Chúa.

 

Suy Niệm 3: Ai là Mẹ Ta

Khổng Tử có một người cháu tên là Khổng Liệt và một người học trò tên là Bật Thứ Thiên, cả hai ra làm quan cùng một thời. Một hôm Khổng Tử hỏi người cháu:

– Từ khi ra làm quan đến giờ, ngươi đã được điều gì và mất điều gì?

Khổng Liệt trả lời:

– Từ khi làm quan, tôi chưa được điều gì, mà đã mất ba điều: không có giờ học tập vì thế trình độ vẫn thấp, lương bổng không đủ giúp người thân, công việc bề bộn nên không có giờ thăm viếng bạn bè.

Nghe thế, Khổng Tử rất buồn lòng.

Một ngày nọ, Khổng Tử cũng hỏi Bật Thứ Thiên cùng một câu như đã hỏi Khổng Liệt, Bật Thứ Thiên đáp:

– Từ khi ra làm quan, tôi chưa mất điều gì, mà đã được ba điều: Những điều đã học nay đem ra thực hành, vì thế việc học được rõ ràng thêm; lương bổng tuy ít nhưng cũng có thể giúp người thân phần nào, do đó mà thân thiện hơn; công việc tuy nhiều, những cũng bớt chút thời giờ thăm bạn bè khiến tình bạn càng thân thiết.

Câu trả lời của Bật Thứ Thiên được Khổng Tử khen là chí lý và thực là câu trả lời của người quân tử.

Câu trả lời của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, thoạt nghe người ta dễ hiểu lầm là từ khi bắt đầu đời công khai, Chúa Giêsu đã đánh mất gia đình và người thân của mình. Thật vậy, khi Chúa đang ngồi giảng giữa một đám đông, có kẻ nói với Ngài: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang tìm Thầy”. Chẳng những Chúa Giêsu không ra gặp mẹ, mà Ngài còn nói: “Ai là mẹ Ta, ai là anh em Ta? Chính những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là mẹ Ta và là anh em Ta”.

Thật ra, qua câu nói này, Chúa Giêsu gián tiếp khen ngợi Mẹ Ngài, bởi vì Mẹ là người hoàn toàn tuân theo ý Chúa. Mẹ đã hiểu rõ sứ mạng của Chúa Giêsu, con của Mẹ. Như thế câu nói của Chúa Giêsu cho thấy Ngài đặt quan hệ tình nghĩa trên nền tảng đức tin, thể hiện niềm tin của mình bằng việc thực thi thánh ý Chúa.

Chúa Giêsu là Con Một Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha; còn chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa nhờ Chúa Giêsu trong Chúa Thánh Thần, và nhờ tình yêu Chúa, chúng ta được liên kết với nhau trong một quỹ đạo mới, một tình nghĩa mới, cao đẹp hơn tình nghĩa cha mẹ, anh chị em ruột thịt.

Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta luôn biết sống theo thánh ý Chúa, để chúng ta được nối kết trong tình nghĩa với Chúa, với Mẹ và với tất cả mọi người.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Suy Niệm 4: Ôi thân nhân!

Mẹ và anh em Đức Giêsu đến, đứng ở ngoài, cho gọi Người ra. Lúc ấy, đám đông đang ngồi chung quanh Người. Có kẻ nói với Người rằng: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy!” Nhưng Người đáp lại: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.” (Mc. 3, 31-35)

Mấy bữa trước đây, trong một trích đoạn Phúc âm, thánh Maccô đã cho ta biết thái độ của đám bà con thân thích của Chúa Giêsu: họ muốn cách ly Người, bởi cho rằng Người đã mất trí, ngộ đạo và họ bị phiền hà vì danh tiếng này. Vậy mà hình như họ đã thay đổi ý kiến, bởi lẽ hôm nay họ muốn xin được gặp Người, nhắc nhở cho Người quyền lợi gia dình, tình thân thương và lòng kính nể mà thông thường họ có quyền được hưởng. Giữ liên hệ tốt đẹp với bà con họ hàng chẳng phải là điều tự nhiên sao?

Chúa Giêsu có vẻ như không chia sẻ ý kiến này.

Một sự rạn nứt của tình bà con

Khi đọc bản văn này, ta rất mau mắn vin ngay vào những lời cuối cùng: “Người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi”. Chúng ta lấy làm vui sướng vì được kết nạp vào gia đình này. Nhưng chúng ta cũng vội làm mất đi ý nghĩa khác mà những lời đó gợi nên, tức là sự rạn nứt trong mối quan hệ tự nhiên của gia đình.

Nếu ta đem liên hệ thái độ này của Chúa Giêsu với lời Người phán trước đây: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy, thì không đáng làm môn đệ Thầy”, ta càng ngạc nhiên. Chúa Giêsu chống lại gia đình và những mối liên hệ gia đình chăng? Phải chăng Người muốn ta hiểu biết điều căn bản gì?

Thực ra tin mừng của Chúa không có ý xếp những liên hệ gia đình vàò hàng cuối cùng, mà muốn dạy ta kính nể mọi người cũng như ta vẫn thường kính nể anh chị em cha mẹ ta vậy.

Xét cho cùng, con người từ rất lâu đã quen với những tập tục là phải dành những ưu đãi cho gia đình ruột thịt của mình, phải yêu mến và có trách nhiệm hơn đối với những người cùng chung máu mủ, thì Tin mừng của Chúa hôm nay là một điều mới mẻ: tin mừng đó đòi hỏi ta đối xử với mọi người như nhau và hỏi ta tại sao điều ta làm được cho cha mẹ ta, mà lại không làm cho “tha nhân” được.

Suy Niệm 5: Thi hành Lời Chúa, là thân nhân của Ngài

Không có bà mẹ nào mà lại không thương con, nhất là những đứa con bị khiếm khuyết cách này hay cách khác!

Hôm nay Tin Mừng thuật lại việc Đức Mẹ và người thân của Đức Giêsu đến tìm Ngài và khuyên Ngài từ bỏ con đường sứ vụ để trở về, vì có tin đồn đoán rằng Đức Giêsu bị điên!

Ôi một sự thật đau lòng! Vì yêu thương, Đức Giêsu làm tất cả mọi việc miễn làm sao để cho Thiên Chúa được vinh quang và con người được hạnh phúc, thế nhưng người Pharisêu lại phao tin Ngài bị điên! Họ muốn đánh vào uy tín của Đức Giêsu, và, đứt dây đương nhiên đụng đến rừng, tức là nếu Đức Giêsu bị điên thì mẹ của Ngài sẽ như thế nào khi sinh ra một đứa con điên? Anh em của Ngài sẽ còn uy tín gì nữa không khi trong dòng tộc của mình lại xuất hiện một kẻ khùng! Và, nhất là những lời giảng của Đức Giêsu từ nay không còn khả tin nữa, bởi vì không ai dại gì mà đi nghe theo lời của một người điên!

Đây là một đòn thâm hiểm mà những người Pharisêu đánh vào Đức Giêsu và thân nhân của Ngài.

Tuy nhiên, khi thấy Mẹ và anh em đến tìm mình, Đức Giêsu đã thốt lên và chỉ vào những người đang ngồi quanh Ngài mà nói rằng: ai là mẹ tôi, ai là anh chị em tôi? Thưa chính là những người thực hành ý muốn của Cha tôi, người đó là mẹ tôi và anh chị em tôi.

Một câu nói nhằm mặc khải cho mọi người biết một thực tại khác vượt lên trên suy nghĩ thuần túy của con người. Sự gắn bó với Thiên Chúa và thi hành Lời của Người là điều quan trọng, và chính trong mối liên hệ này mà chúng ta được trở nên nghĩa thiết, thân tình với nhau. Mặt khác, Đức Giêsu cũng ngầm giới thiệu cho mọi người xung quanh biết rằng: chính Đức Maria là người đã thi hành thánh ý Thiên Chúa, nên Mẹ xứng đáng trở thành mẫu gương cho chúng ta về việc thực thi Lời Chúa.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy chú tâm đến việc thực thi Lời Chúa hơn là những chuyện bề ngoài. Khi đã thực thi thánh ý Chúa, chúng ta không quan trọng chuyện người ta nói này hay nói kia để bêu dếu, làm mất thanh danh tiếng tốt của ta. Ngược lại, chỉ có một điều đáng làm cho chúng ta sợ, đó là khước từ Lời Chúa và chạy đua những thứ mau qua, chóng hết ở đời, làm cho chúng ta xa dời hạnh phúc đích thực là sự sống vĩnh cửu.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho mỗi người chúng con biết lắng nghe Lời Chúa; đồng thời biết đem Lời Chúa ra thực hành, dù có phải chịu khốn khổ vì Lời Chúa thì vẫn một mực trung thành. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 6: Là anh chị em và là mẹ Ta

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Thánh Gioan Vianney, lúc còn là một chủng sinh, học hành rất chậm chạp, tưởng chừng như ngài không có đủ khả năng để tiến tới chức Lm. Ngày kia, thừa lệnh giám mục giáo phận, một vị giáo sư thần học, đã đến khảo sát Vianney, tội nghiệp Vianney đã không thưa được câu nào. Không giữ được bình tĩnh, vị giáo sư đã đập bàn quát lớn: “Vianney, anh dốt như lừa. Với một con lừa như anh, Giáo hội sẽ làm được gì?”

Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả lời: “Thưa thầy, ngày xưa Samson chỉ dùng có một cái hàm của một con lừa, để đánh bại được ba ngàn quân Philitinh, vậy với cả một con lừa này, Thiên Chúa không làm được gì sao?” (Theo Cử hành Phụng vụ Chúa nhật, tr. 42).

Suy niệm

Tình huyết nhục là tình rất thân thiết của con người. Ðức Giêsu như bao nhiêu người con có hiếu, không bao giờ chối gia đình.

Khi khẳng định: “Ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta”, Ðức Giêsu không coi nhẹ tình gia đình, cũng như không phải lãnh đạm với mẹ và anh em Ngài. Đức Giêsu muốn đề cao hơn mối liên hệ thiêng liêng dựa trên Lời Chúa mà Ngài đang mang sứ mạng rao truyền, sẽ dệt nên niềm tin và lòng yêu mến cho người lãnh nhận. Ngài khẳng định trong tương quan với nước Ngài, quan hệ máu mủ ruột thịt không quan trọng bằng niềm tin khi biểu lộ thực thi ý Chúa. Đại gia đình thiêng liêng mà các thành viên đều mang tiêu chuẩn nghe và thi hành ý Thiên Chúa.

Qua sự khẳng định, mẹ và anh em Ngài chính là người nghe và thực hành Lời, Chúa Giêsu không phải là không muốn nhìn nhận mẹ của mình – Đức Maria. Hơn thế nữa, Chúa muốn cho mọi người thấy Mẹ Maria chính là người lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành hơn ai hết.

Thật thế, Mẹ Maria là người đầu tiên đã lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành khi Mẹ thưa vâng với sứ thần đến truyền thánh ý Chúa trong cuộc đời Mẹ: “Này tôi đây là nữ tỳ của Thiên Chúa, xin hãy thực hiện nơi tôi điều Ngài truyền”, lời xin vâng đã khai mở ơn cứu rỗi và của sự sống mới cho thế giới. Mẹ đã trở nên gương mẫu cho mọi người Kitô hữu: lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy.

Chính Mẹ cũng đã đi trước nêu gương và muốn cho chúng ta sống như Mẹ đã sống. Nơi tiệc cưới Cana, Mẹ truyền: “Hãy làm theo lời Ngài truyền”, hành động đó đã dọn sẵn mọi sự để Chúa làm phép lạ mang đến niềm vui cho những người chung quanh… Trên phương diện gia đình đức tin: Nghe và thực hành Lời Chúa, Đức Maria xứng đáng là Mẹ hơn ai hết.

Xin Chúa giúp chúng ta ý thức thực sự là anh chị em với Chúa, khi nghe và thực thi ý thánh Chúa.

Ý lực sống:

“Lạy Chúa, này con đến để thi hành thánh ý Chúa” (Dt 10,7).

Suy Niệm 7: Gia đình thiêng liêng của Chúa

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. “Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh chị em và là mẹ tôi”. Phải chăng câu trả lời của Đức Giêsu nhắc cho mỗi người chúng ta rằng, ngoài sợi dây theo huyết nhục còn một sợi dây cao quí hơn do lời Chúa liên kết, biến chúng ta thành anh chị em với nhau. Thật vậy, mối dây bền chặt nhất là liên hệ với Thiên Chúa bằng cách nghe và thực thi ý Ngài. Vậy mỗi người chúng ta  luôn phải tìm hiểu và sống Lời Chúa. Lời Chúa sẽ làm cho chúng ta  nên thân thiện với nhau và sống trong hạnh phúc.
  2. Trong lúc Đức Giêsu đang rao giảng, dân chúng đông đảo vây quanh Ngài, khiến cho mẹ và thân nhân có việc muốn gặp Ngài, nên không thể chen chân vào được.

Sự việc xẩy ra sau chuyện (M 3,20-27) bà con được tin Chúa làm việc quá sức mình, quên ăn quên nghỉ; đàng khác gây nên bao nhiêu thù địch nên muốn đến bắt Ngài, đưa về nơi yên ổn, giữ sức khỏe cho Ngài, nhất là để tránh những biệt phái gây chuyện khiến thế quyền và giáo quyền có thể thi hành  quyền đối với Ngài và liên lụy cho bà con họ hàng.

Lần này có sự hiện diện của Đức Mẹ cùng với bà con muốn đến gặp Đức Giêsu, khi Ngài đang giảng dạy ở Capharnum, và có đông đảo dân chúng đến nghe. Sự việc này nói lên tính cách liên đới ruột thịt máu mủ giữa những phần tử trong gia đình và trong họ hàng.

  1. “Ai là Mẹ tôi, ai là anh em tôi” (Mc 3,33)?

Câu nói của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay, thoạt nghe người ta dễ hiểu lầm là khi bắt đầu đời công khai, Đức Giêsu đã đánh mất gia đình và người thân của mình. Thật vậy, khi Chúa đang ngồi giảng giữa một đám đông, có kẻ nói với Ngài: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang tìm Thầy”. Chẳng những Đức Giêsu không ra gặp mẹ, mà còn nói: “Ai là mẹ Ta, ai là anh em Ta? Chính những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là mẹ Ta và là anh em Ta”.

Thật ra, qua câu nói này, Đức Giêsu gián tiếp khen ngợi Mẹ Ngài, bởi vì Mẹ là người hoàn toàn tuân theo ý Chúa. Mẹ đã hiểu rõ sứ mạng của Đức Giêsu, con của Mẹ. Như thế câu nói của Đức Giêsu cho thấy Ngài đặt quan hệ tình nghĩa trên nền tảng đức tin, thể hiện niềm tin của mình bằng việc thực thi thánh ý Chúa.

  1. “Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em, chị em, là mẹ Ta” (Mc 3,35).

Đối với bản thân mình, Đức Giêsu coi trọng việc rao giảng Lời Chúa hơn việc gặp bà con; đối với người khác, Ngài coi trọng những người nghe Lời Chúa  hơn cả bà con của Ngài.

Điều này làm chúng ta phải suy nghĩ và tự hỏi mình: bản thân tôi là Kitô hữu, tôi đã thuộc về Đức Kitô chưa. Biết và thi hành ý muốn của Chúa, tôi sẽ là mẹ, là anh chị em của Ngài. Vâng, Chúa đã nói với những kẻ ngồi xung quanh Ngài như thế.

Hôm nay, Chúa cũng tha thiết nói với tôi, với những người xung quanh tôi như vậy, từ những người trí thức đến những người thấp kém trong xã hội. Tất cả chúng ta đều có nhiệm vụ đón nhận và làm cho Lời Chúa thấm nhuần cả đời sống của ta, gia đình và xã hội, để Đức Giêsu không ngừng lớn lên trong ta và trong mọi người. Như thế đó, ta vừa là mẹ vừa là anh chị em của Ngài.

Nhiều lần tôi đã từ chối chức vụ cao trọng ấy, vì còn miệt mài cạnh tranh, dành giật những địa vị khá hơn, cao hơn; mong cho cuộc sống được “sung túc”.

Lạy Chúa, xin cho con biết trọng địa vị cao sang Chúa dành cho con là được làm mẹ và làm anh chị em Ngài, khi lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa. (Epphata).

  1. Truyện: Thực hành Lời Chúa.

Trong Chúa nhật đầu tiên tại một giáo xứ, vị linh mục vừa nhận chức đã giảng một bài giảng rất văn hoa, xúc tích, sâu sắc, hùng hồn. Tất cả các tín hữu có mặt hôm ấy cảm thấy rất sốt sắng và phấn khởi. Có lẽ có nhiều người đã dâng lời cảm tạ Thiên Chúa, vì Ngài đã ban cho họ một vị linh mục có tài ăn nói: “Phun châu nhả ngọc”.

Tiếng đồn về cha xứ mới lan mau như lửa cháy, vì thế vào Chúa nhật kế tiếp, nhà thờ bỗng  trở nên đông đảo hơn các Chúa nhật khác. Mọi người nóng lòng chở đợi cho đến lúc cha giảng. Nhưng cha xứ lại giảng một bài gần giống như bài giảng Chúa nhật tuần trước đó. Rồi trong Thánh lễ Chúa nhật thứ 3, thứ 4, kế tiếp đó cũng vẫn một bài giảng đó.

Hội đồng giáo xứ liền cử người đến  hỏi cha xứ xem tại sao mà ngài lại cứ giảng đi giảng lại một bài giảng hoài như vậy? Cha xứ bèn trả lời:

– Tại sao anh chị em vẫn cứ sống như cách đây 6 tuần trước. Khi nào anh chị em đem áp dụng những gì tôi đã trình bầy tôi sẽ giảng bài giảng mới.

Suy Niệm 8: Nghe Lời Chúa chưa đủ, còn phải sống Lời

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Hạt giống…

Các đoạn Tin Mừng từ ngày Thứ Ba này đến ngày Thứ Năm đều nói về việc nghe Lời Chúa. Ý tưởng mỗi ngày một tiến thêm

– Thứ Ba (Mc 3,31-35) đề cao những người nghe Lời Chúa.

– Thứ Tư (Mc 4,1-20) Nghe Lời Chúa chưa đủ, còn phải sống Lời đó nữa.

– Thứ Năm (Mc 4,21-25) Và còn phải loan báo Lời Chúa cho những người khác.

Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đang giảng Lời Chúa cho những kẻ khao khát nghe. Đúng lúc đó những người bà con đến xin gặp Ngài. Chúa Giêsu tỏ ra coi trọng những người đang nghe Lời Chúa hơn những người bà con chẳng những Ngài không bỏ việc giảng để ra ngoài gặp bà con, mà còn nói những kẻ đang nghe Ngài giảng mới là gia đình thật của Ngài.

B…. nẩy mầm.

  1. “Mẹ và anh em Chúa Giêsu đứng ở ngoài, cho gọi Người ra” Văn mạch phía trước có kể rằng khi hay tin Chúa Giêsu say mê giảng dạy và chữa bệnh cho dân chúng đến nỗi không có thời giờ ăn uống, “thân nhân của Người liền đi bắt Người vì họ nói rằng Người đã mất trí” (Mc 3,21). Chuyến đó họ không “bắt” (nghĩa là không ngăn cản) Chúa Giêsu được. Có lẽ vì thế mà hôm nay, họ mời thêm Đức Maria. Khi Đức Mẹ đến, hẳn Người không hề có ý cản trở sứ mạng Chúa Giêsu mà chỉ đến để xem xét sự thể ra sao. Dù sao, câu chuyện cũng cho thấy Đức Mẹ chưa hiểu nhiều về sứ mạng của Chúa Giêsu. Đã nhiều lần Mẹ phải ghi nhớ và suy nghĩ trong lòng về những việc lạ lùng nơi con của mình. Cuối cùng, dưới chân Thập giá, Mẹ mới hiểu hết và còn kết hợp sự đau khổ của mình với sự đau khổ của Chúa Giêsu.

Chúng ta hãy học nơi Đức Mẹ thái độ ghi nhớ và suy gẫm trong lòng những điều chưa hiểu.

  1. Theo cách viết của Thánh Mác cô, mẹ và anh em Chúa Giêsu “đứng ở ngoài”, còn đám đông nghe Ngài giảng thì “ngồi chung quanh”. Như thế nghĩa là những kẻ nghe Lời Chúa còn gần gũi và thân thiết với Ngài còn hơn những người bà con ruột thịt.
  2. Đối với bản thân mình, Chúa Giêsu coi trọng việc rao giảng Lời Chúa hơn việc gặp bà con; đối với người khác, Ngài coi trọng những người nghe Lời Chúa hơn cả bà con của Ngài.
  3. Chúa Giêsu nhiều lần nhấn mạnh đến việc nghe Lời Chúa và đem ra thực hành. Thí dụ “Đừng lo cho mạng sống lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể lấy gì mà mặc… Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiến Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người (nghĩa là thi hành ý Người), còn tất cả những thứ kia Người sẽ thêm cho” (Mt 6,25-33); “Ai nghe mà không thực hành thì ví được như người xây nhà ngay trên mặt đất, không nền móng. Nước sông ùa vào thì nhà sụp đổ ngay và bị phá huỷ tan tành” (Lc 6,49).
  4. “Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em, chị em, là mẹ tôi” (Mc 3,35)

Bản thân là một kitô hữu, tôi đã thuộc về Đức Kitô. Biết và thi hành ý muốn của Chúa, tôi sẽ là mẹ, là anh chị em của Người. Vâng, Chúa đã nói với những kẻ ngồi xung quanh Người như thế.

Hôm nay, Chúa cũng tha thiết nói với tôi, với những người xung quanh tôi như vậy, từ những người trí thức đến những người thấp kém trong xã hội. Tất cả chúng ta đều có nhiệm vụ đón nhận và làm cho lời Chúa thấm nhuần cả đời sống của ta, gia đình và xã hội, để Chúa Giêsu không ngừng lớn lên trong ta và trong mọi người. Như thế đó, ta vừa là mẹ vừa là anh chị em của Người.

Nhiều lần tôi đã từ chối chức vụ cao trọng ấy, vì còn miệt mài cạnh tranh, dành giật những địa vị khá hơn, cao hơn; mong cho cuộc sống được “sung túc”.

Lạy Chúa, xin cho con biết trọng địa vị cao sang Chúa dành cho con là được làm mẹ và làm anh chị em Người, khi lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa. (Epphata)

 

Xin dạy con đường lối Ngài

Cha Hans-Joachim Lohre, thuộc Hội Thừa sai Phi Châu; cha đã phục vụ ở Mali hơn 30 năm. Khi đang trên đường đi cử hành lễ Chúa Kitô Vua năm 2022 ở Bamako thì cha bị phiến quân Hồi giáo bắt cóc và giam giữ trong một năm. Cha cho biết trong thời gian bị giam cầm, nhờ được phép sử dụng radio; mỗi buổi chiều, cha thường nghe các chương trình tin tức hàng ngày bằng tiếng Anh và tiếng Pháp của đài phát thanh Vatican.

Sau khi được trao trả tự do lên đường về Đức. Cha chia sẻ rằng trong thời gian bị giam cầm, cha không thể cử hành thánh lễ hay lãnh nhận các bí tích, nhưng cha coi khó khăn của mình như thể đó là một kỳ nghỉ phép hoặc tĩnh tâm và một cơ hội để nạp lại năng lượng. Chính việc nghe các chương trình tin tức hàng ngày của đài phát thanh Vatican, đã giúp cha rất nhiều trong việc cảm thấy mình là một phần của Giáo hội hoàn vũ.

Hôm nay, trình thuật Tin Mừng theo thánh Mác-cô cho thấy: Từ khi vào trong thế gian, thông qua Mầu nhiệm Nhập thể. Chúa Ki-tô – Ngôi Hai Thiên Chúa làm người – đã hiến hoàn toàn thân phận đời sống của một con người theo một chiều kích ‘lễ vật hiến tế’ để hoàn thành ý Chúa Cha, mà thập giá chính là dấu chỉ của sự hoàn thành sau cùng ! Và từ đó, thật hạnh phúc cho những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành; vì họ chính là mẹ và là anh em, chị em của Chúa  (x. Mc. 3, 31-35; Lc. 8,21)

Đối với Chúa Giê-su, những liên hệ huyết tộc gia đình là thiết thực nhưng không phải luôn đứng hàng đầu. Chúa không đóng khung gia đình tại đó. Nhưng Người muốn, hễ là Ki-tô hữu thì phải ý thức rõ mình còn có một gia đình thiêng liêng quan trọng và cao quý hơn gia đình tự nhiên.

Lạy Chúa,

Xin cho con nhận biết thánh ý Ngài trong mặc khải Kinh thánh, qua các giới răn của Chúa, đặc biệt là giới răn yêu thương;

Xin cho con nhận ra thánh ý Chúa tỏ lộ qua tiếng nói của lương tâm nhắc nhở con sống thiện lành; qua những giáo huấn của hội thánh Chúa; qua những biến cố của cuộc đời con;

Xin cho con hằng yêu mến và sống vững tin vào Thiên Chúa; cho con biết sống đạo, biết yêu mến và tuân giữ luật Chúa một cách hết sức nhẹ nhàng tự nhiên như một người con hiếu thảo luôn biết làm đẹp lòng cha của mình;

Xin cho con biết sống yêu thương, giúp đỡ mọi người; biết chấp nhận mọi nghịch cảnh, mọi thử thách; nhất là biết hy sinh, quên mình để góp phần xây dựng và làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn.

Xin cho con biết biết sống tâm tình cảm tạ, tri ân và mau mắn làm theo ý Chúa để đáp trả hồng ân của Chúa ban tặng cho con được làm con của Chúa, được thừa hưởng gia nghiệp nước trời Chúa dành cho những ai thực hiện ý muốn của Ngài.

Xin dạy con đường lối Ngài, lạy Chúa, để con vững bước theo chân lý của Ngài. Xin Chúa hướng lòng con, để con biết một niềm kính tôn Danh Thánh (Tv.85,11). Amen.

CÁT BIỂN

 

Một nhà…

Tin Mừng hôm nay đưa ra mệnh đề “Ai là người nhà của tôi ?”

Và cách giải quyết vấn đề chính là một gợi mở cho những ai quan tâm đến mệnh đề đó một cái nhìn mới, một lối suy nghĩ mới về gia đình.

Là con người, thì hầu như ai cũng có một gia đình.

Gia đình là một cộng đồng những người được gắn kết với nhau bằng những mối liên hệ tình cảm sinh thành, dưỡng dục, và huyết thống.

Chúa Giêsu cũng có một gia đình mà ta được dạy biết đó là “Thánh Gia”.

Nhưng Chúa Giê-su không dừng lại ở gia đình tự nhiên này. Người muốn, hễ là Ki-tô hữu thì phải ý thức rõ mình có một gia đình thiêng liêng quan trọng và cao quý hơn gia đình tự nhiên.

Gia đình thiêng liêng này có Thiên Chúa là Cha và tất cả mọi người đều là anh chị em với nhau; với điều kiện không chỉ mang danh xưng suông bằng lời nói, nhưng phải biết sống, hành động, và làm theo ý Thiên Chúa (x. Mc 3, 33-35).

Lạy Chúa, xin cho con ý thức được trọn vẹn ơn huệ làm con Chúa. Xin cho con biết đem Chúa đến cho mọi người qua những việc làm vì danh Chúa cả sáng. Đồng thời không quên giúp đỡ và yêu thương mọi người như những người anh chị em trong cùng một nhà. Amen.

CÁT BIỂN

 

Gia đình Nước Trời 

Qua trình thuật Tin Mừng thánh Mác-cô, trong việc Đức Ma-ri-a và anh em của Chúa Giê-su đến tìm gặp Người ngay giữa đám đông dân chúng đang ngồi nghe Người giảng dạy. Đã cho thấy: Muốn trở thành thành viên của Gia đình Nước Trời đòi hỏi những ai theo Chúa Giê-su phải dấn thân vượt lên trên tất cả những mối liên hệ của gia đình tự nhiên loài người; đồng thời phải biết thi hành ý muốn của Thiên Chúa.

Trong tất cả những người thuộc Gia Đình Nước Trời thì Đức Ma-ri-a là gương mặt nổi bật hơn cả. Vì chưa từng có ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa với tình yêu lớn lao và hoàn hảo như Mẹ.

Lạy Mẹ Ma-ri-a, xin giúp con biết sẵn sàng làm việc theo ý Chúa muốn và luôn làm theo cách thức của Chúa. Amen.

 

Xứng danh Con Chúa

Gần đây dư luận cả nước, và ngay trong cuộc họp Quốc hội hết sức bức xúc về chuyện bổ nhiệm đề bạt con em lãnh đạo trong bộ máy nhà nước hiện nay… đã gây thiệt hại lớn cho đất nước; làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với xã hội, và làm suy yếu uy tín của Đảng và Nhà nước bởi ảnh hưởng quan hệ cá nhân gia đình.

Suy cho cùng, cái tệ nạn “nhất hậu duệ, nhì tiền tệ, ba quan hệ, bốn trí tuệ” này không phải mới có đây, mà ngay từ thời Chúa Giê-su thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng; nó đã xuất hiện trong não trạng của đám đông dân chúng rồi. Vì thế, họ mới mau mắn nói với Người: “Thưa Thầy, có Mẹ và anh em chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy!” (Mc 3,32). Nhưng Chúa Giê-su đã xác định người thân đích thực của Ngài là những ai “thi hành ý muốn của Thiên Chúa” (Mc 3,34).

Qua Tin Mừng, Chúa Giêsu khẳng định chính những ai thực hành Lời Chúa mới là thân nhân, là gia đình thật của Ngài; chứ không phải do bởi huyết thống tự nhịên như cái nhìn của đám đông dân chúng thời bấy giờ.

Cứ hễ ai sống theo Lời Chúa người đó là thân thuộc của Ngài. Ai càng sống và làm theo Lời Chúa dạy, thì càng gắn bó mật thiết với Chúa hơn.

Vì vậy, chắc chắn Chúa Giêsu sẽ nhận ra tôi là môn đệ Ngài, là anh em của Ngài không phải vì danh hiệu Kitô hữu Đa Minh tôi đang có, mà vì những việc “làm theo” Lời Chúa mà tôi đạt được. Đó chính là yêu thương hết thảy mọi người như Chúa đã yêu tôi; yêu thương mọi người vô vị lợi không so đo toan tính thiệt hơn.

Lạy Chúa, xin cho các Kitô hữu biết hiệp nhất, yêu thương, và nên một không chỉ đối với gia đình tự nhiên, nhưng còn biết hiệp nhất, liên đới xây dựng gia đình thiêng liêng là Giáo hội, và hiệp nhất với tất cả những ai cùng gọi Thiên Chúa là Cha. Amen.

CÁT BIỂN

 

Thực thi ý Chúa

Thầy Giê-su đang mải mê, say sưa rao giảng cho đám đông. Thầy còn đang nói, thì có mẹ và anh em từ bên ngoài muốn gặp. Có người vào khẽ thưa: “Thưa Thầy, có mẹ và anh chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy!” Tưởng Thầy sẽ tạm ngưng, đi ra để gặp người nhà, nhưng Thầy hỏi lại người ấy: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” Rồi Thầy rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.” Thầy nhìn vào những người đang lắng nghe Thầy và nói đó chính là mẹ và anh em. Nhưng Thầy khẳng định rõ hơn: để đích thực là “người nhà” thì phải là người thi hành ý muốn của Thiên Chúa, thật chẳng dễ chút nào.

Nhìn vào Đức Maria, Mẹ là Mẹ sinh ra Đức Giêsu, nhưng trên cả mối liên hệ huyết thống, máu mủ ruột thịt, Mẹ xứng đáng là người số một trong “gia đình của Thiên Chúa”, bởi vì Mẹ là người yêu mến, lắng nghe và thi hành ý Chúa hơn ai hết. Khi khẳng định như trên, Thầy Giêsu đã đề cao chính Mẹ, rồi đến tất cả những ai luôn đặt lòng tin yêu, lắng nghe và thực thi ý Chúa, đều có mối liên hệ đại đồng, đặc biệt trong “gia đình của Thiên Chúa”. Chính Đức Giêsu khi xưa không chỉ được lớn lên nhờ dòng sữa của Mẹ, nhưng còn được lớn lên trong lòng tin tinh tuyền, luôn thực thi ý Chúa của Mẹ. Mẹ không buồn khi nghe Đức Giêsu khẳng định ai là mẹ và là anh em của Ngài. Mẹ là Mẹ của những người tin, Mẹ của những người xin vâng ý Chúa Cha, dù cho đến phút đau thương dưới chân thập giá.

Chính Đức Giêsu hằng thi hành ý muốn của Cha, từ khi nhập thể, sống đơn sơ nơi làng quê nghèo, trong vườn Cây Dầu đổ mồ hôi máu, suốt cuộc thương khó… cho tới khi “mọi sự đã hoàn tất, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”.

Các môn đệ là những người lắng nghe Lời Chúa, đã thi hành ý Chúa trong hành trình bước theo Thầy Giêsu, từ bỏ mọi sự, ở bên và học với Thầy, được Thầy uốn nắn, nhiều khi rất nghiêm khắc. Các ông đã bước theo Thầy và trở thành người nhà, cách thâm sâu, được đổi mới từ trong ra ngoài qua cuộc tử nạn và Phục Sinh của Thầy. Cuối cùng các môn đệ tất cả sẵn sàng cùng chết với Thầy cách can đảm anh hùng.

Ngày hôm nay Chúa có thể nhìn vào tôi, vào bạn mà nói rằng “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi” không? Nếu tôi đón nhận Đức Ki-tô đi vào cuộc đời, để được ở với Ngài, sống trong Lời Ngài thì sẽ cảm nhận được hạnh phúc của những người sống trong “gia đình của Thiên Chúa” ngay hôm nay. Ở trong gia đình này, tôi sẽ được nuôi bằng sữa Tình Yêu, được lớn lên trong ân sủng, được trở nên can đảm khi gặp sóng gió cuộc đời, sẵn sàng chịu trách nhiệm với niềm tin đã lãnh nhận của một người con trong gia đình Thiên Chúa.

Én Nhỏ

 

THỨ TƯ TUẦN 3 THƯỜNG NIÊN

LỜI CHÚA: Mc 4,1-20

Khi ấy, Chúa Giêsu bắt đầu giảng dạy ở bờ biển và có đám đông dân chúng tụ lại gần Người, nên Người xuống ngồi trong một chiếc thuyền trên mặt biển, tất cả đám đông thì ở trên đất theo dọc bờ biển.

Người dùng dụ ngôn mà dạy họ nhiều điều, và khi giảng, Người nói với họ rằng: “Các ngươi hãy nghe! Nầy người gieo hạt đi gieo hạt giống. Khi gieo, một phần hạt rơi xuống vệ đường và chim trời đến ăn hết. Phần khác rơi trên đất sỏi, nơi không có nhiều đất. Hạt giống đã mọc lên ngay, vì lớp đất không sâu. Nhưng khi mặt trời mọc lên, hạt giống bị nắng đốt và vì không rễ, nên bị chết khô. Một phần khác rơi vào bụi gai và gai mọc lên làm hạt giống chết mà không sinh hoa trái được. Phần hạt khác rơi vào đất tốt, mọc lên, nẩy nở và sinh quả, hạt thì sinh được ba mươi, hạt được sáu mươi, hạt được một trăm”. Và Người phán rằng: “Ai có tai nghe thì hãy nghe”.

Khi Người còn lại một mình, thì mười hai ông là những kẻ luôn ở với Người, hỏi Người về ý nghĩa dụ ngôn, Người liền bảo các ông: “Các con được ơn biết mầu nhiệm về nước Thiên Chúa, còn những người khác ở ngoài thì mọi sự được giảng dạy bằng dụ ngôn, vì chúng nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu, kẻo chúng trở lại mà được tha tội”. Người nói với các ông: “Các con không hiểu dụ ngôn đó sao? Vậy thì hiểu sao được tất cả những dụ ngôn khác?

Người gieo hạt là gieo lời Chúa. Vệ đường mà lời Chúa được gieo vào, là những kẻ vừa nghe xong, thì Satan đến và cất lấy lời Chúa gieo trong tâm hồn họ. Và cũng thế, những hạt giống rơi trên đất sỏi, là những kẻ khi nghe lời Chúa thì đón nhận vui vẻ, nhưng chúng không đâm rễ bên trong và là những người hay thay đổi: sau đó gặp phải cơ cực hay bắt bớ vì lời Chúa, thì họ sa ngã liền. Lại có những hạt giống rơi trong bụi gai. Ðây là những kẻ nghe lời Chúa, nhưng những lo lắng trần tục, bóp nghẹt lời Chúa, khiến không thể sinh hoa trái được. Còn những hạt giống gieo trong đất tốt: đó là những người nghe lời Chúa, biết giữ lấy và làm sinh lợi, hạt ba mươi, hạt sáu mươi và hạt một trăm”.

Suy Niệm 1: Hạt giống Lời Chúa

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Chỉ cần một hạt giống lời Chúa rơi vào tâm hồn bạn,

như rơi vào thửa đất màu mỡ,

đời bạn có thể thay đổi hoàn toàn.

Têrêsa Hài Đồng đã để lòng mình đón lấy lời này:

“Ai không nên như trẻ thơ thì chẳng được vào Nước Trời.”

Chị đã nên thánh nhờ suốt đời sống phó thác như trẻ thơ.

Têrêsa Calcutta đã để lòng mình đón lấy lời này:

“Những gì ngươi làm cho một anh em nhỏ nhất, là làm cho chính Ta.”

Mẹ Têrêsa đã không bao giờ quên mình đang tiếp xúc với Giêsu

mỗi khi Mẹ gặp người nghèo khổ, bệnh tật.

Là Kitô hữu, chúng ta thường xuyên được nghe Lời Chúa,

nhưng một tiếp xúc thực sự với hạt giống Lời Chúa vẫn ít xảy ra.

Điều này đã là vấn đề của các Kitô hữu sơ khai rồi.

Tất cả bốn hạng người trong dụ ngôn Người gieo giống đều nghe.

Tuy nhiên kết quả lại rất khác nhau,

vì vấn đề không phải là nghe bằng tai, nhưng là nghe bằng cả tâm hồn.

Vẫn có thứ tâm hồn hời hợt như đất cứng ở vệ đường.

Hạt giống chưa bao giờ thâm nhập được vào đất,

mới chỉ nằm trơ vơ trên bề mặt.

Hạt giống này nhanh chóng làm mồi cho chim chóc, cho Xatan.

Vẫn có thứ tâm hồn chai đá, như mảnh đất chỉ có lớp đất mỏng bên trên.

Hạt giống mọc ngay, nhưng sau đó bị khựng lại,

không đâm rễ được vì đất nhiều sỏi đá.

Khi nắng lên, cây bị héo khô vì không có rễ hút nước.

Để cho Lời Chúa đâm rễ sâu trong đời mình và nuôi dưỡng mình,

đó là nỗ lực suốt đời của người Kitô hữu.

Vui vẻ đón nhận Lời ngay lập tức mà không chịu đào sâu, đâm rễ,

thì cũng sẽ bỏ cuộc ngay lập tức khi cơn bách hại đến từ bên ngoài.

Vẫn có thứ tâm hồn nặng nề, vì những lo lắng sự đời, đam mê giàu có.

Chính những lệch lạc từ bên trong như bụi gai đã bóp nghẹt hạt giống.

Lời Chúa đòi ta vượt lên trên những thèm muốn, khoái lạc và âu lo.

Để Lời Chúa sinh trái phải làm cỏ, dọn bụi gai cho sạch.

Nhưng vẫn có những tâm hồn mềm mại như mảnh đất tốt.

Hạt giống Lời Chúa thoải mái đâm rễ sâu, và sinh hoa trái gấp trăm.

Dù gặp bách hại vì Lời, dù bị danh lợi thế gian lôi kéo,

họ vẫn không đánh mất căn tính Kitô hữu của mình.

Tâm hồn chúng ta thuộc loại đất nào?

Đó là câu hỏi cho từng Kitô hữu xưa cũng như nay.

Thiên Chúa vẫn cứ kiên nhẫn và miệt mài gieo giống cho đến tận thế.

Ngài vẫn mời ta ra khỏi sự hời hợt, cứng cỏi, chai đá của lòng mình.

Nếu ta dám để cho Lời Chúa thực sự đi vào đời ta, dù chỉ một lần,

ta sẽ thấy được sức biến đổi kỳ diệu của Lời Chúa.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.

Chúng con thường xây nhà trên cát,

vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy,

nhưng lại không dám đem ra thực hành.

Chính vì thế

Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.

Xin cho chúng con

đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa,

đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.

Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình,

để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng truởng.

Ước gì ngôi nhà đời chúng con

được xây trên nền tảng vững chắc,

đó là Lời Chúa,

Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.

Suy Niệm 2: Người đi gieo Lời

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Thiên Chúa gieo Lời Người xuống trần gian. Đó là lời tình yêu. Lời sự sống. Lời hạnh phúc. Nhưng con người vô tâm không lắng nghe. Để ma quỉ tha đi mất. Như bà E-và. Nhưng Thiên Chúa không nản lòng. Vẫn tràn đầy yêu thương. Vẫn tiếp tục gieo hạt. Lời không bén rễ sâu. Vì con người hời hợt. Mau thay đổi. Thiên Chúa vẫn tiếp tục gieo. Hạt đã bắt đầu mọc. Nhưng con người quá ham mê dục vọng. Để dục vọng chèn ép. Lời Chúa không lớn mạnh được. Như trường hợp Sam-son. Thiên Chúa kiên trì yêu thương. Gieo cho đến khi Lời gặp được mảnh đất tốt. Sinh hoa kết quả trăm nghìn.

Sách Sa-mu-en cho ta thấy hai vị vua đầu tiên là hai mảnh đất khác nhau. Sa-un được Thiên Chúa tuyển chọn. Nhưng ông không tuân giữ Lời Chúa. Lòng tham lam và dục vọng chèn ép làm cho Lời Chúa chết nghẹt. Ông trở nên mảnh đất sỏi đá. Lời Chúa không phát triển được. Chúa từ bỏ ông. Trái lại Đa-vít là vị vua thánh thiện. Luôn lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Nên Lời chúa sinh hoa kết quả. Không những trong đời ông. Mà còn tồn tại đến đời con cháu. Như Lời Chúa hứa. “Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi – một người do chính ngươi sinh ra – và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền…Tình thương của Ta sẽ không rời khỏi nó, như Ta đã cho rời khỏi Sa-un, nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ muôn đời bền vững” (năm chẵn).

Tất cả lời hứa của Thiên Chúa ứng nghiệm trong Chúa Giê-su Ki-tô. Chúa Giê-su là dòng dõi Đa-vít lên trị vì. Và vương quyền Người muôn đời bền vững. Chúa Giê-su chính là Thiên Chúa xuống trần gian để đi gieo Lời. Chính Người là Ngôi Lời được gieo xuống trần gian. Người là sự sống, là tình yêu, là hạnh phúc gieo xuống lòng nhân loại. Chính Người trở thành hạt giống mục nát đi. Dâng hiến chính đời mình. Chết đau thương. Được chôn táng trong mộ.Trở thành hạt lúa tốt sinh hoa kết quả trăm nghìn. Tạo nên một mùa gặt mới phong phú dồi dào. Vì chính Người là mảnh đất tốt. Đón nhận Lời của Chúa Cha. Vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết. Nên mùa gặt phát sinh. Mùa gặt sự sống. Mùa gặt tình yêu. Mùa gặt hạnh phúc (năm lẻ).

Ta hãy noi gương Chúa Giê-su. Hãy hăng say đi gieo Lời Chúa. Hãy trở thành thửa đất tốt. Luôn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Hãy trở thành hạt giống được gieo xuống lòng đất. Mục nát đi. Sẽ sinh hoa kết quả muôn ngàn.

 

Suy Niệm 3: Hạt giống Lời Chúa

Phan Linh là một nhân vật nổi tiếng trong nhiều lãnh vực khoa học kỹ thuật và văn chương. Một hôm ông nhận được một món quà của một người bạn từ Ấn Ðộ, đó là một cái chổi rơm. Nhận thấy có những hạt lúa dính ở cọng rơm, ông nhặt lấy và đem đi gieo, sau đó ông cũng phân phát cho bà con cùng gieo, thu hoạch rất khả quan và dần dần lan ra cả nước. Ông là người đầu tiên nhập giống lúa mới và khai sinh kỹ nghệ làm chổi phục vụ cho cả nước.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn người gieo giống để giảng về Nước Trời. Việc gieo giống có lẽ rất quen thuộc với người Việt Nam, vì có đến 4/5 dân số sống bằng nghề nông nghiệp. Người gieo giống nào cũng muốn gieo hạt trên đất đã cày bừa cẩn thận; Thiên Chúa cũng muốn tâm hồn con người được trở nên như thửa đất để hạt giống Lời Ngài có thể mọc lên, phát triển và sinh nhiều hoa trái, làm ích cho mình và cho người khác nữa.

Nhìn lại cuộc đời của mình, có lẽ chúng ta phải thành thật nhận rằng từ trước tới nay chúng ta chưa đón nhận và sống Lời Chúa được bao nhiêu, bởi vì chúng ta vẫn để cho tâm hồn xao xuyến lo lắng, những đam mê sự đời, tham vọng địa vị và của cải làm chết ngạt Lời Chúa. Ðấy là chưa kể những biến cố xảy đến trong cuộc sống bản thân, gia đình, xã hội, đều là những tiếng Chúa nhắc nhở, mời gọi chúng ta, nhưng chúng ta vẫn chưa thoát khỏi những đam mê, ích kỷ trong đời sống. Lời Chúa vẫn chưa bén rễ sâu trong tâm hồn chúng ta.

Xin Chúa cho chúng ta biết mở rộng tâm hồn đón nhận hạt giống Lời Chúa. Xin làm cho những hạt giống ấy được bám rễ, mọc lên tươi tốt và trổ sinh được nhiều bông hạt, để mỗi ngày chúng ta được lớn lên trong tình yêu Chúa và góp phần xây dựng Giáo Hội Chúa ngày một lớn mạnh hơn.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Suy Niệm 4: Phải chăng lỗi tại Chúa?

“Các người nghe đây! Kìa người gieo giống đi ra gieo giống. Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường. Chim chóc đến ăn mất. Có hạt rơi trên sỏi đá, chỗ không có nhiều đất; nó mọc ngay, vì đất không sâu; nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết hô. Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt và không sinh hoa kết quả: Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nó mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả: hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi, hạt thì được một trăm.” (Mc. 4. 3-8)

Dụ ngôn Người gieo giống theo thánh Maccô này mang dấu vết của một bài biên soạn chịu ảnh hưởng đời sống Giáo hội buổi ban đầu, trước hết là vấn đề giải thích sự thất bại trong việc rao giảng Tin mừng, sau là ý nghĩa của từ “Lời Chúa”

Thất bại trong việc rao giảng

Maccô quả quyết điều này: với những kẻ ở ngoài, thì cái gì cũng phải dùng dụ ngôn… để họ không hiểu, kẻo họ trở lại…

Thoạt nghe ta thấy khó hiểu. Phải chăng Chúa Giêsu muốn kết án người đời? Tại sao Chúa lại không cho mọi người một cơ hội đồng đều? Chính điểm này làm ta khó chịu, và cũng đúng thôi. Nếu khi đọc ta chỉ đặt bản văn này vào trong bối cảnh của thời Chúa Giêsu.

Nhưng khi đặt nó vào khung cảnh đời sống Giáo hội buổi ban đầu, những khó khăn kia không còn nữa. Bởi vì ta thấy rõ thánh Maccô chủ tâm giải thích cho biết hoàn cảnh lúc ấy đã coi thường Tin mừng của Đức Kitô. Bằng lối hành văn khéo léo, thánh Maccô giải thích sự việc ở hiện tại, tức là sự thất bại trong việc rao giảng Tin Mừng cho người Do thái, ngụ ý là điều đó Chúa Giêsu đã nhìn thấy và biết trước cả rồi.

Cuối cùng, Maccô nói thêm rằng để chương trình cứu độ nhiệm mầu của Chúa được thành công, người ta cần phải đọc và nhận được những dấu chỉ. Mạc khải không phải là một sứ điệp được che dấu và đem cất đi. Nhưng để đọc và hiểu sứ điệp, người ta cần phải có một tâm hồn sẵn sàng và cởi mở để hiểu điều Thiên Chúa muốn nói với ta qua lời của Người. Mà thường là tâm hồn người ta đã không được sửa sang và vun xới đủ.

Hiểu lời này của Chúa hôm nay

Trong Phúc âm có những cách viết, cách diễn tả khác nhau, nhưng điều quan trọng nhất vẫn là cách chúng ta đọc sứ điệp và có được một lựa chọn sống phù hợp với lời này của Chúa. Chúng ta đón nhận như thế nào lời nói và gương sáng cuộc đời của Đức Kitô? Chúng ta có để cho lòng mình ngổn ngang trăm mối, sống quá hời hợt, giống như những người trố mắt nhìn mà không thấy chăng?

Khi sáng suốt nhìn vào mình, căn cứ vào kinh nghiệm và lịch sử đời mình, ta có thể giải thích đưọc tại sao ta phải thất bại? Tại sao ta không luôn luôn hiểu dược Phúc âm? Có thật phải lỗi tại Chúa chăng?

Suy Niệm 5: Đón nhận hay khước từ

Thánh Âu Tinh nói: “Thiên Chúa sinh ra bạn, Ngài không cần hỏi ý kiến bạn, nhưng khi muốn cứu chuộc bạn, Người phải hỏi ý kiến bạn”.

Thật vậy, Thiên Chúa đã ban cho con người sự tự do, đây là gia sản quý giá mà Thiên Chúa không ngần ngại ban tặng cho một loài thụ tạo. Vì thế, con người hoàn toàn có trách nhiệm khi sử dụng tự do của mình trong cuộc sống.

Hôm nay, Đức Giêsu kể cho dân chúng và các môn đệ dụ ngôn người gieo giống. Người gieo cứ gieo. Gặp đâu gieo đấy. Nào là gieo cả trên sỏi đá, bụi gai, vệ đường, và đất tốt. Tuy nhiên, duy nhất nơi đất tốt mới sinh hoa kết quả. Như vậy, chỉ có ¼ có tác dụng, còn ¾ thì uổng công vô ích.

Thiên Chúa là như vậy! Ngài quảng đại trao ban hết tất cả cho con người, ngay cả Con Một yêu dấu Người cũng ban. Nhưng mấy ai hiểu được tình yêu của Người lớn lao như thế! Mà ngược lại, những nhà lãnh đạo Dothái còn tìm cách loại trừ ngay cả Đức Giêsu là món quà cao quý mà Chúa Cha đem tặng cho con người.

Họ như những hạt giống bị gieo bên vệ đường, sỏi đá và bụi gai. Những thứ ích kỷ, kiêu ngạo, tự phụ, tự ty làm cho tinh thần nên trai cứng và Lời Chúa bị bóp nghẹt trong lòng họ, nên không hề sinh ích lợi cho bản thân.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ý thức trách nhiệm trong tự do để trở nên như thửa đất tốt, ngõ hầu Lời Chúa đâm dễ sâu, lớn mạnh và sinh hoa kết trái trong cuộc sống của chúng ta.

Có thế, chúng ta mới trở nên môn đệ đích thực của Đức Giêsu nhờ biết nghe và giữ Lời Chúa trong lòng, nhất là đem ra thực hành.

Lạy Chúa Giêsu, cuộc đời của chúng con sẽ khô cằn, sỏi đá và trơ trọi nếu không được Lời Chúa là nguồn sự sống dưỡng nuôi. Xin Chúa ban cho tâm hồn chúng con trở nên thửa đất tốt tươi, để Lời Chúa trở thành nguồn hoan lạc cho chúng con. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 6: Đón nhận ơn Chúa và trổ sinh hoa trái

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Như người gieo giống tung vãi hạt giống trên mặt đất, Thiên Chúa luôn quảng đại rộng tay ban ơn cho ta. Ta hãy đón nhận ơn Chúa và làm trổ sinh nhiều hoa trái tốt đẹp trong đời sống hàng ngày.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, hình ảnh người gieo giống bốc từng nắm hạt vung vãi trên cánh đồng đã làm con xúc động. Bởi lẽ hình ảnh ấy giúp con hiểu được rằng từng giây phút Chúa vẫn ban muôn hồng ân cho con: từ hừng đông cho đến chiều tà, và từ chiều tà cho đến hừng đông ngày mới, ơn Chúa vẫn chan hòa trên con. Đâu phải tình cờ tự nhiên con có không khí để thở, có thân xác khỏe mạnh, được đón nhận những tia nắng ấm hoặc những giọt mưa trong lành… Vâng, lạy Chúa, con tin rằng đó là quà tặng Chúa thương ban cho riêng con. Nhưng vì những ơn Chúa ban quá dồi dào, nên con đã thờ ơ coi thường, và thậm chí có lúc con đã phung phí ơn Chúa ban.

Những hạt giống ơn Chúa ký gởi nơi cuộc đời con đã bị cỏ dại tội lỗi tấn công bóp nghẹt. Hoặc tâm hồn con như thuở đất hoang chai cứng, không đón nhận ơn lành Chúa ban.

Lạy Chúa, Chúa quảng đại và kiên nhẫn với con biết chừng nào! Có thể nói rằng: Chúa đã “phung phí” ơn lành để mong con trổ sinh hoa trái.

Xin Chúa giúp con biết chăm sóc mảnh đất tâm hồn mình, biết nhặt đi những sỏi đá gai góc tật xấu mỗi ngày, biết vun xới tâm hồn bằng những việc tốt, bằng những phút suy gẫm Lời Chúa, những giờ kinh lễ sốt sắng, để hạt giống ơn Chúa có thể sinh nhiều hoa trái nơi cuộc đời con. Amen.

Ghi nhớ: “Người gieo hạt đi gieo hạt giống”

Suy Niệm 7: Hạt giống Lời Chúa rơi vào đất nào?

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Một nhà thừa sai Công giáo gặp một cậu bé người Ả Rập trên đường từ trường về nhà. Nhà truyền giáo vui vẻ hỏi: – Sao, hôm nay con học thêm được gì về sách Coran?

Mắt cậu sáng lên và mau mắn đọc thuộc lòng những câu trích từ sách Coran là sách thánh của các tín đồ Hồi giáo. Nhà truyền giáo nói thêm: – Bây giờ, con thử viết những lời đó trên đất để cha có thể hiểu dễ dàng hơn và học mau thuộc hơn không?

Cậu bé đáp: – Thưa cha, không được! Lời Thánh phải được viết trong trí và ghi trong lòng chứ không thể viết trên đất được.

Theo tư tưởng của cậu bé đó thì Kinh Thánh phải được ghi khắc trong tâm hồn, nghĩa là Lời Chúa phải thấm nhập vào lòng trí người Kitô hữu để họ phải sống bằng Lời Chúa.

Sống đạo là để cho Lời Chúa thấm nhập tâm hồn.

Sống đạo là để cho Lời Chúa hướng dẫn cuộc sống.

Sống đạo là để cho Lời Chúa tuôn trào ra cửa miệng và thấm nhuần môi trường sống.

Suy niệm

Ở Do Thái đất đai có rất nhiều đá. Cho nên, trong công việc nhà nông của người Do Thái, việc lượm đá là một động tác quen thuộc cũng như làm cỏ, đến nỗi từ “đá” (xêla) khi dùng như một động từ ở thể hành động (xalêa) thì có nghĩa là lượm đá để dọn một mảnh đất. Ðá lượm ra xếp thành bờ ngăn các thửa ruộng, do đó mép bờ cũng là nơi gai mọc. Ở những vùng đất thiếu nước thì gai là loài cây dại phổ biến nhất, vì nó có sức chịu khô lâu nhất. Người nông dân ở Palestine xưa kia dọn đất xong thì gieo hạt rồi cày lấp đi giống như xạ lúa ở miền Tây (Theo lời giải thích của cha Nguyễn Công Đoan SJ).

Khi biết và hiểu địa dư của đất nông nghiệp Do Thái, chúng ta dễ hiểu bốn vị trí mà hạt giống có thể rơi xuống khi người nông dân gieo lúa: đá, mặt lối đi, bụi gai và đất tốt như Đức Kitô đã nhấn mạnh đến các chi tiết trong dụ ngôn.

Muốn gieo cho kín ruộng mình thì người nông dân phải chấp nhận có sự hao hụt vì khi vung tay gieo hạt, một số nào đó sẽ rơi vào ba loại vị trí không kết quả: ”xuống vệ đường, chim trời bay đến ăn mất”. “Hạt rơi xuống trên đá sỏi, chỗ có ít đất, nó liền mọc lên, vì không có nhiều đất. Khi mặt trời mọc lên, bị nắng gắt, và vì không đâm rễ sâu, nên liền khô héo. Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc um tùm, nên nó chết nghẹt…”. Hình ảnh người nông dân gieo giống tượng trưng cho hình ảnh Thiên Chúa, Ngài luôn vững tay phân phát thật rộng rãi để hạt giống được phủ kín mảnh ruộng, là thái độ quảng đại của Thiên Chúa đối với nhân loại, Ngài làm tất cả, đôi lúc có phung phí ân sủng, vì Ngài mong ít ra có những hạt giống rơi trên đất tốt.

Mảnh đất được gieo trồng mang hình ảnh tâm hồn tôi và tâm hồn bạn. Để cho mảnh đất trở nên đất tốt hòng hạt giống của Thiên Chúa gieo vào sinh hoa kết trái, chúng ta cần phải chuẩn bị, như người nông dân lượm những viên đá để trên bờ rào. Hình ảnh đó gợi lên cho chúng ta tâm tình biết sửa chữa mình không ngừng để cuộc sống chúng ta luôn tràn ngập bình an, ân sủng, đó là giống đã được nảy mầm, đơm hoa và kết hạt.

Nếu cứ để tâm hồn chúng ta hoang sơ như những mảnh đất chưa được nhặt lượm những sỏi đá, cỏ lùng không bị tàn diệt, chắc chắn dù hạt giống ân sủng được nảy mầm, đời sống chúng ta như Chúa ví trong dụ ngôn: Rễ không đủ sâu gặp nắng gắt chết khô, hay chết nghẹt vì bụi gai… hãy nhặt đi những sỏi đá trong mảnh đất hồn tôi, hãy nhổ đi những cụm cỏ lùng luôn đe dọa đến hạt giống như Đức Giêsu đã thường xuyên cảnh báo các môn đệ chống lại ảnh hưởng của thế gian (x. Lc 9,57-62; 14,28-33; 16,19-31; Ga 15,19; 12,6).

Hạt giống Lời Chúa sinh được hoa trái, nhưng còn phụ thuộc vào mảnh đất có được canh tác tốt hay không. Giống không sinh được hạt nếu không có sự cộng tác của con người. Mảnh đất phải được dọn cỏ lùng, mảnh đất phải được nhặt những viên đá để hạt giống Chúa được tự do tăng trưởng, được sinh hoa kết trái mang lại lợi ích thiêng liêng cho cuộc sống.

Ý lực sống

“… Những lo lắng thế gian và sự giàu có của vật chất làm cho giống chết nghẹt” (Thánh Têrêsa Avila).

Suy Niệm 8: Dụ ngôn người gieo giống

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Khi nói đến những vấn đề trừu tượng khó hiểu như Nước Trời chẳng hạn, Đức Giêsu hay dụng dụ ngôn để diễn tả những ý tưởng đó. Dụ ngôn người gieo giống trong đoạn Tin Mừng này  cho chúng ta thấy những thái độ và hiệu quả của việc đón nhận Lời Chúa khác nhau. Cũng vậy, Tin Mừng được gieo vào lòng chúng ta, thế nhưng mảnh đất tâm hồn chúng ta thế nào? Mảnh đất của chúng ta có điều kiện để hạt giống Tin Mừng được sinh hoa kết quả; hay là mảnh đất khô cằn, chai cứng? 
  2. Để dễ hiểu đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cần lưu ý: cách gieo giống của người Do thái thời Đức Giêsu khác với cách gieo giống của ta ngày hôm nay:

–  Vì còn lạc hậu nên đất chia ra làm nhiều mảnh vụn. Ranh giới giữa các mảnh ruộng thường dùng làm đường đi nên khi gieo có nhiều hạt vương trên bờ.

– Vì vùng đất hoang khô cằn, nên mảnh ruộng có nhiều sỏi đá, và cây gai vì thế khi gieo có những hạt rơi trên sỏi đá và hạt chen vào bụi gai.

– Ngoài ra, cũng có những vùng đất tốt được phân làm nhiều loại và năng suất của mỗi loại đất cũng khác nhau.

  1. Thực ra, các môn đệ cũng chưa hiểu được ý nghĩa của dụ ngôn này, nên lúc còn một mình Chúa với các môn đệ, Ngài giải thích thêm cho các ông: người đi gieo là kẻ giảng lời Chúa. Hạt rơi bên dường chỉ ngươi nghe rồi bị ma quỉ cướp mất. Hạt rơi trên sỏi đá chỉ kẻ nghe thì vui nhận, nhưng vì thiếu kiên nhẫn khi bị gian nan thử thách thì bỏ qua. Hạt rơi trong gai góc là hạng người nghe lời giảng thì vâng giữ, nhưng vì ham mê danh vọng của cải thế gian nên Lời Chúa cũng bị chết nghẹt. Hạt rơi trên đất tốt là những người nghe lời Chúa, suy niệm trong lòng rồi chịu khó đưa ra thực hành trong đời sống hằng ngày, nên sinh bông trái là phần rỗi linh hồn.
  2. Có lẽ đa số chúng ta thuộc loại đất có gai. Lời Chúa gieo vào bị làm chết ngạt bởi “những lo lắng việc đời, bả vinh hoa phú quí cùng những đam mê khác”. Thực vậy, kinh nghiệm cho thấy khi nào ta có được sự “thinh lặng nội tâm” thì Lời Chúa dễ thâm nhập tâm hồn ta hơn. Ngược lại khi tâm hồn bị giao động bởi những thứ kể trên thì Lời Chúa vừa vào tai bên này đã lọt ra khỏi tai bên kia.
  3. Tuy thế, lòng người dù có sỏi đá, vệ đường, bụi gai nhưng vẫn có thể được cầy xới chăm bón để biến đổi thành đất tốt. Hạt giống Lời Chúa được gieo xuống không nằm yên thụ động mà còn có sức cải tạo được. Chẳng hạn các vị thánh như Phaolô, Augustinô, Phanxicô Xaviê đã được biến đổi thành “đất tốt” nhờ đã được đón nhận Lời Chúa gieo vào tâm hồn cách nhẫn nại và hào phóng. Thiên Chúa đang cần chúng ta  có sự nhẫn nại và hào phóng đó để Nước Trời được mùa gặt bội thu.
  4. Nhìn lại cuộc đời của mình, có lẽ chúng ta phải thành thật nhận rằng từ trước tới nay chúng ta chưa đón nhận  và sống Lời Chúa được bao nhiêu, bởi vì chúng ta vẫn  để cho tâm hồn xao xuyến lo lắng, những đam mê sự đời, tham vọng địa vị và của cải làm chết ngạt Lời Chúa. Đấy là chưa kể những biến cố xẩy đến trong cuộc sống bản thân, gia đình, xã hội, đều là những tiếng Chúa nhắc nhở, mời gọi chúng ta, nhưng chúng ta vẫn chưa thoát khỏi những đam mê, ích kỷ trong đời sống. Lời Chúa vẫn chưa bén rễ sâu trong tâm hồn chúng ta.
  5. Truyện: Lời Chúa biến đổi tâm hồn.                

Một bác nông phu quê mùa chất phác nọ  đã trở lại Kitô giáo. Được Lời Chúa soi sáng và hướng dẫn, Đức tin cũng như lòng mến Chúa chân thành của bác ngày càng trở nên mạnh mẽ, mạnh đến độ gặp ai, ở chỗ nào bác cũng sốt sắng nói về Chúa cho người ta nghe.

Một hôm, có một người vô thần đến gặp bác, với ý định đặt một số câu hỏi để dằn mặt bác để bác khỏi đi rao giảng về Đức Kitô.

Người vô thần hỏi:

– Ông có biết Đức Kitô mà ông vẫn hăng say quảng cáo, sinh ra ngày nào không?

Bác nông phu trả lời:

– Ngày 25 tháng 12.

Người vô thần nhún vai, trợn mắt, lắc đầu ra chiều khinh bỉ, rồi hỏi tiếp:

– Thế ông có biết Đức Kitô của ông chết năm bao nhiêu tuổi không?

Bị hỏi bất ngờ, bác nông phu còn đang ấp úng để tìm câu trả lời, thì người vô thần kia đã cướp lời: – Ông thấy không, ông có biết gì về Đức Kitô của ông đâu. Vậy mà cứ đi quảng cáo về ông ta rùm beng.

Sau lời chê bai của người vô thần, bác nông phu bình tĩnh giải thích:

– Tôi không biết nhiều về Đức Kitô. Nhưng có một điều tôi biết chắc là, hai năm trước đây, tôi là một người chè chén say sưa, tôi rất hay nóng giận, đập phá nhà cửa, đánh đập vợ con. Hai năm trước đây, không bao giờ tôi thấy vợ tôi nở một nụ cười, con cái tôi không còn xa tránh tôi nữa. Bầu khí trong gia đình tôi đã trở nên nhẹ nhõm, vui tươi. Còn riêng tôi, tôi đã bỏ được những tính xấu trước đây. Tất cả những điều ấy, tôi tin là Đức Kitô đã làm cho tôi và gia đình tôi được thay đổi. Tôi nghĩ, tôi biết như thế về Đức Kitô, cũng đã là quá nhiều rồi.

Suy Niệm 9: Nghe Lời Chúa và đón nhận, rồi sinh hoa kết quả

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Phân tích (Hạt giống…)

Trong đoạn Tin mừng hôm qua, Chúa Giêsu đề cao những người biết lắng nghe Lời Chúa. Trong đoạn hôm nay, Ngài dùng dụ ngôn về người gieo giống để khuyến cáo: không phải chỉ nghe thôi là đủ, mà còn phải “nghe lời và đón nhận, rồi sinh hoa kết quả” (câu 20). Ngài cũng vạch cho thấy những trở ngại khiến cho việc nghe Lời Chúa không sinh kết quả, đó là:

a/ Bị Satan phá (hạt rơi bên vệ đường);

b/ Tính nông nổi nhất thời, không kiên trì thực hiện Lời Chúa trong lúc gian nan hay bị ngược đãi (hạt rơi trên đá sỏi);

c/ Những lo lắng sự đời, bả vinh hoa phú quý cùng những đam mê khác (hạt rơi trong bụi gai).

  1. Suy niệm (…nẩy mầm)
  2. Có lẽ đa số chúng ta thuộc loại đất có gai, Lời Chúa gieo vào bị làm chết ngạt bởi “những lo lắng việc đời, bả vinh hoa phú quý cùng những đam mê khác”. Thực vậy, kinh nghiệm cho thấy khi nào ta có được sự “thinh lặng nội tâm” thì Lời Chúa dễ thấm nhập tâm hồn ta hơn. Ngược lại khi tâm hồn bị giao động bởi những thứ kể trên thì Lời Chúa vừa vào tai bên này đã lọt ra khỏi tai bên kia.
  3. “Những người được gieo vào đất tốt, đó là những người nghe lời và đón nhận, rồi sinh hoa kết quả, kẻ thì ba mươi, kẻ thì sáu mươi, kẻ thì một trăm”: “nghe” là một việc tương đối thụ động, việc của đôi tai; “đón nhận” là việc chủ động, việc của con tim; và “sinh hoa kết quả” càng chủ động hơn nữa, đó là việc của ý chí và của nhiều cố gắng.
  4. Một ông vua nọ có thói quen mỗi ngày nghe một đoạn trong kinh Bagayad Gita. Người phụ trách việc đọc kinh này là một nhà sư đạo đức, thông thái. Cứ mỗi lần đọc xong một đoạn kinh, ông lại dùng đến kiến thức uyên bác của mình để giải thích cho vua nghe. Và ngày nào ông cũng đặt câu hỏi “Bệ hạ có hiểu những gì thần vừa dẫn giải không?”. Nhưng lần nào nhà vua cũng chỉ trả lời “Khanh nên hỏi điều đó với khanh trước đã”… Ngày nọ, giữa lúc đọc kinh, ông bỗng được giác ngộ và nhận ra tất cả mọi sự đều là hão huyền. Thế là nhà sư quyết từ bỏ mọi sự và lên đường bắt đầu cuộc sống của một người hành khất. Trước khi ra đi, ông nói với nhà vua “Tâu bệ hạ, thế là cuối cùng hạ thần đã hiểu được”… Giác ngộ đích thực, hiểu biết chân lý chính là thực thi chân lý” (Góp nhặt)
  5. “Ai có tai thì nghe!” (Mc 4,9)

Vào một buổi sáng Chúa nhật, tôi tình cờ nghe được mẫu đối thoại sau giữa hai anh chàng thanh niên. Một anh hỏi: “Sáng nay cậu có đi dự lễ không?”. Anh kia đáp: “Có chứ”. “Thế có nhớ bài Phúc âm hôm nay là của Thánh nào không? Nội dung ra sao?” Qua thái độ và cử chỉ lúng túng của anh, tôi đoán được ngay câu trả lời.

Thực ra, không riêng gì anh, mà tôi và các bạn cũng thế. Chúng ta thường lắng nghe và nghĩ đến nhiều sự, thậm chí cả những điều không đáng nghe, nhưng lại bỏ ngoài tai những lời ban sự sống, hoặc có nghe lời Chúa thì cũng chẳng hiểu, chẳng khám phá được ý Người, bởi ít hồi tâm cầu nguyện hay để tâm học hỏi.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin soi sáng tâm trí con để con luôn hiểu và sống Lời Chúa, hầu trở nên mảnh đất tốt cho hạt giống Lời Chúa được trổ sinh hoa trái đúng mùa. (Epphata)

Suy Niệm 10: Lời Chúa biến đồi con người

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Trong đoạn Tin Mừng hôm qua, Chúa Giêsu đề cao những người biết lắng nghe Lời Chúa. Trong đoạn hôm nay, Ngài dùng dụ ngôn về người gieo giống để khuyến cáo mọi người: không phải chỉ nghe thôi là đủ, mà còn phải “nghe lời và đón nhận, rồi sinh hoa kết quả” nữa (câu 20).

Ngài cũng vạch cho thấy những trở ngại khiến cho việc nghe Lời Chúa không sinh hoa kết quả, đó là:

a/ Bị Satan phá (hạt rơi bên vệ đường);

b/ Tính nông nổi nhất thời, không kiên trì thực hiện Lời Chúa trong lúc gian nan hay bị ngược đãi (hạt rơi trên đá sỏi);

c/ Những lo lắng sự đời, bả vinh hoa phú quý cùng những đam mê khác (hạt rơi trong bụi gai).

  1. Có lẽ đa số chúng ta thuộc loại đất có gai, Lời Chúa gieo vào bị làm chết ngạt bởi “những lo lắng việc đời, bả vinh hoa phú quý cùng những đam mê khác”. Thực vậy, kinh nghiệm cho thấy khi nào ta có được sự “thinh lặng nội tâm” thì Lời Chúa dễ thấm nhập tâm hồn ta hơn. Ngược lại, khi tâm hồn bị giao động bởi những thứ kể trên thì Lời Chúa vừa vào tai bên này đã lọt ra khỏi tai bên kia.

 “Những người được gieo vào đất tốt, đó là những người nghe lời và đón nhận, rồi sinh hoa kết quả, kẻ thì ba mươi, kẻ thì sáu mươi, kẻ thì một trăm” (Mc 4,20): “nghe” là một việc tương đối thụ động, là việc của đôi tai; “đón nhận” là việc chủ động, việc của con tim; và “sinh hoa kết quả” càng chủ động hơn nữa, đó là việc của ý chí và của nhiều cố gắng.

Một bác nông phu quê mùa chất phác nọ đã trở lại Kitô giáo. Được Lời Chúa soi sáng và hướng đẫn Đức tin và lòng mến Chúa chân thành của bác càng ngày càng trở nên mạnh mẽ, mạnh đến mức độ gặp ai, ở chỗ nào bác cũng sốt sắng nói về Chúa cho người ta nghe.

Một hôm có một người vô thần đến gặp bác, với ý định đặt một số câu hỏi để dằn mặt bác cho bác khỏi đi rao giảng về Đức Kitô.

Người vô thần hỏi:

– Ông có biết Đức Kitô mà ông vẫn hăng say quảng cáo, sinh ra ngày nào không?

Bác nông phu trả lời:

– Ngày 25 tháng 12.

Người vô thần nhún vai, trợn mắt lên, lắc đầu ra chiều khinh bỉ, rồi hỏi tiếp:

– Thế ông có biết Đức Kitô của ông chết năm bao nhiêu tuổi không?

Bị hỏi bất ngờ, bác nông phu còn đang ấp úng để tìm câu trả lời, thì người vô thần kia đã cướp lời:

– Ông thấy không, ông có biết gì về Đức Kitô của ông đâu. Vậy mà cứ đi quảng cáo về ông ta rùm beng.

Sau lời chê bai của người vô thần, bác nông phu bình tĩnh giải thích:

– Tôi không biết nhiều về Đức Kitô. Nhưng có một điều tôi biết chắc là, hai năm trước đây, tôi là một người chè chén say sưa, tôi rất hay nóng giận, đập phá nhà cửa, đánh đập vợ con. Hai năm trước đây, không bao giờ tôi thấy vợ tôi nở một nụ cười, các con tôi thì sợ tôi như cọp. Nhưng sau khi tôi đã tin nhận Chúa, giờ đây vợ tôi đã tươi cười, con cái tôi không còn xa tránh tôi nữa. Bầu khí trong gia đình tôi đã trở nên nhẹ nhõm, vui tươi. Còn riêng tôi, tôi đã bỏ được những tật xấu trước đây. Tất cả những điều ấy, tôi tin là Đức Kitô đã làm cho tôi và gia đình tôi được thay đổi. Tôi nghĩ, tôi biết như thế về Đức Kitô, cũng đã là quá nhiều rồi.

Tâm hồn của người vô thần và của bác nông phu chính là hai thửa đất khác nhau, được Chúa Giêsu nói đến trong dụ ngôn người gieo giống mà chúng ta vừa nghe.

Chính sự kiêu ngạo và tự mãn của người vô thần đã làm cho những kiến thức của ông về Chúa bị bóp nghẹt, và do đó đã không thể sinh hoa trái được..

Còn với bác nông phu kia, tuy kiến thức của bác về Chúa có ít oi và yếu kém thật, nhưng bác đã để cho những gì bác lãnh hội được, biến đổi đời sống của bác. Tâm hồn chất phác đơn sơ của bác, chính là thửa đất tốt, vì thế mà hạt giống Lời Chúa đã sinh hoa kết trái. Nó đã làm thay đổi, không những đời sống của bác nông phu, mà nó còn làm thay đổi cả đời sống của gia đình bác nữa. Thật là tuyệt vời!

Lạy Chúa,

Xin biến đổi con, xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.

Mỗi lần con thấy Chúa, xin biến đổi ánh mắt con.

Mỗi lần con rước Chúa, xin biến đổi môi miệng con.

Mỗi lần con nghe Lời Chúa, xin biến đổi tai con.

Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn sau mỗi lần gặp Chúa.

Ước chi mọi người thấy nét mặt tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con, thấy sự dịu dàng của Chúa trong lời nói của con.

Thế giới hôm nay không còn những Kitô hữu có bộ mặt chán nản và thất vọng.

Xin cho con biết nhẫn nại can đảm và cùng đi với Chúa và với tha nhân trên mọi nẻo đường trần thế. Amen.

 

THỨ NĂM TUẦN 3 THƯỜNG NIÊN

LỜI CHÚA: Mc 4, 21-25

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: “Có ai đem đèn sáng đặt trong thùng hay dưới gầm giường chăng? Chẳng phải là để đặt trên giá đèn sao? Vì chẳng có gì giấu kín mà chẳng tố lộ ra và chẳng có gì kín đáo mà không bị đưa ra ánh sáng. Ai có tai để nghe, thì hãy nghe”.

Và Người bảo họ rằng: “Hãy coi chừng điều các ngươi nghe thấy. Các ngươi đong bằng đấu nào, thì người ta sẽ đong lại cho các ngươi bằng đấu ấy, và người ta còn thêm nữa. Vì ai có, sẽ được cho thêm; và ai không có, cả cái đang có cũng bị lấy mất”.

Suy Niệm 1: Đặt trên đế

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Bài Tin Mừng hôm nay gồm bốn câu có vẻ rời rạc

được Đức Giêsu nói trong những dịp khác nhau.

Thánh Máccô chia bốn câu này thành hai cặp (cc. 21-22 và 24b-25).

Trong mỗi cặp, câu thứ hai được nối với câu thứ nhất bằng chữ “vì”.

Đức Giêsu nhấn mạnh tầm quan trọng của bốn câu nói trên

qua việc Ngài nhắc nhở ta phải nghe một cách nghiêm túc (cc. 23. 24a).

Thầy Giêsu vẫn quen giảng khởi đi từ những chuyện hàng ngày.

Thời xưa, khi chưa có điện, ngọn đèn dầu đem lại ánh sáng cho cả căn nhà.

Bởi vậy không thể nào hiểu được chuyện ai đó thắp đèn lên,

rồi lại đặt nó dưới cái thùng hay gầm giường.

Cứ sự thường phải đặt nó trên đế để soi sáng mọi sự.

Ngọn đèn mà Thầy Giêsu nói ở đây có thể ám chỉ Tin Mừng của Ngài,

và cũng có thể ám chỉ chính Con Người của Ngài.

Tin Mừng ấy không được phép đem giấu đi,

nhưng phải được quảng bá và rao giảng.

Con Người Đức Giêsu không được che kín sau bức màn,

nhưng phải được từ từ vén mở cho mọi người thấy.

Trong sách Tin Mừng theo thánh Máccô,

Đức Giêsu cấm các môn đệ không được nói với ai Ngài là Đức Kitô (8, 30),

vì chữ “Kitô” khiến người ta lầm tưởng Ngài sẽ đứng lên làm cách mạng.

Nhưng vào cuối đời, khi tay không đứng trước vị thượng tế (14, 61-62),

Đức Giêsu đã nhìn nhận tước vị này, vì nó không còn có thể bị hiểu lầm nữa.

Như thế, những gì được tạm thời che giấu, cuối cùng đã được tỏ lộ,

những gì bí ẩn đã được đưa ra ánh sáng (c. 22).

Đức Giêsu là Kitô, nhưng là một Kitô chịu đau khổ như Người Tôi Tớ (Is 53).

Cuộc đời người Kitô hữu, người đã lãnh nhận phép thanh tẩy,

cũng giống như ngọn đèn đã thắp sáng đặt trên đế.

Không được vì bất cứ lý do gì mà che giấu đi:

vì khiêm tốn không muốn cho ai thấy ánh sáng của mình,

hay vì không dám đương đầu với sức mạnh của bóng tối.

Thế giới hôm nay cần những ngọn đèn Kitô hữu.

Hai tỷ Kitô hữu làm nên hai tỷ ngọn đèn.

Ánh sáng bừng lên xua tan bóng tối của dối trá, hận thù, sa đọa.

Ánh sáng đem lại sự ấm áp của cảm thông, an bình và nâng đỡ.

Khi cảm nhận được ánh sáng, người ta sẽ nhận ra được Kitô hữu là ai.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến.

Xin đừng mỉm cười mà nói rằng

Chúa đã ở bên chúng con rồi.

Có cả triệu người chưa biết Chúa.

Nhưng biết Chúa thì được cái gì?

Chúa đến để làm gì

nếu đời sống con cái của Chúa

cứ tiếp tục y như cũ?

Xin hoán cải chúng con.

Xin lay chuyển chúng con.

Ước gì sứ điệp của Chúa

trở nên máu thịt của chúng con,

trở nên lẽ sống của cuộc đời chúng con.

Ước gì sứ điệp đó

lôi chúng con ra khỏi sự an nhiên tự tại,

và đòi buộc chúng con,

làm chúng con không yên.

Bởi lẽ chỉ như thế,

sứ điệp đó mới mang lại cho chúng con

bình an sâu xa,

thứ bình an khác hẳn,

đó là Bình An của Chúa. (Helder Câmara)

Suy Niệm 2 : Đặt trên giá đèn

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Đoạn này nối tiếp dụ ngôn “Người gieo giống”. Lại hai lần nói về lắng nghe. Nên hầu chắc nói về thái độ đối với Lời Chúa.

Lời Chúa là ngọn đèn sáng phải đặt trên giá để soi đường cho mọi người đi lại. Không chỉ soi bên ngoài. Nhưng quan trọng hơn soi trong tâm hồn. Lời Chúa sẽ soi sáng mọi ngõ ngách tối tăm nhất của tâm hồn con người. Chẳng điều gì có thể che giấu được ánh sáng Lời Chúa.Khi trong ngoài sáng tỏ ta sẽ sống trong sự sáng. Làm con sự sáng. Nhưng liệu ta có tai lắng nghe không? Lắng nghe là để Lời Chúa soi rọi vào đáy sâu tâm hồn.

Ai càng lắng nghe lại càng được Lời Chúa soi sáng. Càng hiểu biết lại càng say mê Lời Chúa. Đã có lại cho thêm. Như mảnh đất tốt khiến hạt giống sinh bông hạt trăm nghìn.

Đa-vít là một chiếc giá đèn. Lời Chúa soi sáng cuộc đời ông. Ông lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Nên Chúa không ngừng ban ân huệ cho ông. Đã chọn ông làm vua. Lại còn hứa cho dòng dõi ông trường tồn. Khiến chính ông phải ngạc nhiên: “Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, con là ai và nhà của con là gì, mà Ngài đã đưa con tới địa vị này? Nhưng lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, Ngài còn coi đó là quá ít; Ngài lại hứa cho nhà của tôi tớ Ngài một tương lai lâu dài”. Và Đa-vít trở thành mẫu mực cho toàn dân noi theo. Để biết lắng nghe và thực hành thánh ý (năm chẵn).

Chúa Giê-su là Lời Thiên Chúa bằng xương bằng thịt. Là ánh sáng soi dẫn đường ta đi. Vì Người đã đổ máu để mở cho ta con đường mới. Con đường dẫn đến Thiên Chúa. Chính Đức Chúa Cha đã tuyên dương Người và mời gọi ta hãy nghe lời Người. Theo Chúa Giê-su ta tràn trề hi vọng. “Vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín” (năm lẻ).

Nếu ta tuân giữ Lời Chúa, ta sẽ càng thêm phong phú. “Vì ai đã có, thì sẽ được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái đang có cũng sẽ bị lấy đi”.

 

Suy Niệm 3: Ðong đấu nào

Thi hào Tagore có kể câu truyện ngụ ngôn như sau: Có một người hành khất nọ ngồi bên vệ đường. Hôm ấy, đức vua ngự giá đi ngang qua. Người hành khất cố lê lết đến cổng làng, ngồi đó và nhủ thầm: “Ðây là dịp may hiếm có, tôi sẽ xin đức vua bố thí cho tôi”.

Từ xa, khi thấy xe đức vua, người hành khất đã vẫy tay chào. Nhưng không ai ngờ, khi xe dừng lại, vua chẳng cho gì mà còn giơ tay xin người hành khất bố thí. Người hành khất liền đưa tay vào cái bị, lấy ra một nắm thóc và đặt vào bàn tay vua một hạt thóc. Ðức vua cám ơn, rồi tặng lại một món quà nhỏ bỏ vào cái bị ấy.

Khi về đến nhà, người hành khất mở bị ra, thì thấy giữa những hạt thóc một hạt kim cương sáng ngời. Lúc đó, người hành khất mới hối tiếc: “Phải chi ta cho đức vua cả bị thóc này, thì ta đã được cả một bị kim cương”.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Các con đong đấu nào thì Thiên Chúa cũng sẽ đong cho các con đấu ấy, và còn cho các con hơn nữa”. Nói khác đi, chỉ có một đấu duy nhất, là nếu chúng ta làm điều gì đó cho người anh em, thì chính đấu ấy sẽ đong lại cho chúng ta. Có một tội mà ít ai tránh khỏi, đó là tội ích kỷ. Vì ích kỷ là chỉ muốn thu vén điều tốt cho mình, còn dành điều xấu cho người khác, do đó chẳng quan tâm gì đến những bất hạnh của người khác.

Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta suy xét và điều chỉnh lại cuộc sống trong tương quan với tha nhân, với ý thức rằng những gì chúng ta làm cho người anh em, là làm cho chính Chúa, và rằng Chúa sẽ đối xử với chúng ta theo cung cách chúng ta đối xử với người khác.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Suy Niệm 4: Hãy coi chừng!

Người nói với các ông: “Chẳng lẽ mang đèn tới để đặt dưới cái thùng hay dưới gầm giường? nào chẳng phải là để đặt trên đế sao? Vì chẳng có gì bí ẩn mà không phải là hiển hiện, chẳng có gì che giấu mà không phải là để đưa ra ánh sáng. Ai có tai thì nghe!” (Mc. 4, 21-23)

Khi ta nhắc nhở dặn dò ai điều gì thì lời ấy thường có hai ý nghĩa. Đôi khi ta muốn người ta phải dè chừng, có khi ta muốn họ phải cẩn thận, phải cân nhắc lời nói việc làm. Hai ý nghĩa này đều nằm trong những lời răn bảo của Chúa Giêsu. “Hãy coi chừng các người Pharisiêu, Người phán, vì họ nói mà không làm!” “Anh em hãy coi chừng, vì anh em không biết ngày nào giờ nào kẻ trộm đến!”. Đó là hai lời cảnh báo phải khôn ngoan và coi chừng.

Trái lại trong trích đoạn Phúc âm ta đọc sáng nay, lời răn bảo phải coi chừng có một tính cách tích cực, với nghĩa là “anh em hãy để ý đến điều anh em nghe”.

Thực vậy, trong trích đoạn này, những tiếng “điều anh em nghe, chính là mấu chốt điều Chúa Giêsu muốn giáo huấn ta. Vì thế, muón hiểu được giáo huấn này của Chúa, ta cần phải có một sự quan tâm để ý đặc biệt, nếu không ta sẽ chẳng lĩnh hội được gì. Nội dung lời giáo huấn của Chúa cũng gói ghém trong những câu sau: “Anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong cho anh em bằng đấu ấy và còn cho anh em hơn nữa”, có nghĩa là Lời Chúa chỉ đem lại hiệu quả tốt, tùy theo sự quan tâm chú ý của người nghe. Mức độ lắng nghe là thước đo hoạt động của Lời Chúa. Sau nữa chỉ có Lời Chúa mới có khả năng cho thêm, cho vượt cả mức lòng ta mong đợi nữa.

Ý nghĩa của câu sau cùng, giờ đây được sáng tỏ: “Ai đã có thì được cho thêm, còn ai không có, thì ngay cái đang có cũng sẽ bị lấy mất” – hoặc nói khác đi: ai không chú ý lắng nghe, không mở lòng ra đón nhận, thì cái đã được gieo cũng sẽ mất đi, còn ai càng mở ra và càng cẩn thận thì càng nhận được hồng ân Thiên Chúa và giữ được cái đã được gieo vào lòng mình.

Ta có lắng nghe Lời Chúa không?

Nhiều người đã chịu phép Rửa tội, đã được học giáo lý đầy đủ: vỡ lòng, rước lễ, thêm sức, bao đồng v.v. Họ đã nghe đã học cả đấy. Vậy mà ngày nay họ chẳng giữ đạo, chẳng đi lễ, mà còn không tin nữa. Vì chểnh mảng, coi thường, họ chẳng còn gốc gác gì với cha ông họ là những người đạo dòng. Đức tin mai một như vậy đó. Chúng ta hãy coi chừng! Hãy coi chừng sự không quan tâm chú ý của ta. Lời Chúa không chịu cảnh người ta bịt tai hay lơ đãng. Ta không biết được rồi đây chính ta có thể trở thành con người không tin hay không? Nếu có, sẽ là bởi tại ta đã quá keo kiệt khi đong cho việc lắng nghe Lời Chúa vậy.

Suy Niệm 5: Hãy chiếu dãi ánh sáng cho mọi người

Thật là kỳ dị khi chúng ta thắp đèn rồi đem đặt ở gầm giường, hay lấy thùng úp lên. Chỉ những người khùng thì mới làm những chuyện như vậy!

Đức Giêsu đã có lần nói: Ta là ánh sáng thế gian. Đồng thời Ngài cũng mời gọi mỗi chúng ta đi theo Ngài. Như vậy, khi chúng ta tin và đi theo Đức Giêsu, tức là chúng ta đi trong ánh sáng của Ngài.

Không chỉ dừng lại ở đó, qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy tỏa ánh sáng đó cho mọi người được thấy. Nói cách khác: chúng ta phải trở nên sứ giả Tin Mừng, chứng nhân của tình yêu. Đức Giêsu không chấp nhận chuyện chúng ta chỉ nói tin Chúa, nhưng trong đời sống thực tế, không sống chứng nhân. Không! Ngài mời gọi chúng ta phải thắp đèn cho sáng và để trên đế nhằm cho mọi người được thấy ánh sáng (x. Mc 4, 21).

Như vậy, để trở thành một người Kitô hữu thực thụ, chúng ta phải hội đủ hai yếu tố, đó là:

Một là tin và đi theo Đức Giêsu; hai là sống chứng nhân, tức là chiếu tỏa các chân lý Tin Mừng của Đức Giêsu ngang qua cuộc sống của mình. Hội đủ hai yếu tố đó, chúng ta mới xứng đáng trở thành môn đệ của Đức Giêsu.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết chiếu tỏa ánh sáng Tin Mừng của Chúa cho anh chị em chúng con, nhờ đó, mọi người cũng đón nhận được chính Chúa là nguồn sáng đích thực soi chiếu cuộc đời và thế gian này đi tới sự sống vĩnh cửu. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 6: Chiếu tỏa ánh sáng Tin Mừng

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Mỗi Kitô hữu phải biết chiếu tỏa ánh sáng Tin Mừng cho những người xung quanh. Càng biết mở lòng đón nhận và chiếu tỏa Tin Mừng, thì lại càng đón nhận được nhiều ơn Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, một bức họa hay một bông hoa dù đẹp đẽ đến đâu, nhưng nếu không có ánh sáng, thì cũng chẳng có giá trị gì. Chính Chúa là ánh sáng chiếu soi trần gian. Nếu không có Chúa là ánh sáng, chúng con không thể sống, không thể tăng trưởng và cũng chẳng có giá trị gì.

Con cảm tạ Chúa đã cho con được đón nhận Ánh Sáng Tin Mừng. Nhờ đón nhận Chúa vào đời, cuộc sống của con thay đổi biết bao. Nhờ bước theo Ánh Sáng Phúc âm, cuộc đời con tươi đẹp hơn và đang tiến dần tới hạnh phúc. Con tạ ơn Chúa và cố gắng trung thành với Tin Mừng của Chúa. Chiếc đấu con đong cho Chúa còn quá nhỏ bé, nên con cũng chỉ nhận được ơn Chúa quá ít. Xin Chúa giúp con biết sống quảng đại, biết mở rộng tâm hồn để con xứng đáng lãnh nhận ơn Chúa nhiều hơn.

Lạy Chúa, không những Chúa thắp sáng đời con. Chúa còn muốn nhờ con chiếu tỏa Ánh Sáng Tin Mừng cho tất cả mọi người, vì Chúa cũng yêu thương họ như thương yêu con. Xin Chúa giúp con đặt đèn trên đế cao, cho con biết chiếu tỏa Ánh Sáng Tin Mừng bằng lời nói và đời sống thánh thiện bác ái. Mỗi một linh hồn đều có giá trị lớn trước mặt Chúa. Xin Chúa dạy cho con biết quan tâm đến đời sống hạnh phúc đời đời của họ. Chiếc đèn không thể đặt dưới thùng hay gầm giường. Con cũng không thể sống ích kỷ, co cụm cho riêng mình. Xin Chúa cho đời sống Kitô hữu nơi con được tỏa sáng rạng ngời để có thể thắp lên những ngọn đèn nơi cuộc đời người khác. Con chỉ sợ ngọn đèn của con tắt. Xin Chúa thương giữ gìn con. Amen.

Ghi nhớ: “Ðèn đốt lên là để đặt trên giá đèn. Các ngươi đong đấu nào, thì người ta sẽ đong đấu ấy cho các ngươi”.

Suy Niệm 7: Cây nến trong tay Thiên Chúa

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Buổi chiều, người nọ lấy cây nến nhỏ từ trong hộp ra và leo lên tầng tháp cao. Cây nến hỏi:

– Chúng ta đi đâu?

– Đi lên cao hơn để chỉ đường cho tàu bè vào cảng.

– Nhưng tôi nhỏ bé thế này làm sao tàu bè thấy được?

– Chỉ cần ngươi cứ cháy sáng thôi, còn mọi việc ta lo.

Tới đỉnh tháp, người nọ đặt cây nến vào trong một cái đèn có ghép những tấm kính phản quang. Nhờ đó, ánh sáng lan tỏa và mọi tàu bè đều thấy.

Chúng ta cũng là cây nến trong tay Thiên Chúa. Chỉ cần ta cháy sáng, còn kết quả là ở Thiên Chúa.

Suy niệm

Ánh sáng phải được đặt trên giá tỏa sáng, chính Chúa Giêsu là ánh sáng thật, ánh sáng được thắp lên để soi chiếu cho mọi người, ai nghe và đón nhận ánh sáng và toả sáng thì sẽ được hạnh phúc muôn đời: “Kitô hữu là cây đèn sáng chiếu vào thế gian bày tỏ Lời sự sống” (x. Pl 2,15b-16a).

Đèn Kitô hữu muốn sáng lâu, phải đổ nhiều “dầu Lời Chúa” vào tâm hồn và muốn sáng mạnh phải tiêu hao “đời mình vì Lời Chúa”, đó là sự quảng đại vì anh em theo Lời Chúa dạy…

Xu hướng của con người là hưởng thụ và ích kỷ. Ích kỷ là chỉ muốn thu vén điều tốt cho mình, còn dành điều xấu cho người khác, do đó chẳng quan tâm gì đến những bất hạnh của người khác.

Chúa Giêsu dạy tỏa sáng khi làm một đấu duy nhất cho Chúa qua anh em: Nếu chúng ta làm điều gì đó cho người anh em, thì chính đấu ấy sẽ đong lại cho chúng ta. Quảng đại sinh quảng đại, bác ái sinh bác ái. Đó là ánh sáng được ánh sáng…

Ý lực sống:

“Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).

Suy Niệm 8: Dụ ngôn về cái đèn và cái đấu

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Hôm nay Đức Giêsu đưa ra hai dụ ngôn nói về cái đèn và cái đấu để nói về việc nghe Lời Chúa và giới thiệu cho người khác. Chúa nói: ”chẳng ai mang đèn tới để đặt dưới cái thùng hay dưới gầm giường”. Chúng ta đã nghe Lời Chúa, chúng ta không được giữ kín cho riêng mình. Chúng ta phải đem Lời Chúa đến cho mọi người. Chúng ta càng nhiệt tâm giảng dạy Lời Chúa cho kẻ khác thì Chúa càng ban thêm cho chúng ta. Còn nếu chúng ta ích kỷ giữ riêng cho mình thì dần dần cũng sẽ mất hết ơn Chúa.
  2. Có hai chữ chúng ta phải biết để hiểu đúng Lời Chúa: đó là”cái đèn” và “cái đấu. Đức Giêsu muốn dùng cái đèn để ám chỉ Tin Mừng của Ngài. Kẻ nghe Tin Mừng giống như chiếc đèn. Họ phải loan báo Tin Mừng cho những người khác nữa và họ phải sống những gì đã nghe, có như thế cuộc sống họ sẽ chiếu tỏa ánh sáng ra những người chung quanh.

Cái “đấu” là mức độ tâm hồn mở ra để đón nhận. Con người càng mở ra, càng sống Lời Chúa, thì càng nhận được nhiều hồng ân Thiên Chúa;  trái lại, kẻ chỉ nghe mà không sống Lời Chúa thì không được ban thêm, mà cả những ơn họ đang có cũng bị lấy đi mất.

  1. “Có ai đốt đèn rồi đem để ở trong thùng hay dưới gầm giường không? Nào chẳng phải là đặt trên giá đèn sao” (Mc 4,21).

Lý do hiện hữu của cây đèn là để soi sáng. Vậy khi cây đèn không soi sáng cho ai, thì nó không còn phải là cây đèn nữa. Cũng thế, lý do hiện hữu của người Kitô hữu là phải tỏa sáng niềm tin của mình ra, để cho người khác, nhờ ánh sáng đó mà được dẫn đưa đến chân lý và hy vọng; hay nói cách khác, trực tiếp hay gián tiếp, âm thầm hay hiển hiện, việc làm chứng cho Đức tin trong cuộc sống hằng ngày của những người Kitô hữu chúng ta, không phải là một việc làm có tính cách nhiệm ý, nghĩa là muốn làm hay không tùy ý, mà trái lại đó là một đòi hỏi tất yếu, bao trùm cả cuộc sống Kitô hữu của chúng ta.

  1. “Một ngọn nến nhỏ tỏa sáng xa biết bao! Cũng vậy, một việc làm tốt tỏa sáng biết bao trong một thế giới mệt mỏi”(Văn hào W. Shakespeare).

Ngọn đèn muốn tỏa sáng xa thì phải được đặt trên đế cao có lẽ là chuyện chẳng cần bàn cãi. Thế nhưng, ngọn đèn mà Đức Giêsu muốn ta đặt trên đế lại là chuyện khác, vì đèn ấy chính là Tin Mừng của Ngài. Có vẻ ta có khuynh hướng che giấu, ngại bầy tỏ – nghĩa là đặt dưới thùng hay gầm giường – thay vì loan báo, trình bầy cho người lân cận. Sống triệt để tinh thần Tin Mừng của Chúa là phương thế hữu hiệu nhất để đặt Tin Mừng ấy trên đế cao. Ngược lại, coi thường Tin Mừng, không quan tâm đếnTin Mừng ấy là cung cách thích hợp nhất cất giấu dưới thùng hay gầm giường.

  1. Là ánh sáng, chúng ta phải chiếu soi cho thế gian bằng đời sống gương sáng và đem tinh thần Chúa Kitô thấm nhiễm vào môi trường sống của mình. Chúa bảo chúng ta: ”Các con là chứng nhân của Thầy”, nhưng nhiều khi chúng  ta vô tình hay hữu ý đã trở thành phản chứng, làm méo mó khuôn mặt của Đức Kitô, khiến người ta không muốn theo Chúa.

Vì thế, năm 1937, ông Gandhi, một lãnh tụ vĩ đại của Ấn độ, đã nói với các nhà truyền giáo câu này để chúng ta suy nghĩ: ”Hãy để cho đời sống của các ngài nói với chúng tôi như đóa hoa hồng không cần ngôn ngữ, mà chỉ cần đơn sơ để cho hương thơm lan tỏa. Cả người mù không xem thấy hoa hồng, vẫn nhận ra được mùi thơm của nó. Hãy để chúng tôi nghĩ đến sự cao cả của người Kitô hữu khi họ tỏa hương thơm đời sống. Đối với tôi đó là tiêu chuẩn duy nhất. Tất cả những gì tôi muốn họ làm là sống đời Kitô hữu, chứ không phải là chú giải nó”.

  1. Lời Chúa có sức chiếu sáng rất mạnh. Chỉ tiếc rằng Lời Chúa rót vào tai một số người giống như dầu châm vào những cây đèn không chịu cháysáng cho nên cũng vô ích. Bà Chiara Lubich nói: “Chúng ta phải sống thế nào để cho dù các sách Tin Mừng trên khắp thế giới có bị đốt hết đi thì người ta nhìn vào cuộc sống chúng ta vẫn có thể chép lại Tin Mừng ấy đúng từng câu, từng chữ”.
  2. Truyện: Ngọn hải đăng.

Vào một đêm mưa bão, ngọn hải đăng bị mất điện tắt ngấm. Người phụ trách hải đăng vội vã đốt một cây nến nhỏ và cầm cây nến theo đường cầu thang leo lên sân thượng để đốt đèn lên. Bấy giờ cây nến mới lên tiếng hỏi người phụ trách rằng:

– Ông đem tôi đi đâu vậy?

Ông trả lời:

– Ta mang nhà ngươi lên sân thượng để chiếu sáng giúp tầu bè từ ngoài khơi biết đường trở về và cập bến an toàn.

Cây nến lại nói:

– Nhưng tôi chỉ là cây nên nhỏ bé thế này thì tầu bè ở tận ngoài khơi làm sao nhìn thấy ánh sáng của tôi được?

Người phụ trách trả lời:

– Bây giờ ta chỉ cần nhà ngươi đừng bị gió thổi tắt là được. Còn các chuyện khác thì đã có ta lo liệu.

Khi cả hai leo lên đến nơi, thì người phụ trách đã dùng cây nến  châm lửa và trong giây lát ánh sáng từ cây đèn lồng rực lên chiếu tỏa ra chung quanh. Chiếc đèn lồng này đã được thiết kế để khi cần có thể xử dụng thay bóng đèn điện. Ánh sáng của nó có sức chiếu ra tận ngoài khơi, hầu giúp tầu bè dễ dàng định hướng để quay về cập bến an toàn.

Suy Niệm 9: Sống Phúc Âm

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Phân tích (Hạt giống…)

Hai dụ ngôn nhỏ này tiếp liền những đoạn Phúc Âm của các ngày trước và triển khai thêm chủ đề nghe Lời Chúa.

– Dụ ngôn chiếc đèn: kẻ nghe Phúc Âm giống như chiếc đèn:

a/ Họ phải loan truyền Phúc Âm cho những người khác biết nữa.

b/ Họ phải sống những gì đã nghe, có như thế cuộc sống họ sẽ chiếu tỏa ánh sáng ra những người chung quanh.

– Dụ ngôn cái đấu: người nào càng biết nghe Lời Chúa và sống Lời Chúa thì càng được ban thêm ơn; trái lại kẻ chỉ nghe mà không sống thì không được ban thêm ơn gì, mà cả những ơn họ đang có cũng bị lấy đi mất.

  1. Suy gẫm (… nẩy mầm)
  2. Lời Chúa quả có sức chiếu sáng rất mạnh. Chỉ tiếc rằng Lời Chúa rót vào tai một số người giống như dầu châm vào những cây đèn không chịu cháy sáng cho nên cũng vô ích. Chiara Lubich nói: “Chúng ta phải sống thế nào để cho dù các sách Phúc Âm trên khắp thế giới có bị đốt hết đi thì người ta nhìn vào cuộc sống chúng ta vẫn có thể chép lại Phúc Âm ấy đúng từng câu, từng chữ”.
  3. “Hãy coi chừng điều các ngươi nghe thấy. Các ngươi đong bằng đấu nào, thì người ta sẽ đong lại cho các ngươi bằng đấu ấy”: nhiều khi tôi thấy có những người khác đã hiểu và sống Lời Chúa một cách rất sâu sắc, rồi nhìn lại mình mà tự xấu hổ. Tại sao thế? Chính Chúa Giêsu giải thích: tại vì “cách nghe”. Họ chẳng những “nghe” mà còn “đón nhận” và “sinh hoa kết quả” cho nên “đã có thì lại được cho thêm”; còn tôi, có lẽ tôi chỉ “nghe” suông, cho nên “ngay cái đang có cũng bị lấy mất đi”.
  4. Buổi chiều, người nọ lấy cây nến nhỏ từ trong hộp ra và leo lên tầng tháp cao. Cây nến hỏi:

– Chúng ta đi đâu?

– Đi lên cao hơn để chỉ đường cho tàu bè vào cảng.

– Nhưng tôi nhỏ bé thế này làm sao tàu bè thấy được?

– Chỉ cần ngươi cứ cháy sáng thôi, còn mọi việc ta lo.

Tới đỉnh tháp, người nọ đặt cây nến vào trong một cái đèn có ghép những tấm kính phản quang. Nhờ đó, ánh sáng lan tỏa và mọi tầu bè đều thấy.

Chúng ta cũng là cây nến trong tay Thiên Chúa. Chỉ cần ta cháy sáng, còn kết quả là ở Thiên Chúa (Góp nhặt)

  1. Một nông dân nghèo Nhật bản vào thiên đàng và điều đầu tiên ông nhìn thấy là một kệ dài với những vật rất kỳ lạ. Ông hỏi:

– Cái gì thế? Có phải để nấu xúp?

– Không, đó là những cái tai. Chúng là của những người khi sống ở đời nghe được những điều tốt, nhưng họ không làm. Nên khi chết, tai họ vào thiên đàng, nhưng các phần khác của cơ thể thì không.

Một lát sau, ông lại thấy một kệ khác với những vật kỳ quái. Ông hỏi:

– Cái gì thế? Có phải để nấu xúp?

– Không, đó là những cái lưỡi. Chúng là của những người sống ở đời bảo người khác làm điều tốt và sống tốt, nhưng chính họ không làm hoặc không sống điều đó. Nên khi chết, lưỡi họ vào thiên đàng, nhưng các phần khác của cơ thể thì không (Góp nhặt)

Suy Niệm 10: Tỏa sáng niềm tin

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

  1. Hai dụ ngôn nhỏ này tiếp liền những đoạn Tin mừng của mấy ngày hôm nay triển khai thêm chủ đề về việc nghe Lời Chúa.

* Dụ ngôn chiếc đèn: kẻ nghe Tin Mừng giống như chiếc đèn: Họ phải sống những gì đã nghe, có như thế cuộc sống họ mới chiếu tỏa ánh sáng ra những người chung quanh.

* Dụ ngôn cái đấu: càng biết nghe Lời Chúa và sống Lời Chúa thì càng được ban thêm ơn; trái lại kẻ chỉ nghe mà không sống thì không được ban thêm ơn gì, mà cả những ơn họ đang có cũng bị lấy đi mất.

Lời Chúa quả có sức chiếu sáng rất mạnh. Chỉ tiếc rằng, Lời Chúa rót vào tai một số người giống như dầu châm vào những cây đèn không chịu cháy sáng cho nên cũng vô ích. Bà Chiara Lubich nói: “Chúng ta phải sống thế nào để cho dù các sách Tin Mừng trên khắp thế giới có bị đốt hết đi thì người ta cũng vẫn có thể nhìn vào cuộc sống chúng ta mà chép lại Tin Mừng đúng từng câu, từng chữ”.

Chiara rất thích thể thao, nhưng rồi một hôm khi dang chơi tennis, cô thấy đau ở vai. Sau khi chẩn bệnh, bác sĩ cho cô biết cô đã bị ung thư và phải nằm viện. Trong thời gian điều trị, cô đã cố quên cái đau đớn trong thân xác để giúp đỡ mọi người. Khi cô thấy tóc mình rụng quá nhiều vì xạ trị cô đã nói: – Con xin dâng tất cả cho Chúa Giêsu.

Trước khi lìa đời, Chiara dặn dò mọi người:

– Xin đừng khóc cho tôi, tôi đang đến với Chúa Giêsu. Trong lễ an táng của tôi, tôi muốn mọi người đều ca hát ngợi khen Chúa.

Đức Cha Jean Koret, vị Giám Mục Tiệp Khắc đã từng phải sống lén lút dưới chế độ Cộng Sản của Tiệp Khắc trước kia, tâm sự rằng: Ngài đã gặp gỡ được nhiều người tốt, lúc Ngài phải đi làm việc như một công nhân, hơn là lúc Ngài ở trong toà Giám Mục.

Tiết lộ trên đây của Đức Cha Jean Koret, đã phản ánh trung thực điều Chúa Giêsu đã phán: “Có ai đốt đèn rồi đem để ở trong thùng hay dưới gầm giường không? Nào chẳng phải là đặt trên giá đèn sao?” (Mc 4,21).

Lý do hiện hữu của cây đèn là để soi sáng. Vậy khi cây đèn không soi sáng cho ai, thì nó không còn phải là cây đèn nữa.

Cũng thế, lý do hiện hữu của người Kitô hữu là phải tỏa sáng niềm tin của chúng ta, để cho người khác, nhờ ánh sáng đó mà được dẫn đưa đến chân lý và hy vọng, hay nói một cách khác, trực tiếp hay gián tiếp, âm thầm hay hiển hiện, việc làm chứng cho Đức tin trong cuộc sống hằng ngày của những người Kitô hữu chúng ta, không phải là một việc làm có tính cách nhiệm ý, nghĩa là muốn làm hay không tùy ý, mà trái lại đó là một đòi hỏi tất yếu, bao trùm tất cả cuộc sống Kitô hữu của chúng ta.

Như thế, đời sống của những người Kitô hữu phải là những ngọn đèn thắp sáng và được đặt trên giá đèn. Thực vậy, giữa biển khơi đầy những phong ba bão táp của cuộc đời này, con người luôn khát khao nhìn thấy ánh sáng chỉ đường của những ngọn “ Hải Đăng”.

Vào một buổi chiều nọ, một người lấy từ trong hộp ra một cây nến nhỏ và leo lên tầng tháp cao. Cây nến hỏi:

– Chúng ta đi đâu?

– Đi lên cao hơn để chỉ đường cho tàu bè vào cảng.

– Nhưng tôi nhỏ bé thế này làm sao tàu bè thấy được?

– Chỉ cần ngươi cứ cháy sáng thôi, còn mọi việc để ta lo.

Tới đỉnh tháp, người ấy đặt cây nến vào trong một cái đèn có ghép những tấm kính phản quang. Nhờ đó, mà ánh sáng lan tỏa ra và mọi tầu bè đều thấy.

  Chúng ta cũng là cây nến trong tay Thiên Chúa. Chỉ cần ta cháy sáng, còn kết quả là ở Thiên Chúa (Góp nhặt).

  1. “Hãy để ý điều anh em nghe. Anh em đong bằng đấu nào thì Thiên Chúa cũng sẽ đong cho anh em bằng đấu ấy” (Mc 4,24).

Có một nông dân nghèo Nhật bản vào Thiên Đàng và điều đầu tiên ông nhìn thấy là một kệ dài với những vật rất kỳ lạ. Ông hỏi:

– Cái gì thế?  Có phải để nấu xúp không?

– Không, đó là những cái tai. Chúng là của những người khi sống ở đời nghe được những điều tốt, nhưng họ không làm. Nên khi chết, tai họ vào Thiên Đàng, còn các phần khác của cơ thể thì không.

Một lát sau, ông lại thấy một kệ khác với những vật kỳ quái. Ông hỏi:

– Cái gì thế?  Có phải để nấu xúp không?

– Không, đó là những cái lưỡi. Chúng là của những người sống ở đời bảo người khác làm điều tốt và sống tốt, nhưng chính họ không làm hoặc không sống điều đó. Nên khi chết, lưỡi họ vào Thiên Đàng, nhưng các phần khác của cơ thể thì không (Góp nhặt)

Hãy cầu xin cho mọi Kitô hữu chúng ta, luôn ý thức tầm quan trọng của việc sống niềm tin trong cuộc sống và quyết tâm sống niềm tin ấy, để mỗi người trở thành những ngọn đèn được thắp sáng giữa môi trường mà chúng ta đang sống. Amen.

THỨ SÁU TUẦN 3 THƯỜNG NIÊN

LỜI CHÚA: Mc 4, 26-34

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: “Nước Thiên Chúa giống như người kia đã gieo hạt xuống đất: người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết nữa. Ðất tự nó làm cây lúa mọc lên: trước hết thành cây, rồi đâm bông, rồi kết hạt. Và khi lúa chín, người ấy liền gặt vì đã đến mùa”.

Người còn phán: “Chúng ta sẽ lấy gì mà hình dung nước Thiên Chúa? hay dùng dụ ngôn nào mà so sánh nước đó được? Nước đó giống như hạt cải, khi gieo xuống đất thì nhỏ bé nhất trong tất cả các hạt trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, nó mọc lên thành cây rau lớn nhất, và đâm những cành to, đến nỗi chim trời có thể tới núp bóng được”.

Người dùng nhiều dụ ngôn như thế mà rao giảng lời Chúa cho họ, tuỳ sức họ có thể hiểu được, và Người chỉ nói với họ bằng dụ ngôn, nhưng khi ở riêng với các môn đệ, Người giải thích tất cả cho các ông.

Suy Niệm 1: Bông lúa trĩu hạt

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Một người có cái nhìn bi quan về Hội Thánh

chắc sẽ tìm được nhiều dữ kiện để chứng minh.

Tại một số nước phương Tây, có nhiều nhà thờ vắng người,

chủng viện thiếu chủng sinh, tập viện tạm đóng cửa.

Kitô hữu càng lúc càng chiếm tỉ lệ nhỏ

trong tổng số dân trên thế giới.

Có những khủng hoảng đức tin trong giới trẻ.

Người ta tự hỏi Hội Thánh đã lỗi thời chưa.

Có cần phải tin vào Ðức Kitô nữa không?

Vào thời thánh Máccô viết sách Tin Mừng,

cũng có những Kitô hữu bi quan về Hội Thánh.

Hội Thánh ở Rôma chỉ là một thiểu số nhỏ nhoi

chịu bách hại dưới ách của bạo chúa Nêrô.

Liệu Hội Thánh có tồn tại và phát triển không

dưới sức mạnh hùng hậu của đế quốc?

Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta niềm lạc quan.

Ðó là hai dụ ngôn về Nước Thiên Chúa,

cũng là hai dụ ngôn về hạt giống.

Trong dụ ngôn thứ nhất, hạt giống được gieo xuống đất

là bắt đầu nảy mầm và lớn lên,

theo một tiến trình không gì ngăn cản nổi.

Trước hết mọc lên thành cây lúa, rồi trổ đòng đòng

và sau cùng thành bông lúa trĩu hạt.

Tự nó, hạt giống mang một sức sống mạnh mẽ.

Nó lớn lên cả đêm lẫn ngày,

chẳng cần con người can thiệp.

Có cái gì mầu nhiệm trong sự tăng trưởng này

khiến chính người gieo cũng không sao hiểu nổi.

Một cách âm thầm, chậm rãi nhưng vững vàng,

hạt lúa đạt đến kết quả mỹ mãn.

Dụ ngôn thứ hai lại cho thấy một sự tương phản.

Nước Thiên Chúa như một hạt cải nhỏ xíu,

vậy mà theo thời gian, nó mọc lên thành cây,

và cây này lớn hơn mọi thứ cây cỏ khác.

Hạt bé nhất lại cho cây lớn nhất.

Nước Trời khởi đầu bằng Ðức Giêsu

và một nhóm nhỏ môn đệ làm nghề chài lưới.

Sau hai mươi thế kỷ,

Kitô giáo đã lan khắp thế giới, đến với mọi dân tộc.

Tuy nhiên, Nước Trời chỉ đến trọn vẹn vào ngày cánh chung.

Thái độ ta phải có là kiên nhẫn chờ đợi.

Hạt giống nào cũng phải vùi sâu dưới đất,

và phải đương đầu với những khó khăn khi thành cây.

Có lúc ta thấy nó như bị chững lại hay suy thoái.

Có lúc ta sợ nó không đứng vững trước bão bùng.

Ðây là lúc ta phải sống niềm tin:

tin rằng Thiên Chúa sẽ đưa Nước Ngài đến thành tựu,

bất chấp những khiếm khuyết và cản trở của con người.

Ðừng nản chí mà ngừng gieo vãi hạt giống Lời Chúa,

dù nhiều khi chúng ta không thấy hạt giống lớn lên.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

xin thương nhìn đến Hội Thánh

là đàn chiên của Chúa.

Xin ban cho Hội Thánh

sự hiệp nhất và yêu thương,

để làm chứng cho Chúa

giữa một thế giới đầy chia rẽ.

Xin cho Hội Thánh

không ngừng lớn lên như hạt lúa.

Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,

đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.

Ước gì Hội Thánh trở nên men

được vùi sâu trong khối bột loài người

để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.

Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp

để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.

Xin cho Hội Thánh

trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,

nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.

Cuối cùng xin cho chúng con

biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,

nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.

Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,

nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.

Suy Niệm 2: Hạt giống tự mọc

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Nước Thiên Chúa là công trình của Thiên Chúa. Không phải của con người. Như hạt giống tự mọc. Người gieo rồi về nằm ngủ. Hạt giống nảy mầm và mọc lên thế nào, không ai biết. Người gieo chỉ biết gieo và vun trồng. Nhưng không thể làm cho hạt giống nảy mầm và mọc lên. Vì đó là việc của Thiên Chúa. Việc Thiên Chúa làm rất khác với việc của con người. Như hạt cải gieo trong vườn. Khi gieo xuống là hạt bé nhỏ nhất. Chịu vùi lấp dưới lòng đất. Chịu huỷ hoại đi. Mất cả hình dáng. Nhưng khi mọc lên lại thành cây cao lớn, cành lá xum xuê. Đến nỗi chim trời đến trú ẩn.

Giáo hội, hình ảnh hữu hình của Nước Thiên Chúa, đã từng trải qua kinh nghiệm hạt giống tự mọc. Khởi đầu Giáo hội rất bé nhỏ. Nghèo hèn. Bị khinh miệt. Và bị bách hại. Tưởng như bị tận diệt. Điều đó khiến nhiều người chán nản. Nhưng thánh Phao-lô khuyên nhủ ta hãy tin tưởng vào lời Chúa hứa. “Xin anh em nhớ lại những ngày đầu: lúc vừa được ơn chiếu sáng, anh em đã phải đối phó với bao nỗi đau khổ dồn dập. Khi thì anh em bị sỉ nhục và hành hạ trước mặt mọi người, khi thì phải liên đới với những người cùng cảnh ngộ. Quả thật, anh em đã thông phần đau khổ với những người bị tù tội, và đã vui mừng để cho người ta tước đoạt của cải…Anh em cần phải kiên nhẫn, để sau khi thi hành ý Thiên Chúa, anh em được hưởng điều Người đã hứa” (năm lẻ).

Có khi đau khổ yếu đuối đến từ chính bản thân. Như trường hợp Đa-vít. Ông vóc người bé nhỏ. Nhưng phạm phải những lỗi lầm lớn lao. Cướp vợ của U-ri-gia. Lại còn giết chết U-ri-gia. Chúa trừng phạt ông vì tội lỗi của ông. Nhưng Chúa vẫn trung tín giữ lời hứa cho dòng dõi ông trường tồn. Cho Đấng Cứu Thế sinh bởi dòng dõi ông. Cho thấy đó là kế hoạch của Thiên Chúa. Đó là quyền năng của Thiên Chúa. Đó là lòng thương xót của Thiên Chúa (năm chẵn).

Hạt giống tự mọc. Vì thế tôi phải biết khiêm nhường nhận biết mình yếu hèn kém cỏi. Hạt giống tự mọc. Tôi không nản lòng khi sự ác có vẻ thắng thế, lấn át sự thiện. Hạt giống tự mọc. Tôi kiên trì khi những chương trình mục vụ truyền giáo thất bại, Hạt giống tự mọc. Tôi xin Chúa tha thứ những lỗi lầm của bản thân. Hạt giống tự mọc. Tôi vững tin rằng sau khi gặp nhiều thử thách thất bại Nước Chúa sẽ lớn mạnh. Trở thành nơi cho mọi người nương ẩn.

 

Suy Niệm 3: Hạt giống, hạt cải

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng hạt giống và hạt cải làm ví dụ để nói về Nước Thiên Chúa.

Nước Thiên Chúa được thiết lập giống hệt như một tiến trình gieo gặt trọn vẹn: từ hạt giống, hạt nẩy sinh thành cây, rồi thành bông lúc. Như người dân Palestina, sau khi gieo hạt giống, họ âm thầm chờ đợi lúa chín để gặt hái, chứ không hề biết hạt giống được gieo xuống đất đã phát triển như thế nào: Chúa Giêsu cũng gieo hạt giống Nước Trời nơi tấm lòng con người, cùng với ơn Chúa, Nước đó âm thầm phát triển lan rộng khắp thế giới, tạo nên mùa gặt các linh hồn. Chúa Giêsu chỉ đích thân có mặt trong mùa gieo giống và mùa gặt hái. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian chờ đợi, Ngài vẫn tiếp tục hoạt động một cách vô hình, qua Chúa Thánh Thần và Giáo Hội. Khi Nước Thiên Chúa đã phát triển đến mức tối đo, Ngài sẽ trở lại trong vinh quang, thu hoạch mùa gặt của Ngài.

Dụ ngôn hạt cải là dụ ngôn cuối cùng trong năm dụ ngôn về Nước Thiên Chúa. Cũng như các dụ ngôn trước, dụ ngôn này được rút ra từ đời sống thôn dã. Nó đưa ra một nét tương phản hấp dẫn: hạt cải nhỏ xíu trở thành một cây to lớn. Nước Thiên Chúa cũng mang nơi mình một nghịch lý tương tự: Dưới cái nhìn của thánh Marcô, dụ ngôn hạt cải chứa đựng cách diễn tả tuyệt vời về bí mật Mêsia. Cho đến lúc này, hành vi của Chúa Giêsu có thể bị coi là vô nghĩa và Nước Thiên Chúa vẫn chỉ là một thực tế khiêm tốn. Dù vậy, các dân ngoại đang nhìn thấy sự tăng trưởng dị thường của nó như các Kitô hữu ở Rôma đã kinh nghiệm được điều này. Chính Giáo Hội tiên khởi, dù yếu đuối, vẫn ý thức được mình đang tham dự vào sự thành công của một công trình đã sẵn tiềm tàng nguồn sinh lực vô biên, công trình này sẽ đạt tới mức hoàn vũ vào cuối giai đoạn phát triển của nó.

Hạt giống đã trải qua một quá trình phát triển âm thầm trước khi tới mùa gặt; hạt cải được trồng dưới đất cũng phải trải qua một quá trình cho đến khi trở thành một cây lớn. Trong những bổn phận dù âm thầm hằng ngày, chúng ta hãy tin tưởng phó thác cho quyền năng yêu thương của Chúa, chính Ngài sẽ làm cho công việc chúng ta thực hiện theo ý Chúa đạt tới kết quả vượt quá sức tưởng tượng của chúng ta, và như vậy chúng ta sẽ làm ích cho chính bản thân, cho tha nhân và cho Nước Chúa.

Xin Chúa củng cố chúng ta trong niềm xác tín đó.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Suy Niệm 4: Vấn đề thân cận

Người nói: “Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Đêm hay ngày, người ấy ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nảy mầm và mọc lên, bắng cách nào thì người ấy không biết.” (Mc. 4. 26-27)

Phúc âm hôm nay lấy chủ đề là việc gieo giống. Nhưng những lời lẽ được dùng lại vang lên những âm điệu mới lạ đáng chúng ta quan tâm suy nghĩ: mầu nhiệm Đức Kitô có một sức mạnh âm thầm hằng thúc đẩy để mầu nhiệm ấy được thực hiện trọn vẹn; dầu có tính cách mong manh, mầu nhiệm ấy vẫn có một sức mạnh vô địch; sau cùng lòng gắn bó hoặc tin cậy vào Chúa Giêsu giúp ta hiểu biết đầy đủ về mầu nhiệm này.

Một sức mạnh âm thầm

Mỗi ngày ta khó nhọc vất vả gieo hạt giống Nước Trời, mong cho Nước Chúa trị đến. Nào là: kinh lễ, hội họp, thảo luận, phục vụ, thăm viếng tình nghĩa, dạy giáo lý, hoạt động nghề nghiệp, săn sóc bệnh nhân, dạy học, làm việc chân tay… Chúng ta tin rằng thực hiện một trong những công việc kể trên là làm cho chúng ta sống mầu nhiệm phục sinh, là đưa mọi loài thụ tạo đến sự phục hồi. Ta tin nhưng mắt không nhìn thấy gì cả. Những kết quả công khó của ta thường âm thầm kín đáo. Chúng ta phải khiêm tốn và có khi phải cay đắng chấp nhận những giới hạn của thân phận con người.

“Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như …”, Chúa Kitô nói với chúng ta như vậy mà, …

Ta hãy kiên nhẫn và tin tưởng!

Một sức mạnh vô địch

Chúa còn kể dụ ngôn thứ hai, dụ ngôn hạt cải, để ta thêm vững lòng. Thực vậy, Chúa đặt đối chọi nhau hai sự thể: một bên là cái mong manh bé nhỏ, bên kia lại là những kết quả to lớn đạt được. “Cây cải mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng”.

Chúng ta không thường sống sự tương phản này sao, sự tương phản giữa một bên là những dấu chỉ mong manh, còn bên kia là những kết quả to lớn đạt được? Tất cả đời sống bí tích chỉ là việc xử dụng một loại hạt giống nhỏ nhất để rồi hạt giống đó trở thành một dấu chỉ sinh ân sủng vô vàn của Chúa.

Chỉ có ai yêu mến mới hiểu được

Sau cùng, những dụ ngôn này kết thúc với lời ghi nhận rằng khi chỉ có thầy trò với nhau, thì Chúa Giêsu giải nghĩa hết cho các Tông đồ. Sự gắn bó, gần gũi với Chúa giúp ta tiến tới Người vượt xa mức bình thường mà quần chúng có thể tiếp cận được, bởi vì xét cho cùng người ta chỉ có thể hiểu biết rõ được một người khi ta yêu mến người đó.

Suy Niệm 5: Muốn được cứu độ, phải kiên trì

Trong thời đại kinh tế thị trường, khái niệm “ăn sổi ở thì” rất quen thuộc. Quen đến độ đi đâu người ta cũng thích nhanh. Ăn gì cũng muốn có ngay. Làm gì cũng muốn thành công tức thời!

Sống trong thời đại chóng vánh như thế, con người luôn luôn bị đối diện với sự đổi thay, phải trái, trắng đen… từ thực tế cuộc sống, con người cũng phỏng chiếu đời sống tâm linh của mình theo khuôn mẫu đó.

Hôm nay, bài Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu dùng dụ ngôn để rao giảng về Nước Trời. Nước Trời được ví như chuyện người gieo hạt giống, dù đêm hay ngày, người đó cứ gieo, hạt giống mọc lên lúc nào tùy ý, chỉ biết rằng, đến mùa là Chủ đi gặt lúa về. Đức Giêsu còn nói đến Nước Trời được ví như hạt cải nhỏ tý teo, nhưng khi gieo xuống, nó lớn mạnh đến nỗi chim trời đến làm tổ…

Qua hai dụ ngôn đó, Đức Giêsu cho thấy: trước tiên, Thiên Chúa là Đấng luôn kiên trì như người gieo giống. Người không trần trừ, không đòi hỏi… Người cứ gieo và kiên nhẫn chờ đợi. Tiếp theo, Nước Thiên Chúa lúc ban đầu thì khiêm tốn, nhỏ nhoi, nhưng với thời gian và ân sủng, nước ấy lớn mạnh đến phi thường.

Trong đời sống đức tin, nhiều khi chúng ta bị thử thách trong đêm tối! Có những điều chúng ta xin Chúa mà mãi không được, làm cho mình mất đức tin hay đức tin bị lung lay.

Tuy nhiên, chúng ta nhớ một chân lý muôn đời rằng: lửa thử vàng, gian nan thứ đức. Có cố gắng, kiên trì thì khi thành công mới thấy được ý nghĩa. Cũng vậy, đời sống đức tin cần phải được thanh luyện bằng sự kiên trì, trung thành và cố gắng, thì mới thực sự có giá trị cứu chuộc. Ơn cứu độ không đến như chuyện “ăn sổi ở thì” mà con người vẫn quan niệm.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con cám ơn Chúa vì hôm nay Chúa dạy cho chúng con bài học về sự kiên trì, nhẫn nại, hy sinh. Xin Chúa ban cho chúng con biết trung thành với Chúa để được cứu độ. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 6: Chúa vẫn hiện diện kín đáo và âm thầm hoạt động

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu đã gieo hạt giống Tin Mừng Nước Thiên Chúa vào trần gian. Chính Thiên Chúa đang âm thầm hoạt động để Nước Thiên Chúa lớn lên và đạt tới thành công. Thực tế đôi khi xem ra bi quan, nhưng ta phải biết tin tưởng.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, thế giới ngày càng lao mình vào tương lai. Với sự phát triển không ngừng, những thành quả của khoa học kỹ thuật, nhiều người tự mãn, nghĩ mình có thể làm chủ được mọi sự mà không cần một bàn tay nào khác. Nhưng lạy Chúa, thật ra thế giới được Chúa tạo dựng để đi đến cùng đích dưới sự quan phòng của tình yêu Chúa. Dù con không nhận ra, nhưng Chúa vẫn luôn hiện diện và hướng dẫn lịch sử loài người chúng con.

Lạy Chúa, lịch sử nhân loại đã từng gây ra bao thảm họa cho con người: chiến tranh, hận thù, ích kỷ, giá trị đạo đức ngày càng đi xuống, con người đối xử với nhau thiếu tình người. Vì thế nhiều lúc con tự hỏi: Thiên Chúa đâu rồi trong thế giới này.

Lạy Chúa, Chúa không vắng mặt, Chúa không bỏ rơi thế giới chúng con. Chính Chúa vẫn hiện diện cách kín đáo và âm thầm hoạt động để cứu độ chúng con. Xin Chúa ban cho con đôi mắt đức tin để nhận ra tình thương và quyền năng Chúa vẫn đang âm thầm hoạt động biến đổi cuộc sống loài người mỗi ngày một tốt hơn. Tin Mừng Chúa ban cho Hội Thánh đang nâng cao thế giới. Bên ngoài thế giới dường như xuống dốc, Hội Thánh dường như nhỏ bé, Tin Mừng dường như bất lực. Nhưng dù vậy, xin Chúa đừng để con bi quan, xin giữ lòng con luôn tin tưởng. Xin Chúa giúp con biết kiên nhẫn và góp phần nhỏ bé để tình yêu và ánh sáng của Chúa mỗi ngày một lớn thêm lên trong thế giới này. Amen.

Ghi nhớ: “Người kia đã gieo hạt xuống đất, rồi đi ngủ, hạt giống mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết”.

Suy Niệm 7: Dụ ngôn về nước Trời

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Nhà tâm lý học Weldon cho rằng, hạt giống kỳ lạ nhất thế giới là hạt giống của một giống tre bên Trung Quốc. Hạt giống nằm yên dưới lòng đất đến 5 năm, rồi mới nhú chồi non lên mặt đất. Suốt thời gian 5 năm này, người trồng phải vất vả chăm sóc tre, nào là tưới nước, nào là bón phân, mà họ không hề nhìn thấy hệ thống rễ phức tạp đang sinh sôi lan tràn trong lòng đất.

Cuối cùng, một sự sống đã vươn lên đầy kinh ngạc: Chỉ trong 6 tuần sau khi nhú lên khỏi mặt đất, cây tre đã mọc cao lên gần 3 mét… Một sức sống mãnh liệt đã vươn lên mạnh mẽ nhờ hệ thống rễ được nuôi dưỡng 5 năm trong lòng đất, chính những hệ thống rễ này tiếp sức cho mầm non để nó có thể tăng trưởng một cách mau chóng thần kỳ…

Hạt giống của cây tre lạ kỳ này lớn mạnh đầy sức sống gợi cho chúng ta hình ảnh của hạt giống nước Trời: Hạt gieo vào lòng đất được nuôi dưỡng bởi đất, nảy mầm và lớn lên với thời gian. Hạt giống nước Trời sẽ trưởng thành như là hạt cải – “hạt bé nhất” nhưng khi nảy mầm và lớn lên lại thành cây lớn nhất trong các loại rau. Nước Trời được khởi đầu rất nhỏ bé là Chúa Giêsu cùng nhóm nhỏ môn đệ. Sau 20 thế kỷ, Kitô giáo đã lan tràn khắp nơi, đến với mọi dân tộc…

Suy niệm

Tin Mừng theo thánh Máccô 4,26-34 thuật lại việc Chúa Giêsu giảng dạy về nước Trời qua hai dụ ngôn:

Dụ ngôn thứ nhất: Nước Thiên Chúa ví như một hạt lúa được gieo vào lòng đất tự nó nảy mầm, thành cây và trổ bông nặng trĩu hạt lúa mới cho mùa gặt bội thu (Mc 4,26-29). Trong ngữ cảnh so sánh với nước Thiên Chúa, hạt giống ẩn giấu và tiệm tiến trong sự quan phòng của Thiên Chúa cho nước Trời, không gì ngăn cản được, theo một tiến trình đưa hạt giống lớn lên cả đêm lẫn ngày để đạt tăng trưởng hoàn toàn.

Dụ ngôn thứ hai: Nước Thiên Chúa giống như hạt cải bé nhỏ, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng (Mc 4,30-32).

Cây cải ở xứ Palestine khác với cây rau cải ở Việt Nam. Ở xứ Palestine hạt cải mọc lên thành cây to đến nỗi chim trời có thể đến trú ẩn. Dụ ngôn cho thấy một sự tương phản về nước Thiên Chúa: Ban đầu như một hạt cải nhỏ xíu, theo thời gian mọc lên thành cây và cây này lớn hơn mọi thứ rau khác.

Qua hai dụ ngôn, dụ ngôn đầu tiên: Hạt giống tự nảy mầm mang lời kêu gọi cần có lòng trông cậy. Mặc dù hạt giống bị tiêu mất đi, nhưng đất màu mỡ đã cho nó hoa màu gấp trăm khi nảy mầm sinh hoa kết trái. Mặc dù gặp bao nhiêu thất bại, nước Chúa chắc chắn sẽ thành công. Dụ ngôn thứ hai: Hạt cải lớn thành cây đã minh họa sự tăng trưởng của nước Trời theo chiều rộng.

Cả hai dụ ngôn mang ý nghĩa: Nước Trời phát triển nhờ hoạt động và lời rao giảng của Đức Giêsu dù khiêm nhường, nhỏ bé và cộng đoàn các môn đệ của Ngài là Giáo hội. Và dù có yếu đuối, thất bại, thì tất cả đều đang tham gia vào thành tựu vẻ vang của một công trình tràn đầy sức sống và khi tới giai đoạn chung cuộc với sự phát triển toàn diện.

Thật thế, như hạt giống ngày đêm không ngừng lớn lên, ước chi những khó khăn không làm con chùn bước. Trước dễ dãi, thành công cũng không làm chúng con ngủ quên… Nhưng sẽ là hạt giống không ngừng lớn lên thành cây cao bóng cả…

Ý lực sống:

“Tôi trồng, anh Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên.

Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả,

nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên, mới đáng kể” (1Cr 3,6-7).

Suy Niệm 8: Dụ ngôn hạt cải

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. Hôm nay Đức Giêsu đưa ra hai dụ ngôn để nói về Nước Trời. Chúa ví Nước Trời như hạt giống được gieo xuống đất. Nó tự  mọc lên rồi trổ bông sinh trái, người gieo giống không hay biết gì hết. Còn dụ ngôn hạt cải nói lên sức phát triển mạnh mẽ của nó. Hạt cải là loại hạt nhỏ bé nhất trong các hạt giống nhưng khi nó mọc lên nó sẽ thành cây lớn đến nỗi chim trời có thể đến trú ẩn dưới bóng nó được. Đức Giêsu dùng hai dụ ngôn này để ví với Hội thánh. Lúc đầu chỉ có ít người tin theo, nhưng dần dần, Hội thánh sẽ lan rộng khắp nơi, làm chốn nương tựa cho mọi người được hạnh phúc và được rỗi. 
  2. Nước Thiên Chúa được thiết lập giống hệt như tiến trình gieo gặt trọn vẹn: từ hạt giống, hạt nảy sinh thành cây, rồi thành bông trái. Như người dân Palestine, sau khi gieo hạt giống, họ âm thầm chờ đợi lúa chín để gặt hái, chứ không hề biết hạt giống được gieo xuống đất đã phát triển như thế nào: Đức Giêsu cũng gieo hạt giống Nước Trời nơi tấm lòng con người, cùng với ơn Chúa, Nước đó âm thầm phát triển lan rộng khắp thế giới, tạo nên mùa gặt các linh hồn. Đức Giêsu chỉ đích thân có mặt  trong mùa gieo giống và mùa gặt hái. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian chờ đợi, Ngài vẫn tiếp tục hoạt động một cách vô hình, qua Chúa Thánh Thần và Giáo hội. Khi Nước Thiên Chúa đã phát triển đến mức tột độ, Ngài sẽ trở lại trong vinh quang, thu hoạch mùa gặt của Ngài.
  3. Đức Giêsu sánh ví Nước Thiên Chúa như hạt cải. Dụ ngôn này cho thấy vẻ tương phản rõ rệt giữa một bên là sự nhỏ bé, vô nghĩa lúc ban đầu, và bên kia là kết quả cuối cùng lại phong phú không ngờ. Chúng ta nên nhớ: cây cải ở xứ Palestine  khác với cây cải ở xứ ta. Ở Palestine hạt cải mọc lên thành cây to đến nỗi chim trời có thể đến trú ẩn.

Ông Thompson trong cuốn “Xứ thánh và Kinh thánh” đã viết: ”Tôi đã thấy cây này trong cánh đồng phì nhiêu ở Akka, nó cao bằng con ngựa và người cưỡi ngựa. Với sự giúp đỡ của người hướng dẫn, tôi đã nhổ được một cây cao hơn 4 mét”

Ví dụ này của Đức Giêsu không thổi phồng sự thật chút nào. Người ta vẫn thấy những loại cải hay cây cải to như vậy có bầy chim bu quanh, vì chim thích những hạt cải đen nên chúng đậu trên cây để ăn. Vì thế, Đức Giêsu mới nói rằng Nước Ngài giống như hạt cải lớn lên thành cây.

  1. Dụ ngôn hạt cải là dụ ngôn cuối cùng về Nước Thiên Chúa. Cũng như các dụ ngôn trước, dụ ngôn này được rút ra từ đời sống thôn dã. Nó đưa ra một nét tương phản hấp dẫn: hạt cải nhỏ xíu trở thành một cây to lớn.

Nước Thiên Chúa cũng mang nơi mình một nghịch lý tương tự: Dưới cái nhìn của Marcô, dụ ngôn hạt cải chứa đựng cách diễn tả tuyệt vời về bí mật Messia. Cho đến lúc này, hành vi của Đức Giêsu có thể bị coi là vô nghĩa và Nước Thiên Chúa vẫn chỉ là một thực tế khiêm tốn. Dù vậy, các dân ngoại đang nhìn thấy sự tăng trưởng dị thường của nó như các Kitô hữu ở Rôma đã kinh nghiệm được điều này. Chính Giáo hội tiên khởi, dù yếu đuối, vẫn ý thức được mình đang tham dự vào sự thành công của một công trình đã sẵn tiềm tàng nguồn sinh lực vô biên, công trình này sẽ đạt tới mức hoàn vũ vào cuối giai đoạn phát triển của nó.

  1. Qua bài Tin Mừng này, chúng ta hãy tin tưởng vào sức phát triển của Nước Thiên Chúa. Nước Chúa vẫn âm thầm phát triển, nhưng Chúa cũng cần chúng ta góp phần vào, dù ít dù nhiều như thánh Phaolô đã nói: ”Tôi trồng, Apollô tưới, nhưng chính Thiên Chúa cho mọc lên. Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả. Nhưng Thiên Chúa Đấng làm cho lớn lên mới đáng kể” (1Cr 3,6-7). Nếu chúng ta biết nghĩ như thánh Phaolô thì chúng ta không còn ngại gieo hạt giống Nước Chúa, cũng không vội ngã lòng khi thấy công gieo vãi của mình chưa sinh kết quả.
  2. Truyện: Giải đáp ba thắc mắc.

Một hôm, cha Petitjean đến giảng đạo tại Nagasaki cho một số đông người Nhật. Nghĩ rằng họ đều là người bên lương nên sau bài giảng, ngài tươi cười hỏi:

– Anh em có thắc mắc gì không?

Một người đưa tay đặt câu hỏi:

– Chúng tôi muốn được hỏi ông ba điều, yêu cầu ông trả lời có hay không? Câu hỏi thứ nhất, các ông có tin Đức Mẹ Đồng trinh không?

– Có.

– Câu hỏi thứ hai: các ông có vâng lời và thông hiệp với Đức Thánh Cha không?

– Có.

– Câu hỏi thứ ba: Là Linh mục, các ông có giữ mình đồng trinh và sống độc thân không?

– Có.

– Vậy thì mấy trăm người chúng tôi đây với ông là đồng đạo. Chúng tôi là người Công giáo cả đây.

Cha Petitjean bàng hoàng như từ cung trăng rơi xuống. Cha con âu yếm ôm cổ nhau. Nhà truyền giáo hỏi:

– Bấy lâu nay, có ai giảng dạy cho các anh không?

– Thưa cha, không có ai suốt hai thế kỷ rồi! Đó là nhờ ông bà tổ tiên chúng con truyền lại, rồi chúng con âm thầm cầu nguyện, dạy giáo lý cho con em, đoàn kết đùm bọc nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ông bà chúng con trước khi chết có nhắn nhủ: Sau này có ai đến giảng đạo hãy cảnh giác, phải lấy ba tiêu chuẩn ấy mà nhận xem họ có phải là các cha đích thực, là người của Hội thánh sai đến.

Giáo hội Nhật Bản đã tái sinh.

Suy Niệm 9: Sức sống và sức lớn lên của Nước Thiên Chúa

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Phân tích (Hạt giống…)

Những dụ ngôn về sức sống và sức lớn lên của Nước Thiên Chúa:

– Dụ ngôn hạt giống âm thầm: Nước Thiên Chúa cũng như hạt giống có sức sống và sức phát triển nội tại. Dù hoàn cảnh thuận tiện hay không thuận tiện (“đêm hay ngày”), dù người ta có chăm sóc hay không (“người ấy ngủ hay thức”, “bằng cách nào người ấy không biết”), Nước Thiên Chúa vẫn cứ phát triển.

– Dụ ngôn hạt cải: mới ban đầu, Nước Thiên Chúa rất nhỏ bé như hạt cải, nhưng rồi nó sẽ phát triển thành một cây to.

* Có lẽ những dụ ngôn này nhằm mục đích trấn an:

a/ Trấn an các môn đệ thời Chúa Giêsu: có lúc họ ngã lòng vì thấy mình chỉ là một nhóm người ít oi, nhỏ bé, sợ không đủ khả năng mở mang Nước Thiên Chúa nổi.

b/ Trấn an các tín hữu thời Giáo Hội sơ khai: họ là một tập thể ít oi giữa lòng thế giới rộng lớn, họ lại gặp rất nhiều khó khăn. Chúa Giêsu muốn trấn an tất cả rằng chắc chắn Nước Thiên Chúa sẽ tồn tại và phát triển mạnh.

  1. Suy gẫm (… nẩy mầm)
  2. Chúa Giêsu cho biết hạt giống Lời Chúa có sức phát triển nội tại, tuy âm thầm nhưng liên lỉ và mạnh mẽ.

Nhiều khi vì cho rằng đọc và suy gẫm Lời Chúa không sinh kết quả gì cả nên tôi đã thôi không tiếp tục nữa. Dụ ngôn này dạy tôi hãy bỏ lối suy nghĩ ấy đi và kiên trì tiếp tục, vì kẻ làm cho hạt giống mọc lên không phải là tôi mà là chính Chúa.

  1. “Tôi trồng, Apollo tưới, nhưng chính Thiên Chúa cho mọc lên. Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả. Nhưng Thiên Chúa Đấng làm cho lớn lên mới đáng kể” (1 Cr 3,6-7). Nếu chúng ta biết nghĩ như Phaolô thì chúng ta không còn ngại gieo hạt giống Nước Chúa, cũng không vội ngã lòng khi thấy công gieo vãi của mình chưa sinh kết quả.
  2. Một ngày kia, một tông đồ giáo dân dẫn tôi đến gia đình của một người lương làm nghề kéo xe lôi. Đến đấy tôi nhận được một món quà rất bất ngờ và rất to lớn: cả nhà gồm vợ chồng và 7 đứa con xin theo đạo. Khi được tôi hỏi lý do thì người chồng cho biết: Mười mấy năm trước, khi còn nhỏ, anh học trường các sư huynh Lasan và đã có lòng mộ mến Đạo Chúa. Lòng mộ mến ấy vẫn âm ỉ trong lòng anh. Tuần trước, khi anh gặp người tông đồ giáo dân này, tàn lửa âm ỉ đó bỗng bùng lên thành một ngọn lửa thôi thúc anh phải xin theo Chúa. Nếu các sư huynh Lasan của trường kia và những tông đồ giáo dân nọ đã không chịu khó gieo giống vì nghĩ rằng có gieo cũng vô ích thì hôm nay tôi đã không gặt được thành quả này. “Người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết nữa.” (câu 27-28) (Chia sẻ).
  3. Hạt giống Nước Chúa mà chúng ta gieo vào lòng anh chị em quanh ta mọc lên rất nhiều cách và nhiều dạng: có thể thành những Kitô hữu như chia xẻ phía trên, có thể thành những người tuy còn là lương dân nhưng thiện cảm với Kitô giáo, có khi thành những ý lực hướng dẫn cuộc sống của những người vì lý do nào đó chưa thể theo đạo. Văn hào Tagore thuộc loại thứ ba: tuy ông không là Kitô hữu nhưng cuộc sống của ông được hướng dẫn bởi những giá trị Phúc Âm.

Suy Niệm 10: Chính Thiên Chúa cho mọc lên

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

Bài Tin Mừng hôm nay gồm hai dụ ngôn nhỏ. Qua hai dụ ngôn này Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta về sức sống và sức lớn lên của Nước Thiên Chúa. Lời của Chúa có một sức mạnh nội tại – không ai, không gì có thể cản trở được sự nảy mầm, bèn rễ, lớn lên rồi đơm bông kết trái theo trình tự của thời gian.

  1. Trước hết, Chúa Giêsu cho biết Lời của Chúa có sức phát triển ngay từ bên trong, tuy âm thầm nhưng liên lỉ và rất mạnh mẽ.

Một giáo sư thực vật học kia tay cầm một hạt giống nhỏ màu nâu và nói với cả lớp rằng:

– Tôi biết rõ hợp chất của hạt giống này. Nó gồm hydro, carbon và nitro. Tôi biết đúng tỉ lệ và có thể tạo ra một hạt giống khác trông y như hạt giống này.

Một học sinh đứng lên hỏi: – Thưa thầy, nếu đem hạt giống thầy chế tạo đó mà gieo xuống đất, nó có thể mọc lên không ạ?

Giáo sư trả lời:

– Với hạt giống của tôi, điều đó không thể được. Nhưng nếu tôi đem hạt giống mà Thiên Chúa đã làm ra, nó sẽ mọc lên thành cây, vì nó chứa đựng nguyên tắc nhiệm mầu mà chúng ta gọi là nguyên tắc sinh tồn.

Hạt giống chứa đựng sự sống. Con người, dù có tài giỏi tới đâu đi nữa cũng chỉ có thể tạo ra những hạt giống tương tự hoặc tạo ra những người máy robot, nhưng không thể nào tạo ra sự sống được.

  1. Thánh Phaolô đã nói rất hay: “Tôi trồng, Apollo tưới, nhưng chính Thiên Chúa cho mọc lên”. Kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả, Thiên Chúa là Đấng làm cho lớn lên mới đáng kể” (1Cr 3,6-7). Nếu chúng ta biết nghĩ như Phaolô thì chúng ta sẽ không còn ngại ngùng đi gieo hạt giống Lời Chúa và nhất là sẽ không vội ngã lòng khi thấy công gieo vãi của mình chưa sinh kết quả.

Đây là một câu chuyện có thật. Câu chuyện này nói về nguồn gốc của một khu rừng. Câu chuyện như sau:

Một ông lão người Pháp nọ, sau khi vợ qua đời đã mang đứa con trai duy nhất của ông đến một vùng đất khô cằn nhất của miền Trung nước Pháp để lập nghiệp. Thật ra, người đàn ông này chỉ muốn quên đi cái quá khứ quá khó khăn vất vả của mình. Miền đất khô cằn nơi ông đặt chân đến còn vỏn vẹn chỉ có 5 ngôi làng nhỏ, Dân cư thì thưa thớt. Họ sống trong những căn nhà xiêu vẹo đổ nát. Đa số đã bỏ đi đến những thành phố lớn để tìm công ăn việc làm.

Ông lão trên 60 tuổi đưa mắt nhìn khung cảnh chung quanh và đi đến kết luận như sau: “Nếu không có cây cối thì chỉ trong vòng một thời gian ngắn nữa, cả vùng này sẽ trở thành sa mạc hoang vu”. Sau khi đã dọn chỗ cho đàn cừu và một số gia súc khác, ông lão tự đi bộ dọc theo các lối đi và cúi xuống nhặt từng hạt dẻ. Ông lựa những hạt tốt để làm giống. Ông ngâm vào nước. Khi mặt trời vừa lên, ông dùng ruột thanh sắt nhọn moi những lỗ nhỏ và cứ mỗi lỗ ông đặt một hạt dẻ vào đó.

Ngày qua ngày, liên tiếp trong ba năm trời như thế, ông lão đã trồng được tất cả 100.000 cây dẻ con. Ông hy vọng rằng, dù chúng có chết đi thì ít ra cũng phải có 10 ngàn cây còn sống sót. Ông cũng hy vọng rằng, Chúa sẽ cho ông được sống thêm vài năm để làm cho xong công tác trồng cây này. Ông qua đời năm 1947, hưởng thọ 89 tuổi.

Từ những hạt dẻ ông đã cặm cụi moi từng lỗ nhỏ để đặt vào bây giờ nước Pháp có một trong những khu rừng đẹp nhất thế giới. Trong ba khóm rừng, mỗi khóm dài 1 cây số, rộng 3 cây số, những cây dẻ xinh tươi to lớn đã có mặt để chứa được nước mưa, làm cho cây cối xung quanh được xinh tươi và biến khu đồi khô cằn ngày xưa thành những dòng suối róc rách, chim chóc đã trở lại. Sự sống cũng bắt đầu chớm nở… Dân chúng từ từ trở lại với ngôi làng cũ để xây nhà và làm lại cuộc đời.

Lúc đầu hạt giống Nước Trời quả thật là khiêm tốn, nhỏ bé. Thế nhưng, ngày hôm nay thì nào có ai dám hồ nghi về những khu rừng Giáo Hội đang hiện diện trên hành tinh mà chúng ta gọi là thế giới kỳ diệu này.

Lạy Chúa,

xin chiếu tỏa trên con ánh sáng của Chúa

và dạy con bước đi ngay trong đêm tối

cũng như giữa ban ngày.

Xin truyền cho con sức mạnh của Người.

Ước gì những cánh tay rã rời

vì thất bại của con tìm lại được sức trẻ

để gieo trồng hàng ngàn cây xanh

cho một thế giới mới.

Ước gì mồ hôi con pha lẫn mồ hôi của Chúa

trong Vườn Cây Dầu.

Ước gì máu con hòa lẫn với Máu Chúa

trên Núi Sọ để tưới gội cho mảnh đất

đã bị khô cằn vì bất công và ích kỷ.

Chúc tụng Chúa là Cha

đã dẫn con đi đến cùng,

đến tận Emmau, nơi Chúa hiển dung

và tràn trề bình an và niềm vui của Chúa Amen.

(ĐHY Roger Etchegaray)

THỨ BẢY TUẦN 3 THƯỜNG NIÊN

LỜI CHÚA: Mc 4, 35-41

Ngày ấy, khi chiều đến, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Chúng ta hãy sang bên kia biển hồ”. Các ông giải tán đám đông; vì Người đang ở dưới thuyền, nên các ông chở Người đi. Cũng có nhiều thuyền khác theo Người.

Chợt có một cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước. Và Người thì ở đàng lái dựa gối mà ngủ. Các ông đánh thức Người và nói: “Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?”

Chỗi dậy, Người đe gió và phán với biển rằng: “Hãy im đi, hãy lặng đi”. Tức thì gió ngừng biển lặng như tờ. Rồi Người nói với các ông: “Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?” Bấy giờ các ông kinh hãi và nói với nhau rằng: “Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?”

Suy Niệm 1: Tại sao anh em sợ?

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Chẳng hiểu tại sao lúc chiều xuống,

Đức Giêsu lại bảo các môn đệ đưa mình qua bờ phía đông của Biển hồ,

trên con thuyền mà Ngài ngồi giảng các dụ ngôn (Mc 4,1).

Do địa thế đặc biệt, hồ Galilê hay có những trận cuồng phong ập đến bất chợt,

tạo ra những cơn bão lớn trên sóng nước.

Tối hôm ấy, thầy trò đã gặp một cơn bão như vậy.

Thầy Giêsu phó thác mọi sự cho các môn đệ vốn là ngư phủ lành nghề.

Thầy mệt nên ngủ say ở đuôi thuyền, ngủ trên một cái gối.

Trong khi đó các môn đệ phải vật lộn với sóng gió, nước tràn đầy thuyền.

Họ có vẻ mất bình tĩnh khi thấy cơn giông bão không đánh thức Thầy được.

Chính họ đánh thức Thầy bằng một lời trách móc:

“Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi mà Thầy chẳng lo gì sao?” (c.38).

Thầy Giêsu đã thức dậy, và đã làm cho biển lặng, gió yên.

Đời con người ai tránh được sóng gió bất chợt.

Nếu biết trước sẽ gặp sóng gió, ai dám vượt biến ban đêm.

Sóng gió xảy ra trong đời riêng của mỗi người, trong gia đình,

trong đất nước, trong Giáo Hội, trên thế giới.

Sóng gió làm ta thấy mình con thuyền đời mình chòng chành, mong manh,

và khiến ta sợ hãi, hoảng loạn.

Giữa cơn sóng gió có khi người tín hữu lại thấy Chúa lạnh lùng, vô cảm.

Như các môn đệ, chúng ta không hiểu tại sao Chúa có thể ngủ được

khi đời ta bị đe dọa bởi cuồng phong,

tại sao Chúa vắng mặt, thinh lặng và khoanh tay

vào lúc chúng ta cần đến Ngài hơn cả.

“Tại sao anh em sợ? Anh em không có lòng tin sao?” (c.40).

Anh em không tin là Thầy đang ở trong cùng một con thuyền với anh em sao?

Lẽ ra chúng ta phải cảm thấy yên tâm

khi nhìn Chúa ngủ giấc ngủ tín thác của trẻ thơ ngay giữa cơn giông bão.

Nhìn Chúa ngủ bình an, chúng ta hiểu rằng chẳng có gì đáng sợ.

Vâng lời Chúa để qua bờ bên kia, và có Chúa trong con thuyền đời mình,

điều đó không làm chúng ta tránh được giông bão,

có khi lại gặp bão tố nhiều hơn.

Nhưng điều chắc chắn là chúng ta sẽ qua được bờ bên kia

với lòng tin được tôi luyện của người tín hữu dày dạn.

Chúng ta dám tin Chúa có quyền trên sóng gió của đời ta không?

Cầu nguyện:

Lạy Cha từ ái,

đây là niềm tin của con.

Con tin Cha là Tình yêu,

và mọi sự Cha làm đều vì yêu chúng con.

Cả những khi Cha mạnh tay cắt tỉa,

cả những khi Cha thinh lặng hay vắng mặt,

cả những khi Cha như chịu thua sức mạnh của ác nhân,

con vẫn tin Cha là Cha toàn năng nhân ái.

Con tin Cha không chịu thua con về lòng quảng đại,

chẳng để con thiệt thòi khi dám sống cho Cha.

Con tin rằng nơi lòng những người cứng cỏi nhất

cũng có một đốm lửa của sự thiện,

được vùi sâu dưới những lớp tro.

Chỉ một ngọn gió của tình yêu chân thành

cũng đủ làm đốm lửa ấy bừng lên rạng rỡ.

Con tin rằng chẳng có giọt nước mắt nào vô ích,

thế giới vẫn tồn tại nhờ hy sinh thầm lặng của bao người.

Con tin rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về Ánh sáng.

Sự Sống và Tình yêu sẽ chiếm ngự địa cầu.

Con tin rằng dòng lịch sử của loài người và vũ trụ

đang chuyển mình tiến về với Cha,

qua trung gian tuyệt vời của Chúa Giêsu

và sức tác động mãnh liệt của Thánh Thần.

Con tin rằng dần dần mỗi người sẽ gặp nhau,

vượt qua mọi tranh chấp, bất đồng,

mọi dị biệt, thành kiến,

để cùng nắm tay nhau đi qua sa mạc cuộc đời

mà về nhà Cha là nơi hạnh phúc viên mãn.

Lạy Cha, đó là niềm tin của con.

Xin Cha cho con dám sống niềm tin ấy. Amen.

Suy Niệm 2: Chưa có lòng tin

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Biển khơi là một sức mạnh đáng sợ. Nhất là khi biển nổi sóng gió. Các môn đệ sợ hãi là bình thường. Tại sao Chúa mắng các ông: “Sao nhát thế? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao”. Vì đã trải qua nhiều sự kiện như phép lạ hoá bánh ra nhiều, Chúa Giê-su đi trên mặt nước. Tất cả chứng tỏ Chúa làm chủ vật chất. Là Chúa Tể muôn loài. Đã được chứng kiến những phép lạ như thế mà các ông vẫn còn chưa có lòng tin. Đó là điều khiến Chúa buồn. Và hôm nay nữa. Sau khi Chúa quát mắng “ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ”. Thế mà các ông vẫn chưa nhận biết Chúa. Lại còn thắc mắc hỏi nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”

Chẳng sánh được với tổ phụ Áp-ra-ham. Luôn tin tưởng nơi Chúa. Tin vào lời Chúa hứa cho một miền đất chảy sữa và mật. Nên sẵn sàng ra đi. “Ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu”. Tin vào lời Chúa hứa cho một dòng dõi đông như sao trên trời như cát dưới biển. nên “bà Xa-ra, vốn hiếm muộn, cũng đã có thể thụ thai và sinh con nối dòng vào lúc tuổi đã cao, vì bà tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín”. “Tất cả các ngài đã chết, lúc vẫn còn tin như vậy, mặc dù chưa được hưởng các điều Thiên Chúa hứa”. Dám sát tế I-xa-ác, đứa con duy nhất. “Quả thật, ông Áp-ra-ham nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền năng cho người chết trỗi dậy”. Quả là một đức tin lớn lao. Trọn vẹn. Không lay chuyển (năm lẻ).

Có lẽ Đa-vít gần gũi với ta hơn. Vì tuy tin Chúa. Nhưng có lúc yếu đuối mất đức tin. Ông đã cư xử như người không có đức tin. Đã chiếm đoạt vợ của U-ri-gia. Lại còn giết chết ông này nữa. Nhưng khi được tiên tri Na-than cảnh tỉnh, ông đã ăn năn sám hối. Ông chấp nhận những hình phạt của Chúa với tinh thần sám hối, vâng phục sâu xa. “Đa-vít nói với ông Na-than: “Tôi đắc tội với Đức Chúa”. Ông đã biểu lộ đức tin sâu xa. Khi đứa trẻ bị bệnh nặng, “Vua Đa-vít cầu khẩn Thiên Chúa cho đứa trẻ, vua ăn chay nhiệm nhặt, và khi về nhà ngủ đêm thì nằm dưới đất”. Cũng như Áp-ra-ham, vua Đa-vít tin tưởng, dù không hi vọng gì. Đó cũng là một đức tin lớn lao (năm chẵn).

Xin cho chúng ta có một đức tin vững vàng vì “đức tin là bảo đảm cho những điều ta hi vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy”. Để ta an vui sống giữa dòng đời đầy biến động thăng trầm này.

Suy Niệm 3: Sóng gió cuộc đời

Sự kiện Chúa Giêsu và các môn đệ sang bên kia biển hồ, như được trình thuật trong Tin Mừng hôm nay, không phải chỉ có ý nghĩa địa lý: di chuyển từ nơi này sang nơi nọ, cũng như sóng gió nổi lên không chỉ mang ý nghĩa về khí tượng thuần tuý; nhưng các biến cố đó còn mang ý nghĩa thần học nữa. Chúa Giêsu và các môn đệ rời bỏ miền đất Israel để đi sang phía dân ngoại, điều đó mang ý nghĩa truyền giáo; sóng gió nổi lên tượng trưng cho sức mạnh của sự dữ, của ma quỷ nổi lên chống lại Chúa và các môn đệ.

Tuy nhiên, như trình thuật Tin Mừng cho thấy, lúc đó Chúa Giêsu đang ở đàng lái, gối đầu mà ngủ. Giấc ngủ ấy khiến ta liên tưởng đến cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá. Trong cái chết đó, Chúa Giêsu dường như đã thất bại, trong khi đó các quyền lực sự dữ tưởng chừng như đã thành công, vì đã thủ tiêu được người mà họ coi như kẻ thù, như kẻ quấy rầy nền đạo đức tôn giáo của họ. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã thức dậy, nghĩa là Ngài đã phục sinh, và sự Phục Sinh của Ngài loan báo cuộc chiến thắng vĩ đại của Ngài trên mọi quyền lực của ma quỷ và sự dữ cũng như của bất cứ thế lực nào chống đối Giáo Hội.

Ðời sống của Giáo Hội cũng như của mỗi Kitô hữu được ví như một cuộc ra khơi. Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện, ngay cả khi chúng ta tưởng như Ngài vắng mặt trong những thử thách, phong ba của cuộc đời. Ðiều quan trọng là chúng ta biết chạy đến cầu nguyện với Chúa để Ngài làm yên cơn sóng gió và dẫn đưa con thuyền cuộc đời chúng ta về tới bến bờ bình an.

Ước gì chúng ta luôn có được xác tín của thánh Phaolô Tông đồ: Thiên Chúa không để chúng ta bị thử thách quá sức chịu đựng, Ngài sẽ ra tay cứu giúp mỗi khi chúng ta kêu cầu đến Ngài.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Suy Niệm 4: Một thế giới thù địch và đầy biến động

Hôm ấy, khi chiều đến, Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Chúng ta sang bờ bên kia đi!” Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền; có những thuyền khác cùng đi theo Người. Và một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. (Mc. 4, 35-37)

Tôi mượn lời một bài ca của John Littleton làm đầu đề cho bài suy niệm này, bởi vì hai phẩm tính trên đây giải thích khá rõ kinh nghiệm các môn đệ Chúa đã sống ở trên Biển Hồ, buổi chiều hôm đó.

Một thế giới thù địch

Câu chuyện Chúa dẹp yên sóng gió có thể được nhìn ở hai bình diện: biểu tượng và mô tả. Về mặt biểu tượng thì biển động là hình ảnh tượng trưng cho những thế lực chống đối Thiên Chúa. Đó là hình ảnh nói lên mối thù địch giữa dòng dõi những kẻ bất phục tùng Thiên Chúa và chính Thiên Chúa. Do đó trên bình diện này, việc Đức Kitô dùng quyền năng dẹp yên sóng gió là dấu chỉ không những Người làm chủ các mãnh lực thiên nhiên và vũ trụ, mà nhất là Người có quyền năng trừ quỷ, bá chủ các thế lực bất phục tùng và sức mạnh của tội lỗi.

Thế nên các Tông đồ cũng giống như các người Pharisiêu thường đặt câu hỏi về Chúa Giêsu: Vậy người này là ai mà có quyền tha tội, chữa lành bệnh? Vậy người này là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?

Còn chúng ta, chúng ta có tin tưởng vào Đức Kitô này không? Người là Đấng Cứu chuộc có khả năng trấn áp và cứu chuộc chúng ta khỏi mọi thế lực địch thù, ta có tin tưởng vào Người không?

Một thế giới đầy biến động

Về mặt mô tả, câu chuyện này cũng tra vấn cuộc đời của ta. Cuộc hành trình vượt biển này mô tả khá rõ cuộc sống đời thường của ta.

Sau một ngày vất vả với đám đông, Chúa Giêsu cảm thấy mệt mỏi và muốn tìm được nghỉ ngơi yên tĩnh và thân tình: “Người ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ”.

Chính lúc đó, một trận cuồng phong nổi lên, và sóng ập vào thuyền. Phải chăng là một trận cuồng phong quá lớn? Có lẽ không, vì Chúa Giêsu dầu sao vẫn ngủ được, nhưng cơn biển động này làm cho các người vượt biển phải bất an.

Mỗi ngày, ta xao xuyến lo âu vì thế giới biến đọng: những vụ đình công, những cảnh cướp đọat, những tai nạn, nếp sống cuồng lọan, những cuộc biểu tình… Chúng ta như đang ở trong thuyền, có Chúa Giêsu ở đó, nhưng Người đang ngủ.

Phải chăng chúng ta không nghe lời Chúa phán với Mác-ta khi cô quá lo lắng cho bữa ăn tối: “Mác-ta còn lo lắng và lăng xăng nhiều chuyện quá!” Chỉ có một chuyện cần thiết, đó là Thầy đang ở đây… mặc dầu Thầy đang ngủ…

Gần Đức Giêsu, con người không có quyền sợ hãi, mất lòng tin tưởng.

Suy Niệm 5: Có Chúa, sẽ bình an

Trong một trại tù nọ, người ta nhận thấy có một vị giám mục khoảng ngoài 60 tuổi. Họ thấy ngài rất bình an và vui tươi, mặc dù bản án dành cho ngài là bất công, và hình khổ mà ngài phải chịu quả là đớn đau.

Khi được hỏi: “Thưa đức cha, tại sao đức cha bình an đến như vậy? Người ta bỏ vạ, vu khống đức cha mà đức cha vẫn vui tươi??”

Đức cha trả lời rằng: “Thưa, tôi làm gì và ở đâu đều có Chúa. có Chúa là niềm vui và bình an. Hạnh phúc của đời người là khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa và được sống với Ngài. Tôi được sống với Ngài và trong Ngài, lẽ nào tôi không vui!”.

Hôm nay, bài Tin Mừng trình thuật việc Đức Giêsu và các môn đệ đang trèo thuyền sang bờ bên kia. Đang khi thuyền ra giữa biển thì bị trận cuồng phong ập tới, khiến thuyền của họ đầy nước và có nguy cơ chìm. Các môn đệ thi nhau tát nước và trèo trống… Đến khi họ không còn trụ nổi nữa, lúc đó, họ gọi Đức Giêsu và trách móc Ngài: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”. Đức Giêsu liền thức dạy và ngăm đe gió, tức thì thuyền yên biển lặng. Mọi người ngỡ ngàng và thốt lên: “Ông này là ai mà gió và biển cũng phải tuân lệnh?”

Trong hành trình theo Chúa, có nhiều lúc chúng ta gặp phải những thử thách gian nan, những đêm tối đức tin, làm cho chúng ta hoang mang! Tuy nhiên, chúng ta nên nhớ rằng: trong con thuyền cuộc đời của mỗi người luôn có Chúa ở cùng, điều quan trọng là chúng ta có nhận ra sự hiện diện của Chúa hay không? Nếu chúng ta nhận ra Chúa có mặt thì hẳn tất cả những điều nghịch cảnh đến với ta, ta không hoang mang, hốt hoảng như các môn đệ của Ngài khi xưa, ngược lại, chúng ta khám phá ra giá trị và ý nghĩa của nó, lúc đó, chúng ta sẽ vui tươi và bình an ngay trong những thử thách của cuộc đời, vì có Chúa là có tất cả.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con niềm tin vào Chúa. Xin cho chúng con biết Chúa quyền năng để chúng con nương tựa vào Chúa trong mọi nơi, mọi lúc của cuộc đời chúng con. Amen.

Ngọc Biển SSP

Suy Niệm 6: Thiên Chúa quyền uy và đầy sức mạnh

(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu đang ở trên thuyền với các môn đệ. Ngài dùng quyền năng để dẹp tan sóng gió. Hôm nay Chúa cũng đang hiện diện trong cuộc đời chúng ta. Hãy lên tiếng cầu cứu, Chúa sẽ ra tay cứu giúp.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, thật là thú vị khi chứng kiến cảnh Chúa dẹp tan bão táp giữa biển khơi. Phép lạ Chúa làm thật bất ngờ. Điều đó khơi dậy nơi tâm hồn con ý thức về một Thiên Chúa quyền uy và đầy sức mạnh.

Sống giữa biển đời với bao sóng gió gian nan thử thách, tâm hồn con chao đảo tưởng chừng như đắm chìm. Lạy Chúa, xin ban thêm niềm tin để con nhận ra Chúa đang hiện diện nơi cuộc đời con. Chúa vẫn “hiện diện một cách vắng mặt”, hiện diện một cách kín đáo.

Con muốn xác tín rằng: Thiên Chúa con tin thờ là Thiên Chúa quyền uy. Con biết rằng nếu Chúa muốn, Chúa sẽ ra tay dẹp yên sóng biển. Nhưng đối với con, điều quan trọng nhất là xin Chúa nâng đỡ cuộc đời con, để con vượt thắng những gian nan thử thách trong cuộc sống: một sự hiểu lầm, người thân đau ốm lâu ngày, mùa màng thất thu, con cái ngỗ nghịch ngang bướng…

Con tin Chúa vẫn đang hiện diện nơi cuộc đời con. Đôi vai trĩu nặng những trái ý, con không chịu đựng một mình nhưng được chia sẻ trên đôi vai của Chúa nữa. Xin giúp con nhận ra được sự hiện diện của Chúa trong gia đình. Sự hiện diện ấy là ánh sáng giúp nhận ra con người thật của con, như luồng sáng soi tỏ những hạt bụi li ti. Sự hiện diện ấy là sức mạnh đỡ nâng và giải thoát, như hôm nào trên biển, Chúa uy quyền dẹp yên bão tố. Amen.

Ghi nhớ: “Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?”

Suy Niệm 7: Chúa Giêsu luôn ở bên cạnh

(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Gióp là một người công chính, ngay thẳng, thế nhưng ông đã gặp biết bao thử thách trong đời… Gióp đã có lúc mất hy vọng:

“Tôi thừa hưởng, những tháng ngày tuyệt vọng. Ngả lưng nằm, tôi thầm nhủ: Khi nào trời sáng đây? Vừa thức giấc, tôi đã lại hỏi: Khi nào trời lại tối?… Và ngày qua ngày: Một ngày đời tôi, thấm thoắt hơn thoi đưa, và tàn lụi không hy vọng” (G 7,4.6).

“Từ cơn dông tố” của cuộc đời Gióp và giữa những phát biểu nhân sinh quan để giải thích sự đau khổ theo lý thuyết suông, dựa trên tư tưởng của con người, Thiên Chúa đã nói với Gióp: Trong những đau khổ, những sự việc khó hiểu và bí ẩn của một cuộc đời, hãy luôn xác tín vào Thiên Chúa, Ngài là chủ vũ trụ vạn vật, Ngài hiển trị trên tất cả, Ngài sẽ dẹp tan mọi sóng gió của cuộc đời như Lời Ngài ra lệnh với nỗi khổ của Gióp: “Vỗ sóng ba đào cũng phải dừng tại đây” (G 38,11).

Những gì Gióp trải qua, Thiên Chúa mời gọi ông hãy tin tưởng, phó thác và cậy trông vào Người! Thật thế, Gióp đã tín thác vào sự cứu giúp của Thiên Chúa như Thánh Vịnh đã phác họa: Quyền năng và tình thương của Chúa luôn làm cho con vững dạ an lòng (x. Tv 23,4). Niềm tin của ông, của Vịnh Gia cũng là niềm tin và hy vọng của mỗi người chúng ta khi vượt qua biển đời đầy sóng gió…

Suy niệm

Trong Kinh Thánh, gió và biển luôn tượng trưng cho náo loạn và sự dữ, luôn đối nghịch với Thiên Chúa.

“Chiều tối đến” thuyền vẫn lướt sóng để mong về đến bến. “Chiều tối đến”, không chỉ là màn đêm buông xuống, mà còn là “giờ của bóng tối”, giờ của thử thách (x. Mc 14,17; Ga 9,4-13.30) của cuồng phong nổi lên. Bão táp với những cơn sóng nhấp nhô như muốn nhấn chìm con thuyền, mọi người đều cố gắng chống chọi với cơn phong ba mà lòng đầy sợ hãi.

Thầy đâu rồi, Thầy đâu rồi,… “Đức Giêsu đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ” (Mc 4,38a). “Đức Kitô ngủ”, hình ảnh phác họa như là Thiên Chúa bỏ mặc con người trước phong ba bão tố cuộc đời, “Ngài ngủ” như là hình ảnh bất lực của Thiên Chúa giữa những tuyệt vọng, đau khổ của con người, hình ảnh bất lực của Thiên Chúa trước sự dữ.

“Trỗi dậy, Người đe gió và phán với biển rằng: “Hãy im đi, hãy lặng đi”. Tức thì gió ngừng biển lặng như tờ”. Ngài trỗi dậy từ giấc ngủ và Ngài chế ngự mọi sóng gió phong ba.

Vượt biển đời, Chúa Giêsu luôn ở bên cạnh tôi và bạn ngay cả khi bình an hay chúng ta vất vả lao đao giữa giông tố ngoài biển khơi. Trong bão tố phong ba đâu là thái độ của chúng ta:

Như các tông đồ, chúng ta đánh thức Ngài trỗi dậy để xin Ngài xin cứu giúp: Lạy Chúa, xin cứu chúng con kẻo chúng con chết mất.

Hay chính chúng ta lại hốt hoảng, tuyệt vọng trước sóng gió biển đời và buông xuôi tất cả để cho thuyền bị phong ba nhấn chìm vì không cố gắng tìm kiếm sự hiện diện của Ngài.

Nỗi sợ hãi làm chúng ta quên sự hiện diện và quyền năng của Ngài.

Giữa sóng gió bão tố cuộc đời, con luôn vững tin và hy vọng, chính vì tin vào Ngài làm nên sức mạnh khiến con có thể đứng vững trước tất cả mọi giông tố cuộc đời.

Ý lực sống:

“Khi gặp bước ngặt nghèo, họ kêu lên cùng Chúa,

Người đưa tay kéo họ ra khỏi cảnh gian truân” (Tv 107,13).

Suy Niệm 8: Chúa dẹp yên sóng gió

 (Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1 Sau một loạt bài nói về mầu nhiệm Nước Thiên Chúa, hôm nay thánh Marcô kể lại cho chúng ta phép lạ Chúa dẹp yên sóng gió trên biển cả. Chúa Giêsu ngồi trên thuyền giảng dạy dân chúng. Giảng xong, Người bảo các môn đệ chèo thuyền qua biển hồ Tibêriat mà sang miền Ghêrasa… Bỗng cơn bão lớn nổi lên, sóng tạt nước vào thuyền sắp chìm. Các môn đệ sợ hãi, còn Chúa thì nằm ngủ ở sau lái. Các ông vội vã đánh thức Người và nói: “Thầy ơi! Chúng ta chết mất”. Người chỗi dậy truyền khiến sóng gió yên lặng, rồi bảo các ông: “Sao anh em nhát đảm quá! Anh em chưa tin Thầy sao”? Còn các ông thì khiếp vía hỏi nhau: Người là ai mà sóng gió phải vâng phục Người?

  1. Biển hồ Tibêriat này cũng có tên gọi là Galilê. Biển có chiều dài 21 km và chỗ rộng nhất là 13 km. Thung lũng Jordan là một vết nứt sâu trên mặt đất và biển Tibêriat là một phần của vết nứt đó. Nó thấp hơn mặt biển 200 mét nên khí hậu ấm áp dễ chịu, nhưng cũng đem lại nhiều nguy hiểm. Bên phía tây có núi non, thung lũng, khe suối, nên khi gió lạnh từ phía tây thổi đến thì thung lũng, khe suối này  có tác dụng như những cái phễu lớn. Gió bị nén trong đó và thổi ào ào xuống hồ bất thình lình  với sức gió dữ dội đến nỗi mặt hồ phẳng lặng biến thành sóng gió gào thét. Vì thế, biển Tibêriat hay nổi lên những cơn sóng gió bão táp vào ban chiều hay ban đêm.
  2. Các môn đệ chưa hiểu rõ con người Đức Giêsu, các ông coi Ngài cũng chỉ là một Đấng tiên tri có quyền phép, làm được nhiều phép lạ để cho nhiều người tin theo, nên các ông mới thắc mắc với câu hỏi “Người này là ai”? Khi bão tố yên lặng, các ông chứng kiến một việc mà chỉ Thiên Chúa mới có thể hoàn thành. Điều đó có ý nghĩa là Đức Giêsu có quyền năng của Thiên Chúa. Thực ra, họ mới biết Đức Giêsu theo quan niệm của người đương thời. Đồng thời, nhờ phép lạ này cho thấy Đức Giêsu chăm sóc các môn đệ của Ngài.

Theo suy luận của J. Hervieux thì “khi đọc lại câu chuyện Chúa đi qua biển và dẹp yên sóng gió như vậy, Marcô cố gắng đáp ứng những nhu cầu hiện thực của Giáo hội thời Ngài. Những tín hữu Rôma đang phải điêu đứng vì những cuộc bách hại. Họ đang sống trong nỗi lo sợ, giống như các môn đệ trong con thuyền vượt biển xưa. Đối với họ, Đức Kitô hình như đang ngủ. Việc Ngài “vắng mặt” rõ ràng  trong những biến cố bi thảm họ đang sống, tạo cho họ thêm e dè sợ sệt!  Chúa phải làm gì để giải thoát họ khỏi cảnh chết chóc đang rình rập” (Fiches dominicales, năm B, tr 207).

  1. Đường lối sư phạm của Chúa rất huyền diệu, ta không hiểu nổi, nhưng dầu sao nó cũng nhắm giúp chúng ta tin tưởng rằng trong mọi nơi mọi lúc “Con thuyền Giáo hội lúc nào cũng bị sóng gió dập dồn” (theo Tertullianô), nhưng không sao, không bị chìm được vì luôn có Ngài ở đó, Ngài có vẻ ngủ  nhưng thực ra Ngài vẫn thức để theo dõi chúng ta chèo chống và chờ đợi chúng ta kêu cầu Ngài giúp đỡ. Theo nhận xét của chúng ta, dù có Đức Giêsu ở trong thuyền với các môn đệ thì bão tố vẫn xẩy ra. Vì thế, dù bão tố có chụp xuống chúng ta, điều đó không có nghĩa là Thiên Chúa đã bỏ rơi chúng ta. Nếu chúng ta có đức tin, chúng ta sẽ không nghi ngờ Ngài ở với chúng ta, và chúng ta sẽ hướng về Ngài để cầu xin và tin chắc rằng Ngài sẽ đến giúp đỡ.
  2. Một ngày kia, viên lái đò chở hoàng đế César qua sông, thấy sóng cả đã ngả tay chèo, được hoàng đế phán ra một câu bất hủ: “Anh không biết là anh đang chở hoàng đế César sao”?

Một vị hoàng đế bất lực trước cơn cuồng phong dữ dội, thế mà dám nói những lời như thế! Thì huống hồ ở đây, không phải là vị vua trần thế mà là vua cả trên trời Ngài làm sao cho sóng gió bão táp phải lặng yên sao! Thánh vịnh đã nói:

Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng

Sóng đang gầm, bỗng im tiếng.

Họ vui mừng vì trời yên bể lặng

Và Chúa dẫn đưa về bến mong chờ. (Tv 107,29-30)

  1. Mỗi người chúng ta không khác gì chiếc thuyền nan chông chênh giữa biển trần gian đầy sóng gió bão táp, khó khăn nối tiếp khó khăn. Nếu chúng ta chỉ dựa vào sức mình hay dựa vào một quyền năng nào đó thì chúng ta sẽ thất bại. Ai có thể cứu chúng ta thoát khỏi sóng gió ba đào khi chiếc thuyền của chúng ta sắp chìm? Chỉ còn có Thiên Chúa. Ngài như người Cha lái con tầu vững chắc trên biển cả, chúng ta là con chỉ biết tin tưởng vào quyền năng của Người Cha trên trời. Có Chúa trong đời, Ngài sẽ hướng dẫn cuộc đời của mỗi chúng ta. Lúc đó, những cô đơn như bị xóa nhòa, những khó khăn dường như nhỏ lại, những yếu đuối như được sức mạnh. Chúng ta không cầu xin cho cuộc đời mình như biển lặng, nhưng xin cho cõi lòng chúng ta được tĩnh lặng ngay giữa lúc biển động.
  2. Truyện: Cha tôi cầm lái con tầu.

Một thi sĩ người Anh, ông Byron, có viết một câu chuyện như sau:

Hôm ấy, một con tầu đang rẽ sóng lướt đi trên mặt biển mênh mông. Bỗng chốc, bầu trời kéo mây đen đặc. Rồi giông tố âm ầm nổi lên, sấm chớp kinh hoàng. Mưa càng lớn, gió càng mạnh. Các hành khách kêu la hỗn loạn. Duy có một em bé cứ ngồi chơi trên boong tầu như không có gì xẩy ra cả.

Lạ lùng, một thủy thủ dương to đôi mắt hỏi em:

– Em không sợ chết sao?

Cậu bé thản nhiên trả lời:

– Sao lại sợ? Chính ba em cầm lái con tầu này mà!

Suy Niệm 9: Phép lạ dẹp yên bão tố

(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

  1. Phân tích (Hạt giống…)

Các đoạn Tin mừng từ thứ Bảy tuần này đến thứ ba tuần sau lần lượt kể các phép lạ của Chúa Giêsu, mỗi phép lạ mặc khải một khía cạnh khác của mầu nhiệm Chúa Giêsu.

Phép lạ dẹp yên bão tố này chứng tỏ uy quyền của Chúa Giêsu trên sức mạnh của thiên nhiên:

– Những chi tiết mô tả sức mạnh của thiên nhiên: Một trận cuồng phong, sóng ập vào thuyền, thuyền đầy nước, các môn đệ hoảng sợ…

– Những chi tiết mô tả sức mạnh ưu việt của Chúa Giêsu: Ngài vẫn ngủ, Ngài hăm đe gió và truyền cho biển, sau chỉ một lời truyền của Ngài gió liền tắt và biển lặng như tờ, sau phép lạ các môn đệ hỏi nhau: “Người là ai mà cả đến gió lẫn biển cũng tuân lệnh?”

  1. Suy niệm (…nảy mầm)
  2. Vì Chúa là Chúa tể thiên nhiên nên khi nhìn thiên nhiên, chúng ta phải dâng lời ca tụng Chúa:

Chúc tụng Chúa đi mọi cơ binh thượng giới

Chúc tụng Chúa đi mặt trời với mặt trăng

Chúc tụng Chúa đi hỡi tinh tú muôn ngàn

Chúc tụng Chúa đi nào mưa sương tất cả

Chúc tụng Chúa đi mọi luồng gió cơn giông

Chúc tụng Chúa đi sức nóng với lửa hồng

Chúc tụng Chúa đi trời nồng và khí lạnh

Chúc tụng Chúa đi nào sương đọng mưa tuôn

Chúc tụng Chúa đi kìa trời đông tiết giá

Chúc tụng Chúa đi băng phủ tuyết rơi

Chúc tụng Chúa đi hỡi đêm ngày đắp đổi

Chúc tụng Chúa đi ánh sáng và bóng tối

Chúc tụng Chúa đi chớp giật với mây trôi. (Tv 62)

  1. Sức mạnh thiên nhiên cũng là những hiện tượng tự nhiên xảy đến trong cơ thể ta. Thí dụ: lúc ta khỏe khi ta bệnh, khi ta trẻ lúc ta già…

Có lúc sức khỏe suy sụp làm ta tưởng mình đang ở trên một chiếc thuyền gặp cuồng phong bão táp. Và khi đó hình như Chúa vẫn ngủ. Những thực sự Ngài không ngủ, Ngài vẫn là người lèo lái dẫn dắt thuyền đời của ta. Hãy phó thác cho Ngài dẫn dắt.

  1. Thi sĩ Lord Tennyson và một người bạn đang đi dạo trong vườn hoa và cùng nhau trao đổi về những chủ đề thời thượng của quần chúng. Là một Kitô hữu, người bạn muốn biết thái độ của thi sĩ dối với Đức Kitô như thế nào. Sau mấy giây thinh lặng người bạn hỏi: “Anh có khi nào nghĩ về Đức Kitô không?”

Tennyson đưa tay ngắt một bông hoa rực rỡ tỏa hương bên đường và nói: “Như mặt trời dối với đóa hoa thế nào, thì Đức Kitô dối với tôi cũng vậy.” (Góp nhặt)

  1. “Người này là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”

Khi cuộc chiến tranh kết thúc, tôi và các con di cư vào nam để tìm chống. Chúng tôi đã bám trụ trên mảnh đất Sài Gòn cho đến khi được tin tức chồng và biết được nơi ở hiện tại của anh ấy. Chúng tôi mừng lắm, vội vã tìm đến địa chỉ đó thì hỡi ơi, anh ấy đã phản bội đi theo người đàn khác bà giầu sang hơn. Cuộc đời tôi đến đây như đã hết. Tôi đau khổ và chỉ muốn chết thôi. Vì các con nên tôi đã tiếp tục sống và vượt qua tất cả những bất công, những cay đắng của cuộc đời. Trở về Hà nội ư? Cón mặt mũi nào! Ở lại Saigòn này ư? Tôi thẫn thờ bước đi cho đến khi gặp được một ngôi thánh đường. Tiếng chuông chiều như mời gọi. Thế là chúng tôi bước vào ngôi thánh đường. Chúng tôi bắt gặp một người đàn ông trần trụi trên Thập giá, trông còn tội nghiệp hơn chúng tôi nhiều. Như gặp được người đồng cảm với mình, chúng tôi liền quì xuống và thổ lộ tâm tình….Giờ thì tôi tìm được một nơi ở và công việc ổn định cho cuộc sống. Và Ngài đã trở thành người yêu của tôi, người cha của những đứa con tôi” (Trích lời tâm sự của một phụ nữ tân tòng)

Cuộc sống quanh ta có biết bao điều kỳ diệu. Và khám phá được quyền năng của Thiên Chúa, Đấng giúp chị ta khỏi những hụt hẵng của cuộc sống, hiểu được ý nghĩa của hai tiếng yêu thương và tìm lại cho mình một cuộc sống hứng khởi.

Luôn có Chúa trong tâm hồn

Có một người đàn bà đạo đức nọ trong cơn bệnh thập tử nhất sinh, chỉ có hy vọng duy nhất để cứu sống là phải chịu một cuộc giải phẫu. Người đàn bà chấp nhận cuộc giải phẫu với hy vọng còn tiếp tục sống để lo cho người con trai của bà.

Khi người ta bắt đầu giải phẫu, bà yêu cầu cho con bà được chứng kiến những giờ phút đau đớn của bà. Thời đó chưa có thuốc tê cho nên bệnh nhân thường phải trải qua những đau đớn khủng khiếp.

Mặc dù đau đớn, nhưng người đàn bà xem ra vẫn can đảm chịu đựng được. Thế nhưng vào tới những giây phút cuối, khi lưỡi dao mổ của các bác sĩ chạm đến gần trái tim thì người đàn bà rùng minh và miệng kêu lên: “Lạy Chúa!”

Chứng kiến cảnh đau đớn của người mẹ, đứa copn trai không cầm được cảm xúc đã thốt lên những lời xúc phạm đến Thiên Chúa. Ngay lúc đó người đàn bà nghiêm chỉnh bảo con: “Hỡi con, im đi, con làm mẹ đau đớn hơn lưỡi dao mổ của các bác sĩ nhiều. Con đã làm xỉ nhục Đấng ban sức mạnh và an ủi cho mẹ”

Nói xong, bà mở bàn tay ra cho mọi người xem một tượng chịu nạn nhỏ mà bà nắm chặt trong tay suốt từ lúc bắt đầu cuộc giải phẫu đến giờ. Đó là thuốc tê đã làm dịu những cơn đau của bà.

Sau mấy tháng quần quại đau đớn trên giường bệnh, người đàn bà đã an nghỉ trong Chúa. Trước khi lìa đời, bà đã trao ảnh chuộc tội đó lại cho người con trai và dặn cậu: “Con hãy giữ lấy ảnh này vì đó sẽ là niềm an ủi cho con”.

Suy Niệm 10: Thiên Chúa vẫn hiện diện cùng con thuyền Giáo Hội

(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

Các nhà tu đức thường ví đời sống của Giáo Hội cũng như đời sống của mỗi Kitô hữu chúng ta như một con thuyền ở giữa biển khơi. Mặc dầu ở giữa biển khơi, nhưng con thuyền Giáo Hội cũng như con thuyền của những người tin luôn có Chúa hiện diện.

  1. Đối với Giáo Hộichúng ta đã thấy quá rõ. Từ khi được Chúa thành lập đến nay, con thuyền Giáo Hội đã phải trải qua không biết bao nhiêu là những cơn sóng gió, bão táp phũ phàng nhưng Giáo Hội vẫn luôn được Chúa che chở giữ gìn. Xin được trích ra đây một ít sự kiện:

* Saladin là một vua Hồi Giáo. Có lần ông vua này đã gởi cho Đức Giáo Hoàng một lá thư trong đó vỏn vẹn có một dòng.

– Ta sẽ lấy Đền thờ Phêrô làm Đền thờ Mohamét!

Và Đức Giáo Hoàng cũng trả lời chỉ vỏn vẹn có một câu: “Thuyền Thánh Phêrô có thể có lúc lắc nhưng nhất định không chìm” (Fluctuat nec mergitur).

Câu nói thời danh này đã đi vào lịch sử.

* Suốt cuộc đời, Luther đã dùng mọi phương thế để lăng nhục và đánh đổ Hội Thánh, nhưng rồi những mong ước của ông ta không thành tựu. Trên giường bệnh, ông còn xin cục phấn và gắng gượng viết lên vách câu này: “Lúc sinh thời, ta là thứ dịch tễ cho mi thì khi chết, ta sẽ chôn vùi mi theo”. Thế nhưng, Luther đã chẳng mang theo được gì ngoài sự thất vọng của ông.

* Nối chí Luther có ông Voltaire ở thế kỷ XVIII. Thông minh, nhưng nham hiểm, ông đã viết bao nhiêu sách và đã diễn thuyết bao nhiêu bài để cổ động, hô hào tiêu diệt Hội Thánh Công giáo. Ông công khai tuyên bố rằng, chỉ 20 năm nữa thôi, Hội Thánh Công giáo sẽ đi đời. Thế nhưng, thật là trớ trêu: Đúng 20 năm sau lời tuyên bố đó, thì ông chết, còn Giáo Hội của Chúa vẫn kiên vững!

* Năm 1903, Jaurès (1859-1914), nhà hùng biện người Pháp thấy Hội Thánh phải đương đầu với nhiều khó khăn, cùng lúc có nhiều nước có đạo đã bỏ rơi, ông vui mừng reo lên: “Sóng đưa thuyền Phêrô vào bờ, bây giờ nước rút, thuyền mắc cạn, nằm trơ trên bãi cát”. Nhưng sự thực nước rút rồi thì nước lại lên, và thuyền Phêrô lại tiếp tục ra khơi!

* Cũng ở nước Pháp, trước Jaurès, có Napoléon, một nhân vật đã từng làm chấn động trời Âu, đã bắt và đem Đức Giáo Hoàng Piô VII (1742 -1823) về giam giữ tại lâu đài Fontainebleau bên Pháp. Lúc đó những kẻ nghịch với Giáo Hội đã vui sướng reo lên:

– Đây là Đức Giáo Hoàng cuối cùng.

Nhưng rồi Napoléon thất bại, bị cầm tù tại đảo St. Hèlene, và Đức Giáo Hoàng lại trở về Rôma. Chính Đức Giáo Hoàng Piô VII đã đứng lên và đón rước gia đình tan rã của Napoléon gồm một mẹ già, 04 anh chị em là Lucien, Jérôme, Louis và Pauline, kể cả ông cậu là Hồng y Fesch, sau khi ông bị đi đày.

Tóm lại, trước đây cũng như mãi mãi về sau, dù Giáo Hội có thể bị nhiều thử thách, nhưng Hội Thánh nhất định sẽ mãi mãi tồn tại. Henrich Heine (1797-1856) thi hào người Đức, đã ý thức rất rõ về điều đó cho nên ông viết: “Đã lâu rồi, tôi không còn công kích Hội Thánh Công giáo nữa. Tôi đã đọ sức trí khôn ngoan của loài người và nhận thấy rằng: Các đợt tấn công vào tảng đá khổng lồ và kiên cố đó không thể làm cho tảng đá sứt mẻ hoặc nhúc nhích được”.

  1. Đó là Giáo Hội còn cuộc đời của chúng ta thì sao?Câu chuyện sau đây sẽ là câu trả lời cho tất cả chúng ta.

Một chiếc thuyền đi trên biển và gặp giông bão. Sóng rất lớn làm con thuyền chao đảo. Mọi người lo lắng chạy tới chạy lui kêu cứu. Một hành khách đi ngang qua phòng, thấy cậu thiếu niên con của viên thuyền trưởng vẫn còn đang say ngủ, không biết gì. Người khách vội lay em dậy và cho biết tàu đang lâm nguy, sắp chìm, em phải lo tìm phao cấp cứu.

Em bé dụi mắt hỏi lại ngay: – Thế ai đang lái tàu vậy hả bác?

Người hành khách trả lời: – Cha của cháu.

Nghe thấy thế, em lại tiếp tục nằm xuống, ngủ tiếp một cách bình thản.

Người này lấy làm lạ hỏi: – Tại sao trong khi mọi người đang lo lắng, riêng cháu lại có thể bình an mà ngủ được chứ, cháu không sợ sao?

Em hãnh diện trả lời:

– Hễ cha cháu mà còn lái tàu, thì chắc chắn con tàu sẽ an toàn, cháu đã trải qua nhiều phen như thế này rồi, ba cháu dư sức để lo liệu, bác cứ yên tâm đi.

Vâng! Đời sống của Giáo Hội cũng như của mỗi Kitô hữu được ví như một cuộc ra khơi. Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện, ngay cả khi chúng ta tưởng như Ngài vắng mặt,, nhất là trong những lúc gặp những thử thách phong ba. Điều quan trọng trong những lúc như thế là phải tin tưởng nơi Chúa, đồng thời biết chạy đến cầu nguyện với Ngài để Ngài dẹp yên bão tố sóng gió và đưa con thuyền cuộc đời chúng ta hay con thuyền Giáo Hội về tới bến bờ bình an.

Lạy Chúa, xin thêm niềm tin cho chúng con. Amen.

 

print