Các Bài Suy Niệm Từ 02-06.01
02.01 trước lễ Hiển Linh (Ga 1,19-28)
03.01. trước lễ Hiển Linh (Ga 1,29-34)
04.01. trước lễ Hiển Linh (Ga 1,35-42)
02.01 trước lễ Hiển Linh (Ga 1,19-28)
LỜI CHÚA: Ga 1,19-28
Ðây là chứng của Gioan, khi những người Do thái từ Giêrusalem sai các vị tư tế và các Thầy Lêvi đến hỏi ông: “Ông là ai?” Ông liền tuyên xưng, ông không chối, ông tuyên xưng rằng: “Tôi không phải là Ðấng Kitô”. Họ liền hỏi: “Như vậy là thế nào? Ông có phải là Elia chăng?” Gioan trả lời: “Tôi không phải là Elia”. “Hay ông là một đấng tiên tri?” Gioan đáp: “Không phải”. Họ liền bảo: “Vậy ông là ai, để chúng tôi trả lời cho những người sai chúng tôi. Ông tự xưng là ai?” Gioan đáp: “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi, như tiên tri Isaia đã loan báo”. Và những người đã được sai đến đều thuộc nhóm biệt phái. Họ hỏi Gioan rằng: “Nếu ông không phải là Ðức Kitô, cũng không là Elia, hay một tiên tri, vậy tại sao ông làm phép rửa?” Gioan trả lời: “Tôi làm phép rửa trong nước; nhưng giữa các ngươi, có Ðấng mà các ngươi không biết. Ðấng ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính Ðấng đó đã có trước tôi, và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người”. Việc này xảy ra tại Betania, bên kia sông Giođan, nơi Gioan làm phép rửa.
Suy Niệm 1: Có một vị đang ở giữa các ông
Suy niệm:
Người ta chỉ lớn lên khi ra khỏi mình, ra khỏi những bận tâm về mình.
Người ta chỉ lớn hết mức khi không còn coi mình là trung tâm.
Trung tâm được đặt nơi Thiên Chúa và tha nhân.
Đức Giêsu đã từng khẳng định rằng
trong con cái loài người, không ai lớn hơn ông Gioan Tẩy Giả (x. Mt 11,11).
Gioan lớn vì ông là vị ngôn sứ giới thiệu trực tiếp Đấng Mêsia là Đức Giêsu,
một điều mà không một ngôn sứ nào trong Cựu Ước được diễm phúc làm.
Nhưng Gioan cũng lớn vì ông đã chấp nhận nhỏ đi:
“Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại” (Ga 3, 30).
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy cách Gioan làm mình nhỏ lại.
Khi Gioan đã nổi tiếng bởi lối sống khắc khổ và lời giảng mạnh mẽ,
thì người Do Thái, người Pharisêu, sai các tư tế và các thầy Lêvi
từ Giêrusalem đến với Gioan đang làm phép rửa ở bên kia sông Giođan.
Họ muốn biết ông Gioan là ai.
Gioan đã không nhận mình là Đấng Kitô, hay Êlia tái giáng (Ml 4,5),
hay vị Ngôn Sứ cao cả đã được ông Môsê loan báo (Tl 18, 15. 18),
mặc dù có người đã nghĩ ông là như vậy.
Những lời từ chối của Gioan càng lúc càng ngắn hơn và sắc hơn.
“Tôi không phải là Đức Kitô. – Tôi không phải là. – Không. ”
Gioan từ chối những chức danh mà nhiều người thèm muốn. ,
bởi lẽ ông biết rõ mình là ai.
Khi bị bắt buộc phải đưa ra một câu trả lời về con người của mình,
Gioan đã chọn câu của ngôn sứ Isaia (40, 3).
“Tôi là tiếng người hô trong hoang địa.
Hãy sửa cho thẳng con đường của Chúa. ”
Gioan nhận mình chỉ là người dọn đường cho một Đấng đến sau,
Đấng ấy là người ông không xứng đáng cởi quai dép.
Cởi quai dép của chủ là việc chỉ dành cho người nô lệ thấp kém nhất.
Gioan là người làm chứng tuyệt vời về ánh sáng (Ga 1, 7-8).
Ông là “tiếng” làm chứng cho “Lời” là Con Một Thiên Chúa.
Cám ơn Gioan vì nhờ ông mà ta gặp được Ánh Sáng thật.
Cám ơn Gioan vì tiếng của ông dẫn ta đến với Lời của Thiên Chúa.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con biết con,
xin cho con biết Chúa.
Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa,
quên đi chính bản thân,
yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.
Xin cho con biết tự hạ,
biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.
Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa.
Ước gì con biết nhận từ Chúa
tất cả những gì xảy đến cho con
và biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.
Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen. (Thánh Augustinô)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Con người luôn đi tìm sự sống. Nhưng không phải ai cũng biết đường. Sự sống chỉ có trong Thiên Chúa. Nên thánh Gio-an dạy ta hãy ở lại trong Chúa.: “Chính anh em sẽ ở lại trong Chúa Con và Chúa Cha. Và đây là điều mà chính đức Ki-tô đã hứa ban cho chúng ta: sự sống đời đời”. Ma quỉ là cha sự dối trá luôn cám dỗ con người rời xa Chúa. Như E-và. Thánh Gio-an nhấn mạnh điều này để tín hữu khỏi lầm lạc: “Tôi viết cho anh em những điều ấy để nói về những kẻ tìm cách làm cho anh em đi lạc đường”. Vì thế phải chết. Ta cần biết phân biệt. Chúa đã ban cho ta Thần Khí. Để ta nhận biết sự thật: “Nhưng vì dầu của Người dạy dỗ anh em mọi sự- mà dầu ấy dạy sự thật chứ không phải sự dối trá- thì theo như dầu ấy đã dạy anh em, anh em hãy ở lại trong Người”.
Thánh Gio-an Tẩy giả là người tràn đầy Thần Khí. Nên ngài có phân định rõ ràng. Ngài biết mình không là gì. Dù bấy giờ ngài đã nổi danh, được nhiều người mến mộ. Thậm chí người ta còn coi ngài là Đấng Cứu Thế. Nhưng thánh nhân kiên quyết phủ nhận. Ba lần nói “không” để phủ nhận mọi phù hoa ảo ảnh. Ngài nhận tự bản thân mình chẳng là gì. Có là gì là ở trong Thiên Chúa. Phủ nhận mình là khẳng định Thiên Chúa. Ra khỏi bản thân để ở trong Thiên Chúa. Nhờ ở trong Thiên Chúa mà có tất cả.
Vì ở trong Thiên Chúa nên thánh Gio-an luôn ở trong chương trình của Thiên Chúa. Ở trong chương trình của Thiên Chúa nên thánh Gio-an luôn giữ đúng vai trò của mình. Là tiếng cho Ngôi Lời: “Tôi chỉ là tiếng người hô trong hoang địa”. Là người đi mở đường cho Đấng Cứu Thế: “Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi”. Là phù rể cho chàng rể. Là hình bóng báo trước Thiên Chúa: “Tôi đây làm phép rửa trong nước”. Nhưng Người sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa. Là tiền hô đi trước đại vương: “Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người”.
Nhờ ở lại trong Thiên Chúa, Gio-an đã làm tròn nhiệm vụ. Nên ngài trở nên cao trọng nhất trong số nam nhân. Và đóng góp phần quan trọng cho công cuộc Cứu Thế thành công. Đem lại ân phúc lớn lao cho mọi người.
Suy Niệm 3: Lời Chứng Của Gioan
Con người thường mang tâm trạng thích được khen, người nhận lời khen cảm thấy tâm hồn thoải mái, vui tươi, phấn khởi. Ðó là một nghệ thuật để khuyến khích người khác hăng hái tiếp tục công việc họ đang làm ngày càng khá hơn. Trong gia đình, người chồng khen người vợ biết trang hoàng căn phòng lịch sự, sáng sủa, đơn sơ sẽ làm cho người vợ thương mến người chồng hơn, hoặc người chồng được vợ khen là biết chọn màu áo trang nhã, tiệm may vừa khít trông đẹp, phải chăng tình thương nồng ấm, đậm đà giữa vợ chồng trong gia đình càng tăng thêm hạnh phúc hơn.
Nếu một người nhân viên trong sở làm, người giám đốc mỉm cười khen một cách thành thực là anh đi làm rất đúng giờ có phải là một ích lợi lớn lao cho anh, vì được ông chủ để ý đến mình và biết đâu anh ta nhờ đó mà siêng năng, chăm chỉ hơn trong công việc của mình. Cho nên, khen là một điều nên thực hiện khi có thể đối với nhau. Tuy nhiên, điểm tác hại sâu xa nhất là khen hời, khen quá hóa nịnh là chuyện không nên. Người ta không có mà chúng ta đưa lên tận mây xanh làm họ mở mắt không ra, không nhìn thấy khả năng thực sự của mình và làm họ cứ ảo tưởng nghĩ rằng mình giỏi thật, đó thật là một chuyện nguy hiểm và là chuyện tâm lý bình thường của con người. Có một điểm nữa là từ đó con người ưa nói quá về mình. Chúng ta không có nhưng người ta nịnh gán cho mọi thứ tài giỏi hay ho, chúng ta cũng cứ nhận bừa lấy và trở thành như là của mình để rồi cứ nhận tiếp những lời khen quá đáng như thế.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Gioan Tẩy Giả đã cho chúng ta một bài học trung thực về chính cuộc đời của ông. Khi những người Do Thái từ Giêrusalem sai các vị tư tế và các thầy Lêvi đến hỏi ông là ai? Ngụ ý của họ là muốn biết Gioan có phải là Ðức Kitô, Ðấng phải đến chăng? Gioan xác nhận ngay: “Tôi không phải là Ðức Kitô”. Ðức Kitô thì chắc hẳn Gioan không dám tự nhận nhưng ông có thể nhận mình là Elia được, vì có ai biết được Elia đâu, người ta chỉ nghe truyền thuyết là Elia không chết, ông ngồi trên xe lửa mà về trời và sau này ông sẽ trở lại. Nhưng Gioan Tẩy Giả cũng không nhận mình là Elia và ngay cả người ta hỏi: “Ông có phải là một tiên tri không?” vì Gioan cũng làm nhiều điều lạ, ông kêu gọi mọi người ăn năn hối cải và người ta đến rất đông để nhận lãnh phép rửa do ông ban cho. Ông cũng có thể nhận mình là một tiên tri nào đó thì có ai biết đến, thế nhưng ông vẫn trả lời: “Tôi không phải là một tiên tri” mà ông tự nhận như sau: “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa, hãy sửa đường cho ngay thẳng để Chúa đi”, như lời tiên tri Isaia đã loan báo.
Một con người thấp hèn với địa vị khiêm tốn, nào ai trong chúng ta chấp nhận được tinh thần như Gioan Tẩy Giả. Và còn hơn thế nữa, Gioan đã nhìn nhận con người kém cỏi của mình so với Ðấng Cứu Thế mà ông đang rao giảng: “Ðấng sẽ đến sau tôi nhưng tôi không xứng đáng cởi dây giầy cho Ngài”. Một câu nói khác mà Chúa Giêsu đưa ra để cho chúng ta noi gương, Chúa Giêsu đã nói: Khi vào bàn tiệc hãy ngồi chỗ rốt hết để sau đó người ta mời mình lên nơi cao có phải vinh dự hơn không?” Còn nếu chúng ta ngồi vào chỗ nhất, chỗ nhì thì sau đó người ta sẽ lại đến nói với chúng ta: “Xin nhường chỗ cho vị này” có phải là chúng ta xấu hổ mà ngồi lui xuống dưới chăng.
Khi người khác nhờ chúng ta một việc gì trong khả năng mà chúng ta có thể làm được thì chúng ta sẽ giúp họ. Tuy nhiên, chúng ta vẫn khiêm tốn nói: “Nếu không có gì trở ngại, tôi sẽ làm giúp cho anh”, hay “theo khả năng của tôi, tôi hy vọng giúp được anh”. Nói thế không hẳn là chúng ta thiếu tự tin hay không sốt sắng sẵn sàng trong những công việc người khác nhờ chúng ta. Nhưng nói như vậy là chúng ta nói lên sự tế nhị, sự khiêm tốn trong khả năng Thiên Chúa ban cho mỗi người trong chúng ta.
Lạy Chúa, xin cho chúng con bắt chước thánh Gioan Tẩy Giả có một tinh thần khiêm nhu, ôn hòa để qua cuộc sống của chúng con, mọi người nhận ra được khuôn mặt nhân hậu, từ ái bao la của Chúa. Amen.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)
Suy Niệm 4: Ngài đang ở giữa anh em.
Vào một đêm trăng. Thích Ca ngồi giữa các đệ tử, ngài lấy ngón tay chỉ mặt trăng và nói: “Kia là mặt trăng, cứ ngó theo ngón tay ta thì thấy, nhưng đừng tưởng ngón tay ta là mặt trăng”.
Tin Mừng hôm nay cũng đề cập đến một cuộc đối thoại tương tự giữa Gioan Tẩy giả và những biệt phái đến từ Yêrusalem. Họ đặt ra ba hình ảnh về về Gioan. Trước hết, họ hỏi ông có phải là Đấng Kitô không? Thật thế, người Do Thái đã và vẫn còn mong đợi Đấng Kitô, nhưng không ai có ý niệm đích xác về Ngài: kẻ thì nghĩ đó là Đấng đem hòa bình đến cho nhân loại, người thì cho đó là Đấng đến thiết lập sự công chính, một số đông hy vọng đó là vị anh hùng sẽ lãnh đạo dân Do Thái đi chinh phục toàn thế giới, có người còn hình dung đó là một siêu nhân đến từ Thiên Chúa. Câu trả lời phủ định của Gioan ngầm hiểu rằng Đấng Kitô không phải là người như các ông nghĩ, nhưng nếu chịu khám phá, các ông sẽ nhận ra Ngài đang ở giữa các ông.
Họ lại hỏi ông có phải là Êlia mà theo tục truyền đã được đưa về trời cách kỳ diệu và bây giờ lại xuất hiện không? Người Do Thái vẫn tin rằng trước khi Đấng Kitô đến. Êlia phải trở lại để chuẩn bị cho thế giới đón nhận Ngài, nhất là sẽ phong vương cho Ngài để được gọi là Kitô. Nhưng Gioan đã chân thành nhận mình không phải là Êlia.
Cuối cùng họ hỏi ông có phải là tiên tri không? Hỏi như vậy là vì có lời trong sách Thứ luật: “Thiên Chúa sẽ cho nổi dậy một tiên tri như ta” (18,15). Người Do Thái có khi hiểu lầm và áp dụng vào Đấng Cứu thế (Cv 6,k4), có khi cho đó là một đại tiên tri, như Isaia, Yêrêmia (Mc 8,28), nhưng Gioan lại từ chối và cho mình chỉ là tiếng kêu trong sa mạc: “Hãy dọn đường Chúa”.
Gioan đã làm chứng cho Chúa trong sự khiêm tốn. Người Kitô hữu cũng phải làm chứng cho Chúa về nhiều phương diện: không những giơ ngón tay chỉ Chúa Giêsu cho người khác, mà còn phải là chứng nhân bằng chính cuộc sống nữa. Đó là sứ mạng cao cả mà chúng ta cần nhiều ơn Chúa để có thể chu toàn trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.
Suy Niệm 5: KHIÊM TỐN KHI LÀM CHỨNG NHÂN CHO CHÚA (Ga 1,19-28)
Có một linh mục đã cao niên nổi tiếng là đạo đức. Trong một dịp nọ, ngài bị một bà nói xấu, bôi nhọ đến danh thơm tiếng tốt của ngài. Bà ta vu khống những chuyện xấu xa mà trong cuộc đời của ngài chưa hề có! Khi chuyện đến tai ngài, ngài chỉ nhắm mắt lại và âm thầm trong lời cầu nguyện, đồng thời ngài vẫn tỏ vẻ vui tươi và hăng say trong mọi công việc.
Đến một hôm, chính người nói xấu đến để xin lỗi ngài, ngài chỉ tươi cười và nói: “Tôi không biết bà là người nói những điều đó cho tôi, nhưng kể từ khi tôi biết chuyện đến giờ, tôi không bao giờ quên cầu nguyện cho người đã nói những điều đó và tôi hy vọng người đó được bình an. Hôm nay, lời cầu nguyện của tôi được thành hiện thực, tôi rất vui mừng và tạ ơn Chúa, xin Chúa tiếp tục chúc lành cho bà”.
Sau cuộc gặp gỡ đó, người phụ nữ đã một thời buông ra những lời độc địa không thương tiếc đến người đã sinh thành và nuôi dưỡng mình trong đời sống đức tin, nay nhờ tấm lòng bao dung, đại lượng, nhân hậu của ngài, bà ta đã sám hối và thay đổi đời sống, siêng năng cầu nguyện và hy sinh hơn trước nhiều.
Hôm nay, Lời Chúa đề cập đến cuộc đối thoại giữa Gioan Tẩy Giả và một số Tư tế và thầy Lêvi, họ đặt ra cho Gioan những câu hỏi liên quan đến thân thế và sứ vụ của ông. Họ nói: ông có phải là Đấng Kitô, hay Êlia, hoặc có phải là tiên tri nào đó không? Cả ba câu hỏi đều bị Gioan phủ nhận. Ông chỉ nhận mình là người dọn đường cho Đức Chúa, khi Ngài đến, ông không đáng cởi giây dép cho Ngài. Như vậy, Gioan đã làm chứng cho Đấng Cứu Thế trong sự khiêm tốn, ngài không nghĩ đến thân thế và uy tín của mình để tìm cách nổi nang, nhưng khiêm tốn nhận mình là tôi tớ, đến để phục vụ cho con người và sứ vụ của Đấng Thiên Sai.
Trong cuộc sống hiện nay, nhiều người nghĩ rằng: truyền giáo là phải làm những chuyện lớn lao vĩ đại, hay đưa ra những kế hoạch kếch xù, vĩ mô, những khái niệm trìu tượng mang tính xuyên thời đại. . . Nhưng chúng ta quên mất một điều, những thứ đó nhiều khi làm cho con người ngày hôm nay: “Kính nhi viễn chi”. Nhưng sự khiêm tốn, hiền hậu, nhân từ sẽ làm lay động lòng người và có sức cải hóa, biến đổi con người hôm nay cách dễ dàng.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho hình ảnh, lời nói và cuộc đời của thánh Gioan Tẩy Giả được hiện tại hóa trong đời sống đạo của chúng con và trong công cuộc loan báo Chúa cho anh chị em xung quanh. Amen.
03.01. trước lễ Hiển Linh (Ga 1,29-34)
LỜI CHÚA: Ga 1,29-34
Ngày hôm sau, Gioan thấy Chúa Giêsu đến với mình thì nói: Ðây Chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xóa tội trần gian. Ðây chính là Ðấng mà tôi đã nói rằng: Có người đến sau tôi, nhưng cao trọng hơn tôi, vì Người vốn có trước tôi. Phần tôi, trước tôi không biết Người, nhưng tôi đã đến làm phép rửa bằng nước, để Người được tỏ mình ra trong Israel. Và Gioan đã làm chứng rằng: Tôi đã thấy Thánh Thần như con chim bồ câu từ trời xuống ngự trên Người. Và trước tôi không biết Người, nhưng Ðấng đã sai tôi làm phép rửa trong nước bảo tôi: Ngươi thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai, thì chính người đó là Ðấng làm phép rửa trong Thánh Thần. Tôi đã thấy và làm chứng rằng: Người là Con Thiên Chúa.
Suy Niệm 1: Tôi đã thấy
Suy niệm:
Biết một người là đi vào một mầu nhiệm.
Chúng ta quen nhiều người, nhưng biết thì ít hơn.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, hai lần Gioan khẳng định:
“Tôi đã không biết Người” (cc 31-33).
Cho đến khi làm phép rửa cho Ðức Giêsu,
Gioan thú nhận mình vẫn chưa biết Ngài là Mêsia.
Dù Ðức Giêsu là bà con họ hàng của ông (x. Lc 1,36),
dù hẳn ông đã có một số thông tin về Ngài.
và dù ông biết Ngài cao trọng hơn mình (x. Mt 3,14),
nhưng cái biết ấy, ông vẫn chưa coi là biết thật sự.
Ðược Thiên Chúa mách bảo, ông kiên nhẫn đợi chờ.
Làm phép rửa trong nước là cách giúp ông khám phá
Ðấng sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần.
Ai được Thần Khí ngự xuống và ở lại, Người ấy là Mêsia.
Gioan đã thấy Thần Khí ở lại trên Ðức Giêsu
lúc Ngài được ông ban phép rửa.
Bây giờ có thể nói ông đã biết Ðức Giêsu.
Ông đã biết sau khi ông đã thấy.
Từ cái biết nhờ thấy, do ơn Thiên Chúa ban,
Gioan đã trở nên người làm chứng trung tín.
Ông vui lòng giới thiệu Ðức Giêsu cho môn đệ mình.
Ông mừng khi thấy dân chúng tuốn đến với Ngài (Ga 3,26).
Ông vui khi trở nên lu mờ đi để Ngài được nổi bật (Ga 3,30).
Làm chứng cho Ðức Giêsu khiến ông trở nên tay trắng.
Gioan đã thấy, đã biết, đã làm chứng cho Ðức Giêsu.
Nếu biết là đi vào một mầu nhiệm,
thì mầu nhiệm ấy cứ vẫy gọi người ta tiến sâu hơn.
Càng tiến sâu, cái biết càng được thanh lọc.
Hành trình của Gioan cũng là của tôi: thấy, biết, làm chứng.
Biết một người là chuyện khó.
Biết Ðức Giêsu Kitô còn khó hơn nhiều.
Tôi chẳng thể nào múc cạn được con người độc đáo này,
nơi giao nhau giữa trời và đất, giữa Tạo Hóa và thụ tạo.
Ðể biết Ðức Giêsu, tôi cần thấy Ngài tỏ mình.
Không hẳn tôi sẽ thấy một thị kiến huy hoàng long trọng.
Không hẳn Ngài sẽ xuất hiện trong sức mạnh quyền năng.
Ngài vẫn tỏ mình xuyên qua những chuyện đời thường,
qua những con người đơn sơ tôi vẫn gặp.
Tôi cần tập thấy Ngài ẩn sau lớp vỏ xù xì của thực tế.
Cần thường xuyên làm mới lại cái biết về Ðức Kitô.
để có tương quan thâm trầm hơn, thân mật hơn với Ngài.
Nếu biết là thấy, là có kinh nghiệm riêng tư,
là hiệp thông, gặp gỡ, chia sẻ chính cuộc đời Ngài,
là để mình sống trong Ngài và Ngài sống trong mình,
thì biết là nỗ lực của cả một đời Kitô hữu.
Gioan đã làm chứng cho dân về Ðấng họ đang đợi.
Con người hôm nay đang đợi ai?
Ðức Giêsu do chúng ta trình bày và sống
có đáp ứng những khát vọng sâu thẳm của họ không?
Tôi cần thấy và biết Ngài hơn, để làm chứng tốt hơn.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con thấy Chúa thật lớn lao,
để đối với con, mọi sự khác trở thành bé nhỏ.
Xin cho con thấy Chúa thật bao la,
để cả mặt đất cũng chưa vừa cho con sống.
Xin cho con thấy Chúa thật thẳm sâu,
để con dễ đón nhận nỗi khổ đau sâu thẳm nhất.
Lạy Chúa Giêsu,
xin làm cho con thật mạnh mẽ,
để không nỗi thất vọng nào
còn chạm được tới con.
Xin làm cho con thật đầy ắp,
để ngay cả một ước muốn nhỏ
cũng không còn có chỗ trong con.
Xin làm cho con thật lặng lẽ,
để con chỉ còn loan báo Chúa mà thôi.
Xin Chúa ngự trong con thật sống động,
để không phải là con,
mà là chính Ngài đang sống. Amen
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Ðây Chiên Thiên Chúa
Vào một buổi tối năm 1741, người ta thấy người nhạc sĩ giả Hallmen lang thang trong một phố nghèo lênh đênh bên Anh Quốc. Người nhạc sĩ già như đang nuốt từng nỗi đắng cay mà triều đình đã dành cho ông. Từ hơn 40 năm qua, ông đã đem tất cả tài năng và sự hăng say của mình để phục vụ triều đình. Thế nhưng, giờ đây ông cảm thấy mình giống như một trái chanh đã vắt hết nước.
Bốn năm trước đó, ông đã bị chứng xuất huyết não làm cho ông bị bại hẳn một bên, khiến ông không còn đi đứng bình thường và sáng tác được. Nhưng dần dần nhờ ý chí sắt đá, ông đã thu hồi được khả năng đi lại và bắt đầu sáng tác lại. Nhưng giờ đây với cái tuổi 60 và với khí trời lạnh như cắt của nước Anh, ông cảm thấy mệt mỏi và chán nản. Tình cờ, khi đi qua một ngôi Thánh Ðường, ông bỗng nghe vọng lên trong tâm hồn ông chính tiếng kêu của Chúa Giêsu: Lạy Chúa con, lạy Chúa trời con. Sao Chúa bỏ con”.
Như có một sự thôi thúc lạ lùng, người nhạc sĩ quay về nhà, trong đám giấy vứt ngổn ngang trên bàn làm việc, ông đọc được câu Kinh Thánh như sau: “Người đã bị khinh bỉ và bị mọi người phế bỏ”. Nguồn cảm hứng tưởng đã cạn nay lại trải cuộn trên từng trang giấy, hết trang này đến trang khác, những nốt nhạc cứ thế mà tuôn trào. Sau hai mươi bốn ngày làm việc liên lỉ, nhạc sĩ Hallmen đã hoàn thành tác phẩm để đời tựa đề là: “Ðấng Cứu Thế”. Từ đó, cứ mỗi dạo Giáng Sinh và Phục Sinh người ta lại có dịp nghe được tác phẩm tuyệt trác để đời.
Anh chị em thân mến!
Người ta thường ví sự chào đời của một tác phẩm với sự cưu mang, cũng như một người mẹ mang nặng đẻ đau thì nhà nhạc sĩ cũng cưu mang ý tưởng để rồi với không biết bao nhiêu nhọc công và cố gắng, tác phẩm mới được chào đời. Hơn bất cứ ai trong trường hợp nào, tiếng khóc Ðấng Cứu Thế đã được nhạc sĩ Hallmen cưu mang để rồi sinh ra với muôn nghìn đớn đau của ông. Hơn ai hết, chính khi cảm nghiệm được thế nào là sự bỏ rơi để có thể diễn tả được tâm tình ấy, đúng hơn ông đã để cho chính sự bỏ rơi của Chúa Giêsu được nhập thể trong tâm hồn ông, nên một với nỗi lòng của ông.
Tin Mừng hôm nay có lẽ cũng mời gọi chúng ta hãy cưu mang những tâm tình ấy. Thánh Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu với chúng ta hai tước hiệu tóm gọn với tước hiệu Nhập Thể: “Chúa Giêsu vừa là Chiên Thiên Chúa gánh tội trần gian vừa là Con Thiên Chúa”. Chúa Giêsu, Người là Ðấng Cứu Thế bởi vì Ngài vừa là Con Người, vừa là Thiên Chúa. Ðó là mầu nhiệm trọng đại mà chúng ta được mời gọi để chiêm ngắm trong suốt Mùa Giáng Sinh này. Thiên Chúa đã trở thành một con người, Thiên Chúa đã sống trọn vẹn kiếp sống của con người, Thiên Chúa đã từng cảm nghiệm được những niềm vui nỗi khổ của con người và cuối cùng Ngài đã chết như một con người.
Ðó là tất cả những gì chúng ta có thể nói khi suy niệm về mầu nhiệm Nhập Thể. Mầu nhiệm Nhập Thể một cách nào đó cũng được hiểu qua cuộc sống của người tín hữu. Thánh Phaolô đã diễn tả tuyệt hảo chân lý đó khi Ngài nói: “Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”.
Ðể cho Chúa Giêsu sống trong chúng ta, có nghĩa là kết hiệp với Ngài qua các Bí Tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể. Ðể cho Ngài sống trong chúng ta có nghĩa là trong từng tâm hồn, từ những suy nghĩ và hành động, chúng ta luôn mặc lấy chính tâm tình của Ngài. Một cách cụ thể trong mỗi một phút giây, người tín hữu nên một với Ðức Kitô đến độ luôn tự hỏi: Nếu Ðức Kitô là tôi thì trong giây phút này đây Ngài sẽ làm gì, suy nghĩ gì và hành động như thế nào?
Nguyện cho Ðấng đã sinh ra cách đây 2,000 năm cũng sinh lại trong tâm hồn chúng ta để chúng ta cùng được lớn lên với Ngài và đạt được tầm mức viên mãn của Ngài. Amen.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)
Suy Niệm 3: Đây Chiên Thiên Chúa.
Emilio, một điêu khắc gia nổi tiếng của Hoa kỳ là người thích tạc vẽ ảnh tượng đạo đức và khuôn mặt được ông tạc tượng nhiều nhất là Chúa Giêsu. Trong vòng 10 năm, từ 1960 đến 1970, ông đã hoàn thành khoảng 700 tượng Chúa với những hình dạng khác nhau và ông cho biết: “Điều tôi mong ước nhất, đó là giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác”.
Giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác, đó cũng là sứ mệnh của Gioan Tẩy giả và của người môn đệ Chúa. Thật vậy, Gioan là người chuẩn bị đường nẻo cho Chúa đến. Ông đã chu toàn sứ mệnh này bằng đời sống đạo đức, khắc khổ, và đã rao giảng thanh tẩy thống hối để được tha thứ tội khiên. Ông còn thâu nhận môn đệ để rồi trao họ lại cho Chúa Giêsu. Tin Mừng hôm nay thuật lại khi Gioan thấy Chúa Giêsu đến với mình, ông đã giới thiệu Ngài với các môn đệ và dân chúng: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây đấng xóa tội trần gian”.
Trong Cựu Ước, con chiên đã trở thành hy lễ đền tội, hy lễ cứu thoát, nhất là từ khi Thiên Chúa qua miệng Môsê truyền cho người Do Thái: trong đêm Vượt Qua, mỗi gia đình phải giết một con chiên, lấy máu chiên bôi lên cửa nhà như dấu cứu thoát trước khi rời khỏi Ai cập.
Khi gọi Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa, với tư cách là tiên tri, Gioan muốn nói rằng Chúa Giêsu là hy lễ đã được Thiên Chúa chọn và chấp nhận, hy lễ đời đời mà những con chiên bị sát tế cho đến lúc đó chỉ là hình bóng. Những lời của Gioan đã được Giáo Hội lặp lại trong thánh lễ để giới thiệu với chúng ta hy lễ cứu độ trần gian. Chúa Giêsu là Con Chiên của kỷ nguyên mới, Ngài đã tự hiến mình làm lễ đền tội thế gian, chỉ một lần là đủ.
Chúa Cứu thế đã sinh ra cho chúng ta, Ngài đã đến để cứu thế gian, tẩy sạch tôi lỗi nhân loại. Ước gì chúng ta biết noi gương thánh Gioan Tẩy giả sống đời chứng nhân cho Chúa, tức là nói lên cho mgn bằng cách sống của mình: “Tôi đã thấy và tôi làm chứng rằng Ngài là Chiên của Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”.
Suy Niệm 4: TẤT CẢ ĐỂ VINH DANH CHÚA HƠN (Ga 1, 29-34)
Có một câu chuyện kể về bản di chúc của một người sắp quá cố, trong đó có đoạn viết: “Khi tôi chết, xin đừng ghi tên tuổi, chức nghiệp của tôi qua tấm bia nơi phần mộ, nhưng hãy ghi rằng: ‘Những gì tôi đang có, xin trả lại cho đời. Những gì thuộc về tôi nay không còn nữa. Những gì tôi cho đi, từ nay thuộc về tôi’”. Thật tuyệt vời khi không nghĩ gì cho mình, mà chỉ còn nghĩ đến người khác, ngay cả lúc chết!
Hôm nay, thánh Gioan Tẩy Giả sau khi đã trả lời cho các Tư tế và thầy Lêvi về thân thế, vai trò của mình, ông đã lợi dụng cơ hội này để giới thiệu cho họ biết về Đấng Kitô mà muôn dân đang mong đợi.
Thật vậy, Gioan Tẩy Giả đã không ham hố quyền lợi, uy tín, công danh, vì thế, khi ông thấy Đức Giêsu tiến về phía mình thì đã hô lên và chỉ cho mọi người biết về con người và sứ vụ của Đức Giêsu, ông nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây là Đấng xóa bỏ tội trần gian”.
Khi nói như thế, Gioan đã thực sự khiêm nhường khi nhận mình chỉ là người dọn đường cho Đấng Cứu Thế, nay Đấng ấy đến, ông không ngần ngại reo lên để mọi người biết và tin theo Ngài! Đồng thời ông cũng trao lại cho Đức Giêsu tất cả mọi sự từ uy tín, đến sứ vụ. . .
Chính sự khiêm tốn đó, Gioan đã để lại cho muôn thế hệ tấm gương sáng ngời về sự khiêm tốn.
Noi gương thánh Gioan, mỗi người chúng ta hãy sống chân thành, khiêm tốn, không quá coi trọng những lời khen ngợi, không nên tự mãn lúc thành công khi được người đời ca tụng, lại càng loại trừ thói kiêu ngạo, tính bề trên kẻ cả ra khỏi đời sống đạo của mình.
Mặt khác, hãy biết trả lại cho anh chị em chúng ta những nét đẹp mà họ đang có, tránh sự hiềm khích mà trù dập uy tín, danh dự của họ.
Nhưng có lẽ, điều quan trọng nhất chính là quy chiếu về Thiên Chúa mọi sự thành công của chúng ta và không ngừng tri ân, cảm tạ Ngài.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, sự khiêm nhường, đơn sơ của Chúa mời gọi chúng con thay đổi nếp sống cũ là nếp sống kiêu ngạo, khoe khoang, để thay vào đó là một nếp sống Tin Mừng mà chính thánh Gioan là người đã sống và loan báo.
Ước gì Lời Chúa hôm nay đem lại cho chúng con hạnh phúc khi mỗi người luôn tìm vinh danh Chúa trong mọi sự. Amen.
Ngọc Biển SSP
04.01. trước lễ Hiển Linh (Ga 1,35-42)
Thứ Sáu: Ga 1,35-42
LỜI CHÚA: Ga 1,35-42
Khi ấy, Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông nhìn theo Chúa Giêsu đang đi mà nói: Ðây là Chiên Thiên Chúa.
Hai môn đệ nghe ông nói liền đi theo Chúa Giêsu, Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại, thấy họ đi theo mình, thì nói với họ: “Các ngươi tìm gì?”
Họ thưa với Người: “Rabbi, nghĩa là thưa Thầy, Thầy ở đâu?”
Người đáp: “Hãy đến mà xem”.
Họ đã đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy, lúc đó độ chừng giờ thứ mười.
Anrê, em ông Simon Phêrô, một trong hai người đã nghe Gioan nói và đã đi theo Chúa Giêsu. Ông gặp Simon anh mình trước hết và nói với anh: “Chúng tôi đã gặp Ðấng Messia, nghĩa là Ðấng Kitô”. Và ông dẫn anh mình tới Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu nhìn Simon và nói: “Ngươi là Simon, con ông Gioan, ngươi sẽ được gọi là Kêpha, nghĩa là Ðá”.
Suy Niệm 1: Hãy đến mà xem
Suy niệm:
“Đây là Chiên Thiên Chúa” (c. 35).
Gioan Tẩy giả nói với hai anh môn đệ đang đứng với mình như thế
khi ông thấy Đức Giêsu tình cờ đi ngang qua.
Gioan đã gặp Ngài, đã thấy Thần Khí ngự xuống trên Ngài (Ga 1,32).
Ông biết Ngài là Đấng đến sau ông, nhưng lại có trước ông (1,15. 30).
Trong một cử chỉ khiêm hạ làm cho mình nhỏ lại,
ông đã giới thiệu cho các môn đệ mình một vị Thầy cao trọng hơn.
Ông để cho họ đi theo vị Thầy mới, còn ông đứng lại đó một mình.
“Các anh tìm gì thế?”: Đức Giêsu là người mở lời với hai bạn trẻ
đang đi theo mình, lúng túng vì chưa biết cách làm quen.
Câu hỏi này chờ một câu trả lời nói lên điều mình thao thức.
“Thưa Rabbi, Thầy đang ở lại đâu?”
Họ muốn biết nhà của Thầy, cũng là biết chính bản thân Thầy.
“Hãy đến và các anh sẽ thấy”.
Thầy Giêsu mời các bạn ấy đến thăm nhà mình.
Căn nhà ở Galilê xưa thường chỉ có một, hai phòng nhỏ.
Ngài mời họ đi vào thế giới riêng tư của mình.
Và họ đã mau mắn đáp lời, đã đến, và đã thấy nơi Ngài đang ở lại.
Lúc đó đã bốn giờ chiều rồi.
Thầy Giêsu hẳn đã giữ họ lại, vì sợ họ về trời tối đường xa.
Ngày hôm ấy họ đã ở lại với vị Thầy mới quen.
Qua cuộc chuyện trò suốt đường đi, nhất là khi về nhà,
họ đã có kinh nghiệm cá nhân về con người Thầy Giêsu,
kinh nghiệm đầu tiên, chưa thật sâu, nhưng không sao quên được.
Họ đã ở lại nhà Thầy, đã bị lôi cuốn bởi nhân cách của Thầy,
và thấy Thầy chính là Đấng mà họ đang tìm kiếm.
“Chúng tôi đã tìm thấy Đấng Mêsia” nghĩa là Đấng Kitô.
Anrê vui sướng reo lên như vậy khi ông gặp Simon trước tiên.
Anrê là một trong hai người đã đi theo và ở lại nhà Đức Giêsu.
Bây giờ ông coi Thầy Giêsu là Đấng Mêsia, chứ không chỉ là một rabbi,
nên ông nóng lòng muốn đưa Simon đến tiếp xúc với Ngài.
Thầy Giêsu đặt cho Simon một tên mới, tên này người Do Thái ít dùng.
Anh sẽ được gọi là Kêpha, nghĩa là Đá, là Thạch (c. 42).
Không thấy Simon nói gì hay dẫn ai đến gặp ngay Đức Giêsu.
Phải đợi sau này ta mới nghe ông đại diện anh em tuyên xưng:
Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa (6,69).
Chúng ta sắp mừng Lễ Hiển Linh, Lễ Chúa tỏ mình cho con người.
Chúa đã tỏ mình cho Gioan, Anrê và Simon qua gặp gỡ trực tiếp,
nhưng Chúa cũng tỏ mình cho họ qua người khác giới thiệu.
Chúng ta cần những người có kinh nghiệm sâu lắng với Đức Giêsu,
để giúp Ngài được hiển linh trong thế giới hôm nay.
Cầu nguyện:
Lạy Thầy Giêsu,
Thầy là vị Tôn Sư tuyệt vời.
Thầy gọi các môn đệ theo Thầy
đi trên những nẻo đường quanh co của xứ Pa-lét-tin.
Thầy không mở trường, không viết sách.
Thầy giúp môn đệ học bài học của Thầy,
bài học của trái tim, hiền lành và khiêm tốn.
Thầy dạy học trên đường.
Thầy tập cho môn đệ nhìn những biến cố mỗi ngày
với cái nhìn của Thiên Chúa.
Thầy giúp họ thấy giá trị nơi đồng xu nhỏ của bà góa nghèo,
thấy vẻ đẹp của hoa huệ, và sự vô tư của chim trời.
thấy nét cao quý của trẻ thơ, và phẩm giá của người phụ nữ.
Thầy tập cho họ trưởng thành,
tập đương đầu ban đêm một mình với sóng gió,
tập tin vào Thiên Chúa khi phải nuôi ăn đám đông,
tập can trường đối diện với cái chết nhục nhã và đau đớn.
Thầy kéo họ ra khỏi cái tôi háo danh
khi họ cãi nhau trên đường xem ai là người lớn nhất,
Thầy đòi họ bỏ mọi sự mà theo Thầy,
và đặt Thầy lên trên cả mạng sống và tình ruột thịt.
Lạy Thầy Giêsu,
Khoa sư phạm của Thầy là huấn luyện môn đệ bằng tình yêu.
Một tình yêu kiên nhẫn khi họ yếu đuối và cứng lòng.
Một tình yêu bênh vực và bảo vệ lúc họ bị tấn công.
Một tình yêu chia sẻ khi cho họ cộng tác trong sứ vụ.
Thầy đã diễn tả tình yêu đến cùng của Thầy
khi cúi xuống rửa chân cho họ.
Xin cho chúng con suốt đời học với Thầy,
nhận Thầy mãi mãi là vị Tôn Sư của chúng con.
Và cùng với Thầy, chúng con đi khắp thế gian,
để làm cho muôn dân thành môn đệ.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Chúng Tôi Ðã Gặp Ðấng Cứu Thế
Nhìn nhận khả năng của người khác đó là một điều mà ít ai trong chúng ta cũng muốn. Việt Nam chúng ta thường nói: “Mỗi người có một ông quan trong bụng”. Ai cũng muốn mình hơn kẻ khác, nổi hơn và trội hơn kẻ khác nhiều, ít ai chịu lép vế, chịu thua kẻ khác. Tự cao tự đại, ưa chỉ tay năm ngón, đó là thói thường của con người.
Kiêu ngạo là tội đứng đầu trong bảy mối tội đầu. Có lẽ người ta thấy tội kiêu ngạo là đầu dây mối nhợ sinh ra mọi tội lỗi khác. Tự đưa mình lên cao, không xem ai ra gì và theo như câu nói dân gian của người Việt Nam: “Coi trời bằng vung” hay “coi trời bằng ngọn rau má” là thế. Tâm trạng đó làm cho con người khó chấp nhận nhau về khả năng, về tài khiếu hơn thua.
Bài Tin Mừng hôm nay nói việc thánh Gioan Tẩy Giả cũng có những môn đệ tìm theo học hỏi và muốn tôn ông làm thầy, ít ra là phải hai hoặc ba người, vì sách ghi rằng: “Gioan đang đứng và nói chuyện với hai trong nhóm môn đệ của ông”, chứng tỏ là Gioan cũng có nhiều môn đệ khác nữa ngoài hai người đó.
Và tâm trạng chung khi một người có nhiều môn đệ đi theo thì không muốn một môn đệ nào của mình bỏ mình đi mà theo một người khác. Lý do đó có thể là mình kém tài giỏi, đạo đức hơn người kia chăng? Sự việc đó phải chăng đã làm mất sĩ diện cho mình? Vậy mà chúng ta thấy Gioan không nghĩ đến điều đó, ông vẫn chỉ cho các môn đệ của mình về Chúa Giêsu: “Ðây là Chiên Thiên Chúa”. Hai môn đệ của Gioan nghe nói liền đi theo Chúa Giêsu nhưng Gioan cũng không ngăn cản hai môn đệ mình, vì ông đã thấy sự thật nơi Chúa Giêsu là Con Thên Chúa, là Ðấng ông loan báo, Ðấng cứu chuộc tội lỗi nhân loại. Ông không mê hoặc người khác để cho họ nhắm mắt theo ông nhưng ông chỉ cho người khác thấy sự thật, thấy chân lý, thấy Ðấng Cứu Thế.
Mỗi người trong chúng ta đôi lúc cũng có thái độ ngược hẳn lại: theo Chúa, tuân giữ luật Chúa, đôi lúc chúng ta muốn người khác nhìn vào và khen chúng ta là ngưòi đàng hoàng, tốt lành, đạo đức và chúng ta hãnh diện vì điều đó. Như thế chúng ta đã che mất hình ảnh của Thiên Chúa trong chúng ta, người khác tìm đến chúng ta chứ không phải họ tìm đến với Thiên Chúa qua sự tốt lành đạo đức đó. Mọi lời khen thưởng, ca ngợi thay vì dành riêng cho Thiên Chúa, người ta lại dành hết cho chính mình. Bài học của Gioan Tẩy Giả hôm nay là một bài học thực tế cho mỗi người trong chúng ta.
Khi hai môn đệ Gioan đi theo Chúa Giêsu. Anrê sau khi đã biết Chúa Giêsu là Ðấng Kitô, là Ðấng Messia thì ông giới thiệu với anh mình là Simon Phêrô đến gặp Chúa Giêsu. Anrê nói với anh mình: “Chúng tôi đã gặp Ðấng Messia, nghĩa là Ðấng Kitô” và rồi ông đã dẫn Simon Phêrô đến với Chúa Giêsu.
Mỗi người trong chúng ta khi biết được Thiên Chúa, biết được ơn cứu rỗi của Ðức Kitô, chúng ta có can đảm mạnh dạn giới thiệu Ngài với mọi người chăng? Chúa không đòi hết thảy trong mọi người chúng ta phải từ bỏ cha mẹ, anh em và mọi sự để theo Ngài. Nhưng Ngài đòi mỗi người trong chúng ta tùy khả năng, tùy môi trường nơi chúng ta đang sống mà giới thiệu Chúa cho mọi người biết. Chúa không đòi hỏi chúng ta phải rao giảng, phải nói về Chúa thật hay như các nhà hùng biện để lôi cuốn người khác. Nhưng Ngài chỉ mong ước trong cách sống đạo của mỗi người chúng ta, như là lời mời gọi tha thiết mọi người tìm đến Thiên Chúa tình thương. Mỗi cử chỉ, mỗi lời nói, mỗi hành động của chúng ta đều thể hiện lời Chúa trong Phúc Âm như thánh Phaolô đã thúc nhắc chúng ta: “Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”.
Có khi nào chúng ta làm một việc gì mà chúng ta suy nghĩ và thành thực hỏi Chúa: Chúa muốn con làm gì bây giờ đây? Hay ý Chúa muốn con thực hiện như thế nào? Có lẽ chưa hoặc ít khi chúng ta hỏi Chúa Giêsu như vậy. Nếu chúng ta thực sự yêu Chúa, Chúa luôn hiện diện trong chúng ta và chúng ta luôn luôn muốn làm đẹp lòng Chúa, như một người muốn làm đẹp lòng người yêu của mình thì khi nào họ cũng tìm hiểu xem người yêu của họ thích gì rồi mua một món quà tặng đúng như ý người yêu mong ước.
Chúng ta yêu Chúa, chúng ta cũng phải tìm xem Chúa yêu thích nhất điều gì và chúng ta phải cố gắng lo làm đẹp lòng Ngài theo như điều Ngài mong muốn. Thật vậy, món quà đó không gì khác hơn là món quà của đức “Mến Chúa và Yêu Người”.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người trong chúng con biết sống khiêm nhượng như Gioan Tẩy Giả. Xin Chúa cho mỗi người trong chúng con biết giới thiệu Chúa cho mọi người qua lời ăn, tiếng nói và nhất là cách sống đạo của mỗi người chúng con trong cuộc sống hằng ngày.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)
Suy Niệm 3: Hãy đến mà xem.
Tin Mừng thứ tư không ghi lại một cuộc đối thoại nào giữa Chúa Giêsu và Gioan Tẩy giả. Gioan thấy Chúa Giêsu, ông chỉ cho thấy Ngài, ông nói về Ngài. Ông là chứng nhân, là người bạn, là tiếng kêu. Những gì ông phải nói, ông đã học được từ Đấng đã sai phái ông. Ông không phải là môn đệ Chúa Giêsu, nhưng là vị tiền hô. Sau ông, với Chúa Giêsu là một thời đại mới đang bắt đầu, sau phép rửa trong nước là phép rửa trong Thánh Thần. Gioan vừa là người chiêm ngưỡng sự mới mẻ ấy, vừa là người chỉ cho thấy sự mới mẻ ấy. Thấy Chúa Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên của Thiên Chúa”. Hai môn đệ đã nghe lời ông nói và đi theo Chúa Giêsu. Gioan phải có khả năng lột bỏ bản thân lắm mới có thể làm điều đó. Không những dọn đường cho Chúa, ông còn chuẩn bị để có những người nhận biết và đi theo Ngài. Chính khi đón nhận các môn đệ của Gioan mà Chúa Giêsu khởi sự sứ mạng của Ngài.
Cuộc đối thoại thật ngắn gọn, dứt khoát: “Các ngươi tìm gì? Thưa Thày, Thày ở đâu? Hãy đến mà xem. Họ đi với Ngài và đã ở lại với Ngài ngày hôm ấy”.
Như thế, bước đầu tiên của những người sẽ là Tông đồ và chứng nhân của Chúa Giêsu chính là biết Ngài, đi theo Ngài, ở lại với Ngài, chỉ sau đó chúng ta mới là chứng nhân của Ngài. Nếu chúng ta nghĩ rằng chính chúng ta sẽ đi cứu độ thế giới, thì chúng ta lạc đường rồi. Chỉ có một Đấng Cứu thế là Chúa Giêsu, chẳng ai là chứng nhân nếu trước đó không là môn đệ.
Ở đây, cuộc gặp gỡ đầu tiên mau chóng đưa tới việc làm chứng đầu tiên. Anrê đi gặp anh mình trước hết và nói: “chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia, tức là Đức Kitô”, và ông đưa anh mình đến với Chúa Giêsu.
Ba môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu đã được một người khác dẫn đến với Ngài như thế. Đó không là những điều vẫn xảy ra cho chúng ta sao? Có biết bao người trên đường chúng ta đi đã giúp chúng ta đi đã giúp chúng ta biết được Ngài.
Suy niệm bài Tin Mừng hôm nay, xin cho chúng ta cũng biết tìm Chúa, sống thân mật với Chúa và đem Chúa đến cho mọi người.
Suy Niệm 4: TRUYỀN GIÁO BẰNG ĐỜI SỐNG (Ga 1, 35 – 42)
Có một hôm, cha bề trên của một hội dòng muốn cho các đệ tử của mình sống đức khó nghèo! Tuy nhiên, thao thức của ngài, ngài không chỉ nói, mà hôm ấy, ngài đã dẫn một nhóm đi đến thăm một cha xứ tại một họ đạo ngay tại trung tâm thành phố.
Khi đến nơi, nhóm đệ tử không khỏi ngạc nhiên về lối sống giản dị, nghèo khó của cha xứ ấy! Phòng của ngài chỉ vỏn vẹn có khoảng 6 mét vuông, trong đó, sách vở và những vật dụng cần thiết khác đã chiếm hết chỗ ngủ của ngài. Trong phòng chỉ còn có một lối đi nhỏ bé chừng 40cm. Đêm về, ngài thường thu gọn sách vở lại và ngủ ngay trên lối đi.
Sau cuộc gặp gỡ đó, khi trở về, các đệ tử đã không dám đòi hỏi điều gì nữa, ngược lại, sẵn sàng vui vẻ sống khó nghèo, bởi vì những gì đang có thì đã hơn hẳn cha xứ của một họ đạo rồi!
Tin Mừng hôm nay thuật lại: sau khi nghe Gioan giới thiệu Đức Giêsu là “Chiên Thiên Chúa, là Đấng xóa bỏ tội trần gian”, ngay lập tức đã có hai môn đệ đến gặp Đức Giêsu, khi thấy họ, Ngài đã hỏi họ đi đâu và tìm ai? Họ đã thưa với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?”; Đức Giêsu đã mời họ đến và xem chỗ của Ngài, họ đã đi và ở lại ngày hôm ấy, sau đó một trong hai người là Anrê đã đi theo Đức Giêsu.
“Hãy đến mà xem”, ấy là lời mời gọi của Đức Giêsu dành cho hai môn đệ của ông Gioan. Khi nói: “Hãy đến mà xem”, Ngài muốn các ông phải có kinh nghiệm thực sự về Ngài, chứ không phải chỉ có nghe Gioan nói rồi đi theo. . . Vì khi đến và xem, các ông sẽ thấy tận mắt đời sống và việc làm của Đức Giêsu. Như thế, lựa chọn đi theo Chúa hay không là tùy thuộc vào quyết định của các ông sau khi đã cảm nghiệm.
“Hãy đến mà xem”, Đức Giêsu không muốn họ chỉ tin rằng “có” Ngài, mà khi đến và xem, Đức Giêsu muốn các ông tin “vào” Ngài. Bởi tin “vào” Đức Giêsu không có nghĩa thuần túy là chấp nhận một giáo điều nào đó, mà là chấp nhận chính Ngài cũng như sứ vụ của Ngài.
Nói khác đi, tin “vào” Đức Giêsu chính là có một kinh nghiệm sống động, gần gũi đến riêng tư về Ngài. Khi tin “vào” Ngài như thế, Đức Giêsu muốn các môn đệ đặt Ngài làm trung tâm cuộc đời và sứ vụ của họ. Nếu không có một kinh nghiệm thì trong khi thi hành sứ vụ, các ông sẽ tìm cách làm theo ý riêng và quy chiếu mọi sự về phía các ông thay về Chúa.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: “Hãy đến mà xem” để có kinh nghiệm thực sự về Thiên Chúa. Bởi nếu có đến tận nơi và xem cho kỹ thì mới có những lời chứng hùng hồn về Thiên Chúa trong cuộc đời và sứ vụ của mình được! Nếu không, lời chứng của chúng ta có khi chỉ dừng lại trên giấy tờ, những khái niệm trừu tượng, không ăn nhập gì với con người và cuộc sống hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho tinh thần của hai môn đệ Gioan khi xưa được trở nên lựa chọn của chính chúng con ngày hôm nay khi chúng con sẵn sàng “đến và xem” rồi ở lại với Chúa để được hạnh phúc đời đời. Amen.
Ngọc Biển SSP
05.01. trước lễ Hiển Linh
LỜI CHÚA: Ga 1,43-51
Khi ấy, Chúa Giêsu định đi Galilêa. Người gặp Philipphê và nói với ông: “Hãy theo Ta”.
Philipphê là người thành Bétsaiđa, quê quán của Anrê và Phêrô. Philipphê gặp Nathanaen và nói với ông: “Ðấng đã được Moisen ghi trong Luật và các tiên tri nói đến, chúng tôi đã gặp rồi: đó là Giêsu con ông Giuse, người thành Nazarét”.
Nathanaen đáp: “Bởi Nazarét nào có cái chi hay?”. Philipphê nói: “Hãy đến mà xem”.
Chúa Giêsu thấy Nathanaen đi tới mình, thì nói về ông: “Ðây thật là người Israel, nơi ông không có gì gian dối”. Nathanaen đáp: “Sao Ngài biết tôi?”
Chúa Giêsu trả lời rằng: “Trước khi Philipphê gọi ngươi, lúc ngươi còn ở dưới cây vả, thì Ta đã thấy ngươi”. Nathanaen thưa lại rằng: “Lạy Thầy, Thầy là Con Thiên Chúa, là Vua Israel”. Chúa Giêsu trả lời: “Vì Ta đã nói với ngươi rằng: ta đã thấy ngươi dưới gốc cây vả, nên ngươi tin, ngươi sẽ thấy việc cao trọng hơn thế nữa”.
Và Người nói với ông: “Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi, các ngươi sẽ thấy trời mở ra, và các Thiên Thần Chúa lên xuống trên Con Người”.
Suy Niệm 1: Ðến mà xem
(http://gpphanthiet. com)
“Từ Nazareth làm sao có cái gì hay được”. Nathanael lặp lại một thành kiến không tốt về Nazareth, về quê hương của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nhận định về ông như một người Israel đích thực: “Lòng dạ không có gì gian dối”. Nhân vô thập toàn, không ai là hoàn toàn tốt và cũng không ai là hoàn toàn xấu. Nathanael là con người tốt, nhưng cũng có khuyết điểm sống theo dư luận không có quan niệm tốt về Nazareth: “Từ Nazareth làm sao có cái gì hay được”.
Chứng tá đầy xác tín của Philipphê đã giúp đưa Nathanael ra khỏi sự mù quáng tinh thần: “Cứ đến mà xem, Ðấng mà sách Luật Môsê và các ngôn sứ đã nói tới, chúng tôi đã gặp, đó là ông Giêsu, con ông Giuse, người Nazareth”. Chỉ kinh nghiệm sống trực tiếp với Chúa Giêsu mới có thể giúp các tông đồ, những kẻ đầu tiên được gọi theo Chúa Giêsu, vượt qua được những giới hạn trần tục, che kín mầu nhiệm Con Thiên Chúa nhập thể.
Tác giả Phúc Âm theo thánh Gioan đã mô tả ơn gọi sống như Chúa Giêsu như là một cuộc gặp gỡ trực tiếp giữa Chúa và người được gọi. Và khi đã được gặp gỡ trực tiếp với Chúa Giêsu rồi, người được gọi mới vượt qua được những thành kiến tự nhiên đối với Chúa, và cảm thấy được thôi thúc chia sẻ kinh nghiệm gặp Chúa cho anh chị em chung quanh.
Kinh nghiệm sống của Philipphê được chia sẻ cho Nathanael: “Ðấng mà sách Luật Môsê và các ngôn sứ đã nói đến, chúng tôi đã gặp, đó là ông Giêsu, con ông Giuse, người Nazareth”.
Có thể nói đây là kiểu mẫu cho điều chúng ta gọi là việc tông đồ, là thông truyền và chia sẻ kinh nghiệm sống của chính bản thân về Chúa Giêsu cho anh chị em chung quanh, đây cũng là phương thế duy nhất giúp anh chị em vượt qua được những thành kiến không tốt về Thiên Chúa, để cùng chúng ta tôn thờ và yêu mến Ngài.
Chỉ nhờ đã gặp được Chúa trước rồi chúng ta mới có thể trở nên phương tiện để giúp anh chị em đến gặp Chúa: “Cứ đến mà xem”.
Ước chi đời sống chúng ta là một lời mời gọi liên lỉ anh chị em đến với Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Giới thiệu Chúa.
(http://dcvxuanloc. net)
«Đấng mà sách luật Môsê và các ngôn sứ nói tới, chúng tôi đã gặp» (Ga 1,45).
Để chuẩn bị cho sứ mạng loan báo Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu sống ẩn dật tại Nadaret suốt 30 năm. Khi bắt đầu sứ vụ cứu thế, Chúa Giêsu đã chọn gọi các môn đệ đầu tiên. Bài Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa chọn Philipphê đi theo Người và qua ông, Chúa gọi thêm Nathanaen nữa. Ơn gọi theo Chúa là một hành trình, các môn đệ được đến và ở lại với Ngài, với thời gian họ sẽ khám phá ra Chúa Giêsu là vị tôn sư tốt lành để dấn bước theo Ngài. Cũng như các môn đệ khác, Philipphê đã cảm nghiệm về Chúa, từ đó ông dấn bước theo Chúa và giới thiệu Chúa cho Nathanaen. Nathanaen cảm thấy bất ngờ, bởi «Từ Nadaret, làm sao có cái gì hay được?». Có thể lời giới thiệu của Philipphê chưa đủ sức mạnh lôi cuốn, nên ông phải nại đến ơn Chúa «Cứ đến mà xem». Khi gặp được Chúa cũng như được đối thoại với Chúa, Nathanaen đã thay đổi cách nhìn và tuyên xưng niềm tin của mình vào Chúa «chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là vua Israel». Từ cái nhìn đức tin này, Nathanaen đã dấn thân trọn vẹn và trở thành khí cụ để Chúa sử dụng cho sứ mạng của Ngài.
Bản chất của Giáo hội là truyền giáo. Là Kitô hữu chúng ta cũng mang trong mình sứ mạng này. Thế nhưng ta không thể giới thiệu Chúa cho người khác nếu trong ta không có Chúa, bởi «không ai có thể cho cái mà họ không có». Các môn đệ có Chúa khi đến và ở lại với Ngài. Qua việc cử hành Phụng vụ, các Bí tích và nhất là Thánh lễ chúng ta được đến và ở lại với Chúa. Thế nhưng ta đã ý thức và trân trọng những giây phút ấy chưa? Chúa Giêsu là nơi Thiên Chúa và con người gặp nhau. Vì thế, lời giới thiệu của ta phải quy hướng về Chúa chứ không phải chính mình. Lời giới thiệu sẽ có sức thuyết phục khi lời nói phải đi đôi với hành động. Đồng thời, ta không nên ỷ lại vào sức riêng của mình, nhưng phải nại đến ơn Chúa như Philipphê đã giới thiệu Nathanaen với Chúa năm xưa.
Hằng ngày, chúng ta gặp Chúa qua việc cử hành phụng vụ và nơi những người chung quanh. Xin cho mỗi người chúng ta nhận ra sự hiện diện đầy tình yêu thương này và được biến đổi thực sự. Từ đó, chúng ta biết giới thiệu Chúa cho tha nhân bằng chính cuộc sống của mình.
Suy Niệm 3: VƯỢT QUA THÀNH KIẾN ĐỂ TIN THEO CHÚA (Ga 1,43-51)
Có một bạn trẻ Công Giáo rủ một người bạn bên đạo Phật đi lễ của người Công Giáo. Bạn bên đạo Phật nói rằng: “Mình có theo đạo Công Giáo đâu mà đi lễ?”; bạn bên Công Giáo trả lời: “Thì đi với tớ một hôm cho vui!”, nể quá nên bạn trẻ bên đạo Phật đã đi lễ cùng.
Đến nơi, thánh lễ chuẩn bị bắt đầu, hai bạn đi vào nhà thờ cách cung kính, nghiêm trang. Trong phần giảng lễ hôm đó, vị linh mục đã quảng diễn về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa cách hùng hồn và đầy hấp dẫn qua dụ ngôn: “Người Cha nhân hậu”! Không ngờ, bài giảng ấy đã đánh động mạnh nơi lương tâm người bạn kia, bởi bạn đó thấy được một Đức Giêsu dễ thương, gần gũi và nhất là không hề chấp nhất tội lỗi của con người. Ngài luôn tìm mọi dịp thuận tiện để tha thứ. Sau đó, bạn đó đã tình nguyện xin đi học giáo lý và gia nhập đạo Công Giáo.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng thuật lại việc sau khi Đức Giêsu gọi ông Philiphê, ông đã giới thiệu ông Nathanaen đến với Ngài. Tuy nhiên, Nathanaen đã hồ nghi và thốt lên: “Từ Nadarét làm sao có cái gì hay được?”. Nhưng khi ông đến và gặp Đức Giêsu, Ngài đã nói về ông như sau: “Đây đích thực là một người Ítraen, lòng dạ không có gì gian dối”. Ngay sau đó, Ngài đã cho ông biết về đời sống của ông cách nhiệm mầu, vì thế, ông đã sẵn sàng từ bỏ mọi sự để đi theo Đức Giêsu.
Nathanaen đã thoát được thành kiến cá nhân và sẵn sàng đi theo Đức Giêsu, phải chăng một phần lớn là do bởi cách giới thiệu đầy khéo léo của Philiphê!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta noi gương Philiphê, hãy trở nên trung gian để giới thiệu Chúa cho anh chị em mình, sẵn sàng khiêm tốn để cho Chúa được lớn lên trong anh chị em chúng ta. Đồng thời cũng mời gọi chúng ta không nên có những thành kiến cá nhân để rồi nhìn nhận vấn đề cách lệch lạc và đánh đồng tất cả.
Tuy nhiên, sự thay đổi của Nathanaen khi ông đã gặp được Đức Giêsu và đi theo Ngài cũng là một lời mời gọi cho mỗi chúng ta, đó là: khi đã hiểu được vấn đề, thì những thành kiến trước đó sẽ không còn ngự trị trong con người và lối suy nghĩ của chúng ta trong hiện tại.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết giới thiệu Chúa cho anh chị em mình như Philiphê và sẵn sàng bỏ qua thành kiến để sống hài hòa với anh chị em mình như Nathanaen khi xưa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Các thiên thần của Thiên Chúa
Suy niệm:
Trong kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa,
Đấng dựng nên muôn vật hữu hình cùng vô hình.
Các thụ tạo vô hình ở đây chính là chư vị thiên thần.
Chư vị này sống gần bên Thiên Chúa để phục vụ Ngài và nhân loại.
Hơn nữa, các thiên thần là những người đã phục vụ Đức Giêsu Kitô,
từ khi Ngài chào đời đến khi Ngài quang lâm.
Sứ thần Gabrien được Thiên Chúa sai đến với trinh nữ Maria
để loan báo về sự hạ sinh của Đấng Cứu Độ (Lc 1, 26).
Ta nghe tiếng ngợi khen của muôn vàn thiên binh cùng với sứ thần
trong đêm Con Thiên Chúa giáng sinh trên trái đất (Lc 2, 13).
Ta cũng thấy các thiên thần hiện ra để phục vụ Đức Giêsu (Mt 4, 11),
sau khi Ngài chiến thắng những cám dỗ của quỷ dữ nơi hoang địa.
Khi Đức Giêsu bị xao xuyến trước cái chết sắp đến,
một thiên thần từ trời đã đến tăng sức cho Ngài (Lc 22, 43).
Ngài đã không tránh né cái chết
bằng cách xin Cha cấp cho mình mười hai đạo binh thiên thần (Mt 26, 53).
Tin Vui Phục sinh được loan báo bởi các thiên thần từ mộ trống (Lc 24, 6).
Vào ngày tận thế, các thiên thần của Đức Giêsu sẽ đi theo Ngài
khi Ngài trở lại trong vinh quang để phán xét cả thế giới (Mt 16, 27).
Đức Giêsu nay ngự bên hữu Thiên Chúa trên trời,
trổi vượt trên các thiên thần và được các thiên thần thờ lạy (Dt 1, 4. 6).
Câu cuối của bài Tin Mừng hôm nay
cũng nói đến tương quan giữa Đức Giêsu và các thiên thần.
Trong lần gặp gỡ với Nathanaen và các bạn của ông
Đức Giêsu đã long trọng hứa là họ sẽ thấy trời rộng mở,
và “các thiên thần lên lên xuống xuống trên Con Người” (c. 51).
Trong một giấc mộng, Giacóp đã chiêm bao thấy
“một chiếc thang dựng dưới đất, đầu thang chạm tới trời,
trên đó có các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống” (St 28, 12).
Đức Giêsu nhận mình chính là chiếc thang đó, là Đấng Trung Gian
nối đất với trời, nối Thiên Chúa với nhân loại.
Các thiên thần cũng phải qua Ngài mà đến phục vụ con người.
Các thiên thần cũng là những đấng trung gian được sai đi,
nhưng họ phải qua Đấng Trung Gian duy nhất và đích thực,
vì Đấng đó vừa trọn vẹn là người, vừa trọn vẹn là Thiên Chúa.
Lên lên xuống xuống trên thang Giêsu là việc của các thiên thần.
Lên với Thiên Chúa để dâng cho Ngài nỗi thống khổ của nhân loại.
Xuống với nhân loại để mang cho họ ân lộc và sứ điệp từ trời.
Thiên thần vừa gần với con người, vừa gần với Thiên Chúa,
vừa tựa trên đất, vừa đụng tới trời, nên kéo trời xuống đất và đưa đất lên trời.
Xin được quyền năng của Sứ thần Micae: Ai bằng Thiên Chúa.
Xin được sức mạnh của Sứ thần Gabrien: Thiên Chúa hùng dũng.
Xin được ơn lành mạnh của Sứ thần Raphaen: Thiên Chúa chữa lành.
Kitô hữu là người hạnh phúc vì biết mình được nâng đỡ chở che.
Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng con tôn thờ,
xin giúp con quên mình hoàn toàn
để ở lại trong Chúa.
lặng lẽ và an bình
như thể hồn con đã sống trong vĩnh cửu.
Lạy Đấng thường hằng bất biến,
mong sao không gì có thể khuấy động
sự bình an của con,
hay làm cho con ra khỏi Chúa;
nhưng ước chi mỗi phút lại đưa con
tiến xa hơn vào chiều sâu của mầu nhiệm Chúa !
Xin làm cho hồn con bình an thanh thản,
xin biến hồn con thành chốn trời cao,
thành nơi cư ngụ dấu yêu của Chúa,
nơi Chúa nghỉ ngơi.
Ước chi
con không bao giờ để Chúa ở đó một mình
nhưng con luôn có mặt, với trọn cả con người,
với thái độ nhạy bén trong đức tin,
cung kính tôn thờ
và phó mình cho Chúa sáng tạo.
(Lời nguyện của chân phước Elisabeth de Trinité)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 5: Ðến mà xem
(http://gpphanthiet. com)
- Nghe nói và đích thân gặp gỡ
Trình thuật Tin Mừng theo thánh Gioan, chúng ta vừa được nghe công bố, kể lại hành trình ơn gọi của ông Nathanael, mà truyền thống Giáo Hội gọi là tông đồ Barthôlômêô. Hành trình này diễn ra theo hai bước:
Bước thứ nhất, ông được người bạn là Philiphê nói cho nghe về Đức Giê-su.
Bước thứ hai, ông đích thân đến gặp Đức Giê-su.
Nghe nói về Đức Giêsu và sau đó đích thân gặp gỡ Ngài, đó chính là hai yếu tố làm nên kinh nghiệm thiêng liêng căn bản trong đời sống ơn gọi Ki-tô hữu và nhất là ơn gọi dâng hiến. Ở những bước đầu của hành trình đức tin và của ơn gọi, ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm “hai bước” này, dĩ nhiên với những đặc điểm riêng của từng người. Cách riêng trong ơn gọi thánh hiến, chúng ta đã thực hiện, hay đúng hơn đã được ban cho kinh nghiệm “hai bước” này ở Nhà Tập, một cách sâu đậm nhất và nền tảng nhất.
Tuy nhiên kinh nghiệm căn bản này phải được duy trì, được bắt đầu lại, được làm mới lạ hầu như hàng ngày, hay ít nhất là hàng năm trong tuần tĩnh tâm. Nếu chúng ta để ý, kinh nghiệm hai bước này xẩy ra ít nhất hai lần một ngày trong các tuần tĩnh tâm: đó là khi chúng ta nghe gợi ý cầu nguyện và sau đó đi cầu nguyện. Và kinh nghiệm gặp gỡ Đức Kitô trong cầu nguyện phải được kéo dài suốt ngày hoặc ít nhất là phải tác động lên ngày sống của chúng ta. Ít nhất hai lần, vì trong thực tế có thể nhiều hơn: những lời chia sẻ của anh em hay chị em, hay một cách kín đáo hơn, cách sống, cách phục vụ, cách cầu nguyện, cách hiện diện của anh hay chị em cũng có thể là những lời “giới thiệu Đức Kitô” rất đánh động đối với chúng ta.
- “Hãy đến và anh sẽ thấy”
Chúng ta hãy trở lại cuộc đối thoại giữa Philiphê và Nathanaen. Ông Philipphê đi tìm gặp ông Nathanaen và nói: “Đấng mà sách Luật Mô-sê và các ngôn sứ nói tới, chúng tôi đã gặp: đó là ông Giê-su, con ông Giu-se, người Na-da-rét. ». Nhưng Nathanaen không được đánh động và cũng chẳng bị thuyết phục , ông trả lời: “Từ Na-da-rét, làm sao có cái gì hay được ? »
Qua hai lời đối đáp rất ngắn này, chúng ta có rút ra những kết luận rất thực tế và cũng rất quan trọng:
Chứng nhân thì chắc chắn về điều mình nói ; đó là điều kiện thiết yếu của lời chứng.
Nhưng lời chứng của chứng nhân lại không đủ mạnh để thuyết phục nguời khác!
Đó là bởi vì kinh nghiệm của chứng nhân luôn luôn mạnh hơn và lớn hơn những dẫn chứng mà người này đưa ra. Chẳng hạn, lời chứng về việc ăn soài không thể nào diễn tả hết được chính kinh nghiệm ăn soài. Chính vì thế, Philipphê nói với Nathanaen: “Hãy đến và xem ». Lời chứng chỉ hiệu quả khi nó thúc đẩy người nghe, không phải cúi mình trước những dẫn chứng, nhưng là đến lượt mình, đích thân thực hiện một kinh nghiệm. Bởi vì, chân lí, nhất là chân lí nhân linh và thần linh (khác với chân lí vật lí) không có bằng chứng nào khác, ngoài chính mình.
Điều này làm chúng ta bình an hơn trong sứ mạng làm chứng cho Đức Kitô ngang qua những công việc nhỏ bé của chúng ta. Đích thân từng người được mời đến gặp gỡ Đức Kitô và đích thân Đức Kitô đến gặp gỡ từng người như Ngài đã làm đối với Nathanaen. Chúng ta chỉ có thể làm chứng và mời gọi, bằng chính cuộc đời dâng hiến của chúng ta cho Đức Kitô và cho sứ mạng của Ngài.
- “Thầy là Con Thiên Chúa»
Khi đi đến, gặp gỡ và đối thoại với Đức Giê-su, “con ông Giu-se », tông đồ Nathanaen đã tuyên xưng: “Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa» ! Điều gì đã dẫn tông đồ Nathanaen đến lời tuyên xưng đức tin?
- “Tôi đã thấy anh… »
Bởi vì, khi Nathanaen đến gặp Đức Giê-su, ông nhận ra rằng, Người đã «biết» và đã «thấy» anh trước khi anh đến gặp Người. Sau khi đã gặp gỡ và trao ban lòng tin, người phụ nữ Samari cũng có cùng một kinh nghiệm: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm» (Ga 4, 29). Tác giả Thánh Vịnh cũng nói về cùng một kinh nghiệm được Thiên Chúa thấu suốt:
Lạy CHÚA, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ,
biết cả khi con đứng con ngồi.
Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa,
đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét,
mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả.
Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời,
thì lạy CHÚA, Ngài đã am tường hết. (Tv 139, 1-4)
Người « thấu suốt » anh, và Người cũng thấu suốt từng Người chúng ta, bởi vì mỗi người chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh của Người, được tạo dựng bởi Người và cho Người: “Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành » (Ga 1, 3). Người thấu suốt chúng ta không phải để lên án, nhưng để bao bọc, chữa lành và tái sinh chúng ta cho sự sống của Thiên Chúa, như lời Thánh Vịnh diễn tả:
Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước,
bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con. (Tv 139, 5)
- « Đấng mà sách Luật Mô-sê và các ngôn sứ nói tới… »
Tuy nhiên, Nathanaen cũng như tất cả chúng ta còn được mời gọi hiểu biết ngôi vị Đức Giê-su ở tầm mức lịch sử cứu độ, và ngang qua lịch sử độ, tầm mức của lịch sử loài người và của toàn thể tạo vật, như lời của Đức Giê-su gợi ra cho Nathanaen: “Anh sẽ còn được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa. ” Bởi lẽ, Đấng mà sách Luật Mô-sê và các ngôn sứ nói tới.
Thật vậy, sau này, chính Đức Ki-tô phục sinh sẽ giải thích cho hai môn đệ Emmau về sự tương hợp giữa mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài và Sách Thánh, nghĩa là Luật và các ngôn sứ (x. Lc 24, 11-35). Sự tương hợp này không chỉ đem lại cho hai môn đệ một sự hiểu biết, nhưng, qua đó, còn tạo ra nơi tâm hồn các ông một kinh nghiệm, kinh nghiệm “con tim bừng cháy”. Như thế, việc hiểu Sách Thánh được hoàn tất nơi Đức Giêsu đã phải đi ngang qua chốn sâu thẳm của tâm hồn, và làm cho sinh động mọi gốc rễ của tâm hồn, để có thể làm cho “con tim bừng cháy”. Vậy thì tại sao người nghe, là hai môn đệ và hôm nay đến lượt chúng ta, lại thấy mình có liên quan, thấy mình được đánh động bởi sự kiện Đức Ki-tô hoàn tất Sách Thánh cổ xưa?
Gương vâng phục của Đức Giêsu đối với Cha của Ngài có lẽ chưa đủ, vì chúng ta vẫn còn ở bên ngoài. Chúng ta thấy mình có liên quan, bởi vì sự vâng phục của Đức Giêsu đối với Chúa Cha được bày tỏ ra cho Ngài ngang qua con người. Kế hoạch của Chúa Cha được ghi khắc ở đâu, nếu không phải là trên con người, trên toàn thể một dân tộc có trước Ngài? Hẳn là kế hoạch này được viết trong một cuốn sách; nhưng nếu các trang sách biết nói, đó là bởi vì chúng qui về những cuộc đời cụ thể, giống như cuộc đời cụ thể của chúng ta, và Thiên Chúa đã dùng những cuộc đời cụ thể này để ghi khắc trên đó kế hoạch Ngài thiết lập cho Đức Kitô của Ngài.
* * *
Và, vì lịch sử dân tộc này giống như lịch sử cuộc đời chúng ta, đầy thăng trầm, tội lỗi và bị chi phối nặng nề bởi sự dữ, con tim chúng ta có thể “bừng cháy” khi chúng ta nhận ra nơi con người và cuộc đời của mình hành trình Vượt Qua của Đức Ki-tô.
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
06.01. trước lễ Hiển Linh
LỜI CHÚA: Mc 1, 6b-11
Khi ấy Gioan rao giảng rằng: “Có Ðấng đến sau tôi, nhưng quyền lực hơn tôi, tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người. Phần tôi, tôi đã rửa anh em trong nước, nhưng Người, Người sẽ rửa anh em trong Thánh Thần.
Và đã xảy ra là trong những ngày đó, Chúa Giêsu từ Nazarét xứ Galilêa đến và chịu phép rửa bởi Gioan ở sông Giođan.
Khi vừa lên khỏi nước, Người liền thấy trời mở ra, thấy Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Và có tiếng từ trời: Con là con yêu quí của Cha, con đẹp lòng Cha mọi đàng.
Suy Niệm 1: Con Thiên Chúa
Ngày kia, có một ông vua đi săn trong rừng, bỗng dưng ông nghe thấy tiếng khóc của trẻ thơ. Ông đi tới và thầm nghĩ: – Chắc hẳn em nhỏ bất hạnh này bị cha mẹ bỏ rơi.
Ông ẵm đứa nhỏ lên, đem về hoàng cung, tắm rửa và mặc cho những bộ quần áo đẹp.
Khi em bé lớn lên, ông đã nói với em: – Kể từ nay, ta sẽ gọi ngươi là con của ta và ngươi sẽ gọi ta là ba của con.
Có lẽ chúng ta ngạc nhiên về lòng thương xót của ông vua, nhưng nếu suy nghĩ về bí tích Rửa tội, chúng ta còn phải ngạc nhiên hơn nữa.
Thực vậy, em nhỏ mặc dù được gọi nhà vua là cha, nhưng trong huyết quản em vẫn không có lấy được một giọt máu của hoàng tộc. Thực tế em vẫn chỉ là con của một kẻ nghèo túng.
Nhưng đối với chúng ta thì khác, nhờ dòng nước rửa tội, chúng ta được tẩy sạch khỏi mọi vết nhơ tội lỗi đã đành, mà hơn thế nữa chúng ta còn được mặc lấy tấm áo ơn sủng. Thiên Chúa thông ban cho chúng ta sự sống của Ngài, để khi chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha, thì đó không còn là một danh từ trống rỗng và vô nghĩa, nhưng là một sự thật: – Thiên Chúa là Cha chúng ta và chúng ta là con của Ngài.
Chúng ta hãy vui mừng và cảm tạ Thiên Chúa đã dành cho chúng ta một địa vị cao cả như thế, và nhất là hãy cố gắng sống cho xứng đáng với địa vị cao cả ấy.
Có một cậu bé hoàng tử chẳng may bị bọn cướp bắt cóc. Sau khi đã lấy hết những thứ quí giá trên mình, chúng trói câu vào một gốc cây. Nhưng may thay có một bác tiều phi đi ngang qua, đã cởi trói và đem cậu về nhà nuôi.
Nhiều năm sau, nhân một cuộc đi săn, vua cha đã dừng chân trước căn nhà nhỏ bé của bác tiều phu. Bác tiều vui rất lấy làm vinh dự được dẫn những đứa con của mình ra trình diện nhà vua. Khi đến cậu hoàng tử, bỗng nhà vua xúc động mạnh. Ông thầm nghỉ:
– Phải chăng đây chính là hoàng tử, con ta đã bị bắt cóc.
Ông hỏi bác tiều phu về gốc gác cậu bé và nói: – Nếu ở bên vai phải có dấu ấn ta đã ghi, thì đúng là hoàng tử.
Với bàn tay run run, ông vạch chiếc áo và mừng rỡ kêu lên: – Trời ơi, con ta.
Và cậu bé cũng kêu lên: – Ba ơi.
Làm sao chúng ta có thể hiểu được sự đổi thay trong lòng cậu bé. Từ trước đến giờ, cậu cứ tưởng mình là con bác tiều phu nghèo nàn với quần áo rách rưới và nhà cửa xiêu vẹo. Bỗng chốc cậu nhận ra mình là hoàng tử, được sinh ra tại hoàng cung và thuộc hoàng tộc.
Kể từ nay, dù ở bất cứ nơi nào và làm bất cứ việc gì, cậu đều ý thức mình là một hoàng tử, là con của đức vua, nhờ đó cậu luôn có được những lời nói và những cử chỉ xứng hợp.
Với chúng ta cũng vậy. Nhờ bí tích Rửa tội, chúng ta trở nên con Thiên Chúa, thế nhưng chúng ta có ý thức được địa vị cao cả ấy không?
Người nào ý thức về địa vị cao cả ấy sẽ không bảo: – Tôi đi nhà thờ.
Nhưng nói: – Tôi đi gặp gỡ và tâm sự với Chúa, bởi vì cầu nguyện chính là lúc người con thố lộ tâm tình với cha mình.
Đây là một việc làm kỳ diệu và tuyệt vời,bởi vì một con người tầm thường và xấu xí như chúng ta mà lại được tiếp xúc, trò chuyện với Thiên Chúa.
Một người luôn ý thức về địa vị cao cả ấy, thì dù có làm việc gì cũng không baso giờ quên Thiên Chúa là cha của mình. Người ấy sẽ luôn thầm nhủ: – Tôi sẽ làm vui lòng Cha tôi ở trên trời.
Khi chiêm ngắm những cảnh sắc hùng vĩ của thiên nhiên, người đó sẽ nghĩ ngay đến Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng nên tất cả.
Nhờ đời sống ơn sủng được chuyển thông qua bí tích Rửa tội, chúng ta trở nên con Thiên Chúa. Địa vị cao cả này đòi buộc chúng ta ở mọi nơi và trong mọi lúc phải có những lời nói và những việc làm thích hợp.
Bởi đó, phải sống làm sao cho xứng đáng với địa vị cao cả ấy, để rồi trong ngày sau hết, Thiên Chúa sẽ nói về chúng ta như ngày xưa Ngài đã nói về Đức Kitô bên bờ sông Giócđan:
– Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.
Suy Niệm 2: Người con yêu quý
Vào thế kỷ thứ IV, Ario truyền bá một lạc thuyết vô cùng nguy hại. Ario chủ trương rằng Đức Kitô không thực sự là Con Thiên Chúa. Hoàng đế Theôđôsiô đỡ đầu cho lạc thuyết này.
Cũng vào lúc ấy hoàng đế phong cho hoàng tử mới 16 tuổi của ông được cùng trị vì trên ngai vàng với ông. Trong những khách được mời đến dự buổi lễ phong vương, có Đức Giám mục Amphilôcô. Đức Giám mục chỉ nói vài lời chúc mừng rồi chuẩn bị ra về.
Hoàng đế giận dữ hỏi: Ngài không quan tâm đến hoàng tử sao? Ngài không biết rằng ta phong cho hoàng tử cùng trị vì với ta hay sao?
Vị Giám mục bình tĩnh trả lời: Tâu hoàng thượng, hoàng thượng phật ý trước sự giả bộ thờ ơ của tôi đối với hoàng tử, vì tôi đã tỏ ra không tôn kính hoàng tử như bệ hạ mong muốn. Vậy Thiên Chúa sẽ nghĩ sao về hoàng thượng, khi hoàng thượng giáng cấp Người Con ngang hàng và cùng hiện hữu với Ngài dưới danh hiệu Con Thiên Chúa.
Từ câu chuyện trên chúng ta thấy: Ngày nay có nhiều người, kể cả một số người mệnh danh là Kitô hữu, đã chối bỏ hoặc nghi ngờ thiên tính của Đức Kitô. Thiết tưởng những người ấy hãy lắng nghe lời Chúa Cha tuyên phong trong đoạn Tin Mừng sáng hôm nay: Con là Con yêu quý của Cha, Cha hài lòng về Con.
Việc Đức Kitô chịu phép Rửa bởi Gioan đánh dấu bước khởi đầu công cuộc cứu độ của Ngài. Công cuộc trọng đại này là hành động của cả Ba Ngôi, vì chúng ta thấy Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống, đồng thời Chúa Cha phán bảo. Biến cố này rất quan trọng, nên Giáo Hội muốn chúng ta mừng kính riêng trong Chúa nhật hôm nay, tựa như ngày đăng quang của Đức Giáo Hoàng hay ngày nhận chức của một tổng thống.
Đặc điểm chúng ta cần nhấn mạnh đó là Chúa Cha trên trời hài lòng về Người Con yêu quý của Ngài, là Đức Kitô. Có người cha nào lại không vui mừng khi người con của mình khởi sự một chức vụ quan trọng: người cha của một bác sĩ, người cha của một tân linh mục, người cha của chú rể trong ngày cưới. Niềm vui ấy càng lớn lao hơn khi người con ấy vâng phục và tôn kính cha mình.
Đức Kitô là một người con yêu mến và vâng phục Chúa Cha. Đồng thời Ngài luôn khoan dung và khiêm tốn như một kẻ tôi tớ, vì thế, Chúa Cha luôn hài lòng về Ngài. Còn chúng ta thì sao?
Với bí tích Rửa Tội đã lãnh nhận, chúng ta được mời gọi để nhận biết, yêu mến và phụng sự Cha trên trời, khi chúng ta cố gắng chu toàn thánh ý Ngài giữa lòng cuộc đời, khi chúng ta cố gắng sống mầu nhiệm của bí tích Rửa Tội, khi chúng ta cố gắng noi theo Người Con Chí Thánh trong sự khiêm tốn và vâng phục, thì chúng ta cũng làm hài lòng Cha trên trời, để rồi trong ngày cuối cùng, chúng ta cũng sẽ được Chúa Cha tuyên phong, như ngày xưa Ngài đã tuyên phong Đức Kitô bên bờ sông Giođan: Con là Con yêu quý của Cha, Cha hài lòng về Con.
Suy Niệm 3: Phép rửa
Có hai anh bạn đi mua đồ phế thải. Sau khi xem xét một hồi, anh thứ nhất nói: – Toàn là đồ “năm vố” không à.
Còn anh kia thì nhặt lên một cây thánh giá cũ kỹ đã han dỉ và nói: – Thật là khó mà tin được, tôi đã tìm thấy một món đồ quý. Cây thánh giá này được làm bằng chất bạc ngày xưa.
Anh ta mang cây thánh giá về nhà, lau chùi, rồi đưa cho đứa con mới đi học giáo lý về. Nó kính cẩn cầm trong tay, ngắm nghía một hồi rồi bật khóc. Thấy vậy anh liền hỏi: – Tại sao con khóc.
Nó trả lời: – Con không thể cầm lòng được khi nhìn vào Chúa Giêsu bị treo trên thập giá.
Và như thế, cả ba người đều nhìn vào cây thập giá, thế mà người thứ nhất chỉ thấy đó là đồ ve chai mủ bể, người thứ hai thì thấy đó là một đồ vật có giá trị. Còn người thứ ba thì nhận ra Chúa Giêsu trên đó. Cách nhìn cây thập giá trên cũng tương tự như cách chúng ta nhìn Phúc âm.
Tất cả chúng ta đều nghe cùng một đoạn Phúc âm, thế nhưng mỗi người lại hiểu và phản ứng một cách khác nhau. Có thể chúng ta chỉ nghe như nghe một câu chuyện bình thường, chẳng có chi đặc sắc. Có thể chúng ta đã lắng nghe và tiến thêm một bước nữa, đó là tìm hiểu ý nghĩa của câu chuyện. Có thể ngoài việc học hỏi ý nghĩa, chúng ta còn cố gắng áp dụng vào cuộc sống. Đó là ba bước tiếp nhận Phúc âm: lắng nghe, học hỏi và áp dụng.
Đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay về sự việc Chúa Giêsu chịu phép rửa:
Bước thứ nhất, chúng ta lắng nghe câu chuyện và biết rằng: sau khi Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu thì tầng trời mở ra, Chúa Thánh Thần ngự xuống và có tiếng từ trời phán ra. Và cũng chỉ có vậy mà thôi.
Bước thứ hai, chúng ta đi xa hơn một chút, bằng cách cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của những sự kiện trên. Chẳng hạn hình ảnh trời mở ra cho ta thấy Thiên Chúa đã nghe lời cầu nguyện của dân Ngài và Ngài đang đến để cứu vớt họ. Hình ảnh Chúa Thánh Thần ngự xuống gợi lên cho chúng ta về một kỷ nguyên mới, vũ trụ này được tái tạo để trở nên tốt đẹp hơn, như ngày xưa, khi tạo dựng trời đất, Thánh Thần Chúa cũng đã bay lượn trên nước. Còn hình ảnh thứ ba, có tiếng nói từ trời phán ra: – Đây là con Ta rất yêu dấu.
Những lời này cho thấy Đức Kitô là Con Thiên Chúa, là Adong mới của cuộc tạo dựng mới, như lời thánh Phaolô: – Người thứ nhất tức Adong được tạo dựng là con người sống. Nhưng Adong cuối cùng là Đức Kitô, lại là thần khí ban sự sống. Adong thứ nhất bởi đất mà ra. Còn Adong thứ hai thì từ trời mà đến. Như chúng ta đã mang ảnh hưởng của con người bởi đất, tức Adong thứ nhất thế nào thì chúng ta cũng sẽ mang hình tượng con người bởi trời, tức Adong thứ hai là Đức Kitô như vậy.
Ngoài việc lắng nghe, tìm hiểu ý nghĩa, chúng ta còn phải áp dụng ý nghĩa câu chuyện ấy vào cuộc sống chúng ta.
Chẳng hạn, chúng ta có thể nhớ lại rằng: Cuộc sáng tạo mới bắt đầu với phép rửa của Chúa Giêsu và đã trở thành một thực tại gắn bó với mỗi người chúng ta. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, thì một cách nào đó, bầu trời cũng mở ra, Chúa Thánh Thần ngự xuống trên chúng ta và chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa.
Và như thế chúng ta phải sống thế nào cho xứng đáng với tước vị cao cả ấy. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã khuyên chúng ta: – Anh em đã sống lại cùng Đức Kitô, vậy anh em hãy hướng tâm hồn vào những sự trên trời chứ đừng vào những sự vật của trần thế này.
Suy Niệm 4: KHIÊM NHƯỜNG ĐỂ ĐƯỢC CỨU ĐỘ (Mc 1, 7-11)
Xem lại Chúa Nhật Chúa Giêsu chịu phép rửa năm A, B
Trong cuộc sống, các cụ ta hay nói: người có tài mà không có đức thì sẽ làm hỏng chuyện.
Nói cách khác: người có tài mà không biết khiêm tốn thì sẽ sinh ra tự kiêu và tự mãn rồi phá hoại.
Với Thiên Chúa cũng vậy, Ngài quý chuộng cái đức hơn cái tài gấp bội lần! Vì thế, những người được Thiên Chúa mời gọi tham dự vào trong kế hoạch cứu độ của Ngài cách đặc biệt, thì yếu tố quan trọng không thể không có, đó là khiêm nhường.
Hôm nay, Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu cùng với đoàn người đông đảo đến để xin Gioan làm phép rửa cho mình. Khi chấp nhận đứng xếp hàng cùng với những người tội lỗi để đón nhận ơn sám hối từ Gioan là người cũng cần sự sám hối, Đức Giêsu đã khiêm nhường tuyệt đối.
Qua hành vi này, Chúa Giêsu đã tự hạ để chấp nhận mang trong mình tội lỗi của mọi người, mặc dù nơi Ngài không tỳ tích của sự tội. Ngài làm như thế để nâng con người lên làm con Chúa và nhất là cứu chuộc con người. Qua hành vi này, Đức Giêsu muốn dạy chúng ta bài học về sự khiêm nhường và liên đới.
Tuy nhiên, ngày nay, người ta ưa “chơi trội”, tức là luôn luôn muốn mình phải được trở thành người nổi tiếng, vì thế, họ tìm mọi cách và thường hay cậy nhờ những “ông bầu” lăng xê để mong sao tìm được những “fan” riêng cho mình.
Ngay trong nhà đạo chúng ta, vẫn có đây đó những chuyện tiêu cực xảy ra khi nhiều người mong muốn mình được người khác để ý, quan tâm và khen ngợi. Đạt được những điều đó, họ mới hứng thú để tham gia việc phục vụ thờ phượng Chúa.
Tuy nhiên, những thứ đó khó có thể đem lại cho chúng ta được bình an, hạnh phúc, bởi nó chỉ là những thứ háo danh hão huyền, trên đầu môi chóp lưỡi mà thôi.
Muốn có được hạnh phúc đích thực, chúng ta noi gương Đức Giêsu hôm nay, đó là sống khiêm nhường để liên đới với anh chị em đau khổ nhằm cứu chuộc họ. Mặt khác, khiêm nhường mới đi vào mối tương quan với Thiên Chúa và mới được cứu chuộc.
Mong sao, ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được mời gọi trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu để loan truyền về Ngài cách trung thực cho anh chị em mình.
Xin Chúa ban cho nhân đức khiêm nhường của Chúa thâm nhập vào tận con tim, khối óc của chúng ta, để trong đời sống, chúng ta sẽ làm toát lên vẻ đẹp của sự khiêm nhường qua lời nói, hành động và việc làm. Ước gì lời của Thiên Chúa Cha giới thiệu Đức Giêsu cho mọi người: “Đây là con ta yêu dấu, đẹp lòng ta mọi đàng” cũng sẽ là lời ân thưởng cho mỗi người chúng ta. Amen.
Ngọc Biển SSP