Cử hành Thánh Thể: Bài 8 & 9

print

Cử hành Thánh Thể: Bài 8 & 9

BÀI 8: HÀNH ĐỘNG THỐNG HỐI

BÀI 9: KINH LẠY CHÚA, XIN THƯƠNG XÓT CHÚNG CON (KYRIE)

BÀI 8: HÀNH ĐỘNG THỐNG HỐI

I/ VĂN KIỆN

Tiếp đến, linh mục mời mọi người thống hối. Sau giây lát thinh lặng, tất cả cộng đoàn đọc công thức thú tội chung và linh mục đọc lời xá giải để kết thúc, tuy nhiên lời xá giải này không có hiệu lực của bí tích Sám hối. Ngày Chúa nhật, nhất là trong mùa Phục sinh, thay vì hành động thống hối thường lệ, đôi khi có thể làm phép và rảy nước thánh để tưởng nhớ bí tích Thanh tẩy (Quy chế Tổng quát Sách Lễ Rôma [QCSL], số 51).

II/ LỊCH SỬ

Trong nhiều thế kỷ, Thánh lễ không có nghi thức thống hối nhưng bắt đầu ngay với các Bài đọc Sách Thánh. Sách Didache (thế kỷ I) dạy rằng chúng ta phải xưng thú tội lỗi của mình trước khi bẻ bánh, nhưng nghi thức này không bắt buộc và chỉ được thực hiện theo từng cá nhân.

Ban đầu, phần sám hối được thực hiện chỉ trong phòng thánh do lòng sốt sắng cá nhân của tư tế nhằm để chuẩn bị cho Thánh lễ sắp cử hành,[1] hay linh mục đọc những lời nguyện thống hối trên đường tiến tới bàn thờ.[2] Từ thế kỷ thứ IX, trong các Thánh lễ ở vùng Franc người ta thêm vào nhiều lời nguyện riêng tư và đọc thầm của vị chủ tế, dần dần những lời nguyện này trở thành kinh Cáo mình (Confiteor) vào thế kỷ XI.[3] Tập quán “cáo mình” được đưa vào Thánh lễ phát xuất từ việc xưng tội lẫn nhau hằng ngày của các đan sỹ trong khi đọc kinh Thần Vụ.[4] Do đó, vào cuối thời Trung cổ, nhiều đan viện cử hành sám hối chung trước khi hát ca nhập lễ.[5]

Tiếp sau, kinh Cáo mình được sử dụng khắp hoàn vũ theo nghi lễ Rôma như được chỉ định trong Sách lễ của Đức Piô V (1570), phần sám hối được thực hiện tại chân bàn thờ dưới dạng đối đáp giữa vị tư tế và những người phục vụ bàn thờ (đại diện cho dân chúng). Kinh Cáo mình của Sách lễ 1570 không thay đổi từ đó cho đến năm 1970. Bấy giờ, kinh này khá dài và phức tạp dầu Công đồng thứ III tại Ravenne (năm 1314) đã quyết định chỉ thêm vào những danh xưng sau: Đức Trinh nữ Maria, Tổng lãnh thiên thần Micael, thánh Gioan Tẩy giả cùng hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô.[6]

Sau Công đồng Vaticanô II, khi duyệt lại Nghi thức Thánh lễ, Hội Thánh đã đơn giản hóa danh sách các thánh. Nhờ thế, bản văn kinh Cáo mình hiện nay chỉ đề cập đến Thiên Chúa và Đức Mẹ, không còn nêu tên các thánh mà chỉ nói chung trong một cụm từ là “các thiên thần và các thánh”. Hội Thánh cũng quyết định nghi thức thống hối là một trong những nghi thức khởi đầu của Thánh lễ vì Chúa Giêsu kêu gọi hãy hòa giải trước khi đến dâng của lễ (Mt 5,23-23)  và Didache ghi nhận rằng vào Ngày của Chúa, các tín hữu quy tụ lại với nhau để cử hành nghi lễ Bẻ bánh “sau khi họ xưng thú tội lỗi” (Didache 14:1).[7]

III/ Ý NGHĨA

Hành động thống hối không chỉ là việc cá nhân hay cộng đồng thừa nhận tội lỗi và thiếu sót của mình, nhưng là sự thừa nhận trước một Thiên Chúa đầy lòng thương xót và hay tha thứ.[8] Vì thế, nghi thức thống hối phản ánh nhu cầu của con người cần đến ân sủng của Chúa qua người con của Ngài là Đức Kitô Giêsu trong Thánh lễ đang cử hành.[9]

Tuy vậy, hành động thống hối trong Thánh lễ, theo tác giả A.G Martimort và J. Gelineau, không phải là cuộc “duyệt xét lương tâm” và “liệt kê tội lỗi đã phạm”, nghi thức thống hối ở phần đầu lễ không nhất thiết có bản chất sám hối,[10] nhưng trên hết, là chúc tụng, tung hô lòng nhân hậu của Chúa, tuyên xưng và diễn tả đức tin của tín hữu vào mầu nhiệm tình thương vô biên của Chúa (confessio laudis) và nói lên lời cảm tạ tri ân trước ơn tha thứ của Ngài vì Ngài là Đấng nhân hậu, yêu thương và là nguồn mạch mọi sự hòa giải cũng như chữa lành.[11] Điều này giống như một hơi thở mà cuộc đời dao động của các tín hữu rất cần đến khi bắt đầu cử hành Thánh lễ.[12]   

Sách lễ Rôma hiện nay đưa ra 3 công thức sám hối và có thể dùng thay đổi lẫn nhau:

  1. Công Thức Thứ I (Confiteor Deo)= Kinh Thú Tội (Kinh Cáo Mình)

Lời đầu tiên của kinh Thú tội là: Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng, và cùng anh (chị) em…” phản ánh một cách tỏ tường chiều kích xã hội của tội lỗi: xúc phạm đến bất kỳ ai là làm tổn thương cả Nhiệm Thể Chúa Kitô.[13] Cộng đoàn tụ họp dâng Thánh lễ không những xin ơn tha thứ trong tư cách là những cá nhân, mà còn xin với tư cách cộng đoàn; mọi người tham dự liên đới với nhau, vì ai cũng cần ơn tha thứ (ĐHTT 63).

Câu Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng lời nói, việc làm và những điều thiếu sót…” cho thấy vấn đề của người Kitô hữu không chỉ là không làm điều xấu mà còn vì chưa làm điều tốt, không chỉ chưa tỏ lòng xót thương người khác mà còn chưa thực thi những gì Tin Mừng mời gọi là “trở nên muối đất và ánh sáng cho trần gian” (x. Mt 5,13-16).[14]   

Các tín hữu đấm ngực đang khi đọc “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng” như gợi lại những lời trong Tin Mừng Luca: Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13).[15]

Lời kinh Thú tội kết thúc bằng những lời: “Vì vậy tôi xin Ðức Bà Maria trọn đời đồng trinh, các thiên thần, các thánh và anh (chị) em, khẩn cầu cho tôi trước tòa Thiên Chúa, Chúa chúng ta”, nghĩa là, các thành viên của cộng đoàn ý thức mình đang đứng không chỉ trước nhan thánh Chúa và bên nhau mà còn trước cả triều thần thiên quốc cùng với Đức Mẹ Maria, các thiên thần và các thánh, như thể trong ngày phán xét cuối cùng, họ được mời tới dự tiệc cưới của Con Chiên.[16] Không những thế, các tín hữu tin cậy vào tình hiệp thông giữa họ với Đức Maria, các thánh – những vị đã nên hoàn thiện, đã “giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7,14) – với các thiên thần, luôn vui mừng ca hát khi người tội lỗi ăn năn hoán cải (Lc 15,7), và với những người anh chị em khác.[17] Họ là một chi thể trong Nhiệm Thể Chúa Kitô, nên khẩn xin các vị ấy chuyển cầu cho mình cũng như cho toàn thể vũ trụ này đang cần ơn tha thứ của Thiên Chúa, củng cố đức tin của họ vào Thiên Chúa, Đấng luôn sẵn lòng thứ tha mọi yếu đuối và tội lỗi của từng người trong Đức Kitô (Gc 5,16).[18]

  1. Công thức thứ II

Công thức này là một cuộc đối đáp giữa linh mục và giáo dân để giúp nhau ý thức về tình trạng xúc phạm đến Chúa, nên ngưỡng vọng tình thương cứu độ của Người là Đức Giêsu. Chúng gồm hai câu nài xin lòng thương xót của Chúa:

– Linh mục: Lạy Chúa, xin thương xót chúng con

Cộng đoàn: Vì chúng con đã xúc phạm đến Chúa.

– Linh mục: Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con

Cộng đoàn: Và ban ơn cứu rỗi cho chúng con

Câu thứ nhất trích từ sách Br 3,2: “Lạy Đức Chúa, xin lắng nghe, xin thương xót, vì chúng con đã phạm tội trước nhan Ngài”  (cũng như từ ý của Gr 14,20) và câu thứ hai lấy từ Thánh vịnh:“Lạy Chúa, xin tỏ cho chúng con thấy tình thương của Chúa, và ban ơn cứu độ cho chúng con” (Tv 85,8; 123,3). Ở đây, chúng ta không chỉ đơn giản xin Chúa dủ lòng thương mà còn xin ơn cứu độ đời đời của Ngài. Quả thật, Chúa Giêsu xuống trần gian không phải chỉ để tha thứ tội lỗi chúng ta nhưng còn “dẫn đưa chúng ta đến cuộc sống muôn đời” (NTTL 4). 

  1. Công Thức Thứ III

Thường được gọi là công thúc ca ngợi hay hành vi tung hô (QCSL 52) phẩm tính Đức Kitô. Nó được trình bày dưới hình thức Kinh Cầu hướng trọn về Chúa Kitô:

– Lạy Chúa Kitô, Chúa đã được sai đến để cứu chữa những tâm hồn sám hối.

Xin thương xót chúng con.

– Lạy Chúa Kitô, Chúa đã đến trần gian để kêu gọi những người tội lỗi.

Xin thương xót chúng con.

– Lạy Chúa, Chúa đang ngự bên hữu Chúa Cha để chuyển cầu cho chúng con.

Xin thương xót chúng con.

Công thức xá giải kết thúc hành vi thống hối: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội, và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời”  (NTTL 4) không phải là xá giải hối nhân lãnh nhận trong bí tích Hòa giải (x. QCSL 51) mà chỉ là xá giải nghi thức được biểu lộ trong hành động thống hối của Thánh lễ[19] cũng như diễn tả lòng ước mong Thiên Chúa sẽ đem đến ơn tha thứ và sự sống trường sinh cho tất cả những ai tham dự mầu nhiệm thánh với thái độ khiêm nhường,[20] cho nên không miễn trừ các hối nhân mắc tội nặng phải đi xưng tội trước khi rước lễ.[21]

IV/ ĐỀ NGHỊ MỤC VỤ

– Chủ tế có thể tùy nghi chọn lựa cử hành một trong 3 mẫu thống hối. Nếu dùng công thức thứ I và II thì phải đọc kinh Thương xót mà không được bỏ. Nếu dùng công thức III hoặc khi rảy nước thánh, sẽ bỏ kinh Thương xót (x. NTTL 7; QCSL 51; LNGM 134).

– Nếu cử hành các phần sau đây thì cũng bỏ nghi thức/hành động thống hối: (1) các cuộc rước kiệu trọng thể với nghi thức riêng như lễ Tro hay kiệu nến ngày 02/02 (Lễ Dâng Chúa trong đền thờ) và kiệu lá trong lễ Lá; (2) đọc Giờ kinh Phụng vụ phối hợp với Thánh lễ (x. Văn Kiện Trình Bày Và Quy Định Các Giờ Kinh Phụng Vụ, số 94); (3) có những nghi thức đặc biệt được cử hành trong Thánh lễ như: lễ Cung hiến thánh đường, Nghi thức khai tâm Kitô giáo cho người lớn, Nghi thức rửa tội trẻ em, lễ ban bí tích Hôn phối (x. Nghi Thức Cử Hành Hôn Nhân”, số 53; CHTL 149).

– Khi đọc kinh Cáo mình, chúng ta đấm ngực một/ba lần khi đọc câu “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng” (NTTL 4).

– Không làm dấu thánh giá khi chủ tế đọc câu: “Xin Thiên Chúa toàn năng thương xóttha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.”

V/ SUY NIỆM[22]

“Tôi thú nhận…Tôi đã phạm tội…”. Lạy Chúa Giêsu, khi tiến gần đến ngai ân sủng Thánh Thể, con muốn bóc trần mình để Chúa và mọi người nhìn thấy những lầm lỗi và hổ thẹn của con. Con không xứng đáng, nhưng Chúa vẫn mời con đến tham dự bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể. Con không xứng song Chúa đã không xua đuổi con ra khỏi cộng đồng dân thánh. Con đã nghe thấy Chúa nói: “Hãy đến với Ta và Ta sẽ nói cho trái tim mãi khắc khoải của các con biết; hãy đến với Ta và chia sẻ bữa ăn Ta đã dọn sẵn cho các con”.

Trước sự thú nhận tội lỗi công khai, vị tư tế đã đáp lại bằng những lời đầy hy vọng và ủi an: “Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời”. Ai lại không bị lay chuyển bởi lời nguyện thương xót và tha thứ như thế? Vâng, tội lỗi con đã làm hoen ố tấm áo thanh sạch ngày rửa tội. Tội lỗi đã kéo con lạc xa tình thương của Chúa. Thời gian trôi qua và con cứ luôn quay lại phía đường tăm tối của tội lỗi. Nhưng Chúa, vị mục tử đầy lòng thương xót, đã không mỏi mệt tìm kiếm con, những con chiên lạc.

Lạy Chúa, con nhận ra rằng nước thanh tẩy đã trở nên khô ráo nơi con. Con không thể lau sạch chính mình bằng bí tích của dòng nước thanh tẩy nữa. Thay vào đó, nay con chỉ còn những giọt nước mắt ăn năn hầu có thể giặt sạch tấm áo rửa tội của con đã ra dơ bẩn. Có dòng nước thanh tẩy, con đã được trở nên nghĩa tử Chúa Cha; lại có những giọt lệ thống hối để con được hòa giải tha thứ. Xin Chúa tẩy rửa con trong chính những giọt lệ của con.

Khi đấm ngực ăn năn nài xin sự tha thứ, con đã nghe thấy sự hối thúc phải tha thứ cho những anh chị em xúc phạm đến mình, nhờ đó con mới nhận được ơn tha thứ. Không thể chối cãi điều đó, nhưng lạy Chúa, tha thứ hay quên đi những xúc phạm như thể chưa từng bao giờ xảy ra phải chăng không thật đau xót cõi lòng và đôi khi là không thể? Con thú nhận rằng ký ức con vẫn hay giữ mãi những lầm lỗi của tha nhân. Con vẫn nuôi dưỡng những mối ác cảm và hận thù trong tim cũng như tìm cách nguyền rủa anh chị em nào xúc phạm đến mình. Bây giờ, con lại dám xin Chúa tha thứ cho mình sao?

Trên đồi Canvê, Chúa đã tha thứ một cách cao cả. Chúa đã tha thứ cho tất cả những ai xúc phạm và đóng đinh Chúa vào thập giá. Ước gì tia sáng, chỉ một tia sáng mẫu gương tha thứ của Chúa thôi chạm đến trái tim con để con có thể hiểu được bài học quên đi và tha thứ như Chúa.

Con thú nhận rằng con đã phạm tội. Con không xứng và sẽ chẳng bao giờ xứng đáng với Lời Chúa và bí tích. Nhưng Chúa vẫn triệu hồi con đến đây lắng nghe Sách Thánh để Chúa đốt nóng trái tim con bằng ngọn lửa Lời Chúa. Mặc dầu con bất xứng, Chúa vẫn mời gọi con đến thông chia của ăn thánh. Lạy Chúa, xin thương xót chúng con. Lạy Chúa Kitô, xin thương xót chúng con. Lạy Chúa, xin thương xót chúng con. Amen.

BÀI 9: KINH LẠY CHÚA, XIN THƯƠNG XÓT CHÚNG CON (KYRIE)

I/ VĂN KIỆN

Sau nghi thức sám hối, là luôn luôn đến kinh ‘Lạy Chúa, xin thương xót’, trừ khi đã dùng kinh này trong nghi thức sám hối. Vì là bài hát giáo dân dùng để tung hô Chúa và kêu cầu lòng thương xót của Người, bài này thường được mọi người hát, nghĩa là dân chúng, ca đoàn hay xướng ca viên, đều góp phần vào đó. Thường mỗi lời tung hô được hát hai lần, nhưng vì đặc tính của các ngôn ngữ khác nhau, vì nghệ thuật âm nhạc, hay vì hoàn cảnh, cũng có thể hát nhiều lần. Khi kinh ‘Lạy Chúa, xin thương xót’ được dùng như là phần của nghi thức thống hối, thì trước nó có những câu tung hô riêng (QCSL số 52).

II/ LỊCH SỬ

“Lạy Chúa! Xin thương xót” (Kyrie eleison) là lời tung hô được dịch từ tiếng Hy Lạp (trong Bản Bảy Mươi), và là kiểu nói Kinh Thánh đã được sử dụng nhiều lần cả trong Cựu Ước lẫn Tân Ước (Tv 4,2; 6,3; 9,14; 40, 5.11; Mt 9,27; 15,22; 17,14; 20, 30-31; Mc 10,47; Lc 16,24; 17,13 v.v.).

Đối với Kitô giáo, đây là một trong những lời kinh cổ xưa nhất xuất hiện trong phụng vụ hồi thế kỷ IV tại Syria và Palestin.[1] Ngay từ cuối thế kỷ IV, theo cuốn Nhật ký hành hương của Egeria (Aetheriae Peregrinatio), điệp khúc “Lạy Chúa! Xin thương xót” được lặp lại sau các triệt của một Thánh vịnh và đi kèm với cuộc rước.[2] Egeria mô tả rằng, tại Giêrusalem, khi thầy phó tế xướng các ý nguyện thì một số bé trai đứng và luôn luôn lặp lại điệp khúc “Kyrie eleison” (tiếng La tinh là “Domine! Misere!”) sau mỗi ý nguyện.[3]

Kinh Kyrie cũng được đọc sau phần Phụng vụ Lời Chúa (tức là sau bài Phúc Âm và dẫn giải của chủ tế), trước khi giải tán cho anh chị em dự tòng ra về (Messe des catéchumènes) vì họ không được tham dự Thánh lễ tín hữu (Messe des fidèles). Rôma đã du nhập lời tung hô này từ Đông phương có lẽ từ thế kỷ V, và cũng như tại Đông phương, Kyrie thường được đọc sau những bài Sách Thánh. Đức Gelasio (492-496) đã thay thế Lời nguyện Chung vào lúc kết thúc Phụng vụ Lời Chúa bằng việc đọc kinh cầu (litania) theo kiểu Đông phương với những lời đáp Hy Lạp của kinh này.[4]

Kyrie thường theo sau mỗi câu xướng mà vẫn còn được cất lên trong những cuộc rước phổ biến ở Constantinopoli.[5]

Tại Gaul, Công đồng Vaison (529) xác nhận rằng hát Kyrie eleison là một thói quen đạo đức của Đông phương du nhập vào Rôma và nhiều nơi ở Tây phương cũng như nước Ý, Công đồng đòi hỏi lặp đi lặp lại Kyrie trong “Kinh Sáng, các Thánh lễ và Kinh Chiều.”[6]

Đức Grêgôriô Cả (540-604) cho rằng chắc chắn phụng vụ Rôma chứa đựng một số hình thức của Kyrie vào thế kỷ V.[7] Trong triều đại của mình (590-604), ngài đã đặt Kyrie một cách chắc chắn ở vị trí bắt đầu Thánh lễ (trước Gloria) như thấy xuất hiện trong cuốn Ordo Romanus I (OR I:52) và được hát bởi các giáo sĩ hay ca đoàn (schola) cũng như bởi các tín hữu.[8] Sở dĩ Kyrie chiếm vị trí này vì nó liên hệ với các kinh cầu đọc khi đi rước, đáng chú ý là Kinh Cầu Các Thánh.[9] Mặt khác, do muốn rút ngắn Thánh lễ, cho nên vào một số ngày nào đó (ngày thường) sẽ bỏ đi Kinh Cầu Các Thánh và các ý nguyện cầu và chỉ giữ lại Kyrie được hát xen kẽ với Christe (vốn không được biết đến trong nghi lễ Gallican và Đông phương) rồi đi thẳng vào lời tổng nguyện (Collecta) luônCách đọc này trở nên thông dụng trong nhiều giờ phụng vụ.[10] Thậm chí kinh cầu rút vắn này trở thành một luật lệ. Số lần đọc Kyrie và Christe thay đổi tùy vùng. Tại Tây phương, có lẽ từ thế kỷ VIII, sau mỗi câu xướng, giáo dân phải thưa lại 7 lần/ 5 lần/ 3 lần/ hoặc là 9 lần Kyrie eleison, chia làm 3 đợt, mỗi đợt 3 lần.[11] Điều này đã đặt nền tảng cho sự diễn dịch Ba Ngôi của lời tung hô: 3 lần cho Ngôi Cha, 3 lần cho Ngôi Con và 3 lần cho Ngôi Thánh Thần.[12] 

Hiện nay, kinh Kyrie được thực hiện sau hành động thống hối (post actum paenitentialem). Đây là một bài thánh ca (cantus) thuộc về cộng đồng, không còn là bài hát của riêng ca đoàn như thời Trung cổ. Thường mỗi lời tung hô được hát hay đọc hai lần, nhưng vì đặc tính của các ngôn ngữ khác nhau, vì nghệ thuật âm nhạc, hay vì hoàn cảnh, cũng có thể lập lại nhiều lần. Khi kinh “Lạy Chúa, xin thương xót” được hát như là một thành phần của nghi thức thống hối, thì trước nó có những câu tung hô riêng (QCSL 52). 

III/ Ý NGHĨA

Căn cứ vào Nghi thức Thánh lễ, Kyrie rõ ràng không thuộc vào phần “Hành động thống hối.” Lịch sử của phụng vụ Rôma cho biết, kinh Kyrie sớm trở thành bài ca, một lời tung hô mừng vui hơn là cử chỉ kêu cầu ơn trợ giúp như thưở ban đầu. Tuy nhiên, khi dịch kinh này ra các thứ tiếng có vẻ như người ta lại hướng chiều về ý nghĩa cầu xin van lơn như trước kia.[13] Paul Turner kết luận rằng, trước kia và hiển nhiên là hiện nay, kinh Kyrie là “những lời tung hô Chúa Kitô và kêu cầu lòng thương xót của Người” (QCSL 52) hơn là kêu gọi sự tha thứ.[14]

Trong các sách Tin Mừng, nhiều lời khấn van Kyrie eleison của những người khốn khổ rõ ràng hướng đến Đức Giêsu để xin Ngài chữa bệnh cho họ hay cho con cái họ: người mù ở Giêricô kêu lên rằng: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavit, xin dủ lòng thương tôi!” (Mc 10,48; Xc. Mt 9,27; 20,30-31); những người phong cùi kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!” (Lc 17,13); người phụ nữ Canaan (Mt 15,22) và người cha của đứa bé bị kinh phong (Mt 17,14) cũng kêu xin như vậy. Từ khi ấn định phải đọc 9 lần và chia thành 3 đợt nhằm tưởng nhớ chín ca đoàn ở trên trời,[15] người ta cho rằng Kyrie là lời tung hô dâng lên Ba Ngôi Thiên Chúa.[16]

Tuy nhiên, có những điểm dựa sau đây để chúng ta kết luận: Kinh “Lạy Chúa, Xin thương xót chúng con” là lời tung hô dâng lên Chúa Kitô, quy về Chúa Kitô chứ không phải quy về Chúa Ba Ngôi: [i] Thứ  nhất, bản Kinh Thánh Bảy Mươi đã dùng từ Kyrios để dịch từ YHWH, tức ám chỉ thánh danh Thiên Chúa trong Cựu Ước nhưng khi dùng từ Kyrios trong các thư Rm 10,9/1Cr 12,3/Pl 2,11, thánh Phaolô lại áp dụng cho Chúa Kitô và thần tính của ngài; [ii] Thứ hai, cả 3 câu trong mẫu thống hối III đều hướng tới Chúa Kitô, luôn khấn nguyện Chúa Kitô chứ không phải khẩn cầu Chúa Ba Ngôi và được gọi là công thức ca ngợi phẩm tính Chúa Kitô.[17]

IV/ ĐỀ NGHỊ MỤC VỤ

– Đừng bao giờ hát kinh Thương xót, rồi chỉ đọc kinh Vinh danh.[18]

– Vì kinh “Lạy Chúa, xin thương xót” vừa để kêu cầu lòng thương xót của Chúa vừa là bài tung hô Chúa phục sinh mà sự hiện diện của Ngài làm chúng ta phải nhảy mừng lên trước lòng từ bi hải hà từ nơi Ngài chảy tràn trên chúng ta (x. QCSL 52),[19] bởi vậy, chúng ta không nên hát Kyrie theo kiểu ảm đạm thê lương, ngay cả trong Thánh lễ an táng (x. PV 81). Điều này có nghĩa là, trong Thánh lễ an táng, không nhất nhất cứ phải hát Bộ lễ mồ/cầu hồn, chúng ta vẫn có thể chọn hát những Bộ lễ khác nữa mà đã được giáo quyền chuẩn nhận, chẳng hạn như bộ lễ Sêraphim hoặc Ca Lên Đi 2...[20]