Kinh Thánh 100 Tuần: Sách Giosuê & Thủ Lãnh& Ruth (Tuần 21-22-23)

print

Tuần 21: SÁCH GIÔSUA

I. TỔNG QUÁT

Giôsua là trợ tá của Môsê và được chọn để kế tục sự nghiệp của Môsê lãnh đạo Dân Chúa. Trong tiếng Do thái, Giôsua có nghĩa là “Thiên Chúa cứu” hay “Xin Thiên Chúa cứu.”

Vào khoảng năm 1200 trước Công nguyên, Giôsua đưa dân Israel tiến vào Đất Hứa. Sau khi vượt qua sông Giođan và chiếm đất Canaan, họ lấy Gilgal làm bản doanh và Sichem làm nơi thờ phượng. Giôsua đã triệu tập tất cả các chi tộc Israel tại Sichem và lập thoả thuận với họ.

Sách Giôsua như ta có ngày nay là sự thu thập những lời truyền khẩu về Miền Đất Hứa, và chỉ được hoàn thành sau thời lưu đày Babylon. Sách gồm ba phần chính:

–  Chinh phục đất Canaan (chương 1 – 12)

–  Phân chia đất (chương 13-21)

–  Các chi tộc bên kia sông Giođan trở về và diễn từ cuối cùng của Giôsua (chương 22 – 24)

Mục đích chính của sách là chứng minh sự trung tín của Thiên Chúa với lời Người đã hứa, đặc biệt là lời hứa sẽ ban cho dân miền đất chảy sữa và mật. Niềm tin vào sự trung tín của Thiên Chúa là điểm tựa cho Dân, để dù sống giữa cảnh lưu đày, họ vẫn một niềm tin tưởng vào sự hiện diện và chăm sóc của Thiên Chúa, Đấng sẽ giải thoát họ và đưa họ về miền Đất Hứa.

Đồng thời, Dân Chúa phải ý thức rằng họ sẽ có thể sống mãi trong miền đất Thiên Chúa đã ban cho họ, với điều kiện là họ trung thành tuân giữ tất cả những điều Môsê đã truyền qua Lề Luật: “Anh em phải thật cương quyết tuân giữ và thực hành tất cả những gì ghi trong Sách Luật Môsê, không đi trệch bên phải bên trái” (23,6).

II. QUA SÔNG GIOĐAN (3,1 – 5,12)

  1. Chuẩn bị (3,1-13)

Trình thuật này mô tả việc qua sông Giođan như một cuộc rước trọng thể trong phụng vụ. Mục đích là để cho thấy chính Thiên Chúa hằng sống là Chúa của toàn thể cõi đất đã đưa dân Israel vào Đất Hứa. Như thế, dân đang sống cảnh lưu đày vững tin vào quyền năng Chúa là Đấng sẽ giải thoát họ khỏi cảnh lưu đày.

  1. Qua sông (3,14-17)

Trong cuộc rước trọng thể, dân đi theo các tư tế khiêng Hòm Bia Giao Ước, và khi nước dừng lại thì dân đi qua sông. Rõ ràng trình thuật này muốn nhắc lại việc dân Israel qua Biển Đỏ; như thế làm nổi bật ý nghĩa: việc vào Đất Hứa chính là sự kết thúc hành động Thiên Chúa giải thoát Dân, đã được bắt đầu từ cuộc xuất hành. Xuất Hành trở thành điểm quy chiếu qua đó thấy được hành động giải thoát của Chúa.

  1. Bia kỷ niệm (4,1-9)

Các tấm bia là sự nhắc nhớ cụ thể rằng “nước sông Giođan đã bị chặn lại trước Hòm Bia Giao Ước của Đức Chúa khi Hòm Bia qua sông Giođan.” Như thế, chính Chúa chứ không ai khác, đã đưa dân qua sông.

  1. Hoàn tất việc qua sông (4,10-18)

Việc qua sông Giođan vừa khép lại một giai đoạn trong lịch sử Israel vừa mở ra một giai đoạn mới. Trình thuật này mô tả bước chuyển tiếp giữa hai giai đoạn. Trình thuật này được đóng khung bằng hai sự kiện mang tính phụng vụ: Giôsua dựng mười hai tảng đá lấy từ sông Giođan (4,20-24) và việc cử hành lễ Vượt Qua (5, 10-12).

III.      DIỄN TỪ CUỐI CÙNG CỦA GIOSUA (chương 23 & 24)

Biết rằng ngày ra đi của mình đã gần kề, Giôsua triệu tập dân lại để nhắc nhở họ về mọi điều đã xảy ra, đồng thời khuyến khích họ trung thành với giao ước. Ông cũng khuyến cáo dân về những hậu quả khôn lường nếu họ bất trung và chống lại Chúa.

IV. Liên quan đến Tân Ước

  1. Giôsua, hình bóng của Chúa Kitô, Đấng đưa dân vào Nước Thiên Chúa.
  2. Việc qua sông Giođan là hình bóng của bí tích Thánh Tẩy.
  3. Đất Hứa là hình bóng của Vương quốc Thiên Chúa.

 

Tuần 22: SÁCH THỦ LÃNH

 

I. THẦN HỌC VỀ LỊCH SỬ

  1. Biên soạn sách Thủ Lãnh

Các Thủ Lãnh là những người đã đóng vai trò hướng dẫn Dân Chúa trong suốt 150 năm sau ông Giôsua (1200-1050 trước Công nguyên). Tuy nhiên sách Thủ Lãnh đã chỉ được biên soạn trong thời Lưu đày, nghĩa là sau đó khoảng 400-500 năm. Như thế, sách được biên soạn không chỉ nhằm mục đích ghi lại những sự kiện lịch sử nhưng còn trình bày một cái nhìn thần học về lịch sử.

  1. Thần học về lịch sử

Thần học căn bản về lịch sử mà tác giả muốn trình bày là: tội lỗi dẫn đến hình phạt, còn sám hối dẫn đến ơn tha thứ và giải thoát (đọc 6,1-10; 10,6-16). Ý nghĩa thần học này rất quan trọng đối với dân lưu đày: họ đã mất quê hương vì tội lỗi của họ, nhưng nếu họ biết ăn năn hối cải thì Thiên Chúa sẽ tha thứ và giải thoát họ. Người Kitô hữu cũng cần tập nhìn những biến cố lịch sử bằng cặp mắt đức tin để khám phá sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa ngay trong lịch sử.

 

II. NHỮNG BÀI HỌC LỚN CHO ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN

  1. Thiên Chúa là Đấng kiên nhẫn

Dân Israel đã ký kết giao ước với Thiên Chúa; tuy nhiên họ đã không trung thành với giao ước. Họ bỏ Chúa để chạy theo các ngẫu tượng mà dân địa phương tin rằng mang lại sự thịnh vượng như Baal, Asherah, Astarte… Họ còn bắt chước cả những cách tế tự của dân địa phương, vd. giết người để dâng hiến làm của lễ.

Về phía Thiên Chúa, Ngài không bao giờ mất lòng kiên nhẫn. Dù dân có phản bội giao ước, Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương họ bằng tình yêu trung tín. Nếu tội lỗi của dân dẫn đến án phạt thì cần nhìn những án phạt này trong viễn tượng của tình yêu trung tín đó, nghĩa là Thiên Chúa trừng phạt dân không phải vì căm thù mà vì tình yêu thương, để sửa dạy dân và kêu gọi họ trở về đường ngay nẻo chính. Vậy người Kitô hữu có thể rút được bài học nào cho chính mình và cho Giáo Hội?

  1. Thiên Chúa sử dụng những con đường lạ lùng.

Để thực hiện chương trình cứu độ, Thiên Chúa sử dụng cả những con người yếu đuối và tội lỗi, chẳng hạn những phụ nữ chân yếu tay mềm, hay Samson nặng nề xác thịt… Điều này làm ta liên tưởng đến lời thánh Phaolô: “Những gì thế gian cho là điên dại thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém thì Thiên Chúa đã chọn để hạ gục những kẻ hùng mạnh; những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để hủy diệt những gì hiện có hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Người” (1Cor 1,27-29). Đồng thời mỗi Kitô hữu cần nhớ lại lời Thánh Kinh: “Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa” (x. 1Cor 1,31) và “Kho tàng ấy, chúng tôi chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa chứ không phải từ chúng tôi” (2Cor 4,7).

  1. Israel giữa dân ngoại: hình ảnh của Giáo Hội ngày nay

So sánh với các dân Canaan và Philitinh, Israel vừa thua kém về dân số vừa thua kém về khả năng. Trong thế giới ngày nay, xem ra càng ngày Giáo Hội càng trở thành cộng đoàn thiểu số, đồng thời bị tấn công về nhiều mặt.

Tuy nhiên, dù sống trong hoàn cảnh nào, Dân Chúa vẫn có trách nhiệm làm muối cho đời và ánh sáng cho trần gian (Mt 5,13). Điều quan trọng là phải xem lại bản thân mình còn chất muối và ánh sáng không; nếu không sẽ trở thành vô dụng và bị quăng ra ngoài cho người ta chà đạp.

III.      SÁCH THỦ LÃNH VÀ ĐỜI SỐNG KITÔ HỮU

  1. Bạn hãy đọc lại câu chuyện cuộc đời Samson, một vị thủ lãnh nổi tiếng trong lịch sử Israel.
  2. Từ câu chuyện này, bạn có thể rút ra điều gì cho đời sống thiêng liêng của mình?

  

Tuần 23 – SÁCH BÀ RUTH

 

Có nhiều cách giải thích nội dung sách Ruth, ví dụ đề cao những nhân đức trong đời sống gia đình qua hình tượng các nhân vật như ông Booz và bà Ruth, hoặc phê phán những quan niệm thời xưa về hôn nhân… Tuy nhiên nội dung chính yếu cần đề cập tới là dung mạo Thiên Chúa được bày tỏ qua tác phẩm, và đức tin hiểu như sự đáp trả của con người trước tiếng gọi của Thiên Chúa.

I. BÀ NAOMI VÀ CUỘC VẬT LỘN VỚI THIÊN CHÚA

  1. Từ một phụ nữ đạo đức bình thường đến tâm trạng cay đắng

“Đừng gọi tôi là Naomi nữa, hãy gọi tôi là Mara” (1,20). Mara có nghĩa là Chúa giáng phạt: “Đấng Toàn năng đã bắt tôi phải chịu quá nhiều cay đắng.” Lý do dẫn bà Ruth đến tâm trạng cay đắng này là vì bà bị mất tất cả: “Tôi ra đi, của cải dư đầy, Đức Chúa đem tôi về, hai bàn tay trắng” (1,21); không những mất của cải mà còn rơi vào tình trạng góa bụa cô đơn.

  1. Sự Ac là nguyên nhân lớn dẫn đến tình trạng vô thần và mất niềm tin

Thiên Chúa bị coi là nguyên nhân mọi đau khổ: “Đức Chúa đã làm cho tôi tủi nhục, Đấng Toàn năng đã để tôi đau khổ” (1,21); vì thế không còn thấy được dung nhan Thiên Chúa tình yêu. Nhận xét này mời gọi ta nhìn lại kinh nghiệm cá nhân của mình khi phải đối diện với đau khổ. Ta cũng rất dễ đánh mất niềm tin và cậy trông vào Thiên Chúa khi phải đối diện với những thử thách và đau khổ. Đây thực sự là một vấn nạn lớn, đúng hơn là một mầu nhiệm và ta chỉ tìm được câu trả lời khi chiêm ngắm Chúa Kitô chịu đóng đinh.

II. RUTH VÀ NHỮNG NHÂN ĐỨC TRONG ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH

  1. Gắn bó với gia đình chồng, kể cả trong niềm tin tôn giáo:

Bà Ruth gắn bó với mẹ chồng: “Mẹ đi đâu, con đi đó; mẹ ở đâu, con ở đó, dân của mẹ là dân của con, Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con” (1,16). Bà lại là người có lòng nhân hậu, lo cho mẹ già: “Người ta đã kể lại cho ta nghe tất cả những gì con đã làm cho mẹ chồng sau khi chồng con mất… “ (2,12).

  1. Thánh Phaolô và đời sống gia đình

Tấm gương của bà Ruth làm ta liên tưởng đến lời nhắn nhủ của thánh Phaolô về đời sống gia đình: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này. Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy” (Eph 6, 1-4).

  1. Tấm gương của bà Ruth còn mời gọi ta nhìn lại mối quan hệ của ta với Thiên Chúa: trong đời sống đức tin, liệu ta có gắn bó với Chúa trong mọi hoàn cảnh như bà Ruth gắn bó với gia đình nhà chồng?

III. ĐƯỜNG LỐI CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA

  1. Thiên Chúa điều khiển mọi sự

Xem ra chính bà Naomi đã sắp xếp mọi sự và đã đạt được mục đích: chính bà khuyên Ruth đến với ông Booz (3,1-4) và bà đã có người bảo tồn dòng dõi (4,14-15). Tuy nhiên khi đạt kết quả thì chính Thiên Chúa lại được ca tụng: “Chúc tụng Đức Chúa, Đấng hôm nay đã không để cho bà phải thiếu thốn người bảo tồn dòng dõi: tên tuổi con trẻ sẽ được tung hô tại Israel” (4,14). Như thế, tác giả đã nhìn mọi sự từ quan điểm đức tin. Chính Thiên Chúa là Chủ mọi sự. Ngài vận dụng mọi sự nhằm mục đích cứu độ con người, kể cả thông qua những tính toán tự nhiên của con người.

  1. Chúa Kitô thuộc dòng dõi Davit, có tổ tiên là bà Ruth (Đọc Ruth 4, 17-22 // Mt 1,1-5)

Trong gia phả của Chúa Giêsu, có tên của bốn phụ nữ và cả bốn phụ nữ này đều có vấn đề trong đời sống riêng :

* Tama (x. St 38, 15-20)

* Rakhab (x. Josua 2,6. 22-25)

* Ruth (x. Ruth, chương 3)

* Bathsêba (x. 2Samuel, chương 11)

Khi Thiên Chúa làm người, Ngài đã chấp nhận có mặt trong một dòng dõi được ghi dấu bởi tội lỗi; nhờ đó Ngài cứu nhân loại khỏi tội lỗi. Định hướng này được thể hiện rõ nét trong suốt cuộc sống trần thế của Chúa Giêsu: Ngài đồng bàn với những người tội lỗi đến nỗi bị xã hội lên án. Ơn Cứu độ của Thiên Chúa không loại trừ bất cứ ai. Vấn đề là mỗi người có sẵn sàng mở lòng ra để đón nhận Ơn Cứu độ đó không.