Man-Na Lương Thực Hàng Ngày Từ 17/12 đến 1/1

print

Man-Na Lương Thực Hàng Ngày Từ 17/12 đến 1/1

17-12. 1

18-12. 4

19-12. 7

20-12. 10

21-12. 13

22-12. 15

23-12. 18

24-12. 20

25.12 – LỄ CHÚA GIÁNG SINH, Lễ ban ngày. 23

26.12Tuần Bát nhật Giáng sinh – S.Stêphanô, tử đạo tiên khởi 26

Ngày 27 tháng 12:  Gioan tông đồ, tác giả sách Tin Mừng. 29

Ngày 28 tháng 12: Các thánh anh hài tử đạo. 31

Ngày 29 tháng 12: Tuần Bát nhật Giáng sinh. 34

Ngày 30 tháng 12: Tuần Bát nhật Giáng sinh. 37

Ngày 31 tháng 12: Tuần Bát nhật Giáng sinh. 39

Ngày 01 tháng 01: Thánh Maria, Mẹ Thiên Chúa. 43

Tuần Bát nhật Giáng sinh – Lễ Thánh Gia năm A.. 45

Tuần Bát nhật Giáng sinh – Lễ Thánh Gia năm B.. 48

Tuần Bát nhật Giáng sinh – Lễ Thánh Gia năm C.. 51

Ngày 01 tháng 01: Thánh Maria, Mẹ Thiên Chúa. 54

 

17-12

TỪ BÀ, ĐỨC GIÊSU ĐƯỢC SINH RA

(Ngày 17 tháng 12)

Lời Chúa: Mt 1, 1-17

Ðây là gia phả Ðức Giêsu Kitô, con cháu vua Ða-vít, con cháu tổ phụ Áp-ra-ham: Ông Áp-ra-ham sinh I-xa-ác; I-xa-ác sinh Gia-cóp; Gia-cóp sinh Giu-đa và các anh em ông này; Giu-đa ăn ở với Ta-ma sinh Pe-rét và De-rác; Pe-rét sinh Khét-xơ-ron; Khét-xơ-ron sinh A-ram; A-ram sinh Am-mi-na-đáp; ông Am-mi-na-đáp sinh Nác-son; Nác-son sinh Xam-môn; Xam-môn lấy Ra-kháp sinh Bô-át; Bô-át lấy Rút sinh Ô-vết; Ô-vết sinh Gie-sê; Gie-sê sinh Ða-vít. Vua Ða-vít lấy vợ ông U-ri-gia sinh Sa-lô-môn; Sa-lô-môn sinh Rơ-kháp-am; Rơ-kháp-am sinh A-vi-gia; A-vi-gia sinh A-xa; A-xa sinh Giơ-hô-sa-phát; Giơ-hô-sa-phát sinh Giô-ram; Giô-ram sinh Út-di-gia; Út-di-gia sinh Gio-tham; Gio-tham sinh A-khát; A-khát sinh Khít-ki-gia; Khít-ki-gia sinh Mơ-na-se; Mơ-na-se sinh A-môn; A-môn sinh Giô-si-gia; Giô-si-gia sinh Giơ-khon-gia và các anh em vua này; kế đó là thời lưu đày ở Ba-by-lon. Sau thời lưu đày ở Ba-by-lon, Giơ-khon-gia sinh San-ti-ên; San-ti-ên sinh Dơ-rúp-ba-ven; Dơ-rúp-ba-ven sinh A-vi-hút; A-vi-hút sinh En-gia-kim; En-gia-kim sinh A-do; A-do sinh Xa-đốc; Xa-đốc sinh A-khin; A-khin sinh Ê-li-hút; Ê-li-hút sinh E-la-da; E-la-da sinh Mát-than; Mát-than sinh Gia-cóp; Gia-cóp sinh Giu-se, chồng của bà Ma-ri-a, bà là mẹ Ðức Giêsu cũng gọi là Ðấng Ki-tô. Như thế, tính chung lại thì: từ tổ phụ Áp-ra-ham đến vua Ða-vít, là mười bốn đời; từ vua Ða-vít đến thời lưu đày ở Ba-by-lon, là mười bốn đời; và từ thời lưu đày ở Ba-by-lon đến Ðức Kitô, cũng là mười bốn đời.

Suy niệm

Chúng ta bước vào một giai đoạn mới để mừng lễ Giáng Sinh,

mừng Mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người cách trọn vẹn.

Làm người là có một gia phả.

Thánh Matthêu đã muốn viết một gia phả dài của Đức Giêsu Kitô,

không phải một cách hết sức chính xác và đầy đủ theo nghĩa lịch sử,

nhưng mang nặng ý nghĩa thần học.

Matthêu muốn cho thấy Đức Giêsu là con của cụ tổ Abraham,

và cuộc đời Ngài gắn kết với Israel, dân được tuyển chọn.

Ngài cũng là Con của vua Đavít, nên Ngài có cơ sở để là Đấng Kitô.

Làm người là sống trong dòng lịch sử một dân tộc

với tất cả những thăng trầm và biến động của nó.

Matthêu chia lịch sử dân Do-thái làm ba thời kỳ.

Thời kỳ chuẩn bị cho bước đầu của vương triều vua Đavít (cc. 2-6a),

thời kỳ trị vì của các vua thuộc dòng Đavít (cc. 6b-11),

và thời kỳ sau lưu đầy, khi vương quyền Đavít đã mai một (cc. 12-16).

Mỗi thời kỳ mười bốn đời, nghĩa là hai lần bẩy, một con số linh thánh.

Đức Kitô đã đằm mình trong dòng lịch sử này.

Ngài là người cuối của gia phả, nhưng lại là nhân vật trung tâm (c.16-17).

Tất cả lịch sử của dân tộc Israel cũng là lịch sử cứu độ.

Dòng lịch sử cứu độ này đã lên đến tuyệt đỉnh nơi Đức Giêsu Kitô.

Nơi Ngài, Thiên Chúa đã đưa lịch sử nhân loại đến chỗ thành tựu.

Trong gia phả Đức Giêsu có tên một số phụ nữ.

Đó là chuyện lạ, vì người Do-thái thường chỉ để tên người cha.

Trừ Đức Maria, bốn phụ nữ kia đều có gốc dân ngoại.

Ta-ma và Ra-kháp gốc Canaan, Rút gốc Mô-áp, vợ Urigia người Hít-tít.

Các phụ nữ này đều có hoàn cảnh khác thường.

Ta-ma giả làm điếm để ngủ với cha chồng là Giu-đa,

hầu sinh con cho nhà chồng (St 38).

Ra-kháp là một cô điếm ở Giêricô, đã giúp Giosuê chiếm Canaan (Gs 2).

Bét-sa-bê, vợ của Urigia, đã ngoại tình và lấy vua Đavít (2Sm 11-12).

Rút đã lấy ông Bô-át là người bà con gần, để nối dõi cho chồng (R 1-4).

Đức Giêsu đã là con cháu của các phụ nữ khác thường này.

Ngài cũng mang trong mình chút dòng máu của dân ngoại.

Cuộc sinh hạ của Đức Kitô cũng khác thường.

Mátthêu diễn tả một cách tinh tế như sau:

“Gia-cóp sinh Giuse, chồng của bà Maria,

từ bà Đức Giêsu được sinh ra, cũng gọi là Đức Kitô” (c. 16).

Như thế Con Thiên Chúa đã có một người mẹ để trọn vẹn là người.

Ngài có cha nuôi là thánh Giuse để được thuộc về dòng Đavít.

Làm người cần được sống trong bầu khí gia đình để lớn lên.

Gia phả của Đức Giêsu nhắc tôi về gia phả của chính mình.

Cũng với những bóng tối của lưu đày, với bao bất thường và vấp ngã.

Chỉ mong trong cuộc đời tôi, gia đình tôi, dân tộc tôi, có mặt Giêsu.

Cầu nguyện

Lạy Cha từ ái,

đây là niềm tin của con.

Con tin Cha là Tình yêu,

và mọi sự Cha làm đều vì yêu chúng con.

Cả những khi Cha mạnh tay cắt tỉa,

cả những khi Cha thinh lặng hay vắng mặt,

cả những khi Cha như chịu thua sức mạnh của ác nhân,

con vẫn tin Cha là Cha toàn năng nhân ái.

Con tin Cha không chịu thua con về lòng quảng đại,

chẳng để con thiệt thòi khi dám sống cho Cha.

Con tin rằng nơi lòng những người cứng cỏi nhất

cũng có một đốm lửa của sự thiện,

được vùi sâu dưới những lớp tro.

Chỉ một ngọn gió của tình yêu chân thành

cũng đủ làm đốm lửa ấy bừng lên rạng rỡ.

Con tin rằng chẳng có giọt nước mắt nào vô ích,

thế giới vẫn tồn tại nhờ hy sinh thầm lặng của bao người.

Con tin rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về Ánh sáng.

Sự Sống và Tình yêu sẽ chiếm ngự địa cầu.

Con tin rằng dòng lịch sử của loài người và vũ trụ

đang chuyển mình tiến về với Cha,

qua trung gian tuyệt vời của Chúa Giêsu

và sức tác động mãnh liệt của Thánh Thần.

Con tin rằng dần dần mỗi người sẽ gặp nhau,

vượt qua mọi tranh chấp, bất đồng,

mọi dị biệt, thành kiến,

để cùng nắm tay nhau đi qua sa mạc cuộc đời

mà về nhà Cha là nơi hạnh phúc viên mãn.

Lạy Cha, đó là niềm tin của con.

Xin Cha cho con dám sống niềm tin ấy. Amen.

 

 

18-12

THIÊN-CHÚA-Ở-CÙNG-CHÚNG-TA

(Ngày 18 tháng 12)

Lời Chúa: Mt 1, 18-24

Chúa Giêsu Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Maria, Mẹ Người, đã đính hôn với Giuse, nhưng trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi Chúa Thánh Thần. Giuse, bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi suy tính như vậy, thì thiên thần Chúa hiện đến cùng ông trong giấc mộng và nói: “Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng sợ nhận Maria về nhà làm bạn mình. Vì người con trong lòng bà là bởi Chúa Thánh Thần; bà sẽ sinh một con trai và ông sẽ đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội.” Tất cả sự việc này đã được thực hiện để ứng nghiệm lời Chúa đã phán qua vị tiên tri rằng: “Này đây trinh nữ sẽ mang thai và sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. Khi tỉnh giấc, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền dạy: ông tiếp nhận bạn mình.

Suy niệm

Thiên Chúa bất ngờ và mãi mãi bất ngờ.

Ngài muốn cứu độ nhân loại bằng cách sai Con Một làm người.

Cách trở thành người của Con Thiên Chúa

vừa bình thường, lại vừa tuyệt đối khác thường.

Bình thường vì Ngài được một phụ nữ sinh ra (x. Gl 4, 4).

Khác thường vì Ngài được sinh ra không do một người cha ruột,

nhưng do quyền năng của Thánh Thần (cc. 18. 20).

Đây là niềm tin ngay từ thuở ban đầu của các Kitô hữu.

Giáo Hội sung sướng đến với máng cỏ

để chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu và Mẹ đồng trinh của Ngài.

Nhưng chúng ta không được quên thánh Giuse.

Giuse đã bối rối, đau khổ khi thấy vị hôn thê của ông mang thai,

dù Maria chưa về chung sống với ông, dù chưa làm đám cưới.

Ông không muốn tố cáo Maria vì tội ngoại tình,

nhưng ông cũng không thể lấy Maria làm vợ,

với thai nhi trong bụng không phải của ông.

Cuối cùng ông chọn giải pháp là chia tay bà một cách kín đáo (c. 19).

Như thế ông hy vọng sẽ bảo vệ được danh dự và an toàn cho Maria.

Nhưng Thiên Chúa Cha cần Giuse,

cần một người cha nhân loại cho Con mình.

Con Thiên Chúa không thể sinh ra trong một gia đình không cha.

Người cha cần biết bao cho sự phát triển quân bình của đứa trẻ.

Maria cũng cần chỗ dựa và không thể một mình nuôi con.

Qua sứ thần, Thiên Chúa mong Giuse đón Maria về làm vợ (c. 20),

nghĩa là làm đám cưới chính thức với Maria.

Việc này đi kèm với việc đặt tên cho người con trai của Maria,

nghĩa là nhận người con ấy là con của mình trước pháp luật (c. 21).

Một lời mời quan trọng chờ nơi Giuse một tiếng Xin Vâng.

Đâu phải Thiên Chúa chỉ cần tiếng Xin Vâng của Maria là đủ.

Giuse có thể từ khước vì thấy mầu nhiệm khó hiểu và khó tin.

Làm sao quyền năng Thánh Thần lại có thể làm cho Maria mang thai?

Giuse có thể sợ vì thấy mình phải chịu trách nhiệm làm chồng làm cha,

dù thực sự mình chẳng hề là thế.

Thiên Chúa đã mời Giuse trong giấc ngủ đêm khuya.

Và ông đã làm y như lời sứ thần truyền khi thức dậy (c. 24).

Tiếng Xin Vâng của Giuse quá quan trọng cho kế hoạch cứu độ,

nhờ đó Con Thiên Chúa đàng hoàng bước vào cuộc đời,

có một mái nhà, có mẹ, có cha, có tên, có tuổi.

Nếu không có những tiếng Xin Vâng của Maria và Giuse,

thì điều gì sẽ xảy ra cho nhân loại đang cần ơn cứu độ?

Thiên Chúa chỉ ở-với-chúng ta nếu có những tấm lòng xin vâng.

Ngài vẫn cần tấm lòng của người mẹ biết cưu mang như Maria,

và tấm lòng của người cha dám chịu trách nhiệm

để Giêsu có chỗ đứng hợp pháp trong thế giới.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

sống cho Chúa thật là điều khó.

Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.

Chúa đòi con cho Chúa tất cả

để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.

Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa

để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.

Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà

để cây đời con sinh thêm hoa trái.

Chúa cương quyết chinh phục con

cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.

Xin cho con dám ra khỏi mình,

ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan

để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,

dù phải chịu mất mát và thua thiệt.

Ước gì con cảm nghiệm được rằng

trước khi con tập sống cho Chúa

và thuộc về Chúa

thì Chúa đã sống cho con

và thuộc về con từ lâu. Amen.

 

 

19-12

CHUẨN BỊ SẴN SÀNG

(Ngày 19 tháng 12)

Lời Chúa: Lc 1, 5-25

Thời vua Hêrôđê cai trị miền Giuđê, có một vị tư tế thuộc nhóm Avia, tên là Dacaria; vợ ông là bà Elisabét cũng thuộc dòng tộc tư tế Aharon. Cả hai ông bà đều là người công chính trước mặt Thiên Chúa, sống đúng theo mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì. Nhưng họ lại không có con, vì bà Êlisabét là người hiếm hoi. Vả lại, cả hai đều đã cao niên. Sau đây là chuyện xảy ra trong lúc ông đang lo việc tế tự trước nhan Thiên Chúa theo phiên của nhóm ông. Trong cuộc bắt thăm thường lệ của hàng tư tế, ông đã trúng thăm được vào dâng hương trong Ðền Thờ của Ðức Chúa, còn toàn dân đông đảo thì cầu nguyện ở bên ngoài, trong giờ dâng hương. Bỗng một sứ thần của Chúa hiện ra với ông, đứng bên phải hương án. Thấy vậy, ông Dacaria bối rối, và nỗi sợ hãi ập xuống trên ông. Nhưng sứ thần bảo ông: “Này ông Dacaria, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin: bà Êlisabét vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gioan. Ông sẽ được vui mừng hớn hở, và nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời. Vì em bé sẽ nên cao cả trước mặt Chúa. Rượu lạt rượu nồng em sẽ đều không uống. Và ngay khi còn trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh Thần. Em sẽ đưa nhiều con cái Israel về với Ðức Chúa là Thiên Chúa của họ. Ðược đầy thần khí và quyền năng của ngôn sứ Êlia, em sẽ đi trước mặt Chúa, để làm cho lòng cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa.” Ông Dacaria thưa với sứ thần: “Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy? Vì tôi đã già, và nhà tôi cũng đã lớn tuổi.” Sứ thần đáp: “Tôi là Gáprien, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, tôi được sai đến nói với ông và loan báo tin mừng ấy cho ông. Và này đây, ông sẽ bị câm, không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không tin lời tôi, là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi.” Dân chúng đợi ông Dacaria, và lấy làm lạ sao ông ở lại trong cung thánh lâu như thế. Lúc đi ra, ông không nói với họ được, và dân chúng biết là ông đã thấy một thị kiến trong cung thánh. Còn ông, ông chỉ làm hiệu cho họ và vẫn bị câm. Khi thời gian phục vụ ở Ðền Thờ đã mãn, ông trở về nhà. Ít lâu sau, bà Êlisabét vợ ông có thai, bà ẩn mình năm tháng. Bà tự nhủ: “Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời.”

Suy niệm

Ở nước Do Thái, vợ chồng lấy nhau mà không con nối dõi

là một điều bất hạnh, thậm chí là một hình phạt của Thiên Chúa.

Chúng ta không rõ hai ông bà Dacaria và Êlisabét

đã sống với nhau bao lâu mà không có con.

Chỉ biết bây giờ ông đã cao niên rồi, và bà đã quá tuổi sinh sản (c. 7).

Hai vợ chồng già đã kiên nhẫn cầu xin và chờ đợi trong nhiều năm.

Có vẻ Đức Chúa ngoảnh mặt đi, không nghe lời họ,

dù cả hai đều thuộc dòng tộc tư tế Aharon và rất mực đạo đức (cc. 5-6).

Bây giờ họ có còn hy vọng nữa không?

Chính khi ta thất vọng, thì Chúa đến loan báo Tin Vui (c. 19).

Tư tế Dacaria may mắn trúng thăm, nên ông được vào Nơi Thánh

để lau hương án và dâng hương mới.

Tại nơi thâm nghiêm này, khi ông lo việc tế tự,

ông được sứ thần Chúa báo tin về đứa con sắp chào đời của mình.

Gioan, nghĩa là Đức-Chúa-thi-ân, sẽ là món quà ông được tặng.

Nhưng Gioan sẽ còn là món quà cho nhiều người Israel,

vì Gioan có sứ mạng giải hòa dân tộc ông với nhau và với Chúa.

Một con người chưa được mang thai và chào đời,

nhưng về người ấy, Thiên Chúa đã có bao ước mơ và dự tính.

Ngài cho Gioan được đầy Thánh Thần từ trong lòng mẹ (c. 15).

“Làm cho kẻ ngỗ nghịch trở về nẻo chính đường ngay,

và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa” (c. 17).

Đó là những việc Gioan sẽ làm sau này trong tư cách là Êlia mới.

Dacaria có vẻ không tin vào lời sứ thần,

Có vẻ ông không còn nuôi hy vọng có một đứa con (c. 18).

Ông quên mất chuyện Ápraham đã sinh con trong lúc tuổi già.

Là một tư tế hẳn ông phải biết có nhiều cặp vợ chồng hiếm muộn

đã sinh con làm thủ lãnh đất Israel (Tl 13, 2; 1Sm 1-2; St 16, 1).

Việc ông bị câm là một hình phạt, nhưng ông không bị loại trừ.

Thinh lặng chín tháng là thời gian ông chờ đợi để lời hứa nên trọn.

Từ khi bà Êlisabét có thai, bà ẩn mình một thời gian.

Bà chưa muốn cho ai hay biết chuyện này.

Niềm vui bất ngờ đến với bà, người được hưởng hạnh phúc làm mẹ.

“Chúa đã làm cho tôi như thế đó,

khi Ngài đoái thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời.”

Mỗi một trẻ thơ chào đời đều có nét của Gioan.

Chẳng người nào thấy ánh mặt trời mà lại nằm ngoài ý Thiên Chúa.

Như Gioan, ngay từ khi tôi chưa hiện hữu trong lòng mẹ,

Thiên Chúa đã nghĩ đến tôi, và biết tên tôi.

Tôi có chỗ rất riêng trong chương trình của Chúa.

Chúa có một sứ mạng rất riêng cho tôi hôm nay.

Thời nào cũng cần Gioan, cần những người kêu gọi hoán cải.

Nhân loại thời nay cần những người dọn đường sáng tạo,

có khả năng mở những con đường mới đi vào lòng thế nhân.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa,

Chúa đã làm người như chúng con,

nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người.

Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc

mà con người lại yếu đuối mong manh.

Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt,

và giữa ánh sáng,

cũng có những bóng mờ đe dọa.

Lạy Chúa Giêsu,

nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến,

xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu

Chúa đã buồn muốn chết được.

Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây,

xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá

Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con?

Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc.

Xin đồng hành với con, để con không cô đơn.

Xin cho con yêu đời luôn

dù đời chẳng luôn đáng yêu.

Xin cho con can đảm

đối diện với những thách đố

vì biết rằng cuối cùng

chiến thắng thuộc về người

có niềm hy vọng lớn hơn. Amen.

 

 

20-12

TÔI ĐÂY LÀ NỮ TỲ CỦA CHÚA

(Ngày 20 tháng 12)

Lời Chúa: Lc 1, 26-38

Bà Êlisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáprien đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc nhà Ðavít. Trinh nữ ấy tên là Maria. Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Ðấng đầy ân sủng, Ðức Chúa ở cùng bà.” Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. Sứ thần liền nói: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Ðức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Ðavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.” Bà Maria thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!” Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Ðấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” Bấy giờ bà Maria nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” Rồi sứ thần từ biệt ra đi.

Suy niệm

Cách đây gần chín tháng, chúng ta đã nghe đọc bài Tin Mừng này

vào lễ sứ thần Gabrien Truyền Tin cho Đức Mẹ.

Hôm nay chúng ta nghe đọc lại bài này trong bầu khí rộn ràng

của những ngày gần đại lễ Giáng Sinh.

Các sách Tin Mừng không nói nhiều về thời gian Đức Mẹ mang thai.

Luca chỉ nói về chuyện Mẹ đi thăm bà chị họ hiếm muộn (Lc 1, 39-45).

Còn Mátthêu nói về chuyện thánh Giuse nằm mộng và được sứ thần mời

đón nhận Maria làm vợ và thai nhi Giêsu làm con của mình (Mt 1, 18-24).

Nhưng thời gian mang thai là một thời gian khá dài và quan trọng,

nhất là đối với người mẹ trẻ sinh con so.

Các bà mẹ mang thai thấy mình như mang một mầu nhiệm,

mầu nhiệm sự sống đang lớn lên mỗi ngày trong lòng dạ mình.

Dần dần mỗi chuyển động của thai nhi

và cả nhịp tim cũng được người mẹ cảm nhận.

Thai nhi trở thành người trọn vẹn

nhờ được dưỡng nuôi trong cái nôi êm ấm của lòng mẹ.

Con Thiên Chúa làm người cũng trải qua một tiến trình như thế.

Ngài không từ trời hiện xuống bất ngờ trong quyền năng,

nhưng Ngài đã là một thai nhi yếu đuối trong lòng Đức Trinh Nữ.

“Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã tạo cho con một thân thể…

Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây,

con đến để thực thi ý Ngài” (x. Dt 10, 5-7).

Con Thiên Chúa đã cất lên tiếng Xin Vâng đối với kế hoạch của Cha.

Tiếng Xin Vâng khiến Ngài chấp nhận hủy mình ra không,

để “trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2, 7).

Khi trở thành một thai nhi sống nhờ lòng mẹ,

Con Thiên Chúa như cất giấu đi vinh quang chói ngời của thần tính.

Ngài vui lòng đồng hành với mọi con người trên mặt đất

để Ngài thực sự là anh em của họ.

“Tôi đây là nữ tỳ của Chúa.

Xin xảy ra cho tôi như lời sứ thần nói” (c. 38).

Ngay sau tiếng Xin Vâng này, Đức Maria được Thánh Thần ngự xuống,

và Con Thiên Chúa bắt đầu tiến trình làm người ở đời (c. 35).

Ngài từ từ có trái tim, khuôn mặt, vân tay riêng…

Đấng Cứu Độ sung sướng trở nên một sinh linh nhỏ bé,

để nói cho nhân loại biết về sự cao quý của một thai nhi.

Đức Maria trở thành Hòm Bia Thiên Chúa, nơi Ngôi Hai hiện diện.

Chúng ta ít khi nghĩ đến thời gian Mẹ Maria mang thai.

Thời gian cưu mang chẳng bao giờ nhẹ nhàng hay dễ dàng.

Để có thể sinh ra Đức Giêsu cho môi trường ta đang sống,

cũng cần thời gian thai nghén lâu dài và vất vả.

Chúng ta phải mang Ngài trong lòng mình,

kiên nhẫn và chăm chút để Ngài lớn lên, trước khi sinh Ngài cho thế giới.

“Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là mẹ tôi” (Mc 3, 35).

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

xin cho con gặp được ánh mắt của Chúa

ít là một lần trong đời.

Khi tương lai con đang vững vàng ổn định,

xin hãy nhìn con như Chúa đã nhìn Lêvi

và mời gọi con đứng lên theo Chúa,

bỏ lại tất cả những gì con cậy dựa.

Khi con chẳng còn là mình, vấp ngã như Simon,

xin hãy quay lại nhìn con

bằng ánh mắt xót thương, tha thứ,

để con òa khóc như trẻ thơ.

Khi con khao khát sống cuộc đời hoàn thiện,

xin hãy nhìn con bằng ánh mắt yêu thương

như Chúa đã trìu mến

nhìn người thanh niên giàu có.

Khi con ước mong được thấy khuôn mặt Chúa,

xin Chúa hãy dừng lại và ngước lên nhìn con,

như Chúa đã ngước lên nhìn Dakêu

và cho ông thấy cả tấm lòng bao la bát ngát.

Lạy Chúa Giêsu,

xin dạy chúng con biết nhìn con người hôm nay

bằng ánh mắt của Chúa.

Chúa động lòng thương

khi thấy bao người yếu đau,

thấy đám đông bơ vơ như chiên không mục tử.

Ánh mắt Chúa thấu suốt lòng người.

Chúa buồn phiền khi thấy có kẻ lòng chai dạ đá,

nhưng Chúa cũng vui

khi thấy bà góa nghèo bỏ vào tất cả.

Đôi mắt Chúa đã từng nhòa lệ

trước cái chết của người bạn thân là Ladarô,

và trước viễn ảnh sụp đổ của thành đô yêu dấu.

Lạy Chúa, đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn.

Xin cho con qua cửa sổ ấy mà vào tâm hồn Chúa. Amen.

 

 

21-12

THÂN MẪU CHÚA TÔI ĐẾN VỚI TÔI

(Ngày 21 tháng 12)

Lời Chúa: Lc 1, 39-45

Hồi ấy, bà Maria lên đường vội vã, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabét. Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được trần đầy Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được phúc này là Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi như vậy? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.”

Suy niệm

Trong những ngày cuối cùng của mùa Vọng,

Hội Thánh mời gọi chúng ta suy niệm về cuộc gặp gỡ

giữa hai người mẹ: Chị Maria và bà Êlisabét,

giữa hai thai nhi: Ðức Giêsu và Gioan Tẩy Giả.

Một cuộc gặp gỡ chan chứa niềm vui.

Niềm vui của chị Maria với bước chân vội vã

băng qua những vùng đồi núi trập trùng xứ Giuđê.

Chị không đi một mình trên đường xa,

vì chị tin có một mầm sống đang lớn lên trong chị.

Chị chỉ mong cho mau đến nhà bà Êlisabét

để phục vụ bà trong những ngày gần sinh nở.

Niềm vui bất ngờ của bà chị họ sau lời chào của Maria.

Bà ngây ngất trước hồng ân mà cô em mình đã nhận được.

Bà tràn ngập hạnh phúc vì được Thân Mẫu Chúa đến thăm.

Êlisabét cảm thấy đứa con trong dạ cũng nhảy mừng.

Dường như bà quên cả niềm vui riêng tư,

để chỉ còn nhớ đến niềm vui cứu độ cho cả dân tộc.

Cuộc gặp gỡ diễn ra trong bầu khí của Thánh Thần.

Thánh Thần vẫn tác động trên chị Maria.

Thánh Thần tràn đầy bà Êlisabét.

Thánh Thần đã hoạt động nơi thai nhi Gioan (Lc 1,15).

Chị Maria đem đến niềm vui cho nhà ông Dacaria

vì chị mang lại Ðấng ban Tin Mừng cứu độ.

Chị đem đến sự phục vụ khiêm hạ

vì chị cưu mang Ðấng đến để phục vụ.

Khi được trở nên nữ tỳ của Thiên Chúa,

chị Maria đã sống như nữ tỳ của con người.

Chị có phúc vì chị được chọn làm Mẹ Ðấng Cứu Thế,

chị còn có phúc vì chị đã tin rằng

Chúa sẽ thực hiện những gì Người nói với chị.

Chúng ta chiêm ngắm Ðức Giêsu đang lớn dần trong lòng mẹ.

Ngài tăng trưởng như mọi người.

Những nhịp đập đầu tiên của trái tim nhỏ bé,

những nét riêng tư đầu tiên của khuôn mặt.

Con Thiên Chúa đã mang quả tim và khuôn mặt người phàm.

Từ khi Ngôi Lời được cưu mang trong dạ mẹ,

không ai có quyền khinh rẻ một thai nhi,

vì mỗi thai nhi đều mang khuôn mặt của Con Thiên Chúa;

không ai được coi thường người phụ nữ,

vì Thiên Chúa đã muốn Con mình được một trinh nữ sinh ra.

Cầu nguyện

Lạy Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa,

xin gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ

tinh tuyền và trong ngần như dòng suối.

Xin ban cho con quả tim đơn sơ,

mau quên những nỗi buồn phiền.

Một quả tim hào hiệp dám hiến thân,

dịu dàng để cảm thông.

Một quả tim trung thành và quảng đại.

không quên ơn, không báo oán.

Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn.

yêu mà không mong được yêu lại,

hân hoan xóa mình đi

để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác.

Một quả tim vĩ đại và bất khuất,

không khép lại trước những vô ơn,

không chán nản trước người lạnh nhạt.

Một quả tim khắc khoải

lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô,

quả tim mang vết thương vì yêu Ngài,

vết thương chỉ lành

khi được sống với Ngài trên trời. Amen.

 

 

22-12

NỮ TỲ HÈN MỌN

(Ngày 22 tháng 12)

Lời Chúa: Lc 1, 46-56

Bấy giờ bà Maria nói:

“Linh hồn tôi ngợi khen Ðức Chúa,

thần trí tôi hớn hở vui mừng

vì Thiên Chúa, Ðấng cứu độ tôi.

Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới;

từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.

Ðấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả,

Danh Người thật chí thánh chí tôn!

Ðời nọ tới đời kia,

Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.

Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,

dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.

Chúa hạ bệ những ai quyền thế,

Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.

Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,

người giàu có, lại đuổi về tay trắng.

Chúa độ trì Israel, tôi tớ của Người,

như đã hứa cùng cha ông chúng ta,

vì Người nhớ lại lòng thương xót

dành cho tổ phụ Ápraham

và cho con cháu đến muôn đời.”

Bà Maria ở lại với bà Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà.

Suy niệm

Bài ca ngợi khen Đức Chúa bật ra trên môi Maria

sau khi bà Êlisabét cất tiếng ca ngợi Mẹ.

Êlisabét ca ngợi Maria là người được chúc phúc hơn mọi phụ nữ

vì Mẹ đang cưu mang trong dạ Đấng Cứu Tinh.

Bà còn ca ngợi Maria có phúc vì đã dám tin vào lời Chúa phán,

và dám liều để cho lời ấy dẫn dắt đời mình.

Nhờ được tràn đầy Thánh Thần, Êlisabét mới biết được Tin Vui

mà Maria tưởng rằng đó là bí mật chỉ riêng mình biết.

Khi đứng trước bà chị cao niên đang mang thai,

Maria xác tín hơn vào những lời sứ thần nói,

và vào mầu nhiệm đang âm thầm lớn lên nơi cung lòng mình.

Khi bà chị Êlisabét ca ngợi Mẹ, thì Mẹ hân hoan ca ngợi Thiên Chúa.

Maria nhìn nhận Ngài là Đấng Cứu Độ của Mẹ (c. 47).

Nếu Mẹ được đầy ân sủng, được Chúa ở cùng và được đẹp lòng Ngài,

nếu Mẹ được thụ thai Con Đấng Tối Cao nhờ Thánh Thần (Lc 1, 28-35),

thì đó không phải là do công của Mẹ, nhưng là ơn của Chúa.

“Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả” (c. 49).

Maria không có một sự khiêm nhường giả tạo về mình.

Khiêm nhường thực sự là nhìn nhận sự thật.

Mẹ nhìn nhận những điều độc nhất vô nhị Chúa làm cho đời mình.

Ngài đã nhìn xuống đời Mẹ, cuộc đời thấp hèn của một tỳ nữ.

Và cái nhìn cúi xuống của Ngài đã nâng Mẹ lên cao,

khiến cho muôn thế hệ phải ngợi khen, tôn kính (c. 48).

Nhưng Maria không phải là người duy nhất được Thiên Chúa thi ân.

Ngài thương xót những ai hèn mọn, đói nghèo, biết kính sợ Chúa.

Ngược lại, Ngài giơ cánh tay biểu dương sức mạnh (cc. 50-53),

để dẹp tan kẻ kiêu căng, hạ bệ người quyền thế, đuổi đi kẻ giàu sang.

Thiên Chúa đầy thương xót, nên cũng mạnh tay để tạo lại sự công bằng,

để đem lại sự no đủ cho người nghèo và sự tự do cho người bị áp bức.

Thiên Chúa ấy cũng trung tín giữ lời hứa với Dân Israel (cc. 54-55).

Maria đã ở lại với bà chị họ độ ba tháng mới trở về nhà.

Ba tháng mang thai đầu tiên của một người mẹ trẻ đâu có dễ.

Maria đã ở lại để phục vụ cho bà Êlisabét gần ngày sinh.

Mẹ quên gánh nặng của mình để mang gánh nặng của người khác.

Êlisabét hẳn là vui vì được hầu hạ bởi Thân Mẫu Chúa.

Gioan trong bụng mẹ sung sướng vì được gần Đấng Thiên Sai.

Ít khi ta suy niệm chuyện Đức Maria mang thai hơn chín tháng.

Thai Nhi Giêsu lớn dần lên từng ngày trong dạ mẹ, chờ ngày chào đời.

Tình Mẹ-Con cũng lớn lên, thân thiết, gần gũi.

Mang thai và sinh con là niềm vui, nhưng đòi bao hy sinh nhọc nhằn,

nhất là vào thời xưa, khi vệ sinh và tiện nghi không có.

Để sinh Đức Giêsu cho thế giới hôm nay, vẫn cần có những Maria

chấp nhận cưu mang, chấp nhận vượt cạn,

chấp nhận kiên nhẫn chờ đợi để sinh những Giêsu cứng cáp cho thế giới.

Cầu nguyện

Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,

những ơn con thấy được,

và những ơn con không nhận là ơn.

Con biết rằng

con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,

biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.

Con thường đau khổ vì những gì

Cha không ban cho con,

và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.

Tạ ơn Cha vì những gì

Cha cương quyết không ban

bởi lẽ điều đó có hại cho con,

hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.

Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha

dù con không hiểu hết những gì

Cha làm cho đời con. Amen.

 

 

23-12

TÊN CHÁU LÀ GIOAN

(Ngày 23 tháng 12)

Lời Chúa: Lc 1, 57-66

Tới ngày mãn nguyệt khai hoa, bà Êlisabét sinh hạ một con trai. Nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà. Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì, và tính lấy tên cha là Dacaria mà đặt cho em. Nhưng bà mẹ lên tiếng nói: “Không, phải đặt tên cháu là Gioan.” Họ bảo bà: “Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả.” Rồi họ làm hiệu hỏi người cha, xem ông muốn đặt tên cho em bé là gì. Ông xin một tấm bảng nhỏ và viết: “Tên cháu là Gioan.” Ai nấy đều bỡ ngỡ. Ngay lúc ấy, miệng lưỡi ông lại mở ra, ông nói được, và chúc tụng Thiên Chúa. Láng giềng ai nấy đều kinh sợ. Và các sự việc ấy được đồn ra khắp miền núi Giuđê. Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi: “Ðứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?” Và quả thật có bàn tay Chúa phù hộ em.

Suy niệm

Vào trước lễ Sinh Nhật của Đức Giêsu,

Giáo Hội cho chúng ta suy niệm về sự chào đời của Gioan Tẩy giả.

Có vẻ bà Êlisabét là người vui hơn cả.

Bà đã mang nỗi hổ nhục từ bao năm nơi người đời (Lc 1, 25),

bây giờ bà mới thấy rõ lòng thương xót bao la của Chúa (c. 58).

Niềm vui của bà được tăng lên nhờ láng giềng, thân thích đến thăm.

Thiên Chúa bắt bà chờ quá lâu, đến mức bà chẳng còn hy vọng.

Rồi bất ngờ bà lại được tất cả những điều mình mong ước.

Có một đứa con trai lúc đã cao niên, điều đó kể như một phép lạ.

Khi bà khăng khăng đòi đặt tên cho đứa con là Gioan (c. 60),

nhiều người ngăn cản, vì không ai trong dòng tộc mang tên này,

vì cứ sự thường, con phải được đặt tên theo tên cha.

Nhưng quyết định cuối cùng nằm trong tay ông Dacaria.

Ông mới là người có quyền đặt tên cho con trai ông.

Vì ông câm và điếc, nên ông cần một cái bảng nhỏ để ghi tên con.

“Tên cháu là Gioan” (c. 63).

Tên này trùng với tên vợ ông đề nghị.

Chính lúc Dacaria vâng lời sứ thần đặt tên cho con ông là Gioan,

thì lập tức miệng ông được mở ra và lưỡi ông được tháo cởi (c. 64).

Giờ đây ông có thể chúc tụng Thiên Chúa sau hơn chín tháng bị câm.

Những người thân thích, xóm giềng đi từ ngỡ ngàng đến kinh sợ.

Quả thực có nhiều điều lạ lùng vây quanh sự chào đời của cậu bé.

Người ta đồn thổi tin này khắp miền núi Giuđê.

“Đứa trẻ này rồi sẽ ra sao?” (c. 66).

Làm sao biết tương lai của đứa trẻ mới được tám ngày tuổi.

Nhưng qua những biến cố lạ lùng xảy ra:

ông bà sinh con trong lúc tuổi già, ông bị câm rồi lại được khỏi,

ông bà cùng nhất trí về tên của đứa con dù không trao đổi trước,

người ta nhận ra bàn tay Chúa ở với em (c. 66).

Em đúng là Gioan, tiếng Híp-ri nghĩa là Thiên-Chúa-tặng-ban,

bởi em là quà tặng cho gia đình, dân tộc và cho cả nhân loại.

Cậu bé Gioan đã từ từ lớn lên và theo một lối sống khác thường.

Cậu không lập gia đình và sống khắc khổ nơi hoang địa (c. 80).

Lễ Giáng Sinh là lễ của trẻ thơ, của niềm hy vọng.

Mỗi trẻ thơ chào đời đều là một dấu hiệu của tình thương Chúa.

Ngay một cuộc sinh nở bình thường cũng là một điều lạ lùng.

Mỗi trẻ thơ được cha mẹ đặt tên,

nhưng tên của em đã được khắc ghi từ lâu trong trái tim Thiên Chúa.

Em nào cũng là một quà tặng cho thế giới, em nào cũng là một Gioan.

Mỗi em đều có chỗ đứng trong chương trình của Thiên Chúa.

Nhiệm vụ của nhà giáo dục là giúp em tìm thấy ơn gọi riêng của mình,

và trưởng thành nhờ sống trọn vẹn ơn gọi đó.

Xin được chung vui với gia đình Dacaria và mọi gia đình trên địa cầu.

Cầu nguyện

Lạy Chúa,

con được no nê mà vẫn thiếu ăn,

vì bên con còn có người đói lả.

Con uống nước mát mà họng vẫn khô ran,

vì bên con còn có người đang khát.

Con vui cười mà nước mắt tuôn rơi,

vì bên con còn có người phiền muộn.

Con sáng mắt mà vẫn ở trong bóng đêm,

vì bên con còn có người mù tối.

Con mặc áo đẹp mà vẫn rách tả tơi,

vì bên con còn có người trần trụi.

Con nằm trong nệm êm mà vẫn thao thức,

vì bên con còn có bao người thiếu thốn. Amen. (Myrtle Householder)

 

 

24-12

THIÊN CHÚA VIẾNG THĂM

(Ngày 24 tháng 12)

Lời Chúa: Lc 1, 67-79

Khi ấy, ông Dacaria, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng: “Chúc tụng Ðức Chúa là Thiên Chúa Israel đã viếng thăm cứu chuộc dân Người. Từ dòng dõi trung thần Ðavít, Người đã cho xuất hiện Vị Cứu Tinh quyền thế để giúp ta, như Người đã dùng miệng các vị thánh ngôn sứ mà phán hứa tự ngàn xưa: sẽ cứu ta thoát khỏi địch thù, thoát tay mọi kẻ hằng ghen ghét; sẽ trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên và nhớ lại lời xưa giao ước; Chúa đã thề với tổ phụ Ápraham rằng sẽ giải phóng ta khỏi tay địch thù, và cho ta chẳng còn sợ hãi, để ta sống thánh thiện công chính trước nhan Người, mà phụng thờ Người suốt cả đời ta. Hài Nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Ðấng Tối Cao: con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người, bảo cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu độ là tha cho họ hết mọi tội khiên. Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Ðông tự chốn cao vời viếng thăm ta. Soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối và trong bóng tối tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an.”

Suy niệm

Sau hơn chín tháng bị câm, khi Gioan đã sinh được tám ngày,

lời nói đầu tiên của ông Dacaria là một bài ca chúc tụng.

Ông chúc tụng Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel

vì Ngài đã viếng thăm và cứu chuộc dân Ngài (c. 68).

Mọi việc Thiên Chúa sắp làm cho đoàn dân riêng

được gói gọn trong một động từ rất đơn sơ: viếng thăm.

Thiên Chúa đi thăm dân Ngài để cứu độ và ban ơn tha tội (c. 77).

Gioan, con của ông, được hân hạnh là người đi trước mở đường (c. 76).

Dacaria vui vì niềm vui của cả dân tộc và của riêng gia đình ông.

Thiên Chúa đi thăm dân qua Đức Giêsu, Người Con Một.

Đó là Vị Cứu Tinh quyền thế đến từ dòng dõi Đavít (c. 69).

Do lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa,

Đấng Mêsia đã được sai đến như Vừng Đông tự chốn cao vời (c. 78).

Vừng sáng này đến thăm những ai ngồi trong bóng tối sự chết

và đưa dắt dân Ngài vào con đường bình an (c. 79).

Bình an là được giải thoát khỏi tay kẻ thù (c. 71), khỏi tội lỗi (c. 77),

là được tự do phụng thờ Thiên Chúa trên quê hương (cc. 74-75).

Cả đời sống Đức Giêsu là một cuộc viếng thăm của Thiên Chúa.

Đây là cuộc viếng thăm độc nhất vô nhị,

vì là cuộc viếng thăm của đích thân Con Thiên Chúa.

Ngài không chỉ thăm như người khách ghé qua.

Ngài đã thăm và ở lại, dựng lều cư ngụ với loài người (Ga 1, 14).

Khi Đức Giêsu hoàn sinh người con của bà góa thành Nain,

đám đông reo lên: Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài (Lc 7, 16).

Nhưng trong thực tế dân Ngài đã khước từ cuộc thăm viếng ấy.

Ngôi Lời đã đến nhà mình,

nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận (Ga 1, 11).

Mãi mãi con người có tự do để ở lại trong bóng tối và sự chết,

và cũng có quyền khước từ bình an thật của trời cao (Lc 19, 42).

Giêrusalem đã bị sụp đổ vào năm 70 dưới tay kẻ thù,

vì đã từ khước sự thăm viếng chở che của Thiên Chúa (Lc 19, 44).

Đó là một bi kịch và hơn nữa, là một thảm kịch.

Tiếc thay thảm kịch ấy vẫn tiếp diễn trên thế giới.

Hôm nay Thiên Chúa từ ái, bao dung vẫn đến thăm con người,

và nhiều người trong chúng ta vẫn giữ thái độ chối từ, khép kín.

Ơn cứu độ, ơn giải phóng, ánh sáng, và bình an của trời cao,

là những điều còn xa lạ với bao người, kể cả các Kitô hữu.

Bóng tối của sự chết, của hận thù ghét ghen vẫn thống trị địa cầu.

Mừng lễ Giáng Sinh là mừng cuộc viếng thăm của Thiên Chúa.

Cách duy nhất để mừng là mở cửa lòng cho Con Thiên Chúa vào.

Hãy tiếp đón Ngài đến với ta dưới những hình thái bất ngờ:

một trẻ thơ nghèo hèn, yếu đuối; một Mêsia không tấc sắt trong tay;

một ông thợ mộc ở vùng quê Nadarét; một tử tội bị đóng đinh thập tự.

Hãy thắp lên một ngọn nến trong đêm Noel để chào mừng Ánh Sáng.

Cầu nguyện

Giữa giá rét của mùa đông,

xin cho con gặp Chúa.

Giữa những long đong

và bấp bênh của phận người,

xin cho con gần Chúa.

Giữa cảnh nghèo khó và trơ trụi,

xin cho con thấy Chúa đi với con và hiểu con.

Lạy Chúa Giêsu bé thơ nằm trong máng cỏ,

xin cho con cảm được sự bình an của Chúa,

ngay giữa những âu lo hằng ngày.

Xin cho con đón lấy cuộc đời con

với bao điều không như ý.

Và cuối cùng,

xin cho con dám sống như Chúa

vì Chúa đã dám sống như con. Amen.

 

 

MÙA GIÁNG SINH

TUẦN BÁT NHẬT

NGÔI LỜI LÀ ÁNH SÁNG THẬT

25.12 – LỄ CHÚA GIÁNG SINH, Lễ ban ngày

Lời Chúa: Ga 1, 1-18

Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời.

Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa,

và Ngôi Lời là Thiên Chúa.

Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa.

Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành,

và không có Người,

thì chẳng có gì được tạo thành.

Ðiều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống,

và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.

Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối,

và bóng tối đã không diệt được ánh sáng.

Có một người được Thiên Chúa sai đến,

tên là Gioan.

Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng,

để mọi người nhờ ông mà tin.

Ông không phải là ánh sáng,

nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.

Ngôi Lời là ánh sáng thật,

ánh sáng đến thế gian

và chiếu soi mọi người.

Người ở giữa thế gian,

và thế gian đã nhờ Người mà có,

nhưng lại không nhận biết Người.

Người đã đến nhà mình,

nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.

Còn những ai đón nhận,

tức là những ai tin vào danh Người,

thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa.

Họ được sinh ra, không phải do khí huyết,

cũng chẳng do ước muốn của nhục thể,

hoặc do ước muốn của người đàn ông,

nhưng do bởi Thiên Chúa.

Ngôi Lời đã trở nên người phàm

và cư ngụ giữa chúng ta.

Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người,

vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người,

là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật.

Ông Gioan làm chứng về Người, ông tuyên bố:

“Ðây là Ðấng mà tôi đã nói:

Người đến sau tôi,

nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.”

Từ nguồn sung mãn của Người,

tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác.

Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê,

còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Ðức Giêsu Kitô mà có.

Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ;

nhưng Con Một là Thiên Chúa

và là Ðấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha,

chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.

Suy niệm

Máng cỏ luôn làm cho chúng ta rúng động,

vì đứng trước máng cỏ là đối diện với một Tình Yêu,

một Tình Yêu mở ra bao la bát ngát.

Cha đã mở ra bằng cách sai Con xuống thế làm người.

Con đã mở ra bằng cách vâng phục ý Cha.

Thánh Thần đã mở ra bằng cách tác động nơi lòng Ðức Trinh Nữ.

Máng cỏ giúp ta gặp được Tình Yêu của Ba Ngôi,

Tình Yêu không lùi bước trước sự khép kín của nhân loại.

Ðến Bêlem, chúng ta bắt gặp một Tình Yêu khiêm tốn.

Thiên Chúa đã cúi xuống để tặng trao cho con người.

Con Thiên Chúa làm người sinh nơi hang súc vật,

không một chút hào quang: Ngài sinh ra trong đêm tối;

không một chút quyền lực: Ngài là trẻ thơ khóc oe oe.

Ðấng siêu việt nay chịu giới hạn bởi thời gian.

Ðấng Tuyệt Ðối lại mang một thân xác hữu hạn.

Tình Yêu khiêm tốn không làm chúng ta bị choáng ngợp.

không ban bố một cách cha chú,

nhưng biết gõ cửa và chờ đợi.

Thiên Chúa giàu sang đã trở nên nghèo

để chúng ta được trở nên giàu có (2 Cr 8,9).

Hơn hai ngàn năm đã trôi qua

kể từ khi Ngôi Lời đặt chân trên trái đất.

Ngài đã thắp lên ánh sáng trong bóng đêm.

Ngài chính là Ánh Sáng chiếu soi mọi người (Ga 1,9).

Tiếc thay nhiều người đã chọn bóng tối,

vì bóng tối dễ chịu hơn, đồng lõa hơn (Ga 3,19).

Bóng tối ở ngoài tôi và bóng tối ở trong tôi.

Ngôi Lời đã đến nhà mình,

nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận (Ga 1,11).

Ðức Giêsu còn phải nhập thể cho đến tận thế.

Truyền giáo là làm cho Ngài được sinh ra ở đây, hôm nay,

trong dòng văn hoá truyền thống của dân tộc,

trong những biến chuyển tích cực của đất nước,

trong thế giới đã bước qua thập niên đầu của thế kỷ 21.

Sống mầu nhiệm Nhập Thể là trở nên một Maria khác,

đón nhận Ðức Giêsu vào đời mình, cưu mang Ngài,

và sinh Ngài cho thế giới.

Cuộc sinh hạ nào cũng bất trắc và đau đớn.

Xin thắp lên một ngọn nến từ Ánh Sáng của Ngôi Lời.

Xin gom lại trăm triệu ngọn nến

để đẩy lui bóng tối trên mặt đất.

Cầu nguyện

Giữa giá rét của mùa đông,

xin cho con gặp Chúa.

Giữa những long đong và bấp bênh của phận người,

xin cho con gần Chúa.

Giữa cảnh nghèo khó và trơ trụi,

xin cho con thấy Chúa đi với con và hiểu con.

Lạy Chúa Giêsu bé thơ nằm trong máng cỏ,

xin cho con cảm được sự bình an của Chúa,

ngay giữa những âu lo hàng ngày.

Xin cho con đón lấy cuộc đời con

với bao điều không như ý.

Và cuối cùng,

xin cho con dám sống như Chúa

vì Chúa đã dám sống như con. Amen.

 

 

XIN NHẬN LẤY HỒN CON

26.12 – Tuần Bát nhật Giáng sinh – Thánh Stêphanô, tử đạo tiên khởi

Lời Chúa: Cv 6, 8-10; 7, 54-60

Ông Stêphanô được đầy ân sủng và quyền năng, đã làm những điềm thiêng dấu lạ lớn lao trong dân. Có những người thuộc hội đường gọi là hội đường của nhóm nô lệ được giải phóng, gốc Kyrênê và Alêxanria, cùng với một số người gốc Kilikia và Tiểu Á, đứng lên tranh luận với ông Stêphanô. Nhưng họ không địch nổi lời lẽ khôn ngoan mà Thần Khí đã ban cho ông. Khi nghe những lời ấy, lòng họ giận điên lên, và họ nghiến răng căm thù ông Stêphanô. Ðược đầy ơn Thánh Thần, ông đăm đăm nhìn trời, thấy vinh quang Thiên Chúa, và thấy Ðức Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa. Ông nói: “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa.” Họ liền kêu lớn tiếng, bịt tai lại và nhất tề xông vào ông và lôi ra ngoài thành mà ném đá. Các nhân chứng để áo mình dưới chân một thanh niên tên là Saolô. Họ ném đá ông Stêphanô, đang lúc ông cầu xin rằng: “Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con.” Rồi ông quỳ xuống, kêu lớn tiếng: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này.” Nói thế rồi, ông an nghỉ.

Suy niệm

Giáo Hội mừng kính lễ thánh Stêphanô vào ngay sau lễ Giáng Sinh.

Ngài đã chết như chứng nhân đầu tiên cho Chúa Giêsu.

Người làm chứng đã trở thành người tử đạo.

Stêphanô là một phó tế đầy đức tin và Thánh Thần (Cv 6, 5),

đầy ân sủng và quyền năng, làm được những điềm thiêng dấu lạ (c. 8).

Ông gặp sự chống đối từ một số người Do Thái gốc Hy Lạp (c. 9).

Nhưng họ không địch nổi sự khôn ngoan và Thần Khí nơi ông.

Ông đã bị bắt, bị đem ra xử trước Thượng Hội Đồng (c. 12).

Stêphanô đã giảng một bài dài về dòng lịch sử cứu độ (Cv 7).

Chính bài giảng này đã khiến họ tức điên lên chống lại ông.

Khi đứng trước Thượng Hội Đồng Do Thái giáo,

khuôn mặt của Stêphanô giống như thiên thần (Lc 6, 15).

Ông nhìn lên trời, thấy trời mở ra và thấy vinh quang Thiên Chúa.

Nhưng hình tượng quan trọng ông thấy là Đức Giêsu.

Ngài đang đứng ở bên hữu Thiên Chúa, ở vị trí danh dự (c.56).

Ông đã tuyên xưng trước mặt mọi người điều mình vừa thấy.

“Tôi thấy Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa.”

Stêphanô gọi Đức Giêsu là Con Người,

một lối nói Đức Giêsu vẫn hay dùng để nói về bản thân.

Tuyên xưng của ông bị coi là xúc phạm đến Thiên Chúa.

Những người nghe đã xông vào, lôi ông đi và ném đá ông ở ngoài thành.

Stêphanô bị ném đá vì tội nói phạm thượng (cc. 57-58).

Thật ra ông đã chỉ làm chứng về Đấng Công Chính là Đức Giêsu (c. 52).

Cái chết tử đạo của Stêphanô được thánh Luca kể lại

với những nét giống với cái chết trước đó của Đức Giêsu.

Cái chết của ông là cái chết an hòa và bao dung.

Như Đức Giêsu trên thập giá, ông chết khi ông đang cầu nguyện.

Đức Giêsu đã kêu lên Thiên Chúa, Đấng mà Ngài âu yếm gọi là Cha:

“Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23, 46).

Khi cận kề với cái chết, Stêphanô cũng cầu xin với Đấng ông vừa thấy:

“Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con” (c. 59).

Ông gọi Đức Giêsu Phục Sinh là Chúa và ông trao đời ông cho Ngài,

như Ngài đã trao đời Ngài trong Cha.

Như Đức Giêsu, Stêphanô đã kêu một tiếng lớn trước khi chết,

Ông chết trong tư thế quỳ, đống đá đè trên người ông và vùi lấp ông.

Ông chết trong tư thế cầu nguyện cho kẻ giết mình.

“Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này” (c. 60).

Bầu khí xử án Stêphanô là bầu khí của Ba Ngôi.

Có sự hiện diện của Thiên Chúa, của Chúa Giêsu và Thánh Thần.

Thánh Thần giúp chúng ta làm chứng về Chúa Giêsu cho thế giới.

Ơn gọi Kitô hữu bao giờ cũng đòi chúng ta lội ngược dòng.

Ngược dòng với thế gian, với những cám dỗ đến từ chính lòng mình.

Không chỉ trao linh hồn ta vào tay Chúa lúc ta gần chết,

chúng ta phải trao đời ta vào mỗi buổi sáng và trong suốt hôm nay.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

nhiều bạn trẻ đã không ngần ngại

chọn những cầu thủ bóng đá,

những tài tử điện ảnh

làm thần tượng cho đời mình.

Hôm nay

Chúa cũng muốn biết chúng con chọn ai,

và chúng con thật sự đắn đo

trước khi chọn Chúa.

Bởi chúng con biết rằng

chọn Chúa là lội ngược dòng,

theo Chúa là bước vào con đường hẹp:

con đường nghèo khó và khiêm nhu,

con đường từ bỏ và phục vụ.

Hôm nay, chúng con chọn Chúa

không phải vì Chúa giàu có, tài năng hay nổi tiếng,

nhưng vì Chúa là Thiên Chúa làm người.

Chẳng ai đáng chúng con yêu mến bằng Chúa.

Chẳng ai hoàn hảo như Chúa.

Ước gì chúng con can đảm chọn Chúa

nhiều lần trong ngày,

qua những chọn lựa nhỏ bé,

để Chúa chiếm lấy toàn bộ cuộc sống chúng con,

và để chúng con

thông hiệp vào toàn bộ cuộc sống của Chúa. Amen.

 

 

ÔNG ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ TIN

Ngày 27 tháng 12: Thánh Gioan tông đồ, tác giả sách Tin Mừng

Lời Chúa: Ga 20, 2-8

Khi ấy, bà Maria Macđala chạy về gặp ông Simon Phêrô và người môn đệ Ðức Giêsu thương mến. Bà nói: “Người ta đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu.” Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ông Simon Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Ðức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin.

Suy niệm

Niềm vui Phục Sinh khởi sự bằng thái độ hốt hoảng.

Tảng đá che cửa mộ đã bị ai đó lăn ra.

Xác của Thầy đặt bên trong đã biến mất.

Thật là chuyện kinh khủng đối với bà Maria Macđala!

Bà đã đi thăm mộ lúc trời còn tối.

Có lẽ cả đêm trước bà không chợp mắt được,

chỉ mong cho chóng sáng để lên đường.

Ai có thể hiểu được trái tim của bà?

Tình yêu đã khiến bà đứng dưới chân thập giá (Ga 19,25)

và tham dự cuộc mai táng Thầy Giêsu (Mt 27,61).

Bây giờ tình yêu ấy lại thúc đẩy bà ra mộ trước tiên,

trước cả người môn đệ được Ðức Giêsu thương mến…

Maria hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ.

Bà nghĩ chắc có kẻ đã ăn cắp xác Thầy.

Vấn đề duy nhất làm bà âu lo khắc khoải,

đó là họ đang để Người ở đâu (Ga 20,2.13.15).

Bà cần biết chỗ đó, để lấy ngay xác về.

Maria chẳng nghĩ gì đến chuyện Chúa Phục Sinh,

bà chỉ mong tìm lại xác của Thầy đã chết.

Maria chạy về để kéo theo Phêrô và Gioan chạy đến mộ,

những bước chân hối hả vội vàng.

Chỉ có ngôi mộ trống và những băng vải đặt ở đó,

còn khăn che đầu thì được cuốn lại, xếp riêng.

Thấy mọi điều đó, Gioan tin rằng Thầy đã Phục Sinh.

Chẳng ai ăn cắp xác mà để lại gọn ghẽ khăn vải liệm.

Chúng ta cần có lòng mến thiết tha của bà Maria Macđala,

nhưng cũng cần có sự nhạy cảm để tin như Gioan.

Khi tin, người ta khám phá ra ý nghĩa của các biến cố:

ý nghĩa của cái chết bi đát trên núi sọ,

ý nghĩa của ngôi mộ trống và tấm khăn xếp gọn gàng.

Chúng ta cần có lòng tin

để khỏi rơi vào sự thất vọng hay hốt hoảng,

trước những thất bại, đổ vỡ mất mát trong cuộc đời.

Ðời chúng ta lắm khi giống ngôi mộ trống trải.

Những gì chúng ta yêu quý nay chẳng còn.

Chúng ta đôn đáo kiếm tìm điều đã mất,

trong nước mắt đau khổ như bà Maria (Ga 20,11)

Nhưng nếu xác Ðức Giêsu cứ nằm yên trong mồ,

để cho bà Maria đến thăm viếng,

thì làm gì có chuyện Chúa Phục Sinh?

Phiến đá cửa mộ không giữ được Ngài,

những băng vải không ngăn được Ngài ra đi.

Sự sống bật dậy từ tro tàn của cái chết.

Ánh sáng bừng lên từ bóng tối mịt mù.

Tình yêu thắng trận khi tưởng như bị hận thù nuốt chửng.

Niềm vui Phục Sinh là quà tặng bất ngờ cho Maria.

Bà sẽ chẳng bao giờ tìm thấy xác Thầy trong mộ đâu,

nhưng bà sẽ gặp chính Ðấng Phục Sinh ở ngoài mộ đá.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Phục Sinh,

vì Chúa đã Phục Sinh

nên con thấy mình chẳng còn gì phải sợ.

Vì Chúa đã Phục Sinh

nên con được tự do bay cao,

không bị nỗi sợ hãi của phận người chi phối,

sợ thất bại, sợ khổ đau,

sợ nhục nhã và cái chết lúc tuổi đời dang dở.

Vì Chúa đã Phục Sinh

nên con hiểu cái liều của người Kitô hữu

là cái liều chín chắn và có cơ sở.

Cái liều của những nữ tu phục vụ ở trại phong.

Cái liều của cha Kolbê chết thay cho người khác.

Cái liều của bậc cha ông đã hiến mình vì Đạo.

Sự Phục Sinh của Chúa là một lời mời gọi

mang một sức thu hút mãnh liệt

khiến con đổi cái nhìn về cuộc đời:

nhìn tất cả từ trên cao

để nhận ra giá trị thực sự của từng thụ tạo.

Sự Phục Sinh của Chúa

giúp con dám sống tận tình hơn

với Chúa và với mọi người.

Và con hiểu mình chẳng mất gì,

nhưng lại được tất cả. Amen.

 

 

KHÓC THƯƠNG CON MÌNH

Ngày 28 tháng 12: Các thánh anh hài tử đạo

Lời Chúa: Mt 2, 13-18

Khi các nhà chiêm tinh đã ra về, thì kìa sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai Cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi đấy!” Ông Giuse liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai Cập. Ông ở đó cho đến khi vua Hêrôđê băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: “Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai Cập.” Bấy giờ vua Hêrôđê thấy mình bị các nhà chiêm tinh đánh lừa, thì đùng đùng nổi giận, nên sai người đi giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và toàn vùng lân cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh. Thế là ứng nghiệm lời ngôn sứ Giêrêmia: “Ở Rama, vẳng nghe tiếng khóc than rền rĩ: tiếng bà Rakhen khóc thương con mình và không chịu để cho người ta an ủi, vì chúng không còn nữa…”

Suy niệm

Trong tuần Bát Nhật Giáng Sinh, một thời gian rất vui,

chúng ta cũng nhớ đến cái chết của các Thánh Anh Hài.

Không rõ đã có bao nhiêu trẻ thơ bị giết bởi vua Hêrôđê Cả.

Vị vua này điên cuồng bảo vệ ngôi báu nên đã giết nhiều người,

trong số đó có người vợ Do Thái và ba con trai của ông.

Đối với ông, việc sát hại trẻ thơ ở Belem chỉ là chuyện nhỏ.

Trước khi giết các bé trai ở Belem, vua đã muốn giết Hài Nhi Giêsu.

Nhưng Thiên Chúa có cách bảo vệ cho Con của Ngài.

Giuse vẫn là người đứng mũi chịu sào trong cơn nguy khó.

Sứ thần báo mộng cho ông, để ông đưa Hài Nhi và Mẹ trốn qua Ai Cập.

Khi được báo, ông đã trỗi dậy giữa đêm khuya và lên đường.

Cuộc trốn chạy vội vã trong đêm với những lo sợ, thiếu thốn, vất vả.

Ngay từ khi chào đời, Đức Giêsu đã bị đe dọa, phải sống xa quê nhà.

Đấng đem đến ơn cứu độ lại cần được cứu.

Đau khổ và thập giá đã có mặt ngay từ khi Vầng Dương ló rạng.

Biết Hài Nhi Giêsu đã trốn thoát, vua Hêrôđê nổi cơn thịnh nộ,

vì thấy mình bị mắc lừa bởi các nhà Đạo sĩ.

Ông bực tức ra lệnh giết các bé trai dưới hai tuổi ở Belem.

Tiếng khóc của trẻ thơ và của các bà mẹ vang lên như oán than.

Có ai còn nghe tiếng hát cao vút của các thiên thần?

Cái chết của Các Thánh Anh Hài là cái chết đặc biệt,

cái chết của những nạn nhân bé bỏng, vô tội, chưa có ý thức và tự do.

Cái chết của những người chưa biết nói, chưa có lòng tin vào Giêsu.

Nhưng đây là cái chết vì Đức Giêsu, nên thực sự là cái chết tử đạo.

Có bao nhiêu cái chết như thế trên thế giới mỗi ngày.

Cái chết không tự nguyện, không tiếng nói phản kháng.

Cái chết làm bằng chứng về một giá trị quan trọng bị chối bỏ.

Cái chết ấy có thể đưa người ta về với Giêsu.

Thế giới hôm nay vẫn có bao trẻ thơ chết vì bị giết.

Có những trẻ thơ chết trong lòng mẹ,

chết vì nghèo đói, vì chiến tranh, vì bệnh tật.

Có những trẻ em phải nghỉ học để đi làm, bị bóc lột bởi chủ nhân.

Có những em bị lạm dụng, bị bỏ rơi, tuổi thơ bị cướp mất.

Nơi những em này, ta thấy hình bóng của Các Thánh Anh Hài,

và thấy cả khuôn mặt của Hài Nhi Giêsu ngây thơ.

Xúc phạm đến trẻ thơ là xúc phạm đến chính Thiên Chúa.

Thánh Giuse và Mẹ Maria đã bảo vệ Hài Nhi Giêsu an toàn tại Ai Cập.

Ai sẽ bảo vệ những trẻ em hôm nay khỏi bao tấn công của cái xấu?

Ai sẽ làm gương sáng để các em còn hy vọng?

Vẫn có những tiếng khóc của các bà mẹ, vì con bị giựt khỏi tay mình.

Lễ Giáng Sinh và lễ các Thánh Anh Hài là lễ của trẻ thơ.

Chăm sóc cho trẻ thơ hiện tại là cách xây dựng tốt nhất cho tương lai.

Xin Chúa cho chúng ta dám làm một điều gì đó cho các em.

Cầu nguyện

Lạy Cha nhân ái, từ trời cao,

xin Cha nhìn xuống

những gia đình sống trên mặt đất

trong những khu ổ chuột tồi tàn

hay biệt thự sang trọng.

Xin thương nhìn đến

những gia đình thiếu vắng tình yêu

hay thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu,

những gia đình buồn bã vì vắng tiếng cười trẻ thơ

hay vất vả âu lo vì đàn con nheo nhóc.

Xin Cha nâng đỡ những gia đình đã thành hỏa ngục

vì chứa đầy dối trá, ích kỷ, dửng dưng.

Lạy Cha, xin nhìn đến những trẻ em trên thế giới,

những trẻ em cần sự chăm sóc và tình thương

những trẻ em bị lạm dụng, bóc lột, buôn bán,

những trẻ em lạc lõng bơ vơ, không được đến trường,

những trẻ em bị đánh cắp tuổi thơ và trở nên hư hỏng.

Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ

từng gia đình là hình ảnh của thánh Gia Thất,

từng trẻ em là hình ảnh của Con Cha thuở ấu thơ.

Xin Cha sai Thánh Thần Tình Yêu

đem đến hạnh phúc cho mỗi gia đình;

nhưng xin cũng nhắc cho chúng con nhớ

hạnh phúc luôn ở trong tầm tay

của từng người chúng con. Amen.

 

 

ƠN CỨU ĐỘ CHO MUÔN DÂN

Ngày 29 tháng 12: Tuần Bát nhật Giáng sinh

Lời Chúa: Lc 2, 22-35

Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Môsê, bà Maria và ông Giuse đem con lên Giêrusalem, để tiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa”, và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non. Và này đây, tại Giêrusalem, có một người tên là Simêon. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Israel, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Ðấng Kitô của Ðức Chúa. Ðược Thần Khí run rủi, ông lên Ðền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người, thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng: Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Ðó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel Dân Ngài. Cha mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Simêon vừa nói về Người. Ông Simêon chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Maria, mẹ của Hài Nhi: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được trỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng. Còn chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra.”

Suy niệm

Luật lệ thường làm người ta cảm thấy gò bó, mất tự do.

Người Do Thái phải giữ Luật Chúa đã ban cho Môsê.

Con trai thì phải được cắt bì và đặt tên tám ngày sau khi sinh (Lc 2,21).

Con trai đầu lòng thuộc quyền sở hữu của Thiên Chúa (Xh 13,1-2),

nên cha mẹ phải nộp năm sê-ken bạc cho tư tế

để chuộc lại con cho mình (Ds 3,47-48).

Người phụ nữ sau khi sinh con, bị coi là nhơ uế (Lv 12, 2-8),

phải ở nhà, không được đụng đến vật thánh hay vào Đền thờ.

Bốn mươi ngày sau khi sinh con trai, bà cần làm lễ thanh tẩy.

Bà phải dâng cho Đền thờ một con chiên một tuổi làm lễ toàn thiêu,

và một con chim gáy hay bồ câu để làm lễ tạ tội.

Nếu nghèo, bà chỉ cần dâng một cặp bồ câu non hay chim gáy là đủ.

Giuse và Maria đã vui vẻ giữ những luật này,

dù ngày nay đối với chúng ta, chúng thật là khó hiểu và khó chấp nhận.

Hãy nhìn ngắm đôi vợ chồng nghèo lên Giêrusalem.

Họ đã vượt một quãng đường xa, với đứa con mới hơn tháng tuổi.

Maria chịu thanh tẩy, dù bà biết mình đã cưu mang Đấng Thánh.

Bà đã dâng lễ vật đơn sơ của một người nghèo (c. 24).

Dù Luật không buộc, ông bà cũng đem Con lên Đền thờ để dâng.

Họ muốn con mình thuộc trọn về Thiên Chúa (x. 1 Sm 1, 22).

Ông bà đã không đòi hỏi một đặc ân hay miễn trừ nào.

Giữ Luật là cách họ thể hiện tình yêu đối với Chúa.

Có ai nhận ra đôi vợ chồng với đứa con nhỏ này là ai không?

Có, một người công chính và sùng đạo tên là Simêon.

Thánh Thần hằng ngự trên ông (c. 25),

và nói cho ông biết ông sẽ thấy Đức Kitô trước khi lìa đời (c. 26).

Chính Thánh Thần thúc đẩy ông lên Đền thờ vào lúc này (c. 27).

Bỗng nhiên ông thấy mầu nhiệm lớn lao đang tỏa sáng,

nơi Hài Nhi bé nhỏ, con của đôi vợ chồng nghèo.

Mọi mong chờ lâu nay của ông được đền đáp.

Các mục đồng đã nhận ra Đức Kitô nơi bé thơ quấn tã, nằm máng cỏ,

còn Simêon nhận ra Ngài nơi em bé được bồng ẵm bởi đôi vợ chồng.

Ông đã bồng Hài Nhi trong vòng tay, ngất ngây vì hạnh phúc.

Môi ông bật lên lời chúc tụng của người sẵn sàng nhắm mắt ra đi.

Ơn cứu độ cho muôn dân đã đến đây rồi (cc. 30-31).

Hài Nhi bé nhỏ này là Ánh sáng cho muôn dân,

là Vinh quang cho Dân Israel của Đức Chúa (c. 32).

Để nhận ra Chúa trong cuộc sống buồn tẻ hay sôi động hàng ngày,

cần có sự gần gũi thân thiết với Thánh Thần như ông Simêon.

Thánh Thần như trò chuyện, mách bảo, thôi thúc ông từ bên trong.

Thánh Thần soi sáng để ông nhận ra điều lớn lao mắt phàm không thấy.

Nhưng để nghe được sự mách bảo thầm kín của Thánh Thần,

chúng ta cũng phải có sự thánh thiện và lòng khát khao như ông Simêon.

Chẳng còn mơ ước gì ngoài việc được gặp mặt Đức Kitô qua cuộc sống.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

xin cho con nhìn thấy sự hiện diện của Chúa

ở bên con dưới muôn ngàn dáng vẻ.

Chúa hiện diện lặng lẽ

như tấm bánh nơi nhà Tạm,

nhưng Chúa cũng ở nơi những ai nghèo khổ,

những người sống không ra người.

Chúa hiện diện sống động nơi vị linh mục,

nhưng Chúa cũng có mặt ở nơi hai, ba người

gặp gỡ nhau để chia sẻ Lời Chúa.

Chúa hiện diện nơi Giáo Hội

gồm những con người yếu đuối, bất toàn,

và Chúa cũng ở rất sâu

trong lòng từng kitô hữu.

Lạy Chúa Giêsu,

xin cho con thấy Chúa

đang tạo dựng cả vu trụ

và đang đưa dòng lịch sử này về với Chúa.

Xin cho con gặp Chúa nơi bất cứ ai là người

vì họ có cùng khuôn mặt với Chúa.

Xin cho con khám phá ra

Chúa đang hẹn gặp con

nơi mọi biến cố buồn vui của đời thường.

Ước gì con thấy Chúa ở khắp nơi,

thấy đâu đâu cũng là nhà của Chúa.

Và ước gì con đừng bỏ lỡ bao cơ hội gặp Chúa

trên bước đường đời của con. Amen.

 

 

NGÀY CÀNG LỚN LÊN

Ngày 30 tháng 12: Tuần Bát nhật Giáng sinh

Lời Chúa: Lc 2, 36-40

Khi ấy cũng có một nữ ngôn sứ tên là Anna, con ông Pơnuen, thuộc chi tộc Ase. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi ở goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Ðền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ gặp ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem.

Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là Nadarét, miền Galilê. Còn Hài Nhi, ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.

Suy niệm

Khi viết sách Tin Mừng, thánh Luca thích nêu bật vai trò của phụ nữ,

vì trong xã hội Israel thời xưa, việc lãnh đạo chủ yếu do đàn ông.

Luca hay đặt sóng đôi những câu chuyện về các nhân vật nam và nữ.

Sau trình thuật sứ thần Gabrien truyền tin cho ông Dacaria,

thì đến trình thuật sứ thần truyền tin cho Đức Mẹ.

Sau sự xuất hiện của ông già Simêon nói tiên tri về Hài Nhi,

thì bà Anna cũng được giới thiệu minh nhiên như một nữ ngôn sứ.

Làm ngôn sứ đâu phải là đặc quyền dành cho phái nam!

Khuôn mặt của Simêon và Anna có những nét giống nhau.

Cả hai đều là những người tuổi cao và đạo hạnh.

Đời sống của họ gắn bó với Đền thờ.

Riêng cuộc đời của cụ bà Anna thì thật đáng phục.

Cụ xuất giá được bảy năm thì ở góa, nay cụ đã tám mươi tư.

Giả như cụ lấy chồng vào năm mười lăm tuổi,

thì hẳn cụ đã sống trong cảnh góa bụa hơn sáu mươi năm.

Một thời gian dài không có chỗ dựa vững chắc của người chồng.

Nhưng cụ Anna lại tìm thấy một chỗ dựa khác, vững hơn.

Đó là Thiên Chúa mà cụ đêm ngày thờ phượng (c. 37).

Đó là Đền thờ mà cụ coi như nhà của mình.

Đời sống của một góa phụ trẻ, lúc mới ngoài hai mươi, thật không dễ.

Ăn chay cầu nguyện là cách để cụ làm chủ bản thân và thắng cám dỗ.

Simêon và Anna đều là những người cao tuổi đã và đang chờ.

Họ sống để chờ những lời Chúa hứa được thành tựu,

sống để chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem (c. 38).

Anna có biết hôm nay nỗi đợi chờ của cụ được đáp ứng không?

Với trực giác của một ngôn sứ, cụ nhận ra ngay vị Cứu tinh bé nhỏ

đang được bồng ẵm trên tay của đôi vợ chồng nghèo.

Như xuất thần, cụ nói về Hài Nhi cho những người chung quanh.

Không phải chờ nữa, vì ơn cứu chuộc mong mỏi từ lâu nay đã đến.

Thiên Chúa đã giữ trọn lời hứa của Ngài.

Chúng ta đang mừng Lễ Giáng sinh, mừng Con Thiên Chúa làm người.

Chúng ta có ít thời gian để suy niệm về thời gian của Ngài ở Nadarét.

Hơn ba mươi năm để Hài Nhi từ từ lớn lên, trở nên người trưởng thành.

Làm người là chấp nhận lớn lên mỗi ngày một chút về mọi mặt.

Thân xác của cậu Giêsu trở nên mạnh mẽ, trí tuệ cậu đầy khôn ngoan,

và về mặt tâm linh, ân lộc của Thiên Chúa ở trên cậu (c. 40).

Hài Nhi Giêsu đã lớn lên một cách quân bình

để thành Thầy Giêsu đi rao giảng vào lúc ngoài ba mươi.

Con Thiên Chúa cũng phải chăm chỉ học làm người,

qua tha nhân và kinh nghiệm, qua lao động và thách đố trong cuộc sống.

Ngài chia sẻ phận người long đong của chúng ta,

nên Ngài hiểu gánh nặng của phận người.

Xin được học nơi Nadarét về chia sẻ và phục vụ, về tha thứ và yêu thương.

Xin được trở nên người có khả năng dám sống và chết cho người khác.

Cầu nguyện

Lạy Chúa,

xin cho con luôn vui tươi.

dù có phải lo âu và thống khổ,

xin cho con đừng bao giờ khép lại với chính mình;

nhưng biết nghĩ đến những người quanh con,

những người – cũng như con –

đang cần một người bạn.

Nếu như con nên yếu đuối,

thì xin cho con biết yêu thương và sáng suốt hơn,

thông cảm và nhân từ hơn.

Nếu bàn tay con run rẩy,

thì xin giúp con luôn biết mở ra và cho đi.

Khi lâm tử,

xin cho con biết đón nhận khổ đau và bệnh tật

như một lời kinh.

Ước chi con sẽ chết trong khiêm hạ và tín thác,

như một lời xin vâng cuối cùng.

Và con về nhà Chúa,

để dự tiệc yêu thương muôn đời. Amen.

 

 

NGÔI LỜI ĐÃ THÀNH NGƯỜI

Ngày 31 tháng 12: Tuần Bát nhật Giáng sinh

Lời Chúa: Ga 1, 1-18

Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời.

Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa,

và Ngôi Lời là Thiên Chúa.

Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa.

Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành,

và không có Người,

thì chẳng có gì được tạo thành.

Ðiều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống,

và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.

Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối,

và bóng tối đã không diệt được ánh sáng.

Có một người được Thiên Chúa sai đến,

tên là Gioan.

Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng,

để mọi người nhờ ông mà tin.

Ông không phải là ánh sáng,

nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.

Ngôi Lời là ánh sáng thật,

ánh sáng đến thế gian

và chiếu soi mọi người.

Người ở giữa thế gian,

và thế gian đã nhờ Người mà có,

nhưng lại không nhận biết Người.

Người đã đến nhà mình,

nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.

Còn những ai đón nhận,

tức là những ai tin vào danh Người,

thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa.

Họ được sinh ra, không phải do khí huyết,

cũng chẳng do ước muốn của nhục thể,

hoặc do ước muốn của người đàn ông,

nhưng do bởi Thiên Chúa.

Ngôi Lời đã trở nên người phàm

và cư ngụ giữa chúng ta.

Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người,

vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người,

là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật.

Ông Gioan làm chứng về Người, ông tuyên bố:

“Ðây là Ðấng mà tôi đã nói:

Người đến sau tôi,

nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.”

Từ nguồn sung mãn của Người,

tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác.

Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê,

còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Ðức Giêsu Kitô mà có.

Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ;

nhưng Con Một là Thiên Chúa

và là Ðấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha,

chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.

Suy niệm

Ông Soren Kierkegaard, một triết gia người Đan Mạch, kể chuyện sau.

Một vị vua bỗng dưng đem lòng thương cô thôn nữ nghèo.

Ông tin rằng mình có thể dùng quyền vua để cưới cô ấy làm vợ.

Nhưng ông lại sợ cô lấy ông chỉ vì nể phục chứ không yêu.

Như thế tương quan giữa hai người không được trọn vẹn.

Sau khi suy nghĩ, ông thấy chỉ có cách là thực sự từ bỏ ngai vàng,

trở thành một anh nông dân nghèo, và bày tỏ tình yêu mình cho cô.

Vị vua biết làm thế là liều lĩnh, vì ông có thể mất cả cô lẫn ngôi báu.

Cô có thể chê chàng nông dân, hay chê quyết định dại dột của vị vua.

Nhưng nhà vua vẫn dám liều, vì ông quá yêu cô thôn nữ,

và ông muốn đây là một mối tình thực sự.

Câu chuyện cảm động trên đây đưa ta vào chuyện tình

đã xảy ra giữa Ngôi Lời Thiên Chúa và nhân loại.

Ngôi Lời còn cao trọng hơn vị vua kia bội phần.

Ngài là Thiên Chúa Con Một, dựng nên vạn vật (cc. 3. 18).

Ngài là Đấng duy nhất thấy Thiên Chúa và ở trong lòng Thiên Chúa,

nên chỉ Ngài mới có thể bày tỏ Thiên Chúa cho nhân loại (c.18).

Ngài tràn đầy ân sủng và sự thật, sự sống và ánh sáng (cc. 3. 14).

Tất cả những điều ấy là quà tặng của Ngôi Lời cho con người.

Nhưng quà tặng lớn lao và bất ngờ nhất làm ta ngỡ ngàng, reo vui,

đó là biến cố Ngôi Lời trở nên người phàm và ở giữa chúng ta (c. 14).

Con Thiên Chúa trở nên con của loài người và mang tên Giêsu (c. 17).

Ngài mang khuôn mặt của ta, đứng chung một dòng tiến hóa với ta.

Ngài dựng lều trên trái đất, một hành tinh bé xíu nhưng tuyệt vời,

vì đã được ghi dấu chân Con Thiên Chúa.

Ông Luther viết: “Ngài đã ăn, uống, ngủ, thức;

Ngài đã cảm thấy chán nản, biết buồn, biết vui.

Ngài khóc, cười, đói, khát; Ngài đổ mồ hôi; Ngài vất vả, cầu nguyện,

đến nỗi giữa Ngài với ta không có dị biệt nào, tuyệt nhiên không,

ngoại trừ Ngài là Thiên Chúa và Ngài vô tội.”

Khác với vị vua không muốn làm vua nữa để thành nông dân,

Ngôi Lời khi thành người vẫn là Con Thiên Chúa dưới dạng tự hủy.

Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật.

Nếu Ngài chỉ là một con người hay một bậc vĩ nhân,

thì Ngài chỉ đáng ta kính trọng chứ không phụng thờ.

Nếu Ngài chỉ là một Thiên Chúa đội lốt người, chứ không là người thật,

thì Ngài không thể cứu độ và thần hóa con người.

Lễ Giáng sinh là lễ hội của mọi người trên mặt đất

vì Con Thiên Chúa đã muốn chia sẻ phận người của chúng ta.

Ngài đã đến với thế giới này như nhà của Ngài (cc. 9. 11).

Chỉ cần nhận biết, tin vào Ngài, đưa Ngài vào nhà (cc. 10-12)

là chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa.

Hơn hai ngàn năm đã trôi qua, Đức Giêsu vẫn đứng ngoài để chờ.

Có ai mở cửa cho Ngài không? (Kh 3, 20).

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa,

Chúa đã muốn trở nên con của loài người,

con của trái đất, con của một dân tộc.

Chúa vẫn yêu mến dân tộc của Chúa

dù họ từ khước Tin Mừng

và đóng đinh Chúa vào thập giá.

Xin cho chúng con biết yêu mến quê hương,

một quê hương còn nghèo nàn lạc hậu

sau những năm dài chiến tranh,

một quê hương đang mở ra trước thế giới

nhưng lại muốn giữ gìn bản sắc dân tộc

và bảo vệ nền đạo lý của cha ông.

Xin cho chúng con đừng nhắm mắt ngủ yên

trong sự an toàn và tiện nghi vật chất,

nhưng biết trăn trở trước nỗi khổ đau,

và làm một điều gì đó thật cụ thể

cho những đồng bào quanh chúng con.

Ước gì chúng con biết phục vụ đất nước

bằng khối óc, quả tim và đôi tay.

Và ước gì chúng con biết khiêm tốn

cộng tác với muôn người thiện chí. Amen.

 

 

GHI NHỚ VÀ SUY NIỆM TRONG LÒNG

Ngày 01 tháng 01: Thánh Maria, Mẹ Thiên Chúa

Lời Chúa: Lc 2, 16-21

Khi ấy, các mục tử ra đi vội vã đến thành Bêlem, và gặp thấy Maria, Giuse và hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ hiểu ngay lời đã báo về hài nhi này. Và tất cả những người nghe đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ. Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những việc đó và suy niệm trong lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và đã xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ. Khi đã đủ tám ngày, lúc phải cắt bì cho con trẻ, thì người ta gọi tên Người là Giêsu, tên mà thiên thần đã gọi trước khi con trẻ được đầu thai trong lòng mẹ.

Suy niệm

Làm người ai cũng cần có mẹ.

Mẹ là người cưu mang, sinh ra và dưỡng nuôi con cho khôn lớn.

Khi Con Thiên Chúa làm người, mang lấy trọn phận người,

Ngài cũng cần một người mẹ, như bao người khác.

Mẹ Maria là thiếu nữ, là trinh nữ được Thiên Chúa tuyển chọn,

Để thụ thai và sinh hạ Con Một Thiên Chúa.

Khi Công Đồng Êphêsô (năm 431) gọi Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa,

Công Đồng không có ý dạy

Đức Mẹ sinh ra Chúa Cha hay Chúa Thánh Thần.

Đức Mẹ chỉ sinh ra Đức Giêsu,

Mà Đức Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể,

Nên Mẹ thực sự là Mẹ Thiên Chúa (Theotokos).

Chắc Mẹ Maria không thể hiểu hết và hiểu ngay

Màu nhiệm lớn lao mà Mẹ đang cưu mang trong dạ.

Khi các mục đồng kể lại những điều huy hoàng họ nghe thấy ở Belem,

Mẹ Maria ghi nhớ tất cả những điều ấy và suy đi nghĩ lại trong tim mình.

Để đi vào mầu nhiệm cách sâu xa, cần ơn soi sáng của Chúa,

Nhưng cũng cần thái độ chiêm niệm, nghiền ngẫm trong lặng thinh.

Chúng ta thường để ý đến biến cố Truyền Tin và biến cố Giáng Sinh,

biến cố Ngôi Lời bắt đầu hiện hữu trong lòng mẹ và biến cố chào đời.

Nhưng chúng ta không được quên chín tháng Mẹ cưu mang người Con.

Con Thiên Chúa đã lớn lên từ từ trong lòng Mẹ như các thai nhi khác.

Muốn sinh Đức Giêsu cho thế giới hôm nay,

Chúng ta cũng cần nhiều thời gian để cưu mang Ngài trong cuộc đời ta,

để Ngài trở nên đủ cứng cáp khi chào đời.

Chúng ta cũng phải chấp nhận cả sự đau đớn khi sinh hạ.

Bước qua một Năm Mới, mở trang đầu của cuốn lịch mới,

Chúng ta mong những điều mới mẻ tốt lành xảy đến cho mình

Và muốn tặng cho nhau một câu chúc đầy ý nghĩa:

“Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em!” (Ds 6, 26)

Cầu nguyện

Lạy Mẹ Maria,

khi đọc Phúc Âm,

lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.

Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Ðức Giêsu.

Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.

Mẹ tìm Con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.

Mẹ đi thăm Ðức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.

Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.

Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi

âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong,

từ con người hay từ Thiên Chúa.

Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Ðức Giêsu

trong mọi bước đường của cuộc sống.

Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.

Có những con đường đầy máu và nước mắt.

Xin Mẹ dạy chúng con

đừng sợ lên đường mỗi ngày,

đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa

dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.

Xin giữ chúng con luôn đi trên Ðường-Giêsu

để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ

đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.

 

 

LỄ THÁNH GIA

TRỐN SANG AI CẬP

Tuần Bát nhật Giáng sinh – Lễ Thánh Gia năm A

Lời Chúa: Mt 2, 13-15.19-23

Khi các nhà chiêm tinh đã ra về, thì sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi đấy!” Ông Giuse liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai cập. Ông ở đó cho đến khi vua Hêrôđê băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai cập. Sau khi vua Hêrôđê băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giuse bên Ai cập, báo mộng cho ông rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Israel, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi.” Ông liền trỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Israel. Nhưng vì nghe biết Ackhêlao đã kế vị vua cha là Hêrôđê, cai trị miền Giuđê, nên ông sợ không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Galilê, và đến ở tại một thành kia gọi là Nadarét, để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng các ngôn sứ rằng: Người sẽ được gọi là người Nadarét.

Suy niệm

Ðoạn Tin Mừng trên đây kể lại một biến cố không vui.

Con Thiên Chúa bị Hêrôđê đe dọa tính mạng.

Ðược mộng báo, đang đêm Giuse phải đem gia đình đi trốn.

Ðất Ai cập vẫn được coi là chỗ trú ẩn an toàn…

Nhưng ngay cả khi vua Hêrôđê lìa đời,

mối đe dọa vẫn còn tồn tại.

Ackhêlao kế nghiệp vua cha, là người tàn ác không kém,

khiến Thánh gia chẳng dám về ở vùng Giuđê,

mà phải trở về quê nhà ở Nadarét.

Như thế cuộc sống của Thánh gia chẳng phải là êm ả.

Ðâu phải có Chúa là tránh được căng thẳng, long đong.

Chỉ có một điều Thánh gia đã không để mất,

đó là niềm tín thác vững vàng vào Thiên Chúa,

ngay giữa những hiểm nguy từ phía bạo quyền,

đó là tình yêu thương gắn bó với nhau,

giữa những lúc khó khăn chồng chất.

Rồi mọi sự sẽ qua, rồi bình an sẽ trở lại.

Nhìn lại cuộc sống Thánh gia, ta thấy có nhiều sóng gió.

Có lúc tưởng như tan vỡ, khi thánh Giuse định rút lui…

Có lúc bối rối khi ở Bêlem không tìm ra chỗ trọ.

Có những ngày đôn đáo tìm con trong nước mắt.

Có lúc họ hàng tưởng Ðức Giêsu mất trí, nên đi bắt về.

Và nhất là có lúc Mẹ phải đứng bên xác con…

Thánh gia chẳng được hưởng một chút ưu đãi nào.

Một gia đình vô cùng thánh thiện và gương mẫu

cũng phải chịu bao khổ đau và nghịch cảnh,

nhờ đó mọi gia đình Kitô hữu khác

có thể yên tâm đứng vững giữa những lúc mây mù.

Các gia đình hôm nay cũng bị đe dọa.

Có những gia đình quá nghèo túng và nợ nần.

Có những trẻ thơ bị thất học, bị bỏ rơi, bị lạm dụng

Mối đe dọa lớn nhất là thiếu vắng tình yêu.

Có những xung đột giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái.

Kết quả là nạn phá thai, ngoại tình, ly dị.

Gia đình chẳng còn là dòng suối ngọt ngào,

nơi mọi người lớn lên nhờ yêu và được yêu,

nhờ kiên nhẫn lắng nghe, nhờ dịu dàng đối thoại,

nhờ bầu khí cảm thông khiến người ta dám chấp nhận nhau.

Trong một cuộc phỏng vấn mới đây, mẹ Têrêsa phát biểu:

“Tôi nghĩ rằng không phải ai cũng ý thức

về tầm quan trọng của gia đình.

Nếu chúng ta đưa tình yêu trở lại gia đình,

thế giới này sẽ đổi khác.”

Thế giới băng hoại vì gia đình thiếu tình yêu.

Giới trẻ nghiện ngập và hư hỏng vì bơ vơ, buồn chán.

Ước gì mỗi gia đình Kitô hữu đều là một mái ấm,

đầy ắp tình yêu, đầy ắp Thiên Chúa.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

sau hơn 30 năm sống dưới mái nhà Nadarét,

Chúa đã thành một người chín chắn

và trưởng thành,

sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng Cha giao.

Bầu khí yêu thương đã góp phần không nhỏ

trong việc hình thành nhân cách của Chúa.

Chúa đã học nơi thánh Giuse

sự lao động miệt mài,

sự mau mắn thi hành Thánh ý Thiên Chúa,

sự âm thầm chu toàn trách nhiệm đối với gia đình.

Chúa đã học nơi Mẹ Maria

sự tế nhị và phục vụ,

sự buông mình sống trong lòng tin phó thác

và nhất là một đời sống cầu nguyện thâm trầm.

Xin nhìn đến gia đình chúng con,

xin biến nó thành nơi sản sinh những con người tốt,

biết yêu thương tha thứ,

biết cầu nguyện và phục vụ.

Ước gì xã hội chúng con lành mạnh hơn,

Giáo hội chúng con thánh thiện hơn,

nhờ có những con người khỏe mạnh, khôn ngoan

và tràn đầy ơn Chúa. Amen.

 

 

NGÀY CÀNG LỚN LÊN

Tuần Bát nhật Giáng sinh – Lễ Thánh Gia năm B

Lời Chúa: Lc 2, 22-40

Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Môsê, bà Maria và ông Giuse đem con lên Giêrusalem, để tiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa”, và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non. Và này đây, tại Giêrusalem, có một người tên là Simêon. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Israel, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Ðấng Kitô của Ðức Chúa. Ðược Thần Khí dun dủi, ông lên Ðền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người, thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:

Muôn lạy Chúa, giờ đây

theo lời Ngài đã hứa,

xin để tôi tớ này được an bình ra đi.

Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ

Chúa đã dành sẵn cho muôn dân:

Ðó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,

là vinh quang của Israel Dân Ngài.

Cha mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Simêon vừa nói về Người. Ông Simêon chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Maria, mẹ của Hài Nhi: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được trỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng còn chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra.

Khi ấy cũng có một nữ ngôn sứ tên là Anna, con ông Pơnuen, thuộc chi tộc Ase. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi ở goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Ðền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ gặp ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem.

Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là Nadarét, miền Galilê. Còn Hài Nhi, ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.

Suy niệm

Khi viết sách Tin Mừng, thánh Luca thích nêu bật vai trò của phụ nữ,

vì trong xã hội Israel thời xưa, việc lãnh đạo chủ yếu do đàn ông.

Luca hay đặt sóng đôi những câu chuyện về các nhân vật nam và nữ.

Sau trình thuật sứ thần Gabrien truyền tin cho ông Dacaria,

thì đến trình thuật sứ thần truyền tin cho Đức Mẹ.

Sau sự xuất hiện của ông già Simêon nói tiên tri về Hài Nhi,

thì bà Anna cũng được giới thiệu minh nhiên như một nữ ngôn sứ.

Làm ngôn sứ đâu phải là đặc quyền dành cho phái nam!

Khuôn mặt của Simêon và Anna có những nét giống nhau.

Cả hai đều là những người tuổi cao và đạo hạnh.

Đời sống của họ gắn bó với Đền thờ.

Riêng cuộc đời của cụ bà Anna thì thật đáng phục.

Cụ xuất giá được bảy năm thì ở góa, nay cụ đã tám mươi tư.

Giả như cụ lấy chồng vào năm mười lăm tuổi,

thì hẳn cụ đã sống trong cảnh góa bụa hơn sáu mươi năm.

Một thời gian dài không có chỗ dựa vững chắc của người chồng.

Nhưng cụ Anna lại tìm thấy một chỗ dựa khác, vững hơn.

Đó là Thiên Chúa mà cụ đêm ngày thờ phượng (c. 37).

Đó là Đền thờ mà cụ coi như nhà của mình.

Đời sống của một góa phụ trẻ, lúc mới ngoài hai mươi, thật không dễ.

Ăn chay cầu nguyện là cách để cụ làm chủ bản thân và thắng cám dỗ.

Simêon và Anna đều là những người cao tuổi đã và đang chờ.

Họ sống để chờ những lời Chúa hứa được thành tựu,

sống để chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem (c. 38).

Anna có biết hôm nay nỗi đợi chờ của cụ được đáp ứng không?

Với trực giác của một ngôn sứ, cụ nhận ra ngay vị Cứu tinh bé nhỏ

đang được bồng ẵm trên tay của đôi vợ chồng nghèo.

Như xuất thần, cụ nói về Hài Nhi cho những người chung quanh.

Không phải chờ nữa, vì ơn cứu chuộc mong mỏi từ lâu nay đã đến.

Thiên Chúa đã giữ trọn lời hứa của Ngài.

Chúng ta đang mừng Lễ Giáng sinh, mừng Con Thiên Chúa làm người.

Chúng ta có ít thời gian để suy niệm về thời gian của Ngài ở Nadarét.

Hơn ba mươi năm để Hài Nhi từ từ lớn lên, trở nên người trưởng thành.

Làm người là chấp nhận lớn lên mỗi ngày một chút về mọi mặt.

Thân xác của cậu Giêsu trở nên mạnh mẽ, trí tuệ cậu đầy khôn ngoan,

và về mặt tâm linh, ân lộc của Thiên Chúa ở trên cậu (c. 40).

Hài Nhi Giêsu đã lớn lên một cách quân bình

để thành Thầy Giêsu đi rao giảng vào lúc ngoài ba mươi.

Con Thiên Chúa cũng phải chăm chỉ học làm người,

qua tha nhân và kinh nghiệm, qua lao động và thách đố trong cuộc sống.

Ngài chia sẻ phận người long đong của chúng ta,

nên Ngài hiểu gánh nặng của phận người.

Xin được học nơi Nadarét về chia sẻ và phục vụ, về tha thứ và yêu thương.

Xin được trở nên người có khả năng dám sống và chết cho người khác.

Cầu nguyện

Lạy Chúa,

xin cho con luôn vui tươi.

dù có phải lo âu và thống khổ,

xin cho con đừng bao giờ khép lại với chính mình;

nhưng biết nghĩ đến những người quanh con,

những người – cũng như con –

đang cần một người bạn.

Nếu như con nên yếu đuối,

thì xin cho con biết yêu thương và sáng suốt hơn,

thông cảm và nhân từ hơn.

Nếu bàn tay con run rẩy,

thì xin giúp con luôn biết mở ra và cho đi.

Khi lâm tử,

xin cho con biết đón nhận khổ đau và bệnh tật

như một lời kinh.

Ước chi con sẽ chết trong khiêm hạ và tín thác,

như một lời xin vâng cuối cùng.

Và con về nhà Chúa,

để dự tiệc yêu thương muôn đời. Amen.

 

 

CON CÓ BỔN PHẬN

Tuần Bát nhật Giáng sinh – Lễ Thánh Gia năm C

Lời Chúa: Lc 2, 41-52

Hằng năm, cha mẹ Ðức Giêsu trẩy hội đền Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua. Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, theo tập tục ngày lễ. Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giêsu thì ở lại Giêrusalem, mà cha mẹ chẳng hay biết. Ông bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc. Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giêrusalem mà tìm.

Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Ðền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. Ai nghe cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đáp của cậu. Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” Người đáp: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói.

Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Ðức Giêsu, ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến.

Suy niệm

Mầu nhiệm Nhập Thể bắt đầu từ tiếng Xin Vâng ở Nadarét.

Nadarét là nơi Ngôi Lời làm người sống phần lớn thời gian.

Mái ấm Nadarét thật khác thường, và rất đỗi bình thường.

Ðây là một gia đình có bầu khí yêu thương, đạo hạnh.

Nadarét là trường học đầu tiên huấn luyện Ðức Giêsu,

chuẩn bị Ngài gánh vác sứ mạng Cha giao sau này.

Nadarét là trường dạy cầu nguyện, dạy giáo lý, dạy lao động,

dạy yêu thương đến hiến mình cho người khác.

Ðức Giêsu đã vâng phục kỷ luật của trường này.

Ngài đã chấp nhận những vị thầy đầu tiên là cha mẹ,

và Ngài đã lớn lên, chững chạc, trưởng thành,

quân bình cả về thân xác, trí tuệ lẫn tâm linh.

Con Thiên Chúa đã tập làm người ở Nadarét,

và nền giáo dục ở Nadarét đã thành công khi trao cho ta

một Giêsu khôn ngoan, đạo đức và nhân hậu, ở tuổi ngoài 30.

Nền giáo dục gia đình được coi là tốt khi giúp con cái

mở ra trước những đòi hỏi của Thiên Chúa và tha nhân.

“Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà CHA con sao?”

Từ năm 12 tuổi, cậu Giêsu đã ý thức mình là Con của Thiên Chúa,

Ðấng mà cậu trìu mến gọi là Cha.

Cậu đã sống mối tương quan thân tình độc đáo này

và cậu cảm thấy điều đó kéo theo những bổn phận:

ở lại trong nhà Cha hay lo việc của Cha.

Càng lúc Ðức Giêsu càng ý thức về mình,

trong tương quan với Cha và trong sự thúc bách của sứ mạng.

Con Thiên Chúa cần mẹ cha, cần một mái ấm để lớn lên,

nhưng cả mối dây thân thương tự nhiên ấy

cũng có lúc phải chịu hy sinh,

nếu nó cản trở sứ mạng Cha trao phó.

Ta không rõ tại sao cậu Giêsu rất mực khôn ngoan

đã ở lại Ðền Thờ mà không báo cho cha mẹ.

Nhưng chắc chắn sau này cậu sẽ phải chia tay với Mẹ Maria.

Ðức Giêsu không chỉ là người con hiếu thảo với mẹ cha,

nhưng trên hết và trước hết, Ngài là Con vâng phục CHA.

CHA trên trời là ưu tiên vượt trên mọi ưu tiên khác.

Ðức Maria không hiểu câu trả lời của Con mình.

Dù Mẹ đã nghe bao mạc khải về Con từ Gabrien, Simêon,

nhưng những biến cố đời thường vẫn làm Mẹ ngỡ ngàng.

Con vẫn là một mầu nhiệm vừa gần, vừa xa đối với Mẹ.

Mẹ không hiểu nổi, không hiểu hết hay không hiểu ngay,

nên Mẹ vẫn cung kính đứng trước mầu nhiệm

bằng thái độ vâng phục của lòng tin và nghiền ngẫm mãi.

Mẹ chẳng giữ Con lại trong vòng tay của mình.

Mẹ để Con lên đường, Mẹ dâng Con trên Núi Sọ.

Chỉ biến cố Phục Sinh mới làm Mẹ thật hiểu Con.

Cha mẹ vừa đùm bọc ấp ủ, vừa tiễn con mình vào đời.

Gia đình cung ứng những công dân tốt và tín hữu nhiệt thành.

Mỗi đứa con là một mầu nhiệm cần tôn trọng.

Giáo dục là giúp con sống cuộc đời rất riêng của nó.

Ước gì mọi bà mẹ đều như Maria, sinh các con như Giêsu.

Cầu nguyện

Lạy Cha nhân ái, từ trời cao,

xin Cha nhìn xuống

những gia đình sống trên mặt đất

trong những khu ổ chuột tồi tàn

hay biệt thự sang trọng.

Xin thương nhìn đến

những gia đình thiếu vắng tình yêu

hay thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu,

những gia đình buồn bã vì vắng tiếng cười trẻ thơ

hay vất vả âu lo vì đàn con nheo nhóc.

Xin Cha nâng đỡ những gia đình đã thành hỏa ngục

vì chứa đầy dối trá, ích kỷ, dửng dưng.

Lạy Cha, xin nhìn đến những trẻ em trên thế giới,

những trẻ em cần sự chăm sóc và tình thương

những trẻ em bị lạm dụng, bóc lột, buôn bán,

những trẻ em lạc lõng bơ vơ, không được đến trường,

những trẻ em bị đánh cắp tuổi thơ và trở nên hư hỏng.

Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ

từng gia đình là hình ảnh của thánh Gia Thất,

từng trẻ em là hình ảnh của Con Cha thuở ấu thơ.

Xin Cha sai Thánh Thần Tình Yêu

đem đến hạnh phúc cho mỗi gia đình;

nhưng xin cũng nhắc cho chúng con nhớ

hạnh phúc luôn ở trong tầm tay

của từng người chúng con. Amen.

 

 

GHI NHỚ VÀ SUY NIỆM TRONG LÒNG

Ngày 01 tháng 01: Thánh Maria, Mẹ Thiên Chúa

Lời Chúa: Lc 2, 16-21

Khi ấy, các mục tử ra đi vội vã đến thành Bêlem, và gặp thấy Maria, Giuse và hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ hiểu ngay lời đã báo về hài nhi này. Và tất cả những người nghe đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ. Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những việc đó và suy niệm trong lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và đã xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ. Khi đã đủ tám ngày, lúc phải cắt bì cho con trẻ, thì người ta gọi tên Người là Giêsu, tên mà thiên thần đã gọi trước khi con trẻ được đầu thai trong lòng mẹ.

Suy niệm

Làm người ai cũng cần có mẹ.

Mẹ là người cưu mang, sinh ra và dưỡng nuôi con cho khôn lớn.

Khi Con Thiên Chúa làm người, mang lấy trọn phận người,

Ngài cũng cần một người mẹ, như bao người khác.

Mẹ Maria là thiếu nữ, là trinh nữ được Thiên Chúa tuyển chọn,

Để thụ thai và sinh hạ Con Một Thiên Chúa.

Khi Công Đồng Êphêsô (năm 431) gọi Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa,

Công Đồng không có ý dạy

Đức Mẹ sinh ra Chúa Cha hay Chúa Thánh Thần.

Đức Mẹ chỉ sinh ra Đức Giêsu,

Mà Đức Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể,

Nên Mẹ thực sự là Mẹ Thiên Chúa (Theotokos).

Chắc Mẹ Maria không thể hiểu hết và hiểu ngay

Màu nhiệm lớn lao mà Mẹ đang cưu mang trong dạ.

Khi các mục đồng kể lại những điều huy hoàng họ nghe thấy ở Belem,

Mẹ Maria ghi nhớ tất cả những điều ấy và suy đi nghĩ lại trong tim mình.

Để đi vào mầu nhiệm cách sâu xa, cần ơn soi sáng của Chúa,

Nhưng cũng cần thái độ chiêm niệm, nghiền ngẫm trong lặng thinh.

Chúng ta thường để ý đến biến cố Truyền Tin và biến cố Giáng Sinh,

biến cố Ngôi Lời bắt đầu hiện hữu trong lòng mẹ và biến cố chào đời.

Nhưng chúng ta không được quên chín tháng Mẹ cưu mang người Con.

Con Thiên Chúa đã lớn lên từ từ trong lòng Mẹ như các thai nhi khác.

Muốn sinh Đức Giêsu cho thế giới hôm nay,

Chúng ta cũng cần nhiều thời gian để cưu mang Ngài trong cuộc đời ta,

để Ngài trở nên đủ cứng cáp khi chào đời.

Chúng ta cũng phải chấp nhận cả sự đau đớn khi sinh hạ.

Bước qua một Năm Mới, mở trang đầu của cuốn lịch mới,

Chúng ta mong những điều mới mẻ tốt lành xảy đến cho mình

Và muốn tặng cho nhau một câu chúc đầy ý nghĩa:

“Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em!” (Ds 6, 26)

Cầu nguyện

Lạy Mẹ Maria,

khi đọc Phúc Âm,

lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.

Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Ðức Giêsu.

Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.

Mẹ tìm Con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.

Mẹ đi thăm Ðức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.

Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.

Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi

âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong,

từ con người hay từ Thiên Chúa.

Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Ðức Giêsu

trong mọi bước đường của cuộc sống.

Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.

Có những con đường đầy máu và nước mắt.

Xin Mẹ dạy chúng con

đừng sợ lên đường mỗi ngày,

đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa

dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.

Xin giữ chúng con luôn đi trên Ðường-Giêsu

để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ

đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.