Manna Lương Thực Hàng Ngày Tuần 13 Thường niên

print

Manna Lương Thực Hàng Ngày Tuần 13 Thường niên

 

Chúa Nhật 13 Thường niên năm A.

Thứ Hai tuần 13 Thường niên.

Thứ Ba tuần 13 Thường niên.

Thứ Tư tuần 13 Thường niên.

Thứ Năm tuần 13 Thường niên.

Thứ Sáu tuần 13 Thường niên.

Thứ Bảy tuần 13 Thường niên.

 

Chúa Nhật 13 Thường niên năm A

Lời Chúa: Mt 10, 37–42

Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai hay con gái mình hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được. Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy. Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh thưởng dành cho bậc ngôn sứ; ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính. Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ là một chén nước lã mà thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.”

Suy niệm

Văn Cao là một nhạc sĩ có tài với bản Tiến Quân Ca bất hủ.

Nhưng ông cũng là một thi sĩ ít được ai biết đến.

Ông có làm một bài thơ ngắn Không Đề như sau:

“Con thuyền đi qua

để lại sóng.

Đoàn tàu đi qua

để lại tiếng.

Đoàn người đi qua

để lại bóng.

Tôi không đi qua tôi

để lại gì?”

Ông muốn để lại chút gì cho đời của kẻ đã mang tiếng ở trong trời đất.

Và ông hiểu rằng mình không thể để lại gì, nếu không vượt qua chính mình.

Cái tôi và tất cả những gì thuộc về nó, đều là đối tượng phải vượt qua.

Vượt qua cái tôi không làm tôi mất nó, nhưng lại được một cái tôi viên mãn.

Phải chăng đó là điều Văn Cao, một Kitô hữu ẩn danh đến lúc chết,

muốn gửi gấm qua những vần thơ này?

Có những giá trị hầu như được mọi người nhìn nhận.

Có những giá trị thiêng liêng máu mủ như cha mẹ, con cái.

Đặc biệt trong xã hội Do thái, hiếu thảo với cha mẹ là điều được đề cao.

Đức Giêsu cũng đã phê phán thái độ bất hiếu đối với cha mẹ (Mt 15, 3-6).

Mạng sống của con người cũng là một giá trị cao quý.

Đụng đến mạng sống con người là xúc phạm đến chính Thiên Chúa,

như ta thấy trong chuyện Cain giết em là Aben (St 4, 9-10).

Trước những giá trị thiêng liêng như thế, ta cần yêu mến, giữ gìn.

Yêu cha, yêu mẹ, yêu con trai, con gái, là những điều hợp đạo lý.

Giữ gìn mạng sống của mình là điều phải làm.

Tuy nhiên, Đức Giêsu đã đưa ra một đòi hỏi mới mẻ và đáng sợ.

Ngài không cấm các môn đệ yêu cha mẹ, con cái, hay mạng sống,

vì đó là những giá trị thiêng liêng cao quý.

Nhưng Ngài không chấp nhận họ yêu những giá trị này hơn Ngài.

Ngài không muốn họ đặt Ngài ở dưới những giá trị đó.

Đơn giản Ngài muốn họ coi Ngài là một Giá Trị hơn hẳn, Giá Trị viết hoa.

Khi cần chọn lựa giữa các giá trị, Ngài đòi họ ưu tiên chọn Ngài.

Cụm từ “không xứng đáng với Thầy” được nhắc đến ba lần (cc. 37-38).

Chỉ ai dám yêu Ngài hơn người thân yêu, dám vác thập giá mình mà theo,

người ấy mới xứng đáng với Thầy.

Chỉ ai dám mất mạng sống của mình vì Thầy,

người ấy mới lấy lại được sự sống tròn đầy ở đời sau (c. 39).

Đức Kitô là ai mà đòi chúng ta phải đặt Ngài lên trên các thụ tạo như vậy,

nếu Ngài không phải là hiện thân của chính Thiên Chúa?

Đừng quên chính Ngài đã mất mạng sống mình vì tôi trước.

Chỉ khi tôi đi qua tôi, nhờ đặt tôi và mọi sự thuộc về tôi dưới Đức Kitô,

tôi mới có gì để lại cho đời, tôi mới giữ lại được mọi giá trị khác.

Xin làm được điều thánh Biển Đức dạy:

“Phải tuyệt đối không coi gì trọng hơn Đức Kitô.”

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

xin cho con thấy Chúa thật lớn lao,

để đối với con, mọi sự khác trở thành bé nhỏ.

Xin cho con thấy Chúa thật bao la,

để cả mặt đất cũng chưa vừa cho con sống.

Xin cho con thấy Chúa thật thẳm sâu,

để con dễ đón nhận nỗi khổ đau sâu thẳm nhất.

Lạy Chúa Giêsu,

xin làm cho con thật mạnh mẽ,

để không nỗi thất vọng nào

còn chạm được tới con.

Xin làm cho con thật đầy ắp,

để ngay cả một ước muốn nhỏ

cũng không còn có chỗ trong con.

Xin làm cho con thật lặng lẽ,

để con chỉ còn loan báo Chúa mà thôi.

Xin Chúa ngự trong con thật sống động,

để không phải là con,

mà là chính Ngài đang sống. Amen.

 

 

 

 

KHÔNG CHỖ TỰA ĐẦU

Thứ Hai tuần 13 Thường niên

Lời Chúa: Mt 8, 18-22

Khi thấy xung quanh có đám đông, Ðức Giêsu ra lệnh sang bờ bên kia. Một kinh sư tiến đến thưa Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo.” Ðức Giêsu trả lời: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.”

Một môn đệ khác thưa với Người: “Thưa Ngài, xin cho phép con về chôn cất cha con trước đã.” Ðức Giêsu bảo: “Anh hãy đi theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ.”

Suy niệm

“Thưa Thầy, Thầy đi đâu tôi cũng xin đi theo.”

Đó là lời yêu cầu của một vị kinh sư đáng kính, thông thạo Thánh Kinh.

Vị này gọi Đức Giêsu là Thầy, dù chính ông là một bậc thầy trong dân.

Tại sao ông lại muốn đi theo Đức Giêsu, một ông thợ mộc ở Nazareth?

Tại sao một người có sự nghiệp ổn định như ông

lại chịu hạ mình làm môn đệ của Ngài?

Tại sao ông lại muốn theo Ngài đến tận chân trời góc biển?

Điều gì nơi con người Đức Giêsu đã khiến ông quyết định như thế?

Điều gì nơi Ngài đã cuốn hút con người ông

đến độ ông không muốn xa Ngài nữa,

và muốn gắn bó đời mình với Ngài?

Chúng ta không có câu trả lời cho các câu hỏi đó.

Chúng ta chỉ nghe câu trả lời của Đức Giêsu cho vị kinh sư.

“Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ tựa đầu.”

Ngài nhắc cho ông biết cái giá phải trả

để đi theo Ngài làm môn đệ.

Đó là cuộc sống bấp bênh, lang thang, nay đây mai đó.

Trên bước đường rao giảng, Đức Giêsu sống như kẻ vô gia cư.

Ngài tạm trú ở nơi nhà của người mở lòng đón nhận.

Chẳng rõ sau câu trả lời thẳng thắn của Đức Giêsu,

vị kinh sư có còn muốn theo Ngài nữa không?

Khi một môn đệ của Đức Giêsu xin phép về chôn cất cha trước đã,

thì Ngài đã trả lời bằng một câu khó hiểu:

“Anh hãy đi theo tôi. Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ.”

Người Do Thái coi trọng chữ hiếu và việc tống táng cho cha mẹ.

Có thể ở đây anh môn đệ này muốn xin về nhà,

ở với cha già cho đến ngày cha qua đời, rồi chôn cất cha để báo hiếu.

Không phải là anh không muốn làm môn đệ Thầy Giêsu nữa,

nhưng trước hết, anh muốn làm tròn bổn phận của một người con.

Đức Giêsu cho anh thấy báo hiếu không phải là bổn phận hàng đầu,

dù tôn kính cha mẹ là luật quan trọng trong xã hội Do Thái.

Ngài cho anh thấy có Ai đó còn quan trọng hơn cả cha mẹ.

“Hãy theo tôi”, tiếng gọi này đòi dành ưu tiên cho Ngài,

đến độ nghĩa vụ thiêng liêng nhất là chôn cất cha phải nhường bước.

Tin Mừng hôm nay cho thấy cái giá phải trả để làm môn đệ Đức Giêsu.

Có người xin đi theo Thầy khắp mọi nơi Thầy đi.

Nhưng đi vào Vườn Dầu, đi lên Núi Sọ, ít người dám theo Thầy.

Có người đã là môn đệ rồi, nhưng lại băn khoăn vì nghĩa vụ.

Anh phải nghe được tiếng gọi mới của Thầy: “Hãy theo tôi” (c. 22).

và đơn sơ đặt sứ mạng lên trên hết.

Thân phận người môn đệ xưa nay đều giống nhau.

Theo Thầy là phải chịu long đong, thiếu thốn, bị từ chối và bách hại,

thậm chí phải chấp nhận cái chết.

Nhưng hạnh phúc vẫn chờ họ, chỉ vì họ đã cùng thân phận với Thầy.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

nhiều bạn trẻ đã không ngần ngại

chọn những cầu thủ bóng đá,

những tài tử điện ảnh

làm thần tượng cho đời mình.

Hôm nay

Chúa cũng muốn biết chúng con chọn ai,

và chúng con thật sự đắn đo

trước khi chọn Chúa.

Bởi chúng con biết rằng

chọn Chúa là lội ngược dòng,

theo Chúa là bước vào con đường hẹp:

con đường nghèo khó và khiêm nhu,

con đường từ bỏ và phục vụ.

Hôm nay, chúng con chọn Chúa

không phải vì Chúa giàu có,

tài năng hay nổi tiếng,

nhưng vì Chúa là Thiên Chúa làm người.

Chẳng ai đáng chúng con yêu mến bằng Chúa.

Chẳng ai hoàn hảo như Chúa.

Ước gì chúng con can đảm chọn Chúa

nhiều lần trong ngày,

qua những chọn lựa nhỏ bé,

để Chúa chiếm lấy toàn bộ cuộc sống chúng con,

và để chúng con

thông hiệp vào toàn bộ cuộc sống của Chúa. Amen.

 

 

NGƯỜI VẪN NGỦ

Thứ Ba tuần 13 Thường niên

Lời Chúa: Mt 8, 23-27

Khi ấy Đức Giêsu xuống thuyền, các môn đệ đi theo Người. Bỗng nhiên biển động mạnh khiến sóng ập vào thuyền, nhưng Người vẫn ngủ. Các ông lại gần đánh thức Người và nói: “Thưa Ngài, xin cứu chúng con, chúng con chết mất!” Đức Giêsu nói: “Sao nhát thế, hỡi những người kém lòng tin!” Rồi Người trỗi dậy, ngăm đe gió và biển: biển liền lặng như tờ. Người ta ngạc nhiên và nói: “Ông này là người thế nào mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”

Suy niệm

Nếu mức nước biển dâng lên thêm một mét do nạn toàn cầu ấm lên,

nhiều vùng đất của nước Việt Nam sẽ bị chìm dưới mặt nước.

Bão lụt, hạn hán, động đất, núi lửa, vẫn là những thảm họa cho con người.

Ngày nay người ta biết rằng phần lớn thiên tai không do Trời,

nhưng do con người phá hoại trái đất là công trình tốt đẹp của Trời cao.

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy uy quyền của Đức Giêsu,

không phải trên ma quỷ hay bệnh tật, nhưng trên thiên nhiên.

Ngài đã dùng quyền đó để bảo vệ các môn đệ khỏi bị dập vùi bởi sóng gió.

Thầy Giêsu đã ra lệnh cho họ qua bên kia hồ (Mt 8, 18).

Ngài xuống thuyền trước, các môn đệ theo sau (c. 23).

Đi theo Thầy Giêsu, trên cùng một con thuyền, đâu hẳn được bình an.

Cơn bão lớn ngoài biển đến thật bất ngờ,

khiến con thuyền của Thầy trò chao đảo vì sóng gió.

Giữa cơn cuồng nộ của biển cả, giữa sự kinh hoàng nhốn nháo của các môn đệ,

Thầy Giêsu vẫn ngủ yên.

Dường như chẳng có gì khuấy động được giấc ngủ bình an của Thầy.

“Thưa Ngài, xin cứu, chúng con chết mất” (c. 25).

Lời đánh thức vội vã, hối thúc, khi cái chết đã gần kề.

Nhưng Thầy Giêsu lại chẳng có vẻ gì vội vã.

Giữa tiếng thét gào của sóng gió và sự chòng chành của con thuyền,

Thầy Giêsu đã quở trách các môn đệ vì sự cuống cuồng sợ hãi của họ,

hậu quả của việc thiếu lòng tin (c. 26).

Thầy đã không làm cho biển lặng sóng yên ngay lập tức,

vì tập bình an giữa sóng gió là điều khó và cần hơn nhiều.

Lắm khi chúng ta không hiểu tại sao thuyền đời chúng ta gặp bão,

dù có Thầy trong thuyền, dù chúng ta đã theo Thầy nghiêm túc.

Chúng ta lại càng không hiểu tại sao Thầy có thể ngủ được bình an,

khi chúng ta gặp muôn vàn thử thách và rơi vào tuyệt vọng.

Nhưng Thầy Giêsu cũng không hiểu tại sao chúng ta lại sợ đến thế (c. 26).

Tại sao chúng ta lại sợ thuyền chìm hay sợ chết?

Nếu có đức tin vào Thầy thì sóng gió đâu nhận chìm được chúng ta.

“Thiên Chúa ngủ” mãi mãi là điều khó hiểu và khó chịu.

Đừng ngại đánh thức Ngài và kêu cứu.

Đừng ngại la to át tiếng sóng, để làm cho Ngài nghe được.

Nhưng cũng nên nhìn Ngài ngủ bình an, để khỏi bị hốt hoảng.

Không hẳn là Ngài sẽ trỗi dậy ngay và dẹp tan bão tố.

Không hẳn là chúng ta sẽ được giải thoát ngay khỏi mọi nỗi hiểm nghèo.

Điều quan trọng là lòng ta được bình an,

vì biết Ngài vẫn bình an ở lại trong con thuyền đời ta.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phêrô,

nhưng nhiều khi con cảm thấy

sống đức tin giữa lòng cuộc đời

chẳng khác nào đi trên mặt nước.

Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn.

Có bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu.

Cả sự nặng nề của thân xác con

cũng kéo ghì con xuống.

Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng.

Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.

Xin cứu con khi con hầu chìm.

Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.

Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con,

để con trở nên nhẹ tênh

mà bước những bước dài hướng về Chúa. Amen.

 

 

ĐI ĐI

Thứ Tư tuần 13 Thường niên

Lời Chúa: Mt 8, 28-34

Khi Ðức Giêsu sang bờ bên kia, và đến miền Gađara, thì có hai người bị quỷ ám từ trong đám mồ mả ra đón Người; chúng rất dữ tợn, đến nỗi không ai dám qua lại lối ấy. Và kìa, chúng la lên rằng: “Hỡi Con Thiên Chúa, chuyện chúng tôi can gì đến ông? Chưa tới lúc mà ông đã đến đây làm khổ chúng tôi sao?” Khi ấy, ở đàng xa, có một bầy heo rất đông đang ăn. Bọn quỷ nài xin Người rằng: “Nếu ông đuổi chúng tôi, thì xin sai chúng tôi nhập vào bầy heo kia”. Người bảo: “Ði đi!” Chúng liền ra khỏi hai người đó và nhập vào bầy heo. Thế là tất cả bầy heo từ trên sườn núi lao xuống biển và chết đuối hết. Các người chăn heo chạy trốn vào thành, kể lại mọi sự, và những gì đã xảy ra cho những người bị quỷ ám. Và kìa, cả thành ra đón Ðức Giêsu, và khi gặp Người, họ xin Người rời khỏi vùng đất của họ.

 

Suy niệm

Theo cha Gabrielle Amorth, vị trừ quỷ chính của giáo phận Rôma,

“số người bị quỷ ám đã gia tăng rất nhiều.”

Trong vòng tám năm, chính cha đã trừ cho hơn hai mươi ngàn trường hợp.

Con số kinh khủng này hẳn là một nhắc nhở cho những ai nghĩ rằng

quỷ vắng bóng trong thế giới của khoa học kỹ thuật,

quỷ chỉ là huyền thoại của thế giới cách đây hai ngàn năm thời Đức Giêsu,

hay quỷ ám thật ra chỉ là bệnh thần kinh vào thời y khoa chưa phát triển.

Trong cuộc hội kiến vào tháng 8-1986, Đức Gioan Phaolô đã nói

sự hiện diện của quỷ trong thế giới “ngày càng trở nên ghê gớm hơn

khi con người và xã hội quay lưng với Thiên Chúa.”

Tin Mừng hôm nay là trình thuật đầu tiên về trừ quỷ của thánh Mátthêu.

Chuyện này đã được Máccô kể lại với nhiều chi tiết hấp dẫn hơn (Mc 5, 1-20).

Nhưng trong Mátthêu, khuôn mặt Đức Giê su lại nổi bật hơn nhiều.

Ngài đã cùng với các môn đệ qua bờ bên kia sau khi gặp cơn bão biển.

Khi Ngài đến vùng đất của người Gađara, ở phía đông nam Hồ Galilê,

hai người bị quỷ ám từ mồ mả đi ra, đến gặp Ngài (c. 28).

Mồ mả là nơi dành cho người chết, nơi bị coi là nhơ uế, nơi của thần dữ.

Có hai nét giúp ta nhận ra sự hiện diện của quỷ nơi những người bị ám.

Họ rất dữ tợn đến nỗi không ai dám qua lại con đường ấy (c. 28).

Họ nhận biết ngay Đức Giêsu là Con Thiên Chúa (c. 29).

Sức mạnh kinh khủng và sự hiểu biết lạ lùng là thế mạnh của thần dữ.

Nhưng đây cũng là điểm yếu của quỷ khi đứng trước Đức Giêsu.

Chính vì thế chúng hoảng sợ khi thấy mình bị đe dọa:

“Chưa tới lúc mà ông đã đến đây hành hạ chúng tôi sao?”

Đức Giêsu đến sớm quá và khiến cho quyền lực của chúng phải sụp đổ.

Khi đọc bài Tin Mừng này, chúng ta thường có nhiều câu hỏi.

Tại sao quỷ lại xin nhập vào đàn heo? Tại sao Đức Giêsu lại đồng ý?

Đàn heo chết đuối thì quỷ ra sao? Phải đền người chủ đàn heo thế nào?

Mátthêu có vẻ không quan tâm đến những câu hỏi ấy.

Điều ông quan tâm là làm nổi bật quyền năng của Đức Giêsu.

Chỉ một lời Ngài phán: “Đi!” là đuổi được quỷ ra khỏi hai người.

Nước Trời đến đem lại bình an cho hai người quỷ ám ở trong mồ mả,

và cho những ai qua lại lối đi ấy.

Không thấy các người dân ngoại chăn heo kêu ca về chuyện mất đàn heo,

nhưng họ lại trở nên những người loan báo cho dân thành về mọi chuyện.

Tiếc là dân thành đã không muốn đón tiếp Ngài.

Quỷ hấp dẫn con người bằng quyền lực và tri thức của chúng.

Nhưng thực sự chúng là kẻ thù không đội trời chung của con người.

Chúng phân ly con người, đẩy người sống vào mộ người chết,

biến con người thành mối đe dọa cho con người (c. 28).

Chúng thích có mặt ở đàn vật ô uế, thích gieo vãi sự ô uế khắp nơi (c. 31).

Xin Chúa cho ta thấy được sự lộng hành của quỷ dữ trong thế giới hôm nay.

Và xin Chúa cứu ta khỏi nanh vuốt của ác thần.

Cầu nguyện

Lạy Cha,

thế giới hôm nay cũng như hôm qua

vẫn có những người bơ vơ lạc hướng

vì không tìm được một người để tin;

vẫn có những người đã chết từ lâu

mà vẫn tưởng mình đang sống;

vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,

ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;

vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,

bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;

vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,

dù không phải là người phong…

Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ

và biết chạnh lòng thương như Con Cha.

Nhưng trước hết,

xin cho chúng con

nhìn thấy chính bản thân chúng con.

 

 

VUI MỪNG BÁN TẤT CẢ

 Thứ Năm tuần 13 Thường niên

Lời Chúa: Mt 9, 1-8

Khi ấy Đức Giêsu xuống thuyền, băng qua hồ, trở về thành của mình. Người ta liền khiêng đến cho Người một kẻ bại liệt nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giêsu bảo người bại liệt: “Này con, cứ yên tâm, con đã được tha tội rồi!” Có mấy kinh sư nghĩ bụng rằng: “Ông này nói phạm thượng.” Nhưng Đức Giêsu biết ý nghĩ của họ, liền nói: “Sao các ông lại nghĩ xấu trong bụng như vậy? Trong hai điều: một là bảo: ‘Con đã được tha tội rồi’, hai là bảo: ‘Đứng dậy mà đi’, điều nào dễ hơn?” Vậy, để các ông biết: ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội – bấy giờ Đức Giêsu bảo người bại liệt: “Đứng dậy, vác giường đi về nhà!” Người bại liệt đứng dậy, đi về nhà. Thấy vậy, dân chúng sợ hãi và tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người được quyền năng như thế.

Suy niệm

Khiêng một người bất toại trên một cái giường là điều không dễ.

Chẳng biết có mấy người khiêng và khiêng bao xa?

Chẳng rõ tương quan giữa họ ra sao, có phải là bạn bè, họ hàng không?

Có điều chắc là anh bất toại không thể tự mình đến với Thầy Giêsu được.

Chân của anh có vấn đề, và thời ấy không có xe lăn như bây giờ.

Anh cần đến sự giúp đỡ của bạn bè quen biết.

Và đã có những người đáp lại vì tình thương đối với anh chịu tật nguyền.

Rồi đã có một cuộc hẹn, và sau đó cả nhóm lên đường.

Tình bạn làm cho đường đến nhà của Thầy Giêsu ở Caphácnaum gần hơn.

Nhưng vất vả, nhọc nhằn thì vẫn không tránh được.

Đưa người bất toại đến với Thầy Giêsu quả là một kỳ công,

vì trong Tin Mừng theo thánh Máccô, họ đã phải đưa người bệnh xuống

qua một lỗ thủng ở trên mái nhà, bởi lẽ không có đường nào khác! (Mc 2, 4).

Dù sao Thầy Giêsu cũng đã thấy lòng tin của họ (c. 2).

Lòng tin là cái bên trong, nhưng được lộ ra ngoài.

Cả người bất toại lẫn các người khiêng đều có chung một lòng tin.

Tin rằng đến với Thầy Giêsu là thế nào cũng được khỏi.

Họ nuôi một niềm hy vọng lớn: khi trở về không phải khiêng nhau nữa.

Anh bất toại có thể đi được bằng đôi chân của chính mình,

và đi ngang hàng với những người bạn khác.

Tin, yêu và hy vọng là những tâm tình có trong tim của nhóm bạn này.

Không có những điều đó thì cũng chẳng có phép lạ khỏi bệnh.

Ơn Thiên Chúa vẫn đến với con người ngang qua lòng tốt của con người.

Nhưng lạ thay Thầy Giêsu lại có vẻ không màng đến chuyện chữa bệnh.

Thầy nói với người bất toại: “Các tội của anh được tha thứ” (c. 2).

Ơn đầu tiên người bất toại nhận được là một ơn mà anh không xin,

ơn đó không phải nơi thân xác, nhưng nơi linh hồn.

Hẳn Thầy Giêsu không có ý nói rằng anh bị tật là vì đã phạm tội.

Nhưng Ngài muốn cho thấy uy quyền của lời Ngài nói.

Lời này có thể tha tội và lời này cũng có thể chữa lành.

Nếu các kinh sư nghĩ rằng Ngài đã nói phạm thượng (c. 3),

dám tiếm quyền tha tội dành cho một mình Thiên Chúa,

thì Ngài sẽ chứng tỏ cho họ thấy Ngài có quyền tha tội dưới đất.

Ngài bảo anh bất toại: “Đứng dậy, vác chõng mà đi về nhà” (c. 6).

Ngài đã không chọn điều dễ hơn (c. 5), điều khó kiểm chứng.

Anh bất toại đã đứng dậy và đi về nhà cùng với các bạn của anh.

Anh đã được hơn cả điều anh mong ước, đó là hồn an xác mạnh.

Đức Giêsu có quyền giải phóng ta khỏi bệnh tật và tội lỗi.

Tội lỗi cũng làm ta bất toại, không đến được với Thiên Chúa và tha nhân.

Nhưng Đức Giêsu đã muốn chia sẻ quyền này cho “loài người” (c. 8).

Môn đệ của Ngài vẫn làm thừa tác vụ chữa lành và tha tội cho đến tận thế.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa đã giúp cho bao người què đi được trên đôi chân của mình.

Chúa đã làm cho người bất toại

nằm chờ đợi nhiều năm bên hồ nước

bất ngờ trỗi dậy, vác chõng và bước đi.

Chúa đã làm cho người bất toại

mà bạn bè vất vả đưa xuống từ lỗ hổng của mái nhà,

được khỏi bệnh, lòng bình an vì được tha thứ.

Chúa đã cho kẻ bại tay được đưa tay ra

và tay anh trở lại bình thường.

Bất toại trên thân xác thật là điều đáng sợ.

Nhưng đáng sợ hơn là thứ bất toại của tâm hồn.

Có thứ bất toại làm chúng con không đến được với người khác,

dù nhà họ ở kế bên nhà chúng con,

không đến được với Chúa, dù Chúa vẫn luôn chờ đợi.

Có thứ bất toại làm chúng con không thể đưa tay ra

để bắt tay người đối diện hay để chia sẻ một món quà.

Có thứ bất toại làm trái tim chúng con khô cứng,

hững hờ trước nỗi đau của người anh em.

Xin giúp chúng con ra khỏi

những thành kiến và mặc cảm, thù oán và ghen tương,

để chuyển động mềm mại hơn dưới sự tác động của Chúa.

Xin cũng giúp chúng con biết khiêm tốn

nhìn nhận sự bại liệt của mình,

và chấp nhận để người khác đưa mình đến gặp Chúa. Amen.

 

 

ĐỨNG DẬY ĐI THEO

Thứ Sáu tuần 13 Thường niên

Lời Chúa: Mt 9, 9-13

Khi ấy, Ðức Giêsu đi ngang qua trạm thu thuế, thì thấy một người tên là Matthêu đang ngồi ở đó. Người bảo ông: “Anh hãy theo tôi!” Ông đứng dậy đi theo Người. Ðức Giêsu đang dùng bữa trong nhà, thì kìa, nhiều người thu thuế và người tội lỗi kéo đến, cùng ăn với Người và các môn đệ. Thấy vậy, những người Pharisêu nói với các môn đệ Người rằng: “Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi như vậy?” Nghe như thế, Ðức Giêsu nói: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này: Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.”

Suy niệm

Thầy Giêsu gọi bốn môn đệ đầu tiên khi họ đang làm việc.

Người thì đang quăng lưới ngoài khơi,

kẻ thì đang vá lưới trong thuyền (Mt 4, 18-22).

Khi Thầy gọi Mátthêu, anh cũng đang làm việc ở trạm thu thuế.

Anh đang ngồi, vững vàng trong nghề nghiệp của mình,

dù nghề của anh thường bị coi là nghề rất xấu.

Thầy Giêsu như tình cờ đi ngang qua bàn làm việc của anh.

Ngài chỉ nói một câu rất ngắn: “Anh hãy theo tôi!”

Mátthêu không đáp lại, nhưng anh trả lời bằng hành động.

Từ vị thế đang ngồi, anh bỏ dở công việc để đứng lên và theo Thầy.

Từ vị thế vững vàng, anh bắt đầu bước vào cuộc phiêu lưu bấp bênh.

Từ vị thế của tội nhân, anh trở thành người môn đệ thân thiết.

Mátthêu nằm trong danh sách nhóm Mười Hai (Mt 10, 3).

Thầy Giêsu không sợ mất tiếng khi nhận anh vào nhóm.

Nhóm của Thầy không chỉ gồm những người thánh thiện,

nhưng có cả những tội nhân giàu lòng hoán cải.

Mátthêu có đóng góp gì cho nhóm Mười Hai không?

Nghề thu thuế với giấy bút có giúp gì cho các ngư phủ ít học không?

Trong nhóm Mười Hai, Mátthêu có chỗ đứng đặc biệt,

người thu thuế trở nên Tác giả sách Tin Mừng.

Mátthêu làm nghề bị đồng bào của ông khinh miệt,

vì nghề này dễ dẫn người ta đến chỗ lạm thu, bỏ tiền vào túi riêng.

Nghề này còn là một sỉ nhục vì cộng tác với ngoại bang bóc lột dân,

đụng chạm đến đồng tiền ô uế và tiếp xúc với dân ngoại.

Khi trở nên môn đệ của Thầy, Mátthêu đã trở nên người phục vụ đồng bào.

Ông dùng khả năng của mình mà viết sách Tin Mừng.

Đây là Tin Mừng lớn mà ông loan báo: Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia.

Không phải chờ gì nữa, Đấng Mêsia đã đến rồi!

Ngài làm trọn những lời đã được loan báo trong Cựu Ước.

Mátthêu đã tìm ra ngôn ngữ để nói với Dân Chúa, sao cho họ hiểu được.

Ông đã trình bày dung mạo Đức Giêsu cho người cùng thời với ông.

Chúng ta cũng phải có khả năng giới thiệu Đức Giêsu cho người thời nay,

nghĩa là biết, hiểu và nói được ngôn ngữ của thế giới,

để thế giới nghe và hiểu được.

Chúng ta vẫn phải tiếp tục viết các sách Tin Mừng cho thời đại hôm nay,

phù hợp với não trạng và tâm thức của họ, với nền văn hóa đương đại.

Đâu là khuôn mặt Đấng Cứu độ mà con người hôm nay ngóng chờ?

Con người thời nay khỏe mạnh về nhiều mặt,

nhưng vẫn là người đau ốm cần đến thầy thuốc (c. 12).

Họ mong mình được giải phóng khỏi điều gì?

Đức Giêsu Kitô có thể đáp ứng được những khao khát đó không?

Lời rao giảng và cuộc sống của chúng ta phải cho thấy

Đức Giêsu có thể chữa lành và đem lại một thế giới hạnh phúc.

Ước gì chúng ta có lòng nhân và sự bao dung như Đức Giêsu,

dám đồng bàn với con người hôm nay để dẫn họ đến bàn tiệc thiên quốc.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

xin sai chúng con lên đường

nhẹ nhàng và thanh thoát,

không chút cậy dựa vào khả năng bản thân

hay vào những phương tiện trần thế.

Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm:

rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,

chữa lành những người ốm đau.

Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng

với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý,

biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.

Xin ban cho chúng con khả năng

đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.

Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ

của bao người đau khổ thể xác tinh thần.

Lạy Chúa Giêsu,

thế giới thật bao la

mà vòng tay chúng con quá nhỏ.

Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau

mà tin tưởng lên đường,

nhẹ nhàng và thanh thoát. Amen.

 

 

GIỮ ĐƯỢC CẢ HAI

Thứ Bảy tuần 13 Thường niên

Lời Chúa: Mt 9, 14-17

Khi ấy, các môn đệ ông Gioan tiến lại hỏi Ðức Giêsu rằng: “Tại sao chúng tôi và các người Pharisêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?” Ðức Giêsu trả lời: “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể than khóc, khi chàng rể còn ở với họ? Nhưng khi tới ngày chàng rể đã bị đem đi, bấy giờ họ mới ăn chay. Chẳng ai lấy vải mới mà vá áo cũ, vì miếng vá mới sẽ co lại, khiến áo rách lại càng rách thêm. Người ta cũng không đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, bầu sẽ bị nứt: rượu chảy ra và bầu cũng hư. Nhưng rượu mới thì đổ vào bầu mới: thế mới giữ được cả hai.”

Suy niệm

Mỗi năm người Do thái dành một ngày chính thức để cả nước ăn chay.

Đó là ngày lễ Xá tội (Lv 23, 29).

Tuy nhiên cũng có những ngày ăn chay khác có tính tập thể

để kỷ niệm những biến cố đau buồn của dân tộc.

Ngôn sứ Giôen đã mời người ta ăn chay, khóc lóc và than van (Ge 2, 12).

Vào thời Đức Giêsu, các môn đệ của Gioan Tẩy Giả và nhóm Pharisêu

còn ăn chay do lòng đạo đức riêng, có người hai lần một tuần (Lc 18, 12).

Nhìn chung bầu khí ăn chay không phải là bầu khí vui tươi phấn khởi.

Bởi đó có người cố mang bộ mặt rầu rĩ để khoe là mình đang ăn chay.

Trong bài Tin Mừng hôm nay,

Đức Giêsu bị các môn đệ của Gioan tra hỏi

về chuyện tại sao các môn đệ của Ngài lại không ăn chay như họ (c. 14).

Đối với họ ăn chay là một việc đạo đức quan trọng, không thể thiếu

trong đời sống của một nhóm như nhóm các môn đệ Đức Giêsu.

Đức Giêsu đã trả lời họ bằng một câu hỏi khác.

Gián tiếp Ngài nhận mình là chàng rể, các môn đệ là khách dự tiệc cưới.

Chính vì thế chuyện ăn chay than khóc hoàn toàn không hợp chút nào.

Bầu khí vui tươi là nét đặc trưng của thời kỳ Đấng Mêsia đến.

Đúng là cần phải sám hối, vì Nước Trời đã đến rồi (Mt 4, 17),

nhưng Nước Trời được ví như một tiệc cưới lớn (Mt 22, 1-14; 25, 1-13),

nên phải đón lấy Nước này trong niềm vui của ngày hội.

Chỉ khi nào chàng rể Giêsu bị đem đi trong cuộc Khổ nạn,

khi ấy các môn đệ của Ngài mới ăn chay.

Các Kitô hữu sơ khai vẫn giữ việc ăn chay (Cv 13, 2; 14, 23; 2 Cr 6, 5)

đặc biệt vào những ngày thứ tư và thứ sáu (sách Điđakhê 8, 1),

thay vì thứ hai và thứ năm như người Do thái.

Nhưng họ ăn chay không phải để chờ một Đấng chưa đến,

mà để chuẩn bị lòng mình đón đợi một Đấng sắp lại đến trong vinh quang.

Đức Giêsu đem đến những giáo huấn và tinh thần mới mẻ.

Liệu có thể ghép những cái mới đó vào cái khung của lối sống cũ không?

Bằng hai ví dụ, Ngài cho thấy điều đó khó thực hiện và gây nguy hại.

Miếng vải mới được vá vào chiếc áo cũ, sẽ co lại và làm áo rách thêm.

Rượu mới được đổ vào bầu da cũ, thì bầu sẽ bị nứt mà rượu lại chảy ra.

Đối với Đức Giêsu, muốn giữ được cả bầu lẫn rượu mới, thì cần có bầu mới.

Bầu mới chính là cách sống mới Luật Tôra của Thiên Chúa

như đã được Ngài giải thích lại trong Bài Giảng trên núi.

Kitô hữu được định nghĩa là những người luôn sống trong niềm vui,

bất chấp những bách hại và giá phải trả để làm môn đệ Đức Giêsu.

Chàng rể đã bị đem đi, nhưng Chàng rể vẫn đang ở lại (Mt 28, 20).

Bầu khí của tiệc cưới và rượu mới

vẫn là bầu khí của mọi cộng đoàn Kitô hữu hôm nay.

Cầu nguyện

Lạy Chúa,

xin dạy con luôn tươi tắn và dịu dàng

trước mọi biến cố của cuộc sống,

khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm,

hay gặp sự bất trung, bất tín

nơi những người con tin tưởng cậy dựa.

Xin giúp con gạt mình sang một bên

để nghĩ đến hạnh phúc người khác,

giấu đi những nỗi phiền muộn của mình

để tránh cho người khác phải đau khổ.

Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên đời,

để đau khổ làm con thêm mềm mại,

chứ không cứng cỏi hay cay đắng,

làm con nhẫn nại chứ không bực bội,

làm con rộng lòng tha thứ,

chứ không hẹp hòi hay độc đoán, cao kỳ.

Ước gì không ai sút kém đi

vì chịu ảnh hưởng của con,

không ai giảm bớt lòng thanh khiết, chân thật,

lòng cao thượng, tử tế,

chỉ vì đã là bạn đồng hành của con

trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu.

Khi con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối,

xin cho con có lúc

thì thầm với Chúa một lời yêu thương.

Ước chi đời con là cuộc đời siêu nhiên,

tràn trề sức mạnh để làm việc thiện,

và kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh. Amen.

(dịch theo Learning Christ)