Tích Cực Xây Dựng Vương Quốc Sự Thật Và Yêu Thương

print

HIỆP SỐNG TIN MỪNG

CN 34 TN B- ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ VUA VŨ TRỤ

Đn 7,13-14; Kh 1,5-8; Ga 18,33b-37

Tích Cực Xây Dựng Vương Quốc Sự Thật Và Yêu Thương

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Ga 18,33-37

(33) Ông Phi-la-tô trở vào dinh, cho gọi Đức Giê-su và nói với Người: “Ông có phải là Vua dân Do thái không?” (34) Đức Giê-su đáp: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về Tôi?”. (35) Ông Phi-la-tô trả lời: “Tôi là người Do thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. ông đã làm gì?” (36) Đức Giê-su trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho dân Do thái. Nhưng nay Nước tôi không thuộc chốn này”. (37) Ông Phi-la-tô liền hỏi: “Vậy ông là Vua sao?” Đức Giê-su đáp: “Chính ngài nói rằng tôi là Vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian vì điều này: Đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”.

  1. Ý CHÍNH: Trước tòa án của quan Tổng Trấn Phi-la-tô, Đức Giê-su đã cho ông biết về Vương Quốc của Người. Vương Quốc ấy thiêng liêng và không thuộc về thế gian, không có quân đội và không biên giới. Đức Giê-su cũng khẳng định Người là Vua, nhưng là vị Vua Thiên Sai, đến để làm chứng cho sự thật. Thần dân của Người là những ai sẵn sàng tin theo sự thật của Người.
  2. CHÚ THÍCH:

– C 33-34: + Ông Phi-la-tô trở vào dinh, cho gọi Đức Giê-su: Đức Giê-su đã bị dân quân Đền thờ bắt tại vườn Cây Dầu vào đêm ngày thứ Năm sau bữa tiệc ly Vượt Qua mừng trước một ngày. Sau khi bị bắt Đức Giê-su đã bị tòa án tôn giáo xét xử và bị thượng tế Cai-pha kết án tử hình(x Ga 18,19-24). Tuy nhiên vì các đầu mục Do thái đã bị người Rô-ma truất quyền kết án tử hình (x. Ga 18,31), nên sáng hôm sau, họ đã giải Đức Giê-su đến dinh quan Phi-la-tô để yêu cầu ông này kết án tử hình cho Đức Giê-su. Họ đứng ngòai sân chứ không vào trong nhà để tránh bị ô uế theo Luật Mô-sê, vì ai vi phạm sẽ không được ăn mừng lễ Vượt Qua (x Ga 18,28b). Quan Phi-la-tô đã phải ra ngòai hành lang để gặp họ. Sau khi biết rõ ý họ muốn, Phi-la-tô đã vào trong phòng và thẩm vấn Đức Giê-su + “Ông có phải là Vua dân Do thái không?”: Người Do thái đã tố cáo Đức Giê-su tội phạm về chính trị là xưng mình là Vua dân Do thái, để yêu cầu quan Phi-la-tô qui tội phản loạn và kết án tử hình cho Người. Do đó Phi-la-tô đã tra vấn Người về vấn đề này. + “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?”: Đức Giê-su không trực tiếp trả lời câu hỏi của Phi-la-tô, nhưng Người gợi ý để ông tự xét xem lời tố cáo đó có cơ sở không hay chỉ là vu cáo bịa đặt?

C 35: + Tôi là người Do thái sao?: Phi-la-tô cho biết ông không quan tâm đến vấn đề tôn giáo, vì ông không phải là người Do thái! + Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. ông đã làm gì?: Phi-la-tô cho biết dân chúng và các đầu mục Do thái đã tố cáo như thế để đòi ông xét xử. Ông hỏi Đức Giê-su đã làm gì đến nỗi bị họ tố cáo như vậy?

C 36: + “Nước tôi không thuộc về thế gian này”: Đức Giê-su không chối điều họ tố cáo, nhưng Người xác định mình không phải một ông vua trần tục. Vì Nước của Người không thuộc về thế gian này. + “nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho dân Do thái”: Lời này cho thấy sự khác biệt giữa vương quốc thế gian và Vương Quốc của Thiên Chúa. Khác về tinh thần cai trị (x. Mt 20,24-28), về hiến pháp (x. Mt 5,1-12), về điều kiện gia nhập (x. Mt 7,21), về sự vững bền (x. Mt 25,46), về tương quan giữa vua với dân (x Ga 13,12-15).

C 37: + “Vậy ông là vua ư?”: Đặt câu hỏi này, Phi-la-tô chỉ tò mò muốn biết thêm về chức vị vua thiêng liêng trong Nước Trời của Đức Giê-su, chứ ông không nghĩ Người là một ông vua trần tục. Phi-la-tô biết rõ Đức Giê-su không làm loạn, vì Người không có quân đội để tự vệ khi bị người Do thái vây bắt. + “Chính ngài nói: tôi là vua”: Đức Giê-su xác nhận Người là Vua. nhưng là Vua Tình Yêu, Vua Mục Tử: Người hiểu biết từng con chiên (x. Ga 10,14), nuôi dưỡng đàn chiên (x. Ga 10,3), đi tìm chiên lạc (x. Ga 10,16), bảo vệ đàn chiên và sẵn sàng hy sinh tính mạng cho đàn chiên (x. Ga 10,11.15). Tóm lại, Người đến “để cho chiên được sống và sống dồi dào” (x. Ga 10,10). + “Tôi đã đến thế gian là để làm chứng cho sự thật”: Sứ mệnh của Đức Giê-su là đến để làm chứng cho sự thật. ** làm chứng theo tiếng Hy Lạp nghĩa là tử đạo. Đức Giê-su làm chứng cho sự thật bằng việc đổ máu ra vì yêu nhân loại đến cùng ** Sự thật không chỉ là không gian dối, nhưng còn là Tin Mừng Nước Trời mà Người loan báo. Sự Thật ấy cũng là mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa, đã được biểu lộ qua cuộc đời, lời rao giảng và nhất là qua biến cố Tử nạn và Phục sinh của Người. + Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”: Đức Giê-su đến không những để cứu độ dân Do thái được Thiên Chúa ưu tuyển, mà Người còn đến cứu mọi dân nước tin vào Tin Mừng của Người và gia nhập vào Nước Trời là Hội Thánh hôm nay và là Thiên Đàng mai sau.

  1. CÂU HỎI:

1) Tại sao các đầu mục Do Thái lại giải Đức Giê-su đến tòa án của quan Phi-la-tô?

2) Tại sao người Do thái không vào trong nhà, khiến quan Phi-la-tô phải ra ngòai hành lang để tiếp họ đứng dưới sân?

3) Đức Giê-su cho Phi-la-tô biết Nước Trời do Người thiết lập có những đặc tính nào khác với nước thế gian?

4) Khi hỏi Đức Giê-su: “Ông là Vua ư?”, Phi-la-tô có tin những lời các đầu mục Do thái đã tố cáo Đức Giê-su không?

5) Đức Giê-su nhận mình là Vua nhưng chức vị này có những phẩm chất nào?

6) Đức Giê-su đến để “Làm chứng cho Sự Thật” là sự thật nào và làm chứng bằng cách nào?

7) Ngòai dân Do thái ra, Đức Giê-su còn đến cứu độ những ai?

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: Ông Phi-la-tô liền hỏi: “Vậy ông là vua sao?” Đức Giê-su đáp: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.” (Ga 18,37):
  2. CÂU CHUYỆN:

1) THẺ CĂN CƯỚC TRONG VƯƠNG QUỐC TÌNH YÊU CỦA VUA GIÊ-SU:

Ngày 11/11/1951 trong một bài diễn từ, Đức Thánh Cha Pi-ô 12 đã kể lại một giai thoại. Có một phụ nữ kia rất đạo đức, nhưng sức khỏe quá yếu. Cô ta bị chứng sưng màng phổi và rất khó thở. Lâu lâu căn bệnh tái phát làm cô rất đau đớn. Nhưng cuối cùng cô cũng lập gia đình, mang thai và chờ ngày sinh nở. Bất hạnh bất ngờ ập đến. Căn bệnh năm xưa tái phát trầm trọng. Các bác sĩ đề nghị phải hủy bỏ bào thai để cứu tính mạng cho bà mẹ. Người chồng cũng đồng ý như thế. Nhưng mẹ bào thai sau khi cầu nguyện nhiều ngày đã kiên quyết từ chối đề nghị của bác sĩ. Cô nói trong nước mắt: “Tôi không thể giết con tôi. Con tôi phải sống, cho dù tính mạng tôi có ra sao đi nữa”. Cô ta chấp nhận tình huống xấu nhất có thể xảy ra và phó thác hoàn toàn cho Chúa quan phòng. Cuối cùng cô đã sinh được một bé gái kháu khỉnh, nhưng sau đó sức khỏe của cô ngày càng suy kiệt. Hai tháng sau, người phụ nữ đã tắt thở, trên tay vẫn ôm chặt đứa con mới sinh mà cô rất thương mến.

Hơn hai mươi năm trôi qua, người ta thấy một nữ tu trẻ rất xinh đẹp đang ân cần chăm sóc cho các cháu bé mô côi trong một trại tế bần. Vòng tay thân thương và cặp mắt long lanh của vị nữ tu sáng rực lên nét yêu thương mà chị đã được di truyền từ chính bà mẹ thân thương của mình. Đó là  người mẹ trẻ năm xưa đã chấp nhận hy sinh tính mạng để cho con được sống. Người mẹ can đảm này đã được Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II tôn phong lên bậc Chân Phước, bởi vì bà đã thực sự đi vào Vương quốc tình yêu tiếp bước theo chân Đức Giê-su. Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô 2 đã nói: “Một đất nước nào, một chế độ nào cho phép con người sát hại lẫn nhau, thì đất nước đó, chế độ đó đang đi tới chỗ bị hủy diệt”. Đó là một đất nước đi ngược lại hiến pháp của Vương quốc Giê-su. Sống trong Vương quốc này, Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu chúng ta phải sống thep một nền văn minh mới, là ‘nền văn minh của tình thương’. Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta cũng đã từng nói: “Một người mẹ nhẫn tâm giết chết con của mình, thì không còn một thứ tội ác nào mà họ không dám làm”. Biết bao tội ác nhan nhản đang xảy ra trong xã hội hôm nay vì người ta đang dần đánh mất thẻ ID (identity card) để chứng minh mình là công dân của Nước Trời.

2) ĐỨC GIÊ-SU LÀ VUA TRÊN CÁC VUA, LÀ CHÚA TRÊN CÁC CHÚA:

Lịch sử nước Anh có câu chuyện về một ông vua có lòng khiêm nhường và đạo đức tên là KÊ-NẮT Đệ Tam (CANUT III). Là vua của một cường quốc, nên chung quanh ông ta lúc nào cũng có những nịnh thần tâng bốc. Một hôm, trong một buổi triều yết, các nịnh thần đã nịnh nhà vua như sau: “Muôn tâu thánh thượng! Thánh thượng là vua trên hết các vua, là chúa trên hết các chúa. Thánh thượng có toàn quyền cả trên đất liền cũng như ngòai biển cả bao la !”

Nghe vậy, nhà vua muốn dạy cho quần thần một bài học, nên đã mời tất cả quan chức triều đình cùng đi du lịch đến một bãi biển dành riêng cho hoàng gia. Khi mọi người đều theo sau nhà vua xuống bãi tắm sóng vỗ rì rào, nhà vua liền đứng trước biển khơi tuyên bố: “Hỡi biển cả kia. Nhiều người nói ta là vua trên hết các vua, là chúa trên hết các chúa, có quyền trên đất liền và biển khơi. Vậy hỡi biển cả hãy nghe đây: Ta truyền cho sóng biển không được tràn tới nữa!”. Nhưng dù nhà vua đã ra lệnh, mà nước biển vẫn cứ từng đợt thi nhau đổ tới tấp lên bãi cát làm ướt cả áo cẩm bào của nhà vua cùng quần áo các quan chức triều đình! Sau đó nhà vua dẫn quần thần đến một nhà nguyện gần đó. Vua quì gối trước tượng Thánh giá Chúa Giê-su, lấy ra chiếc vương miện bằng vàng đội lên đầu Chúa và cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa Giê-su. Chỉ có Chúa mới là “Vua trên hết các vua”, là “Chúa trên hết các chúa”. Chỉ có Chúa mới “có quyền trên cả đất liền cùng biển khơi” Con chúc tụng ngợi khen Danh Chúa. AL-LÊ-LU-IA!”.

3) MỘT ÔNG VUA BỊ MẮC TỨ CHỨNG NAN Y:

Có một ông Vua nọ bị dân gán cho một căn bệnh hiểm nghèo, đó là “Tứ chứng nan y” gồm: Mù, què, câm, điếc.

Một hôm, một người vào cung xin được yết kiến đức Vua. Vua hỏi:

– Nhà ngươi gặp Ta có chuyện gì?

– Tâu bệ hạ – người đó thưa lại- thảo dân nghe có người nói bệ hạ đang bị một căn bệnh hiểm nghèo thuộc loại “Tứ chứng nan y” nên hạ thần vào thăm để xem có thể giúp được gì cho bệ hạ không.

Nghe thế, đức vua đùng đùng nổi giận quát to:

– Kẻ nào dám bịa đặt bảo ta bị bệnh? Chân tay mắt mũi ta đang lành lặn thế này mà dám bảo ta đang bị mù, què, câm, điếc hay sao?

Người kia liền tâu:

– Thảo dân chỉ nghe thiên hạ đồn như vậy thôi. Hôm nay gặp bệ hạ thảo dân mới biết sự thật. Nhưng xét lại, thì thấy tin đồn ấy cũng chẳng sai.

Nhà vua chặn lời nói:

– Vậy ngươi hãy chỉ cho ta xem ta bị bệnh như thế nào!

– Tâu bệ hạ, thứ nhất dân kêu kiện nhiều mà bệ hạ không trả lời, không chịu giải quyết, nên bọn họ tưởng bệ hạ bị bệnh câm. Thứ hai, giặc ngoại bang đang dòm ngó muốn xâm chiếm đất nước, mọi người dân đều hoang mang lo sợ, yêu cầu bệ hạ cấp thời tìm cách chống giặc mà bệ hạ không mảy may quan tâm, nên họ tưởng là bệ hạ bị bệnh điếc. Thứ ba, cuộc sống của bệ hạ ăn sung mặc sướng, còn dân chúng lại chịu cảnh đói khổ cùng cực. Họ thấy bệ hạ không để ý đến họ, nên tưởng bệ hạ bị bệnh đui. Và cuối cùng, do không thấy bệ hạ rời khỏi cung điện ra ngoài vi hành, mà ngày đêm chỉ biết ăn chơi với các cung phi mỹ nữ, nên họ tưởng bệ hạ bị bệnh què!

Nói chung các ông vua trên trần gian đều bị mù què câm điếc như vậy, kể cả ông vua nổi tiếng là khôn ngoan tột đỉnh trong thánh kinh là vua Salômôn cũng thế. Vua đã có đến 700 bà vợ chính thức và 300 thê thiếp! Chỉ có ông vua duy nhất hoàn hảo là vua Mục Tử Giê-su, là vua trong nước của Sự Thật, của Sự Sống, của Yêu Thương và Hạnh Phúc viên mãn.

4) TÌNH YÊU – PHƯƠNG THẾ HỮU HIỆU GIÚP CHỮA LÀNH VÀ THĂNG TIẾN:

Có một cậu bé kia tự cho mình là người bất hạnh nhất trên đời. Bạn bè đánh giá cậu là kẻ nhát gan, nét mặt lúc nào cũng lộ vẻ bối rối sợ hãi. Chân đi tập tễnh và miệng thở phì phò giống như người đang kéo bễ lò rèn vậy. Trong lớp học, mỗi khi bị cô giáo kêu đứng dậy trả bài, thì chân cậu lại run rẩy đứng không vững, cặp môi liên tục mấp máy và trả lời ấp úng, Cuối cùng cậu đành xấu hổ ngồi xuống với số điểm thấp. Giả như cậu có khuôn mặt đẹp, thì có thể cũng gây được thiện cảm phần nào của người khác. Nhưng cậu lại mang bộ mặt xấu xí vì bị chứng răng hô.

Bố cậu bé muốn giúp cậu lấy lại tinh thần nên đã sang bên nhà hàng xóm xin một ít hạt giống của nhiều loại hoa để mang về trồng trong thửa vườn ở mặt tiền ngôi nhà. Ông giao cho các con, mỗi đứa một loại hạt giống và một cái chậu để trồng. Ông hứa sau ba tháng chậu nào nở hoa đẹp nhất, thì người trồng hoa sẽ được thưởng một món quà có giá trị. Cậu bé nói trên cũng muốn lãnh phần thưởng của cha. Nhưng khi thấy các anh chị ai nấy đều lo chăm lo săn sóc chậu hoa của mình, thì cậu ta lại suy nghĩ tiêu cực là mong cho chậu hoa của mình bị tàn úa. Vì thế, cậu chỉ tưới nước qua loa chứ không chăm sóc kỹ chậu hoa như các anh chị.

Một tháng sau, khi có dịp ra vườn quan sát hoa, cậu bé vô cùng ngạc nhiên khi thấy chậu hoa của cậu không những không bị héo úa, mà còn mọc thêm một số nhánh mới nở bông rực rỡ. So với chậu hoa của các anh chị, chậu hoa của cậu tràn đầy sức sống. Cậu cứ thắc mắc tại sao lại có kết quả tốt như vậy đang khi cậu ít quan tâm. Ba tháng sau, ông bố chấm thi đã cho chậu hoa của cậu được hạng nhất và cậu đã được cha thưởng món quà cậu ưa thích. Ông bố cũng không quên động viên cậu như sau: “Cứ xem chậu hoa của con trồng thì chắc sau này con sẽ thành một nhà thực vật học xuất sắc”.

Từ đó trở đi, cậu bé đã dần lấy lại tự tin và cảm thấy yêu đời hơn. Vào một buổi tối, cậu trằn trọc mãi không sao ngủ được. Nhìn ra ngoài sân cậu thấy  ánh trăng vằng vặc trên cao, cậu nhớ lại lời của thầy dạy môn sinh vật: “Cây trồng luôn phát triển vào lúc ban đêm”. Cậu nghĩ: Tại sao ta lại không ra ngoài vườn để xem lý do tại sao chậu hoa của ta hôm nay phát triển thế nào nhỉ? Rồi cậu bước xuống khỏi giường đi ra ngoài xem vườn hoa ở phía trước ngôi nhà. Cậu thật bất ngờ khi thấy cha cậu đang xách nước tưới cho chậu hoa của cậu và cậu đã hiểu ra mọi sự. Thì ra, chính cha cậu đêm đêm đã âm thầm chăm sóc bón phân tưới nước cho chậu hoa của cậu khi mọi người đang ngủ. Cậu quay về phòng gục mặt xuống gối, mặc cho dòng nước mắt chảy đầm đìa trên mặt vì cậu đã nhận biết tình thương bao la của cha đã chăm sóc và động viên an ủi cậu trong thời gian qua.

Thấm thoát sau mấy chục năm, cậu bé với đôi chân tập tễnh ngày nào tuy không trở thành một nhà thực vật học nổi danh đúng theo ước nguyện của cha, nhưng cậu đã trở thành vị tổng thống lừng danh của nước Mỹ. Đó chính là tổng thống FRANKLIN ROOSEVELT.

  1. THẢO LUẬN:

1) Mỗi tín hữu chúng ta cần làm gì để Chúa Giê-su trở thành ông Vua của gia đình mình?

2) Chúng ta cần làm gì để trở thành công dân có thẻ căn cước của Vương Quốc Tình Yêu của Vua Giê-su ?

  1. SUY NIỆM:

Ngày nay quân chủ hầu như đã trở nên xa lạ đối với nhân loại. Trên thế giới hiện nay chỉ còn một ít nước Âu Á như: Anh quốc, Tây Ban Nha, Bỉ, Hòa Lan, Thụy Điển, Nhật Bản, Thái Lan, Cam-pu-chia… vẫn duy trì chiếc ghế của vua chúa hay nữ hoàng, nhưng chỉ mang tính tượng trưng theo truyền thống chứ không có thực quyền. Thay vào đó, chế độ dân chủ đã được hầu hết các quốc gia áp dụng. Con người càng văn minh lại càng muốn được bình đẳng và không muốn bị kẻ khác đè đầu cưỡi cổ mình. Như vậy Hội Thánh mừng lễ Chúa Ki-tô làm Vua liệu có gây ra dị ứng nơi tâm thức của con người ngày nay, đặc biệt nơi giới trẻ hay không? Đức Giê-su có thực sự là Vua của chúng ta không và ta phải làm gì để trở thành công dân của Nước Trời của Vua Giê-su sau này?

1) SỨ MẠNG CỦA VUA GIÊ-SU LÀ LÀM CHỨNG CHO SỰ THẬT:

Qua bài Tin mừng hôm nay, Phi-la-tô đã đặt ra nhiều câu hỏi về điều mà các đầu mục dân Do thái đang tố cáo : “Ông có phải là Vua dân Do thái không?”. Người trả lời rằng: “Chính ông nói tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đến thế gian nhằm mục đích này là: làm chứng cho Sự Thật. Ai đứng về Sự Thật thì nghe tiếng tôi”. Qua đó, Đức Giê-su đã khẳng định Người chính là Vua, và Người được Chúa Cha sai đến thế gian để thiết lập một Vương quốc Sự Thật.  Phi-la-tô không hiểu lời Người nói nên hỏi lại: “Sự Thật là gì?”. Sở dĩ ông không hiểu sự thật vì ông không phải thần dân của Vương Quốc do Người thiết lập (x. Ga 18, 33-38).

2) ĐỨC GIÊ-SU LÀ ĐƯỜNG ĐÃN ĐẾN VƯƠNG QUỐC SỰ THẬT VÀ SỰ SỐNG:

Tin mừng Gio-an đã nói khá nhiều về Vương quốc Sự Thật mà chính Đức Giê-su sẽ khai mào: Khi nói chuyện với người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp, Đức Giê-su đã vén mở một phần về Vương quốc Sự thật ấy như sau: “ Thiên Chúa là Thần khí và những kẻ thờ phượng Ngài phải thờ phượng trong Thần Khí và Sự Thật” (Ga 4, 24). Cũng vậy trong bữa tiệc ly từ giã các môn đệ, Đức Giê-su đã khẳng định: “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14, 6). Người đến để cho thần dân của Người “được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Người cũng cho Phi-la-tô biết về Nước Trời: “Nước tôi không thuộc thế gian này” (c 36). Tuy nhiên, chính Phi-la-tô sau đó đã cho treo một tấm bảng gắn trên đầu cây Thập giá với hàng chữ: “Giê-su Na-gia-rét, Vua dân Do thái”. Qua đó ông đã chính thức công bố sự thật này là: Đức Giê-su là Vua dân Do Thái.

3) CHIA SẺ PHỤC VỤ LÀ ĐIỀU KIỆN GIA NHẬP VƯƠNG QUỐC TÌNH YÊU:

– Vua Giê-su đã đảo lộn mọi bậc thang giá trị của Nước Trời khi dạy: “Ai muốn làm lớn nhất thì phải trở nên người bé nhất” noi gương Người, Đấng “đến không để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến ban sự sống cho nhiều người” (Mc 10,45).

– Vương quốc mà Chúa Giê-su thiết lập là Vương quốc của Tình Yêu, và chỉ những ai thực thi yêu thương mới đủ điều kiện gia nhập vào trong Nước ấy. Đến ngày phán xét Người sẽ nói với những kẻ thực thi tình thương chia sẻ như sau: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm” (Mt 25,34-36). “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).

– Trong bữa tiệc ly, Đức Giê-su đã cho biết tình yêu đích thực là sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình: “Không có tình yêu nào cao quý cho bằng mối tình của người hiến ban mạng sống cho bạn hữu” (Ga 15, 13). Tình yêu còn là thái độ khiêm hạ phục vụ tha nhân, noi gương Đức Giê-su quì gối rửa chân cho môn đệ và sau đó đã dạy họ bài học yêu thương phục vụ lẫn nhau: “Nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13, 14). Đức Giê-su cũng đề ra Hiến Pháp của Nước Trời hay Tám Mối Phúc Thật, trong đó, Người cho biết điều kiện để gia nhập vào Nước Trời là: Phải có lối sống khiêm hạ siêu thoát, ứng xử hiền hòa, chấp nhận đau khổ bệnh tật, ước ao nên trọn lành, có lòng thương xót, có tâm hồn thanh sạch, ăn ở thuận hòa, sẵn sàng chịu bách hại vì đức tin…

4) TÍCH CỰC XÂY DỰNG VƯƠNG QUỐC SỰ THẬT VÀ YÊU THƯƠNG:

Ki-tô hữu là những người đã chọn bước theo chân Đức Giê-su trên con đường của Ngài, là làm chứng cho sự thật. Trong hoàn cảnh xã hội hiện nay, sự giả dối ngày càng chiếm ưu thế trong giao tiếp xã hội.Các tín hữu chúng ta cần tích cực làm chứng cho sự thật để góp phần xây dựng Vương Quốc Sự Thật và yêu thương của Vua Giê-su ngày một phát triển như sau:

– Có lẽ chưa bao giờ sự tha hóa trong cung cách làm ăn của người Việt nam chúng ta lại xuống cấp như hiện nay. Vì mưu sinh, muốn làm giàu mau lẹ mà người ta đã dùng mọi thủ đoạn, đã bỏ qua tiếng lương tâm cáo trách để đi buôn hàng gian hàng giả, gây nguy hại cho sức khỏe của đồng bào. Khi ra đường dễ bị té xe dẫn đến tử vong do cán phải đinh của bọn “đinh tặc” rải. Rồi khi vá xe lại bị bọn sửa xe đồng bọn “chặt chém”. Khi đổ xăng thì không chỉ bị thiệt hại về số lượng mà có thể còn mua phải loại xăng “dỏm” gây nổ hoặc cháy xe. Ra chợ thì mua phải thực phẩm nhiễm thuốc rầy độc hại: Nhiều người đã chết vì uống nhầm rượu “dỏm” hay chị em phụ nữ mặc nịt áo có chứa chất gây bệnh ung thư… Vì thế, mỗi tín hữu chúng ta cần sống đúng sự thật, theo sự mách bảo của Chúa Thánh Thần qua tiếng lương tâm, để đẩy lùi sự gian dối ra khỏi gia đình, học đường và các giao tiếp xã hội.

 chúng ta phải biết dùng lời nói chân thật, khiêm tốn và khoan dung nhân hậu để đem lại sự an vui thuận hòa, để yêu thương và tha thứ, để bênh vực và che chở, để quan tâm nâng đỡ và khích lệ, đồng thời sẵn sàng chấp nhận người khác trổi vượt hơn mình… thì tâm hồn chúng ta mới thực sự được bình an. Hãy năng hát Kinh Hòa Bình của thánh Phan-xi-cô, rồi quyết tâm thực hành để nên chứng nhân Tình Thương của Chúa Ki-tô trước mặt người đời.

  1. NGUYỆN CẦU

LẠY CHÚA GIÊ-SU: Xin giúp chúng con biết noi gương Chúa là Vua của Sự Thật. Xin cho chúng con biết yêu Sự Thật và luôn nói thật, nhưng cũng biết khôn ngoan để không nói ra những sự thật gây thiệt hại cho người vô tội. Xin cho chúng con tránh những lời dối trá lọc lừa.

Trong giao tiếp xã hội, xin cho chúng con tránh thái độ đạo đức giả như các người Pha-ri-sêu và kinh sư xưa đã bị Chúa nặng lời quở trách (x. Mt 23,13-36).

Trong quan hệ làm ăn buôn bán, xin giúp chúng con luôn buôn ngay bán thật, không nói rước nói thách, không làm hàng gian hàng giả, không cư xử bất công lường gạt những người nhẹ dạ cả tin.

Xin Chúa giúp chúng con luôn trung thực trong lời nói việc làm, để xứng đáng là công dân Nước Trời của Vua Giê-su, Đấng “là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14,6). Xin cho chúng con trở thành khí cụ bình an của Chúa để đưa được nhiều người về làm con Thiên Chúa trong đại gia đình Hội Thánh.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

LM ĐAN VINHHHTM