Cử hành Thánh Thể: Bài 6 & 7

print

Cử hành Thánh Thể: Bài 6 & 7

BÀI 6: DẤU THÁNH GIÁ.

BÀI 7: LỜI CHÀO – LỜI DẪN NHẬP ĐẦU LỄ.

BÀI 6: DẤU THÁNH GIÁ

I. VĂN KIỆN

Sau cnhập lễ, vị tư tế, đứng tại ghế, cùng toàn thể cộng đoàn làm dấu thánh giá. Tiếp đó, dùng lời chào mà nói cho cộng đoàn biết là có Chúa hiện diện… Sau khi chào giáo dân xong, vị tư tế hay phó tế, hay một thừa tác viên khác có thể nói ít lời dẫn nhập tín hữu vào Thánh lễ hôm ấy (QCSL 50).

II. LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA

Làm dấu thánh giá là một thói quen lâu đời trong Kitô giáo bắt nguồn và dựa trên bản văn Tin Mừng  Mt 28,19: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm Bí tích Rửa tội cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.”

Có lẽ thực hành này đã có từ thế kỷ thứ II nhằm gợi lại sự kiện máu con chiên được bôi trên cửa của những người Do Thái tại Ai Cập vào đêm Vượt qua (x. Xh 12,7) và báo trước dấu ấn sẽ được ghi trên trán của các vị thánh trên trời.

Từ “dấu” trong tiếng Hipri là TavĐây là chữ cuối cùng trong bảng chữ cái của ngôn ngữ này và có hình dạng được viết như hình thánh giá (T hay X). Dấu được sử dụng trong Edêkien 9 là dấu ấn nói lên chủ quyền của Thiên Chúa trên đối tượng được ghi dấu. Bởi vậy, khi làm dấu thánh giá chúng ta đồng hóa mình là dân của Chúa. Các thiên thần trong Kh 7,2-3 cũng mang dấu ấn của Thiên Chúa. Dấu ấn này cũng liên kết chúng ta với danh của Con Chiên và thánh danh Chúa Cha (Kh 14,1; 22,4). Bởi vậy, ngay từ thế kỷ III Giáo phụ Tertullianô đã dạy rằng: “…mỗi bước đi và di chuyển, mỗi lần đi vào và đi ra, khi mặc y phục và xỏ giày…trong tất cả mọi hoạt động thường ngày, chúng ta hãy ghi dấu thánh giá.”[1]

Theo truyền thống từ xa xưa, các tín hữu làm dấu thánh giá khi bắt đầu mỗi công việc, đặc biệt là khi khai mở cử hành phụng vụ.[2] Dĩ nhiên, cách thức chỉ là ghi dấu thánh giá [nhỏ] trên trán như đứa trẻ được cha mẹ và những người đỡ đầu thực hiện trong nghi thức Thanh tẩy hiện nay.[3] Từ đầu thế kỷ III, tại Phi châu và Rôma, việc ghi dấu thánh giá trên trán trong nghi thức khai tâm Kitô giáo đã trở thành một phương thức truyền thống bày tỏ người đón nhận thuộc về Chúa Kitô. Cuối thế kỷ IV, làm dấu thánh giá được thực hiện nhiều lần khi cử hành các bí tích. Đến thế kỷ IX, khi tới bàn thờ, Đức Giáo hoàng ghi dấu thánh giá chỉ trên trán của ngài.[4] Mãi tới thời hậu Trung cổ (1100-1400), trong phụng vụ Rôma, việc làm dấu thánh giá lúc bắt đầu Thánh lễ mới xuất hiện khi chủ tế dẫn vào lời nguyện nhập lễ tại chân bàn thờ… Đó là những lời nguyện được linh mục đọc trên đường dẫn tới cung thánh.[5] Theo Jungmann, công thức và hành động làm dấu thánh giá lúc khởi đầu Thánh lễ thời Trung cổ là nhằm “khấn xin phúc lành của Thiên Chúa” và thừa nhận rằng “chúng ta bắt đầu hành vi thánh thiện trong quyền năng từ Thiên Chúa Ba Ngôi nhờ thập giá Chúa Kitô.”[6]

Dấu thánh giá mang thêm nhiều ý nghĩa sau đó và trở thành một cử điệu trừ tà. Vào thế kỷ thứ XIII, Đức Innocent III (cùng thời với thánh Phanxicô Atxixi) mô tả tập tục làm dấu thánh giá ở Tây phương đồng thời cũng hướng dẫn các tín hữu ý nghĩa của dấu thánh giá rằng:

Dấu thánh giá được làm với 3 ngón tay (cái, trỏ và giữa) chụm lại với nhau bởi vì dấu hiệu được thực hiện với sự khẩn cầu Ba Ngôi Thiên Chúa. Cách làm như thế này: từ trên xuống dưới, và từ phải qua trái, bởi lẽ Đức Kitô đã từ trời xuống thế và từ người Do Thái (phải) Người tiến sang dân ngoại (trái).

Bấy giờ, cả Đông lẫn Tây phương, mọi người vẫn làm dấu thánh giá như trên, nghĩa là từ phải qua trái, nhưng sau lại bắt chước phép lành của linh mục, họ đã bắt đầu làm dấu từ trái qua phải. Thế là, từ nhiều thế kỷ qua, Tây phương vẫn cứ theo cách làm dấu thánh giá như thế, tức là từ trái qua phải. Đó là lý do tồn tại cho đến nay truyền thống Đông phương làm dấu từ phải qua trái trong khi Tây phương lại làm từ trái qua phải và đã phát triển thành truyền thống phụng vụ.[7]  

Dấu thánh giá là dấu chỉ thánh thiện nhất trong các dấu chỉ. Dấu thánh giá còn là dấu chỉ của vũ trụ và là dấu chỉ sự cứu độ nhân loại nhờ duy chỉ thập giá vinh thắng của Chúa Giêsu Kitô (x. Rm 5,8). Ngài thánh hóa và cứu độ con người nhờ thánh giá (x. Cv 4,12). Làm dấu thánh giá là một hình thức tuyên xưng đức tin trong Chúa Kitô.[8] Vì vậy, dấu thánh giá thánh hiến và thánh hóa các tín hữu trong sức mạnh của Chúa Kitô và trong danh Ba Ngôi Thiên Chúa. Dấu thánh giá không chỉ hướng lòng các tín hữu lên Chúa Ba Ngôi, kêu cầu danh Thiên Chúa Ba Ngôi, nhưng còn nài xin ân sủng của Thiên Chúa do thập giá Chúa Kitô đem lại và nhắc nhớ họ về nguồn mạch của công cuộc thánh hóa là hy tế của Đức Kitô, về bí tích Thánh tẩy mà tất cả Kitô hữu đã được lãnh nhận nhân danh Chúa Ba Ngôi, nhờ đó, họ được gia nhập Hội Thánh, thành dân của Chúa, được sống một đời sống mới (x. Rm 6,3-4), được bước vào gia đình thân mật của Ba Ngôi Thiên Chúa và được tham dự vào chức tư tế của Chúa Giêsu. Do đó, họ cũng được quyền tế lễ với Chúa Kitô và tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi.[9]

Ngay lúc bắt đầu Thánh lễ, việc làm dấu thánh giá trên mình nhằm diễn tả các tín hữu được triệu tập dưới dấu hiệu của thánh giá[10] và họ “ngước nhìn lên Đấng người ta đã đâm thâu” (Ga 19, 37).[11] Dấu thánh giá làm trên mình đặt các tín hữu trong tương quan với Chúa Cha, nhờ Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần, cũng như nhắc nhớ về bí tích Thánh tẩy của họ.

III. ĐỀ NGHỊ MỤC VỤ

Chủ tế đứng tại ghế chủ tọa [hơn là ở bất cứ vị trí nào khác trong cung thánh], cùng toàn thể cộng đoàn làm dấu thánh giá trên mình (NTTL 1; QCSL 50, 124; LNGM 131).

  1. SUY NIỆM[12]

Khi bắt đầu cử hành Thánh lễ, chúng con làm dấu thánh giá đang khi vị chủ tế cất tiếng đọc “Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần”. Lạy Chúa Giêsu, chúng con vẫn thường tự hỏi tại sao chúng con lại phối hợp dấu thánh giá với danh Ba Ngôi chí thánh. Chúng con tin rằng chính bởi vì mọi kinh nguyện của Kitô hữu đều gợi lại hy tế trên thập giá. Chúng con kết hợp cả hai để nhắc nhớ mình rằng Chúa đã quy tụ chúng con để cử hành tiệc thánh nhân danh Chúa Ba Ngôi trong sự tưởng niệm Chúa chịu nạn và chịu chết trên thánh giá.

Dấu thánh giá là một phương tiện nhờ đó chúng con thừa nhận sự hiện diện của thánh giá Chúa trong cuộc đời chúng con. Chúng con làm dấu thánh giá trong những hoàn cảnh khác nhau: lúc vui cũng như khi buồn; lúc gặp hiểm nguy hay do tai họa từ thiên nhiên; khi khởi sự cầu nguyện hay bắt tay vào công việc gì. Lạy Chúa, thánh giá Chúa là biểu tượng cho quyền năng Chúa và nhắc nhớ chúng con nhiều điều.

Khi chúng con làm dấu thánh giá, chúng con kêu cầu danh Chúa Ba Ngôi. Chính do ý muốn và quyền bính của Chúa Cha và với uy lực của Chúa Thánh Thần mà Chúa, lạy Chúa Giêsu, đã vác thập giá lên đồi Canvê. Khi Chúa từ bỏ mạng sống mình, sự xấu xa của tội lỗi nhân loại hiện ra càng ghê gớm nhưng rồi lòng trắc ẩn đầy yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi đã được tỏ hiện. Lạy Chúa, chính trên thánh giá, Chúa đã quay về với cung lòng của Chúa Cha và dạy chúng con biết rằng nhờ chịu đóng đinh vào thánh giá mà chúng con được kéo lên với Chúa. Cũng chính trên thánh giá mà Chúa đã ban Thánh Thần cho chúng con – Đấng đã đồng hành với Chúa từ nhập thể cho đến khi bị đóng đinh trên thánh giá. Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn bám chặt không rời khỏi Chúa Thánh Thần khi chúng con phải đương đầu vượt qua sóng gió cuộc đời này.

Khi chịu phép thanh tẩy, chính với dấu thánh giá ghi trên trán chúng con và nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, Chúa Cha đã đón nhận chúng con làm con cái của Người. Nhờ thánh giá, Chúa Thánh Thần được ban cho chúng con. Ước gì bí tích rửa tội chúng con lãnh nhận luôn giữ mãi trong lòng trí chúng con sự hiện diện của Chúa Thánh Linh và quyền năng của thánh giá.

Thánh Ambrosio nói rằng Chúa Thánh Thần và thánh giá nằm ngay trong nước rửa tội. Điều này đã họa ra trong trí chúng con về cuộc đời mình, cuộc đời đã được nhận chìm trong dòng nước thanh tẩy. Chính nơi dòng nước này mà chúng con, khi bám lấy thập giá Chúa, đã được hòa hợp với Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần. Lạy Chúa, xin hãy để cho dòng nước thánh tẩy thường xuyên tồn tại trong chúng con. Xin luôn luôn nhắc nhớ chúng con rằng bên ngoài dòng nước này, chúng con sẽ chẳng thể nào hít thở được thần khí sự sống của Chúa Thánh Linh; không có dòng nước rửa tội này, chúng con sẽ không thể thấu hiểu được thập giá. Cuộc sống sẽ là gì nếu không thông hiệp với Chúa Ba Ngôi? Đời sống chúng con sẽ bấp bênh chao đảo thế nào nếu không có đồn lũy của thập giá chở che?

 

 

BÀI 7: LỜI CHÀO – LỜI DẪN NHẬP ĐẦU LỄ

I. VĂN KIỆN

Dứt ca nhập lễ, linh mục đứng tại ghế, cùng toàn thể cộng đoàn làm dấu thánh giá trên mình. Tiếp đó, linh mục dùng lời chào biểu thị cho cộng đoàn biết sự hiện diện của Chúa. Lời chào của linh mục và câu đáp của cộng đoàn nói lên mầu nhiệm của Hội Thánh được quy tụ. Sau lời chào, linh mục hoặc phó tế hoặc một thừa tác viên giáo dân có thể nói rất vắn tắt dẫn đưa cộng đoàn vào Thánh lễ ngày hôm ấy (Quy chế Tổng quát Sách Lễ Rôma, số 50).

II. LỜI CHÀO & Ý NGHĨA

  1. Ba công thức

Sách lễ Rôma hiện nay dự liệu 3 công thức cho chủ tế chọn để chào cộng đoàn:

1) Công thức thứ I: Chúa ở cùng anh chị em 

Công thức này nằm trong số những yếu tố cổ xưa nhất của nghi thức nhập lễ và là một câu có xuất xứ từ nhiều đoạn Kinh Thánh:[1] [i] Trong sách Rút (2,4) khi ông Bôat chào những người thợ gặt của ông “Xin Đức Chúa ở cùng các anh”; [ii] Trong sách Sử Biên Niên II (15,2),  Azarias nói với Asa: Đức Chúa ở cùng anh em[iii] Trong sách Thẩm Phán, Thiên Chúa cũng chào Gêđêon: “Đức Chúa ở cùng ông” (Tl 6,12); [iv] Trong Tân Ước, chính thiên thần Gabriel cũng chào Đức Mẹ: “Kính chào bà đầy ơn phúc, Chúa ở cùng bà” (Lc 1,28). Công thức “Ta sẽ ở với ngươi” (Xh 3,12;  18,19; Đnl 20,1; Kh 21,3) vừa là lời cầu chúc vừa là sự cam kết của Chúa hỗ trợ những kẻ thuộc về Ngài. 

2) Công thức II:  Nguyện xin ân sủng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em (x. 2Cr 13,13)

Đây là một công thức phụng vụ được sử dụng từ thời các tông đồ. Nó không những rõ rệt nhắc tới sự hiện diện của Ba Ngôi Thiên Chúa, nhưng còn cho chúng ta biết công việc riêng của mỗi Ngôi. Lời chào chúc này nhắc nhở các tín hữu tham dự: cầu xin sự hiện diện của Thiên Chúa Ba Ngôi; Thánh lễ được dâng lên để tôn vinh Chúa Cha, nhờ lễ tế của Chúa Con, trong sự hiệp thông với Chúa Thánh Thần là Đấng Thánh hóa lễ vật cũng như liên kết mọi người dâng lễ lại với nhau và với Chúa Giêsu làm của lễ thượng tiến Chúa Cha. Ở đây, thánh Phaolô cầu xin sự hiệp nhất của Ba Ngôi Thiên Chúa, là nguồn của mọi sự hiệp nhất, trở thành nguồn hiệp nhất trong đời sống của Hội Thánh.[2]

3) Công thức thứ III: Nguyện xin Thiên Chúa, Cha chúng ta và Đức Giêsu Kitô ban cho anh chị em ân sủng và bình an

Một cách tổng quát, đây là công thức thánh Phaolô dùng nhiều lần trong khi mở đầu các bức thư của ngài (x. Rm 1,7; Gl 1,3; 1Cr 1,2; 2Cr 1,2; Ep 1,2; Cl 1,3; 1Tx 1,2; 2Tx 1,2). Lời chúc bình an cũng là một đặc tính trong cách chào chúc của Kinh Thánh còn được lưu giữ tới bây giờ, và đã được chính Chúa Giêsu Phục sinh sử dụng (x. Ga 20, 19). Tuy chỉ nhắc tới Chúa Cha và Chúa Kitô, nhưng theo thánh Phaolô, ân sủng nhiều lần được đồng hóa với Chúa  Thánh Thần (Ep 1,3) và bình an cũng là hoa trái của Chúa Thánh Linh (Gl 5,22), cho nên công thức này cũng liên hệ đến Thiên Chúa Ba Ngôi.[3]

B. Lời chào của Giám mục

Nếu là Giám mục, chủ tế sẽ chào cộng đồng bằng câu: “Bình an [của Chúaở cùng anh chị em” (Chúc anh chị em được bình an) – dân chúng đáp “và ở cùng cha” (Xin chúc Cha cũng được như vậy). Lời chào và câu thưa này càng hướng chúng ta về Chúa Giêsu hơn, vì đó chính là câu Ngài chào các tông đồ khi sống lại và hiện ra với các ông (x. Ga 20,19; Lc 24,36). Câu “Bình an của Chúa ở cùng anh chị em” là một công thức được sử dụng bên Antiôkia và Constantinopoli trong khi bên Tây phương và Ai Cập lại dùng công thức “Chúa ở cùng anh chị em.”[4] 

Như được ghi trong cuốn Truyền thống Tông đồ, cuộc đối thoại giữa chủ tế và dân chúng: “Chúa ở cùng…” – “Và ở cùng …” xuất hiện trong Kinh nguyện Thánh Thể hồi thế kỷ IV và cuối cùng được chấp nhận đưa vào phần khởi đầu Thánh lễ. Thánh Gioan Kim Khẩu nói rằng khi tiến vào thánh đường, ngài nói với cộng đoàn: “Bình an cho anh chị em” và dân chúng đáp lại: “Và ở cùng thần trí của cha.”[5]

C. Chúa ở cùng anh chị em  

Công thức “Chúa ở cùng anh chị em” không đơn giản chỉ là một lời chào mà còn là một lời cầu xin, một lời chúc / một lời mời nhằm kêu xin Chúa ở với cộng đoàn, cũng là chúc cho điều đó xảy ra cho nên chính xác hơn phải nói là “Xin Chúa ở cùng anh chị em.[6]  

Đọc công thức “Chúa ở cùng anh chị em”, linh mục chủ tế “nhìn nhận rằng mình đang đứng trước một dân thánh, tập họp nhân danh Chúa Kitô và Chúa Kitô cũng hiện diện với họ.”[7] Đây không phải là một công thức bình thường, nhưng diễn tả mầu nhiệm Chúa Giêsu là Emmanuel, “Thiên Chúa ở giữa chúng ta.” Mở đầu Tin Mừng  theo thánh Matthêu, tác giả đã nhấn mạnh đến mầu nhiệm Chúa Kitô: “Người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là ‘Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta’.” Kết thúc Tin Mừng , thánh sử lại khẳng định mầu nhiệm này một lần nữa: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28,20). Hai lần xác quyết như vậy được coi như hai trụ cột ở hai bên từ đó làm nên một nhịp cầu để cộng đoàn có thể bước đi trên đó từ lúc Chúa Giêsu giáng sinh cho đến cuộc phục sinh của Ngài. Cũng vậy, khi đưa mầu nhiệm Emmanuel vào lúc mở đầu và kết thúc Thánh lễ, phụng vụ muốn khẳng định rằng toàn bộ cử hành Thánh lễ được thiết lập trên nền tảng Emmanuel ‘Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta’; và cộng đoàn, một khi đã được thay hình đổi dạng trong Nhiệm Thể Chúa Kitô, đến lượt mình, cũng sẽ trở thành Emmanuel cho thế giới.[8] 

Lời chào đầu lễ mang thể thức đối thoại giữa chủ tế và cộng đoàn không phải là lời chào xã giao ngoài xã hội. Nó mang ý nghĩa sâu đậm hơn là tình cảm bạn hữu, thân quen, thân thuộc… giữa người này với người kia và những lời chúc hay ý muốn tốt lành dành cho nhau.[9] Đây là cuộc đối thoại giữa mục tử và đoàn chiên của ngài, giữa Chúa Kitô và dân tư tế của Ngài, giữa vị tư tế hành động nhân danh Chúa Kitô và Dân Thánh mà cùng với họ và cho họ mà vị tư tế hiến dâng hy lễ hằng sống và thánh hiện lên Chúa Cha.[10] Mặt khác, nhờ trung gian của thừa tác viên mà Thiên Chúa được ban cho họ.[11] Đây cũng lời loan báo và mong ước rằng mọi người sẽ thực sự cảm nghiệm được sự hiện diện và quyền năng của Chúa Kitô đang ở giữa cộng đoàn, nghĩa là ở giữa những người đã được Chúa Kitô quy tụ trong Hội Thánh. Vì vậy, lời chào này không những nói lên mầu nhiệm Chúa Kitô đang hiện diện mà còn nói lên mầu nhiệm cộng đoàn Hội Thánh được quy tụ (QCSL 50).[12]  

D. Và ở cùng cha 

Câu đáp “Và ở cùng cha” của cộng đoàn phụng vụ là một kiểu nói quen thuộc trong những lời chúc tụng của Do Thái giáo đã được Kitô hóa. Chúng ta tìm thấy những kiểu nói tương tự trong các thư của thánh Phaolô (2Tm 4,22; x.. Plm. 25; Gl 6,18; Pl 4,23).[13]

Từ thời cổ, câu đáp “và ở cùng thần trí cha” (Et cum spiritu tuo) đã được thêm vào và nó có ý nghĩa thiêng liêng hơn. Ngay từ thế kỷ V, Narsai đã giải thích trong bài giảng số 17 rằng lời đáp “và ở cùng thần trí cha” không phải nói đến linh hồn hay sinh khí của linh mục nhưng quy chiếu về Chúa Thánh Thần mà ngài đã lãnh nhận qua việc đặt tay của Đức Giám mục trong ngày chịu chức.[14] Qua lời đáp “và ở cùng thần trí cha”:

– Mọi người cầu chúc nhận vị chủ tế nhận được sự hỗ trợ từ ân huệ của Thần Khí và Thiên Chúa. Ngài là thừa tác viên đã lãnh nhận Thánh Linh của Thiên Chúa vào trong tâm trí mình trong ngày chịu chức linh mục và nhờ đó trở thành “người tôi tớ đặc biệt của Chúa Kitô và người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa” (1Cr, 4,1; x. 1Tm 4,14; 2Tm 1,16);[15]

– Như một sự đồng tâm nhất trí của cộng đoàn đối với công việc của tư tế (J.A. Jungmann, SJ);

– Với dụng ý rằng: vị chủ tế chỉ có thể cử hành Thánh lễ nhờ sự thúc đẩy và nhờ quyền lực của Chúa Thánh Thần, “Đấng liên kết với thần trí Ngài” (x. Rm 8,16);[16]

III. LỜI DẪN NHẬP VÀO THÁNH LỄ

Mục đích của phần dẫn nhập này là: [i] Giúp cộng đoàn trở nên Nhiệm Thể duy nhất của Chúa Kitô một cách trọn vẹn hơn, một cộng đoàn được quy tụ trong Chúa Thánh Thần và để phụng thờ Thiên Chúa Cha; [ii] Là một cơ hội thích hợp để hướng tâm trí người dự lễ về ý nghĩa cử hành, về tinh thần của mùa lễ, ngày lễ (dựa chủ yếu trên kinh nhập lễ hay ca nhập lễ), có thể nói đôi nét về vị thánh mừng kính hôm ấy nhưng không phải là thời gian để kể chi tiết về cuộc sống và cái chết của ngài; [iii] Là lúc để định hướng việc cử hành và tạo cho bầu khí ngày lễ một sắc thái cá biệt; [iv]] Là thời điểm có thể nhắc qua sơ qua chủ đề của Phụng vụ Lời Chúa sẽ được trình bày trong bài giảng.[17]  

Trong thực hành, không chỉ linh mục, mà ngay cả phó tế hay một thừa tác viên khác cũng có thể nói lời dẫn nhập (x. NTTL 3; QCSL 31, 50, 124), nhưng luôn luôn phải thật ngắn gọn. Vì vậy, tốt nhất nên dọn sẵn lời dẫn nhập.

IV. SUY NIỆM[18]

“Chúa ở cùng anh chị em”. Ôi lạy Chúa Giêsu, đây là lời vị chủ tế chào đón chúng con, với lời này, Chúa đã ân cần quy tụ chúng con vào cử hành Thánh lễ. Đây là lời chào, nhưng không giống như bất cứ lời chào xã giao bình thường nào, lời chào này loan báo rằng Chúa đang ở giữa chúng con. Đối với một số người, lời chào này chất chứa bao hy vọng, vui tươi và an lành. Đối với những người đang u buồn và đau khổ, lời chào này trở thành niềm an ủi và động viên nâng đỡ họ. Lạy Chúa, Chúa ở với chúng con và đó là quan trọng, là tất cả đối với chúng con.

Bởi vì Chúa ở với chúng con nên chúng con là Hội thánh của Chúa: chúng con là Hội thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền được quy tụ ở địa điểm phụng tự này. Vì nơi nào có hai hay ba người họp lại nhân danh Chúa, thì lạy Chúa, Chúa sẽ ở ngay đó với họ. Đây thật là một thông tuệ sâu sắc biết bao về đặc nét của một cộng đoàn phụng vụ Thánh Thể.

Sự hiện diện của Chúa đã thiết lập chúng con thành một cộng đoàn phụng tự mà Thiên Chúa đã “kêu gọi ra khỏi nơi tăm tối mà vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền”. Không có Chúa, chúng con sẽ đứng trước ngai Thiên Chúa mà không có danh phận gì, không dám tin chắc được lắng nghe.

Đoàn dân quy tụ trong ngôi nhà thờ chính tòa nguy nga rộng lớn là Hội thánh hữu hình của Chúa, đặc biệt khi đức giám mục chủ tế tại bàn thờ cùng với linh mục đoàn cũng như với sự tham gia tích cực của dân chúng. Đó là sự quy tụ bày tỏ sự hiển hiện cách đầy đủ hơn Hội thánh của Chúa, một Hội thánh rộng lan khắp thế giới.

Thế nhưng, cộng đoàn tại ngôi nhà nguyện nhỏ nhé ở những miền làng quê heo hút, cách xa trung tâm giáo xứ hay thành phố cũng vẫn đại diện cho Hội thánh hoàn vũ, bởi vì trong sự hợp nhất và bằng thẩm quyền của vị giám mục, họ vẫn được quy tụ trong danh Chúa. Họ gánh vác bổn phận mà Chúa đã đặt để trên toàn thể Hội thánh, đó là bổn phận cầu nguyện cho toàn thế giới. Họ tuy chỉ là một nhúm nhỏ, nhưng tâm hồn và bàn tay họ cũng chứa đựng đầy rẫy mối bận tâm của Hội thánh đối với nhân loại, đối với quốc gia và đối với toàn cõi địa cầu.

Lạy Chúa, khi Chúa bao bọc chúng con trong vòng tay của Chúa, thì mọi khác biệt giữa con người với nhau liền tan biến. Cộng đoàn giàu có hay nghèo nàn, ở thành thị hay thôn quê, nhỏ bé hay lớn mạnh: những khác biệt như thế sẽ không còn nữa. Chúng con là một, Hội thánh duy nhất, thánh thiện công giáo và tông truyền đang phụng thờ nhân danh Chúa và theo mệnh lệnh của Chúa. Amen.