CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN – C
Cổng Trời Rộng Hay Hẹp?
Lm. Giuse Nguyễn
Trong quyển “Lời ếch dâng kinh”, Cha Anthony De Mello có kể một câu chuyện như sau:
“Một ni cô sùng Phật quyết tâm đi tìm sự giác ngộ. Ni cô đặt làm cho mình một pho tượng Phật bằng gỗ dát vàng quý báu và luôn mang theo mình dù đi bất cứ nơi đâu.
Sau nhiều năm vân du khắp đó đây, ni cô đến trụ trì tại một ngôi chùa nhỏ. Ngôi chùa này có rất nhiều tượng Phật cổ, mỗi tượng được đặt trên một bệ thờ. Ni cô cũng đặt làm một bàn thờ quý cho pho tượng dát vàng của mình và ngày ngày thắp hương niệm Phật.
Có một điều ni cô không mấy hài lòng, vì khói hương mà ni cô dâng trước pho tượng của mình lại cũng lan tỏa sang cả những bàn thờ khác. Thế là ni cô thiết kế một cái phễu bằng giấy đặt ngay tước làn khói, để hương thơm chỉ có thể bay thẳng lên trước mặt tượng Phật của ni cô. Đó là lý do khiến pho tượng đẹp như thế nhưng mặt mũi lại bị ám khói đen sì.”
Cuối cùng cha Anthony kết luận: “Tưởng rằng theo Phật hóa theo mình, từ bỏ sân si lại vướng tình. Những muốn vân du tìm giác ngộ, vẫn còn trôi nổi khiếp phù sinh.”
Thói ích kỷ, chỉ nghĩ cho bản thân, hoặc phe nhóm mình là một thực tế trong đời sống. Cách sống đó đi vào cả trong đời sống đạo của chúng ta, để rồi chúng ta nghĩ rằng: “Mình được rửa tội là chắc chắn lên thiên đàng, còn mấy người không rửa tội thì xuống hỏa ngục ráo hết!” Hoặc là ơn cứu độ chỉ dành cho nhóm của mình, còn những ai không thuộc nhóm mình thì không được….
Ơn cứu độ dành cho ai? Đâu là điều kiện để lãnh nhận ơn cứu độ? Phụng vụ lời Chúa hôm nay cho chúng ta một cái nhìn đúng đắn hơn về ơn cứu độ, để từ đó chúng ta thay đổi suy nghĩ, thay đổi cách sống của mình hầu được cứu độ.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
- Bài Đọc I: (Is 66, 18 – 21)
Trong bài đọc thứ nhất, Đức Chúa phán: “Ta sẽ tập họp mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ; họ sẽ đến và sẽ được thấy vinh quang của Ta.” Đây là đoạn cuối cùng trong sách tiên tri Isaia về diễn từ cánh chung. Ngày cánh chung, Thiên Chúa sẽ tập họp tất cả mọi người, mọi dân dân tộc, mọi ngôn ngữ chứ không riêng một nhóm nào, một dân tộc nào. Điều đó cho chúng ta thấy trong chương trình của Thiên Chúa tự ngàn đời, ơn cứu độ đã được dành cho mọi người. Đó là sự thật về một Thiên Chúa yêu thương, muốn cứu độ tất cả.
Tuy nhiên, điều Thiên Chúa muốn là như vậy, nhưng để được cứu độ lại là chuyện khác.
- Tin mừng (Lc 13, 22 – 30)
Bữa đó Chúa Giêsu đang giảng dạy, có nhiều người nghe lắm, trong số đó có những người Do Thái đạo gốc, có những người Do Thái ở miền Trung Samaria, đa số là dân ngoại. Người Do Thái đạo gốc tự hào vì nghĩ rằng dân tộc mình được Thiên Chúa yêu thương một cách đặc biệt, nên chỉ có họ mới được cứu độ, và chỉ cần họ có đạo là họ được cứu độ chứ không cần gì nữa. Họ quay qua, thấy những người dân ngoại cũng đi nghe giảng nên xầm xì với nhau: “Dân ngoại cũng bày đặt đi nghe giảng, uổng công, xuống hỏa ngục hết rồi, nghe chi cho mệt!”
Những người dân ngoại mặc cảm vì định kiến này nên họ nói nhỏ xíu: “Hổng dám đâu, Thầy Giêsu mới nói kìa, ai tin thì được cứu hết chứ đâu phải chỉ mấy chú mới được, còn tụi tui thì không!”.
Mấy người đạo gốc cười ha hả: “Để tụi tui hỏi Thầy Giêsu, rồi Thầy nói cho mấy người nghe”:
“Thưa Thầy, có phải chỉ có một số người được cứu độ phải không Thầy?” Ý họ muốn nói là chỉ có tụi con mới được cứu, còn mấy dân ngoại chết xuống hỏa ngục ráo hế phải không?
Thầy Giêsu không trả lời trực tiếp câu hỏi của họ, nhưng chỉ cho họ cách làm sao để được cứu độ, đó là: “Hãy vào qua cửa hẹp”.
Như vậy trong cách nói của Chúa Giêsu, ai cũng được ơn cứu độ hết, miễn làm sao họ chấp nhận con đường hẹp của Đức Giêsu.
II. CỔNG TRỜI RỘNG HAY HẸP?
Khi đọc bài Tin mừng hôm nay, tôi đặt cho có vần có điệu vài câu thơ nghe cho vui: “Cửa thênh thang nhưng lòng người chật hẹp. Chật hẹp vì những ích kỷ kiêu căng, những so đo tính toán kiểu người trần, và như thế cửa trời đã khép lại”. Cửa trời luôn rộng mở như vòng tay yêu thương của Thiên Chúa, chỉ có điều lòng người quá chật hẹp nên không thể vào.
- Ơn cứu độ dành cho ai?
Thời Chúa Giêsu, người Do Thái tưởng là ơn cứu độ chỉ dành cho dân tộc của họ mà thôi, còn những dân tộc khác thì không được. Theo dòng thời gian, tư tưởng đó đã được chỉnh đốn: không phải hễ có rửa tội, có đạo, có dự lễ, xưng tội, đọc kinh, nghe giảng… thì đương nhiên được cứu rỗi đâu, nhưng ơn cứu độ được ban cho bất cứ những ai biết sống theo lời Chúa. Những người thực hành đời sống đạo bên ngoài, còn bên trong tâm hồn họ chỉ là một sự trống rỗng, không biết lắng nghe lời Chúa, không tha thiết với Chúa thì thử hỏi họ có được cứu độ không? Ngược lại, những người bên ngoài chưa được rửa tội, chưa biết đọc kinh… nhưng họ luôn thao thức để sống tốt, để giúp đỡ mọi người, thì thử hỏi họ có bị xuống hỏa ngục không? Chúng ta không dám trả lời về tình trạng ơn cứu độ của nguời khác, vì đó là quyền năng và lòng nhân từ của Chúa, nhưng chúng ta có quyền suy tư về ơn cứu độ của Chúa.
Suy tư thứ nhất là một thuật ngữ được dùng trong “truyền giáo”: những kitô hữu vô danh. Đó là những người tuy không có đạo, nhưng cuộc sống của họ phù hợp với Tin Mừng, nghĩa là họ ăn ngay ở lành, tu tâm tích đức, sống bác ái yêu thương, giúp đỡ người khác…
Hằng ngày chúng ta gặp rất nhiều những anh chị em của mình như vậy. Ví dụ có một người lương ở bên nước ngoài thường xuyên về nước, mỗi lần về nước là bà ta mời gọi, vận động anh chị em mình để lấy tiền giúp người nghèo bất kể lương giáo. Có một lần bà gặp tôi, bà khoe sợi dây chuyền, không phải là khoe vàng, nhưng khoe hình Đức Mẹ. Bà không có đạo, nhưng đời sống của bà phù hợp với Tin Mừng.
Suy tư thứ hai là về thuật ngữ những kitô hữu ngoại đạo. Mới nghe chúng ta cảm thấy buồn cười, kitô hữu mà lại ngoại đạo. Nhưng thực sự Giáo hội đang đau lòng về tình trạng này. Có nhiều con cái của Giáo hội được rửa tội mà lại không sống theo tinh thần Phúc Âm. Có đạo mà chớ hề thấy đến nhà thờ. Người Công Giáo mà cũng đi coi thầy coi bói. Nhà có bàn thờ Chúa mà đến lần nào cũng thấy quỳ mọp trước tượng ông thần tài. Cả xóm có đạo mà tháng bảy cũng cúng cô hồn, cũng thí vàng.
Chỉ cần sửa lại một chút thôi thì chúng ta sẽ sống theo tinh thần kitô giáo. Thay vì thí vàng với ý nghĩ mình quăng thí, quăng đại cho cô hồn các đẳng, thì mình hãy ý thức mình đang làm việc bác ái, để rồi mua về phân phát cho người ta đàng hoàng tử tế.
- Điều kiện lãnh ơn cứu độ.
Sau giáo huấn về ơn cứu độ dành cho mọi người biết sống theo tinh thần phúc âm, Chúa Giêsu chỉ cách để chúng ta lãnh ơn cứu độ, đó là phải “vào qua cửa hẹp”.
Cửa hẹp thì dĩ nhiên không thoải mái, không dễ chịu chút nào. Nhưng chính Đức Giêsu Kitô, Thầy Chí Thánh của chúng ta cũng đã đi trên con đường hẹp, là con đường thập giá. Nhưng sau con đường thập giá là hạnh phúc vinh quang. Con nhồng muốn trở thành con bướm đẹp thì phải uốn mình chui ra từ tổ kén chật chội. Đó là quy luật tự nhiên. Trong đời sống siêu nhiên cũng có quy luật của nó. Ơn cứu độ là điều quý giá không gì có thể sánh được, nên để có được ơn cứu độ, đòi hỏi chúng ta phải cố gắng, nỗ lực, nhiều khi cả mạng sống mình nữa.
Không thể nào chúng ta đòi hỏi Chúa cho con giữ đạo một cách thoải mái, muốn đi lễ thì đi, muốn nghỉ thì nghỉ. Không thể nào chúng ta bắt hội thánh cho chúng ta được tự do trong chuyện hôn nhân, muốn cưới thì cưới, không cưới thì dọn về sống chung đại, mắc mớ gì bắt chúng tôi làm phép, phải thề hứa? Khi nào chúng tôi sống chung không được nữa thì chúng tôi ly dị, tại sao ràng buộc chúng tôi?… Đó là cửa hẹp để vào cửa thiên đàng.
Tóm lại phụng vụ lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy cửa thiên đàng luôn thênh thang rộng mở, nhưng sở dĩ nó trở nên chật hẹp là vì con người chúng ta có nhiều vướng víu. Chúa Giêsu muốn chúng ta phải chặt bỏ những vướng bận đó thì mới có thể vào được thiên đàng.
Xin Mẹ Maria là người hoàn toàn để cho mình được thong dong trên con đường Thiên ý giúp chúng con gỡ bỏ những so đo tính toán trong đời sống hằng ngày để có thể thẳng đường về nhà Cha.