Các Bài Suy Niệm Trong Tuần 32 Thường Niên
THỨ HAI TUẦN 32 THƯỜNG NIÊN
Lời Chúa: Lc 17, 1-6
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Không thể nào mà không xảy ra gương xấu, nhưng vô phúc cho kẻ nào gây ra gương xấu. Thà nó bị cột cối đá vào cổ mà ném xuống biển còn hơn là làm gương xấu cho một trong những trẻ nhỏ này.
“Các con hãy cẩn thận: nếu có anh em con lỗi phạm, con hãy răn bảo nó, và nếu nó hối cải, thì hãy tha thứ cho nó; cho dù một ngày nó phạm đến con bảy lần, và bảy lần nó trở lại nói cùng con rằng: “Tôi hối hận”, thì con hãy tha thứ cho nó”.
Các Tông đồ thưa với Chúa rằng: “Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con”. Chúa liền phán rằng: “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: “Hãy tróc rễ lên và xuống mọc dưới biển”, nó liền vâng lời các con”.
Suy Niệm 1: Làm cớ vấp ngã
Suy niệm:
Thỉnh thoảng báo chí lại nói đến một chuyện không hay nào đó
bị coi là gây sốc hay phản cảm.
Có những chuyện tồi tệ hơn được gọi là xì-căng-đan.
Xì-căng-đan gốc là một từ Hy Lạp dùng trong Tân Ước (scandalon)
để chỉ một viên đá làm người ta vấp ngã (Rm 11, 9),
hay một duyên cớ khiến người ta phạm tội (Mt 13, 41).
Trong Giáo Hội đôi khi cũng có những xì-căng-đan.
Nơi bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhắc chúng ta hãy đề phòng
về những xì-căng-đan trong chính cộng đoàn tín hữu.
Ngài nhìn nhận rằng không thể nào tránh được những xì-căng-đan (c. 1).
Nhưng Ngài lại rất nặng lời với người nào gây ra cớ vấp phạm đó.
Cột cối đá lớn vào cổ anh ta và xô xuống biển cho chết đi
thì tốt cho anh ấy hơn là để anh ấy làm cớ phạm tội
cho một trong những kẻ bé nhỏ này (c. 2).
Những kẻ bé nhỏ ở đây là những người môn đệ của Chúa.
Rõ ràng Đức Giêsu quý tâm hồn trong sạch của con người.
Tuy hiền lành, nhưng Ngài lại tỏ ra không khoan nhượng
với những kẻ làm gương xấu khiến người khác phạm tội.
Ngài muốn bảo vệ những kẻ yếu đuối, đơn sơ, thiếu bản lãnh.
Ngài không muốn những Kitô hữu khác lợi dụng, lôi kéo họ,
khiến họ mất đức tin, mất niềm hy vọng và mất lòng yêu mến.
Trong bài diễn từ cuối cho các kỳ mục của Êphêsô ở Mi-lê-tô,
thánh Phaolô đã khuyên các ông nên coi chừng sói dữ vào đàn chiên,
“giảng dạy những điều sai lạc, lôi cuốn các môn đệ đi theo” (Cv 20,30).
Làm cớ cho người khác phạm tội
là một tội chúng ta ít để ý và ít xưng thú.
Chúng ta cho mình có quyền tự do nói và làm điều mình thấy là đúng.
Nhưng khi làm như vậy, chúng ta lại không để ý
đến những thương tổn có thể gây ra nơi lương tâm
của những người anh em yếu đuối trong cộng đoàn,
cũng như đến chuyện làm cớ cho anh em mình sa ngã (1 Cr 8, 11.13).
Thánh Phaolô nhấn mạnh: phạm đến anh em là phạm đến Đức Kitô.
Không thể vì tự do của tôi mà làm mất một người anh em
đã được Đức Kitô chết cho (1 Cr 8, 11).
Trong cuộc sống nối mạng toàn cầu hiện nay,
cái tốt và cái xấu được loan đi xa với tốc độ chớp nhoáng.
Một biến cố mới xảy ra ở đây, lập tức cả thế giới đều biết.
Nhưng cái xấu xem ra hấp dẫn hơn, mạnh mẽ hơn, dễ bắt chước hơn,
khiến con người hôm nay, đặc biệt là giới trẻ, bị ảnh hưởng nặng nề.
Làm thế nào để những gương tốt được nhân lên khắp đó đây?
Làm thế nào để Giáo Hội bớt đi những viên đá làm người ta vấp ngã?
Mong có ngày một giáo dân bình thường cũng biết nhận định đúng sai
khi tiếp thu đủ thứ thông tin từ mọi nguồn.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
việc tông đồ của con phải là việc tông đồ diễn tả lòng tốt.
để khi thấy con, người ta phải nói:
“vì anh này tốt quá, nên đạo của anh phải là đạo tốt”.
Và nếu có ai hỏi con tại sao con lại hiền lành và tốt như thế,
con sẽ trả lời vì con là tôi tớ của một Đấng tốt hơn con nhiều.
“Chớ chi bạn biết được Chủ Giêsu của tôi tốt biết bao!”
Con muốn sống thật tốt để người ta có thể nói:
“Nếu tôi tớ mà tốt như vậy, thì Chủ sẽ tốt đến thế nào!” Amen.
(Chân phước Charles Foucauld)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Sống Là Liên Ðới
Trong tác phẩm “Hãy Giúp Nhau Làm Lại Cuộc Ðời”, xuất bản đầu thập niên 60, ông Henri Vicardi, người sáng lập cơ xưởng chuyên giúp những người tàn tật tự lực cánh sinh kể lại rằng: cơ xưởng do ông sáng lập năm 1952, khởi sự với một công nhân bị tê bại, làm việc trong một nhà xe bỏ trống, lụp xụp. Nhưng chỉ một năm sau, xưởng đã trở nên một cơ sở kinh doanh với số vốn cả triệu Mỹ kim và thu dụng đến 300 công nhân. Mỗi công nhân đều có một mẫu truyện cảm động về con người xây dựng lại cuộc đời từ sự tàn tạ của mình.
Ðiển hình là trường hợp của Jim Chapin, một người bị tê liệt từ thắt lưng trở xuống vì một chiếc bướu ở xương sống. Ngay sau khi được khiêng từ bàn giải phẫu xuống, các Bác sĩ đã tuyên bố ông sẽ sống nhưng không làm gì được. Thế nhưng các Bác sĩ đã lầm: năm đó Jim Chapin đã 62 tuổi, tuy không rời được khỏi xe lăn, ông đã tìm đến cơ xưởng của ông Henri và bắt đầu làm lại cuộc đời. Ông cho biết rằng ông rất hãnh diện về khả năng của mình và nhất quyết không chịu trở lại với đời sống ỷ lại và vô vọng nữa.
Câu truyện trên đây là một bằng chứng hùng hồn rằng dù tàn tật đến đâu, mỗi người vẫn là một giá trị độc nhất vô nhị trên cõi đời này, và do đó có trách nhiệm đối với chính bản thân cũng như hữu dụng cho người khác và có trách nhiệm đối với người khác.
Tin Mừng hôm nay có lẽ nhắc nhở chúng ta về ý tưởng ấy. Chúa Giêsu nói đến hai thứ bổn phận của con người đối với người đồng loại: một là phải sống thế nào để không trở thành cớ vấp phạm cho người khác, hai là phải tha thứ cho nhau. Ngay từ những trang đầu tiên, khi mạc khải về con người, Kinh Thánh đã nói đến tình liên đới. Bị Thiên Chúa tra vấn sau khi phạm tội, Adam đã đổ lỗi cho Evà; đây quả là khuynh hướng chạy tội và chối bỏ trách nhiệm đối với người khác; cắt đứt liên lạc với Thiên Chúa, con người cũng muốn chối bỏ tương quan với tha nhân. Sự chối bỏ này lại càng rõ nét trong thái độ của Cain sau khi đã giết em mình là Abel: “Tôi có phải là người giữ em tôi đâu!”
Sống là liên đới: không thể sống mà không cần người khác, cũng không thể sống mà không cảm thấy có trách nhiệm đối với người khác. Cuộc sống của tôi dù âm thầm đến đâu vẫn có âm hưởng trên người khác; dù tôi có tàn tật và bé nhỏ đến đâu, tôi vẫn là người hữu dụng cho người khác; không có một hành động nào của tôi mà không có liên hệ đến người khác, đó chính là ý nghĩa và giá trị của cuộc đời tôi; tôi có hạnh phúc hay không là tùy tôi có biết sống cho người khác hay không.
Nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm đối với người khác, lời Chúa hôm nay cũng nói lên phẩm giá cao trọng của mỗi người. Ðó là lý do đem lại cho chúng ta niềm tin trong cuộc sống mà chúng ta phải không ngừng cầu xin Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Chối Bỏ Trách Nhiệm
Cựu tổng thống Phi Luật Tân, ông Joseph Estrada đã gặp nhiều chống đối trong nước theo sau tiết lộ của một tổng trưởng thân thiết của ông về số tiền hối lộ ông đã nhận được từ các tổ chức cờ bạc. Hẳn lúc đó vẫn còn nhiều người ủng hộ ông, nhưng con số bất mãn trong mọi giai tầng xã hội, từ giới kinh doanh, chính trị gia, sinh viên học sinh, cho đến cả người nghèo, ngày càng gia tăng. Ông khó có thể lấy lại sự ủng hộ mà những người dân nghèo đã dành cho ông trước đây.
Trong một quốc gia có đa số dân theo công giáo, ảnh hưởng của Giáo Hội Công Giáo vẫn còn rất lớn và luân lý đạo đức vẫn còn là chuẩn mực để đánh giá sự lãnh đạo. Ðây là điều mà người tiền nhiệm của ông, cựu tổng thống Fidel Ramos đã nói thẳng với ông Estrada khi còn tại chức: “Hoặc là tổng thống phải từ chức trước lễ Giáng Sinh, hoặc là ông phải chỉnh đốn lại cách sống của ông”. Ông Ramos nói như sau: “Tổng thống Estrada phải trước tiên sửa đổi bản thân bằng cách thay đổi nếp sống vô kỷ luật và cách làm việc thiếu trách nhiệm”.
Trong một buổi lễ qui tụ hàng ngàn người chống đối ông Estrada, Ðức Hồng Y Sin, tổng giám mục Manila, cũng đã thách thức nhà lãnh đạo Phi lúc đó rằng: “Liệu ông có thể nhìn thẳng vào nhân dân Phi, nhất là giới trẻ, và nói với họ rằng ông là một con người gương mẫu cho họ không”. Người dân Phi nào cũng biết rằng ông Estrada đã và đang dan díu với nhiều phụ nữ cũng như cờ bạc và rượu chè thâu đêm suốt sáng. Nhà lãnh đạo của một quốc gia được trao phó cho trách nhiệm phục vụ công ích. Công ích ấy không chỉ giới hạn trong lãnh vực kinh tế, nó còn bao hàm cả những giá trị tinh thần và đạo đức. Do đó, ngoài tài năng, nhà lãnh đạo nào cũng còn được đòi hỏi phải có tác phong đạo đức. Nói cách khác, ông được đặt vào vị trí cao nhất trong nước để trở thành ngọn đèn pha cho nhiều người. Trong cụ thể, ông phải là một mẫu người đáng được đề cao về tư cách làm người, về đời sống gia đình, v.v… Ðây cũng là trách nhiệm mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi những ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu. Thật ra, đây không phải là trách nhiệm dành riêng cho những môn đệ của Chúa Giêsu mà là trách nhiệm làm người. Ðã làm người thì ít hay nhiều, cách này hay cách khác, ai cũng phải có trách nhiệm với những người anh chị em của mình.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ra hai trường hợp cụ thể về trách nhiệm đối với tha nhân: một là phải tránh làm gương mù cho anh em, hai là phải tha thứ cho anh em. Mệnh lệnh của Chúa Giêsu làm cho chúng ta nhớ lại câu hỏi mà Thiên Chúa đã đặt ra cho Cain sau khi Cain đã sát hại em mình là Aben: “Cain, em của ngươi đâu?” Cain đã trả lời: “Tôi có phải là người đã giữ em tôi đâu”. Câu trả lời của Cain là lời thú nhận về một trách nhiệm mà ông muốn chối bỏ. Thái độ của Cain vẫn thường được lập lại trong cuộc sống hàng ngày của các Kitô hữu chúng ta. Làm thiệt hại người anh em bằng nhiều cách khác nhau đã đành, đối xử với người anh em như một phương tiện đã đành, chúng ta cũng thiếu trách nhiệm đối với người anh em bằng thái độ dửng dưng. Mặc ai sống chết, chúng ta chỉ nghĩ đến quyền lợi của riêng chúng ta.
Trong ngày sau hết, chúng ta sẽ chỉ bị xét xử dựa trên cách cư xử của chúng ta đối với người anh chị em của chúng ta mà thôi. Chúa Giêsu đồng hóa với mỗi tha nhân. Nguyện xin Chúa cho chúng ta luôn được tỉnh thức để nhận ra Ngài trong mỗi một tha nhân và đối xử với người ấy như với chính Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Toa thuốc nuôi sống cộng đồng
Đức Giêsu nói: “Nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã.”
Dù nó xúc phạm đến anh một ngày đến bẩy lần, rồi bẩy lần nó trở lại nói với anh: Tôi hối hận, thì anh cũng phải tha cho nó Các tông đồ thưa với Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc. 17, 1b+4-5)
Đức Giêsu ban cho các môn đệ mấy quy tắc về cách cư xử của các phần tử trong Giáo hội.
Loại bỏ gương mù:
Sự khôn ngoan của Thiên Chúa không dựa vào sự khôn ngoan loài người. Kẻ xấu dùng gương mù để bóp nghẹt đức tin và khiêu khích sự chống đối, có khi nổi loạn chống cả Thiên Chúa. Những người nhỏ bé như người nghèo khó, bị áp bức, bị khinh chê, rất dễ xúc động khi gặp những người giàu, những luật sĩ phản đối và gây cho họ sa ngã, mất tin tưởng và hy vọng. Con người ta dễ gây ra gương mù và mắc vào tội lỗi đáng chịu hình phạt nặng nề. Người ta không thể tha thứ gương mù trong Giáo hội, như thánh Phao-lô viết trong thư gửi giáo đoàn Cô-rin-tô.
Toa thuốc tha thứ:
Giáo hội là một cộng đồng anh chị em tội lỗi đang được thánh hóa. Khi ai phạm tội và gây lây lan cho những người khác, người ta phải lo giúp họ ăn năn trở lại. Lòng thương người phải noi theo lòng thương xót vô cùng của Thiên Chúa, phải biết tha thứ, dù bảy lần trong một ngày, nếu là cần thiết.
Sự tha thứ chân thực do lòng yêu mến. Người ta chỉ có thể giúp anh chị em mình và hướng dẫn họ ăn năn nếu có ý thức hiểu biết cảnh ngộ cùng khốn và đau khổ của họ, cần có lòng tốt vô vị lợi và xả kỷ.
Sức mạnh của lòng tin:
Ý thức rõ ràng về lời kêu gọi của Đức Giêsu, các tông đồ cầu nguyện Người ban thêm lòng tin cho mình. Câu trả lời của Đức Giêsu cho các ông thấy lòng tin dù nhỏ bé như hạt cải cũng có sức rất mạnh mẽ. Lòng tin tự phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa đem lại can đảm và sức mạnh để có lòng tha thứ. Và đồng thời, còn làm cho kẻ tội lỗi ăn năn trở về.
Sự phó thác này tăng thêm tình yêu cho các phần tử của Hội thánh và rất cần để chống lại những ảnh hưởng chia rẽ của tội lỗi. Và tình yêu có sức hoạt động mạnh mẽ và hữu hiệu để tăng thêm lòng tin của các phần tử của Hội thánh.
RC
Suy Niệm 5: SỐNG CHỨNG NHÂN HƠN THẦY DẠY (Lc 17, 1-6)
Xem thêm CN 26 TN B và thứ Năm tuần 7 TN -CN 23 và 24 TN A – thứ Ba tuần 3 MC, thứ Tư và thứ Năm tuần 19 TN
Trong Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, số 41 của Đức Thánh Cha Phaolô VI, có viết: “Người đương thời sẵn sàng lắng nghe những nhân chứng hơn là những thầy dạy, hoặc nếu họ có nghe thầy dậy, thì bởi vì chính thầy dạy cũng là những nhân chứng”. Như vậy, chúng ta có quyền nghĩ rằng: nếu đời sống chứng nhân có tác dụng rất tốt trong việc loan báo Tin Mừng, thì ngược lại, không có gì nguy hại cho bằng đời sống phản chứng nơi người Kitô hữu!
Thật thế, Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng đề cao đời sống chứng nhân nơi người môn đệ khi Ngài dùng phương pháp phản biện để làm toát lên tính quan trọng của gương sáng. Ngài nói: “Vô phúc cho kẻ nào gây ra gương xấu. Thà nó bị cột cối đá vào cổ mà ném xuống biển còn hơn là làm gương xấu cho một trong những trẻ nhỏ này”. Nêu gương xấu là điều tắc trách, nhưng gây nên cho những trẻ nhỏ, những người bé mọn, người kém đức tin là một tội ác vì tính chất nguy hiểm khôn cùng của nó!
Gương xấu được ví như một thứ ôn dịch và có nguy cơ lây lan rất cao.
Gương sáng thì khó làm, khó sống, nhưng gương xấu thì quá dễ làm, dễ bắt trước. Làm gương sáng cần phải có một sự cố gắng cao với nhiều hy sinh, từ bỏ. Nó được ví như một người leo núi với tất cả sự cố gắng, hy sinh… Còn gương xấu thì thực sự chẳng khác gì một người buông mình xuống núi, chúng ta không cần phải cố gắng thì vận tốc rơi xuống cũng sẽ nhanh chóng…
Như vậy, với bản tính của con người, chúng ta dễ hướng chiều về điều xấu hơn điều tốt. Dễ làm điều bất chính hơn điều thiện. Vì thế, tội lỗi luôn có cơ hội len lỏi vào trong suy nghĩ và hành động của chúng ta hơn là điều tốt.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cần nhớ lại ánh sáng đức tin ngày chúng ta lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội để sống cuộc đời nhân chứng cho xứng đáng với ơn đã lãnh nhận. Cần làm cho hình ảnh Đức Kitô hiền lành, dễ thương, giàu lòng thương xót ngay trong cuộc sống, qua lời nói, hành động và việc làm của chúng ta.
Tuy nhiên, để sống được điều đó, chúng ta cần phải xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta. Bởi vì nếu không có đức tin, chúng ta khó có thể tha thứ, kiên trì, tôn trọng và nâng đỡ người khác.
Lạy Chúa Giêsu, nhiều khi chúng con đã trở nên những người gây ra gương mù gương xấu cho người khác. Xin tha thứ cho chúng con. Xin cũng ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con can đảm, trung thành sống cuộc đời chứng nhân. Amen.
Ngọc Biển SSP
THỨ BA TUẦN 32 THƯỜNG NIÊN
Lời Chúa: Lc 17, 7-10
Khi ấy, Chúa Giêsu phán: “Ai trong các con có người đầy tớ cày bừa hay chăn súc vật ngoài đồng trở về liền bảo nó rằng: “Mau lên, hãy vào bàn dùng bữa”, mà trái lại không bảo nó rằng: “Hãy lo dọn bữa tối cho ta, hãy thắt lưng và hầu hạ ta cho đến khi ta ăn uống đã, sau đó ngươi mới ăn uống”? Chớ thì chủ nhà có phải mang ơn người đầy tớ, vì nó đã làm theo lệnh ông dạy không? Thầy nghĩ rằng không.
“Phần các con cũng vậy, khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: “Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm”.
Suy Niệm 1: Đầy tớ vô dụng
Suy niệm:
Vào thời xưa, những tù binh bại trận phải làm nô lệ cho phe thắng.
Khi nhân phẩm của từng con người chưa được nhận ra
thì chuyện mua bán nô lệ là chuyện dễ hiểu (Xh 21, 21).
Dân Ítraen cũng có kinh nghiệm về việc bắt làm nô lệ ở Ai-cập,
và kinh nghiệm được Thiên Chúa giải phóng để trả lại tự do.
Những kinh nghiệm này khiến cho chế độ nô lệ ở Ítraen bớt tàn nhẫn.
Người chủ không có quyền bạc đãi nô lệ của mình (Xh 21, 26-27).
Có những nô lệ còn được trao trách nhiệm quản trị thay cho chủ.
Nếu nô lệ là người Do thái thì sau sáu năm phục vụ,
năm thứ bảy anh phải được trả tự do (Xh 21, 2).
Hơn nữa, sách Lêvi còn nói đến việc chuyển đổi biên chế
để một nô lệ Do thái trở thành người làm công trong nhà (25, 39-55).
Tin Mừng hôm nay là một dụ ngôn nói về chuyện một ông chủ.
Ông có một đầy tớ, hay đúng hơn ông sở hữu một anh nô lệ (doulos).
Có một sự khác biệt lớn giữa nô lệ và người làm công.
Anh nô lệ được mua về, và anh phải hoàn toàn lệ thuộc vào chủ.
Khác với người làm công, anh nô lệ không được đòi hỏi gì.
Người nô lệ phải làm mọi việc chủ bảo làm
mà không được đòi lương hay bất cứ ân huệ nào khác.
Đức Giêsu mời các môn đệ đặt mình vào hoàn cảnh của ông chủ.
Có thể ông chỉ có một anh nô lệ thôi,
nên anh vừa phải lo việc đồng áng, vừa phải lo việc cơm nước.
Khi anh từ ngoài đồng về, sau cả ngày làm việc,
sau khi đã vất vả đi cày hay đi chăn chiên (c. 7),
liệu ông chủ có mời anh ngồi vào bàn, ăn cơm tối cùng với mình không?
Câu trả lời vào thời đó dĩ nhiên là không.
Anh sẽ phải tiếp tục phục vụ chủ bằng cách vào bếp, dọn bữa tối.
Sau khi bữa tối được dọn xong, khi ông chủ ngồi ăn uống thảnh thơi,
thì anh nô lệ phải đứng hầu bàn,
thắt lưng gọn gàng trong tư thế của người đang làm việc (c. 8).
Chỉ khi ông chủ ăn uống xong, bấy giờ mới đến lúc anh ăn uống.
“Ông chủ có biết ơn anh nô lệ, vì anh đã làm theo lệnh truyền không?”
Câu trả lời vào thời đó dĩ nhiên là không.
Ông chủ chẳng phải trả công cho anh nô lệ.
Và anh cũng không chờ bất cứ một lời khen hay ân huệ nào từ ông chủ.
Anh hồn nhiên làm điều anh phải làm mỗi ngày, thế thôi.
Dụ ngôn này của Đức Giêsu gây sốc cho chúng ta ngày nay,
những người vất vả lo việc Chúa, những người ít khi được nghỉ.
Chúng ta cũng thuộc về Chúa tương tự như một nô lệ (Cv 4, 29).
Chúng ta làm điều phải làm (c. 10),
nhưng không như người làm công chờ lương,
cũng không đòi tiếng khen, quyền lợi, hay đặc ân nào khác từ chủ.
Người tông đồ giống như người đi cày (Lc 9, 62),
chăn chiên (Cv 20, 28), hay hầu bàn (Lc 22, 27).
Khi chu toàn mọi việc được giao, vẫn nhận mình là đầy tớ vô dụng,
không một chút kiêu hãnh, đòi hỏi công lao hay tự hào về thành quả.
Thanh thoát với chính những công việc lớn lao mình đã làm,
siêu thoát khỏi cái tôi muốn phình to bằng công đức,
đó là điều mà Đức Giêsu muốn nhắn nhủ cho những ai làm việc cho Chúa.
Dù sao ta không được phép nghĩ Thiên Chúa như một ông chủ tàn nhẫn.
Đức Giêsu đã mang lấy thân phận một nô lệ để cứu chúng ta (Ph 2, 7).
Ngài đã sống như người hầu bàn cho các môn đệ (Lc 22, 27).
Và Ngài sẽ cư xử như một người hầu bàn ăn cho ta
khi Ngài đến mà thấy ta vẫn tỉnh thức đợi chờ (Lc 12, 37).
Cầu nguyện:
Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa rất đáng mến,
xin dạy con biết sống quảng đại,
biết phụng sự Chúa cho xứng với uy linh Ngài,
biết cho đi mà không tính toán,
biết chiến đấu không ngại thương tích,
biết làm việc không tìm an nghỉ,
biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào
ngoài việc biết mình đã chu toàn Thánh Ý Chúa. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Tinh Thần Phục Vụ Ðích Thực
Nhân vật nổi tiếng trong Giáo Hội hiện nay được thế giới nhắc nhớ và thương mến nhất, hẳn phải là Mẹ Terêsa Calcutta, một người đã được nhiều giải thưởng nhất: giải Magsaysay do chính phủ Phi Luật Tân dạo thập niên 60; đầu năm 1971, Mẹ lại được Ðức Phaolô VI trao giải Gioan XXIII vì hòa bình; giải thưởng Kenedy do chính phủ Hoa Kỳ tặng, tất cả số tiền nhận được, Mẹ đã dùng để xây dựng trung tâm Kenedy tại một khu ổ chuột ở ngoại ô Calcutta; tháng 12/1972 chính phủ Ấn nhìn nhận sự đóng góp của Mẹ và trao tặng Mẹ giải Nêru; nhưng đáng kể hơn nữa là giải Nobel Hoà bình năm 1979, đây là giải thưởng đã làm cho tên tuổi Mẹ Têrêsa được cả thế giới biết đến, cũng như những lần khác, khi một viên chức chính phủ Ấn gọi điện thoại để chúc mừng, Mẹ đã trả lời: “Tất cả vì vinh quang Chúa”.
“Tất cả vì vinh quang Chúa”, đó là động lực đã thúc đẩy Mẹ Têrêsa dấn thân phục vụ người nghèo trên khắp thế giới. Với bao nhiêu danh vọng và tiền bạc do các giải thưởng mang lại, Mẹ vẫn tiếp tục là một nữ tu khiêm tốn, nghèo khó, làm việc âm thầm giữa những người nghèo khổ nhất. Thông thường, các giải thưởng cho một người nào đó như một sự nhìn nhận vào cuối một cuộc đời phục vụ làm việc hay một công trình nghiên cứu; nhưng đối với Mẹ Têrêsa, mỗi giải thưởng là một bàn đạp mới, một khởi đầu cho một công trình phục vụ to lớn hơn và làm cho nhiều người biết đến và ngợi khen Thiên Chúa nhiều hơn.
Qua cuộc đời của Mẹ Têrêsa, chắc chắn thế giới sẽ hiểu hơn thế nào là tinh thần phục vụ đích thực trong Giáo Hội. Một Giáo Hội càng phục vụ thì bộ mặt của Chúa Kitô phục vụ càng sáng tỏ hơn; trái lại, khuôn mặt Chúa Kitô sẽ lu mờ đi, nếu Giáo Hội chưa thể hiện được tinh thần phục vụ đích thực của Ngài.
Tin Mừng mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay mời gọi chúng ta nhìn nhận những thiếu sót của chúng ta: có lẽ dung mạo của một Chúa Kitô phục vụ và phục vụ cho đến chết chưa được phản ảnh trên gương mặt của các Kitô hữu; tinh thần phục vụ đích thực của Kitô giáo vẫn chưa được sáng tỏ và thể hiện qua cách sống của các Kitô hữu. Chúa Giêsu đã khẳng định: “Khi làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi chỉ làm những việc bổn phận mà thôi”. Ðầy tớ là người làm tất cả những mọi sự vì chủ, đầy tớ là người hoàn toàn sống cho chủ. Dĩ nhiên, ở đây, Chúa Giêsu không có ý đề cao quan hệ chủ tớ trong xã hội. Ngài đã xem quan hệ trong xã hội con người và Thiên Chúa như một quan hệ chủ tớ; Ngài đã chẳng mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa như một người Cha và mời gọi chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha đó sao?
Như vậy, ở đây, Chúa Giêsu chỉ muốn dùng hình ảnh người đầy tớ vốn có trước mắt người Do thái, để nói lên tương quan đích thực giữa con người và Thiên Chúa, đó là con người chỉ sống thực sự khi nó sống cho Thiên Chúa mà thôi. Cái nghịch lý lớn nhất mà Kitô giáo đề ra là càng tìm kiếm bản thân, càng sống cho riêng mình, con người càng đánh mất chính mình; trái lại, càng sống cho Thiên Chúa, càng tìm kiếm vinh danh Thiên Chúa, nghĩa là càng phục vụ vô vị lợi, con người càng lớn lên và càng tìm lại được bản thân; giá trị đích thực của con người như Chúa Giêsu đã dạy và đã sống chính là phục vụ một cách vô vị lợi. Công Ðồng Vaticanô II trong Hiến Chế “Vui Mừng và Hy Vọng” đã để lại một châm ngôn đáng được chúng ta suy niệm và đem ra thực hành: “Con người chỉ tìm gặp lại bản thân bằng sự hiến thân vô vị lợi mà thôi”.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại định hướng cơ bản trong cuộc sống chúng ta: đâu là mục đích và ý nghĩa cuộc sống chúng ta? đâu là giá trị đích thực mà chúng ta đang tìm kiếm và xây dựng trong cuộc sống hiện tại.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Nô lệ không đòi gì
“Đối với anh em cũng vậy: Khi đã làm tất cả theo lênh phải làm, thì hãy nói: Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm những việc bổn phận đấy thôi.” (Lc. 17, 10)
Đức Giêsu dùng nhiều thí dụ cụ thể trong đời sống thường ngày để loan báo sứ điệp của Người. Hôm nay Người tiếp tục giáo huấn về đức hạnh của các phần tử của Hội thánh.
Chỉ lo phục vụ chủ mình:
Biệt phái quan niệm giao ước như là một bản hợp đồng về những luật lệ của Thiên Chúa đối với con người. Khi người ta hoàn tất những giới răn như luật dạy, Thiên Chúa mắc nợ với con người: người ta có quyền đòi con nợ của mình. Quan niệm này là nền tảng cho kiêu ngạo và tự mãn của họ.
Trong khi dạy các phần tử của Hội thánh sống khiêm tốn và nương tựa hoàn toàn vào Thiên Chúa, Đức Giêsu đối lập lại với thái độ của biệt phái. Người kể gương người nông phu đã nêu cao tinh thần phục vụ lên hàng đầu, vừa đi cày về, còn mau mau dọn cơm cho chủ ăn. Ở đây, Đức Giêsu không muốn dạy bài học luân lý. Người muốn hơn nữa: không những vô vị lợi mà còn chỉ cho con người phải sống như đầy tớ của Thiên Chúa. Đấng sáng tạo vũ trụ vạn vật.
Người đầy tớ làm ruộng như một nông nô không có quyền gì với ông chủ của nó. Nó phải làm điều chủ đòi nó làm. Nó không được chờ đợi bất cứ điểm tốt nào hay bất cứ một lời cảm ơn gì. Cũng thế, con người ta là một đầy tớ cùng khốn đối với Thiên Chúa. Nó không được quyền gì để cho mình có giá trị. Thiên Chúa không phải trả công hay tưởng thưởng nó. Nó chẳng đáng gì, ngoài ra phải làm phận sự đầy tớ của mình, vì chính Thiên Chúa đã ban đời sống cho nó, gìn giữ nó sống và nâng cao đời sống nó lên.
Không một phần thưởng
Các tông đồ bỏ tất cả theo Đức Giêsu và chấp nhận mọi yêu sách cốt yếu nhất của Chúa. Như Phê-rô đã hỏi: “Vậy chúng con sẽ được gì?”. Cả các ông cũng chỉ là những đầy tớ vô dụng ư? Câu đáp của Đức Giêsu là các anh đã chỉ làm việc bổn phận mình thôi. Các anh không có quyền đòi cung cấp chi hết. Do lòng thương yêu của Chúa, Chúa đã tặng không mọi sự cho con người, con người phải làm vinh danh và nhớ ơn Thiên Chúa.
Giáo huấn của Đức Giêsu muốn duy trì sự bình an trong Giáo hội. Mỗi người là một đầy tớ vô dụng, được kêu gọi làm theo lệnh Chúa, với tinh thần hoàn toàn khiêm tốn. Không ai có thể dành riêng cho mình một địa vị ưu tiên nào, vì Thiên Chúa là chủ mọi ân huệ và phân phát cho ai tùy Ngài muốn.
RC
Suy Niệm 4: ĐẾN ĐỂ PHỤC VỤ (Lc 17, 7-10)
Xem thêm CN 27 TN C
Qua những nguồn tin trên các trang mạng, chúng ta thấy: Đức Thánh Cha Phanxicô đang được cả thế giới tôn vinh và khen ngợi. Nhân loại ca ngợi ngài không phải ở khả năng tri thức vượt trội, cũng không phải vì những triết thuyết cao siêu, hay uy tín vốn được gắn với tước vị Giáo hoàng từ bao đời…! Nhưng người ta kính nể vì Đức Giáo Hoàng là một con người bình dân. Ngài sẵn sàng xuống đường để ôm hôn một người dị tật, lắng nghe một em bé đang muốn tâm sự. Ngài cũng khước từ những điều sang trọng cần có đối với một vị lãnh tụ tinh thần của Giáo Hội. Ngài cũng không ngần ngại đứng xếp hàng để nhận cơm tại một quán ăn và cũng không có khoảng cách khi cùng ngồi ăn với những công nhân sửa ống nước tại Vatican. Ngài còn là một người sống tinh thần nghèo khó khi lựa chọn những phương tiện đơn giản nhất, hoặc công cộng để di chuyển…
Tất cả những điều đó cho thấy: Đức Giáo Hoàng Phanxicô không ưa được dành quyền đặc lợi cho mình, mà sẵn sàng trong thái độ của người phục vụ… Ngài đã làm những chuyện đó là vì ngài muốn làm mọi việc cho vinh quang Chúa chứ không phải cho mình được nổi trội.
Thực ra trong thế giới hôm nay, sự mong muốn được an thân, khao khát được sung sướng và thái độ cầu an cũng như mong muốn được phục vụ đang kéo dần người Kitô hữu đi theo như cơn lũ bão… Nhưng thử hỏi: liệu những cung cách đó có làm cho khuôn mặt của Đức Giêsu được sáng tỏ hay không? Phải chăng nó đã làm cho Ngài bị lu mờ qua những cái bóng của sự tự kiêu, ích kỷ…
Sứ điệp lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy cố gắng sống tốt đúng với tư cách là môn đệ của Chúa. Luôn noi gương Chúa đến để phục vụ chứ không phải để được người khác phục vụ. Luôn yêu mến đời sống đơn giản vì ích lợi cho mình và người khác. Luôn chu toàn bổn phận của mình trong tư cách là người tôi tớ.
Cần nhớ một điều rằng: chỉ khi nào chúng ta từ bỏ mình, sống tinh thần phục vụ, chúng ta mới trở nên mình hơn và giống hình ảnh của một vị Thiên Chúa đến để phục vụ vì ích lợi của con người.
Chính Công Đồng Vaticanô II trong Hiến chế “Vui mừng và hy vọng” đã để lại một châm ngôn đáng được chúng ta suy niệm và đem ra thực hành: “Con người chỉ tìm gặp lại bản thân bằng sự hiến thân vô vị lợi mà thôi”. Điều này cũng được thánh Phanxicô Assisi đã tâm nguyện qua kinh hòa bình: “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con ý thức được vai trò của người môn đệ, và xin cho chúng con biết can đảm lựa chọn trong tinh thần của người tôi tớ. Amen.
Ngọc Biển SSP
THỨ TƯ TUẦN 32 THƯỜNG NIÊN
Lời Chúa: Lc 17, 11-19
Khi Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, Người đi qua biên giới Samaria và Galilêa. Khi Người vào một làng kia thì gặp mười người phong cùi đang đứng ở đàng xa, họ cất tiếng thưa rằng: “Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi”. Thấy họ, Người bảo họ rằng: “Các ngươi hãy đi trình diện với các tư tế”. Trong lúc họ đi đường, họ được lành sạch.
Một người trong bọn họ thấy mình được lành sạch, liền quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người: Mà người ấy lại là người xứ Samaria. Nhưng Chúa Giêsu phán rằng: “Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại này”. Rồi Người bảo kẻ ấy rằng: “Ngươi hãy đứng dậy mà về: vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi”.
Suy Niệm 1: Sấp mình tạ ơn
Giáo dục cho trẻ em về lòng biết ơn là điều quan trọng.
Cha mẹ thường dạy con cám ơn người làm ơn cho mình.
Cám ơn là đi từ món quà đến người trao tặng.
Mỗi người chúng ta đã nhận biết bao quà tặng trong đời,
nên chẳng ai là người trọn vẹn nếu không có lòng biết ơn.
Bản thân tôi là một quà tặng do nhiều người cho :
cha mẹ, ông bà tổ tiên, các anh hùng dân tộc…
Chỉ cần để lòng biết ơn đi lên mãi, lên tới nguồn,
tôi sẽ gặp được Thiên Chúa như Người Tặng Quà viết hoa.
Đức Giêsu đã làm bao điều tốt đẹp cho người thời của Ngài.
Nhưng ít khi Tân Ước nói đến chuyện họ cám ơn,
mà Đức Giêsu cũng chẳng bao giờ đòi ai cám ơn mình sau phép lạ.
Bởi đó bài Tin Mừng hôm nay thật độc đáo.
Mười người phong ở với nhau trong một ngôi làng.
Họ biết tiếng của Đức Giêsu và biết cả tên của Ngài.
Họ vui mừng thấy Ngài vào làng, nhưng họ chỉ được phép đứng xa xa.
Tiếng kêu của họ vừa bi ai, vừa đầy hy vọng được chữa lành:
“Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi!” (c. 13).
Đức Giêsu đã chẳng chữa lành cho họ ngay lập tức,
như từng làm với một người phong khác trước đây (Lc 5, 12-16).
Dù họ chưa được sạch, Ngài đã bảo họ đi trình diện với các tư tế
để cho thấy là mình đã khỏi rồi.
Họ đã tin tưởng, vâng phục, ra đi, và được khỏi bệnh.
Chỉ có một người, khi thấy mình được khỏi, liền quay lại.
Anh ấy lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa, và sấp mình tạ ơn Đức Giêsu.
Đó là một người Samaria, thời đó bị coi như người nước ngoài (c. 18).
Anh được ơn lành bệnh, và hơn nữa anh có lòng biết ơn.
Tôn vinh Thiên Chúa thì làm ở nơi nào cũng được.
Nhưng anh muốn trở lại để gặp người Thiên Chúa dùng để thi ân cho mình.
Cám ơn, biết ơn, tạ ơn, là mở ra một tương quan riêng tư mới mẻ.
Người phong xứ Samaria không chỉ được chữa lành.
Anh còn có kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa và người thi ân là Thầy Giêsu.
Ơn này còn lớn hơn ơn được khỏi bệnh.
Đức Giêsu có vẻ trách móc khi hỏi ba câu hỏi liên tiếp (cc. 17-18).
Ngài ngạc nhiên vì không thấy chín người Do thái kia trở lại cám ơn.
Đôi khi người Kitô hữu chúng ta cũng thiếu thái độ tạ ơn khi cầu nguyện.
Dường như chúng ta ít mãn nguyện với những ơn đã được tặng ban.
Chúng ta chỉ buồn Chúa về những ơn xin mãi mà không được.
Nhận ra ơn Chúa ban cho đời mình và biết tri ân: đó là một ơn lớn.
Người có lòng biết ơn bao giờ cũng vui.
Họ hạnh phúc với những gì Chúa ban mỗi ngày, vào giây phút hiện tại.
Biết ơn là con đường đơn sơ dẫn đến kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa.
Khi tôi biết đời tôi là một quà tặng nhận được,
thì tôi sẽ sống nó như một quà tặng để trao đi.
Cầu nguyện:
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì
Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì
Cha cương quyết không ban
bởi lẽ điều đó có hại cho con,
hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những gì
Cha làm cho đời con.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ
Suy Niệm 2: Thể Hiện Của Tự Do Thực Sự
Trong suốt nhiều thế kỷ, người Do thái đã phải còng lưng dưới sức nặng của lao động khổ sai bên Ai Cập. Dưới sự lãnh đạo của Môsê, Thiên Chúa đã giải phóng họ và đưa họ vào vùng đất tự do. Ðể đánh dấu cuộc giải phóng khỏi các thứ khổ sai đó, Thiên Chúa đã thiết lập một ngày trong tuần như ngày Hưu Lễ. Ðó là lý do tại sao người Do thái đã trân trọng tuân giữ ngày Hưu lễ. Nó chính là biểu trưng của tự do, bởi vì thời nô lệ, bẩy ngày trên bẩy ngày, người Do thái không thể có được một ngày nghỉ ngơi. Như vậy, nghỉ ngơi là dấu chỉ của tự do, và đó là ý nghĩa nguyên thủy của ngày Hưu lễ.
Thế nhưng, dần dà qua dòng thời gian các nhà thần học Do thái đã thay đổi ý nghĩa ấy của ngày Hưu lễ: thay vì là biểu tượng của tự do, họ đã biến ngày Hưu lễ thành một gánh nặng đầy đọa và trói buộc con người; họ đã kéo dài ngày Hưu lễ thành một bản kê khai tỉ mỉ những gì không được phép làm trong ngày Hưu lễ và như vậy dấu chỉ của tự do giờ đây chỉ còn là một hình thức nô lệ mới đối với người Do thái: thay vì là dấu chỉ của tự do đưa con người vào gặp gỡ với Thiên Chúa, ngày Hưu lễ đã trở thành một gánh nặng chồng chất trên vai con người, nhất là làm cho con người xa cách Thiên Chúa.
Ðó cũng là tình trạng của lề luật nói chung thời Chúa Giêsu. Luật lệ không còn là vì con người, nghĩa là giải phóng con người, mà trở thành gánh nặng đè bẹp con người và tách lìa con người khỏi Thiên Chúa; con người chú tâm thi hành lề luật hơn là yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Thái độ của 9 người phong cùi người Do thái trong Tin Mừng hôm nay phản ánh tâm thức chung của người Do thái thời đó. Chúa Giêsu chữa lành 10 người phong cùi, trong đó chỉ có một người Samari không phải tuân hành luật Do thái. Theo đúng đòi hỏi của lề luật, Chúa Giêsu đã yêu cầu 9 người Do thái đến trình diện các tư tế để được xác nhận là đã khỏi bệnh, riêng người Samari không phải tuân giữ điều đó, nhưng đây lại là người duy nhất trở lại cám ơn Chúa Giêsu và ngợi khen Thiên Chúa.
Câu truyện trên cho chúng ta thấy luật lệ đã cản trở con người đến gặp gỡ Chúa Giêsu và cảm tạ Thiên Chúa. Người Samari vì không bị chi phối bởi lề luật, nên đã được tự do để nói lên tình cảm chân thật của mình, người này gần với tôn giáo đích thực bởi vì ông có tự do hơn. Thiên Chúa thi ân một cách nhưng không thì con người cũng phải đáp trả một cách tự do. Một tương quan như thế không thể có được trong một xã hội lề luật, trong đó con người chỉ biết tính toán theo thứ công bình hoán đổi. Người Do thái vốn quen thuộc với tâm thức ấy, họ tính toán chi ly về công đức của mình, họ lượng giá phần thưởng dựa trên công nghiệp của mình. Chúa Giêsu đã đánh đổ một quan niệm như thế về tương quan giữa con người và Thiên Chúa: ơn cứu rỗi mà Ngài loan báo và thực hiện là ơn cứu rỗi nhưng không, đến độ con người chỉ được cứu độ nhờ lòng tin vào lòng từ bi của Thiên Chúa, đến độ những kẻ tội lỗi là những người đầu tiên được vào Nước Chúa.
Ngày nay, có lẽ nhiều người chúng ta cũng giống như 9 người phong cùi Do thái trong Tin Mừng hôm nay. Họ đã bị lề luật giam hãm trong Ðền thờ để không còn có thể nói lên lời tạ ơn đối với Ðấng đã thi ân cho mình; họ xem lề luật trọng hơn điều thiết yếu của niềm tin là lòng biết ơn và niềm tín thác. Cũng như họ, có lẽ chúng ta đã tỏ ra trung thành một cách chi ly với luật Hội Thánh, nhưng nhiều lúc chúng ta vẫn còn tự hỏi: Tôi phải đọc bao nhiêu kinh? Tôi phải lần bao nhiêu chuỗi? Tôi phải ăn chay bao nhiêu lần? Tôi phải bố thí cho bao nhiêu người nghèo khó? Tính toán như thế là quên rằng Thiên Chúa như Chúa Giêsu mạc khải là Thiên Chúa Tình Yêu. Ngài ban ơn cho chúng ta hơn cả những gì chúng ta chờ đợi và tính toán. Một Thiên Chúa như thế, con người không thể có một tâm tình nào xứng hợp hơn là lòng tri ân, niềm tín thác. Ðó là sự thể hiện của một tâm hồn tự do đích thực, nhờ đó con người có thể vượt qua bốn bức tường nhà thờ để không ngừng gặp gỡ Chúa trong cuộc sống mỗi ngày.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Dâng Lời Tạ Ơn
Chờ đợi Chúa đến là một trong những chủ đề trọng tâm của Kinh Thánh. Vì không nắm bắt và sống sứ điệp này nên chúng ta thường thiếu kiên nhẫn và do đó hầu hết những khó khăn của cuộc sống đều là kết quả của thái độ vội vã của chúng ta. Chúng ta thường không chờ đợi cho cây trái được chín muồi nhưng lại vội vã hái lấy khi nó còn xanh.
Chúng ta không thể chờ đợi sự đáp trả của Chúa cho lời cầu nguyện của chúng ta, bởi vì chúng ta quên rằng Chúa muốn chúng ta phải mất nhiều ơn thánh để chuẩn bị đón nhận ơn Ngài. Chúng ta được mời gọi để tiến bước với Chúa nhưng Chúa thường đi những bước rất chậm rãi. Thật ra, không phải chúng ta chờ đợi Chúa mà chính Chúa đang chờ đợi chúng ta. Lắm khi chúng ta không muốn đón nhận ơn Chúa đã dọn sẵn bởi vì chúng ta không muốn đến với Ngài. Có những lúc chúng ta phải sẵn sàng tiến tới với những bước đi đầy tin tưởng. Tất cả những lời hứa của Chúa đều có điều kiện. Chúa chờ đợi sự đáp trả của chúng ta. Chúng ta chỉ cần nhìn lại cuộc đời của tổ phụ Abraham để thấy rõ điều đó. Chúa đã hứa ban cho Abraham rất nhiều điều cả thể nhưng chắc chắn không một lời hứa nào sẽ được thực hiện nếu tổ phụ vẫn ở lại xứ Canđê. Abraham phải lên đường, ông phải bỏ lại đàng sau nhà cửa, bạn bè, xứ sở và dấn bước vào cuộc hành trình mà ông không thể nào lường trước được những gì có thể xảy ra. Hành trang duy nhất của tổ phụ Abraham là lời hứa của Chúa và lòng tin tưởng của ông.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta mặc lấy thái độ tin tưởng phó thác ấy của tổ phụ Abraham. Chúa Giêsu quả thật là người đã chữa trị cho mười người phong cùi, nhưng khác với những phép lạ khác, ở đây thay vì sờ vào những người phong cùi hoặc nói một lời, Chúa Giêsu sai họ đi trình diện với các tư tế theo như luật Môisen qui định. Thánh Luca ghi lại rõ ràng rằng trong khi họ đi, họ được lành sạch. Quả thật, nếu họ đứng yên tại chỗ để chờ đợi, họ sẽ chẳng bao giờ được lành bệnh. Chúa chờ đợi để chữa trị họ và chính lúc họ tin tưởng để ra đi, ơn Chúa mới đến. Chúa luôn chờ đợi lòng tin, sự kiên nhẫn và cả sự chờ đợi của chúng ta. Có khi ơn Ngài chỉ đến sau nhiều năm tháng chờ đợi và nhất là sau nhiều năm tháng chiến đấu hy sinh của chúng ta. Một sự thất bại, một nỗi mất mát lớn lao, một căn bệnh bất trị, bao nhiêu đau khổ là bấy nhiêu tiến tới và chờ đợi để ơn Chúa được chín muồi.
Thật ra, đối với những ai có lòng tin thì tất cả mọi sự đều là ân sủng của Chúa. Có điều gì thuộc về chúng ta mà không do Chúa ban tặng, có điều gì chúng ta làm được mà không là hồng ân của Chúa, và ngay cả những thất bại, rủi ro và đau khổ trong cuộc sống cũng đều là những cơ may của muôn ơn lành Chúa không ngừng tuôn đổ trên chúng ta. Con người vốn chỉ vô ơn bạc nghĩa. Trong mười người phong cùi được chữa lành chỉ có một người biết quay trở lại để cám ơn Chúa Giêsu. Biết ơn, xem ra không phải là điều tự nhiên của con người. Tâm tình ấy cần được dạy dỗ trau dồi ngay từ lúc con người vừa bập bẹ biết nói và nuôi dưỡng trong suốt cuộc sống. Tâm tình cảm mến tri ân cũng cần phải được trao dồi trong cuộc sống của người tín hữu Kitô. Trong một kinh Tiền Tụng, Giáo Hội dạy chúng ta cầu nguyện rằng: “Dâng lời tạ ơn Chúa cũng là một hồng ân Chúa ban tặng cho chúng ta”. Cầu nguyện trong tin tưởng phó thác và không ngừng dâng lời tạ ơn, đó phải là tâm tình cơ bản và thường hằng của người tín hữu Kitô chúng ta.
Nguyện xin Chúa gìn giữ chúng ta luôn được sống trong tâm tình ấy.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Lòng tin chữa khỏi phong cùi
Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!” (Lc. 17, 12-13)
Vẫn còn trên đường đi Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu đi qua làng biên giới Sa-ma-ri, Người gặp những kẻ bị loại ra khỏi xã hội vì mắc bệnh ngoài da, người ta gọi là phong cùi.
Một thứ bệnh mất hết vẻ đẹp.
Những người cùi hủi đứng đàng xa đón gặp Người. Họ kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giêsu”. Như thế họ đã nhận biết Đức Giêsu là Đấng tỏ quyền phép và lòng thương xót của Thiên Chúa. Họ xin Người thương xót. Người không thể từ chối trước lời van xin này, vì Người đến để giải thoát những kẻ bị ngược đãi, áp bức bởi bệnh tật và xã hội.
Đức Giêsu nhìn họ với ánh mắt bốc lửa tình yêu và đầy thương cảm. Người bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế, để chứng nhận cho họ đã sạch như luật buộc. Trong khi đi thì họ được lành bệnh”.
Chín người là Do thái, rất thỏa thích vì họ đã lại được thuộc về dân tuyển chọn của Thiên Chúa. Họ cho mình là đáng được Thiên Chúa trả công. Sự lành bệnh của họ đã trả lại quyền cho họ.Nhưng chỉ có một người được hưởng niềm vui nhất trong tâm hồn.
Chỉ có người thứ mười là dân Sa-ma-ri thấy mình được khỏi, là kẻ tội lỗi đáng thương, bị Do thái khinh tởm, anh thấy mình được lành sạch nhất là trong tâm hồn mình, anh ý thức Thiên Chúa đang ngự trong con tim anh, vì anh đã nhận được sứ điệp tình yêu của Đức Giêsu. Anh trở lại và sấp mình xuống chân Người mà tạ ơn, vì Thiên Chúa đang hiện diện trước mặt anh. Gặp gỡ được Thiên Chúa, lòng anh xúc động khôn tả, ăn sâu vào tận căn tính của anh, tận bản chất hữu thể của anh, anh chỉ có thể tôn vinh Thiên Chúa bằng cất cao lời xin thương xót tha thứ tội lỗi của anh với hết lòng khiêm tốn. Đó là một bài ca giải phóng, một bài ca trong sáng phát ra từ đáy con tim. “Anh đứng dậy đi về! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Lòng tin nhờ lời Người gọi anh, nhờ ánh mắt Người nhìn anh làm bừng dậy đức tin này. Đức tin này đã cứu chữa anh cả thân xác lẫn tâm hồn anh.
RC
Suy Niệm 5: HÃY TẠ ƠN CHÚA (Lc 17, 11 – 19)
Xem lại CN 28 TN C.
Nghệ sĩ Lê Vũ Cầu trước khi được lành bệnh, ông là một người ngoại đạo. Lúc thập tử nhất sinh, ông đã được giới nghệ sĩ chuẩn bị tang lễ cho ông cách chu đáo. Tuy nhiên, khi có người Công Giáo đến thăm và gợi ý đưa ông đến đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp của Dòng Chúa Cứu Thế để cầu khấn Đức Mẹ, ông đã đồng ý. Khi đến nơi, kỳ lạ thay, ông không xin cho mình được khỏi bệnh, nhưng ông lại xin đức tin. Thật nhiệm mầu, không những ông được ơn đức tin, mà ông còn được lành luôn căn bệnh xơ gan cổ trướng của mình. Sau đó, ông đã được đón nhận Bí tích Thánh Tẩy và dành thời gian còn lại để tạ ơn Chúa bằng việc sống đạo thật tốt, làm nhiều việc từ thiện bác ái.
Trong cuộc sống của chúng ta hôm nay, hẳn ít có ai dán can đảm để xin ơn đức tin như Lê Vũ Cầu! Bởi vì khi xin ơn đức tin, chúng ta phải thay đổi đời sống, dám chấp nhận lội ngược dòng để làm chứng cho đức tin mà mình đã lãnh nhận.
Ngược lại, chúng ta thường chạy đến với Chúa, Mẹ và các thánh để xin cho mình những ơn như: giàu sang, chức vị, sức khỏe… Xin những điều đó là tốt, tuy nhiên, xét về cấp độ trong ân sủng thì ơn đức tin là cao trọng nhất, vì nếu có đức tin, chúng ta dễ dàng an vui và hạnh phúc trong hoàn cảnh hiện tại, miễn sao danh Chúa được cả sáng và thánh ý Chúa được thực hiện.
Thật vậy, khi có đức tin, chúng ta sẽ nhận ra tất cả là hồng ân, vì thế, cần phải tạ ơn Chúa và yêu thương anh chị em mình.
Lời Chúa hôm nay trình thuật cho chúng ta thấy mẫu gương đức tin của người phong cùi xứ Samaria. Chính nhờ lòng tin mà ông được chữa lành. Cũng nhờ lòng tin mà tâm tình đầu tiên của ông là tạ ơn Chúa. Thái độ này của người Samaria ngược lại hẳn với 9 người cùng bị phong cùi Dothái. Họ đã được lành bệnh, nhưng không một ai quay lại để cám ơn Chúa!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cần có thái độ yêu mến Thiên Chúa, tin tưởng vào Ngài. Mặt khác, Lời Chúa còn nhắc nhở mỗi người chúng ta rằng: nếu những người trong Tin Mừng hôm nay đã mắc phải những căn bệnh ghê sợ là bệnh cùi, thì hẳn mỗi người chúng ta cũng có những căn bệnh cùi tâm linh đáng sợ hơn rất nhiều, vì cùi tâm linh nó có thể hủy diệt cả tâm hồn chúng ta. Tuy nhiên, nhờ đức tin, chúng ta có hy vọng được lòng nhân từ của Thiên Chúa chữa lành và ban ơn cứu độ cho chúng ta.
Tuy nhiên, khi được Thiên Chúa yêu thương, chúng ta phải biết cám ơn Ngài và thay đổi đời sống nhờ hồng ân đức tin soi dẫn.
Thực ra, Thiên Chúa đâu cần con người phải cám ơn thì Ngài mới được vinh dự, nhưng việc chúng ta tạ ơn Ngài lại đem lại ơn cứu độ cho mình và mọi người nữa. Đồng thời, khi cám ơn Chúa, chúng ta đón nhận được lòng khiêm tốn và tôn nhận Thiên Chúa là Đấng quyền năng. Như vậy, khi ta biết tỏ lòng tri ân Thiên Chúa thì “ơn lại thêm ơn”. Còn khi không biết cám ơn Chúa, thì “ngay cả cái đang có cũng sẽ bị lấy đi” vì đã không biết sử dụng ơn Chúa cho hữu ích…
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con. Xin cho chúng con ơn sám hối để đáng được Chúa chữa lành bệnh cùi tâm linh của chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
THỨ NĂM TUẦN 32 THƯỜNG NIÊN
Lời Chúa: Lc 17, 20-25
Khi ấy, những người biệt phái hỏi Chúa Giêsu “Khi nào nước Thiên Chúa đến”, thì Người đáp lại rằng: “Nước Thiên Chúa không đến để cho người ta quan sát, và người ta sẽ không nói được: “Này nước trời ở đây hay ở kia”. Vì nước Thiên Chúa ở giữa các ông”.
Chúa lại phán cùng các môn đệ rằng: “Sẽ có ngày các con ước ao thấy được một ngày của Con Người mà không được thấy. Người ta sẽ bảo các con: “Này Người ở đây và này Người ở kia”, các con chớ đi đến và đừng tìm kiếm. Vì như chớp sáng loè từ chân trời này đến phương trời kia thế nào, thì Con Người cũng sẽ đến trong ngày của Người như vậy. Nhưng tiên vàn Người phải chịu đau khổ nhiều, và bị dòng dõi này xua đuổi”.
Suy Niệm 1: Nước Thiên Chúa
Suy niệm:
Từ sau khi dân Israel định cư ở đất Canaan,
Thiên Chúa được họ coi như một vị Vua cai trị mọi dân tộc.
Đặc biệt Ngài là Vua ngự giữa dân Israel để lãnh đạo và chăm sóc họ.
Các vị vua trần thế đã xuất hiện trong dòng lịch sử của Israel
như những người phục vụ cho Đức Vua, cho Nước Thiên Chúa.
Tiếc thay có những vị vua đã không làm tròn sứ mạng.
Trải qua bao triều vua của nước Israel, bao thịnh suy của đất nước,
từ sau khi lưu đầy trở về, dân chúng chỉ còn biết chờ một Đấng Mêsia.
Họ tin Đấng ấy sẽ khai mở Nước Thiên Chúa.
“Nước Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (c. 21).
Đức Giêsu đã nói với các ông Pharisêu như vậy
khi họ hỏi Ngài khi nào Nước Thiên Chúa đến.
Nước ấy không đến một cách lộ liễu ở đây hay ở kia để kiểm tra (c. 20).
Người Pharisêu không nhận ra Nước ấy đang ở giữa họ.
Chỉ ai biết nhìn, mới nhận ra Nước ấy đang hiện diện và hoạt động
nơi lời giảng và các phép lạ của Đức Giêsu.
Khi bệnh được khỏi, khi quỷ bị trừ, khi tội được tha,
khi con người được biết hoán cải để sống những đòi hỏi của Đức Giêsu,
khi ấy Nước Thiên Chúa có mặt và tăng trưởng.
¬¬¬Đức Giêsu đã khai mở Nước Thiên Chúa.
Và Nước đó vẫn lớn lên từ từ qua dòng thời gian.
Như hạt giống được gieo trong đất, đêm hay ngày cũng cứ lớn lên,
như chút men làm dậy khối bột, như hạt cải thành cây cao rợp bóng,
Nước Thiên Chúa cũng cần thời gian để đạt đến chỗ viên mãn.
Hai ngàn năm trôi qua, Nước Thiên Chúa đã lớn lên về mọi mặt.
Nhưng Kitô hữu chúng ta vẫn thấy còn nhiều điều phải làm
để Nước đó được nhìn nhận bởi gần 7 tỷ người trên trái đất.
Ngày nào trên thế giới còn chiến tranh, bạo động, còn áp bức, bất công,
ngày nào nhân loại còn bệnh tật nghèo đói, còn nô lệ cho vật chất,
ngày ấy Nước Thiên Chúa chưa ngự trị trên địa cầu.
Nơi nào công lý và hòa bình, khoan dung và nhân hậu,
chi phối trái tim và cách hành xử giữa người với người,
nơi đó Nước Thiên Chúa đã đến gần hơn.
Chúng ta không chỉ cầu xin cho Nước Cha trị đến (Mt 6, 10).
Chúng ta biết mình được mời gọi để xây dựng Nước đó trên trần gian.
Để chuẩn bị cho Ngày Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang,
chúng ta còn bề bộn công việc phải làm.
Ngài phải có chỗ trong lòng dân tộc, giữa thế kỷ hai mươi mốt.
Nhưng trước hết Ngài phải có chỗ trong lòng chúng ta.
Xin được đón lấy Nước Thiên Chúa như trẻ thơ, như người nghèo tay trắng.
Xin được quảng đại bán tất cả để mua viên ngọc quý là Nước Trời.
Xin được chia sẻ cho Giêsu nơi những người anh em bé nhỏ nhất.
Vì Nước Thiên Chúa là một tiệc vui, quy tụ mọi người từ bốn phương,
xin được mở rộng vòng tay từ bây giờ để ôm lấy cả thế giới.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:
Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này
là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
Con mơ ước
không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng,
bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp,
không còn những cô gái đứng đường
hay những người ăn xin.
Con mơ ước
những ngưòi thợ được hưởng lương xứng đáng,
các ông chủ coi công nhân như anh em.
Con mơ ước
tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình,
các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.
Lạy Chúa của con,
con ước mơ một thế giới đầy màu xanh,
xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển,
và xanh của bao niềm hy vọng
nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.
Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ,
thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó.Amen
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Sống sung mãn giây phút hiện tại
Hiện nay, con số các nhóm khủng bố có mầu sắc tôn giáo đang gia tăng đáng kể. Năm 1968, không có hoạt động khủng bố nào liên hệ đến tôn giáo, nhưng ngày nay có rất nhiều nhóm tự xưng là Kitô giáo, Do thái giáo, Ấn giáo, Hồi giáo. Mẫu số chung của các nhóm này là niềm tin vào một ngày thế mạt, họ chủ trương bạo động, vì tin rằng nhờ cuộc chiến tranh ở qui mô thế giới, hay nhờ một thiên tai nào đó, họ sẽ được đưa vào Thiên Ðàng. Các giáo phái mong mỏi ngày thế mạt đã khởi sắc tại Hoa Kỳ từ thế kỷ 19 và hiện nay vẫn còn thu hút nhiều tín đồ. Tuy nhiên mới đây một số đã cáo chung vì bạo động: cách đây vài năm, một giáo phái tại Nam Hàn đã lôi kéo nhiều tín đồ đến chỗ tự vẫn và đã tự giải tán, vì ngày thế mạt họ chờ đợi đã không đến. Vụ phun hơi ngạt do giáo phái “Chân Lý Tối Thượng” chủ trương tại Nhật Bản dạo tháng 3/1995 cũng cho thấy sự khởi sắc bất ngờ của niềm tin vào ngày thế mạt nơi người Nhật bản.
Tin vào ngày thế mạt, tức ngày Chúa lại đến trong vinh quang cũng là một trong những điểm nòng cốt của Kitô giáo. Hàng ngày, trong Thánh Lễ, Giáo Hội không ngừng nhắc nhở các tín hữu khi tuyên xưng: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại, cho tới khi Chúa lại đến”. “Chúa lại đến”, đó là niềm xác tín của người Kitô hữu. Tuy nhiên, ngày đó có phải là năm 2000, năm 3000 hay một thời điểm nhất định nào không? Cái bí ẩn ấy không bao giờ được vén mở. Chúa Giêsu loan báo Ngài sẽ trở lại, nhưng không cho biết ngày giờ nào.
Chính vì tính cách bất ngờ của Ngày Chúa Ðến, các tín hữu phải luôn tỉnh thức. Tỉnh thức có nghĩa là dấn thân tích cực trong giây phút hiện tại, chứ không phải là ăn không ngồi rồi mà chờ đợi. Ðó cũng là giáo huấn của Chúa Giêsu mỗi khi Ngài nói đến Nước Thiên Chúa thời cánh chung: Nước Thiên Chúa sẽ thành tựu ở một thời điểm mà không ai biết trước được vào ngày Con Người sẽ quang lâm. Một trong những nét cao cả của con người chính là khả năng vượt qua thời gian, chỉ con người mới có thể hồi tưởng quá khứ và dự phóng tương lai, chỉ con người mới có khát vọng được trường sinh bất tử. Thiên Chúa quả thực đã đặt để trong lòng con người hạt giống của sự sống vĩnh cửu, hạt giống ấy chỉ có thể nẩy mầm trên thửa đất của hiện tại mà thôi: không thể đi vào vĩnh cửu mà không bước qua hiện tại, không thể yêu mến vĩnh cửu mà lại khước từ hiện tại.
Qua cuộc sống của Ngài, Chúa Giêsu đã vạch ra cho con người đường đi vào vĩnh cửu, đó là sống sung mãn trong từng giây phút hiện tại. Chính trong cuộc sống mỗi ngày mà con người phải tìm kiếm và xây dựng những giá trị vĩnh cửu. Sống như thế là sống tỉnh thức theo tinh thần mà Chúa Giêsu hằng nhắc nhở trong Tin Mừng của Ngài; sống như thế, con người mới có thể nhận ra ý nghĩa của cuộc sống. Một cuộc sống có đáng sống và có ý nghĩa hay không, là tùy ở thái độ trân trọng và tích cực của con người đối với mỗi giây phút hiện tại.
Nguyện xin Chúa ban thêm niềm tin để chúng ta không ngừng đón nhận Chúa qua từng biến cố và gặp gỡ mỗi ngày.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Mầu nhiệm Nước Chúa
Tìm kiếm Thiên Chúa vẫn luôn là thao thức của con người. Nhiều người Do Thái nôn nao chờ đợi Nước Thiên Chúa nhưng dù có thao thức, có chờ đợi họ cũng không gặp dẫu rằng Nước Thiên Chúa đang hiện diện giữa họ. Chúa Giêsu đã giải thích lý do: “Nước Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được”. Tìm kiếm Thiên Chúa chỉ để thỏa mãn hay để biện minh cho hành động của mình thì chẳng bao giờ có thể gặp được Ngài.
Trọng tâm của bài giảng của Chúa Giêsu là mầu nhiệm nước Chúa. Mầu nhiệm ấy không thể nắm bắt được bằng mắt trần hay bằng lý luận của con người. Chúa Giêsu mời gọi mọi người đi vào mầu nhiệm Nước Chúa. Nước Chúa không ở chỗ này hay chỗ kia. Nước Chúa chỉ đến bằng cái chết của Chúa Giêsu mà thôi. Chúa Giêsu đã hé mở cho các môn đệ thấy cuộc khổ nạn của Ngài và các cuộc bách hại mà Giáo Hội sẽ trải qua. Chính qua các cuộc bách hại mà hạt giống đức tin được gieo vãi, Giáo Hội được thanh luyện, củng cố và lớn lên. Do đó, không phải cái vẻ hào nhoáng với các cơ cấu tổ chức và biểu dương bên ngoài rầm rộ của Giáo Hội thể hiện mầu nhiệm Nước Chúa, nhưng là chính ở sức mạnh tinh thần của niềm tin, một niềm tin sẵn sàng mất tất cả, ngay cả sự sống của mình để được trung thành với những giá trị của Tin Mừng. Chính niềm tin ấy mới thể hiện được mầu nhiệm thâm sâu của Nước Chúa.
Nguyện xin Chúa cho chúng ta biết cởi bỏ cái nhìn hẹp hòi ích kỷ để nhận ra Nước Thiên Chúa đang hiện diện giữa chúng ta. Xin cho chúng ta luôn tâm niệm rằng chúng ta chỉ gặp được Thiên Chúa trong yêu thương và phục vụ mà thôi.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Tin dổm về tận thế
Người Pha-ri-sêu hỏi Đức Giêsu bao giờ Triều Đại Thiên Chúa đến. Người trả lời: “Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được”. (Lc. 17, 20-21)
Ngay thời ngôn sứ Đa-ni-en, dân Do thái đã bàn tán về ngày nước Thiên Chúa đến và sự chờ đợi cuồng nhiệt lan tràn khắp nước Ít-ra-en. Người ta khảo sát các điềm trời và các tai họa xảy ra. Họ tính toán khá thông thái để tiên báo về ngày giờ tận thế. Đức Giêsu loan báo nước Thiên Chúa đã đến ngoài sức tính toán tự nhiên của con người, nên biệt phái muốn hỏi Đức Giêsu bao giờ triều đại Thiên Chúa đến.
Triều đại Thiên Chúa đã đến rất êm ái
Câu trả lời của Đức Giêsu làm sửng sốt: Nước Thiên Chúa đến không ai có thể quan sát được. Tất cả mọi dấu chỉ loan báo và tính toán đều vô giá trị. Nước ấy đã đến và biệt phái không nhận ra vì con tim và lỗ tai của họ đóng kín, câm lặng, chính hành động của Đức Giêsu cho thấy và cho hiểu về nước Chúa đã đến vì Người nhờ ngón tay Thiên Chúa để trừ quỷ, và lời Người đang sưởi nóng con tim của những kẻ khốn cùng. Thời cứu độ đã bắt đầu, nhưng ai không đón tiếp Đức Giêsu, không thể nhận biết được nước Thiên Chúa.
Khi trả lời những kẻ không tin, Đức Giêsu quay lại phía các môn đệ, các ông biết Đức Giêsu đã đến phục hưng lại nước Thiên Chúa và Người phải trở lại để hoàn tất mọi sự. Người đã tiên báo cho các ông rằng trước ngày quang lâm xảy ra những khốn khổ, những ngày khủng khiếp làm mọi người xao xuyến lo âu. Lúc đó, họ không còn kiên nhẫn chờ đợi ngày Con Người trở lại và họ sẽ bị thôi thúc tìm dấu chỉ và tin những tiên tri giả. Họ sống giữa những cảnh buồn sầu khổ sở lớn lao rồi lại để mình bị loại bỏ.
Người đến như ánh chớp chói lòa chiếu sáng.
Con Người đến trong vinh quang sáng chói hơn cả tia sáng bom nguyên tử, bom khinh khí và chiếu sáng khắp nơi không gì che lấp được. Con Người đến thình lình đột ngột như các tai họa đổ xuống loài người và luôn luôn sẵn sàng đến bất cứ lúc nào.
Trước khi biến cố này xảy đến, Đức Giêsu phải chịu xỉ vả, hạ nhục, phản bội bởi thế hệ này và các thế hệ kế tiếp. Tình yêu chắc chắn chiến thắng. Nhưng trước khi chiến thắng hận thù và chia rẽ, Người phải hành động để thuyết phục chứ không dùng bạo lực. Giáo hội cũng phải chịu khổ nhục một thời và các Kitô hữu phải biết kiên trì giữ vững đức tin luôn luôn sẵn sàng đón tiếp Con Người đến.
RC
Suy Niệm 5: HÃY SÁM HỐI ĐỂ GẶP ĐƯỢC CHÚA (Lc 17, 20-25)
Trong một lớp giáo lý dự tòng cho người lớn tuổi, một hôm, thầy giáo lý viên hỏi mọi người rằng: “Tại sao lại theo đạo Công Giáo?”. Lúc đó, có một chị đã trả lời: “Con theo đạo để xin Chúa cho con khỏi đau khổ, bệnh tật…!”. Thầy giáo đó trả lời: “Việc thoát khỏi đau khổ và bệnh tật không phải là lý do chính, việc quan trọng chính là bạn tin nhận Chúa làm chủ cuộc đời của mình, sống phó thác nơi Thiên Chúa và đón nhận cũng như khám phá ra ý nghĩa của đau khổ trong cuộc sống hiện tại, mặt khác, khi theo đạo, bạn được mời gọi bước theo Đức Giêsu trên con đường hy sinh, quên mình vì người khác, thực hành những điều Ngài dạy. Có thế, bạn mới được bình an thực sự”.
Ngày xưa, người Do thái đương thời với Đức Giêsu cũng luôn mong đợi một Đấng Thiên Sai oai phong lẫm liệt, Ngài đến để thiết lập một triều đại hùng cường, mở mang bờ cõi và đem lại cho dân tộc họ một cuộc sống ấm no, hạnh phúc theo kiểu bề ngoài.
Niềm hy vọng như thế đã làm chủ suy nghĩ của họ, nên khi Đức Giêsu đến, họ không nhận ra Ngài và khước từ những đặc tính của Nước Trời mà Đức Giêsu loan báo. Nguyên nhân sâu xa chính là lòng dạ sắt đá của họ. Sự cứng lòng tin đã làm cho tâm hồn họ trở nên u tối, mê muội, nên khó chấp nhận ánh sáng là chính Đức Giêsu. Vì thế, họ đã đang tay giết luôn cả Đấng mang Nước Trời đến cho mình.
Vì biết rõ tâm hồn họ, nên Đức Giêsu đã mời gọi: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng, vì Nước Trời đã gần đến”. Nước Trời mà Đức Giêsu loan báo ở đây không thể hiểu theo nghĩa vật lý, tức là mắt thấy, tay sờ được… Nhưng Nước Trời ở đây là chính Ngài. Thực hành những lời Đức Giêsu dạy chính là đi vào mối tương quan thân tình với Ngài và được ở trong Ngài. Sống lời Ngài dạy và đem ra thực hành chính là làm cho Nước ấy được lan rộng.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta muốn được nhận ra Chúa thực sự thì phải trở nên nhỏ bé, khiêm nhường. Cần phải lột bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới với những suy nghĩ và hy vọng mới theo tinh thần Tin Mừng thì mới có thể gặp được Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết khiêm nhường, hiền hậu và yêu thương để được Nước Chúa làm gia nghiệp. Amen.
Ngọc Biển SSP
THỨ SÁU TUẦN 32 THƯỜNG NIÊN
Lời Chúa: Lc 17, 26-37
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Như sự kiện đã xảy ra thời Noe thế nào, thì trong ngày Con Người cũng xảy đến như vậy. Thiên hạ cứ ăn uống, cưới vợ gả chồng, mãi cho tới ngày Noe vào tầu, rồi nước lụt đến tiêu diệt mọi người.
“Lại cũng như đã xảy ra thời ông Lót: người ta ăn uống, mua bán, trồng tỉa, xây cất, nhưng ngày ông Lót ra khỏi thành Sôđôma, thì trời liền mưa lửa và sinh diêm, tiêu diệt mọi người. Cũng sẽ xảy như thế trong ngày Con Người xuất hiện.
“Trong ngày đó, ai ở trên mái nhà có đồ vật trong nhà, thì chớ xuống lấy đi; và ai ở ngoài đồng cũng đừng trở về. Các con hãy nhớ trường hợp vợ ông Lót. Ai lo cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đành mất sự sống mình thì giữ được nó.
“Thầy bảo các con: Trong đêm ấy sẽ có hai người trên một giường, thì một người bị đem đi, và người kia sẽ được để lại. Hai phụ nữ xay cùng một cối, thì một người sẽ bị đem đi, còn người kia sẽ được để lại. Hai người ở ngoài đồng, thì một người bị đem đi, và người kia được để lại”.
Các môn đệ thưa Chúa rằng: “Lạy Thầy, chuyện đó ở đâu vậy?” Người phán bảo các ông: “Xác ở đâu thì diều hâu tựu lại đó”.
Suy Niệm 1: Được đem đi, bị bỏ lại
Suy niệm:
Gần đây trong y học, người ta nói đến hội chứng Brugada.
Hội chứng này thường gặp ở nơi nam giới vùng Đông Nam Á.
Nó có thể gây tử vong bất thình lình và nhanh chóng,
cho một người khi ngủ vào ban đêm, dù trước đó anh vẫn khỏe mạnh.
Số người mắc hội chứng có tính di truyền này hiện đang gia tăng.
Đến nay người ta vẫn chưa giải thích được nguyên nhân gây bệnh.
Sống làm người ở đời, con người phải đương đầu với bao bất ngờ.
Những điều tưởng như không thể nào xảy ra được, lại xảy ra.
Những điều đã tính toán rất cẩn thận, lại xảy ra không như ý.
Bệnh tật, rủi ro, tai nạn, và sau cùng là cái chết.
Những cái bất ngờ đến nhanh quá khiến con người không kịp trở tay.
Làm sao ta có đủ bình tĩnh để đón lấy mọi cái bất ngờ trong cuộc sống?
Kitô giáo chờ đợi một bất ngờ,
vì biết bất ngờ đó thế nào cũng đến, chỉ không biết rõ khi nào thôi.
Đó là Ngày Chúa Giêsu trở lại trái đất này
trong tư cách là Vua xét xử cả nhân loại.
Vào buổi đầu, nhiều Kitô hữu tưởng là Ngài sẽ trở lại ngay lập tức.
Nhưng dần dần họ thấy rằng Giáo Hội phải kiên nhẫn chờ đợi.
Chỉ khi chờ đợi điều chắc chắn sẽ xảy ra, tuy không rõ khi nào,
người ta mới không bị hụt hẫng khi biến cố xảy đến.
Giáo Hội đã chờ hai ngàn năm và hôm nay vẫn đang chờ.
Chờ và chuẩn bị cho Ngày Quang Lâm làm nên sức sống của Giáo Hội.
Nhưng chờ đợi lâu dài cũng có thể làm người ta mỏi mòn.
Cuộc sống hàng ngày với nhịp điệu bình thường, đều đặn, êm ả,
có thể cuốn hút ta vào một vòng xoáy khó có lối ra.
Cơn hồng thủy đã bất ngờ ập xuống vào thời ông Nôê,
khi “họ đang ăn, họ đang uống, họ đang cưới vợ, họ đang lấy chồng.”
Dòng chảy tự nhiên ấy bị cắt đứt đột ngột bởi cơn hồng thủy.
Khi Thiên Chúa tiêu diệt thành Xơđôm bằng lửa bởi trời,
thì “họ đang ăn, họ đang uống, họ đang mua, họ đang bán,
họ đang trồng, họ đang xây” (c. 28).
Cuộc sống tưởng như cứ trôi đều, ai ngờ nó phải dừng lại.
Chuyện ăn uống, mua bán, lập gia đình, trồng trọt, xây cất
chẳng phải là điều xấu, cần phải tránh xa hay coi thường.
Nhưng chúng ta không để mình bị ru ngủ
bởi cái nhịp tự nhiên và quyến rũ của chúng.
Người Kitô hữu sống đời thường như mọi người một cách tỉnh táo.
Tận tụy nhưng lại không bị mất hút, hết mình nhưng lại còn chút e dè.
Sống tưng bừng giây phút hiện tại nhưng vẫn nhớ đến điểm tới.
Hai người nằm một giường, hai phụ nữ xay một cối (cc. 34-35),
nhưng số phận chung cuộc của họ lại khác nhau.
Có người được đem đi, có người bị bỏ lại.
Làm sao tôi đừng tiếc đồ đạc mà xuống lấy hay quay trở lại nhà (c. 31)?
Làm sao tôi đừng như vợ ông Lót quay nhìn lại và hóa thành cột muối?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã yêu trái đất này,
và đã sống trọn phận người ở đó.
Chúa đã nếm biết
nỗi khổ đau và hạnh phúc,
sự bi đát và cao cả của phận người.
Xin dạy chúng con biết đường lên trời,
nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.
Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu,
chúng con thấy mình được thêm sức mạnh
để xây dựng trái đất này,
và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa,
xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời
không làm chúng con quên trời cao;
và những vẻ đẹp của trần gian
không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa.
Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con,
mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.Amen
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ
Suy Niệm 2: Thực tại cánh chung
Trong những cuốn phim giả tưởng do trung tâm điện ảnh Holywood sản xuất trong thời gian gần đây, gây nhiều ấn tượng nhất có lẽ là cuốn phim: “Ngày Tận Cùng Của Trái Ðất”. Cũng giống như thời Noê, chỉ có 50 người chuẩn bị kịp, họ đã đi vào trong một phi thuyền đặc biệt và tránh được thiên tai xẩy ra cho trái đất, họ đã đi đến một hành tinh khác, và như vậy bảo đảm cho sự trường tồn của nhân loại. Với những xảo thuật tân tiến, cuốn phim đã có thể tạo ra những ấn tượng mạnh trên người xem.
Tuy nhiên, cũng như tất cả những lời đe dọa do nhiều giáo phái tung ra, những hình ảnh của cuốn phim dù khủng khiếp đến đâu, cũng chỉ là những hình ảnh, nghĩa là mời gọi người xem, suy nghĩ về một thực tại khác sâu xa hơn, thường được gọi là thực tại cánh chung. Kinh Thánh là Lời của Thiên Chúa nói với con người. Thiên Chúa không những nói về con người, mà còn nói với con người về chính con người. Kinh Thánh nói với con người: nó từ đâu đến? sẽ đi về đâu? Cứu cánh hay cùng đích của con người là một trong những mạc khải nền tảng của Kinh Thánh. Do đó, bằng một lối văn đặc biệt, Kinh Thánh thường dùng rất nhiều hình ảnh để nói về những thực tại cánh chung ấy.
Cũng theo truyền thống ấy, khi nói về những thực tại cánh chung, Chúa Giêsu đã dùng rất nhiều hình ảnh vốn quen thuộc với người Do thái, nhưng tựu trung chính cái bất ngờ vượt khỏi mọi phạm trù và trí tưởng tượng của con người vẫn là những nét chính của thực tại cánh chung ấy. Tất cả những hình ảnh và thí dụ được Chúa Giêsu sử dụng trong Tin Mừng hôm nay cho thấy rằng thực tại cánh chung, ngày tận thế, ngày của Chúa, vốn là một thực tại mà không ai biết trước được. Bằng nhiều hình ảnh và cách diễn tả khác nhau, Kinh Thánh luôn khẳng định tính bất ngờ của ngày thế mạt; do tính bất ngờ này, các Kitô hữu luôn được mời gọi để sống tỉnh thức.
Thật ra, ngày của Chúa hay thời cánh chung đã thực sự khởi đầu với chính cuộc Phục sinh của Chúa Giêsu. Chúng ta đang thực sự đi vào trong ngày ấy, nếu chúng ta sống kết hiệp với Ngài và trở thành nhân chứng của Ngài trong lịch sử. Chúa Giêsu đã đến để đổi mới mọi sự như thánh Gioan Tông đồ đã viết trong sách Khải huyền, hoặc như thánh Phaolô đã viết trong thư 2Cor: “Ai ở trong Chúa Kitô cũng đều trở thành một tạo vật mới, cái cũ đã qua và cái mới đã có đây rồi”. Chúa Kitô Phục sinh đang có mặt và tác động trong lịch sử loài người; chính Ngài đang phơi bày sức mạnh của tội lỗi là hận thù, ích kỷ, bạo động, và khơi dậy cũng như nâng đỡ những sức mạnh của chân lý, công bằng, liên đới, yêu thương. Bất cứ ai sống theo Ngài, người đó sẽ cảm thấy mình là tạo vật mới có sức thắng vượt quyền lực của sự dữ và tăm tối.
Giáo Hội đang làm chứng cho thế giới thấy rằng Giáo Hội đang làm chứng cho thời cánh chung, nghĩa là sống trong ngày của Chúa. Dấu chứng ấy khả tín hay không là tùy ở cuộc sống có khả tín hay không của các Kitô hữu. Cuộc sống lương thiện, công bằng, yêu thương, phục vụ, quảng đại của các Kitô hữu chắc chắn sẽ tạo một dấu cho mọi người thấy rằng họ là những tạo vật mới, rằng Chúa Kitô Phục sinh đang sống trong họ.
Nguyện xin Chúa Kitô Phục sinh sống trong chúng ta và hướng dẫn mọi tâm tư hành động của chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Ngày Của Con Người
Ngay từ lúc chiếc phi cơ của hãng hàng không Singapore bắt đầu lăn bánh từ phi đạo của phi trường Tưởng Giới Thạch, Ðài Loan, vào một buổi tối thứ Ba trong tháng 11 năm 2000, bà Sally Walker đã có một cảm giác không ổn. Hai tay nắm chặt vào chỗ dựa tay của ghế ngồi trong phần đuôi của chiếc phi cơ chỉ có phân nữa hành khách, người phụ nữ Hoa Kỳ bốn mươi sáu tuổi này lo lắng nhìn giông tố đang thổi ào ào bên ngoài cửa sổ phi cơ. Vào lúc 11h48′ tối, chiếc phi cơ di chuyển ra phi đạo để bay về Los Angeles, Hoa Kỳ, bà Walker, một giáo sư tại đại học Giorgie đã lầm thầm cầu nguyện khi nhìn thấy hai cánh phi cơ bị nghiêng ngả và thân phi cơ bị lắc mạnh. Khi chiếc phi cơ di chuyển ở vận tốc cất cánh với một cú sốc thật mạnh và rồi thêm một lần nữa, chiếc phi cơ bị giật dữ dội sang bên trái và nổ tung. Các quả cầu lửa bắn ra khi chiếc phi cơ bị bể làm ba phần, bay rít trên mặt đường nhựa của sân bay. Sau này, ngồi trên chiếc xe lăn bà Walker kể lại sự thoát chết từ chiếc phi cơ ngập lửa rằng: “Mọi thứ đều bị đốt cháy. Thật là một cơn ác mộng khủng khiếp”. Bà Walker bị thương nhẹ ở chân là một trong những người rất may mắn. Hơn tám mươi người trong số một trăm bảy mươi chín hành khách của chuyến bay định mệnh đã chết trong tai nạn này. Một số người bị đốt cháy đến độ không còn có thể nhận diện được.
Tai nạn thảm khốc này xảy ra đúng một năm sau khi chiếc phi cơ của hãng hàng không Ai Cập bị rớt trên đường bay từ thủ đô Cairô đến New York, Hoa Kỳ, gây thiệt mạng cho hai trăm bảy mươi người. Nó xảy ra tại một trong những phi trường được xem là an toàn nhất thế giới, và được hoạt động bởi một trong những công ty an toàn nhất thế giới.
Dĩ nhiên, sau bất cứ một tai nạn nào, người ta cũng cố gắng tìm ra cho bằng được nguyên nhân, bởi vì không có tai nạn nào mà không có nguyên nhân, dù nguyên nhân ấy vẫn còn nằm trong vòng bí ẩn. Tựu trung, nguyên nhân nào cũng gắn liền với những giới hạn của con người. Khoa học, kỹ thuật dù có tiến bộ đến đâu cũng không thể xóa bỏ được những hàng rào dựng lên bởi chính thân phận bất toàn của con người. Ðây hẳn phải là chân lý có thể nuôi dưỡng những suy tư và cầu nguyện của các tín hữu Kitô chúng ta trong tháng cầu cho các đẳng linh hồn này.
Tin Mừng được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe trong những ngày cuối năm phụng vụ dường như cũng hướng tâm tư chúng ta về ý tưởng ấy và trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói đến ngày của Con Người. Ngày ấy có thể là ngày tận thế khi Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang. Ngày ấy có thể là ngày từ giã cõi đời của mỗi người chúng ta. Nhớ đến những người quá cố, suy tưởng về sự chết không hề là một thái độ bệnh hoạn hay bi quan mà là tư thế tỉnh thức tích cực của người môn đệ Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nói đến tính cách bất ngờ của ngày của Con Người để kêu gọi các môn đệ mặc lấy thái độ tỉnh thức. Thời ông Nôê, người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng mà không màng đến lời cảnh cáo của ông, đến khi đại nạn hồng thủy đến thì đã quá muộn.
Ý nghĩ về sự chết hướng con người đến cùng đích của mình để tìm kiếm ý nghĩa cho cuộc sống. Ý nghĩa ấy luôn gợi lên cho con người ý thức về thân phận mong manh bất toàn của kiếp người và mời gọi con người tìm kiếm những giá trị vĩnh cửu của Nước Trời. Với ý thức ấy, con người hướng về cùng đích của cuộc sống và tỉnh thức không những để chờ đợi Chúa đến vào ngày sau hết, hay để được đợi mong Ngài mau đến trong những khoảnh khắc của cuộc sống.
Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta lẽ khôn ngoan và tinh thần tỉnh thức đích thực ấy.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Luôn xảy ra như tàu Titanic
Và cũng như thời ông Nô-ê, sự việc đã xảy ra cách nào, thì trong những ngày của Con Người, sự việc cũng xảy ra như vậy, thiên hạ ăn uống cưới vợ lấy chồng, mãi cho đên ngày ông Nô-ê vào tàu, và nạn hồng thủy ập tới, tiêu diệt tất cả. (Lc. 17, 26-27)
Biết chắc phải chết, nhưng người ta vẫn thích ăn chơi cho đã đời. Ăn uống, cưới hỏi, mua bán, gieo gặt, xây cất … cuồng nhiệt hoạt động đến mức sống tràn trề thỏa mãn trước khi tận diệt.
Phải lo tiên liệu
Ngày Con Người đến không chỉ là ngày ân thưởng, mà còn là ngày đe dọa xao xuyến sợ hãi. Người ta không thấy hạn kỳ ấn định, không ai biết được mình còn sống, không biết được đời sống tương lai. Nó hoàn toàn tùy thuộc vào sự ăn năn sám hối và mong đợi Chúa đến hàng ngày của mình.
Vậy phải coi chừng lo chuẩn bị trước: lịch sử cứu độ để lại cho chúng ta ít nhất là hai biến cố đầy ấn tượng mạnh mẽ. Đại hồng thủy thời ông No-e và lửa sinh diêm đốt thành Sô-đô-ma. Nước và lửa ai cũng biết là sức mạnh tàn phá kinh khủng. Biết bao lần nước và lửa tiêu hủy một cách tàn bạo bất ngờ. Vậy phải luôn luôn tỉnh thức phòng cháy, thoát lụt.
Ai có thể được cứu thoát?
Ngày ấy, phải bỏ lại tất cả bất cứ cái gì dù cần thiết cho đời sống. Vợ ông Lót miễn cưỡng đi theo chồng, nhưng lòng luôn luyến tiếc những cái phải bỏ lại. Bà là thứ tâm hồn không có lòng tin. Bất cứ lúc nào, ai không có thể từ bỏ của cải vật chất đời này, chắc chắn hư mất đời đời.
Chỉ có một điều cần thiết cho ngày ấy để có thể đứng trước mặt Chúa trong ngày phán xét là những ai làm việc hàng ngày với con mắt hướng nhìn lên Chúa, “không nhìn lại đàng sau” như vợ ông Lót, mới “thích hợp với nước Thiên Chúa”. Kẻ ru ngủ mình trong chè chén say sưa, chỉ nghĩ tìm những điều theo dục vọng “thì sẽ mất”. Cũng vậy, người đàn bà xay bột chỉ nghĩ đến tấm bánh ngon, thì sẽ bị thiêu đốt.
Các môn đệ hỏi: “Lạy Chúa, ở đâu vậy?”, cũng giống như câu hỏi của biệt phái hỏi bao giờ triều đại nước Thiên Chúa đến. Đức Giêsu cũng trả lời các môn đệ tương tự như trả lời biệt phái.
Ngày đó sẽ là ngày phán xét tất cả. Tất cả vũ trụ sẽ bị phán xét và người ta không thể trốn đi bất cứ đâu được. Không còn phao, xuồng cấp cứu nữa!
RC
Suy Niệm 5: TỈNH THỨC TRONG NIỀM VUI (Lc 17, 26-37)
Xem CN 1 MV A
Mỗi khi nói đến ngày chung thẩm, ngày Chúa đến với mọi người, ngày phán xét, hẳn đã làm cho nhiều người lo sợ. Lo sợ vì họ đang sống trong cảnh sa đọa, nên ngày đó đến, họ sẽ gặp phải sự bất hạnh. Nhưng ngược lại, nhiều người lại hân hoan vui mừng. Tại sao vậy? Thưa những người vui mừng chính là họ đang sống hết mình với Chúa, với tha nhân: dám hy sinh tất cả dù phải mất cả mạng sống mình vì Nước Trời.
Tuy nhiên, muốn có được niềm vui thực sự, chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng vì không biết ngày nào, giờ nào Chúa đến. Giờ của Chúa có thể đến như kẻ trộm, như ông chủ đi xa về, như tia chớp từ trời xuống, như trận lụt thời ông Noe…
Ngày hôm nay, con người ưa sống trong cảnh nhung lụa, ăn chơi, trần tục. Họ luôn bám vào những giá trị trần gian mà quên đi thực tại Nước Trời với những giá trị của Nước này. Vì thế, chúng ta không lạ gì khi con người trong xã hội hôm nay vẫn nhởn nhơ và ung dung sống trong tội. Không màng chi đến công bằng, nhân ái và tình thương…
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy luôn sẵn sàng, hãy tỉnh thức trong tâm tình cầu nguyện và làm những việc lành, hy sinh và bác ái.
Luôn biết gắn bó cuộc đời của mình trong sự an bài quan phòng của Thiên Chúa. Thực thi Lời Chúa dạy trong cuộc sống hằng ngày. Nhất là luôn biết tỉnh thức trong đời sống cầu nguyện.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết gắn bó cuộc sống của chúng con với Chúa. Luôn sống trong tâm tình cầu nguyện để tìm gặp Chúa trong cõi sâu thẳm của lòng chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
THỨ BẢY TUẦN 32 THƯỜNG NIÊN
Lời Chúa: Lc 18, 1-8
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ một dụ ngôn, dạy các ông phải cầu nguyện luôn, đừng ngã lòng mà rằng: “Trong thành kia, có một vị thẩm phán không kính sợ Thiên Chúa, cũng không kiêng nể người ta. Trong thành đó lại có một bà goá đến thưa ông ấy rằng: “Xin ông minh oan cho tôi khỏi tay kẻ thù”. Trong một thời gian lâu dài, ông không chịu, nhưng sau đó ông nghĩ rằng: “Mặc dầu ta không kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng kính nể người ta, nhưng vì bà goá này cứ quấy rầy ta mãi, nên ta sẽ xử cho bà ấy, kẻo bà ấy đến mãi làm ta nhức óc”.
Rồi Chúa phán: “Các con hãy nghe lời vị thẩm phán bất lương nói đó. Vậy Thiên Chúa lại không minh xử cho những kẻ Người tuyển chọn hằng kêu cứu với Người đêm ngày, mà khoan giãn với họ mãi sao? Thầy bảo các con, Chúa sẽ kíp giải oan cho họ. Nhưng khi Con Người đến, liệu sẽ còn gặp được lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”
Suy Niệm 1: Không được nản chí
Suy niệm:
Một trong những lý do khiến người ta bỏ cầu nguyện,
đó là sự thinh lặng của Thiên Chúa.
Con người bị áp bức, khổ đau, nên kêu gào lên Chúa,
nhưng tiếng kêu thảm thiết của họ dường như chẳng được nghe.
Thiên Chúa có hiện hữu không?
Nếu Ngài có mặt, sao Ngài không cứu giúp ta ra khỏi nỗi quẫn bách?
Đã có bao lời cầu nguyện từ sáu triệu người Do thái
trước khi họ bị quân Đức quốc xã giết hại dã man.
Họ kêu lên cùng Chúa là Đấng đã giải thoát tổ tiên họ khỏi cảnh nô lệ.
Nhưng tại sao bây giờ Ngài lại lặng yên, để sự dữ lộng hành?
“Phải cầu nguyện luôn luôn và không được nản chí” (c. 1).
Không nên thấy Thiên Chúa lặng thinh mà vội bỏ cuộc.
Đức Giêsu đã kể dụ ngôn về sự kiên trì của một bà góa.
Bà chẳng còn chỗ dựa tinh thần và vật chất nơi người chồng.
Thiếu sự chở che của chồng, bà dễ bị người khác đối xử bất công.
Chính vì thế bà đã nhiều lần đến vị quan tòa để đòi hỏi công lý.
Tiếc thay vị quan tòa lại không phải là người tốt.
“Ông chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì” (c. 2).
Thế nên vụ kiện cứ bị ngâm trong một thời gian khá lâu.
Nhưng bà góa này quyết không nản lòng, cứ quấy rầy vị quan tòa.
Cuối cùng, ông ta đành giải quyết, chỉ vì muốn yên chuyện (c. 5).
Thiên Chúa dĩ nhiên khác hẳn viên quan tòa bất chính trên đây.
Ngài không trì hoãn việc xét xử, nhưng sẽ mau chóng trả lại công lý
cho những kẻ ngày đêm kêu lên Ngài (cc. 7- 8).
Thiên Chúa không nhậm lời chúng ta để tránh bị quấy rầy hay rắc rối,
nhưng vì Ngài là Đấng Công Chính biết lắng nghe tiếng kêu than.
Trong thế giới hôm nay, sự dữ vẫn làm mưa làm gió.
Bóng tối như nuốt chửng ánh sáng, sự ác có vẻ mạnh mẽ hơn sự thiện.
Vẫn có những bà góa neo đơn phải chịu cảnh bất công.
Vẫn có những phụ nữ và trẻ em bị bóc lột và lạm dụng.
Đức tin người Kitô hữu có thể bị xao động khi nhìn vào thế giới.
Nhiều khi con người cảm thấy mình yếu đuối và bất lực.
Hãy cầu nguyện luôn, hãy kêu lên Chúa đêm ngày!
Đừng mất niềm tin vào Thiên Chúa (c. 8),
dù tiếng kêu của những người thấp cổ bé miệng vọng lên trời cao
vẫn chưa có tiếng trả lời ngay lập tức.
Cuộc chiến với những bất công trên thế giới còn kéo dài.
Người Kitô hữu được mời gọi cộng tác với Thiên Chúa cho sứ vụ ấy.
Chúng ta cần có sự hỗ trợ từ trời,
để hoán cải lòng người từ bên trong, để xây dựng một thế giới mới.
Kiến tạo một trái đất công bằng và bác ái,
đó là ước mơ của Thiên Chúa và cũng là ước mơ của chúng ta.
Xin Ngài ra tay hành động mạnh mẽ,
nhưng xin cho chúng con trở nên khí cụ hữu hiệu để tay Ngài dùng.
Cầu nguyện:
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào,
xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc,
xin cho con quý chuộng những lúc
được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo,
xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa
để nghe lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng,
xin cho con thoát được lên cao
nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa,
ước gì tinh thần cầu nguyện
thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện,
xin cho con gặp được con người thật của con
và khuôn mặt thật của Chúa. Amen
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Tín thác vào Thiên Chúa
Tuần báo Công Giáo Dân Tộc số ra ngày 15/10/1995 ở Mục Trong Tuần, có ghi một sự kiện như sau: Trong 4 năm thực hiện pháp lệnh tối cao của công dân được Hội Ðồng nhà nước ban hành ngày 7/5/1991, riêng tại Thành phố Sàigòn có 36 đơn vị chức năng đã nhận được 11,635 đơn từ, trong đó có tới 81.5% đơn từ tố cáo khiếu nại về nhà cửa, đất đai. Theo số liệu chưa đầy đủ, đơn từ tố cáo khiếu nại còn tồn đọng chưa giải quyết là 6,520 đơn. Bài báo đưa ra đề nghị: “Ðể có thể giải quyết rốt ráo những tranh chấp, khiếu nại, tố cáo của mọi người dân khi quyền lợi chính đáng của mình bị xâm phạm, quyết định cuối cùng của Ủy ban nhân dân các cấp chưa đủ thuyết phục, cần có một tòa án xét xử công minh”.
“Cần có một tòa án xét xử công minh”, lời kêu gọi trên đây không biết có nhắm đến những trường hợp quan trọng hơn, trong đó không chỉ có cái nhà mảnh đất, mà chính sự sống còn của biết bao người bị trù dập mà chẳng hề được đem ra xét xử hay không? Cần có một tòa án xét xử công minh, thiết tưởng đó là tiếng kêu cầu bình thường của người dân mỗi khi quyền lợi của họ bị vi phạm. Quả thật, công lý vẫn tiếp tục kêu la cho tới khi nào được thực thi. Nhưng đối với biết bao nạn nhân, nhiều khi người ta chỉ còn biết kêu Trời, mà Trời thì có thấu chăng? Nhiều khi chúng ta cảm thấy mệt mỏi vì những tiếng kêu cầu của chúng ta: Thiên Chúa dường như vẫn câm lặng trước những bất công mà những kẻ vô tội trên khắp thế giới đang phải gánh chịu.
Chúa Giêsu thấu hiểu được tâm trạng ấy của chúng ta, cho nên trong Tin Mừng hôm nay, Ngài kêu gọi chúng ta hãy tin tưởng và phó thác cho Thiên Chúa. Lý luận của Ngài trong dụ ngôn về một quan tòa bất công thật đơn giản: nếu quan tòa bất lương đến độ không kính sợ Thiên Chúa cũng chẳng kính nể người ta, mà còn phải chịu thua trước lời van vỉ của một bà góa, thì huống chi Thiên Chúa, Ðấng trọn hảo và yêu thương con người. Chúng ta tưởng Thiên Chúa câm lặng và vô cảm trước nỗi khổ đau và lời kêu cầu của con người; thật ra, công lý của Thiên Chúa không phải là công lý của loài người, lẽ khôn ngoan của Thiên Chúa không phải là lẽ khôn ngoan mà chúng ta có thể thẩm định được theo tiêu chuẩn của loài người. Tư tưởng của Thiên Chúa không phải là tư tưởng của loài người. Quyền năng và tác động của Ngài vượt trên mọi tính toán, cân lường, suy tưởng và chờ đợi của chúng ta.
Ðó là ý tưởng chúng ta cần nhận ra trong Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đi vào mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương con người bằng một tình yêu mà con người không thể hiểu thấu được, do đó, không có tâm tình và thái độ nào phải đạo hơn là phó thác cho Thiên Chúa. Phó thác như Chúa Giêsu đã sống chính là biết đón nhận ý muốn của Thiên Chúa, ngay cả và nhất là khi phải trải qua nghịch cảnh, thất bại, khổ đau; phó thác như Chúa Giêsu đã sống chính là luôn tin rằng từ những mất mát, đổ vỡ và ngay cả từ tội lỗi và sự chết, Thiên Chúa vẫn luôn có thể rút ra những điều tốt đẹp cho con người.
Nguyện xin Chúa đừng để chúng ta phải rơi vào thất vọng.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Ơn huệ Chúa ban
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta kiên trì trong sự cầu nguyện.
Trong một lớp học nọ, một học sinh trung học không bao giờ để cho cô giáo của cậu được yên, lúc nào cậu cũng tìm cách quấy phá cho cô tức giận. Một buổi sáng nọ, trước giờ lớp cô giáo đang ngồi loay hoay viết thì cậu học sinh xuất hiện. Không một chút kính nể, cậu hỏi cô:
– Cô đang làm gì đó?
Cô giáo trả lời:
– Tôi đang cầu nguyện với Chúa.
Liếc mắt thấy những dòng chữ bằng tốc ký, cậu học sinh tấn công:
– Chúa mà cũng biết đọc được tốc ký à?
Cô giáo vừa xếp tờ giấy cho vào cuốn Kinh Thánh vừa trả lời:
– Chúa có thể làm được mọi sự, ngay cả nhậm lời cầu xin của tôi.
Thừa lúc cô giáo chuẩn bị để bắt đầu lớp học, cậu học trò lanh tay rút tờ giấy từ quyển Kinh Thánh và cho vào cuốn sách của mình.
Hai mươi năm sau, người học trò ngổ ngáo ngày xưa nay đã là giám đốc của một công ty. Một hôm, anh tình cờ xem lại cuốn sách của thời trung học, mẫu giấy của cô giáo mà anh đã đánh cắp và cho vào cuốn sách của mình giờ đây đã nhạt màu, anh cho mẩu giấy vào trong ví của mình. Trở lại văn phòng, anh xin cô thư ký đọc giùm mẩu giấy được viết bằng tốc ký, mẩu giấy có chứa đựng một lời cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, với sự chọc phá của Bill, chắc con không thể nào tiếp tục dạy ở lớp này nữa. Xin Chúa hãy biến đổi tâm hồn em, em có thể là một người rất tốt mà cũng có thể là một người rất xấu”.
Vài tuần lễ sau đó, Bill truy tìm chỗ ở của cô giáo ngày xưa, anh cám ơn cô vì đã cầu nguyện cho anh. Lời cầu nguyện đã được Chúa nhậm lời ngoài sự mong đợi của cô: “Hãy xin thì sẽ được. Khi các con cầu nguyện và xin bất cứ điều gì, hãy tin rằng mình sẽ nhận được thì các con sẽ được ban cho điều các con cầu xin”.
Với tất cả những ai tin tưởng cầu xin, lời hứa của Chúa Giêsu luôn được thực hiện. Triết gia Pascal của Pháp đã nói: “Lời cầu nguyện là một trong những cách thế mà Chúa đã chọn để chia sẻ quyền năng vô biên của Ngài cho chúng ta, cũng như Ngài chia sẻ quyền năng của Ngài cho chúng ta bằng cách làm cho chúng ta trở thành những con người biết suy tư. Cũng thế Ngài chia sẻ quyền năng của Ngài cho chúng ta bằng cách làm cho chúng ta trở thành những con người cầu nguyện. Không phải tất cả mọi người đều có thể dùng tư tưởng của mình để tạo ảnh hưởng trên người khác, nhưng ai cũng có thể tạo ảnh hưởng trên người khác bằng lời cầu nguyện của mình. Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta không phải như những kẻ bàng quan trước quyền năng sáng tạo của Ngài, mà như những kẻ chia sẻ quyền năng của Ngài. Ðây chính là ý nghĩa của kiểu nói “được tạo thành giống như hình ảnh của Thiên Chúa”. Bác sĩ Alexis Carell, người đã từng được trao giải thưởng Nobel y khoa hồi năm 1912 đã tóm tắt về sức mạnh của sự cầu nguyện như sau: “Cầu nguyện là một năng lực mãnh liệt nhất mà con người có thể làm phát sinh được”. Ảnh hưởng của lời cầu nguyện trên tâm trí và thân xác con người là điều có thể chứng minh được qua các hạch nội tiết trong cơ thể.
Cầu nguyện là một sức mạnh cũng có thực như chính sức hút của trái đất, đó là sức mạnh mà Chúa Giêsu nói đến qua hình ảnh của người đàn bà góa kiên trì trong Tin Mừng hôm nay. Ông quan tòa đứng ra xử án không phải vì lòng công bình hay vì lòng tốt mà chỉ vì không chịu đựng nổi sự quấy rầy của bà góa. Thiên Chúa nhậm lời con người không phải vì sợ con người quấy rầy mà chỉ vì lòng tốt đối với con người mà thôi. Nói đến sức mạnh của lời cầu nguyện là tuyên xưng lòng nhân từ của Thiên Chúa vậy. Kiên trì trong lời cầu nguyện cũng là ân huệ của Chúa.
Nguyện xin Chúa cho chúng ta luôn được kiên trì trong sự cầu nguyện và cảm nhận được những điều chúng ta cầu xin.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Bà góa quấy rầy quan tòa
Đức Giêsu kể cho các môn đệ dụ ngôn sau đây, để dạy các ông phải cầu nguyện luôn, không được nản chí. (Lc. 18, 1)
Ngày Con Người trở lại cần chờ đợi, cần sẵn sàng. Trong thời gian đó, môn đệ phải đương đầu với thế gian thù ghét, lòng tin và lòng trông cậy liều mình suy sụp. Vậy để kiên trì cho đến cùng, Đức Giêsu khuyên các ông cầu nguyện không ngừng, không mệt mỏi.
Với kẻ bất lương: phải quấy rầy.
Những quan tòa bất lương và tham tiền, họ không kính sợ Thiên Chúa, chẳng nể người ta. Có đầy rẫy trong Kinh thánh, nhất là đối với các bà góa và cô nhi càng bị họ bỏ rơi và cũng chẳng có thể được luật nào bảo vệ, Đức Giêsu đưa ra một trường hợp cổ điển về một quan tòa gian ác từ chối trả lại công lý cho một bà góa. Chắc bà có một số tài sản, còn quan tòa không muốn xử vì không nhận được quà cáp, rượu chè theo thường lệ, người ta thấy bà góa chắc được kiện, nên bà đến kêu quan tòa mọi ngày để gián đoạn những vụ xử khác ở pháp đình, bà khăng khăng kêu nài công lý xử cho bằng được. Sau cùng, quan tòa thấy bà bướng bỉnh cố chấp, để yên chuyện và khỏi bị quấy rầy, quan phải trả lại công lý cho bà.
Với Thiên Chúa: phải cầu nguyện không ngừng.
Ở đây, Đức Giêsu muốn, không chỉ nêu gương cần thiết phải kiên trì cầu nguyện, mà còn cho thấy cuối cùng lời cầu nguyện chắc chắn sẽ được nhận lời. Nếu quan tòa chẳng sợ Thiên Chúa, chẳng coi ai ra gì và chỉ vì lý do ích kỷ bị quấy rầy, còn lo xử cho bà góa, thì Thiên Chúa là Đấng nhân từ vô cùng, lại không rung cảm trước những tiếng kêu thống thiết của những kẻ Ngài đã tuyển chọn sao! Vậy phải liên tục cầu nguyện ngày đêm không dứt, vì lời cầu nguyện kiên trì của kẻ được tuyển chọn, của chi thể Hội thánh, luôn luôn được thương xót. “Chính Ngài sẽ mau chóng bênh vực những kẻ Ngài đã chọn”, nên sẽ rút ngắn những ngày khốn khó cho họ.
Nếu Thiên Chúa hình như để kẻ được tuyển chọn phải chờ đợi, chính là để thử thách đức tin và sự kiên trì của họ trước những xô đẩy bỏ đạo xảy ra trong thời kỳ cuối cùng. “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”. Thiên Chúa luôn trung tín, nhưng con người dù gặp thử thách còn vững tin cho đến cùng không? Đó là sự thách đố mà Đức Giêsu tung ra cho các môn đệ để nhắc nhở các ông về sự nguy hiểm, đồng thời kích thích các ông phải quyết tâm giữ vững đức tin cho đến cùng.
RC
Suy Niệm 5: CẦU NGUYỆN LÀ BẢN CHẤT CỦA ĐỜI KITÔ (Lc 18, 1-8)
Xem lại CN 29 TN C
Cầu nguyện là điều cần thiết trong cuộc sống. Không cầu nguyện, chúng ta không thể có sự sống thần linh trong tâm hồn. Cầu nguyện được ví như cá cần nước, con người cần hơi thở, như cành cần nhựa sống từ thân cây… Tuy nhiên, điều ta cầu xin đôi khi cũng phải xem lại vì có những lời cầu xin của chúng ta không đẹp lòng Chúa. Hoặc cũng có đôi khi Chúa muốn kéo dài thời gian để tăng thêm niềm trông cậy của chúng ta…
Lời Chúa hôm nay đề cao sự kiên trì trong cầu nguyện. Hình ảnh bà góa nghèo toát lên thái độ đó khi bà xin ông thẩm phán xử oan cho bà. Mặc cho ông thẩm phán có lạnh nhạt, bất công và không sợ gì ai hết, nhưng cuối cùng, ông ta sợ sự kiên trì của bà góa…
Thái độ này cho chúng ta thấy kết quả của niềm tin và phó thác vào lòng nhân từ của Thiên Chúa. Ngài không bao giờ bỏ qua lời con cái nài xin. Tuy nhiên, nhiều khi chúng ta không kiên trì đủ hay cũng có khi lời cầu nguyện của chúng ta không đẹp lòng Thiên Chúa. Vì thế Ngài không ban cho đúng ý ta xin hoặc Ngài ban những ơn khác tốt đẹp hơn, và đôi khi Ngài muốn kéo dài thời gian để củng cố sự kiên trì của chúng ta, bởi vì: “Lửa thử vàng, gian nan thử đức”; “Ai trung thành đến cùng sẽ được cứu”.
Trong thực tế, nhiều khi chúng ta trách móc Chúa dường như không màng chi đến những lời cầu nguyện của chúng ta. Nhưng chúng ta đâu biết rằng: công lý của Thiên Chúa thì hoàn toàn khác xa tâm tưởng của con người. Sự khôn ngoan của Ngài vượt trội suy đoán và vượt ra ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. Tư tưởng của Ngài thì toàn diện, nên không bị giới hạn vào không gian hay thời gian… Nhưng chung quy lại thì Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta cách đặc biệt bằng một thứ tình yêu cao cả. Phần còn lại của chúng ta là kiên trì, trung thành, khiêm tốn để để đón nhận ơn lành của Ngài trong lòng mến cũng như biến cải đời sống hằng ngày cho tốt hơn mà thôi.
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, Người luôn trung thành với lời đã hứa và luôn luôn nhận lời những ai cầu xin với lòng tin tưởng vững chắc. Xin lắng nghe tiếng van xin của chúng con, nhất là trong cơn thử thách của cuộc đời trần thế này. Amen.
Ngọc Biển SSP