Chúa Giêsu bị chế nhạo – Kỳ cuối: Kẻ phạm thượng và cái kết

Chúa Giêsu bị chế nhạo – Kỳ cuối: Kẻ phạm thượng và cái kết

 


                           Tranh “Chế nhạo Đức Giêsu” của Gerard van Honthorst

 

‘Ông ta đã phạm thượng! Ông ta đã lừa dối dân chúng!”

Lời buộc tội phạm thượng lần đầu tiên được áp dụng cho Chúa Giêsu một cách rất ư nhẹ nhàng và êm đềm, trong một bối cảnh riêng tư, sau khi Ngài tha tội cho một người bại liệt tại nhà: “Một số luật sĩ nghĩ thầm trong lòng: ‘Sao ông này lại dám nói như vậy? Ông ta nói phạm thượng! Ai có quyền tha tội, ngoài một mình Thiên Chúa?” (Mc 2:7; Mt 9:3) [11]. Theo luật Do Thái, tội phạm thượng là một tội rất nghiêm trọng, và đáng bị tử hình [12]. Mặc dù hình phạt này ngay lúc đó chưa được áp dụng ngay tức thì, nhưng trên thực tế, lời buộc tội này cộng với lời buộc tội rằng Ngài ngồi ăn với người tội lỗi (Mc 2:15-17), không thực hành việc ăn chay (Mc 2:18-22), không giữ luật ngày Sabát (Mc 2:23-28), và cuối cùng là việc chữa lành vào ngày Sabát (Mc 3:1-5), đã dẫn đến một bản án tử hình ngấm ngầm, biện minh cho những gì xảy ra sau đó: “Ra khỏi đó, nhóm Pharisêu lập tức bàn tính với phe Hêrôđê, để tìm cách giết Đức Giêsu” (Mc 3:6).

Tuy nhiên, cơ hội để đưa ra lời kết án này chính thức là sau khi Chúa Giêsu bị bắt và bị xét xử trước Thượng Hội Đồng. Đối với câu hỏi của vị thượng tế: “Ông có phải là Đấng Kitô, Con của Đấng Đáng Chúc Tụng không?” (Mc 14:61), Chúa Giêsu đã trả lời bằng ngôn ngữ khải huyền để gián tiếp xác nhận danh xưng đó (Mc 14:62). Lời tuyên ngôn rằng Ngài là Đấng Mêsia được Đức Chúa tấn phong làm vị thẩm phán cánh chung được coi là phạm thượng. Tại thời điểm này, bản cáo trạng chính thức được kích hoạt: “Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Quý vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa. Quý vị nghĩ sao?” Sau đó “tất cả họ đều kết án Người đáng phải chết” (Mc 14:63-64; Mt 26:57-68). Từ lúc đó Chúa Giêsu bị đối xử như tội phạm, bị khạc nhổ và đánh đập (Mc 14:65; Mt 26:67-68).

 

 

Phúc âm Thứ Tư không thuật lại giai đoạn thử thách này, nhưng ngầm diễn tả điều tương tự với một bối cảnh khác. Trong dịp Lễ Cung hiến, Chúa Giêsu đã thốt ra một số lời trong Đền thờ có vẻ được xem như phạm thượng đối với người Do Thái, họ lập tức nhặt đá ném Người. Ở đây cũng có thể coi hành động của họ như là một lời biện minh thuần túy tôn giáo: “Chúng tôi ném đá ông, không phải vì một việc tốt đẹp, nhưng vì một lời nói phạm thượng: ông là người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa” (Ga 10,33). Chúa Giêsu ngạc nhiên nên nói với họ: “Thì tôi là người Chúa Cha đã thánh hiến và sai đến thế gian, làm sao các ông lại bảo tôi: “Ông nói phạm thượng! vì tôi đã nói: “Tôi là Con Thiên Chúa?” (Ga 10:36). Sự phạm thượng nằm ở chỗ Ngài đã đưa ra một tuyên bố vô căn cứ , nghĩa là Đức Giêsu “tuyên bố chính Ngài là Thiên Chúa”. Vì vậy, người ta có ý định giết Chúa Giêsu vì tội phạm thượng, nhưng thật bí ẩn trong hoàn cảnh đó, bởi “Người đã thoát khỏi tay họ” (Ga 10:39).

Sự việc xảy ra sau khi Đức Giêsu bị Thượng Hội Đồng bắt giữ và lên án. Tuy nhiên, người Do Thái không được phép áp dụng hình phạt tử hình, nên đã quay sang Tổng trấn Philatô. Không thể buộc tội Chúa Giêsu phạm thượng, bởi tội này không có trong luật pháp của người La Mã [13], nên họ viện cớ là do động cơ chính trị khi tố cáo Chúa Giêsu là một kẻ gây rối nguy hiểm và khiến dân chúng bất an. Tin Mừng Thánh Luca nhấn mạnh lời buộc tội này: “Chúng tôi đã phát giác ra tên này sách động dân tộc chúng tôi, và ngăn cản dân chúng nộp thuế cho hoàng đế Xêda, lại còn xưng mình là Mêsia, là Vua nữa” (Lu-ca 23:2). Và người Do Thái nhấn mạnh đến tầm mức ảnh hưởng của Chúa Giêsu: “Hắn đã xúi dân nổi loạn, đi giảng dạy khắp vùng Giuđê, bắt đầu từ Galilê cho đến đây” (Lc 23,5). Philatô hiểu rõ điều này: “Các ngươi nộp người này cho ta, vì cho là tay kích động dân” (Lc 23:14), nhưng sau khi tra hỏi Đức Giêsu về việc được gọi là “vua” (Ga 18:33-38), ông ta nhận ra rằng không có gì có thể làm bằng chứng để kết án Người, và động cơ thực sự của lời buộc tội là do ghen tị (Mt 27:18). Sự thỏa hiệp được tìm thấy xung quanh danh hiệu “vua”, một danh hiệu thiên sai đối với người Do Thái, một danh hiệu chính trị dành cho Philatô [14]. Vì vậy, cuối cùng, dù không muốn nhưng Philatô vẫn tuyên án tử hình Chúa Giêsu cho dẫu không tìm thấy lý do gì, ông biện minh đó là hành vi chiếm đoạt tước hiệu vua (Ga 19,12-16) [ 15].

Trong thời kỳ đầu của Giáo Hội, các tông đồ bị bắt vì việc rao giảng của họ quá thành công và do đó gây rối loạn trật tự công cộng (Cv 4:1-22), có nguy cơ làm nảy sinh các nhóm muốn lật đổ chính quyền (Cv 5:34- 42). Trường hợp của Stêphanô thật bất thường: bị buộc tội thốt ra “những lời phạm thượng chống lại Môsê và chống lại Thiên Chúa” (Cv 6:11), ông bị ném đá đến chết mà không có sự can thiệp của chính quyền La Mã. Thánh Phaolô sắp chịu chung số phận thì được tòa án Rôma cứu thoát (Cv 21:31-33). Như với Chúa Giêsu, người Do Thái, để bị người La Mã kết án tử hình, đã phải gạt bỏ động cơ tôn giáo (Cv 24:20-21) và viện đến cáo buộc nổi loạn. Vì vậy, họ thuê một luật sư La Mã tên là Téctulô, người đã đưa ra lời buộc tội chính xác như sau: “Số là chúng tôi đã bắt gặp tên này, một thứ ôn dịch, chuyên gây bạo loạn giữa mọi người Do Thái trong thiên hạ, và là đầu sỏ phái Nadarét” (Cv24:5). Và Thánh Phaolô, để tự cứu mình khỏi những người Do Thái đang muốn giết ngài (Cv 23:12), đã thỉnh cầu hoàng đế Xêda (Cv 25:9-12).

 

Bị xúc phạm nhưng Người đã không đáp trả
Việc Chúa Giêsu hứng chịu những lời lăng mạ, đặc biệt vào thời điểm Người chịu khổ nạn, được ghi lại cách rõ ràng không chỉ trong các Tin Mừng mà còn trong các sách khác của Tân Ước. Thánh Máccô ghi lại một loạt lời phỉ báng đi kèm với việc Chúa Giêsu bị đóng đinh: “Những người đi ngang qua lăng mạ Ngài (eblasphēmoun) […]. Các tư tế và các người thông luật cũng chế nhạo Ngài (empaizontes); những kẻ bị đóng đinh cùng với Ngài cũng lăng mạ Ngài (ōneidizon)” (Mc 15:29-32; x Mt 27:39-44). Thánh Luca cũng thêm vào những lời chế nhạo của bọn lính (Lc 23:36). Điều dễ thấy là Chúa Giêsu không bao giờ đáp lại những lời xúc phạm đó, như trong thư thứ nhất của Thánh Phêrô, ngài đã ghi lại rằng: “Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại (loidoroumenos), Người không trả đũa” (1 Pr 2:23). Tương tự như vậy, Tông Đồ Phaolô hẳn cũng biết những lời xúc phạm như vậy, vì ông viết và trích dẫn Tv 68:10: “Thật vậy, Đức Kitô đã không chiều theo sở thích của mình; trái lại, như có lời chép: Lời kẻ thoá mạ (oneidismoi) Ngài, này chính con hứng chịu’” (Rm 15:3).

Một lần nữa, Chúa Giêsu lại tiên đoán số phận tương tự dành cho các môn đệ của Ngài: “Phúc cho các con khi bị người đời sỉ nhục (oneidisōsin)” (Mt 5:11). Luca mở rộng những hình thức bắt bớ: “Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả (oneidisōsin) và bị xoá tên như đồ xấu xa (ponēron)” (Lc 6:22). Mối phúc này được Thánh Phêrô lặp lại: “Nếu bị sỉ nhục (oneidizesthe) vì danh Đức Kitô, anh em thật có phúc” (1 Pr 4:14).

 

Kết luận
Linh đạo Kitô giáo, đặc biệt là linh đạo thời trung cổ, trong bối cảnh của việc noi gương Chúa Kitô, người Kitô hữu tập trung nhiều vào những “lời xúc phạm” mà Chúa Kitô đã hứng chịu, và biến chúng thành đối tượng để suy niệm. Vì thế, nhiều tác giả khi chấp nhận lời mời gọi của Thư gửi tín hữu Do Thái, đã hướng mắt về Chúa Giêsu, “là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin. Chính Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục” (Dt 12:2). Vào đầu thời kỳ hiện đại, Thánh Inhaxiô Loyola đã tự giới thiệu mình là người thừa kế linh đạo này: “Để bắt chước và giống Chúa Kitô, Chúa chúng ta hơn, tôi muốn và chọn […] những điều hèn hạ với Chúa Kitô hơn là những vinh dự; và tôi mong muốn được coi là kẻ ngu dại và điên rồ với Chúa Kitô, Đấng đã bị coi như vậy, hơn là khôn ngoan và thông thái theo kiểu thế gian này” (Bài Linh Thao, Số 167). Việc Inhã nhất định quay về phục niệm chủ đề này cũng rất có ý nghĩa: “Tôi ước muốn và quyết tâm là sẽ […] bắt chước Chúa trong việc chịu đựng mọi sự xúc phạm và sỉ nhục” (Bài Linh Thao, Số 98) [16].

Tác giả: Enrico Cattaneo, SJ

Người dịch: Phê-rô Đào Anh Tuấn, SJ

Nguồn: La Civiltà Cattolica

print