Hiệp Sống Tin Mừng CN 33 TN B & Lễ CTTĐVN

print

Hiệp Sống Tin Mừng CN 33 TN B & Lễ CTTĐVN

SẴN SÀNG ĐÓN CHÚA LẠI ĐẾN BAN ƠN CỨU ĐỘ.

DŨNG CẢM LÀM CHỨNG CHO CHÚA.

 

HIỆP SỐNG TIN MỪNG

CN 33 TN B

Đn 12,1-3; Dt 10,11-14.18; Mc 13,24-32

SẴN SÀNG ĐÓN CHÚA LẠI ĐẾN BAN ƠN CỨU ĐỘ

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Mc 13,24-32

(24) Trong những ngày đó, sau cơn gian nan ấy, thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, (25) Các ngôi sao từ trời sa xuống, và quyền lực trên trời bị lay chuyển. (26) Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. (27) Lúc đó, Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập hợp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời. (28) Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà tìm hiểu. khi cành nó mềm ra và trổ lá, thì anh em biết là mùa hè đã đến gần. (29) Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi”. (30) Thầy bảo thật anh em: Thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. (31) Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu. (32) Còn về ngày hay giờ thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay Người Con cũng không. Chỉ có Chúa Cha biết mà thôi.

  1. Ý CHÍNH:

Bài Tin Mừng hôm nay nằm trong diễn từ về “Cuộc quang lâm của Đức Giê-su” (x. Mc 13,1-37). Bằng những hình ảnh tượng trưng về sự sụp đổ của Đền Thờ kèm theo những điềm báo trước, Đức Giê-su nhắc nhở các tín hữu về “Ngày của Chúa” tức là ngày tận thế. Khi đó sẽ có những cơn bách hại xảy ra, trời đất cũ sẽ bị rung chuyển và biến đổi thành “Trời Mới Đất Mới” (x Kh 21,1), trước khi Con Người đến trong đám mây.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 24-25: + Trong những ngày đó: Ngày nói đây là ngày Đền Thờ Giêrusalem nguy nga tráng lệ bị tàn phá bình địa. + sau cơn gian nan ấy: Cơn gian nan như một điềm báo trước về Ngày Tận Thế. + Mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, các quyền lực trên trời bị lay chuyển: Những hình ảnh trong các sách Cựu Ước này nói về “Ngày của Đức Giavê”. Ở đây các hình ảnh này nhằm đề cao sự uy nghiêm của Đức Ki-tô trong Ngày Tận Thế: bấy giờ các tầng trời sẽ bị rung chuyển, công trình sáng tạo xưa kia sẽ biến mất và một Trời Đất Mới sẽ xuất hiện.

– C 26-27: + Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến: Con Người là hình ảnh một nhân vật trong sách Đanien, trổi vượt hơn hình ảnh “Đấng Mê-si-a Con Vua Đavít”. Ngài đến trong đám mây trời, tiến lên trước toà Thiên Chúa và nhận lãnh một vương quyền phổ quát (x Đn 7,13). Trong các sách Tin Mừng, Đức Giê-su đã xưng mình là Con Người tới 70 lần (x. Mt 8,20; Ga 3,13…): Người tự xưng là Con Người với 2 ý nghĩa. Một là Người Tôi Tớ của Đức Giavê: “Tôi, Người Tôi Tớ bị loại bỏ, bị giết chết nhưng sẽ được tôn vinh và sẽ cứu độ muôn người” (x. Mc 8,31). Hai là Chúa Con, được đưa lên trời ngự bên hữu Chúa Cha (x. Tv 110,1) và đến ngày tận thế, sẽ lại đến (x. Đn 7,13). + “Đến trong đám mây”: Mây không phải là một phương tiện di chuyển, nhưng chỉ là một biểu tượng về sự hiện diện của Thiên Chúa (x. Xh 13,21; Mt 17,5) + Người sẽ sai các thiên sứ đi và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời: Từ khắp nơi, Đấng Ki-tô sẽ ra lệnh cho các thiên thần qui tụ tất cả những người lành thánh được tuyển chọn tập trung lại.

– C 28-29: + Lấy thí dụ cây vả… khi thấy những điều đó xảy ra: Các ngôn sứ thường dùng hình ảnh mùa hè và mùa gặt để diễn tả ngày cánh chung hay ngày tận thế. Ở đây Đức Giê-su dùng hình ảnh cây vả báo trước mùa hè sắp tới, để ám chỉ về ngày cùng tận của Đền Thờ Giêrusalem là hình ảnh tiên báo về ngày tận thế (x Mc 13,4-19).

– C 30-31: + Thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra: Việc tàn phá Đền Thờ Giêrusalem xảy ra vào năm 70, là thời điểm những ai nghe lời Đức Giê-su giảng vẫn còn sống và chứng kiến những điều Người tiên báo được ứng nghiệm. + Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu: Vũ trụ vật chất sẽ có ngày tan biến (x Is 24,19.23), nhưng Lời Đức Giê-su sẽ luôn tồn tại nhờ quyền năng của Thiên Chúa.

– C 32: + Về Ngày Giờ đó: câu này nói về ngày tận thế sẽ xảy ra. + chỉ có Chúa Cha biết mà thôi: Ngày Giờ cánh chung hay tận thế thuộc quyền Chúa Cha định liệu. Đức Giê-su vốn dĩ là Thiên Chúa (x. Pl 2,6), với tư cách là Ngôi Lời, đồng bản tính vơi Chúa Cha nên dĩ nhiên Người biết mọi sự giống như Chúa Cha. Nhưng với tư cách là Đấng Thiên Sai (x. Pl 2,8), Người “nên giống chúng ta mọi đàng chỉ trừ không có tội” (x. Gl 4,4), nên Người không biết được Ngày Giờ ấy, hầu mọi người phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng chuẩn bị cho ngày ấy (x. Mc 13,33).

  1. CÂU HỎI:

1) Trong Tin Mừng, Đức Giê-su đã tự xưng là “Con Người” mấy lần? Đức Giê-su muốn mặc khải mình là ai khi tự xưng mình là Con Người?

2) “Con Người ngự trong đám mây mà đến”: Phải chăng đám mây là phương tiện Đức Giê-su dùng để di chưyển?

3) Đức Giê-su có biết rõ ngày tận thế là ngày nào không? Tại sao?

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến (Mc 14,26).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) TRÁNH TIN CÁC TIN ĐỒN NHẢM VỀ NGÀY TẬN THẾ:

Vào cuối năm 1992, hàng chục ngàn tín đồ của một giáo phái tại Hàn quốc đã tụ tập nhau trong hơn 150 nhà thờ để đón chờ ngày tận thế, đón Đức Giê-su tái lâm trong vinh quang để phán xét chung. Theo những người lãnh đạo của giáo phái này thì chính xác ngày tận thế là vào lúc nửa đêm ngày 28/10/1992. Các tín đồ của giáo phái trương lên biểu ngữ: ”Chúng ta sẽ gặp nhau trên trời”. Đồng thời hàng ngàn cảnh sát Hàn quốc cũng được đặt trong tình trạng báo động cao trên toàn quốc để phòng ngừa một cuộc tự sát tập thể, nếu ngày tận thế không xẩy ra.  Bởi vì, rất nhiều người do quá tin tưởng đã bán hết nhà cửa và phát tán mọi tài sản gia đình… để chuẩn bị cho ngày tận thế này. Nhưng cuối cùng ngày tận thế đã không xẩy ra, nên sau đó giáo phái này đã tự giải thể.

Đây chỉ là một trong nhiều tiên báo không chính xác về ngày tận thế trên thế giới. Sở dĩ người ta đóan sai là do đã hiểu lời Chúa cách lệch lạc và không đúng theo ý Chúa dạy. Đối với các tín hữu chúng ta: nhân dịp cuối năm phụng vụ, Hội Thánh muốn nhắc nhở chúng ta ý thức về ngày tận thế chắc chắn sẽ xảy ra, nhưng không xác định cụ thể ngày giờ. Việc đề cập đến ngày này nhằm giúp chúng ta canh tân đời sống và tích cực chuẩn bị cho ngày Chúa đến vào giờ sau hết của mỗi người.

2) AI MỚI THẬT LÀ KẺ KHỜ DẠI?

Kho tàng văn học của Ấn độ có kể câu chuyện về một ông vua được tiếng là thông minh khôn ngoan nhất thiên hạ nhưng cũng lại là người dại dột nhất trần gian như sau:

Trong hoàng cung có một anh khờ chuyên làm trò hề cho nhà vua xem. Vua thích lắm vì thường có được những trận cười sảng khoái do những lời nói ngớ ngẩn hay điệu bộ khờ khạo của chàng hề. Một hôm để pha thêm trò, vua gọi anh ta đến bên ngai vàng, trao cho một chiếc gậy phủ việt và một vương miện rồi phán: “Ta phong cho ngươi làm vua khờ hạng nhất. Ngươi sẽ giữ chức này cho đến khi có kẻ nào khờ hơn ngươi. Lúc đó ngươi hãy trao gậy và vương miện này cho nó.”

Ngày tháng trôi qua, nhà vua đã dần dần già cả và sức khoẻ cũng bị suy nhược theo năm tháng. Lúc nằm hấp hối trên giường, có cả quần thần, vương hầu khanh tướng tề tựu chung quanh. Nhà vua thều thào nói: “Ta gọi các ngươi đến để nói lời từ biệt. Ta sắp phải rời xa các ngươi rồi. Ta sắp đi vào một cuộc hành trình mà không bao giờ có ngày gặp lại.” Nghe nhà vua nói thế, ai nấy đều sụt sùi rơi lệ. Bấy giờ người ta thấy anh hề tiến đến bên long sàn và thưa: “Muôn tâu đức vua, thảo dân xin được hỏi ngài một câu trước lúc ngài ra đi… Hồi xưa mỗi lần đi xa, dù đi đến các vùng hẻo lánh của nước nhà, hay đến các đô thị phồn hoa của nước bạn, đức vua đều cho sứ giả hoặc cảnh vệ đi trước dọn đường. Còn cuộc hành trình xa xôi mà đức vua sắp lên đường kia, thì xin hỏi, đức vua đã chuẩn bị gì chưa?” Nghe hỏi thế, nhà vua mở mắt ra đáp: “Ừ, ta chẳng biết phải chuẩn bị điều gì cả”. Bấy giờ anh hề liền nói: “Thế thì xin đức vua nhận lại chiếc gậy và chiếc vương miện này, vì thảo dân đã tìm ra một kẻ còn khờ hơn thảo dân rồi.” Nói xong anh trao trả cây phủ việt và vương miện lại cho đức vua.

Nếu một người chỉ biết vui chơi hưởng thụ hôm nay mà không nghĩ đến tương lai sau này. Nếu chỉ lo tìm kiếm công danh, tiền tài, quyền lợi hôm nay mà quên không lo chuẩn bị cho mai sau thì quả thật chúng ta chính là những kẻ khờ dại vô cùng.

3) VỀ BỨC DANH HOẠ “NGÀY PHÁN XÉT”:

Vào lễ Giáng sinh năm 1541, tấm màn che phủ bức tranh khổng lồ của MICHEL ANGE về ngày phán xét chung đã được mở ra, mà nếu được nhìn thấy, chắc hẳn mỗi người chúng ta sẽ phải rùng mình kinh khiếp. Khuôn mặt của Vua Giê-su trong bức tranh không còn là khuôn mặt của vị mục tử nhân lành, nhưng là khuôn mặt của vị quan tòa oai nghiêm. Trong bức tranh, có đến hơn 300 đấng bậc trong Hội Thánh: nào là các thánh Tông đồ, các thánh Tử đạo, các thánh Tiến sĩ. Nào là các Đức Giáo hoàng, những người giáo dân…Bức tranh diễn tả về ngày phán xét: Theo tiếng kèn thiên sứ, những người chết chỗi dậy và ra khỏi mồ. Cha mẹ âu yếm nhìn lại con cái của mình. Bạn bè gặp nhau tay bắt mặt mừng. Thế nhưng, trong ánh mắt của mọi người lại hiện rõ sự lo âu sợ hãi vì số phận đời đời sắp được công bố trước toà phán xét. Tuy nhiên bức tranh “Ngày Phán Xét” nói trên thực ra cũng chỉ do óc tưởng tượng của hoạ sĩ tài danh Michel Ange. Nếu những điều Đức Giê-su tiên báo về số phận bi thảm của thành Giê-ru-sa-lem đã thực sự xảy ra vào năm 70, khi tướng Ti-tus đem quân Rô-ma đến vây hãm và tàn phá thành, đến nỗi “không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào”, thì những lời Chúa tiên báo về ngày tận thế chắc chắn cũng sẽ phải xảy ra.

4) GƯƠNG CHẾT LÀNH CỦA THÁNH GIÁO HOÀNG GIO-AN 23:

Khi Thánh Giáo Hoàng GIO-AN XXIII ngã bệnh nặng, các bác sĩ không nói gì về bệnh tình của ngài, nhưng ngài biết mình khó sống thêm nên thường nói với những người chung quanh: “Tôi đã sắp sẵn hành trang”. Đến ngày cuối cùng khi giờ chết sắp đến, thư ký riêng tới bên giường hôn tay Đức Giáo Hoàng và hỏi thăm xem ngài cảm thấy trong mình thế nào. Đức Gio-an trả lời:

– Cha cảm thấy dễ chịu và an bình trong tay Chúa, nhưng cũng hơi lo.

Vị thư ký nói:

– Cha không phải lo. Nhưng chúng con đang lo đây. Chúng con mới nói chuyện với các bác sĩ…

Đức Giáo Hoàng ngắt lời hỏi:

– Họ nói với con thế nào?

Vị linh mục nghẹn ngào nói:

– Thưa Đức Thánh Cha, con phải nói sự thật: Hôm nay là ngày của Chúa. Hôm nay Cha sẽ về Thiên đàng.

Nói xong, vị thư ký quỳ xuống bên giường ôm mặt khóc. Đức Giáo Hoàng âu yếm xoa đầu vị thư ký và ôn tồn nói:

– Mọi khi con can đảm lắm, sao giờ lại mềm yếu vậy? Con vừa cho ta nghe những lời hay đẹp nhất mà một vị linh mục có thể nói: “Hôm nay Cha sẽ về Thiên đàng”.

Quả thực: Phải có một đức tin mạnh, người ta mới có thể giữ được sự bình thản như vậy vào giờ phút sắp từ giã cõi đời.

  1. THẢO LUẬN: 

1) Bạn hiểu thế nào về ngày tận thế? Chết là gì? 

2) Bạn sẽ làm gì để chuẩn bị đón Chúa đến trong giờ chết của mỗi người và ngày tận thế chung của tòan nhân lọai?

  1. SUY NIỆM:

Trên ba vòng hoa bán nguyệt của khung cửa sổ nhà thờ Mi-la-nô nước I-ta-li-a có khắc ba dòng chữ như sau:

– Phía dươi vòng bán nguyệt của vòng hoa hồng có khắc dòng chữ: “Mọi hạnh phúc trần gian chỉ kéo dài trong chốc lát”.

– Bên vòng bán nguyệt của cửa thứ hai, dưới hình thánh giá có khắc dòng chữ: “Mọi đau khổ, cực hình trần gian, chẳng mấy chốc sẽ qua đi”.

– Vòng thứ ba của khung cửa giữa dẫn vào Vương cung Thánh đường có khắc dòng chữ: ”Chỉ có hạnh phúc Nước Trời đời đời mới là điều quan trọng nhất”.

1) CÁI CHẾT CỦA MỖI NGƯỜI VÀ NGÀY TẬN THẾ CHUNG NHÂN LOẠI SẼ ĐẾN:

– Dấu hiệu cảnh báo về cái chết của mỗi người chúng ta: Mỗi lần đi phúng viếng đám ma hay đi dự lễ an táng của một người mới qua đời, cũng là cơ hội nhắc nhở chúng ta về cái chết của mỗi người chúng ta. Các dấu hiệu của cơ thể bị suy thoái như tóc bạc, răng long, đau lưng, mệt mỏi, bệnh tật, hay các tai nạn gặp phải, hoặc cơn đại dịch covid-19 hiện nay… đều là sứ điệp của Chúa cảnh báo về cái chết của chúng ta.

– Dấu hiệu cảnh báo về ngày tận thế chung nhân loại: Hôm ấy các môn đồ chỉ cho Đức Giê-su thấy cảnh huy hoàng của Ðền Thờ khi được ánh sáng mặt trời chiếu vào! Nhưng Đức Giê-su đã tiên báo cảnh ấy có ngày sẽ không còn nữa và Đền Thờ sẽ bị phá hủy không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào. Vì dân thành Giê-ru-sa-lem đã từ chối đón nhận ngày Thiên Chúa đến viếng thăm.

2) KHI NÀO THÌ NGÀY TẬN THẾ SẼ XẢY RA?

– Tính không bền vững của vũ trụ:

Theo Tin mừng Mác-cô: Ðức Giê-su dạy các môn đệ phải tiên liệu: Khi thấy các điềm trên trời kia xảy ra, thì hãy biết rằng “Con Người đã đến gần bên cửa” (x Mc 13: 28-29). Các điềm báo về ngày tận thế như: Mùa hè ám chỉ thời kỳ tận thế, các chi tiết khác như: Ðền thờ bị tàn phá, chiến tranh lọan lạc, các Ki-tô giả xuất hiện, niềm tin trở nên nguội lạnh, các tầng trời bị lay chuyển v.v… cho thấy tính không bền vững của vũ trụ chúng ta đang sống.

– Ngày tận thế cụ thể là ngày nào? :

Nghe lời Chúa hôm nay, nhiều người đã lầm tưởng rằng ngày tận thế sắp đến. Nhưng ngay sau đó Đức Giê-su đã khẳng định: “Về ngày ấy hay giờ ấy, thì chẳng ai biết được… cả Con Người nữa, trừ phi là Chúa Cha” (Mc 13,32). Thực ra, với bản tính Thiên Chúa, Đức Giê-su ngang hàng với Chúa Cha, nên cũng biết rõ về ngày tận thế. Nhưng với bản tính lòai người thì cũng như chúng ta, Người không biết rõ tận thế là ngày nào. Người muốn chúng ta phải sẵn sàng chờ đón Người đến vào bất cứ lúc nào.

3) CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ?

Không nên hỏang sợ nhưng hãy hy vọng chờ đón Chúa đến bất ngờ:

Đức Giê-su báo trước sẽ có ngày tận thế, nhưng lại dạy môn đệ không nên hoảng sợ. Người đến để phán xét mọi người, nhưng “đối với những ai mong đợi trong yêu mến ngày Chúa lại đến” (2 Tm 4,8), thì Người sẽ là Đấng Cứu Độ và là vinh quang của họ: ”Người sẽ sai các thiên thần đi quy tụ từ bốn phương trời, những người được tuyển chọn”. Giáo hội bị bắt bớ nhưng cũng được an ủi vì “sẽ thấy vinh quang của Đức Giê-su Ki-tô” (Tt 2,13). Đứng trước các tin đồn về ngày tận thế, thái độ đúng đắn nhất của các môn đệ là: ”Tỉnh thức và cầu nguyện luôn”, trong niềm mong chờ, vì Chúa sẽ đến bất ngờ như Người đã nói: ”Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,44).

– Chuẩn bị cho giờ chết riêng mỗi người và ngày tận thế chung nhân lọai:

Người Ki-tô hữu chỉ có thể “đứng vững trước mặt Con Người” khi luôn loại bỏ tội lỗi, tránh xa sự dữ và các thói hư, nhất là thói ích kỷ, tham lam…, và tích cực góp phần xây dựng một thế giới mới đầy tình thương, trong đó mọi người biết quan tâm đến nhau, sẵn sàng cảm thông chia sẻ và phục vụ nhau, cùng nhau xây dựng môi trường mình đang sống ngày một an toàn sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn.

– Cần ý thức tính tập thể của ơn cứu độ:

Đường về trời không dành riêng cho từng người, nhưng là đường chung cho mọi người. Trong ngày phán xét,  Đức Ki-tô sẽ tái lâm xét xử nhân lọai theo tiêu chuẩn thực thi bác ái chia sẻ và phục vụ tha nhân. Ai sống trong yêu thương, người đó sẽ được sống lại và hưởng hạnh phúc trường sinh, còn kẻ “ghét anh em chính là kẻ sát nhân” (1 Ga 3,15) cũng sống lại để chịu hình phạt “khóc lóc và nghiến răng” (x Mt 25,31-46). Còn “Ai làm cho người ta nên công chính sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao”(Đn 12,3). Chia sẻ bác ái phục vụ tha nhân là cách tốt nhất để chuẩn bị cho ngày Chúa đến.

– Ma-ra-na-tha: Lạy Chúa Ki-tô, xin hãy đến:

Các tín hữu thời Hội Thánh sơ khai đã mong ước ngày trở lại của Chúa qua lời cầu nguyện: “Ma-ra-na-tha – Lay Chúa Giê-su, xin ngự đến” (Kh 22,20). Trong Thánh lễ, sau khi truyền phép, các tín hữu chúng ta cũng dâng lời xin: ”Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết, và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến”. 

Mỗi người chúng ta hãy chuẩn bị cho ngày Chúa đến, bằng việc dâng ngày mỗi sáng khi vừa thức giấc, và trong ngày hãy chu toàn việc bổn phận trong gia đình và ngoài xã hội. Hãy làm mọi việc để “Làm vinh danh Thiên Chúa và vì phần rỗi các linh hồn”, kèm theo một lời nguyện tắt như sau: “Lạy Chúa Ki-tô, xin hãy đến“.

  1. LỜI CẦU:

Lạy Chúa Giê-su, xin ban cho chúng con một quả tim mới và một thần trí mới để chúng con sẵn sàng góp phần xây dựng Hội Thánh và phục vụ Chúa trong mọi người ngay từ hôm nay. Xin cho chúng con sẵn lòng chấp nhận các đau khổ trái ý xảy đến để thành tâm sám hối tội lỗi, khử trừ các thói hư và tích cực góp phần làm cho gia đình, cộng đòan, xã hội… ngày một công bình yêu thương và bình an hoan lạc hơn, hầu đón chờ ngày Chúa sẽ tái lâm để biến đổi trần gian thành “Trời Mới Đất Mới” là thiên đàng.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ)XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

LM ĐAN VINH – HHTM

 

HIỆP SỐNG TIN MỪNG

LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

Mt 10,26-33

DŨNG CẢM LÀM CHỨNG CHO CHÚA

  1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,32-33).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) CUỘC TỬ ĐẠO CỦA THÁNH AN-RÊ TRẦN AN DŨNG LẠC

TRẦN AN DŨNG LẠC sinh năm 1795, gia đình ngoại giáo nghèo khó ở Bắc Ninh. Lớn lên, cậu theo cha mẹ đến xứ Kẻ Chợ sinh sống. Tại đây, cậu được một Thầy giảng nhận làm con nuôi và cho ăn học. Cậu được chịu phép rửa tội và nhận tên thánh là AN-RÊ. Sau đó cậu đáp lại ơn gọi dâng mình cho Chúa và theo học tại chủng viện Vĩnh Trị. Thầy An-rê Dũng được thụ phong linh mục vào năm 1823 khi mới có 28 tuổi. Từ khi thụ phong linh mục, cha An-rê được sai đi giúp xứ. Ở đâu cha cũng nêu gương sáng đạo đức qua cuộc sống khổ hạnh. Ngoài những ngày ăn chay theo luật định, Cha còn tự nguyện giữ chay thêm suốt cả Mùa Chay và các ngày thứ Sáu thứ Bảy hàng tuần. Nhờ đời sống đơn sơ khiêm hạ và khắc khổ như vậy, nên cha đã gây được thiện cảm của những người chung quanh và thành công trên bước đường tông đồ: Qua cha, nhiều tội nhân đã được ơn giao hòa với Chúa và nhiều người lương đã tin theo Chúa và xin gia nhập đạo Công giáo.

Trong thời gian đạo Công giáo bị bách hại gắt gao thời vua Minh Mạng, cha An-rê Dũng đã phải trốn lánh nhiều nơi. Một lần kia ở Kẻ Roi, khi vừa dâng lễ xong thì bị quan quân vây bắt và được giáo dân chuộc về. Sau đó cha đã đổi tên Trần An Dũng thành Trần An Lạc. Lần thứ hai cha bị bắt ở xứ Kẻ Sông khi đang xưng tội với cha Phêrô Thi. Hai cha bị quan quân đòi tiền chuộc tới 200 quan tiền. Nhưng giáo dân chỉ quyên góp được một nửa số tiền nói trên, nên chỉ mình cha Lạc được thả. Rồi sau đó cha lại bị đám quân lính khác bắt mang về huyện giam chung với cha Phêrô Thi và cả hai được áp giải về Hà Nội.

Hôm sau, quan án cho điệu hai cha ra công đường tra xét và bắt phải bước qua Thánh Giá để bày tỏ ý định bỏ đạo. Nhưng thay vì làm theo lệnh quan, hai cha lại cùng quì xuống hôn kính Thánh Giá và nói: “Không bao giờ chúng tôi chối Chúa và bỏ đạo cả. Chúng tôi đã suốt đời hy sinh vất vả đem Chúa đến cho người khác, thì lẽ nào bây giờ lại hèn nhát chối bỏ Chúa!”. Trước sự bất tuân của hai cha, quan tức giận sai lính đem nhốt các ngài vào ngục thất và làm thành án gửi về Kinh. Suốt thời gian ở trong tù, hai cha luôn cầu nguyện và ăn chay hãm mình, xin Chúa cho được ơn bền đỗ đến cùng. Tuy giáo dân được phép thăm nuôi hằng ngày, nhưng hai cha yêu cầu họ đừng đem đồ ăn ngon đến, và nếu bữa nào có thịt cá thì các ngài lại cho các bạn tù hoặc lính canh.

Ngày 21 tháng 12 năm 1839, hai cha đã chính thức nghe án lệnh xử trảm của nhà vua. Rồi các ngài bị điệu ra pháp trường Cầu Giấy ở Hà Nội. Đến nơi, các ngài cầu nguyện ít phút, rồi cúi đầu cho lý hình dễ dàng thi hành phận sự. Đức Thánh Cha Lêô 13 đã tôn phong các ngài lên hàng Chân Phước tử đạo vào ngày 27 tháng 05 năm 1900. Và ngày 19 tháng 06 năm 1988, Đức Thánh Cha Gio-an Phaolô II đã suy tôn hai ngài lên bậc hiển thánh.

2) CUỘC TỬ ĐẠO CỦA BÀ THÁNH I-NÊ ĐÊ:

Quan Tổng Đốc Trịnh Quang Khanh đích thân chỉ huy 500 lính đột xuất bao vây làng Phúc Nhạc, Ninh Bình, vào đúng sáng ngày lễ Phục Sinh (14.04.1841). Quan truyền tập trung giáo dân lại để quân lính lục soát từng nhà… Cha Lý được ông Trùm Cơ đưa sang vườn nhà bà Đê ở sát bên. Bà Đê chỉ cho cha đường mương khô ở sau vườn cạnh một bụi tre: “Xin Cha ẩn dưới rãnh này, Đức Chúa Trời gìn giữ thì Cha thoát, bằng không Cha và con đều bị bắt.” Nói xong bà cùng con gái Lucia Nụ, lấy rơm và cành khô che phủ lên, nhưng quân lính đã trông thấy Cha chạy qua vườn nhà bà, nên họ đến bắt cha Lý và bà Đê, chủ nhà. Ông Trùm Cơ, bốn hương chức trong làng và hai nữ tu Mến Thánh Giá Anna Kiêm và Anê Thanh cũng bị bắt. Tất cả bị trói mang gông điệu ra đình làng. Nhà bà Đê bị lục soát, thóc lúa, đồ dùng, tiền bạc đều bị lính lấy hết. Khi bị bắt, bà Đê rất sợ hãi, nhưng khi điệu bà ra đình làng thì gương mặt bà vui tươi và không có vẻ gì là sợ sệt nữa…

Quân lính áp giải các nạn nhân về Gia Định. Họ phải đi suốt đêm rất cực nhọc. Bà Đê sức yếu, không chịu nổi gông quá nặng, phải có người nâng đỡ nhiều lần. Tới thành Nam bà bị giam chung với hai nữ tu. Sáu ngày sau ra trước công đường, quan tòa bắt bà chối đạo bà đáp: “Tôi chỉ tôn thờ Thiên Chúa, không bao giờ tôi bỏ đạo Chúa muôn đời.” Các quan truyền đánh đòn bà. Lúc đầu lính đánh bằng roi, sau dùng củi lớn quật vào chân bà. Bà không nản lòng, khi chồng bà đến thăm, bà giải thích vì sao bà kiên tâm như vậy: “Họ đánh đập tôi vô cùng hung dữ, đến đàn ông còn không chịu nổi, nhưng tôi đã được Đức Mẹ giúp sức, nên tôi không cảm thấy đau đớn.” Đến lần thẩm vấn thứ hai, thứ ba thấy bà Đê vẫn một long trung kiên, quân lính được lệnh vừa đánh vừa lôi bà qua Thánh Gía. Nhưng bà sấp mình xuống đất, kêu lớn tiếng rằng: “Lạy Chúa, xin thương giúp con, con không bao giờ muốn chối bỏ lòng tin Chúa, nhưng vì con là đàn bà yếu đuối, nên họ dùng sức mạnh để để cưỡng bách con đạp lên Thập Giá.” Lần tiếp theo ra trước tòa, quan cho túm tay áo lại rồi thả rắn độc vào trong áo, nhưng bà Đê vẫn giữ được bình tĩnh cách lạ lùng. Bà đứng yên không hề nhúc nhích nên rắn không cắn, chỉ lượn vài vòng rồi bò ra. Các quan truyền đánh bà dữ hơn nữa rồi giam trong ngục. Nhưng bà đã kiệt sức, đi không nổi, phải có người dìu. Một nhân chứng về sau cho biết: “Bà I-nê Đê đã bị đánh đập tàn bạo đến nỗi thân mình đầy máu mủ. Tuy vậy bà vẫn vui vẻ, và còn muốn chịu khó hơn nữa.” Cô Lucia Nụ, đến thăm Mẹ trong ngục, thấy y phục thân mẫu loang lỗ máu, cô thương mẹ khóc nức nở, bà an ủi con bằng những lời tràn trề lạc quan: “Con đừng khóc nữa, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?” Bà còn khuyên: “Con hãy về chuyển lời mẹ bảo với anh chị em con coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh Giá chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên Đàng”…

Sau ba tháng bị giam cầm hy sinh vì đức tin, ngày 12.07.1841, trong giờ hấp hối người ta thường nghe bà A-nê Lê Thị Thành cầu nguyện: “Lạy Chúa, chúa đã chịu chết vì con, con hết lòng theo thánh ý Chúa. Xin Chúa tha mọi tội lỗi cho con”.

Vào lúc 9 giờ sáng ngày 19. 6. 1988 tại Rôma, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng tôn phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt Nam lên hàng hiển thánh, trong đó có thánh nữ I-nê Đê hay cũng gọi là bà thánh A-nê Lê Thị Thành (1781-1841).

  1. THẢO LUẬN:

1) Tại sao đạo Công giáo thường hay bị người đời thù ghét bách hại?

2) Tử đạo là sẵn sàng hy sinh chịu chết để làm chứng cho Chúa (x. Cv 1,8). Vậy các tín hữu chúng ta sẽ phải dũng cảm làm chứng cho Chúa thế nào trong xã hội Việt Nam hôm nay?

  1. SUY NIỆM:

1) SỐ LIỆU CÁC ANH HÙNG TỬ ĐẠO VIỆT NAM: Ngay từ thời Giáo Hội Sơ Khai, các tín hữu đã phải chịu chung số phận với Thầy Giê-su là bị cấm cách, bắt bớ và giết hại. Thời nào và nơi nào đạo được truyền tới cũng đều có các vị anh hùng tử đạo. Tại Việt Nam, theo sử liệu, đạo Chúa đã được truyền giảng từ thế kỷ thứ 16. Và suốt thời gian gần 300 năm sau đó (1580-1888), có khoảng 400.000 người bị án lưu đầy. Trong đó khoảng 130.000 người đã chết vì đạo, dưới các triều đại nhà Nguyễn: Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức và bị các phong trào Cần Vương, Văn Thân đàn áp bách hại. Trong số đó, 117 vị có đủ án tích lưu trữ đã được Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II tôn phong lên bậc hiển thánh và về sau một vị tên thày An-rê Phú Yên cũng được phong là Chân Phúc hay Á Thánh và cả 118 vị đã được mừng chung trong niên lịch của Hội Thánh hoàn cầu. Về thành phần các thánh Tử Đạo gồm: 8 Giám mục, 50 Linh mục, 59 tín hữu (16 Thầy giảng, 1 Chủng sinh và 42 giáo dân). Trong số 117 thánh tử đạo thì có 96 là người Việt Nam và 21 vị là thừa sai ngoại quốc.

Các ngài đã chịu nhiều cực hình như: 79 vị bị trảm quyết (chém đầu); 18 vị bị xử giảo (treo cổ); 8 vị bị chết rũ rù do đói khát bệnh tật khi bị giam trong ngục; 6 vị bị thiêu sinh (chết thiêu trong hỏa lò); 4 bị lăng trì – tức là phân thây ra từng mảnh; 1 bị tử thương và 1 bị bá đao tùng xẻo.

2) LÝ DO CÁC NGÀI BỊ VUA QUAN BÁCH HẠI:

Các thánh Tử Đạo bị vua quan và dân chúng thời đó thù ghét đàn áp giết hại không phải vì các ngài là những kẻ xấu làm điều gian ác, nhưng chỉ vì các ngài đã tin vào danh Đức Giê-su và đã dũng cảm tuyên xưng đức tin ấy, thể hiện qua thái độ bất khuất, không chịu bước qua thập giá theo lệnh vua quan, hầu ứng nghiệm lời Đức Giê-su đã tiên báo: “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thóat” (Mt 10,22).  

Đàng khác, vua quan và dân chúng thù ghét và ra tay bách hại các tín hữu chủ yếu là do hiểu lầm về giáo lý của đạo khi cho rằng theo đạo là vọng ngọai, là bất hiếu vì phải bỏ việc thờ cúng ông bà tổ tiên, đang khi thực ra không phải như vậy: điều răn thứ tư trong mười điều răn của đạo Chúa đã truyền dạy: con cái phải “thảo kính cha mẹ” và người tín hữu vừa phải chu tòan bổn phận thờ phượng một Thiên Chúa duy nhất lại vừa phải tôn kính và tỏ lòng biết ơn ông bà cha mẹ khi các ngài còn sống cũng như khi đã qua đời.

Nhưng lý do chính yếu khiến vua quan và các phong trào Cần Vương Văn Thân thời đó thù ghét bách hại các tín hữu là do tự ái dân tộc và hiểu lầm về lòng yêu nước của các tín hữu: Họ sợ người theo đạo sẽ bị các thừa sai ngọai quốc xúi giục làm lọan, trong khi các vị thừa sai ngọai quốc đã dám bỏ quê hương và từ giã người thân đến vùng đất xa xôi và chấp nhận hy sinh ngay cả mạng sống là do đức tin và lòng mến Chúa thôi thúc. Các ngài chỉ muốn chu tòan sứ vụ loan báo Tin Mừng của Đức Giê-su: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28,19-20); “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8b). Và quả thật, lịch sử đã ghi nhận: các thánh Tử Đạo Việt Nam đã bị vua quan kết án chỉ vì đức tin mà thôi chứ không do tội phản lọan theo giặc làm loạn chống phá triều đình.

3) GƯƠNG HY SINH CHẾT VÌ ĐỨC TIN CỦA CÁC NGÀI:

Ðọc lại tiểu sử các ngài, ta không khỏi cảm phục đức tin kiên cường của các ngài. Vì trung thành với Chúa, các ngài đã cam chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết chức quyền danh vọng, nhất là phải chịu muôn ngàn khổ hình, bị mất mạng sống vì đức tin.

Có những vị làm quan lớn trong triều đình như Hồ đình Hy; làm quan án như Phạm trọng Khảm… nhưng đã thà bị mất chức quyền, mất danh vọng hơn là mất Đức tin. Vì Chúa, các ngài đã từ bỏ mọi quyền lợi xã hội và còn sẵn sàng bị mất mạng sống.

Có những vị hàng nữ lưu như thánh A-nê Lê thị Thành, thân phận yếu đuối, mang gánh nặng gia đình, nhưng cũng sẵn sàng chịu mọi cực hình để minh chứng tình yêu đối với Chúa Giêsu.

Có những vị đầu xanh tuổi trẻ như Tô-ma Thiện, Phao-lô Bột, mới mười mấy tuổi đầu, tương lai còn dài, đường đời còn nhiều hứa hẹn. Nhưng các ngài đã khước từ tất cả, dâng hiến tuổi thanh xuân cho Chúa.

4) SỐNG CHỨNG NHÂN GIỮA ĐỜI THƯỜNG:

Bí quyết khiến các anh hùng Tử Đạo vượt qua gian nan thử thách là do các ngài biết “Sống sự sống của Chúa Giê-su trong thân xác yếu hèn của mình”. Đức Giê-su đã hứa sẽ ban Thánh Thần, giúp các môn đệ phải nói gì và nói thế nào khi bị điệu ra trước quan quyền (x Mt 10,19-20). Để được như vậy, các ngải đã phải mỗi ngày “Chết đi cho bản thân”, và sống trong ơn nghĩa của Đức Giê-su.

Ngày nay có lẽ chúng ta không có cơ hội làm chứng cho Chúa như các thánh Tử Đạo cha ông, nhưng chúng ta vẫn có thể trở thành chứng nhân của Chúa ngay giữa đời thường hằng ngày trong gia đình và ngoài xã hội:

– Để có thể sẵn sàng hy sinh mạng sống vì đức tin khi cần, thì ngay từ bây giờ chúng ta đã phải quyết tâm sống công bình bác ái khi giao tiếp với bà con chòm xóm hay khi  làm ăn buôn bán nơi phố chợ.

– Để có thể dũng cảm làm chứng cho Chúa trước mặt người đời khi có dịp, ngay từ bây giờ chúng ta đã phải là những người chồng người vợ tốt lành, luôn chu tòan trách nhiệm lo cho gia đình, đã phải hiếu thảo với tổ tiên ông bà cha mẹ.

– Để sau này có thể trở thành công dân của Nước Trời, thì ngay từ bây giờ chúng ta đã phải là những người công dân tốt ở trần gian, luôn chu tòan nghĩa vụ đối với quê hương đất nước và trở thành khí cụ bình an của Chúa bằng lối sống bác ái theo tinh thần “tám mối phúc thật” của Chúa Giê-su, được thánh Phan-xi-cô tóm lại trong Kinh Hòa Bình… Nhờ đó chúng ta sẽ gây được thiện cảm với anh em lương dân cùng khu phố hay làm việc chung trong công sở, trường học và nhà máy.

  1. NGUYỆN CẦU:

– Lạy Chúa, xưa Chúa đã dạy các môn đệ rằng: “Anh em sống giữa thế gian, nhưng không được theo thói thế gian”. Xin cho chúng con đừng bao giờ bỏ Chúa để chạy theo cám dỗ của thế gian, ma quỉ và chiều theo các đam mê xác thịt. Xin cho chúng con luôn ý thức rằng: “Con nhà tông không giống lông, cũng giống cánh”, để chúng con luôn xứng đáng là con cháu của các Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam. Xin cho chúng con luôn chiếu ánh sáng tin yêu trước mặt người đời: Biết nở nụ cười khi tiếp xúc, sẵn sàng cởi mở đi bước trước để làm quen với những người mới gặp, mở miệng an ủi những ai đang gặp tai nạn rủi ro; biết khiêm hạ phục vụ tha nhân, đặc biệt phục vụ những người đau khổ bất hạnh đang cần được cảm thông trợ giúp.

– Hát chung Kinh Hòa Bình của thánh Phan-xi-cô: “Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người… “

X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. -Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

LM ĐAN VINH – HHTM