Manna Lương Thực Hàng Ngày Tuần 2 Phục Sinh

print

Manna Lương Thực Hàng Ngày Tuần 2 Phục Sinh

Thứ Hai tuần 2 Phục Sinh.

Thứ Ba tuần 2 Phục Sinh.

Thứ Tư tuần 2 Phục Sinh.

Thứ Năm tuần 2 Phục Sinh.

Thứ Sáu tuần 2 Phục Sinh.

Thứ Bảy tuần 2 Phục Sinh.

 

ĐƯỢC SINH RA TỪ TRÊN

Thứ Hai tuần 2 Phục Sinh

Lời Chúa: Ga 3, 1-8

Khi ấy, trong nhóm Pharisêu, có một người tên là Nicôđêmô, một thủ lãnh của người Do Thái. Ông đến gặp Đức Giêsu ban đêm. Ông nói với Người: “Thưa Thầy, chúng tôi biết: Thầy là một vị tôn sư được Thiên Chúa sai đến. Quả vậy, chẳng ai làm được những dấu lạ Thầy làm, nếu Thiên Chúa không ở cùng người ấy.” Đức Giêsu trả lời: “Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra từ trên.” Ông Nicôđêmô thưa: “Một người đã già rồi, làm sao có thể sinh ra được? Chẳng lẽ người đó có thể trở vào lòng mẹ lần thứ hai để sinh ra sao?” Đức Giêsu đáp: “Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí. Cái bởi xác thịt sinh ra là xác thịt; cái bởi Thần Khí sinh ra là thần khí. Ông đừng ngạc nhiên vì tôi đã nói: các ông cần phải được sinh ra từ trên. Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy.

 

Suy niệm

Mùa Phục Sinh là thời gian những người dự tòng lãnh bí tích Thanh Tẩy.

Tuy họ là những người đã lớn khôn trưởng thành,

nhưng bí tích Thanh Tẩy đưa họ vào một cuộc sống mới,

cuộc sống như trẻ thơ được sinh lại nhờ Thánh Thần.

Để bước vào cuộc đời này, cần có một người cha sinh ra mình.

Để vào Nước Thiên Chúa, con người cần được Cha trên trời sinh ra.

Con người có sự sống đời này khi Chúa còn ban hơi thở tự nhiên.

Con người có sự sống vĩnh cửu khi được Chúa ban Thần Khí.

Bài Tin Mừng hôm nay nói về sự sinh ra bởi Thần khí, sinh ra từ trên.

Trong đêm tối, ông Nicôđêmô, một vị chức sắc của Thượng Hội Đồng,

đến gặp Đức Giêsu, người mà ông kính trọng gọi là Rabbi.

Ông tin Thầy Giêsu đến từ Thiên Chúa,

và vì Thầy có Thiên Chúa ở cùng nên Thầy mới làm được nhiều dấu lạ.

Có vẻ ông định hỏi Thầy về việc làm sao vào được Nước Thiên Chúa.

Đức Giêsu cho biết phải được sinh ra từ trên (anôthen).

Trong tiếng Hy lạp, anôthen còn có nghĩa là lại, lần nữa.

Có lẽ vì thế mà Nicôđêmô tưởng là Đức Giêsu nói đến việc sinh lại.

Chính vì thế ông nêu lên thắc mắc:

“Một người đã già rồi, làm sao người ấy có thể được sinh lại lần nữa.”

Dĩ nhiên chúng ta không cần phải vào lòng mẹ lần thứ hai.

Nhưng Kitô hữu thực sự phải là người đã được sinh ra bởi Thần Khí.

Tương tự như gió ở chung quanh ta.

Chúng ta chỉ có thể thấy những hậu quả của gió, nhưng không thấy được gió.

Người được sinh bởi Thần Khí cũng vậy.

Chúng ta cũng không rõ cách thức Thần Khí hoạt động nơi người ấy,

nhưng chúng ta nhìn thấy sự biến đổi sâu xa nơi cuộc đời mỗi người.

Mùa Phục Sinh là thời gian của sự sống.

Chúng ta đã được sinh lại từ khi lãnh nhận Phép Rửa.

Hãy để cho sự sống đó được làm mới lại và được lớn lên từng ngày.

Hãy để Thần Khí của Đấng Phục Sinh nâng chúng ta lên cao,

để chúng ta thực sự là những người được sinh ra từ trên.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh

xin ban cho con sự sống của Chúa,

sự sống làm đời con mãi mãi xanh tươi.

Xin ban cho con bình an của Chúa,

bình an làm con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời.

Xin ban cho con niềm vui của Chúa,

niềm vui làm khuôn mặt con luôn tươi tắn.

Xin ban cho con hy vọng của Chúa,

hy vọng làm con lại hăng hái lên đường.

Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa,

Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời con. Amen.

 

AI TIN ĐƯỢC SỐNG MUÔN ĐỜI

Thứ Ba tuần 2 Phục Sinh

Lời Chúa: Ga 3, 7b-15

Khi ấy, Đức Giêsu nói với ông Nicôđêmô rằng: “Các ông cần phải được sinh ra từ trên. Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy.” Ông Nicôđêmô hỏi Người: “Làm sao những chuyện ấy có thể xảy ra được?” Đức Giêsu đáp: “Ông là bậc thầy trong dân Israel, mà lại không biết những chuyện ấy! Thật, tôi bảo thật ông: chúng tôi nói những điều chúng tôi biết, chúng tôi làm chứng về những điều chúng tôi đã thấy, nhưng các ông không nhận lời chứng của chúng tôi. Nếu tôi nói với các ông về những chuyện dưới đất mà các ông còn không tin, thì giả như tôi nói với các ông về những chuyện trên trời, làm sao các ông tin được? Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống. Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.”

 

Suy niệm

Con người hôm nay vừa bị hấp dẫn bởi cái chết,

vừa bị lôi kéo bởi cuộc sống đời này.

Cuộc sống hôm nay cho chúng ta nhiều tiện nghi thoải mái.

Nó mời chúng ta hưởng thụ, mua sắm, tiêu dùng.

Luôn luôn xuất hiện những mẫu mã mới hơn, tốt hơn, đẹp hơn.

Con người vất vả làm việc để có thể mua được món hàng do mình chế tạo.

Cuộc sống vừa dễ chịu hơn, vừa mệt mỏi hơn bởi vô số những nhu cầu.

Con người hôm nay có hạnh phúc hơn xưa không?

Những thức ăn trần thế có đủ làm con người mãn nguyện không?

Người Kitô hữu quý chuộng cuộc sống ở trần thế này,

nhưng họ hiểu tính chất mau qua và tương đối của nó.

Như Đức Giêsu, họ cũng phải đi qua cuộc sống đời này,

nếm đủ mọi mùi vị của phận người, chịu đựng mọi khó khăn thách đố,

trước khi về với điểm đến chung cục là cuộc sống đời sau.

Thiên đàng, Nước Thiên Chúa hay sự sống vĩnh cửu

là những từ diễn tả hạnh phúc đang chờ đợi người Kitô hữu sau cái chết.

Họ biết mình từ đâu đến và biết mình sẽ đi đâu.

Họ biết phân biệt những ga xép với đích đến cuối cùng.

Trong bài Tin Mừng hôm qua, Đức Giêsu khẳng định

chẳng ai được vào Nước Thiên Chúa nếu không được sinh ra bởi Thần Khí.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài lại khẳng định:

“Ai tin vào Con Người thì có sự sống vĩnh cửu” (c.15).

Vào Nước Thiên Chúa đồng nghĩa với có sự sống vĩnh cửu.

Như Môsê giương cao con rắn trong sa mạc để ai nhìn lên thì được khỏi,

Con Người cũng phải được giương cao để ai tin thì được sự sống vĩnh cửu.

Sự sống vĩnh cửu là hoa quả của mầu nhiệm được giương cao.

Đức Giêsu được giương cao khi bị treo trên thập giá,

được giương cao khi được Cha Phục Sinh,

và được giương cao khi được Cha đưa về trời.

Chính vì Đức Giêsu bị đóng đinh, được Phục Sinh và về trời

nên chúng ta được sinh lại từ trên nhờ Thần Khí,

được vào Nước Thiên Chúa và có sự sống vĩnh cửu.

Kitô hữu là người đang trên đường về quê hương đích thật.

Đấng từ trời xuống nay đã lên trời (c. 13),

và lôi kéo chúng ta lên với Ngài (Ga 12, 32).

Làm thế nào chúng ta thoát khỏi sức kéo xuống của vật chất?

Làm thế nào chúng ta sống nhẹ nhàng hơn để kéo thế giới quanh ta bay lên?

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh

Chúa đã sống đến cùng cuộc Vượt qua của Chúa,

xin cho con biết sống

cuộc Vượt qua mỗi ngày của con,

Vượt qua sự nhỏ mọn và ích kỷ.

Vượt qua những đam mê đang kéo ghì con xuống.

Vượt qua nỗi sợ khổ đau và nhục nhã.

Vượt qua đêm tăm tối cô đơn của Vườn Dầu.

Vượt qua những khắc khoải của niềm tin.

Vượt qua những thành kiến con có về người khác…

Chính vì Chúa đã Phục Sinh

nên con vui sướng và can đảm vượt qua,

dù phải chịu mất mát và thua thiệt.

Ước gì con biết noi gương Chúa Phục Sinh

gieo rắc khắp nơi bình an và hy vọng,

tin tưởng và niềm vui.

Ước gì ai gặp con

cũng gặp thấy sự sống mãnh liệt của Chúa.

 

THIÊN CHÚA YÊU THẾ GIAN

Thứ Tư tuần 2 Phục Sinh

Lời Chúa: Ga 3, 16-21

Khi ấy, Đức Giêsu nói với ông Nicôđêmô rằng: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa. Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.”

Suy niệm

Khi nghĩ về Thiên Chúa, người ta hình dung ra Ngài với nhiều khuôn mặt.

Có khi Thiên Chúa giống một ông cảnh sát, luôn để ý theo dõi để trừng phạt,

hay như một quan tòa cứ theo pháp luật mà kết án nghiêm minh.

Có khi Thiên Chúa giống một nhà buôn, tính toán sòng phẳng,

chỉ ban ơn khi nhận được một lợi lộc nào đó, có qua có lại.

Có khi Thiên Chúa giống một nhà độc tài, áp đặt quyền lực trên con người,

không cho con người được tự do, bắt con người phải theo một định mệnh có sẵn.

Có khi Thiên Chúa như một thứ ô dù để người ấu trĩ dựa dẫm trong lúc khó khăn,

hay như một sản phẩm của người bị áp bức tự ru ngủ mình.

Có bao nhiêu hình ảnh méo mó về Thiên Chúa như vậy.

May mắn đó không phải là khuôn mặt Thiên Chúa của các Kitô hữu.

Ngài chẳng phải là cảnh sát hay quan tòa, là nhà buôn hay nhà độc tài.

Ngài cũng chẳng phải là người cha độc đoán không muốn cho con mình khôn lớn.

Đơn giản Thiên Chúa là Tình Yêu (1 Ga 4, 8).

Và Tình Yêu vô lượng ấy được thể hiện bằng hành động:

“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…” (c. 16).

Tình yêu của Thiên Chúa Cha ôm lấy thế gian, dù nó nghiêng chiều về sự dữ.

Như Abraham yêu quý đứa con một là Isaac, và đã chịu sát tế con cho Chúa,

Thiên Chúa Cha cũng yêu quý người Con Một của Ngài là Đức Giêsu,

và đã trao ban người Con ấy cho thế gian.

Cha trao ban Con khi sai Con vào đời mang thân phận xác phàm (Ga 1, 14).

Cha còn trao ban Con cho thế gian qua cái chết của Con trên thập giá.

Nơi máng cỏ Bêlem hay nơi đồi Sọ,

ta thấy Cha đưa hai tay ra để trao món quà tình yêu quý giá nhất cho loài người.

Và Cha chờ con người đáp lại bằng cách đưa hai tay đón nhận.

Con người vẫn có tự do để đón nhận hay từ chối món quà ấy

qua việc tin hay không tin Đức Giêsu.

Đứng trước Đức Giêsu, Con Một Thiên Chúa,

là đứng trước một chọn lựa nghiêm chỉnh có liên quan đến vận mệnh con người.

Ai tin vào Ngài thì có ánh sáng, ơn cứu độ và sự sống vĩnh cửu (cc. 16.17.19).

Tiếc thay có kẻ ghét ánh sáng và thích bóng tối hơn ánh sáng.

Hãy từ bỏ những việc làm tối tăm, dối trá, xấu xa,

bạn sẽ dễ dàng đến cùng ánh sáng Giêsu.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

ánh sáng và bóng tối thì dễ phân biệt,

còn bóng mờ thì khó nhận ra hơn.

Con đã mạnh dạn khước từ bóng tối

nhưng khi nhìn thật sâu vào lòng mình,

con vẫn thấy có nhiều bóng mờ tác động.

Con an tâm ở lại trong bóng mờ,

vì thấy đó chưa phải là một tội.

Nhưng con cũng áy náy

vì biết rằng bóng mờ là nơi

ánh sáng Chúa chưa thấm nhập trọn vẹn.

Con không muốn bóng mờ thành ánh sáng,

vì con vẫn muốn giữ lại

một điều gì đó rất quý đối với con.

Xin giải phóng con khỏi những tình cảm lệch lạc

để con được tự do yêu mến và phụng sự Chúa hơn.

Xin chinh phục những bóng mờ trong lòng con

để con được thuộc trọn về Chúa.

Xin kéo con ra khỏi thái độ lấp lửng, nước đôi,

để dứt khoát đặt Chúa trên mọi sự.

Ước gì con có đủ can đảm để dám nhìn thẳng

vào những bóng mờ trong đời con.

Và ước gì con được trở nên trong suốt

nhờ để ánh sáng Chúa

tràn ngập mọi vùng mờ tối nơi con. Amen.

 

ĐẤNG TỪ TRÊN CAO MÀ ĐẾN

Thứ Năm tuần 2 Phục Sinh

Lời Chúa: Ga 3, 31-36

Khi ấy, ông Gioan nói để làm chứng về Chúa Giêsu rằng: “Đấng từ trên cao mà đến thì ở trên mọi người; kẻ từ đất mà ra thì thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất. Đấng từ trời mà đến thì ở trên mọi người; Người làm chứng về những gì Người đã thấy đã nghe, nhưng chẳng ai nhận lời chứng của Người. Ai nhận lời chứng của Người, thì xác nhận Thiên Chúa là Đấng chân thật. Quả vậy, Đấng được Thiên Chúa sai đi, thì nói những lời của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho Người vô ngần vô hạn. Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Người. Ai tin vào người Con thì được sự sống đời đời; còn kẻ nào không chịu tin vào người Con thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy.”

Suy niệm

Giêsu ơi! Ngài từ đâu đến?

Tôi là Đấng từ trên cao mà đến.

Tôi là Đấng từ trời mà đến (c.31).

Tôi sinh ra trên đất, sống trên đất, chết trên đất.

Nhưng tôi không thuộc về đất, đất không phải là gốc của tôi.

Gốc của tôi ở nơi cung lòng Thiên Chúa (Ga 1, 18).

Dù cư ngụ trên mặt đất, tôi vẫn luôn hướng về Cha tôi trên trời.

Khi làm xong sứ mạng, tôi sẽ trở về với gốc của tôi.

Giêsu ơi! Ngài làm gì vậy?

Tôi làm chứng về điều tôi đã thấy và đã nghe (c. 32).

Tôi làm chứng về Thiên Chúa là Cha của tôi.

Tôi đã thấy việc Người làm và đã nghe tiếng Người nói.

Nhiều vĩ nhân diễn tả rất hay, rất đúng về Thiên Chúa

và cũng có kinh nghiệm rất sâu về Người.

Nhưng họ không phải là Con như tôi.

Họ chẳng thể nào gần mầu nhiệm Thiên Chúa như tôi.

Chẳng ai biết Cha bằng Con, không ai biết Cha trừ ra Con (Lc 10, 22).

Chỉ mình tôi mới có thể vén mở trọn vẹn khuôn mặt Thiên Chúa.

Giêsu ơi! Ngài là ai?

Tôi là người được Thiên Chúa sai đến với nhân loại trên mặt đất (c. 34).

Chẳng có giây phút nào tôi quên mình là Con, người được sai.

Chẳng có giây phút nào tôi quên Cha tôi là Đấng sai tôi.

Khi nhận mình triệt để tùy thuộc vào Cha, tôi chẳng hề xấu hổ.

Tôi đáng tin vì chính sự tùy thuộc đó.

Tôi chẳng làm điều gì tự mình,

tôi chỉ làm điều tôi đã thấy Cha tôi làm (Ga 5, 19).

Tôi chẳng nói điều gì tự mình,

tôi chỉ nói điều tôi đã nghe Cha tôi nói (Ga 8, 26).

Chính khi tôi tùy thuộc trọn vẹn vào Cha mà tôi được tự do.

Giêsu ơi! Ngài có hạnh phúc không?

Tôi hạnh phúc vì tôi yêu và được yêu.

Cha tôi yêu mến tôi và tôi ở lại trong tình yêu của Cha (Ga 15, 10),

Người vẫn ở với tôi và không để tôi cô độc (Ga 8, 29).

Người yêu mến tôi vì tôi dám hy sinh mạng sống cho đoàn chiên (Ga 10, 17).

Tình yêu của Cha thể hiện qua việc Người trao phó mọi sự trong tay tôi (c. 35).

Tôi có quyền phán xét, quyền cho sống lại ngày sau hết, quyền trên mọi xác phàm.

Bởi vậy tôi mới nói mọi sự Cha có là của tôi (Ga 16, 15).

Hãy đón nhận lời chứng của tôi (c. 33).

Hãy tin vào tôi để được sự sống vĩnh hằng ngay từ đời này (c. 36).

Hãy đến với tôi để được chia sẻ cùng một sứ mạng và vinh quang.

Cầu nguyện

Lạy Cha,

con phó mặc con cho Cha,

xin dùng con tùy sở thích Cha.

Cha dùng con làm chi, con cũng xin cảm ơn.

Con luôn sẵn sàng, con đón nhận tất cả.

Miễn là ý Cha thực hiện nơi con

và nơi mọi loài Cha tạo dựng,

thì, lạy Cha, con không ước muốn chi khác nữa.

Con trao linh hồn con về tay Cha.

Con dâng linh hồn con cho Cha,

lạy Chúa Trời của con,

với tất cả tình yêu của lòng con,

Vì con yêu mến Cha,

vì lòng yêu mến

thúc đẩy con phó dâng mình cho Cha,

thúc đẩy con trao trọn bản thân về tay Cha,

không so đo,

với một lòng tin cậy vô biên,

vì Cha là Cha của con. Amen.

(Charles de Foucauld)

 

ĂN BAO NHIÊU TÙY Ý

Thứ Sáu tuần 2 Phục Sinh

Lời Chúa: Ga 6, 1-15

Khi ấy, Đức Giêsu sang bên kia Biển Hồ Galilê, cũng gọi là Biển Hồ Tibêria. Có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm. Đức Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ. Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do thái. Ngước mắt lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Philípphê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi. Ông Philípphê đáp: “Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút.” Một trong các môn đệ, là ông Anrê, anh ông Simôn Phêrô, thưa với Người: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!” Đức Giêsu nói: “Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi.” Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta ngồi xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. Vậy, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý. Khi họ đã no nê rồi, Người bảo các môn đệ: “Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi.” Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng. Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm thì nói: “Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!” Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.

 

Suy niệm

Có người coi tôn giáo như một thứ duy tâm, duy linh,

chỉ để ý đến chuyện linh hồn, chuyện đời sau,

mà hững hờ với cái đói cái no của thân xác, với chuyện áo cơm thường nhật.

Kitô giáo hẳn không phải là thế.

Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã khai mở Nước Thiên Chúa trên trần gian

không phải chỉ bằng việc rao giảng như một thầy dạy,

mà còn bằng việc chữa bệnh thân xác như một thầy thuốc.

Ơn cứu độ do Ngài mang lại có tính toàn diện, cả xác lẫn hồn,

và ơn cứu độ ấy đã bắt đầu ngay từ đời này rồi.

Trong Mùa Phục Sinh, Giáo hội cho ta nghe đọc chương 6 của Tin Mừng Gioan,

bởi lẽ chương này nói về Đức Giêsu là Bánh hằng sống, Bánh ban sự sống.

Chương này khởi đầu bằng phép lạ hóa bánh ra nhiều.

Phép lạ diễn ra ở bên kia hồ Galilê, vào mùa xuân, cỏ mọc xanh mướt.

Đám đông đến với Đức Giêsu đang ở trên núi với các môn đệ.

Tất cả bắt đầu bằng câu hỏi bất ngờ của Thầy Giêsu:

“Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”

Các câu trả lời của hai ông Philípphê và Anrê thật đáng thất vọng.

Hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ mỗi người một chút (c. 7).

Năm cái bánh lúa mạch và hai con cá khô thì thấm vào đâu (c. 9).

Nhưng Đức Giêsu lại cần năm cái bánh và hai con cá đó.

Ngài đón nhận sự đóng góp của con người, dù là rất nhỏ mọn.

Nhỏ mọn nhưng là tất cả những gì tìm được ở chốn hoang vu này.

Không có sự đóng góp của một em bé, không chắc phép lạ đã xảy ra.

Khi mọi người đã ngồi xuống trên cỏ theo lệnh các tông đồ,

Đức Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn và phân phát cho họ.

Chắc các tông đồ đã giúp Ngài phân phát đến tay dân.

Chính khi bẻ ra để phân phát thì bánh và cá hóa nhiều.

Chúng ta không hiểu được điều gì đang diễn ra.

Mầu nhiệm chia sẻ vẫn làm chúng ta ngỡ ngàng, sửng sốt.

Chia sẻ là biến điều ít ỏi ta đang có trở thành kho báu vô tận cho mọi người.

Chia sẻ làm chúng ta chẳng vơi đi, nhưng còn mãi.

Hơn năm ngàn con người đã được ăn tùy ý, được no nê, được dư thừa.

Gần một tỷ con người sống trên trái đất hôm nay cũng mong được như vậy.

Đức Thánh Cha coi việc liên đới chia sẻ

như một cách thức để thoát ra khỏi nạn khủng hoảng kinh tế toàn cầu.

Ước gì việc chúng ta chia sẻ Tấm Bánh thánh trong nhà thờ

giúp chúng ta tiếp tục chia sẻ những tấm bánh vật chất ngoài cuộc sống.

Cầu nguyện

Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:

Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này

là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.

Con mơ ước

không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng,

bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.

Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp,

không còn những cô gái đứng đường

hay những người ăn xin.

Con mơ ước

những ngưòi thợ được hưởng lương xứng đáng,

các ông chủ coi công nhân như anh em.

Con mơ ước

tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình,

các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.

Lạy Chúa của con,

con ước mơ một thế giới đầy màu xanh,

xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển,

và xanh của bao niềm hy vọng

nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.

Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ,

thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó. Amen.

 

CHÍNH THẦY ĐÂY

Thứ Bảy tuần 2 Phục Sinh

Lời Chúa: Ga 6, 16-21

Chiều đến, các môn đệ xuống bờ Biển Hồ, rồi xuống thuyền đi về phía Caphácnaum bên kia Biển Hồ. Trời đã tối mà Ðức Giêsu chưa đến với các ông. Biển động, vì gió thổi mạnh. Khi đã chèo được chừng hai mươi lăm hoặc ba mươi chặng đường, các ông thấy Ðức Giêsu đi trên mặt Biển Hồ và đang tới gần thuyền. Các ông hoảng sợ. Nhưng Người bảo các ông: “Chính Thầy đây, đừng sợ!” Các ông muốn rước Người lên thuyền, nhưng ngay lúc đó thuyền đã tới bờ, nơi các ông định đến.

 

Suy niệm

Vào thời Đức Giêsu, người ta chờ Thiên Chúa sai đến một vị vua.

Vị Vua này chính là một Đấng Mêsia hùng mạnh, toàn thắng,

Đấng sẽ giải phóng dân khỏi ách nô lệ của người Rôma.

Sau khi Đức Giêsu cho dân chúng được ăn no nê một cách kỳ diệu,

họ nghĩ ngay Ngài chính là người họ mong đợi từ lâu.

Họ toan bắt Ngài để tôn làm vua,

làm người đứng lên lãnh đạo phong trào cách mạng (Ga 6, 15).

Nhưng Đức Giêsu đã chối từ sự mong mỏi của dân chúng.

Ngài trốn lên núi một mình.

Đức Giêsu biết mình không phải là một Mêsia đầy quyền lực,

để giải phóng dân Israel khỏi ách của người Rôma.

Nhưng Ngài sẽ là một Mêsia như người Tôi Trung đau khổ,

chịu chết ô nhục và sống lại để giải phóng nhân loại khỏi ách tội lỗi.

Dân chúng hẳn đã bị hụt hẫng khi thấy Đức Giêsu trốn đi.

Các môn đệ chắc đã tiếc ngẩn tiếc ngơ,

vì Thầy bỏ qua cơ hội ngàn năm một thuở để tỏ mình cho dân Israel,

và chính họ cũng mất đi một cơ hội để tiến thân.

Tin Mừng của thánh Gioan không nói cho ta biết tại sao sau đó

các môn đệ lại chèo thuyền qua Caphácnaum, ở bờ bên kia (c. 16).

Nhưng theo Tin Mừng Máccô, Đức Giêsu đã bắt buộc họ (Mc 6, 45).

Ngài rõ ràng không muốn họ dính dáng vào chuyện chính trị này.

Bị Thầy bắt qua lại bờ bên kia khi chiều đã sụp tối,

trong khi dân chúng và Thầy còn ở bờ bên này,

điều ấy chẳng dễ chịu chút nào cho các môn đệ.

Họ muốn ở lại hưởng chút dư vị của thành công vang dội vừa rồi.

Dù sao các môn đệ đã biết vâng phục.

Chuyến đi qua biển hồ cũng không suôn sẻ gì.

Họ phải chiến đấu với trận cuồng phong bất ngờ gây biển động.

Con thuyền bé nhỏ lênh đênh giữa sóng gió gào thét.

Cả nhóm gặp nguy hiểm mà không có Thầy trong thuyền.

Họ đã cố chèo được chừng năm, sáu cây số.

Có thể họ tự hỏi: tại sao Thầy lại vội sai mình ra khơi giữa đêm đen?

Cuối cùng Thầy Giêsu cũng đến với họ như họ mong ước.

Nhưng Thầy không đến trên một chiếc thuyền như họ nghĩ.

Thầy đi trên mặt biển mà đến gần thuyền các ông (c. 19).

Cách đến của Thầy thật khác thường khiến họ hoảng sợ.

Có thể họ chưa nhận ra khuôn mặt của Thầy vì trời tối.

“Thầy đây mà, đừng sợ!”, Đức Giêsu vội vã trấn an.

Giáo Hội hôm nay cũng có kinh nghiệm như nhóm môn đệ ngày xưa,

vất vả một mình chống chọi với sóng gió, khi không có Thầy ở bên.

Nhưng khi Chúa đến, chúng ta lại hoảng sợ, không nhận ra Ngài.

Thật ra Chúa chẳng bỏ chúng ta, dù có lúc Ngài để chúng ta một mình.

Phải tập quen dần với những cách xuất hiện mới mẻ của Chúa

để nhận ra Ngài vẫn có mặt trong thế giới hôm nay.

Cầu nguyện

Lạy Chúa,

xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin

để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,

nơi khuôn mặt khốn khổ

của tất cả những người bị thử thách:

những kẻ đói, không chỉ vì thiếu của ăn,

nhưng vì thiếu Lời Chúa;

những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,

nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật, công bằng và tình thương;

những kẻ vô gia cư,

không chỉ tìm kiếm một mái nhà,

nhưng còn tìm một con tim hiểu biết, yêu thương;

những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,

không chỉ trong thân xác,

nhưng còn trong tinh thần nữa,

bằng cách thực thi lời hy vọng này:

“Điều mà ngươi làm

cho người bé mọn nhất trong anh em

là làm cho chính Ta”.Amen.

(Thánh Têrêxa Calcutta)