Tìm Hiểu Lời Chúa Chúa Nhật 2 Phục Sinh, Năm C

Tìm Hiểu Lời Chúa Chúa Nhật 2 Phục Sinh, Năm C

Tuần Bát nhật Phục Sinh là tám ngày, từ Chúa nhật Phục Sinh đến Chúa nhật thứ hai Phục Sinh, theo cách người ta vẫn tính. Hôm nay, Chúa Giêsu Phục Sinh lại hiện đến với các Tông đồ lần thứ hai tại Phòng Trên (Ga 20,26-29). Trong thời gian 8 ngày vừa qua, Giáo hội đã trình bày cho chúng ta những câu chuyện Tin mừng về Chúa Phục Sinh. Hôm nay cũng được gọi là Chúa nhật về lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Đó là một lễ trọng được thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II thiết lập vào năm 2000 khi ngài phong thánh cho thánh nữ Faustina Kowalska và tuyên bố, Chúa nhật thứ hai Phục Sinh hằng năm là Chúa nhật kính lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Ngày lễ hôm nay mời gọi tất cả chúng ta hãy luôn tín thác vào Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, qua cảm nghiệm của thánh nữ Faustina Kowalska, người đã nhận được nhiều thị kiến và đã được trò chuyện với Chúa Cứu Thế. Trong ngày lễ này, Chúa Phục Sinh hứa ban nhiều ơn lành cho những ai có lòng sùng kính và tín thác vào Người, và Giáo hội cũng ban ơn toàn xá cho những ai kính Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.

 

BÀI ĐỌC 1: Cv 5,12-16

Cộng đoàn tín hữu sơ khai

Trước khi cho chúng ta biết về việc truyền bá Tin Mừng đến tận cùng trái đất, Luca, tác giả của sách Công vụ Tông đồ, trình bày về cộng đoàn lý tưởng ở Giêrusalem. Ông nhấn mạnh đến sự hiệp nhất của họ, việc cùng nhau cầu nguyện của họ, quyền sở hữu chung của họ đối với tất cả tài sản, lòng quảng đại của họ đối với những người thiếu thốn và sự kiên định của họ trước sự đàn áp của chính quyền, những người từ chối đón nhận sứ điệp của họ. Đó là khuôn mẫu cho bất kỳ cộng đoàn Kitô hữu nào. Đó là một trung tâm thực sự của tình yêu và lòng tin cậy vào Chúa Kitô. Các cộng đoàn Kitô hữu chúng ta cần phải cố gắng noi gương. Trong bài đọc hôm nay, tác giả cho biết trong cộng đoàn sơ khai, các tông đồ và đặc biệt là ông Phêrô đã thực hiện những dấu lạ và điềm thiêng về việc chữa bệnh như thế nào, những việc mà chính Chúa Giêsu đã làm. Đây chính là chủ đề xuyên suốt trong sách Công vụ Tông đồ: các môn đệ của Chúa Giêsu, được đầy ơn Thánh Thần, tiếp tục công việc và sống đời sống của Người, bày tỏ quyền năng của Chúa Kitô Phục Sinh cho thế giới, Đấng luôn ở với họ. Luca cũng muốn nhấn mạnh rằng Giêrusalem được trao cho cơ hội thứ hai: họ đã khước từ Chúa Giêsu, nhưng bây giờ được trao cơ hội thứ hai dưới tay các tông đồ của Người, là những nhân chứng cho biến cố Phục Sinh của Chúa Giêsu. Do đó tác giả nhận xét rằng số các tín hữu tăng lên đều đặn. Sự tử đạo của Stephanô sẽ đánh dấu sự kết thúc và sự thất bại của cơ hội thứ hai này.

 

ĐÁP CA: Tv 118:2-4, 22-24, 25-27a

Lòng thương xót Chúa tồn tại muôn đời

Đáp ca tuần này cũng giống Chúa nhật Phục Sinh. Chúng ta cử hành Thánh vịnh này trong Phụng vụ Tuần Thánh, Chúa nhật Phục sinh và các Tuần lễ Phục sinh vì Chúa Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta, hoàn tất Thánh vịnh này.

Thánh vịnh 118 là một thánh ca tạ ơn long trọng, cũng là Thánh vịnh cuối cùng trong bộ Hallel (Tv 113-118), được hát trong cộng đoàn phụng vụ tại Đền Thờ Giêrusalem kéo dài tám ngày của Lễ Vượt Qua và Bánh Không Men. Khi Chúa Giêsu tiến vào thành thánh Giêrusalem trong dịp Lễ Lá dân chúng cũng dùng Tv 118,25-26 để tung hô, vạn tuế Người (Mt 21,9; Mc 11,9-10; Lc 19,38; Ga 12,13).

Thánh vịnh 118 bắt đầu bằng lời mời gọi tạ ơn tình yêu thương bền vững của Chúa, là giao ước Chúa dành cho dân Ngài (cc. 1-2). Các câu 16-17 nói về “cánh tay hữu của Chúa”, “cánh tay đã được nâng lên cao”, mà chúng ta hiểu là nói về Chúa Giêsu Kitô, Đấng Phục sinh, Đấng đã ban cho chúng ta sự sống mới và chiến thắng cái chết. Chúa Giêsu là “hòn đá mà những người thợ xây loại bỏ”: giới chức tôn giáo của Giao ước cũ đã “khước từ” Người để rồi Người trở nên “viên đá tảng” trong đức tin của chúng ta (c. 22).

Chúa Giêsu đã trích dẫn Thánh vịnh 118, 22-23 khi Người giảng dạy trong Đền thờ vào ngày thứ Hai cuối cùng của Người tại Giêrusalem. Chúa đã áp dụng câu Thánh vịnh này cho chính Người trong Mt 21,42. Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, thánh Phêrô đã làm chứng tại phiên tòa xét xử mình trước cùng một tòa án đã kết án tử hình Chúa Giêsu là Thượng Hội Đồng, rằng Chúa Giêsu Kitô là “tảng đá”, và giới chức tôn giáo chính là “những người thợ xây” đã loại bỏ Người. Lúc đó, ông đã dùng Thánh vịnh 118, 22 cho Chúa Kitô (Cv 4,11). Ông sẽ trích dẫn Thánh vịnh 118, 22 một lần nữa, khẳng định Chúa Giêsu là “đá tảng” trong 1 Pr 2, 7. Thánh Phaolô cũng viết rằng Chúa Giêsu là “hòn đá tảng” trong thư Rôma 9,33 bằng cách đề cập đến một lời tiên tri liên quan trong Isaia 28,16b. Và trong thư Êphêsô 2,19-20, Phaolô viết rằng “Kitô hữu là người nhà của gia đình Thiên Chúa … được xây dựng trên nền tảng của các Tông đồ và tiên tri, mà chính Chúa Giêsu là viên đá tảng.” Cuối cùng, Chúa Giêsu đã ứng nghiệm lời Thánh vịnh 118,23 qua các công việc của Người, “công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” (c. 23) bởi vì Người đã ban cho chúng ta hồng ân cứu chuộc muôn đời.

 

BÀI ĐỌC 2: Kh 1,9-13, 17-19

Thị kiến về Chúa Kitô

Bài đọc thứ nhất trong mùa Phục Sinh nói về sự khởi đầu của Giáo Hội. Trong mùa Phục Sinh năm C này, bài đọc thứ hai nói về sự kết thúc và hoàn thành Giáo Hội, trích từ sách Khải Huyền. Ở đây, cuốn sách cuối cùng của Kinh Thánh, được viết để trấn an các Kitô hữu, đang vật lộn dưới sự đàn áp của Đế quốc La Mã, rằng Chúa Kitô Phục Sinh cuối cùng sẽ đưa Giáo Hội của Người đến chiến thắng và giải thoát họ khỏi mọi nỗi buồn phiền và đau khổ. Cuốn sách sử dụng những hình ảnh vũ trụ lộng lẫy để nhấn mạnh Thiên Chúa kiểm soát toàn bộ vũ trụ, trời đất và tất cả những gì hiện hữu trong đó. Sách cũng chứa đựng rất nhiều hình ảnh tượng trưng, dựa nhiều vào nguồn của Cựu Ước và biểu tượng của các con số. Người kể chuyện là tông đồ Gioan, bị đày đến đảo Patmos của Hy Lạp, và câu chuyện bắt đầu bằng thị kiến về Chúa Kitô Phục Sinh trong tất cả vinh quang của Người. “Con Người” là cách gọi Chúa Giêsu yêu thích để nói về chính mình. Ở đây “Con Người” cũng làm gợi nhớ đến Con Người trong thị kiến của tiên tri Đanien, người được Thiên Chúa ban cho mọi quyền năng trên vũ trụ. Bảy chân đèn (bảy là con số hoàn hảo) đại diện cho bảy Giáo Hội địa phương tại Asia mà sách chủ yếu đề cập đến.

 

TIN MỪNG: Ga 20,19-31

Chúa Phục Sinh hiện ra với các môn đệ

Hai lần phục sinh tạo thành một kiểu lưỡng hợp. Bản lề kết nối hai trình thuật này là nhân vật Tôma. Vắng mặt trong lần hiện ra trước, ông là nhân vật trung tâm của sự kiện thứ hai. Sự vắng mặt của ông là điều gây tò mò, bởi vì trong cả hai trường hợp, cửa phòng nơi các môn đồ tụ họp đều được khóa cẩn thận vì các tông đồ “sợ người Do Thái” (c. 19). Tại sao Tôma lại không tụ họp với những môn đệ còn lại? Ông không sợ hay sao? Hay ông quá sợ hãi khi phải hiện diện với họ? Lý do vắng mặt của ông không bao giờ được đưa ra. Tuy nhiên, nó tạo cơ hội cho một cuộc gặp gỡ khác với Chúa Phục Sinh và sự thể hiện đức tin sau đó.

Hai lần Chúa Phục Sinh hiện ra đều có một số điểm chung: cả hai đều xảy ra vào ngày đầu tuần; mặc dù những cánh cửa đều đóng kín, Chúa Giêsu xuất hiện ở giữa họ; Người nói với họ bằng một lời chào chúc bình an; Người mời gọi họ chú ý đến vết thương của Người. Mỗi chi tiết này đều mang những ý nghĩa thần học sâu xa.

Ngày đầu tuần thực sự là ngày Chúa sống lại (c.19) hoặc ngày tưởng niệm biến cố này (c. 26). Toàn bộ tính toán về thời gian đã được thay đổi. Trước đây ngày cuối tuần mang ý nghĩa tôn giáo, thì bây giờ trọng tâm là ngày khởi đầu, hướng về tương lai. Những cánh cửa đóng kín không chỉ bảo đảm cho các môn đệ khỏi những kẻ thù địch với họ, mà còn nhấn mạnh đặc tính huyền nhiệm của thân xác Chúa Giêsu sống lại, nó không bị cản trở bởi những trở ngại vật chất ngoại giới. Lời chúc bình an, lời chào chúc thường ngày, cũng trở thành lời cầu xin các phúc lành thời cánh chung như sức khỏe, thịnh vượng, những điều may lành. Cuối cùng, bằng cách mời gọi chú ý đến những vết thương ở tay và cạnh sườn, Chúa Giêsu cho các môn đệ thấy rằng Người thực sự là Đấng bị đóng đinh nay đã sống lại.

Theo trình thuật này, chính vào buổi chiều ngày phục sinh, Chúa Thánh Thần được ban cho các môn đệ. Họ được ủy thác để ra đi, để công bố ơn cứu độ và sự xét xử. Mặc dù chỉ thị này đến từ Chúa Giêsu, nhưng đó là sự tiếp nối sứ vụ mà Người nhận được từ Chúa Cha. Lời chứng ba ngôi ở đây rất rõ ràng. Hình ảnh thổi sự sống vào người khác gợi nhớ đến cuộc tạo dựng Ađam (x. St 2,7) và sự phục hồi Israel (x. Ed 37,9). Chính hành động này của Chúa Phục Sinh đã cho thấy Người nắm giữ vai trò sáng tạo và tái tạo.

Ông Tôma đại diện cho thế hệ Kitô hữu thứ hai, những người được kêu gọi tin vào lời chứng của người khác. Theo một cách nào đó, đức tin đòi hỏi nơi ông còn nhiều hơn nơi những người thực sự gặp Chúa Phục Sinh. Nhìn theo cách này, sự nghi ngờ của ông là điều dễ hiểu. Trong khi chúng ta có thể phán xét ông một cách nghiêm khắc vì sự cứng tin, còn Chúa Giêsu lại không. Thay vào đó, Người mời Tôma chạm vào Người, một lời mời trước đó không được đưa ra cho các môn đệ khác. Câu chuyện không nói rằng ông Tôma thực sự đã chạm vào vết thương, chỉ nói rằng ông đã kêu lên trong đức tin: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Các môn đệ khác nhận ra rằng Đấng ở giữa họ cũng là Chúa của họ. Ông Tôma tuyên bố rằng Chúa Phục Sinh là Thiên Chúa, một lời tuyên xưng đức tin vượt xa những người khác.

Theo Chúa Giêsu, đức tin dù có sâu sắc như cuối cùng Tôma đã tuyên xưng, thì điều đó không thể so sánh với đức tin của những người không được trải nghiệm gặp Chúa Phục Sinh như được mô tả ở đây. Tôma được nhớ đến không phải vì ông vắng mặt hay vì ông nghi ngờ mà bởi vì, giống như chúng ta, ông được mời gọi tin vào lời chứng của người khác. Và cũng như Tôma, chúng ta biết điều đó khó khăn như thế nào.

            THAM KHẢO SÁCH GIÁO LÝ CỦA HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

+ GLHTCG 448, 641-646 : những lần hiện ra của Chúa Kitô Phục Sinh

+ GLHTCG 1084-1089 : sự hiện diện thánh hoá của Chúa Kitô Phục Sinh trong phụng vụ

+ GLHTCG 2177-2178, 1342 : thánh lễ Chúa nhật

+ GLHTCG 654-655, 1988 : cuộc tái sinh của chúng ta trong sự Phục Sinh của Chúa Kitô

+ GLHTCG 926-984, 1441-1442 : “Tôi tin phép tha tội”

+ GLHTCG 949-953, 1329, 1342, 2624, 2790 : hiệp thông các của cải thiêng liêng

+ GLHTCG 612, 625, 635, 2854: Chúa Kitô, “Đấng Hằng Sống”, Đấng nắm giữ chìa khoá tử thần

Lm. Giuse Ngô Quang Trung

 

print